Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 26 Mar 2017

Nói xong, vô cùng sung sướng tôi nắm lấy bàn tay Thúy Hà. Tiếp lời, tôi nói:
- Anh quá mừng vui, hạnh phúc. Đời anh, có được em là đủ. Em là cả một giấc mơ. Anh ước mơ có em không chỉ kiếp này thôi, mà bao nhiêu kiếp sau nữa.
- Có hai tuần lễ nghỉ hè mà anh mơ đến cả trái đất.
- Đúng rồi, tên em, trên trái đất này chỗ nào cũng tìm thấy. Và tên em, là những hoa thơm cỏ lạ.
- Em cám ơn anh. Em sẽ ở mãi bên anh, không còn xa anh nữa đâu.
- Em ạ. Thực ra, chỉ có giấc mơ cho anh ở gần bên em thôi. Với cuộc đời, chúng ta mỗi người mang lấy một số phận.
Tôi đưa Thúy Hà lên nhà ga. Chỉ có một vài thay đổi trong cách bài trí ở ngoài phòng đợi, còn hầu như vẫn nguyên vẹn. Ngày trước, bác T. làm Trưởng ga này là bạn thân với ba tôi. Nhờ bác, ba tôi có được miếng đất để làm nhà, và từ ngày ấy, sự gần gũi của chúng tôi với gia đình bác vô cùng thân thiết.
Tôi nói với Thúy Hà:
- Bác gái mất trong thời kỳ chiến tranh. Chuyến xe lửa bị giật mìn.
Với cặp mắt ngây thơ, cái nhìn ngơ ngác, người vợ của tôi có một vẻ đẹp lạ lùng. Cửa bán vé mở. Một giờ nữa có chuyến tàu từ Đông Hà vào, sau đó, đi Huế, rồi chuyển tiếp hành khách đi tàu suốt vào miền Nam.
- Em đến Sài Gòn chưa?
- Chưa.
- Anh đã đến Sài Gòn. Thành phố đó to lớn, đông vui lắm.
- Anh biết nhiều nơi nhỉ.
- Anh biết Đà Lạt nữa. Đó là thành phố đẹp nhất trên vùng cao nguyên.
- Anh đi nhiều nên suốt đời cứ sống trong mơ mộng.
Phía ngoài phòng đợi, những hành khách đi tàu đã đến. Có xe lam và xe xích lô từ dưới phố đưa khách lên.
Đã hai giờ chiều. Chúng tôi rời ga, lên xe đạp thong thả theo con đường Trần Hưng Đạo đổ xuống dưới phố xa chừng độ bốn cây số. Khi trên đường ngang qua nhà cũ, vẫn là quán ăn như hồi trước, tôi nhìn lại bóng dáng ánh nắng trên sân, mái tôn, cây trứng cá, hàng rào cây ngăn với xóm nhà bên cạnh nằm dưới bên cạnh con dốc đi ra phía sau hồ nước và gặp lại cánh đồng hướng lên quốc lộ, chỉ trong giây lát nhìn lại, tôi biết thời gian đã thay đổi quá nhiều.
Có tiếng còi tàu vang vọng, trôi giạt, như thể hẳn còn xa lắm.
Khi vượt qua khỏi ngã tư, Thúy Hà đụp xe chậm lại. Tôi hỏi:
- Em có muốn ghé thăm những bạn cũ của em không?
- Không, em chỉ thích ở bên anh thôi.
- Chốc lát nữa, em phải mời anh uống nước sinh tố.
- Sinh tố không ngọt bằng nước đường.
- Ấy, anh thích mùi vị thơm của trái cây.
- Giọng nói của em chua lắm.
- Nước trái cây, thêm chút giọng nói của em cho vào uống ngon lắm.
Giọng đùa vui và nhỏ, Thúy Hà nói bên tôi:
- Hai ngày nay, anh uống sữa của em nhiều rồi.
- Anh uống thật ngon, cảm giác lúc nào cũng lâng lâng, ngây ngất.
Giọng bình thường trở lại, vợ tôi bảo:
- Em chỉ muốn nhìn lại khu phố cũ và căn nhà mình ở.
- Anh và em sẽ đến nơi đó.
Ngôi nhà bệnh viện có sân cỏ rộng, mái ngói đã cũ. Chúng tôi đang trên đường đi xuống tỉnh.
- Anh biết em có một người bạn rất thân ở đây.
- Hẳn nhiên, không chỉ một thôi mà nhiều lắm.
- Có một người thôi.
- Thôi, đừng có đố tìm. Làm như hồi đó, em có quen anh.
- Cô bé Thúy Hà ơi.
- Chà, nghe lạ không? Nhớ cô nào đó ngày xưa, gọi tên cô ấy đi.
- Em có nhớ câu chuyện lúc nãy em nói không?
- Sao mà không nhớ.
- Cô bé à.
- Nữa. Bộ muốn trêu em hay sao?
- Hãy nghe anh nhắc lại những điều em đã nói, để em biết rằng, quán hàng chúng ta vừa ghé chỗ đó là nhà cũ của anh. Ngày xưa đó, mẹ mở quán hàng cơm và giải khát. Rồi vào một buổi trưa, có một người đàn ông đeo kính mát và một cô bé khoảng 8 tuổi vào gọi cơm. Người đàn ông mang chiếc cặp đen, cô bé mặc áo hồng, chiếc quần tây xanh, và đeo bên vai túi xách màu vàng. Em là cô bé ngày đó, gặp em hôm đó, suốt đời anh nhớ mãi cặp mắt em.
- Thực vậy sao?
- Hoàn toàn trung thực. Với cơ duyên chứ không phải là nợ cuộc đời, anh hạnh phúc biết chừng nào khi em là vợ của anh.
Thúy Hà im lặng không nói gì. Tôi cũng không giãi bày thêm nữa. Nhưng sự yêu thương cho tôi có cảm tưởng, Thúy Hà đang nghĩ đến trọn vẹn đời mình từ một tuổi ngây thơ ngày đó, và thành phố hôm nay tôi và nàng trở về tìm lại. Hai chúng tôi đã trở về trong trí nhớ, cũng như trong tưởng tượng.
Phía bên trái, nằm trên quốc lộ là chiếc cầu bắc qua sông Thạch Hãn. Sông này phát nguyên từ Như Lệ, một ngôi làng nằm ở cạnh Trường Sơn, cách thị xã chừng 5 cây số. Nước sông sâu và xanh, đến ngã ba gặp sông Định Giang rồi đổ ra biển. Cửa Việt, nơi cửa biển này còn có nhiều con sông khác nữa tụ về.
Hai người đạp xe thong thả. Trần Hưng Đạo là con đường dài nhất từ nhà ga xuống đến Cổ Thành. Vào mùa đông, gió từ phía núi và cánh đồng trống thổi tới lạnh buốt vì ở quãng này không có nhà ở mà chỉ nhìn thấy đồng ruộng phía dưới.
Khu bệnh viện tọa lạc trên một diện tích đất rộng, tòa nhà xây lợp ngói đỏ, có một sân cỏ là nơi chúng tôi thường chơi đá bóng vào buổi chiều. Trên sân này, cũng có một vài trận đấu dành cho người lớn, hai đội có mặc áo cầu thủ, có trọng tài, đông khán giả và cũng là buổi chiều cuối tuần giải trí cho bệnh nhân được giờ phút thư giãn. Bây giờ, nhìn thấy lại cảnh cũ chỉ là sự hồi nhớ, và trong tôi hầu như vắng lặng. Tôi muốn nói với Thúy Hà, chính anh, mong em về thăm lại thành phố cũ của anh và cả thành phố đang mang nỗi nhớ mong, chờ em.
Nắng trưa hơi ngầy ngật, uể oải như dòng nước chảy chậm theo con sông.
- Em có vui không khi trở về thăm lại chốn cũ?
- Không, buồn quá sức.
- Đừng có giã bộ. Tôi biết lòng cô vui.
- Anh nói sai. Em đang buồn quá sức.
- Còn anh, rất vui.
- Tụi sao anh không khóc.
- Ủa, khóc để làm gì? - Người ta thường khóc vì xúc động trở về quê nhà.
- Đúng rồi. Anh khóc lúc về lại căn nhà cũ của mình.
- Tiếng khóc thành niềm vui khi anh có được em.
- Anh đừng xúc động quá, trời mưa bây giờ.
Chúng tôi vui trở lại câu chuyện. Lúc nãy, sự buồn nhớ trong tơ vương, trong tình cảm cổ điển gây mối chạnh lòng, về thăm lại Quảng Trị, tôi hồi nhớ những kỷ niệm tuổi nhỏ, thời đi học, nghe những tiếng nói luôn thuộc về nơi chốn mình đã sinh ra và lớn lên. Về lại Quảng Trị, thành phố này cũng đã bao dung một tâm hồn khắc khoải. Gia đình Thúy Hà rời miền Bắc vào miền Nam theo một triệu người di cư bỏ quê hương ngoài đó. Từ năm tám tuổi, Thúy Hà đã sống ở đây với những năm tháng lớn lên qua các trường tiểu học, trung học. Khi lên học Trung học, Thúy Hà không còn bé bỏng nữa, đã trở thành một thiếu nữ duyên dáng, xinh đẹp làm bao nhiêu anh học trò lớp trên cũng như bao nhiêu cậu học trò cùng lớp trồng cây si trên những con đường cô từ nhà đến trường cũng như từ trường về đến nhà. Không chỉ có một con đường ấy thôi, mà những đường phố trong tỉnh, nơi nào cũng có bóng bao chàng trai đứng lại trên vỉa hè nhìn ngắm cô dạo chơi vào ngày cuối tuần. Ai đó, ở trong lòng cô như là một tấm ảnh nhỏ mà tự tay tay cô viết một đôi giòng gởi tặng tồi. Và, bạn ngạc nhiên vô cùng, ngày đó, tôi không hề quen biết cô, mối cơ duyên để tôi và cô quen nhau và trở nên vợ chồng lúc này đây là hình ảnh chiếc áo nâu cô mặc vào một buổi sáng đó trong học giờ học chung môn tiếng Pháp, bởi rằng, chiếc áo đó, cô nhắc tôi nhớ lại hình ảnh mẹ tôi lúc còn trẻ. Về sau này, rất nhiều lần tôi nhìn tấm ảnh của mẹ tôi mà nhớ đến cô gái. Có lẽ, với đức tin về cái duyên trong đạo Phật, cô cũng tin rằng, hình ảnh người thân của tôi đã mang rất nhiều cái bóng dáng đích thực của cô trong một kiếp trước về sự liên hệ giữa hai người. Vào buổi sáng đó gặp cô, tôi có sự linh cảm về một mối tình tôi đã gặp cô đâu kiếp trước, và buổi gặp đầu tiên ấy, lại gợi nhắc tôi nhớ đến thành phố cô đang ở một ngày đó tôi đã dừng lại bước chân. Bởi vậy, tôi là người Quảng Trị duy nhất sống trong lòng Thúy Hà. Ít ra, tôi cũng nên nói rõ với bạn về cô, về những người thương yêu cô gái, và khi rời khỏi nơi này cô đã để lại không mang theo. Tuy nhiên, những kỷ niệm gồm thư từ, hình ảnh, những dòng lưu bút cô gái vẫn còn giữ. Tôi đã đọc, đã tìm lại những kỷ niệm đó thay cho cô trong những buổi chiều chúng tôi ở bên nhau trên căn gác. Với tấm lòng cởi mở của mình, tình yêu đối với cô luôn có thêm tình bạn. Nếu thiếu tình bạn, không bao giờ bạn được cô nhắc đến tên về sau này.
Bóng cây đổ xuống, che bớt nắng trên đường. Chúng tôi đã bắt đầu vào trung tâm thị xã. Xe cộ qua lại, những người đi bộ trên vỉa hè, và cả dãy phố đang buôn bán tấp nập. Tôi thấy lại những cảnh cũ còn nguyên vẹn, hơn nữa có sự đổi mới làm sáng sủa hơn. Trước đây, nhà ở hai bên vỉa hè thấp, có khoảng cách, giờ gần nhau hơn và có một số nhà xây dựng thêm một hai tầng làm cho dãy phố càng trở nên thanh lịch. Tôi thấy lại tiệm chụp ảnh Vĩnh Phúc, nhà sách Sáng Tạo, nhà sách Lương Giang.
- Anh đã ghé tiệm thuốc tây nhà em bao giờ chưa?
- Có chứ. Tiếc là hồi đó không thấy em?
- Em đâu có bán hàng. Tiệm thuốc tây của bác Trác mà.
- Thời kì đó, công việc của ba ra sao?
- Ba làm trong phần hành quảng cáo.
Nhà thuốc tây Giơ Neo nằm ở trung tâm chợ thị xã. Bên trái con đường nhỏ là Ty Thông Tin, và đối diện con đường vào chợ là nhà sách Tùng Sơn.
Khu chợ giờ này còn đông nên vợ chồng tôi phải gởi xe. Dù biết trước sự đổi thay, nhưng nhìn lại căn nhà cũ vợ tôi có một nỗi buồn in dấu trên gương mặt. Nếu như tiệm thuốc tây sang lại còn hoạt động, chúng tôi có thể ghé vào, mua một loại thuốc cảm cúm phổ thông để tiện dịp xem lại bên trong căn nhà ở trước đây, nhưng chủ mới đã sửa sang lại thành nhà ở và có xây thêm một tầng lầu nữa.
Tôi và Thúy Hà đi bộ trên con đường nhỏ đến trạm thông tin để nhìn phía bên hông nhà. Khi vợ tôi đứng lại nhìn khung cảnh cũ, tôi im lặng bên nàng. Tôi hiểu được những gì nàng suy nghĩ. Dù đây không phải là nhà riêng, nhưng đã có nhiều năm tháng nàng sống bên cạnh người thân thích của mình.
Thời gian cũ đã làm phai hết thảy mọi dấu vết. Có một quán nước rất là tiện để cho chúng tôi vào đấy nghỉ chân.
- Em còn nhớ gì thêm về thành phố này không?
- Có chứ.
- Không biết rạp hát Đại Chúng có đổi tên. Ở đây, có trường trung học Nguyễn Hoàng, có sân vận động, vui nhất là những ngày hè đi tắm sông.
- Em thấy anh rất là hạnh phúc.
- Không hoàn toàn cho anh, nếu không có em đi cùng.
- Anh cứ nhắc mãi.
Tôi cầm ly nước đưa lên miệng uống cùng hướng cặp mắt theo vợ tôi nhìn qua căn nhà cũ. Thực sự căn nhà đó không phải của gia đình mình nên đối với nàng cũng chỉ là một quang cảnh gợi lại ít nhiều về cuộc đời, về những người bạn, về một sự rung động có thể cảm thấy vui hơn là buồn.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 26 Mar 2017

Bên ngoài, tự dưng mang vẻ ủ dột với màu trời xám đi. Không lâu, một trận mưa đổ xuống. Mưa lúc đầu nhẹ nhàng, sau đó nặng hạt.
- Ngồi đây ngắm mưa thành phố cũ.
- Anh tưởng tượng nhiều quá.
- Không đúng sao. Trời đang mưa, anh được ngồi bên em.
- Mưa lớn, chắc lâu tạnh.
- Em thích đi dưới mưa không?
- Đi.
Tôi trả tiền nước. Rời quán, chúng tôi đi qua một cửa hiệu tạp hóa mua hai chiếc áo mưa loại rẽ tiền. Tôi chọn màu thuốc lá, Thúy Hà màu xanh lam. Trời đang mưa, hai chúng tôi đi hên nhau đến chỗ gởi xe đạp. Mới đầu buổi chiều, từ tĩnh lỵ về quê ngoại của tôi có hai con đường đi. Con đường ngắn nhất là về lối đường quận Triệu Phong, qua đò ngang An Dạ tuy nhiên trời mưa nặng hạt rất như lúc này là khó đi. Đường thứ hai, ra thị xã Đông Hà rồi theo đò dọc trên sông Hiếu Giang. Tính ra, nếu đi con đường này phải hơn hai giờ đường.
Không có mục đích gì ngoài chuyện đi chơi phố nên khi lấy xe đạp, chúng tôi đi lang thang, tiện thấy quang cảnh lạ và hay của phố nào chúng tôi đi qua phố đó. Rồi chúng tôi sẽ đi ra con đường bờ sông, và dọc theo con đường này ngắm lại dòng sông cũ.
Tôi nói với Thúy Hà:
- Thành phố này rất là nhớ em.
- Anh phải làm loãng bớt tình cảm lãng mạn đi.
- Không bao giờ anh nghĩ sai về em. Ngày xưa em sống ở đây, con đường nào cũng có bóng dáng em, cũng có người gọi tên em. Mỗi nơi, tên em là nỗi nhớ, kỷ niệm, ngày tháng đi liền nhau. Ngày xưa cũ, hình ảnh em ở khắp mọi nơi.
- Anh quá yêu em, rồi cái gì của em cũng đẹp hết.
- Hơn bao giờ hết, có đôi tình nhân đi dưới mưa.
- Bây giờ em và anh cùng cất tiếng hát.
- Tuyệt vời.
Mưa càng nặng hạt. Thành phố đang chịu trận hứng mưa. Nước mưa chảy tràn giữa lòng đường. Gió thổi rào rạt, những tiếng động của bầu trời, những nơi xa gần trong thành phố, những hình ảnh lúc hiện, lúc khuất, ở trong tâm trí chúng tôi là quá khứ, là hiện tại, và ít nhiều mộng ước tương lai. Thế nhưng, tất cả thuộc về tuổi thơ mà không nhớ ra được ngày tháng của mình.
- Trong mưa, có tiếng nói của em.
- Có đúng thế không?
- Bao nhiêu lần anh đã nghĩ, nghe âm thanh tiếng em nói là nghe những cơn mưa trong buổi chiều.
- Anh có luôn tin rằng, tiếng em nói là nhịp đập tim anh.
- Đó là một câu hát. Câu hát này, mỗi khi em hát lại cho anh một bài hát khác. Ít ngày tới đây nữa thôi…
Lúc này, giọng nói Thúy Hà như thể là những giọt mưa trên lá. Tôi nghe tiếng nói của nàng và hình dung những hàng cây hai bên đường, những chiếc lá xanh ướt, những nụ cười của tuổi hai mươi đầy ắp mộng ước và tan biến rất nhanh. Nàng nói với tôi bằng một giọng dịu dàng và hơi buồn, như thể bầu trời này là một sự hòa hợp nghiêm trang để những chuyện nàng nói ra, về sau này, sẽ được ghi chép lại trong nhật ký. Tôi đang nghe, đồng thời, dành cho cặp mắt mình như là một tấm gương để in dấu vẻ đẹp gương mặt Thúy Hà qua ánh sáng cơn mưa buổi chiều ngoài thành phố.
Bên kia sông, thành phố đã khuất dạng. Nếu có ngoảnh đầu lại chỉ còn nhìn thấy những lớp mưa dày đặc trùm kín tất cả bóng lá tối xanh dài theo những hàng cây trên con đường ven theo dòng sông. Tuy nhiên, rồi chúng cũng có thể nhận ra khi trông thấy một phần những viên gạch nhô lên dọc theo bờ tường khu Cổ Thành.
Thúy Hà nói:
- Nếu sau này xa nhau, anh đừng có luyến tiếc.
- Không đâu.
- Không được nhớ nhung gì cả. Hãy nghe lời em.
Ở ngoại ô không có con đường trải nhựa. Những con đường đất lớn nhỏ, ngang dọc hay cắt chéo, hoặc tới các ngã ba mỗi lúc như thể hình dung ra được trên một tấm bản đồ. Trên mỗi con đường đều có nhà ở, có lạch, suối, sông và đồng ruộng. Với cảnh trí này, chúng tôi cảm thấy một sự bình yên, thanh thản trong tâm hồn. Câu chuyện của chúng tôi có khi lan man, nhưng dù vậy, đôi lúc cũng buồn vì sự thương yêu và nỗi nhớ dành cho nhau. Bây giờ đây nghĩ đến chúng tôi, hẳn ra, bạn không sống trong tưởng tượng mãi với những cảm xúc chân tình bạn thấy rằng tình yêu của chúng tôi được bày tỏ như thể chúng tôi hiện diện với cuộc đời. Mưa làm cho thời gian chậm và lâu. Chúng tôi đạp xe thong thả. Bên nhau, mưa buổi chiều trọn vẹn với bao nhiêu kỷ niệm và mối tình đang hạnh phúc. Sự đợi chờ của tôi là muốn được nghe những điều Thúy Hà nói. Tôi chẳng có gì phân vân, bối rối cả. Hoàn toàn tôi ưng thuận theo mỗi ý định của nàng. Thực sự một chiều mưa như thế này làm chúng tôi nghĩ ngợi nhiều. Đến lúc nào mới xa nhau chưa biết, nhưng một ngày đó sẽ đến. Và ngày đó, hai chúng tôi hoàn toàn bặt tin nhau.
- Em chỉ cần giữ lại tiền mua vé tàu thôi, tôi nói.
- Có, và trong này còn có tiền của anh nữa.
- Em giữ hết đi. Em muốn để hết cho em. Em nhớ hôm nay là mình về quê của mẹ.
- Về đâu cũng xa xôi cả.
- Em đừng quá lo lắng. Mẹ, người mẹ luôn phải lo lắng cho bản thân mình bằng nghị lực và sự che chở.
- Em biết.
- Bây giờ em có thể nhớ lại những ngày cũ đó.
- Anh nói sao?
- Những ngày mưa bão trong năm đó. Lúc này, anh nhớ ra và nghe được rõ tiếng mưa, tiếng gió, cùng nước lũ trong mùa bão?
- Làm sao anh hình dung được.
- Em đã nói với anh, em không nhớ sao? Bây giờ, anh chỉ cần nhắc lại, và em sẽ nhớ ra tất cả trong giọng nói của mình.
- Những ngôi làng này, ngày đó, em đã theo đoàn học sinh đi cứu trợ.
- Anh luôn đặt hết niềm tin nơi em.
- Anh cứ mãi sống với nỗi phiền muộn. Hãy để cho thời gian đi nhanh.
- Vậy là thời gian cứ bỏ mặc chúng ta bơ vơ sao?
- Anh đừng nghĩ gợi.
- Em cũng thế. Anh yêu em.
Quang cảnh ngôi làng dưới cơn mưa với những cánh đồng ngập nước đang trở lại trong trí nhớ Thúy Hà. Thúy Hà đang nhớ đến và cố gắng tìm lại những câu chuyện mà trước đây nàng đã nói ra với những người bạn của nàng. Nước mưa tràn ướt lên mặt, bầu trời xám, những tiếng động sấm sét có lúc trỗi dậy. Con đường làng vẫn ven theo các đồng ruộng. Có lẽ chúng tôi bị lạc đường, nhưng mà, những nhà ở hai bên cho chúng tôi nhận ra được từng dấu hiệu để tin rằng, mình đi đúng con đường mong tìm lại quê nhà. Mưa không lớn, nhưng đều hạt. Tôi cảm thấy ướt át.
- Em có lạnh không?
- Không, nhưng quần áo ướt cả đây.
- Có cần nghỉ chân chốc lát không em.
- Không, mình cứ đi.
- Anh nghĩ là em rất mong gặp mẹ.
- Anh cứ luôn đặt em vào trong sự hồi tưởng của anh.
- Chẳng phải anh và em là một.
- Không, hai người khác nhau. Mỗi người ở một nơi.
- Vậy mà anh chẳng hay gì cả.
- Không được ví von, ẩn dụ.
Bên trong tâm tưởng chúng tôi luôn nghĩ đến một con sông và dòng nước đang trôi chảy. Bây giờ, con sông xuất hiện, Nước mưa theo dòng sông tràn chảy, nơi chốn về trở nên xa. Tới một ngã ba, tôi hơi phân vân định hướng. Thúy Hù theo xe tôi rẽ trái, tôi định hướng về dòng sông. Càng lúc, dòng sông trở nên gần, trông rõ hơn.
- Anh không muốn đi nữa.
- Sao vậy?
- Em không thấy dòng sông chảy mà lại không ngồi nghỉ chân sao?
- Em hiểu ý anh.
Chúng tôi dừng xe, và dựng bên một lều quán bỏ trống. Bạn nhận ra sự hợp lý của quang cảnh buổi chiều mưa ở vùng làng quê. Nào con sông chảy, nhà cửa đìu hiu vắng lặng, quán chợ bỏ hoang, nỗi buồn viễn khách, vậy nên đây cũng là cơ hội cho tôi và Thúy Hà nói thêm biết bao lời tâm tình.
Không vào quán trú mưa, chúng tôi ra bờ sông ngồi. Thúy Hà nói:
- Em đã ngồi bên anh. Nói gì thì nói đi.
- Mình còn hai cây số nữa, về tới nhà.
- Anh đừng có dẫn dắt kẻ khác.
- Em thích ở lại đây một mình không?
- Đừng bỏ em tội nghiệp.
Đôi mắt Thúy Hà nhỏ đẹp sau nụ cười.
- Anh và em cùng uống nước mưa.
- Hứng đi.
Tôi cầm lấy bàn tay Thúy Hà để ngửa. Tôi cũng ngửa rộng bàn tay để mình hứng mưa. Nước mưa chảy đầy xuống bàn tay, chúng tôi uống. Tôi uống nước mưa từ bàn tay Thúy Hà, và nàng uống nước trên tay tôi.
- Nước mưa ngọt quá anh.
- Nước mưa ở tay em có mùi vị trái cây.
- Nói tiếp đi.
- Em không giải thích cho anh.
- Không.
Thúy Hà hảo tôi nhích lại gần để nàng tựa đầu.
- Em ngủ dưới mưa, nàng nói.
- Em ngủ đi. Ngồi bên em, anh nói chuyện với mưa.
Mưa lớn, con đường dọc theo bờ sông trở nên vắng, chỉ nghe tiếng gió và những hàng cây ràn rạt làm rớt rụng những cành lá rớt xuống đường. Và, ở quãng này, lòng sông mở rộng. Bên kia, ngôi làng nhỏ mỗi lúc trông thấy cái bóng bị mưa gió đẩy lùi, càng xa khỏi cánh đồng. Trời mưa, những căn nhà ngói cũng như nhà tranh ở ven đường đều đóng cửa. Tuy nhiên, vẫn có bóng người đi và tiếng hú gọi nhau vang xa, rồi bạt khuất lúc cơn gió đổi chiều.
Trên cao, mây trời xám bạc. Dòng sông, nước cuốn mạnh chảy rất xiết. Những cơn mưa mỗi lần trút đổ, kéo nhau, cuồn cuộn trên dòng sông. Thúy Hà đã ngủ yên giấc. Nàng ngủ dưới cơn mưa, tôi ngắm gương mặt nàng đẫm ướt nước mưa.
Bỗng tiếng nàng cất lên hỏi:
- Anh đang mơ nghĩ gì đấy.
- Tối nay trời có trăng chứ em nhỉ.
- Em không phải cuốn lịch thời gian.
- Em là của anh. Lúc nào, em cũng là riêng của anh.
- Anh thực quá mơ mộng.
- Em cũng thế.
Tôi thèm hôn lúc mưa càng nặng hạt chảy tràn ướt xuống gương mặt nàng.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 26 Mar 2017

- Em không uống nước mưa nữa sao?
- Anh hứng đầy tay cho em uống.
- Ngày trở về, em nhớ đi hằng xe lửa.
- Một mình, em đi phương tiện nào cũng được.
- Anh mong tối nay trời có trăng. Bây giờ, em ngủ đi. Ngủ đi đến lúc nào mưa tạnh.
- Mặc cho mưa ướt, em không ngủ nữa.
- Tối nay, trước cảnh miền quê thanh hình, anh và em ngồi ở thềm hiên ngắm trăng.
- Trăng đêm, anh và em cùng đi ngắm cảnh làng quê.
Cả hai người cùng đứng dậy. Chúng tôi tới chỗ gốc cây bên lều quán lấy xe đạp. Ngôi làng và cánh đồng đang ngập nước. Không có một ai quen để chúng tôi nói lời tạm biệt.
Dòng sông nước vẫn chảy xiết, và con đường về miền quê ướt át, hiu quạnh, cả hai hình ảnh đã trở nên xa cách như hai người bạn đem một ý nghĩa về sự mong nhớ, đợi chờ của thời gian trong mỗi chúng tôi. Tôi đạp xe chạy phía ngoài, Thúy Hà đi bên trong.
- Em không hiểu sao mùa hè ở đây mà lại có những trận mưa lớn như mùa đông.
Có em về, chiều nay cơn mưa lũ tới là vui với những kỹ niệm ngày tháng đó em đã đi theo các - đoàn học sinh cứu trợ đến các vùng lũ lụt ở miền quê.
- Anh biết không, đi suốt một ngày trong mưa lạnh.
- Ngày đó, em có nhiều bạn bè. Thời học sinh lúc nào cũng vui như hài hát.
- Ngày đó, em hát hay lắm.
- Ngày đó, không có anh.
- Có anh cũng vô ích.
- Tại sao? - Anh đâu thích làm công tác từ thiện. Anh là mọt sách, suốt ngày mộng mơ.
- Ngày đó, em đã thay thế anh rồi.
Tới đây, chúng tôi gặp đoạn suối, trời vẫn cứ mưa, dòng suối xiết trôi theo mưa. Không thể vượt qua suối, chúng tôi hướng về phía con đê nên đường đi phải xa hơn. Câu chuyện hai người lại nối tiếp:
- Em về thăm lần này, biết là không còn gặp anh nữa.
- Không sao đâu. Em đừng buồn. Hình ảnh em, anh cất giữ ở tim mình.
- Anh có nghĩ tại sao chúng ta xa nhau không?
- Không, anh không nghĩ tới, vì gặp em buổi sáng đó, anh biết đời anh được sống với em.
Từ trên đường đê, bóng dáng làng quê của mẹ tôi hiện ra. Chiều hôm đã tới, chuông nhà thờ đổ vang một hồi lâu.
- Nơi đây, những làng quê đã nằm về cuối sông. Có nhiều con đường ra tới biển.
- Nơi những miền quê này, quang cảnh đã đổi khác.
- Em đâu biết tên làng quê của mẹ, phải không?
- Sao không?
- Em nói đi.
- Xuân Thành.
- Ừa, sao mà tài vậy.
- Em về đây, về làm dâu của mẹ từ thuở ấy. Và, bao nhiêu lần, anh bảo rằng em rất giống mẹ lúc mẹ còn trẻ.
Chúng tôi xuống xe đạp, dắt bộ. Mưa nhẹ hạt, rồi tạnh. Ánh mặt trời bừng dậy, sáng hẳn. Thúy Hà reo lên như trẻ thơ. Nhìn xuống đồng hồ đeo tay, nàng hỏi tôi:
- Anh biết mấy giờ rồi không?
- Chừng bốn giờ.
- Trật lất. Năm giờ chiều rồi.
Một giọng vui, tôi bảo Thúy Hà:
- Anh biết chứ. Giọng em nói vui hay buồn, cả nước mắt nữa đều làm cho mọi cảnh vật trở nên đẹp, tươi hồng trong ánh sáng. Khi một ai đó ở xa, thời gian dừng cánh lại, và nơi đâu cũng nghe tiếng gọi của một người nhớ đến em. Gió miền quê này anh thuộc lòng. Chúng mình đã về tới làng quê của mẹ, ở đây, em đã trông thấy đồng ruộng, cây đa, bến nước, tất cả đó trỗi dậy trong màu khói lam lan tỏa cảnh buổi chiều.
- Anh lúc nào cũng nói những lời văn vẻ.
- Em sẽ cảm thấy, sẽ hiểu thấu lòng mẹ anh thương em biết nhường nào.
- Em đã làm dâu người khác.
Giọng Thúy Hà trở nên xa xôi.
- Anh biết chứ?
- Biết vậy, nên trong lòng anh luôn cảm thấy nặng với nỗi buồn.
- Nhưng em hãy giấu mẹ, đừng nói ra.
- Không đâu anh. Em luôn vâng lời anh.
- Mẹ đã sống bao nhiêu năm ở miền quê như từng lời ca trong mỗi bài hát. Còn anh, lớn lên từ buổi đầu gặp em và được em thương anh,
- Anh thương em không?
- Không, anh ghét em lắm.
- Vì sao?
- Vì em bỏ anh. Câu chuyện về một miền quê cứ vậy đưa chúng tôi về tới nhà với bao nhiêu hạnh phúc được chờ đón. Cậu Bính là con nuôi của ông bà ngoại, tôi. Vợ chồng tôi hôm nay về thăm quê là để nhớ cảnh cũ. Những người thân trong gia đình, đã rời xa chốn này từ những năm đầu xảy ra cuộc chiến giữa Việt Minh và Pháp. Bà ngoại tôi đang ở Sài Gòn. Mẹ tôi, các dì, các cậu ở các tỉnh từ Quảng Trị vào trong các tỉnh phía Nam mỗi người một nơi, thời gian ở xa quê chỉ khi nào nhớ ra được đích thực cái tên của mình trong giọng nói lúc ấy mới có được một phong cảnh dấu yêu cho đời mình.
- Hai cháu ở Sài Gòn ra?
- Dạ không, ở Đà Nẵng.
- Hai cháu về chơi lâu không?
- Ít ngày thôi, cậu.
- Ở cho hết tuần trăng này cháu. Qua tuần sau, có giỗ ông ngoại rồi.
Tôi và Thúy Hà đưa mắt nhìn nhau. Căn nhà này, bà ngoại tôi để lại giao cho cậu Bính trông nom, quản lý hết. Cậu là người trung tín.
Từ lúc chúng tôi về đến nhà, cậu tiếp đón, trò chuyện, hỏi han những người thân để nghe tôi trả lời. Cậu vẫn khỏe mạnh. Nhưng tôi đổi khác nhiều, và khi nhìn Thúy Hà ở bên tôi, cậu nghĩ rằng, rồi đây chúng tôi sẽ sống với nhau rất hạnh phúc.
Cậu nói:
- Cô này rất giống mẹ cháu.
- Bạn học rất thân của cháu.
Tôi đưa Thúy Hà ra giếng tắm. Trên lối đi phía sau, chúng tôi thấy cảnh vườn rộng rãi. Giếng sâu, nước trong, quanh thành giếng có lát gạch. Lúc này, hai đứa tôi cảm thấy lạnh thực sự vì dầm mưa suốt con đường từ tỉnh đi xe đạp về.
Giọng nói của Thúy Hà, thật vui và rất hồn nhiên. Sau khi tắm xong, chúng tôi chỉ dùng khăn lau khô mặt, và cứ mặc quần áo ướt đi lên nhà để thay quần áo khô.
- Nồi khoai mới luộc.
Con bé út bưng nồi khoai lên đặt xuống bàn khách. Tôi reo lên, tưởng như hát một câu hát. Vào phòng thay quần áo rất nhanh, chúng tôi trở ra ngoài.
Ngồi xuống trước nồi khoai, Thúy Hà bảo:
- Anh hát một bài dân ca đi.
Tôi hát nho nhỏ. Thúy Hà vừa nghe, vừa lấy khoai ăn. Hát xong, tôi nói, tay vừa lấy một củ khoai.
- Em và anh mới về thăm quê. Em có nghĩ, mình về, để sống với sự thích thú, với không khí lãng mạn, và tâm hồn chúng ta có những ý nghĩ hay đẹp hơn cả những bài luận trong các cuốn quốc văn giáo khoa thư.
- Ngày nào đó, những kỷ niệm cảm động nơi làng quê sẽ nhắc nhở em ghi vào một cuốn nhật ký.
Buổi chiều bắt đầu ấm trở lại. Khoai nóng ăn với hương vị miền quê, nó còn đầy ứ hơi khói và mùi vị ấm trong cổ họng. Thúy Hà ăn hết hai củ vừa, thêm một củ nhỏ. Còn để dành bụng cho bữa ăn tôi, cậu mợ nuôi của chúng tôi sẽ cho chúng tôi ăn cháo hến. Đây là món cháo tôi rất thích.
Thúy Hà thôi ăn, đi ra thềm hiên ngồi hong tóc. Nắng lên trải rộng trên sân và chiếu vào thềm hiên. Nàng im lặng nhìn cảnh miền quê từ ngôi nhà của một người mẹ trong dĩ vãng. Tôi ăn xong, đứng lên thở nhẹ một vài hơi lấy thư giãn, rồi đi ra cửa.
- Em đi chơi không?
- Đi chơi đâu anh?
- Đi dạo quanh làng.
Cậu Bính xuất hiện, lên tiếng bảo:
- Hai con ra thăm mộ ông ngoại.
- Dạ.
Chỉ có Thúy Hà vào thay lại quần áo. Nàng trở ra trong chiếc áo dài lụa nâu, tóc chải suôn xuống bờ vai. Hình ảnh này lại gợi nhắc tôi nhớ buổi đầu tiên hai chúng tôi gặp nhau ở lớp học, và từ đó, nàng đã cho tôi cả một bầu trời bình yên với ánh sáng của những đám mây lơ lửng, nhẹ nhàng. Khi nhớ đến nàng, tôi luôn nghĩ nàng có một gương mặt đầy đặn giữ được lâu thứ ánh sáng vào lúc bình minh.
Vợ chồng tôi cất tiếng chào cậu Bính rồi mới đi. Những lời nhắc nhở của cậu như còn vẳng vọng bên tai. Thúy Hà cầm lấy bó nhang khi cậu đưa. Có vẻ cậu có ý muốn được nàng dâu của mẹ tôi quan tâm đến linh hồn gia tộc.
Thúy Hà thật hạnh phúc bên tôi. Nàng đẹp, sẽ đẹp mãi suốt đời tôi.
- Em là người vợ vô cùng quý giá.
- Anh thương em, bằng lòng lấy em rồi phải không?
- Em là tất cả. Hình ảnh em qua áo dài là một khuôn mặt thời gian.
Chúng tôi dừng lại trên con đường trước cổng nhà đưa mắt nhìn quang cảnh con sông và cánh đồng phía trước. Chúng tôi cùng thấy con đê, thấy nhà ở các làng mạc bên kia, và bóng dáng cả ngôi chùa và ngôi nhà thờ. Và, trên con đường dài này, căn nhà chúng tôi nằm đầu làng. Từ đây, đường ngược ra bến đò đi qua khu nghĩa trang, qua ngôi đình làng có trồng quanh đó những cây bàng cao và lớn.
Nắng bên kia sông, đã lùi xa. Bóng nắng trôi giạt về phía lũy tre của ngôi làng bên dưới ngôi nhà thờ. Hồi chuông đã đánh lên cách đây chừng một tiếng đồng hồ khi chúng tôi xuất hiện đầu con đê. Có thể tới đêm, hoặc sáng sớm mai chuông mới lại khởi sự cho một ngày từ buổi rạng đông. Còn chuông chùa nữa, hồi chuông chùa đánh vào lúc ngày bắt đầu tàn, hoàng hôn xuống. Bây giờ đây buổi chiều chìm nổi giữa một vùng không gian trống rộng, và chúng tôi nhìn thấy bao quát hết các ngôi làng gần xa. Nơi đây, làng tôi là điểm cuối vùng dân cư của quận lỵ, đất rộng, đồng ruộng nhiều, nhà ở thưa thớt nên qua một vùng trống trải trước mắt chúng tôi nhìn đâu cũng thấy bóng dáng xa của các ngôi làng phía trên. Ngày xưa, vào những lúc thời tiết sáng sủa, trời rất quang đãng nhìn lên thị trấn chúng tôi có thể trông thấy bóng dáng cây cầu bắc qua sông Hiếu Giang. Đó là cầu H. cũng nằm trên quốc lộ I. Đường đi ra Bắc qua cây cầu này, đến cầu giới tuyến Hiền Lương, chạy qua hai quận lỵ Gio Linh, Vĩnh Linh nữa là qua địa phận tỉnh Quảng Bình, rồi Vinh, Hà Tĩnh, Thanh Hóa.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 26 Mar 2017

- Về đây, em ở bên anh bao nhiêu ngày?
- Tùy em. Anh không nghĩ đến thời gian, một phút bên em là anh được sung sướng rồi.
- Cảm động quá. Chết em mất.
- Chốn này riêng biệt cho anh và em.
- Còn chốn nào nữa không?
- Không. Nếu sau này xa cách, mỗi chúng ta chỉ còn một giấc mơ được trở lại quê hương ở nơi này.
- Về được, anh và em sống mãi mãi.
Bên nhau, chúng tôi bước thong thả. Gió lộng nghe lâng lâng, vừa thổi mát, vừa cho cảnh chiều một nỗi buồn dịu dàng đã hất tung mái tóc nàng lên, rồi như bàn tay vuốt khẽ gương mặt, rồi như đứa trẻ thơ đột nhiên vụt cắm đầu chạy một hơi, rồi đến từ phía đó bỗng nó quay đầu chạy nhanh trở lụi đâm vào người nàng hất tung thân áo lên đánh phần phật.
- Gió cũng biết làm em đẹp.
- Thôi, được rồi. Mai mốt chết đi, về gặp Diêm Vương đầu thai kiếp khác, em xấu như ma trơi.
Tới ngã ba, chúng tôi nhìn thấy khu nghĩa trang. Khu nghĩa trang nằm bên cạnh đình, có hai cây bàng cao lớn. Buổi chiều xuống trong yên lặng khi chúng tôi đi tới, càng gần, tự dưng lòng chùng xuống.
Có khoảng chừng 20 ngôi mộ. Những ngôi mộ của gia đình bên mẹ tôi có bia, và xây thành. Tôi đưa Thúy Hà đến thăm mộ ông cố, lớn nhất. Với lòng thành kính khi thắp hương, tôi đứng nhìn nàng mà gợi nhớ, hình dung biết bao nhiêu người xưa đã qua đời. Tôi nghĩ đến hai bà cố của tôi là hai chị em ruột rất thương nhau. Sau khi thắp hương và khấn xong, Thúy Hà nhường chỗ tôi đến vái. Tôi nói với ông cố tôi những lời nguyện ước.
Tấm bia ông cố tôi dày và cao. Bức ảnh lớn được tráng men in lên tấm bia rộng. Tôi và Thúy Hà lặng yên, chăm chú đọc những lời ghi chú về ông ở trên tấm bia. Bỗng tôi thấy đôi mắt Thúy Hà vui lên như định nói điều gì. Tôi hiểu, và nói một đôi lời giải thích về dòng họ mẹ tôi.
- Em hiểu. Và, có thể cụ cố là người cùng quê với em,
- Em cũng mang họ của mẹ đấy. Ông ngoại anh có bốn người con gái, chết đi một còn ba.
- Có lẽ chúng ta gặp nhau là do cơ trời, duyên số phải không?
- Em nói gì, anh cũng tin,
Rời mộ ông cố, tôi đưa vợ tôi qua thăm hai bà cố, rồi đến mộ của hai ông bác, sau cùng là mộ ông ngoại tôi. Ông ngoại tôi mất năm 1947. Ông làm quan đến hai mươi năm từ khi đỗ đạt. Ông đỗ Cử Nhân, nơi đầu tiên ông nhậm chức là huyện Nga Sơn, Thanh Hóa. Sau đó, ông về phía trong làm các quận Thăng Bình, Lý Sơn, đến năm 1945, ông cáo quan về làng quê nghĩ dưỡng tuổi già.
Thúy Hà nắm giữ bàn tay tôi khi tôi nói về ông tôi. Tôi nói bằng sự thành kính, gợi nhớ, trân trọng từng lời nhớ thương ông tôi. Trong các con, ông ngoại rất thương mẹ tôi, vì mẹ ít học chỉ ở nhà lo việc đồng áng giúp bà ngoại tôi. Bây giờ, nhớ lại khuôn mặt mẹ tôi thời con gái, tôi nhận ra vợ tôi có nét mặt gần giống, nhưng nàng đẹp trội hơn, và mãi mãi với vẻ đẹp này nàng mong ước tôi suốt đời yêu nàng.
Chúng tôi ngồi bên nhau đợi hương tàn. Nhìn qua cánh đồng trống, những ngôi làng xa đã bắt đầu mờ dần trong bóng dáng sương chiều phủ xuống. Chúng tôi im lặng để cùng có một tâm hồn với cảnh vật. Và, như mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng.
Bỗng Thúy Hà nói:
- Em đã có đến đây một lần rồi.
Tôi chợt nói:
- Đến hôm nay, em về trở lại.
- Không, không phải thế, nàng đáp.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 26 Mar 2017

PHẦN THỨ BA

I

Rồi đợi hết niên học này, Phượng Nga sẽ rời trường Nguyễn Hoàng và tỉnh Quảng Trị. Vào Đà Nẵng, nàng sẽ dạy ở trường Hồng Đức. Khi nàng ổn định xong việc của mình, Nguyên mới xin thuyên chuyển vào Quân đoàn I.
Ở nhà, Mỵ Châu vẫn luôn có cái thú vui trong việc đọc sách. Những tiểu thuyết cô đọc rất nhẹ nhàng, như thể được uống ly nước giải khát vào hôm trời nắng nóng.
Lần này về thăm nhà, Phượng Nga có mua chút ít quà. Nàng không mất thì giờ tìm đến chợ, mà các thứ đã sẵn có ở những đứa nhỏ bán hàng rong ở trạm kiểm soát lúc xe ngừng, ở Diên Sanh, Mỹ Chánh hàng quà nhiều, nàng hay mua bánh ướt, bánh bột lọc gói. Bánh ướt ở Quảng trị dày như bánh phở, và nàng thường hay dùng loại bánh này để nấu món mì Quảng. Khi có Phượng Nga về Mỵ Châu rất vui, hai chị em dành nhiều thì giờ cho nhau, khung cảnh êm ấm nhất là nghe mỗi câu chuyện cổ tích cô em gái kể, nàng vẽ tranh. Phượng Nga là chị gái đầu, gia đình có một anh trai nhưng chết lúc còn trẻ do bị tai nạn xe trên đèo Prenn. Trong phòng của Mỵ Châu, cô gái giữ hết tất cả các cuốn album gia đình. Phượng Nga thương yêu người anh mình hơn hết. Nàng nhớ Đà Lạt với từng con phố, mỗi mùa hoa. Bây giờ, thành phố ấy chỉ còn là kỷ niệm qua bóng dáng của nó trong sương mù. Từ ngày người anh mất, nàng không trở lại nơi chốn cũ ấy nữa, và có vẻ như nó cũng là mối ray rứt, ân hận trong lòng nàng, về sau gặp Thụy, người con trai kể lại tuổi niên thiếu của mình với những ngày mưa, những cánh rừng, đồi thông, tên một vài thiếu nữ còn nhớ, và sau cùng là các bạn lưu học sinh, rồi nói thêm rằng trên căn gác cũ anh có mơ mộng viết tên một cô gái với ước mơ có ngày được gặp: Liên An.
Bỗng Mỵ Châu nói với người chị:
- Anh Thụy có ghé đây.
- Anh tới một mình?
- Anh nói, từ đơn vị được đi phép ít ngày.
- Có ở lại nhà không?
- Không. Anh ghé thăm xem chị có về nhà. Buổi chiều, anh ra Huế.
Nghĩ ngợi một lúc, Phượng Nga nói:
- Chị không hay gì cả.
- Anh Thụy là em kế anh Nguyên, phải không?
- Đúng.
Phượng Nga dọn dẹp căn phòng bỏ trống ở nhà dưới, lâu nay để vậy không cho người thuê. Năm tới vào dạy học trong này, nàng sẽ mở một cửa hàng bán tranh.
Về Huế được ít hôm, Thụy cảm thấy vui được gần mẹ. Anh luôn nghĩ rằng, những câu chuyện của mẹ về làng quê, về một thời con gái, về căn nhà của ông bà ngoại được xây cất từ viên đá đến lúc hoàn thành, tất cả đó là sự nhắc nhở anh nghĩ đến Thúy Hà. Một đôi khi, tìm lại những tấm ảnh cũ của mẹ thời con gái, anh thấy cái bóng của Thúy Hà trong một thuở, nay vẻ đẹp đã phôi pha.
Buổi sáng hôm sau, Phượng Nga rời nhà ra bến xe đi chuyến thứ tư khởi hành lúc mười giờ. Hôm nay chủ nhật, đúng ngày lễ Phục Sinh. Trong thành phố, nhà thờ Chánh tòa là lớn nhất. Nơi đây, mỗi mùa lễ của đạo là một ngày hội. Từ ngọn tháp, tiếng chuông nhà thờ đánh lên, âm thanh trong và cao như tiếng đàn dương cầm rung dộng cả thành phố.
Nắng ấm, vừa se lạnh. Trong tháng ba ngoài miền Trung vẫn còn rét, chưa mong mùa hè đến sớm. Thời gian qua đi, Phượng Nga luôn nghĩ đến cuộc đời làm cô giáo của mình, chuỗi kỷ niệm này của nàng nằm ở các lớp học, trong ánh nắng trên sân chơi nhà trường, hình dung ra mái ngói đỏ, bầu trời cao, và cứ mỗi dịp nàng ra bến đón xe đò vào Huế hay Đà Nẵng thăm gia đình, nàng có được trong từng buổi gặp gỡ, mỗi nơi có một người bạn rất thân thiết tỏ bày lời tạm biệt.
Xe rời bến đúng giờ. Sau lưng, con đường phố với cảnh sinh hoạt nhộn nhịp, ồn ào lùi dần, nó sẽ đi qua nơi khu phố và căn nhà nàng ở để gởi lại một lời nhắn của nàng. Cho cô em gái nàng, Mỵ Châu.
Trong bữa ăn sáng nay, chỉ có hai chị em. Mỵ Châu nói:
- Em trông anh Thụy cũng lạ. Em vẫn thích được nói chuyện với anh ấy.
- Chắc anh ấy ngại, ngoài chị ra, anh chưa tự nhiên lắm với gia đình.
- Anh viết truyện hay, phải không chị?
- Anh có tâm hồn, chân thực với những điều mình viết. Với vẻ bề ngoài khô khan, nên anh không thích sự khuôn sáo.
- Em hiểu anh qua những truyện anh ấy viết. Sau mỗi lần đọc xong truyện của anh viết, em có cảm tưởng mình ngồi lâu, trò chuyện với anh.
- Với Thụy, nhiều lúc chị im lặng vì nhớ đến anh Đạt.
- Anh Thụy và anh Đạt, hai người có nét giống nhau.
- Không, nhưng hai người từng sống ở Đà Lạt, có chung một thành phố đó. Anh Thụy xa gia đình lên học ở đó với người cậu. Anh có Đà Lạt, coi thành phố đó là riêng của mình, và nhớ nghĩ về nơi chốn đó không giống như những hoài niệm bằng phong cảnh, bằng thơ, nhạc của các du khách, mà nhớ là đi tìm kiếm, chờ đợi, mong được gặp một tâm hồn thiếu nữ như ước mơ.
Xe dừng lại trên đỉnh đèo Hải Vân không lâu. Rồi sau khi qua hết đèo, tài xế cho tăng tốc độ đường trường. Tới Huế, xe ngừng ở trạm bên dưới ga Kim Long. Một số đông hành khách xuống đây, nhưng cũng có nhiều khách ra Quảng Trị.
Dọc đường ngoại ô của Huế, nhà vườn san sát bên nhau nhưng rất dễ tìm. Không chỉ có nhiều nhà ở nằm ven theo dãy phố bên này quốc lộ, mà cả bên kia đường ray xe lửa chạy song song, cũng có những nhà vườn xúm xít, gần nhau. Huế, sự yên bình đã khiến người ta nghĩ như trong đời sống, mỗi người chỉ có một chuyện riêng của mình thôi.
Những cánh đồng xuất hiện, trống trải, và những đồi cát hai bên trải rộng, một phía lên núi, một phía ra vùng biển.
Bây giờ đây, Phượng Nga sắp trở lại thành phố nhỏ thương yêu của mình. Quảng Trị thật hiền hòa, cuộc sống yên bình, và học sinh các lớp nàng dạy rất ngoan, lễ phép. Về bạn đồng nghiệp, không khí sinh hoạt ở trường rất là thân thiện, đều nhịp, hòa chung niềm vui một cách tự nhiên. Phượng Nga cũng thấy, thầy Hiệu trưởng là một con người tiêu biểu của tỉnh nhà như nhiều người nhận xét. Với dáng người cao, trầm lặng, ít nói, nhưng thầy làm việc rất nhiều. Một cuốn sách biên khảo của thầy đã viết xong, hai người tận tình giúp thầy là Nguyên và Phượng Nga. Phượng Nga vẽ bìa sách, còn Nguyên lo việc in ấn. Từ khi sách phát hành đến nay, số lượng bán cũng được khá.
Nguyên nói:
- Sau tác phẩm này, thầy cũng nên viết một cuốn khác nữa về văn học.
Dù chưa biết lúc nào thực hiện được nhưng lời nói của anh học trò đã là một sự khích lệ. Với Phượng Nga, thầy cũng rất mến và hài lòng sự xứng đôi của Nguyên và nàng. Thằng nhỏ Bin mới năm đó, bây giờ không còn học với nàng, đã lên lớp lớn rồi. Nhưng với nó, cô Phượng Nga là một hình ảnh trong sáng, đẹp muôn thuở.
Bao giờ cũng vậy, trong mấy năm qua với Quảng Trị - Đà Nẵng xa cách 160 cây số, trên mỗi chuyến đi hoặc trở về, phần đường thuộc Quảng Trị là phần đường giữ cho Phượng Nga một sự thân thương, lạ lùng. Nàng nôn nao, vừa nhớ, khi mà chưa thấy đến. Nàng reo lên, mừng vui khi nó vừa xuất hiện.
Xe đã tới Mỹ Chánh, ghé vào trạm ngừng. Nàng rối rít, mừng vui, cất tiếng gọi mấy đứa nhỏ bán hàng rong. Nàng mua quà bánh, ăn tại chỗ, rồi nghỉ ngơi bằng sự nhìn ngắm cảnh sinh hoạt chợ, mơ mộng theo một đám mây đang bay rải rác trên cảnh làng quê có lũy tre xanh, có con sông và chiếc cầu.
Khi xe rời trạm, nó còn chạy chậm để qua cây cầu có một mái vòm cong như cầu Trường Tiền ở Huế. Bên dưới cầu, nước rất trong, và cũng rất sâu. Nắng ở bên bờ sông làm cho quang cảnh miền quê thêm một nét đẹp. Đây là một nơi chốn, nói với Phượng Nga rằng nếu mà không trở lại, xin đừng quên.
Qua khỏi cầu, đường nhựa tốt nên không quá mười lăm phút xe đến Diên Sanh. Nơi này, cũng có trạm. Một ngày hè đó, nàng và Nguyên đi ra thăm quê chàng đã xuống ở nhà ga này. Diên Sanh là một tên riêng, nhưng cũng nằm trong quận Hải Lăng. Từ ngả ba kế bên trạm gác, con đường dài đi qua quận lỵ, về đến làng quê của Nguyên khoảng mười cây số. Quê của Nguyên ở gần biển, quang cảnh biển vắng lặng, hoang sơ nhưng đẹp, không nơi nào cát trắng tinh như nơi này.
Khi xe rời trạm, Phượng Nga biết được còn bao nhiêu cây số, qua những nơi nào nữa là đến Quảng Trị. Ra vẻ trầm ngâm, yên lặng với khuôn mặt, nhưng thực sự lòng nàng vui lắm. Nàng đang gợi nhớ một kỷ niệm nào đó, tìm kiếm một thú vui, bất giác mỉm cười. Bỗng dưng, nụ cười tinh nghịch vẽ vu vơ trên gương mặt nàng vài ba nét phiền muộn. Rồi nó bảo, tha hồ cho nàng buông thả tâm hồn mà tìm, mà nhớ Quảng Trị.
Gió từ biển xa, từ phía cánh đồng trống tràn tới hất tung mái tóc của nàng.
Không còn nghĩ ngợi gì nữa, xe gần tới Quảng Trị.
Ngoài này có mưa, mưa cũng nhẹ trong ánh nắng.
Thời tiết khô, lạnh. Tháng ba, vẫn là tháng trong mùa rét.
Xe vào bến đậu, ngừng ở phía trong cùng. Hành khách xuống xe, Phượng Nga nghe thật rõ tiếng người Quảng trị nói.
Từ bến, nàng thuê xích lô về nhà. Thường, giá cuốc xe nhất định nên nàng không hỏi, và người chạy xe cũng không nói thách. Ra khỏi bến, xe đi ngược đường lên phố. Ngày chủ nhật, buổi chiều đông vui, dù có mưa nhưng trên phố sinh hoạt vẫn nhộn nhịp. Chiếc xích lô chạy thong thả, nhịp nhàng với mỗi thời khắc. Phượng Nga cảm thấy dễ chịu, như thể, biết nàng trở lại đây là thành phố bình yên.
Ngang qua hiệu sách Văn Hoa, Phượng Nga chợt quay đầu nói với anh xích lô ngừng chờ ít phút để nàng tạt vào mua mấy tờ báo. Không đáp lời, anh xích lô cho xe tắp vào lề, ngừng lại. Phượng Nga xuống xe, vội vàng bước nhanh. Ở ngoài, trong lúc chờ, anh xích lô hút điếu thuốc nhìn cảnh sinh hoạt trên phố. Nhà anh ở không xa, gần một trường tư thục. Anh có đi học, nhưng nhà đông anh em nên anh bỏ dở, ra đời sớm. Nhắc tới kỷ niệm về một ngôi trường, bè bạn, hầu như anh chẳng có.
Phượng Nga mua hai tờ tuần báo Văn Nghệ, Kịch Ảnh và thêm mấy tờ nhật báo.
Nàng trở ra, nói lời xin lỗi để anh xích lô đứng chờ.
Vừa cho xe lăn bánh ra đường, anh xích lô hỏi:
- Cô dạy học ngoài này?
- Anh nói đúng.
- Gia đình cô ở Huế?
Không, ở Đà Nẵng. Nhưng tôi có thời gian mấy năm học ở Huế.
- Ở đây, cô dạy trường Nguyễn Hoàng?
- Đúng, anh nói đúng.
Mưa bụi, cái bóng mưa mờ xa làm Phượng Nga tưởng như nhìn thấy một cái bóng áo trắng. Lên tới khu nhà đèn, chiếc xích lô rẽ đầu ngả ba chạy một đoạn qua vườn bông, tới bến sông, qua khỏi một chiếc cầu nhỏ, rồi dừng lại ngoài đường.
Phượng Nga xuống xe, trả tiền. Anh xích lô nói một lời cám ơn. Trên dòng sông nước đang dâng, và chảy xiết. Phượng Nga đi qua cổng, vào sân, và đi sâu ra đằng sau để lên cầu thang gác phía ngoài.
Nước mưa thấm ướt những bậc cầu thang. Nàng trở về trong cảnh vắng lặng. Nhưng khi lên khỏi cầu thang tra chìa khóa mở cửa, thấy lại mọi sự vật trong nhà, nàng có ngay cảm giác yên bình.
Nàng định đi tắm, nhưng lại thôi, vội bỏ cái túi xách xuống xong kéo màn thay quần áo mặc trong nhà.
Nàng mở phích nước, nước trong phích còn lại không nhiều, nàng đổ đi để thay nước mới.
Thời gian mới đầu buổi chiều, nhưng vẻ xám xịt của bầu trời làm cảnh bên ngoài như ngừng đọng. Phượng Nga lấy nước ở bể cho vào ấm, bắc lên lò, chèn củi đốt xong mồi diêm. Lửa bùng sáng, rồi lên ngọn.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 26 Mar 2017

Trong khi đun nước, nàng chợt nghĩ đến Thụy. Nàng rất có cảm tình với người em của Nguyên và nhớ nghĩ đến luôn.
Mỵ Châu cũng mến Thụy, cô nói:
- Anh Thụy là em, nhưng trông già hơn anh Nguyên.
Phượng Nga mỉm cười. Có thể đời lính làm cho Thụy phong trần, già đi đôi chút so với Nguyên. Nhưng biết đâu thời niên thiếu ở Đà Lạt, là một thư sinh Thụy cũng có những nét dễ thương. Thụy, một con người sống trong mơ mộng, ước ao gặp một thiếu nữ áo trắng.
Nước sôi reo lên, nán đợi nó sôi già nàng mới nhắc ấm xuống, rót vào phích, còn lại vừa đủ pha một ấm trà. Vì nàng thích uống trà, nên trong cái chạn để bên bếp lúc nào nàng cũng dự sẵn gừng, chanh và một hủ đường nhỏ.
Xong việc, nàng coi lại bếp rồi lên nhà. Với khay trà, mấy tờ báo nàng mang ra phòng ngoài, ngồi xuống chiếc ghế mây rộng.
Bỗng nàng nghe tiếng dội lớn, giật mình. Nàng vội rời ghế, mở cửa trước ra mái hiên để nhìn bên ngoài. Bên kia sông, một đám khói đang dâng cao. Nàng không hiểu có chuyện gì. Một lúc sau nàng đóng cửa, chốt lại, xong đến chỗ ghế ngồi.
Nàng ngồi xuống, im lặng như chờ trông một ai đến. Không có sự hiện diện một khuôn mặt nào cả, nàng bình tâm trở lại rót trà ra tách, uống từng ngụm nhỏ. Thụy vừa nhắc nàng nhớ nghĩ đến người anh, con đường đèo, nơi này thành phố còn xa khuất.
Vừa đặt tách trà xuống dĩa, định cầm tờ báo lên đọc nàng bỗng giật mình, thót tim. Chưa kịp hiểu ra có chuyện gì, ngay lúc đó, những loạt súng nổ liên hồi, tiếp theo là mặt đất rung chuyển vì những tiếng đạn trọng pháo. Xô mạnh chiếc ghế, nàng rạp người nằm xuống sàn, hai tay nắm chặt lại. Nàng bắt đầu sợ, nhịp tim đập nhanh, càng lúc tiếng súng đạn nổ rền trời, vừa nghe những tiếng gầm thét thật ghê rợn. Bên ngoài mưa, cảnh bầu trời chợt chớp sáng.
Một lúc sau Phượng Nga ngồi dậy, nàng hoàn toàn tỉnh táo nhận thức rằng đang có trận đánh diễn ra ở một khu vực nào đó rất gần thị xã. Nàng còn hồi hộp, nhưng vẫn cần thiết đi kiểm soát cửa ngõ ở phía trước và sau.
Kim đồng hồ treo tường chỉ đúng tám giờ. Nàng xuống bếp, bật đèn sáng để làm bữa ăn tối. Bây giờ, tiếng súng vẫn nghe nổ nhưng thưa dần. Khi lửa sáng trong lò, nàng đặt cái soong nước lên để nấu món mì gói. Mưa nặng hạt, bóng tối phủ kín ở ngoài, nàng cố làm dịu nỗi lo bằng sự nghĩ ngợi tới Nguyên, Thụy và những bạn học của nàng thời trước. Trong bao nhiêu ý tưởng đó, nhắc đến Thụy, nàng cảm thấy dễ chịu.
- Có vẻ như Thụy để ý tới con Như.
- Cũng không chắc lắm. Người này, ấp ủ mối tình với cô Thúy Hà, và ước mong vẽ nên được một bức tranh thiếu nữ mặc áo trắng rồi đặt tên cho nàng là Liên An.
Bỗng nhiên, như thể nàng nghe có tiếng của Thụy.
- Chị Phượng Nga, lạ lắm thay, ngày trước đây Thụy quen một cô gái có khuôn mặt rất là giống chị từ màu áo tím đến cặp mắt đẹp và buồn.
- Có thực không đấy?
- Bây giờ nàng đổi thay nhiều, không còn những nét giống chị thuở ấy nữa.
- Thụy đã có gặp lại một lần, phải không?
- Có gặp lại nàng, nhưng chuyện đời của nàng buồn lắm.
Trong ánh lửa bếp đang cháy sáng lên, Phượng Nga hình dung ra bóng dáng của Thụy, và nàng bắt đầu nghe anh kể lại câu chuyện của anh với người bạn gái ngày xưa. Nàng tên Thùy, học sau Thụy một lớp. Thụy không nhớ rõ nàng để ý đến mình lúc nào, nhưng rồi, nàng trở nên thân quen, tới gần anh từng bước một. Anh thấy mái tóc đen lượn sóng trên vai chiếc áo trắng của nàng, anh nghe ra được tiếng nàng rất vui lúc trò chuyện với anh, anh cũng tình cờ gặp nàng đi đón người thân ở nhà ga, rồi một hôm đó, trong trò chơi trốn tìm với các bạn cùng lớp ở giờ ra chơi của lớp học tối, nàng núp sau lưng anh, và lúc đó, nàng bắt anh phải kể hết những chuyện của mình cho nàng nghe. Chỉ chừng mươi phút, vậy mà, câu chuyện kể của anh không khác chi một bài luận, nàng nghe vui thích lắm. Nàng hỏi:
- Rồi, sau này có gặp lại cô giáo thần tượng của anh không?
- Không có gặp, nhưng có người khác thay thế.
- Người ấy, chắc giống lắm.
Phượng Nga tắt bếp, mở nắp vung, xong đổ soong mì vừa nấu chín vào tô đem lên nhà. Nàng ăn nóng, mồ hôi toát ra.
Sau bữa ăn, nàng đi ngủ sớm. Trong đêm ấy, nàng gặp lại người anh và nghe rõ từng tiếng mưa dội xuống trên mái nhà. Nàng ngủ ngon giấc, cảm thấy dễ chịu khi tỉnh thức vào lúc trời vừa rạng sáng. Nàng không có nữa sự vướng mắc về một nỗi lo sợ bom đạn, đêm qua, nàng thực sự cảm thấy có những phút giây kinh hoàng.
Từ lối cầu thang bên ngoài, nàng xuống nhà, dừng bên bể nước lấy cái ca nhựa múc nước đổ vào thau, rồi thả chiếc khăn mặt vào ngâm nước. Nhưng chỉ để đó, nàng cầm bàn chải lấy kem đánh răng trước khi rửa mặt.
Bây giờ, nàng thật khỏe khoắn trong người. Sau hai lần rửa mặt bằng khăn nước, nàng giặt lại chiếc khăn hai lần trước khi vắt lên dây kẽm.
Lối cửa vào bếp làm bằng tấm phên, lúc đóng lại, gió không lọt vào nên cảm thấy ấm. Phượng Nga nhen lửa trước khi cho nước vào âm bắc lên lò. Nàng chỉ đun nước sôi để pha cà phê. Nàng rất thích uống cà phê sữa, ý nghĩ này nhắc nàng nhớ tới Nguyên. Thụy không giống Nguyên về cả diện mạo và tính tình. Nguyên nhanh nhẹn, năng động, hoạt bát. Thụy là con người sống nhiều về nội tâm, hút thuốc Bastos nặng, uống thứ cà phê đen đậm. Có một điều chân thực là trong văn viết cũng như là tiếng nói, Thụy có sự thuần nhất. Có lần Thụy nói với Phượng Nga, anh sợ nhất cái ác, trong đó làm điều ác và dùng lời nói cay độc, vừa có ác ý với kẻ khác. Thụy cho rằng, người thích làm điều ác luôn có mặc cảm với xã hội, còn kẻ muốn làm điều thiện bao giờ cũng chỉ nhìn thấy xã hội và con người luôn tốt đẹp. Lúc nước đã sôi, ngọn lửa sáng bừng lên thật đẹp. Phượng Nga nhắc ấm đổ vào phin, vừa đúng một ly cho mình uống. Rồi nàng trở lên nhà. Kim đồng hồ treo tường mới chỉ 7 giờ, nàng có ba mươi phút để dùng điểm tâm và chuẩn bị các thứ trước khi đến trường.
Sáng nay, Nga uống cà phê sữa và ăn thêm mấy chiếc bánh quy mặn. Nàng có thứ bánh này nguyên hộp. Nhưng thường dùng đến lúc không có thì giờ thư thả, vào những ngày nghỉ, nàng ngủ dậy trễ và ăn sáng bằng bữa ăn no thay thế luôn cho bữa trưa. Sau bữa ăn, nàng dọn việc nhà, soạn bài, có khi đọc sách, vẽ tranh.
Những chiếc áo dài của Nga đều máng vào móc áo treo một hàng dài trên dây kẽm. Hôm nay, nàng muốn mặc chiếc màu nâu, trông giản dị, vẻ giản dị càng tôn vinh vẻ đẹp của nàng. Phượng Nga không bao giờ buồn lo, ưu tư gì cả, nhưng vẻ đẹp của nàng trên gương mặt, đôi mắt, nụ cười hòa hợp thành nỗi buồn của nhân thế.
Từ nhà nàng, tới trường học khá xa ngay cả dùng xe đạp. Trời không mưa. nhưng lạnh, và gió dưới sông thổi lên nhiều lần hất tung thân áo dài của nàng. Tới ngả ba nhà đèn, nàng rẽ trái vào phố chính. Vừa mới đi một quãng, nàng bỗng thấy hai bên đường đông người tụ tập, bàn tán không biết chuyện gì. Nàng đạp xe chậm, muốn ngừng, nhưng lại thôi. Vừa đến ngã tư, gặp Yến, nàng mừng liền gọi tên. Yến trông thấy nàng cũng mừng, rồi hoảng hốt hỏi:
- Nga có hay biết gì không?
- Không.
- Sắp có đánh nhau.
- Đêm qua Yến có tiếng súng nổ không?
- Có.
- Ngay trong buổi chiều, mình cũng có nghe tiếng nổ bên kia sông.
Hai người đạp xe bên nhau. Yến hỏi:
- Nga có về thăm trong nhà không?
- Có. Mình mới ra chiều qua.
- Đường xe chạy có yên không?
- Hôm qua bình yên.
- Sắp có đánh nhau lớn, Nga ạ.
Dọc con đường Quang Trung, giờ này đông học sinh đến trường. Hai cô giáo vẫn đạp xe đi bên nhau, trao đổi tin tức thời sự.
- Hôm nay mình thấy lạ, trên phố người ta bàn tán.
- Người ta nghĩ là sắp có đánh lớn.
Tới trường, cảnh sinh hoạt bên ngoài vẫn như thường lệ của những ngày học. Năm phút sau, tiếng trống báo giờ vang dội. Ngay tại sân tập họp, trước khi học sinh vào lớp, thầy Giám học thông báo cho biết giờ đầu các giáo sư bận họp, yêu cầu các lớp lớn nhỏ yên lặng và giữ trật tự.
Bên ngoài, quang cảnh bặt im như ngưng thở. Tuy biết tình thế căng thẳng nhưng vị Hiệu trưởng cố trấn an mình để khởi sự buổi họp.
Trên chiếc bàn dài ở phòng hội, các giáo sư nam nữ ngồi hai bên, vị Hiệu trưởng ngồi ghế giữa.
Ông đứng lên, trước mặt có tờ giấy, một vài điều được ghi sẵn. Ông nói:
- Tình hình đang có vẻ nguy ngập, một dấu hiệu quân đội miền Bắc sẽ mở ra những trận đánh lớn toàn cả miền Nam. Tỉnh Quảng Trị chúng ta gần giới tuyến, chắc chắn là nơi xảy ra đầu tiên. Vậy, tôi xin thông báo toàn các giáo sư được hay để chuẩn bị cho cá nhân và gia đình, về trách nhiệm của trường, từ hôm nay tất cả các hồ sơ tôi sẽ cho đóng gói chuyển vào Huế, hoặc Đà Nẵng.
Ngừng ít giây, ông tiếp lời:
- Từ mấy ngày qua, tôi cảm thấy lo ngại linh cảm nhiều chuyện, nhiều sự việc không hay. Tôi hôm qua, bản tin đài VOA lúc mười giờ đêm, tôi được nghe là quân Bắc Việt đã vượt qua vĩ tuyến 17 với nhiều Sư đoàn bộ bình, nhiều trung đoàn xe tăng và đại pháo. Trong phần bình luận, họ nói rằng, Hà Nội lợi dụng quân Mỹ đã rút, Tổng Thống Nixon tuyên bố về Việt Nam hóa chiến tranh nên đã tung ra một chiến dịch xâm lăng miền Nam. Hà Nội cấp tốc, vì tin rằng quân Mỹ không trở lại. Tôi chắc chắn hôm qua, họ đã chiếm hết các căn cứ, đồn bót phía ngoài vùng phi quân sự rồi. Từ Bến Hải, cách xa đây 40 chục cây số. Nhưng tôi cũng có hy vọng là ở Đông Hà, Cam Lộ có Sư đoàn 3, Thủy Quân Lục Chiến, hai căn cứ kiên cố Mai Lộc, Caroll, sẽ đương đầu nổi. Bên phía Bắc Việt mạnh về pháo binh, nhưng bên mình có Không lực yểm trợ, và có hải pháo của Hạm đội 7. Đó là tin tổng quát. Trở về nội bộ của trường, dù thế nào, chúng ta cũng phải có trách nhiệm với các em học sinh, nhất là các lớp nhỏ. Tôi nghĩ đến hai phương án trong trường hợp có đánh lớn phải di tản: Nếu các em đi theo gia đình, chúng ta không phải lo lắng. Nhưng nếu các em cùng muốn tập trung đi theo trường, thì phải có giáo sư hướng dẫn và trách nhiệm cho các em.
Ngừng lại đây một chút, vị Hiệu trưởng nhìn hết các giáo sư. Một vị đứng lên nói:
- Kinh nghiệm Mậu Thân đã cho chúng ta hiểu người CS như thế nào. Hôm nay trong buổi họp bất thường, thầy Hiệu trưởng cho biết tin này, tôi nghĩ, bổn phận của trường cũng như chúng ta, phải chuẩn bị, phải sẵn sàng để tránh sự bất ngờ về thảm họa chiến tranh. Tôi có một đề nghị, có thể ngày hôm nay hoặc ít ngày tới, tình hình bất an, thầy Hiệu trưởng cho học sinh nghĩ, và đồng thời xin khu vực của trường có lực lượng an ninh bảo vệ.
- Rất đồng ý với đề nghị của thầy Hòa.
- Có thầy nào thêm ý kiến nữa không?
Một vị khác phát biểu.
- Nếu trong trường hợp di tản theo trường, hoặc đoàn thể, tôi đề nghị thầy Hiệu trưởng liên lạc với tỉnh xin một số phương tiện xe di chuyển. Nơi đến, chắc là Huế chứ không là Đà Nẵng đâu.
Một cô giáo tiếp lời:
- Nói chung từ hôm nay, chúng ta chuẩn bị.
Thầy Giám học:
- Lát nữa xong buổi họp, xin quý thầy nên thông báo cho học sinh biết, nhất là các em lớp nhỏ. Với các lớp lớn, các em này sẽ giúp trường về trật tự.
Lúc này, chỉ có sự bàn tán, trao đổi. Sau đúng một giờ, buổi họp chấm dứt như dự tính.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 26 Mar 2017

II

Những năm học ở Huế quen biết Nguyên, Phượng Nga có rất nhiều lần lên căn cứ Trung đoàn của chàng ở Long Thọ, Dạ Lê, và cũng có nhiều dịp theo Nguyên ra tận tiền đồn nơi các Tiểu đoàn đóng quân để dự văn nghệ giúp vui, liên hoan tất niên, những lần đó, nàng cũng tạo dáng cho mình một phong cách của phóng viên chiến tranh với bộ quần áo trận, nón vải, ba lô và chiếc máy ảnh. Nhớ lại bao nhiêu kỷ niệm này, nàng cảm thấy gần Nguyên, gần những người lính tiền tuyến, và với tính cách thể hiện, nàng thấy mình thực sự hòa chung vào các sinh hoạt ở những khoảng thời gian quý hiếm của người lính.
Bây giờ, về đêm những tiếng súng từ xa vang vọng đến, nhưng Phượng Nga không còn mấy lo sợ. Trường học chưa tạm đóng cửa cho học sinh nghỉ, nhưng vẫn trong tư thế chuẩn bị và theo dõi tình hình.
Nguyên ra Quảng Trị, tìm đến nhà vừa đúng lúc nàng dạy học về. Hai người ăn chung bữa cơm tối, xong Nguyên phải trở lại đơn vị. Ra thăm nàng, anh mang cho nàng một chiếc radio ba băng và mấy cục pin lớn để thay.
Tối hôm ấy, đài ngoại quốc loan tin căn cứ Caroll nguy ngập, quân Bắc Việt tấn công biển người và dưới trận mưa pháo dồn dập, người hùng hắc báo Trung tá Trung đoàn trưởng Trung đoàn 56 Phạm văn Đính đã triệu tập một cuộc họp với các sĩ quan đơn vị trưởng, ông cho biết, tình hình khó khăn của căn cứ và lệnh bắt buộc của Tướng Giai là phải tử thủ.
Ông nói:
- Phá vòng vây, may mắn đem được ít tàn quân về thì cũng thân bại danh liệt. Chỉ còn hai con đường, quy hàng hoặc tử thủ.
Một sĩ quan cố vấn Mỹ hỏi:
- Tụi sao không sử dụng mấy chiếc M41 còn lại và vài xe bọc sắt phá hùng rào phía Nam rút về Mai Lộc, nương tựa vào TQLC ở đó để tìm Ái Tử.
Vị Trung tá trả lời:
- Muộn rồi, các Sĩ quan đã đồng ý đầu hàng và đã liên lạc với cấp chỉ huy địch ông hãy cùng tôi tự tử để khỏi nhục.
Vị sĩ quan cố vấn đáp:
- Không, Sĩ quan Hoa Kỳ không làm như vậy, chúng tôi sẽ tự lo liệu lấy.
Lúc 15 giờ chiều ngày 2 tháng 4 Trung tâm hành quân Ái Tử nhận một công điện:
Chúng tôi yêu cầu được rời nhiệm sở. Có lý do không cần chúng tôi ở đây nữa. Sẽ cắt nghĩa sau.
Vì không hiểu chuyện xảy ra, Trung tá Turley ra lệnh:
- Không được, các ông hãy ở đó thi hành nhiệm vụ.
Hai mươi phút sau, một bức điện từ căn cứ Caroll:
Chỉ huy trưởng căn cứ muốn đầu hàng địch, cờ trắng sẽ được kéo lên trong vài phút nữa. Không còn thì giờ để nói, chúng tôi hành động gấp để vượt thoát.
Sau khi đánh công điện xong, hai Sĩ quan cố vấn thu xếp hành trang nhẹ vào túi đeo lưng, thiêu hủy tài liệu kín rồi xách chiếc máy truyền tín đi về hàng rào phía Nam căn cứ, có hai người lính VN tình nguyện đi theo. Đang len lỏi giữa đám hàng rào kẽm. gai, họ bị địch quân phát hiện nổ súng. Hụ bắn trả, rồi lui trở lụi trong vòng rào gọi trực thăng đến tiếp cứu, tình cờ liên lạc được với một chiếc CH47 đang tiếp tế đạn cho căn cứ Mai Lộc.
Người phi công đáp xuống căn cứ Caroll trong khi hai trực thăng Cobra võ trang nhào xuống bắn phá phía ngoài quanh hàng rào để yểm trợ. Cố vấn phó và hai người lính truyền tin lên trước, cố vấn trưởng còn đứng bên dưới ngăn một số lính pháo binh cố bám theo để vượt thoát.
- Kẻ nào không có súng là có ý định hàng giặc.
- Thôi, Trung tá ông lên đi, người phụ tá hét lên.
Có 30 người lính mang vũ khí được phép cho lên cùng ông.
Khi vị cố vấn ngồi vào ghế ở cửa thì trực thăng bốc lên giữa những tràng súng nhỏ bắn theo. Ngoảnh nhìn lại căn cứ Caroll, ông thấy lá cờ trắng thật to được treo lên ở cổng chính của căn cứ.

Trong nhiều ngày nay, tin thời sự về chiến trường miền Nam chạy ở trang nhất các tờ nhật báo xuất bản ở Sài Gòn, và các đài phát thanh ngoại quốc VOA, BBC, Úc dành hai phần ba chương trình và thời lượng để theo dõi tin tức các mặt trận. Và, những tin tức này rất trung thực, dồi dào được phát thanh mỗi ngày hai lần vào giờ buổi tối ở Việt Nam.
Tin chương tình giờ đầu của đài BBC vừa mới kết thúc. Phượng Nga nghe xong, vẫn bình tâm, không cảm thấy buồn ngủ. Nàng tự tin, và quả quyết đương đầu. Ở ngoài phố người ta bàn tán xôn xao, giá sinh hoạt ở chợ ùn ùn tăng, nhà nào cũng chuẩn bị gạo, thực phẩm, nhất là thức ăn khô. Có một số hàng quân tiếp vụ được bán ra ngoài, đắt nhất là gạo sấy, thịt hộp. Những thứ này, Phượng Nga đã có dự trữ, phòng thân, số lượng trà, đường, cà phê, bánh từ trong nhà mang ra, nàng còn mua thêm mỗi thứ một ít nữa. Giá sinh hoạt tăng, đồng thời, cũng có một khá đông gia đình khá giả dùng xe riêng, hoặc thuê mướn xe hàng di tản trước vào Huế, nhà cửa ngoài này để lại cho người quen trông coi.
Nguyên đã ra đúng lúc nàng cần anh. Và, anh là người nàng luôn tin cậy. Nguyên cho nàng biết, tình hình nghiêm trọng, trong mùa hè này sẽ đánh lớn.
Khác với hôm đầu mới từ trong nhà ra, mấy hôm nay, nàng trở lại sinh hoạt bình thường với căn phòng riêng của mình.
Phòng ngoài làm phòng khách cũng thoáng rộng. Nàng mở luôn cánh cửa trước trông ra mái hiên, từ nơi ấy, mỗi lúc đứng bên lan can nàng nhìn thấy bao quát cảnh vật từ bên này qua bên kia con sông.
Ngọn đèn néon hai bóng sáng và ấm. Ngồi dựa lưng ghế nhìn ra, nhờ ánh sáng một vài ngọn đèn đường chiếu rọi nàng nhìn thấy từng đám sương mù trên sông, chốc lát lại nghe những tiếng động của một vài chiếc thuyền máy, mỗi lúc nhỏ dần đi, xa vắng.
Nước trà gừng uống được, nàng cầm tách lên nhấp từng hớp. Khi đặt tách xuống bàn, nàng lấy vài chiếc bánh quy, ăn dặm.
Kim đồng hồ trên tường tới gần chín giờ ba mươi. Năm phút nữa, có đài BBC. Hết chương trình đài này, nàng sẽ nghe đài VOA, và nếu không buồn ngủ, nàng sẽ thức luôn để nghe đài Hà Nội.
Vừa đúng giờ, Phượng Nga đứng lên, tới chiếc kệ để máy thu thanh vặn nút. Tiếng cô Hồng Liên mở đầu chương trình giới thiệu. Phượng Nga rất thích cô nữ xướng ngôn viên này, một giọng nói miền Nam đầy hương vị dịu hiền của cây trái, nàng hình dung ra cái nét dễ thương, tươi vui của cô. Phượng Nga cũng biết, ở các đài ngoại quốc về chương trình Việt Ngữ, xướng ngôn viên là đều là những sinh viên đang học Đại học hay đã tốt nghiệp. Khi phiên dịch bản tin, và qua cách đọc, ở bên đây thính giả vừa được hiểu, vừa có sự gần gần gũi với ngôn ngữ của mình.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 26 Mar 2017

Sau phần tin tức quốc tế, Phượng Nga lắng tai chú ý nghe tin tức Việt Nam ngoài tiền tuyến.
Quân Bắc Việt tiến đến Đông Hà, nhưng đã bị chận đứng bởi một Thiết đoàn chiến 20 chiến xa và lực lượng dũng cảm của Tiểu đoàn 3 Thủy Quân Lục Chiến.
Khi trông thấy trinh sát địch xuất hiện bên bờ bắc, ba Đại đội của Tiểu đoàn 3/TQLC dàn hàng ngang bên bờ sông phía Nam chờ nghinh chiến với địch. Ở giữa chiến tuyến này, hai sĩ quan cố vấn Hoa Kỳ là Đại úy John W. Ripley, và Thiếu tá kỵ binh Smock đang tìm cách đặt mìn để phá sập cầu Đông Hà. Yểm trợ cho công cuộc này, có hỏa lực Đại đội 1 của Trung úy Nguyễn Kim Chung.
Lúc hai vị sĩ quan cố vấn ra đến giữa cầu thì đã có năm người lính công binh cửa Sư đoàn 3/BB ở đó với 500 pounds thuốc nổ TNT đã gắn trước ở cạnh cầu, chờ cho nổ khi có lệnh. Nhưng với cách thức họ gài, Đại úy Ripley thấy rằng, khối thuốc TNT khi phát nổ, chỉ làm trĩu xuống một nhịp cầu, chứ không thể phá hủy được cả cây cầu. Và, qua sự suy tính, viên Đại úy cố vấn nghĩ là thuốc nổ phải được gài lại. Ông và vị Thiếu tá kỵ binh bắt đầu nghiên cứu cấu trúc dưới gầm cầu. Sau đó, hai ông cẩn thận di chuyển 25 đến 30 hộp thuốc nổ để gắn vào các khe, và các chỗ nối mỗi thanh sắt. Trên thành cầu có hàng rào gắn dây kẽm gai loại của Đức, rất sắc như dao cạo râu để bảo vệ cầu. Hai vị sĩ quan chia nhau công việc thật nhanh. Đại úy Ripley chui qua hàng rào thành cầu để dọn chỗ đủ rộng cho Thiếu tá Smock đặt các hộp TNT dọc theo, mỗi hộp cho vào các khe có chỗ nối mỗi nhịp. Từ thành cầu, Ripley đu hai chân xuống, sau đó bắt đầu bám vào những thanh sắt đứng để bò, phía dưới nước dòng sông đang chảy xiết. Hai tay ông thay nhau bám, hai vai đeo bọc thuốc nổ, mỗi bọc nặng mười lăm pounds. Đến lúc này, ông mới thấy là ông mang nặng quá. Gần ra tới giữa cầu, Đại úy Ripley cố xoay người lại, dùng hai tay và hai chân bám chặt cột sắt. Ông cảm thấy đau nhói và không chịu đựng nổi sức nặng mà ông mang trên người. Sau vài lần cố gắng đu đưa, bàn chân ông bám được vào thanh sắt nằm ngang để từ đó leo lên tới sàn cầu bằng thép. Lên tới rồi, Đại úy Ripley thấy các thanh gỗ đó nằm ngang cách xa nhau có khe rộng đủ bằng thừng đạn pháo binh mà các quân nhân công binh của Sư đoàn 3 đã đặt khối TNT vào rồi. Nhờ vậy, công việc của ông cũng dễ dàng hơn chút. Thỉnh thoảng, ông vẫn trông thấy địch phía bờ bên kia. Trong khi Đại úy Ripley di chuyển qua lại dưới gầm cầu, Thiếu tá Smock vẫn đi lại trên mặt cầu để chuyển các khối TNT qua thành cầu vào các chỗ Ripley có thể với tay lên lấy được. Làm như vậy, ông tự chường mặt cho địch quân bên kia bờ trông thấy. Và, ông đã bị chúng bắn, đạn bay tơi tả trên đầu chung quanh người ông, nhưng may mắn ông không bị thương. Một mối nguy cho hai ông cố vấn là một chiếc T54 đã bị Trung sĩ Lượm TQLC bắn trúng, hư hại, nhưng vẫn còn chạy được. Đoàn xe tăng của địch dừng lại dọc con đường. Chiếc xe tăng bị trúng M72, lùi lại đậu cạnh đầu cầu bên kia và chìa khẩu đại liên ở pháo tháp bắn vài loạt đạn về phía ông. Nhưng, chẳng có viên nào trúng nhờ các thanh sắt to dưới gầm cầu chống đỡ.
Ít phút sau, Đại úy Ripley từ gầm cầu chui ra và chuẩn bị gắn ngòi nổ. Công việc hoàn tất, nhưng lúc đó, vị Thiếu tá cố vấn liếc mắt sang cây cầu cũ có đường ray xe lửa chạy qua với một nhịp cầu bị hư hại một phần, địch có thể sửa chữa để sử dụng. Thế là, vị Thiếu tá lại khuân chất nổ đến chỗ đó cho Ripley gài để hai chiếc cùng nổ phá một lần.
Khi hai vị Sĩ quan thực hiện công việc phá cầu, Trung đội đảm trách phòng vệ của Tiểu đoàn 3 TQLC tác xạ liên tục không cho địch trở tay. Từ vị trí ẩn núp, Đại úy Ripley nhìn thấy một Thiếu úy Trung đội trưởng TQLC đang chỉ huy tác xạ, ra ám hiệu cho biết, họ sẽ tập trung hỏa lực tối đa về phía bên kia để hai ông rút lui an toàn.
Đại úy Ripley vừa chạy vừa kéo dây dưới hỏa lực yểm trợ. Ông về chỗ ẩn núp và tìm được một cục pin trong chiếc xe Jeep hư hại nằm ụ dọc đường. Ông gắn dây vào hai chốt cục pin. Đến lúc này, quân Bắc Việt gia tăng áp lực trên cầu. Tất cả đều sẵn sàng, chờ đợi.
Tiếng nổ dội long trời. Những nhịp cầu bên phía bờ Nam đứt lìa, rớt xuống lòng sông. Cây cầu sắt bên kia cũng được phá cùng một lúc.
Đại úy Ripley, nhớ lại cái cảm giác khi tiếng nổ phát ra, lúc ấy, đầu gối ông giật thắt lại, mũ sắt va vào đầu ông kêu boong boong, và ông cũng bị văng khỏi lên mặt đất. Nhưng vào phút đó, ông vẫn còn nhìn kịp về hướng cây cầu và nhìn thấy cả một bầu trời ẩn hiện. Không gian rộng lớn giữa hai bờ Nam Bắc hiện lên một cảnh hùng tráng lạ lùng, rất đẹp của chiến tranh.
Chiếc cầu Đông Hà được phá hủy để chận đường tiến công của đại quân Bắc Việt. Khi nghe được báo cáo phá hủy hoàn tất cây cầu, Bộ chỉ huy tiền phương Sư đoàn 3 lập tức điều động các phi cơ chiến đấu lên vùng. Bên kia bờ Bắc, là nơi đang tập trung toàn bộ xe tăng và xe lội nước PT76. Những người phi công tham dự trận oanh kích thật là hào hùng, độc đáo. Từng pha đánh bom thật hùng tráng, đẹp mắt như trên màn ảnh. Từ độ cao, những chiếc khu trục nhào xuống, đánh trúng chính xác mục tiêu, xe tăng địch nhiều vô kể, trở thành một miếng mồi ngon cho phi cơ chiến đấu. Khi mà bạn nghe được các mẩu đối thoại của các phi công khu trục đang đánh bom, bạn có cảm giác nghẹt thở, vừa rất sôi nổi, hào hứng của một trận túc cầu.
Suốt mấy giờ liền hên kia cầu Đông Hà, quân Bắc Việt hứng chịu nhiều tổn thất về nhân mạng, vũ khí, và xe tăng. Trận không tập dữ dội, hủy diệt luôn các loại súng phòng không, và kết quả 40 xe tăng địch bị cháy và hư hại.

Ngước mắt nhìn đồng hồ, thời gian còn bốn phút nữa. Phượng Nga cảm thấy lòng náo nức, như đang nghe sôi dậy với bao hình ảnh của chiến trận. Nàng nhớ nghĩ tới những cuốn phim, cuốn sách truyện về chiến tranh thế giới nàng được đọc, nó đang trở lại với nàng. Hôm ấy, Thụy có được mấy ngày phép sau một cuộc hành quân khá lâu ngày. Trận đánh ở Quế Sơn rất khốc liệt. Trận chiến kéo dài trong bốn ngày, và qua một cơn ác mộng về những ngày đêm rung chuyển khi trung đoàn của anh hứng chịu nhiều trận pháo của súng đại pháo 130 ly. Nhưng với sự chiến đấu anh dũng, quả cảm, kết quả Trung đoàn của anh giành được chiến thắng và thành tích được giới thiệu bằng cuộc triển lãm tại ngay căn cứ hành quân. Chắc là nhân lúc đi phép, Thụy ghé tìm Phượng Nga để cho nàng biết tin, nhưng không gặp. Cũng là lần đầu tiên Mỵ Châu nói về Thụy.
Ở phía Tây sông Miêu Giang, sau khi Caroll thất thủ, chỉ còn lại căn cứ Mai Lộc, ngày đêm hứng chịu sức tấn công nặng nề, bao nhiêu đạn pháo của địch đều tập trung vào đây. Nơi này, chiến xa địch chưa xuất hiện nhưng bộ binh đã bao vây ba mặt, chỉ còn mặt phía Đông là có Tiểu đoàn 7 TQLC án ngữ bảo vệ con đường lui binh về Ái Tử. Khi ra lệnh cho Tiểu đoàn 7 bố trí quân ở đây, Trung tá Lữ đoàn trưởng LĐ 147 Nguyễn Năng Bảo đã nghiên cứu một kế hoạch khi bắt buộc phải bỏ Mai Lộc. Vào lúc này, tình trạng thực phẩm và đạn dược thiếu hụt, nhất là đạn pháo binh.
Từ Ái Tử, Tướng Giai, gởi công điện:
Cố gắng ở lại nếu có thể, nhưng không chịu nổi thì rút lui.
Sau khi nhận công điện, vị Trung tá chỉ huy quyết định rút.
Con đường di tản được ấn định như sau:
Bộ chí huy Lữ đoàn 147, Tiểu đoàn 2 Pháo Bình và các đơn vị tăng phái và Tiểu đoàn sẽ ra hướng Đông đi ngược về hướng Tây Bắc vào xã Hưng Hóa bắt tay với thành phần còn lại của Tiểu đoàn 4.
Tiểu đoàn 7/TQLC có nhiệm vụ đoạn hậu.
Các vật liệu không mang theo phải phá hủy là quân xa và đại bác.
Lúc sáu giờ chiều, những khẩu pháo bắn đi những loạt đạn cuối cùng sau đó, pháo đội 155 ly cũng chỉ còn lại vài chục quả đạn khói, các pháo thủ tháo khối kích hỏa đem theo và những trái tựu đạn được bỏ vào nồng súng, loại lựu đạn đặc biệt này mỗi khẩu trưởng đều giữ một trái và chỉ xử dụng trong trường hợp đặc biệt này. Với độ nóng 4500 độ, đại bác sẽ chảy ra và cong lại, không thể xử dụng được nữa.
Đến sáu giờ mười lăm, trời đã tối, Trung tá Bảo báo cho Thiếu tá Joy cố vấn biết quyết định và giờ lui binh. Ngay sau đó, vị Cố vấn trưởng cùng các cố vấn khác xuống căn hầm phá hủy những gì cần thiết, những giấy tờ dụng cụ rồi họ đội nón sắt ba lô sẵn sàng. Các đơn vị theo kế hoạch và thứ tự di chuyển ra khỏi căn cứ Mai Lộc dưới cơn mưa pháo dữ dội của địch, pháo 130 ly bắn đuổi theo đoàn di tản đến tận Mai Lộc, nhưng may mắn không có trái nào rớt giữa đoàn quân. Bóng đêm bắt đầu phủ xuống. Toán quân di chuyển âm thầm. Chỉ có những tiếng côn trùng vang trong đêm tối.
Đoàn quân tiếp tục đi trong tầm đạn pháo cửa địch cho đến khi tới làng Mai Lộc. Khi toán quân đi đầu vừa ra tới đầu làng bên kia thì bị pháo kích. Nhưng trời còn thương không trái đạn nào rớt giữa đoàn quân. Như vậy, pháo binh địch còn đang hoang mang quay nòng súng tìm hướng di chuyển của đoàn quân. Một cơn mưa nhỏ giăng đầy trời làm cho địch càng không quan sát được.
Khi Đại đội cuối cùng của Tiểu đoàn 8/TQLC ra khỏi cổng phía Đông căn cứ thì Tiểu đoàn 7 mới được lệnh chuẩn bị lui binh.
Ba Đại đội của TĐ7 cả ngày hôm nay chạm địch ở phía Đông và Đông Nam Mai Lộc. Địch quá gần, việc rút lui khó khăn hơn, làm sao để địch không thừa lúc sơ hở mà tấn công. Các Đại đội của Tiểu đoàn 7 đã rút im lặng, trật tự. Thiếu tá Võ trí Huệ, Tiểu đoàn trưởng TĐ7 đã chỉ thị chi tiết lui binh cho các Đại đội trưởng, bất ai giá nào cũng giữ thứ tự đội hình và mang theo tất cả thương binh.
Cánh A của TĐ7 trên đường lui binh đã càn qua một ổ súng cối 82 ly của quân Bắc Việt tiêu diệt toán xạ thủ và phá hủy khẩu súng này.
Đoạn đường từ Mai Lộc về Ái Tử khoảng hai mươi cây số băng đồng trên một địa thế rất khó di chuyển, toàn đồi núi, khe sâu và rừng thấp. Đây là đoạn đường khó đi nhất ở Quảng Trị. Nhưng, Trung tá Bảo đã có lý khi chọn đường này tương đối an toàn cho đoàn quân ra tới Quốc lộ l mà không gặp địch quân.
Sau khi qua làng Mai Lộc, đoàn quân rẽ về hướng Đông. Trời mưa dữ dội, Thiếu tá Joy bỗng mất liên lục với BCH/LĐ. Trung tá Bảo vẫn cho đơn vị tiếp tục, tuy chậm mà chắc. Cho đến 11 giờ đêm thì gặp một con suối có những bụi cây lớn ở giữa, nước lũ từ những triền đồi đổ về đầy ắp và chảy siết. Đoàn quân phải khựng lụi ba giờ để cho từng người lội qua dòng nước lũ này, có nơi ngập lên tới bụng.
Trong lúc này, Thiếu tá Joy đã liên lạc được với Ban chỉ huy cố vấn Mỹ ở Ái Tử để báo cáo địa điểm và xin phi cơ thám thính.
Khi Joy sang suối thì ông đã nhập được vào đoàn người tiếp nối mặc dầu khoảng cách khá xa với với toán quân đi đầu. Tuy nhiên Tiểu đoàn 7 vẫn còn ở phía sau của ông khá xa. Trời vẫn mưa không ngớt. Mọi người đi dưới những lùm cây đen như mực, con đường lầy lội, lồi lõm, nhiều người rất mệt, nhưng không ai muốn bị bỏ lại. Có người, ngay cả những cố vấn, cũng lấy dây rừng cột với người khác. Những người bị thương được bạn bè dìu đi, cáng đi thật vất vả. Chính lúc này, tình đồng đội là quan trọng hơn bao giờ hết. Những người bị lết bết về phía sau cũng được Tiểu đoàn 7 dìu dắt đi theo, số này ít thôi, vì trong đêm tối các cấp Tiểu đội trưởng và Trung đội trưởng không tài nào kiểm soát được.
Đến hai giờ đêm, toán quân đầu tiên của TĐ7 lội qua sông Định. Vì binh sĩ đã quá mệt, Thiếu tá Huệ cho dừng quân nghỉ, một giờ sau đó lần lượt đi qua sông.
Trời tối lạnh, mưa vẫn không ngớt hột.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 26 Mar 2017

III

Vừa mới ra khỏi lớp, Phượng Nga trông thấy thằng Bin đang đi nhanh bước về phía mình, nàng dừng đợi.
Tới gần, nó đưa cho nàng một phong thư.
- Của ai đây em?
- Thư của mẹ.
Phượng Nga mở thư ra đọc. Thư có mấy giòng, Ý Tâm mời nàng đến tư gia chiều hôm nay.
Phượng Nga gấp thư lại, hỏi Bin:
- Em học ra sao?
- Dạ, thưa cô khá.
- Nói với mẹ, chiều cô ghé.
Hai ngày qua, tình hình trong tỉnh rất náo động, khẩn trương. Những buổi học ở lớp, thầy cô cũng như học sinh đều lo lắng, chờ đợi, không mấy chú tâm. Thế nhưng, ở trong tỉnh đã có Bộ chỉ huy của Sư đoàn đóng ở Cổ Thành, nhiều đơn vị tăng phái, nhất là có lực lượng trừ bị của các Lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến bảo vệ.
Mặt trận Đông Hà diễn ra mọi nơi. Trận đánh tại cây cầu trên sông Miêu Giang là trận đánh lịch sử. Những thước phim về trận đánh này được phóng viên điện ảnh quay tại chỗ, chiếu lên truyền hình cho thấy quân miền Nam chiến đấu thật gan dạ, anh dũng. Bên bờ Bắc, trọng pháo quân Bắc Việt uy hiếp, bộ binh theo xe tăng tràn qua cầu, nhưng họ bị chận đứng. Phía bờ Nam có lực lượng của TĐ3/TQLC, Thiết đoàn 20 chiến xa, pháo binh, súng chống tăng M72, và không lực yểm trợ đánh bom đã tiêu diệt gây cho địch địch tổn thất nặng về bộ binh, về súng phòng không, và hàng chục chiếc xe tăng bị bắn cháy.
Không khí chiến tranh thật nặng nề, khẩn trương. Người dân lo sợ, nhưng luôn tin tưởng về khả năng chiến đấu của một triệu quân lính VNCH. Hà Nội, trong chiến dịch này mang tên Nguyễn Huệ, không chỉ đưa nhiều đạo quân, đại pháo xe tăng vượt qua vĩ tuyến 17 đánh chiếm tỉnh Quảng Trị, mà ở phía Nam và Tây Nguyên cũng mở hai mặt trận lớn An Lộc và Kontum.
Ở xa nơi đây, Phượng Nga cũng được biết tin về Đà Nẵng. Đà Nẵng, nơi thành phố cảng này có bản doanh của Bộ Tư Lệnh Quân đoàn I. Từ khi trận đánh Quảng Trị mở màn, căn cứ Không quân Đà Nẵng rất rộn rịp, lần lượt các phi đội chiến đấu có khu trục, A37, F5, trực thăng võ trang từ Tân Sơn Nhất, Biên Hòa ra tăng cường, ứng chiến. Ở Huế, phi trường Phú Bài ngày đêm cũng hoạt động yểm trợ chiến trường. Mỗi ngày, phi cơ vận tải các loại C47, C123, C130 hạ cánh nhiều chuyến đưa quân lính, trang thiết bị, quân nhu, vũ khí, đạn dược và tiếp tế thực phẩm cho các đơn vị tiền tuyến. Dọc quốc lộ I, những đoàn xe nhà binh di chuyển từ các căn cứ tới mặt trận, đi qua các thị xã, quận lỵ, làng mạc, nơi nào họ được dân chúng mừng vui, vẫy tay reo hò. Và trong ngày hôm nay, tin tức cũng cho biết là dân chúng từ trên các quận Cam Lộ và Mai Lộc, đã theo đường quốc lộ 9 di tản về Đông Hà, và họ sẽ đến Quảng Trị.
Hai giờ cuối, Phượng Nga dạy môn Việt Văn lớp Đệ Lục. Tối hôm qua, sau khi nghe tin tức các đài ngoại quốc xong, nàng còn thức khuya để soạn bài giảng.
Lớp học nằm bên dãy nhà tôn. Từ văn phòng, nàng xuống bậc tam cấp, qua cái sân rộng, hướng về căn phòng đầu là nơi lớp nàng dạy.
Nàng có mối ưu tư về cuộc chiến, nhưng chỉ riêng mình không bày tỏ. Khi thấy nàng xuất hiện ở cửa, cả lớp đứng lên.
Tới bàn, nàng mở cặp lấy ra cuốn sách giảng văn, xong đi ra bục cầm phấn.
Nàng viết lên bảng:
Đề Miếu Bà Trương
Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương
Ngọn đèn dầu tắt đừng nghe trẻ
Làn nước chi cho lụy đến nàng
Chứng quả có đôi vầng nhật nguyệt
Giải oan chi mượn đến đàn tràng
Qua đây mới biết nguồn cơn ấy
Khá trách chàng Trương khéo phụ phàng
Lê Thánh Tông

Phượng Nga chép xong bài thơ, quay xuống lớp. Trước khi vào bài giảng, nàng nói qua tiểu sử tác giả trong ít phút, rồi bắt học sinh chép.
Trở lại ghế ngồi, Phượng Nga đọc lại lá thư ngắn của cô Ý Tâm. Nàng có chút tư lự, nghĩ ngợi. Rồi nàng bỗng suy đoán, chắc cô Ý Tâm có việc riêng ở nhà, nhờ nàng giúp. Trong thời gian qua dạy học ở đây, nàng mến yêu Quảng Trị, học sinh, đồng nghiệp, thân với Phi Yến, và rất gần gũi với Ý Tâm.
- Các em xong chưa?
- Thưa cô, rồi.
Nàng trở ra bục giảng, nhìn xuống lớp đọc lại bài thơ quá dễ thuộc. Để cho học sinh hiểu bài, nàng lược kể câu chuyện.
Người phụ nữ trong bài thơ lấy chồng họ Trương. Người chồng đi lính thú, bà ở nhà nuôi con dại. Thường tối đến, lúc thắp đèn lên, bà thường chỉ cái bóng mình trên vách mà bảo với con rằng đó là cha nó. Đến khi người chồng trở về, đứa con không nhìn cha, và cho biết rằng, đến đêm tối người cha mới đến, và hễ mẹ ngồi, thì cha ngồi, mẹ đi đứng thì cha đi theo. Người chồng lấy làm lạ, nghi vợ có ngoại tình nên đối đãi với bà rất tệ bạc. Người vợ chẳng biết làm sao tỏ nỗi oan ức, bèn nhảy xuống sông tự tử. Đến tối, khi đèn thắp lên, nhìn thấy có cái bóng trên vách, nói với người kia rằng, đó là cha tôi. Người chồng lúc ấy hiểu rõ, nhưng đã quá muộn, bèn ra bờ sông chỗ bà trầm mình lập đàn chay lễ giải oan cho vợ.
Người đời sau lập miếu bà trên bờ sông Hoàng Giang thuộc làng Vũ diện, huyện Nam Xương, tỉnh Hà Nam. Vua Lê Thánh Tông một hôm đi ngang qua đây, biết rõ sự tích cảm động mà sáng tác ra bài thơ này.
Lớp học yên lặng nghe câu chuyện cô giáo kể về một sự tích xưa. Sau đó, nàng khởi sự giảng bài. Nhưng nàng ngừng lại, bởi có một em đưa tay hỏi:
- Thưa cô, lúc còn người mẹ, thì có cái bóng của bà in trên tường để cho đứa con nhìn thấy và biết là người cha của mình. Nhưng bà đã gieo mình xuống sông tự vẫn, thì đâu còn cái bóng ấy nữa mà chỉ về người cha.
Em học sinh vừa nêu câu hỏi, ngồi ở bàn cuối. Lúc em hỏi, cả lớp, đứa lắng nghe, đứa quay lại nhìn.
Rất hiểu câu em học sinh hỏi, cô giáo giảng giải và phân tích.
- Trong đêm, lúc đèn thắp lên, cái bóng người in lên tường, người mẹ chỉ cái bóng bảo đó là người cha. Với cái tuổi còn nhỏ dại, đứa nhỏ chỉ nhận ra rằng cái bóng in vào tường là người cha, theo lời người mẹ bảo. Vậy, nó chỉ nhìn thấy, và tin vào cái bóng trên tường là người cha. Cho nên, đến khi người mẹ mất nó cũng vẫn chỉ hiểu rằng, mỗi đêm tối cứ trông thấy có bóng người in trên vách, thì đó mới đích thực là người cha. Vì sự không ý thức của đứa bé nên mới có mối nghi ngờ của người chồng, còn như nó hiểu được, thì không có sự tích này.
Giải thích xong, cô giáo hỏi:
- Em đồng ý không?
- Dạ, em hiểu thưa cô.
Phượng Nga bắt đầu bài giảng. Từng hai câu một: đề, thực, luận, rồi kết nàng giảng rõ ý bài thơ.
Hai câu đề, tả cảnh miếu uy linh của bà Trương.
Hai câu thực, tác giả đưa ra tình tiết của câu chuyện với các chữ dùng ngọn đèn, nghe trẻ, làn nước, đó là chi tiết gây sự chú ý cho người đọc hiểu một sự việc liên quan đến sự tích bà Trương.
Hai câu luận, tác giả nêu ra để minh oan cho nỗi lòng của bà Trương. Trong sự minh oan, tác giả dùng lời trách về ngươi chồng quá vội nóng và thiếu suy xét. Người chồng đã không hiểu vợ, và không nhận ra cái hiểu non nớt của trẻ thơ. Và, lòng trinh bạch của nàng, chỉ có trời hiểu, không cứ phải lấp được đàn chay mới nhỏ lòng thương và giải được mối oan tình.
Hai câu kết, tác giả tỏ tình thương cảm người phụ nữ. Trong tình cảm ấy, nhà vua không thể dùng đến quyền của mình để can thiệp, tránh cho một cái chết oan uổng.
Trong lúc giảng, cô giáo cầm phấn ghi lên bảng những chi tiết, những chữ khó để cắt nghĩa.
Giảng bài xong, Phương Nga ngừng mắt nhìn xuống lớp xem có em nào đặt câu hỏi.
Một lúc sau, nàng trở lại phần tác giả, nói về tiểu sử và sự nghiệp sáng tác.
Hồi trống vang lên hết giờ.
Buổi chiều. Nga chỉ có lớp hai giờ đầu. Từ trường, sau buổi dạy nàng đạp xe đến chợ mua thức ăn, xong ghé vào hiệu sách mua vài tờ báo. Từ hôm đó đến nay, nàng chú ý đọc tin tức chiến sự. Không đi đâu nữa, nàng về nhà.
Ngồi ở phòng khách, nàng đọc báo. Bỗng nàng vui, trên nhật báo Sóng Thần, có một bài viết về Trung đoàn 54 của Nguyên. Trong bài viết, phóng viên mô tả sinh hoạt của đơn vị, nhắc đến các cấp chỉ huy trưởng ban, trong đó Nguyên có được cái nhìn thiện cảm, vừa khả năng làm việc, vừa là một phóng viên xuất sắc trong làng báo trước đây.
Nàng mỉm cười, lòng rất vui. Nàng cất giữ đây, nhưng nàng cũng chắc là Nguyên đã có biết, có đọc. Nàng cũng tự nhủ, chắc cũng là đám bạn bè trong nghề, được cơ hội viết bài tâng bốc nhau.
Phượng Nga đọc xong các báo, buông xuống bàn xong lên giường nằm nghỉ. Trong giấc mơ, nàng thấy mình ở bên dòng suối, rồi leo lên những bậc đá ra con đường đèo. Nàng biết mình lúc này đi theo rừng cây, nghe tiếng gió, và những bước chân đi mau. Rồi, nàng nhận ra đây là đường đèo Prenn lên Đà Lạt. Mỗi lúc, sương mù bao phủ, nàng và con đường, mải miết, xa khuất.
Khi tiếng chuông đồng hồ đánh lên, Phượng Nga thức giấc.
Nàng xuống nhà rửa mặt, xong trở lên ngồi trước tấm kính chải tóc, trang điểm. Những phút giây này, về những kỷ niệm trong tình yêu, nó xao xuyến, lay động trí nhớ nàng.
Rời nhà, nàng đạp xe đến nhà cô Ý Tâm.
Lúc trông thấy nàng ở cổng, thằng Bin mừng, reo lên tiếng chào và gọi người mẹ.
Ý Tâm, mặc chiếc áo dài lam xuất hiện.
Phượng Nga nói:
- Em nhận được thư của cô sáng nay.
Ý Tâm nắm tay Phương Nga, hai người đi vào nhà.
- Thầy về chưa cô?
- Về rồi.
Bây giờ, Phượng Nga mới hiểu chuyện. Trên bàn thờ, mâm cỗ được bày nhiều món, những cây hương còn đang cháy sáng.
Thế thôi, nàng định nói ý mình nhưng nghĩ lại thấy khách sáo nên thôi. Vì thầy cô đây thật là nhân hậu, rất quý mến.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 26 Mar 2017

Ý Tâm và Phượng Nga ngồi ở bàn khách bên cửa sổ dùng nước. Trong niềm hãnh diện, Phượng Nga biết mình là khách quý của gia đình này.
Một lúc sau, ở nhà dưới thầy đi lên với chiếc áo lương đen mặc ngoài. Phượng Nga đứng lên chào cung kính.
- Ngồi chơi đi em.
- Dạ.
Phượng Nga hỏi nhỏ, Ý Tâm đáp:
- Giỗ bà ngoại của mình.
Vẫn giọng khiêm tốn, Nga nói:
- Sao cô không cho em biết để mua trái cây cúng bà.
- Có gì đâu. Nga là chỗ thân tình, mình mới mời dự.
- Em cám ơn cô.
Khung cảnh sinh hoạt trong gia đình thầy cô Hiệu trưởng vẫn giữ một nếp hài hòa, bình lặng. Nơi đây, chỉ một lần đầu ghé thăm, nàng ghi nhớ hết.
Không đợi lâu, hương tàn, mâm cỗ được dọn xuống.
Vì có khách nên chỉ cô gái đầu được ngồi bàn trên, còn những đứa nhỏ ngồi ở bàn ăn nhà dưới.
Phòng ăn sáng dịu, ấm cúng dưới bóng đèn néon.
Ý Tâm ngồi cạnh Phượng Nga. Cô gái lớn ngồi ngoài, tiện làm công việc phục vụ khi cần.
Bữa ăn bắt đầu.
- Lúc này Nguyên ra sao?
- Anh vẫn làm việc ở Trung đoàn, thưa thầy.
- Nguyên thật là năng động. Lúc nào cũng là người thích làm việc, và có trách nhiệm.
- Ở đơn vị, anh ít khi về nhà.
- Có thể, do tình hình chiến tranh.
Ly nước ngọt của Nga vừa vơi, cô con gái sẵn đứng dậy cầm chai rót đầy. Lúc này, Phượng Nga nghe Ý Tâm nói về miền quê Cam Lộ, và nhắc đến bà ngoại của Nguyên.
Phượng Nga hỏi:
- Bà ngoại cùng quê với thầy.
Thầy Hiệu trưởng nói:
- Cam Lộ cũng là quê của nhà thơ Chế Lan Viên.
- Nhà thơ có gần bên gia đình thầy không?
- Không, có họ hàng với bà ngoại của Nguyên.
- Chắc cũng xa, phải không thầy?
- Đâu, cũng gần lắm. Cùng một họ, anh em chú bác ruột mà.
- Vậy đó.
Ý Tâm hỏi:
- Nguyên không cho Phượng Nga biết sao?
- Anh không hề có nói với em.
Thầy Hiệu trưởng cho biết thêm:
- Bên phía mẹ của Nguyên, thuộc dòng khoa bảng và làm quan.
- Anh Nguyên và mẹ, có cho em biết.
- Nguyên có ảnh hưởng về cái gen bên phía ngoại.
Nghe người thầy nói vậy, lòng Phượng Nga thấy vui. Một ngày đó, nàng cùng chàng về thăm hai bên quê nội và ngoại ở chơi mấy ngày.
Những ngày hạnh phúc của đôi trẻ thật hồn nhiên, tận hưởng mùi thơm, của lúa chín, của đất đai, những đồng ruộng miền quê. Đấy không phải là của tuần trăng mật, mà là những kỷ niệm được mong đi tìm cho người mẹ.
Bữa ăn giỗ đậm đà không khí gia đình. Nga ăn tự nhiên, và bây giờ câu chuyện nói về chiến tranh, thành phố đang phải đương đầu từng giờ, từng phút. Từ mấy ngày nay, buổi họp bất thường đầu giờ học sáng trở thành thông lệ, có vị giáo sư đề nghị với Hiệu trưởng nên cho học sinh tạm nghĩ một thời gian đợi tình hình yên ổn, trường sẽ mở cửa lại. Nhưng, vị Hiệu trưởng vẫn chưa quyết đoán, ông còn vững tin sức mạnh của các đơn vị quân đội VNCH đang chiến đấu bảo vệ vùng hỏa tuyến. Một lý do nữa cần giải thích, nếu trường tạm đóng cửa, sẽ bất lợi vì dễ gây hoang mang trong dân chúng. Hãy nghĩ rằng còn có dân ở lại, người lính được lên tinh thần, được sự hỗ trợ để chiến đấu. Đài phát thanh Úc Đại Lợi, có một phóng viên tham dự chiến trường ở đây cho biết rằng trong tình thế cuộc chiến một mất, một còn, những người lính gốc Quảng trị, gốc học sinh Nguyễn Hoàng, đang ước mong xin được trở lại quê hương của mình cầm súng chiến đấu, quyết liệt đẩy lui quân đội Bắc Việt trở sang bên kia bờ sông Bến Hải. Bài viết này sau khi được đọc, đã gây xúc dộng cho dân chúng miền Nam, nhất tề, họ hết lòng ủng hộ mạnh mẽ.
Với trường Nguyễn Hoàng, thầy Hiệu trưởng là một thủ lĩnh. Thầy bình thường, ít nói, trầm lặng, nhưng lúc này các vị giáo sư, học sinh mới thấy được cái ý chí, bản lĩnh của một người chỉ huy, hành động can đảm và đúng lúc.
Không chỉ vị thầy gieo niềm tin cho Phượng Nga, nàng còn có Nguyên nữa. Vì thế, nàng sẽ ở lại đây, cho đến lúc nào tình huống xấu nhất.
Cô Ý Tâm hỏi:
- Lúc sau này, Nguyên còn viết báo không?
- Thỉnh thoảng anh có viết. Viết cho Tiền Tuyến, trong đó tòa soạn yêu cầu.
- Nguyên rất năng động, người thầy nói với Phượng Nga. Tính năng động của Nguyên rất phù hợp tinh thần người lính, luôn xông xáo và nhận lãnh trách nhiệm.
Phượng Nga nói:
- Những năm ở Sài Gòn, anh là phóng viên đi chiến trường nhiều nhất. Ngoài này, anh đã có một chuyến hành quân đi theo đơn vị dù lên dự mặt trận Khe Sanh.
Ý Tâm nói:
- Thời sinh viên Nguyên ở trong nhóm tranh đấu, đã từng là quản nhiệm một tờ tuần báo.
- Em phục tài anh viết rất nhanh. Không cần yên lặng riêng một mình, chỗ đông người, chỗ ồn ào, khi cần viết là anh viết được.
Xong bữa ăn, mình cô gái lớn dọn dẹp và pha trà. Ba người ngồi lại bàn, thưởng thức món tráng miệng và uống trà.
- Ở đây đi Cam Lộ xa không thầy?
- Em chưa biết nơi đó hả.
- Dạ chưa.
Ở đây, em phải ra Đông Hà. Tới ngoài đó, có xe đi Cam Lộ theo đường số 9. Cũng hơn một giờ xe vì đường dốc đèo khó đi.
- Tới nơi đó, quốc lộ 9 còn đi xa nữa không?
- Còn chứ. Hết Cam Lộ, lên tới Khe Sanh, Lao Bảo, Ba Lòng, giáp giới với Lào.
- Đường đi lên đó, toàn đất đỏ.
- Một phần thôi, không nhiều lắm.
- Cam Lộ, đó là quận hay thị trấn.
- Quận thôi. Lên tới Khe Sanh, đó mới là thị trấn.
Phượng Nga hướng cái nhìn về người thầy, nói:
- Cuốn sách của thầy, cho em được hiểu rất nhiều về người Quảng Trị.
Thực sự mà nói, người ở đây, sống với họ nhiều năm, hiểu ra được phần linh hồn trong địa lý, mới xác thực có nhận định đúng, và công bằng.
- Trong phần địa lý, em thấy, Huế và Quảng Trị sát liền trên cùng một dãi đất, chứ không cách trở bằng dãy núi hay con đèo, con sông vậy mà, khác biệt nhau trong hoàn cảnh nhiều lắm, đặc biệt về giọng nói, về tính cách con người nữa.
- Phải, đúng như em nhận xét. Có thể, từ nhận thức đó mà người Quảng Trị lúc nào cũng phấn đấu, có cả tham vọng trong đó nữa. Phải nói, không ít người Quảng trị có danh vọng trong chính trị và trong quân đội. Ở miền Bắc, ông Tổng bí thư, và ba bốn vị Tướng đều là người Quảng Trị. Ở trong Nam, làm Tướng cũng không thua kém mấy vị tên tuổi ngoài Bắc. Đến khoa cử, sinh hoạt văn học nghệ thuật, Quảng Trị cũng có nhân tài. Nói chung, từ khi chúa Nguyễn Hoàng ngoài Thanh Hóa dựng dinh đô ở Ái Tử, đất Quảng Trị vượng, phù người tài. Tuy là tỉnh nhỏ, nhưng cảnh trí rất yên bình. Trong dãi đất Quảng Trị, làng, xã, quận huyện, đến tỉnh lỵ nơi nào cũng có sông và gần rừng, gần biển. Vậy nên, trừ nông nghiệp không có nhiều nguồn lợi, vì nhiều đất cát, đất phèn, sông ít bồi đáp phù sa, chứ về rừng và biển, có nguồn lợi lớn. Đường số 9 xuất phát từ Đông Hà đi lên đến xứ Lào, không rộng như quốc lộ I huyết mạch, nhưng phần của Quảng trị trên đường này là rất giàu tài nguyên về cây rừng, thuốc lá.
- Em nhận thấy, cách sống của người Quảng Trị ảnh hưởng nhiều miền Bắc.
Thầy Hiệu trưởng nói thêm:
- Tiếng người Quảng Trị nặng, không nhẹ như tiếng Huế.
Ý Tâm:
- Tiếng Việt của mình rất thống nhất, lại có cái hay riêng biệt về âm sắc. Từ ngoài miền Bắc đến tận trong Nam, cứ mỗi tỉnh là có một giọng nói riêng, và tạo được cái hay, độc đáo trong giọng nói của địa phương mình, rất dễ phân biệt với nơi khác. Mình cũng lấy làm lạ, phía đằng trong mà chúa Nguyễn bành trướng, xưa là của người Chàm, Chân Lạp, sao mà người Việt mình đồng hóa được tiếng nói một cách hoàn hảo, rất là chính xác nữa.
Ba người nhìn nhau mỉm cười, cùng thấy vui.
Phượng Nga nêu lên câu hỏi:
- Giữa Nguyễn Huệ và Gia Long, ai là người có công thống nhất đất nước.
Một giọng vui, hài hòa:
- Hai cô giáo tranh luận cho tôi nghe di.
Ý Tâm:
- Trong cuốn Việt Nam sử lược, cụ Trần trọng Kim rất ca ngợi anh hùng Nguyễn Huệ và tinh thần cách mạng của vua Quang Trung.
- Trong một số tài liệu miền Bắc em có đọc, ngoài đó, họ ca ngợi triều đại nhà Tây Sơn, mà bỏ hết sử triều Nguyễn, cho Gia Long là người cõng rắn cắn gà nhà, là nguyên nhân nước Pháp xâm lăng và đô hộ Việt Nam.
Ý Tâm:
- Nhưng chính sử, thuộc về triều Nguyễn, không phải Tây Sơn.
Phượng Nga:
- Đó là tinh thần của các sử gia nhà Nguyễn. Đời vị Chúa thứ 9, đàng trong rối ren, Nguyễn Huệ dẹp loạn đàng trong, rồi đến đàng ngoài. Nếu không có Nguyễn Huệ, chắc gì Gia Long dẹp được Trịnh, đánh được quân Thanh và chấm dứt triều đại nhà Lê. Có một điểm em còn thấy, Ngọc Hân vì tình yêu và rất hãnh diện lấy Nguyễn Huệ, không hề có một chút ân oán gì khi Nguyễn Huệ thay ngôi báu nhà Lê.
Bên ngoài, cái vẻ sáng của trăng trải xuống mặt sân, lấp lánh từng cái bóng lá lay động.
Cũng đã khuya và trễ muộn, câu chuyện sử tạm ngừng, Phượng Nga đứng lên kiếu từ.
Những đứa nhỏ vội đến, vòng tay cúi đầu chào.
Ý Tâm ra mở cổng lúc Phượng Nga lấy xe đạp. Nàng tiễn người bạn ra đến con đường phía ngoài. Dừng lại, Ý Tâm nói:
- Tình hình khẩn trương lắm. Không thấy yên tâm, ghé qua mình. Trường hợp có di tản, hãy cùng đi.
- Em luôn có được cô bên em.
Phượng Nga lên xe đạp. Nàng đi trên con đường Quang Trung tới phố chính. Đã một quãng xa, mà nàng không hay biết Ý Tâm còn đứng đầu đường trông theo, chưa trở lại nhà.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 26 Mar 2017

IV

Trưa ngày 1 tháng 5, tình hình ở Quảng Trị rất hỗn loạn. Dân chúng tháo chạy, bỏ nhà cửa tìm đường ra Quốc lộ I di tản vào Huế.
Tướng Tư lệnh Sư đoàn 3 trong buổi họp khẩn với các đơn vị tuyên bố: Tình thế đã nguy kịch rồi, chỉ còn rút lui để bảo toàn lực lượng. Ngay sau đó, các đơn vị trưởng thảo luận kế hoạch rút quân, còn các cố vấn Mỹ âm thầm nghĩ cách điều động trực thăng đến bốc họ đi.
Tướng Sư đoàn 3 sẽ dùng đường bộ cùng các sĩ quan trong bộ tham mưu, họ sử dụng hai chiếc thiết giáp để di tản, nhưng rồi sau đó, tất cả cùng quay lại Cổ Thành chờ trực thăng.
Quốc lộ 1 bị đứt đoạn nhiều quãng, không có hy vọng khai thông được nữa. Quân Bắc Việt đã tiến đến tới bờ Bắc sông Thạch Hãn, dù cây cầu bị phá sập, nhưng bằng cách nào họ cũng tiến chiếm được thị xã. Mặt trận Quảng Trị, họ đã tổn thất rất nặng về nhân mạng, xe tăng, xe cơ giới và vũ khí. Những người lính Bắc Việt chết trong trận chiến này, hết một phần ba là tuổi thiếu niên. Có một số xạ thủ, chân xiềng vào súng đại liên để quyết tử không đầu hàng.
Quốc lộ I nằm phía ngoài, trong thị xã muốn tìm ra quốc lộ phải đi lên nhà ga, hoặc chạy con đường tắt đến ngả ba Long Hưng.
Trường Nguyễn Hoàng gồm nhân viên hành chánh, các giáo sư cũng đã lần lượt di tản trước đó một hai ngày. Chỉ trừ các học cụ và đồ dùng thí nghiệm để lại, còn hồ sơ, học bạ của học sinh đều được vị Giám học mang đi hết trên một chiếc xe riêng của trường. Một số giáo sư và vị Hiệu trưởng có gia đình tại tỉnh, vẫn phân vân chưa quyết định đi. Số người này, còn rất vững tin các đơn vị chiến đấu, phòng thủ.
Hai ngày qua, Phượng Nga về ở nhà Ý Tâm. Nàng có chiếc ba lô vải, bỏ gọn nhẹ một ít quần áo, đồ cá nhân, những thứ khác nàng đem vào Huế trong tuần trước. Nàng chỉ đến Huế, tìm Nguyên và gởi đồ đạc ở nhà mẹ chồng. Dự tính của trường là sẽ dẫn dắt đoàn học sinh khi di tản, nhưng tình hình cấp bách quá, không tổ chức và xin phương tiện xe được. Riêng phần mình, có mối tình cảm sâu đậm với gia đình thầy Hiệu trưởng nên nàng ở lại, chờ cùng một chuyến đi.
Buổi sáng nay, vì các đơn vị trong tỉnh có lệnh triệt thoái nên gia đình thầy Hiệu trưởng quyết định rời Quảng Trị.
Đêm qua, thành phố vang rền tiếng súng đạn giao tranh. Trong nhà, mỗi người một tay thu vén đồ đạc cần mang theo. Phượng Nga phụ giúp Ý Tâm chuẩn bị thực phẩm, gạo, lương khô cho cả nhà. Thằng Bin thích xoắn xuýt bên nàng. Hai ngày nàng ở với gia đình nó, nó vui, hãnh diện, như ước mong được gặp mấy đứa bạn cùng lớp để mà khoe về cô giáo mình thương kính.
Từ mờ sáng, thành phố rung chuyển vì đạn pháo 130. Tin tình báo cho hay, quân Bắc sẽ tấn công biển người và sẽ bắn 10,000 trái đạn pháo và hỏa tiễn vào thị xã.
Tình hình đã quá nguy kịch. Người dân thức trắng đêm, mệt mỏi, vừa lo sợ. Ngày nào tiếng súng, bom đạn cũng không dứt và không chỉ gây tổn thất bên quân lính của các đơn vị phòng thủ, mà trong dân chúng cũng rất nhiều người chết, bị thương nặng. Bệnh viện chật ních. Bác sĩ, y tá, cũng thức trắng nhiều đêm để phục vụ bệnh nhân. Nhưng thuốc men thiếu, giường bệnh cũng thiếu. Trong bệnh viện, còn có một số bác sĩ người Mỹ và các nước Đồng Minh, họ rất nhiệt tình.
Ngày hôm nay, thành phố sẽ bỏ ngỏ. Các đơn vị theo kế hoạch rút lui, còn dân chúng, tự túc phương tiện, và sẽ cùng theo binh lính để được che chở. Trên các ngả đường, dân chúng kéo nhau đi. Vì chỉ có hai ngả ra quốc lộ nên bị nghẽn. Có một số gia đình dùng ghe ngược dòng sông lên bến cầu, xuống ở đó và nhập theo dòng người đi trên quốc lộ. Những người có xe Honda, xe gắn máy, đến ngay xe đạp đã chở những cái thùng giấy chứa đồ đạc đằng sau và cố sức phóng nhanh. Ai cũng lo sợ bị kẹt lại trong thị xã. Thế nào, thị xã cũng bị chiếm. Phía bờ Bắc sông Thạch Hãn, quân Bắc đang tiến tới gần, tất cả các căn cứ, đồn bót, đều đã lọt vào tay địch quân. Từ cuối tháng ba cuộc chiến khởi sự, đến nay, một tháng trời chiến đấu, bên phía các đơn vị VNCH tổn thất khá nặng về vũ khí, quân lính, xe tăng, trọng pháo, quân xa, nhưng phía địch tổn thất gấp đến năm lần. Số quân lính Bắc Việt bị bắt làm tù binh hàng trăm, bị chết trận đến hàng ngàn, có một trung đoàn bị xóa tên do những đợt tấn công của hai đơn vị TQLC, BĐQ, và những trận không tập ác liệt của Không quân VNCH. Những ngày thời tiết xấu, phi cơ không lên vùng hành quân được, quân bạn sử dụng pháo binh và gọi hải pháo từ ngoài biển bắn vào nơi địch tập trung quân. Với sự chiến đấu quả cảm, những đơn vị tinh nhuệ phòng thủ và giao chiến ở mặt trận Đông Hà đã ngăn chận sức tiến quân của địch và gây tổn thất rất lớn. Với sự tổn thất, ngày càng cao, khi cuộc chiến này kết thúc chắc chắn Hà Nội sẽ không còn quân lính để tiếp tục gây hấn chiến tranh.
Sau bữa ăn sáng no đầy bụng, cả nhà chất hành lý lên chiếc xe đò hiệu Renault, tài xế là người cùng quê, vừa có bà con với thầy Hiệu trưởng.
Xe ngược đường Quang Trung, vào trung tâm phố chính, rồi thẳng đường Trần Hưng Đạo đi lên phía nhà ga. Khi ngang qua bệnh viện, mọi người đều thấy ở đây cũng đang chuẩn bị di tản.
Tới ngả tư, gặp Quốc lộ I xe rẽ trái, hướng về Nam, và bắt đầu chạy nhanh. Trên đường, rất đông dân chúng gánh gồng đi bộ. Trên phần đất Quảng Trị, phía Nam tới Mỹ Chánh là hết. Tại đây, có con sông và cây cầu. Khi vượt qua được cây cầu ở đó, sẽ tìm đến Huế an toàn. Tiếng súng đạn nổ vang khắp nơi. Trên bầu trời Quảng trị không thấy có một cụm mây trắng nào xuất hiện. Khói đạn mờ mịt, cứ cách quãng năm phút là nghe những tiếng đạn pháo kích rung chuyển.
Tới ngã ba Long Hưng, người và các đoàn xe bị ùn, tắc nghẽn, lăn bánh rất chậm. Xe gắn máy cũng bị nghẽn đường, chen lấn nhau. Những người đi bộ phía sau, lần hồi, họ lên tới và bắt gặp đoàn xe đang chạy chậm.
Phải ra khỏi giao lộ ở Long Hưng, xe mới bắt đầu có đường chạy với tốc độ nhanh hơn chút ít.
Sau ba giờ đường, xe mới tới Hải Lăng. Và từ nơi này, đứng bên thành xe nhìn về phía trước, một đoàn xe dài đến cả ba cây số. Phía đầu là Bến Đá, Trường Sanh. Không một chiếc nào lăn bánh nổi.
Buổi chiều đã tới, trễ muộn, u ám. Từ nơi này, đoàn người di tản hết sức lo sợ. Xe lăn bánh một vòng, người đi tiến lên được một bước, là biết mình còn hy vọng sống.
Một giờ sau đó, trên quãng đường này quân lính của các đơn vị đang rút lui cố phá vòng vây giao chiến với địch. Trận chiến vào lúc này, chết sống gì là để ông trời quyết định, nên không có ai sợ hãi, người ta đứng trên xe, trên con lộ nhìn cuộc giao tranh. Tiếng vỗ tay của dân chúng vang lên khi thấy có phi cơ chiến đấu xuất hiện truy kích những điểm trọng pháo, những chốt đóng quân của địch. Lửa bốc cao từ những chiếc xe tăng bị oanh kích và bị súng M72 của quân lính miền Nam bắn hạ. Thế rồi, một đoạn đường được giải tỏa và người di tản đi theo đoàn xe quân đội.
Phi cơ trở về căn cứ sau một đợt không tập. Người ta đang mong sẽ có phi vụ khác đến thay thế. Nắng đã lùi rất xa về phía núi, và biển. Phượng Nga nhìn về phía biển, nàng biết nơi đó là chốn làng quê của Nguyên. Trên quãng này, nàng có biết tên một vài ngôi làng.
Trời xuống thấp, buổi chiều gần như đã hết.
Tới Bến Đá, nhìn hai bên là những đồi cát và cánh đồng trống. Tin đồn xôn xao, cầu Mỹ Chánh bị giật sập và địch quân đã đóng chốt phục kích. Cảnh tượng di tản vất vả, truân chuyên không diễn tả được hết. Những ngày qua, người dân thiếu ngủ, giờ đây trông vẻ mặt hốc hác, tuyệt vọng. Nhưng, biết mình còn sống giờ nào, lết tới được nơi nào là còn chút hy vọng về bản thân và gia đình.
Dừng lại, nơi đây cả đất, bầu trời và người, như là một nghĩa trang. Thình lình có tiếng quân địch hò hét, tứ phía súng bắn xối xả vào đoàn người và đoàn xe. Mọi người chạy tán loạn, tìm chỗ ẩn núp. Những tiếng rên la, khóc lóc. Trên quốc lộ, xe tăng, xe cơ giới, xe hàng bị trúng đạn bốc cháy, và người chết ngổn ngang. Tiếng dạn pháo 130 ly nổ nghe thật kinh hoàng. Có những chiếc xe hàng, xe gắn máy, quá hoảng sợ, đã cán băng trên những xác người chết mà lao đi. Rất may mắn, Phượng Nga và bên gia đình Ý Tâm không hề hấn gì. Phượng Nga không sợ hãi tiếng súng, nàng chỉ sợ bị thương, hoặc chết. Lúc này dây, trong tiếng súng đạn nổ rền trời, vẫn nghe vọng tiếng đọc kinh niệm Phật, cầu Chúa, và lời khấn nguyện xin với trời đất sự yên lành. Vậy mà, sự man rợ nhất không phải là tiếng súng đạn, mà tiếng la hét của quân thù. Ý Tâm khóc, Phượng Nga cũng khóc, những em nhỏ ngơ ngác, riêng người thầy hết sức cố gắng tự chủ. Cũng là sự may, cả nhà không có ai bị thương. Nhưng không ai cầm được nước mắt. Trên quốc lộ quá hoang tàn, đạn pháo của địch đã cày nát, xác người chết tan ra từng mảnh, cảnh tượng này là mối căm thù với trời, và cả đất đai, sông núi nữa.
Một lúc lâu, bỗng nhiên địch ngừng pháo. Lập tức, mọi người lao về phía đồi cát, và kéo nhau chạy để tìm đường sống. Những đồi cát không liền nhau, nhưng có thể ẩn nấp được. Và từ đây, người ta đi sâu vào phía các ngôi làng, với hy vọng tìm đường ra phía biển.
Trời tối, đoàn người lầm lủi kéo nhau đi. Và, cứ dọc theo những ngôi làng không mấy xa quốc lộ, họ nhìn sao, và nhắm hướng về phía Nam mà tiến. Đã bắt đầu nghe im tiếng đạn pháo, nhưng tiếng súng nhỏ vẫn còn. Lúc này, vừa trốn thoát, vừa cầu nguyện và ai cũng cố tạo lấy niềm tin cho số phận của mình.
Nỗi lo sợ khiến cho chân bước càng nhanh. Và, không thể ngờ được, đoàn người chạy giặc đã tới được một ngôi làng nằm bên này sông Nhung. Ai cũng mừng, cảm động, và thấy trên con sông hai bờ cũng gần, khoảng chừng hơn năm mươi mét. Đối Phượng Nga, với quãng sông này nàng có thể bơi qua về bốn vòng vẫn không thấy mệt.
Mọi người tạm nghĩ, bắt đầu dọn ra bữa ăn. Trong khi Ý Tâm lấy bánh mì, thì Phượng Nga và cô gái lớn cho nước uống vào mỗi túi gạo sấy, đợi chừng mười lăm phút là có cơm ăn. Bây giờ thực sự đói, nhưng lòng rất là vui. Sau khi làm cơm sấy xong, Phượng Nga cắt cam.
Nàng bỏ lên dĩa, mời vị thầy trước rồi chia đều mỗi người một múi.
- Anh nằm nghỉ đi một chút.
- Không sao đâu. Gió mát quá.
Lục vào túi xách, mằn mò mãi thầy mới tìm ra gói thuốc, hộp diêm, thong thả châm một diếu hút.
Bên kia sông đèn sáng, nhưng không còn cảnh sinh hoạt buôn bán như ngày thường. Người ta cũng bỏ đi nhiều, cảnh chiến tranh chỉ còn là tiếng súng đạn và đêm tối đang bao trùm, số người chạy tới bên bờ sông này không nhiều lắm.
Mọi người cùng đang ăn, tiếng trò chuyện nhỏ vừa đủ nghe. Nhưng ai cũng an tâm cho là ở đây an toàn, vì không thấy xác người chết trên bờ, hay trên sông. Sông này khá sâu, qua sông phải biết bơi. Bên kia bờ sông, bóng tối những hàng tre phủ xuống nhưng tầm mắt vẫn còn trông thấy được con đường dốc lờ mờ qua ánh sáng. Phượng Nga nghĩ ngợi nhiều về chiến tranh, cho mình, người khác cùng với tương lai của miền Nam. Vào năm đất chia đôi, nàng mới được sáu tuổi, nhỏ quá, ký ức về một thời ly loạn không hề có, ngoài một vài mẩu kỷ niệm đơn sơ nơi mái nhà ở, hay nhớ rõ hơn về hình ảnh của người cha, người mẹ.
- Cô ăn thêm đi.
- Cám ơn, cô đủ rồi.
Phượng Nga nhìn lại thằng Bin. Nó thật dễ thương, từ buổi đầu nàng đi với Nguyên đến thăm gia đình thầy Hiệu trưởng, nàng gặp thằng bé, rồi trở thành cô giáo dạy lớp nó, tình cảm học trò, tình cảm gia đình của vị thầy dành cho nàng, thành phố Quảng Trị nữa, tất cả xây dựng nên một ký ức vững bền, lúc này đây, nàng nhận rõ hơn hết.
Thời gian nghỉ vừa đủ cho bữa ăn và lấy lại sức chừng hơn một tiếng, mọi người cùng đứng lên. Những gói đồ buộc chặt, lúc qua sông, vừa bơi, vừa giữ.
Xuống bến, sau vài lời dặn, mấy đứa nhỏ cũng biết bơi cho đi trước. Ba người xuống liền sau đó, bước cách nhau chừng nửa mét. Nước sâu, nhưng không lạnh. Ba đứa con thầy bơi khá nhanh, đã ra tới giữa bờ. Sáu mươi mét, quãng sông này còn ngắn bơn sông An Cựu ở Huế. Bạn chỉ cần biết bơi chập chững cũng qua tới được bên kia bờ.
Tiếng nước khua nhẹ, âm vang trổi dậy trong chừng vài giây, lại lắng xuống. Lúc này đây, dòng sông chảy trong đêm mang lấy ý nghĩa của sự che chở thay thế cho đất cũng như trời.
Khi lên bờ mới thấy ướt át và lạnh. Tìm chỗ trong bụi cây thay quần áo xong, mọi người đi ngay. Phượng Nga đề nghị không nên ngược đường trở lên quốc lộ, mà cứ đi dọc theo bìa làng, hướng phía Nam mà đi. Mọi người đồng ý.
- Gắng đi nhanh nghe các con.
Người mẹ nhắc. Từ lúc rời bỏ Quảng Trị ra đi, người cha im lặng như một cái bóng, chúng chỉ nghe tiếng của người mẹ, và tiếng của cô giáo.
Tiếng súng nổ còn nghe vọng, nhưng lúc này, do trời khiến hay sao, địch quân không còn pháo nữa. Trên bầu trời đen tối, không thấy bóng phi cơ xuất hiện. Bây giờ, tiếng động trở thành mục tiêu để cho địch quân bắn phá. Và ngay trong lúc này, phía miền Nam các đơn vị tránh giao tranh, cố bảo toàn lực lượng cho cuộc rút lui, đồng thời tạo sự an tâm cho dân chúng đang tìm đường vượt thoát.
Mỹ Chánh - Phò Trạch, hơn năm cây số. Bây giờ phía trên quốc 1 người ta thấy có người đi, và tiếng xe chạy. Nhưng mọi người ở đây vẫn theo lối đường dọc bìa làng cứ đi mải miết. Gió đêm lồng lộng thổi ràn rạt qua những cánh đồng trống. Những bóng người đi chênh vênh, chao đảo trong cơn gió. Buổi sáng, lúc rời khỏi thị xã, người ta gồng gánh các thứ, xe lam, xe tải chất không biết bao nhiêu hành lý, hàng hóa, giờ, đã mất đi hết, bỏ lại hết.
Tới một ngả ba, gặp dân làng, một người nói:
- Trên đường lộ đả yên, rẽ lên đó đi Phò Trạch cho nhanh.
Mọi người hết sức mừng. Không đến một cây số gặp quốc lộ, rồi cả nhà nhập theo dòng người chạy trốn. Những chiếc xe lam, xe hàng lâu lâu dừng lại, bốc đi cho một số người.
Đâu đó, nghe như có tiếng còi tàu vọng lên một hồi ngắn.
Tới Phò Trạch, đoàn người dừng lại. Ở đây, bắt đầu xôn xao tiếng người gọi nhau. Một quán ăn mở đèn sáng, đông chật khách ngồi.
Bên con đường xe nhà binh, xe hàng và có cả xe lam đang đậu một hàng dài. Những xe nhà binh đến đây có nhiệm vụ bốc người di tản đến trại tị nạn. Rất đông lính tráng, thân nhân tìm kiếm, và dòng người di tản tụ lại ở điểm này.
Bất ngờ, Phượng Nga nhận ra tiếng nói của Nguyên. Nàng bỏ chạy đi tìm kiếm, rồi cất lớn tiếng gọi tên của chàng.
- Ai gọi đó, Phượng Nga phải không?
- Em đây, anh đứng ở đâu?
Nguyên rời khỏi toán lính, vội vàng tìm kiếm. Sau ít phút, trong tiếng gọi tên, hai người gặp nhau.
Không hỏi han nguyên cớ, Phượng Nga dẫn Nguyên tới gặp gia đình thầy Hiệu trưởng. Với nụ cười hiền lành, thân ái, thầy bắt đầu cho Nguyên biết tình hình ngoài Quảng trị trong mấy ngày vừa qua.
Bây giờ đây, đoàn người di tản tìm lên các xe nhà binh hay xe dân sự để vào Huế. Xe nào đầy, tài xế cho chạy ngay.
Nguyên đưa cả gia đình thầy Hiệu trưởng về chiếc xe dodge của mình. Nguyên tự lái lấy, anh mời thầy Hiệu trưởng lên ghế trước, Nga, Ý Tâm, các em nhỏ và anh tài xế ngồi sau. Tấm bạt được kéo lên.
Đoàn xe đi vào Huế, nhưng sẽ trở ra lại và chờ đón người tị nạn đến sáng hôm sau.
Khu trại tị nạn được định nhiều nơi ở bên phía hữu ngạn, từ công viên trường Quốc Học xuống khu trường Kiểu Mẫu.
Riêng gia đình thầy, Nguyên sẽ đưa về nhà mình.
Trên đường đi, vị thầy nghe Nguyên nói:
- Bắc Việt quyết tung quân mở các mặt trận lớn để buộc Mỹ phải nhượng bộ trong hội nghị Ba Lê. Nhưng họ sẽ thất bại, vì Mỹ đã rút quân, nhưng vẫn còn để lại cố vấn và yểm trợ mạnh về Không lực.
Người thầy nói:
- Nguyên ạ, Quảng trị mình đã mất. Ở Huế ra sao?
- Dân chúng thường hay lo sợ, nhất là biến cố Mậu Thân còn là cơn ác mộng. Nhưng Huế sẽ không bị bỏ rơi, còn Quảng Trị, lệnh của Tổng Thống Thiệu bằng mọi giá phải chiếm lại thị xã.
- Bên quân Bắc Việt đông quá, một mặt trận này họ tấn công vào thị xã đến bốn Sư đoàn.
- Thầy biết không, mặt trận Quảng Trị kéo dài một tháng, Bắc Việt tổn thất, bị xóa tên hơn hai Trung đoàn.
- Quân mình có hy vọng tái chiếm lại được không?
- Bây giờ, TQLC lập phòng tuyến ở Mỹ Chánh chờ phản công. Từ Sài Gòn, hai lữ đoàn dù được điều động ra tái chiếm Quảng Trị. Cuộc hành quân lớn này cả hai vị Tướng Dư Quốc Đống và Ngô Quang Trưởng điều binh.
Người thầy nói:
- Có Tướng Ngô Quang Trưởng, dân chúng rất tin tưởng.
Ở phía sau, Ý Tâm và Phượng Nga trò chuyện thân thiết như hai chị em ruột. Và, Ý Tâm cảm thấy lòng mình thật ấm, tin cậy, khi nàng còn đang nắm giữ được bàn tay của Phượng Nga.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 28 Mar 2017

V

Ngày đầu tiên ở Huế, thầy H. cũng đã thấy ở đây tình hình hết sức là rối ren, lộn xộn. Các thương gia, và nhiều gia đình khá giả đã chuẩn bị di tản vào Đà Nẵng để kịp trước khi quân Bắc Việt tiến vào chiếm thành phố. Kinh nghiệm về Tết Mậu Thân là một cơn ác mộng.
Dù vậy, thầy H. vẫn ở lại Huế không đi nữa. Với Nguyên, không chỉ đối với thầy là một cựu học sinh, mà anh còn là người lính có tinh thần trách nhiệm nên thầy rất tin tưởng.
Để cho gia đình ổn định chỗ ăn ở thoải mái, Nguyên liên lạc với Tiểu khu và xin được cho gia đình có một chỗ tạm trú tương đối vừa riêng biệt, vừa dễ dàng có phương tiện. Riêng thầy, cũng được Nha Học Chánh dành một chỗ bên nhà khách vãng lai.
Phượng Nga vẫn ở Huế với Nguyên. Trung đoàn trực ứng chiến, nhưng trong ngày, Nguyên vẫn có một vài giờ rảnh về với Phượng Nga và hai người đến thăm gia đình thầy H. Những hàng quân tiếp vụ mua được Nguyên chia làm hai, một nửa cho gia đình mình, một nửa dành cho bên gia đình thầy H.
Bây giờ, phía bờ Nam sông Mỹ Chánh trở thành tuyến đầu được Lữ đoàn 369 TQLC trấn giữ. Vị Đại tá Lữ đoàn trưởng tuyên bố:
Chúng tôi sẽ tiêu diệt quân Bắc Việt ngay trên bờ sông này, không một tên địch nào qua được bờ Nam mà sống sót, không một chiến xa nào của Bắc quân qua được bờ Nam mà không bị hạ.
Tất cả Bộ tham mưu và quân lính các Tiểu đoàn đã đào công sự chiến đấu để chờ tiếp đón quân địch.
Ngày 3 tháng 5, Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu đã chỉ định Tướng Ngô Quang Trưởng ra Quân đoàn 1 thay thế Tướng Hoàng Xuân Lãm.
Ngày 4 tháng 5 sau khi nhận bàn giao, ông bay ra Huế, họp các đơn vị trưởng và cho lập một phòng tuyến tại cố đô để chống áp lực của các Sư đoàn Bắc Việt 304, 308 và 325 đang tập trung phía Bắc sông Mỹ Chánh và Sư đoàn 324 B ở phía Tây. Tướng Trưởng cũng cấp tốc thành lập Bộ chỉ huy tiền phương tại Huế và ban hành lệnh thiết quân luật.
Ngày 5 tháng 5, vị Tư Lệnh cũng cho phổ biến kế hoạch phòng thủ:
Sư đoàn 1BB trách nhiệm phía Tây, Tây Nam Huế nhằm ngăn chận quân địch từ mật khu Ba Lòng.
Sư đoàn TQLC trách nhiệm phía Bắc và Đông Bắc Huế, chận đứng mọi toan tính của địch xâm nhập từ phương Bắc.
Các Tư lệnh Sư đoàn toàn quyền điều động và phối hợp Địa phương quân, Nghĩa quân và chủ lực quân vào kế hoạch tác chiến của quân đoàn.
Sự hiện diện của Tướng Ngô Quang Trưởng đã làm người dân Huế yên tâm, và ngăn giữ được cuộc di tản Huế vào Đà Nẵng. Vị Tướng này khuyên đồng bào yên tâm ở lại, đừng tạo sự rối ren cho địch lợi dụng và làm giao động tinh thần các binh sĩ đang chiến đấu.
Gia đình thầy H. vẫn ước mong trở lại Quảng Trị, về nhà cũ dù cho phải tận mắt nhìn thấy cảnh tượng hoang tàn, đổ nát. Vốn bản tính trầm lặng, lúc này thầy càng thêm ưu tư, trên mái tóc có một vài sợi bạc. Phượng Nga luôn an ủi Ý Tâm. Với mấy em nhỏ, nàng dắt đi chơi phố, ăn chè, ăn kem, và cho tiền mua vé xem ciné. Thằng Bin nó quý mến nàng như người mẹ. Rồi một hôm, Phượng Nga rủ Ý Tâm vào Đà Nẵng ghé nhà nàng chơi ít ngày. Cũng là một gợi ý hay, Ý Tâm đi với Phượng Nga.
Hai người rời Huế sáng sớm, đi loại xe nhỏ, nhưng bị kẹt đường nên tới Đà Nẵng trễ hơn một giờ.
Mới biết Đà Nẵng lần đầu, Ý Tâm thật bỡ ngỡ. Thành phố Đà Nẵng rộng lớn, nhộn nhịp, và ở đây cũng có một trại tiếp cư thiết lập ở khu bãi biển Thanh Bình. Từ bến xe, Phượng Nga đưa Ý Tâm về nhà, và trên dường đi, nàng phác thảo trong đầu một chương trình vui cho hai người.
Nhà Phượng Nga rộng, có rất nhiều phòng, đầy đủ tiện nghi. Phương Nga để một phòng riêng cho Ý Tâm được tự do, thoải mái.
Sau bữa ăn, Ý Tâm đi nghỉ mệt. Buổi chiều thức dậy trước khi dạo chơi thăm phố phường, Phượng Nga đưa Ý Tâm vào thăm Mỵ Châu.
Sinh hoạt Mỵ Châu thường ngày vẫn là đọc sách, nghe nhạc, đến tối, xem truyền hình.
Ý Tâm thật ngỡ ngàng, vừa thương hại khi gặp Mỵ Châu. Nhưng nàng không ngớt khen ngợi vẻ đẹp thiên thần của cô gái. Sau một lời của Phượng Nga, Mỵ Châu cúi đầu chào và hỏi thăm về gia đình Ý Tâm. Lòng se thắt, buồn thương, vừa cảm động Ý Tâm lấy nụ cười để gởi cho Mỵ Châu sự yêu thương, đau xót của nàng. Nàng bước lại gần, nắm bàn tay Mỵ Châu, truyền cho cô em gái một sự tin cậy, một điểm tựa để giữ lòng can đảm.
Ngồi chuyện trò khá lâu, Ý Tâm lắng nghe, hết sức đằm thắm với tiếng nói, với câu chuyện của con búp bê, vẻ đẹp thiên thần của Mỵ Châu làm tỏa ra một thứ ánh sáng mùa đông đầy hạnh phúc trên gương mặt nàng.
Câu chuyện kết thúc một cách lặng lẽ.
- Em ở nhà, chị đưa cô Ý Tâm ra phố một chút.
- Cô sẽ tìm mua cho Mỵ Châu một cuốn truyện hay.
- Cám ơn cô.
Nhà Phượng Nga ở ngay bên hai con đường, một trên phố chính buôn bán, một dài theo các dãy nhà ở.
Một chiếc xích lô xuất hiện, Phượng Nga đón xe, hai người cùng lên.
- Hai cô đi đâu?
- Anh cho ra phố Độc Lập.
- Tới ngã tư, phải không cô?
- Vâng, anh xuống đó, bên nhà sách Lam Sơn.
Chiếc xích lô chạy thong thả vì từ nơi đón khách đến điểm đó rất gần. Ngồi trên xe, bên Phượng Nga như là người em gái quý mến, Ý Tâm cảm thấy một mối tình cảm đậm đà, dễ chịu lạ thường. Rất tự nhiên hai người vui chuyện, có lúc vui quá cười lớn. Anh xích lô cũng ngưỡng mộ hai người đẹp, thay vì đi thẳng đường anh cho xe chạy vòng qua vài con phố chính sau đó mới thực sự ngừng ở ngã tư, gần bên hiệu sách.
Trời chiều mát dịu. Đà Nẵng, thành phố không có dấu hiệu chiến tranh, mọi sinh hoạt hàng ngày luôn náo nhiệt, nhộn nhịp, trên các phố, nơi nào cũng đông đúc, ồn vui.
Xuống xe, hai người tản bộ, trò chuyện rất tự nhiên.
- Hồi đó, Nga học trường Pháp hay Việt?
- Em học trường Pháp hết năm Tiểu học, rồi chuyển qua trường Việt.
- Sao mà không học trường Pháp luôn?
Ngần ngừ một chút, Nga mới nói cho Ý Tâm biết về Mỵ Châu. Im lặng, Ý Tâm cảm thấy mình buồn, thương hại cho một cô em còn bé nhỏ không có trọn niềm vui với tuổi thơ, với bạn bè và trường học.
Một giọng phấn khích, Nga nói:
- Nhưng Mỵ Châu cũng tự học, đọc nhiều sách, tiếng Pháp, tiếng Anh khá lắm.
- Đó là nguồn an ủi cho Mỵ Châu.
Đến một quán kem, Nga mời Ý Tâm ghé vào. Khi kéo ghế ngồi xong, Nga nói:
- Quán này, em và anh Nguyên thường hay ngồi.
Ý Tâm mỉm cười nhìn qua Nga, nói:
- Hai người thật đẹp, quá xứng đôi.
Ý Tâm và Nga cùng dùng một thứ kem dâu với mảng cầu. Bên kia quán nước là một rạp hát, giờ này phim đang chiếu.
Ở đây có nhiều rạp hát không?
- Có bốn rạp. Nhà em cũng có một rạp ở ngay bên chợ Cồn.
- Ồ, gia đình Nga thật là hay.
- Thực ra, mình không làm chủ hẳn, chỉ có một nửa cổ phần.
- Hai bên chắc cũng là người trong gia đình.
- Người kia là ông cậu của em.
Đứa gái nhỏ mang ra hai cốc kem đầy và một dĩa bánh để trên chiếc khay. Nhìn màu kem đẹp, hồng tươi, Ý Tâm rất là thích. Nàng nói:
- Ở Đà Nẵng, thật đông vui.
Sau Sài Gòn, Đà Nẵng được coi là thành phố lớn.
Phượng Nga mời Ý Tâm dùng kem. Kem ngon, ngọt thơm còn nguyên chất vị trái cây. Nhìn qua Phượng Nga, Ý Tâm hỏi:
- Làm sao mà Nguyên quen được Phượng Nga?
Phượng Nga mỉm cười. Rồi, với niềm vui nàng kể lại một buổi tối đó gặp gỡ Nguyên ở quán cà phê tại khu Morin trong một đêm trình diễn nhạc du ca.
Ý Tâm như không bỏ sót một chi tiết nào trong câu chuyện Nga kể. Nàng hết sức vui, vì nàng mến Phượng Nga, và rất quý Nguyên trước đây cùng học một trường với nàng, trong thế hệ đó, gợi nhớ biết bao nhiêu những tháng năm nghèo khó của tuổi thơ và hoàn cảnh chiến tranh.
Anh Nguyên có một người em cũng ở trong quân đội.
- Bây giờ cậu em ở đâu?
- Ở Quảng Tín.
- Chắc cũng có gia đình rồi.
- Chưa cô. Thụy, em anh Nguyên có viết văn.
- Hay vậy đó. Hai anh em, người nào cũng có duyên văn nghệ.
Thụy viết truyện khá lắm, đăng rất nhiều báo ở Sài Gòn.
- Đã in được tập nào chưa?
- Chưa. Nhưng cách viết và bô cục truyện rất lạ. Trong những Thụy viết, truyện nào thường hay nhắc đến Quảng Trị, ký ức về tuổi thơ ở làng quê thời chiến tranh.
Ý Tâm nói:
- Theo mình nghĩ, Quảng Trị tuy là một thành phố nhỏ, nhưng trong thiên nhiên với núi sông, đồng cỏ, đều có đời sống rất linh động, về Huế, mình thấy phong cảnh đẹp thật, vừa kiêu sa, nhưng quá êm đềm, mang trong đó nữa những nỗi phiền muộn.
- Vậy là em đã gắn bó với Quảng Trị hai năm học rồi.
- Cô dâu Quảng Trị, quá đẹp.
Phượng Nga cười, một chút ánh nắng nhớ nhung.
Đến thành phố này, Ý Tâm quên đi được nỗi lo, nỗi buồn khi đã rời xa Quảng Trị.
Hai người được mời ly nước đá lạnh uống tráng miệng. Rồi, rời quán, thong thả đi bộ một quãng xong ghé vào hiệu sách Quảng Đà.
Đây là hiệu sách lớn thứ nhì của thành phố. Vào bên trong, hai người tìm kiếm sách trên các dãy kệ. Buổi chiều nay, Ý Tâm cảm thấy sao mình quen thuộc lạ lùng. Nàng có cái cảm giác nôn nao như trở về lại với tuổi thơ, tuổi thời thiếu nữ.
Khi ra khỏi hiệu sách, mỗi người xách một cái túi, trong đó là những cuốn truyện mình rất yêu thích.
Về nhà, trong bữa ăn tối Phượng Nga giới thiệu Ý Tâm với ba mẹ cô và các em trong nhà. Ai cũng trìu mến, hiếu khách.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 28 Mar 2017

Sau bữa ăn, Phượng Nga dẫn Ý Tâm lên sân thượng của tầng ba, ngồi trên ghế mây, vừa uống trà, ngắm bầu trời, phố đêm đang sinh hoạt. Không khí chiến tranh xuất hiện từ những ánh sao, và có một chiếc phi cơ đơn độc đang bay về phía núi. Nơi xa kia, nó cách thành phố ở đây là một con đèo, từ trên đỉnh đèo nhìn xuống bạn trông thấy một ngôi làng nằm ven biển.
Phượng Nga nói:
- Em không hiểu sao, đất nước vẫn luôn có chiến tranh.
- Trong lịch sử, dân tộc mình cứ phải đấu tranh, tồn tại.
- Cô nghĩ xem, hai miền Nam Bắc nếu không thuận tình với nhau, thì đừng gây hấn, mỗi miền lo cuộc sống cho dân, đem súng đạn chiến tranh ra gây sự chết chóc làm gì.
- Phía miền Bắc, họ quan niệm làm cách mạng không phải là tạo cho xã hội tốt đẹp về cuộc sống, về văn hóa, mà chủ yếu là triệt để đấu tranh giai cấp, triệt để trở về sống với tầng lớp vô sản. Người giàu, người có học đều bị họ ghét và căm thù, kết tội. Trong miền Nam giàu nghèo đều có, nhưng đã bao giờ xảy ra chuyện cải cách ruộng đất, chuyện đấu tố như miền Bắc đâu. Và, xét cho kỹ, những nhân vật lớn trong Bộ chính trị miền Bắc, những ông làm nên chức quan, chức Tướng, đi theo Cộng sản xuất phát từ lý do cá nhân, dễ thấy từ lúc khởi đầu của tuổi thiếu niên do sự thất bại trong việc học ở nhà trường. Ông Hồ là một huyền thoại, người ta tin về ông mà không có suy xét, ý thức. Phượng Nga tin được không, với trình độ của một người chỉ có bằng Tiểu học mà viết nên một tác phẩm chính trị bằng tiếng Pháp, làm chủ bút một tờ báo được xuất bản bằng tiếng Pháp. Thực sự, thiên tài về ngôn ngữ rất là hiếm hoi. Sự tự học, cũng rất ít người thành công, và với người tự học thành công được, thì khởi đầu của họ cũng đã có căn bản học vấn của những năm dưới trung học, từ đó, đọc sách, nghiên cứu, tìm hiểu mà tiến dần lên.
Phượng Nga đặt câu hỏi:
- Theo ý cô, họ dùng chiêu bài chống Mỹ cứu nước là thực tâm, hay sự cố tình, họ muốn xâm lăng để chiếm đất miền Nam.
- Phượng Nga ơi, người Cộng sản họ chỉ muốn làm nghèo đi đất nước của mình. Nhưng khi muốn giải thích và hiểu tại sao đến cơ sự này, thì trước hết, thực dân Pháp là cả một mối hận mà người Việt không thể quên được. Nước Pháp là một nước văn hóa, có những nhà khoa học phụng sự cho hòa bình, có những nhà văn được giải thưởng Nobel, vậy mà người nước này đã không nhìn thấy mối nhục của họ trong thời kỳ bị quân đội Đức đàn áp, hết sức may cho họ là được Hoa Kỳ giải cứu, nếu không thì họ cũng chịu một số phận như dân tộc chúng ta. Sau cơn ác mộng này, đáng lý, người Pháp phải thức tỉnh hiểu thế nào sự mất nước, làm dân nô lệ bị chà đạp, họ mới có mối thông cảm và nghĩ đến cách trả lại độc lập, tự do cho Việt Nam. Không, bất chấp tính vô liêm sỉ và danh dự của của một quốc gia văn hóa, họ không cho xứ mình độc lập, họ vẫn muốn làm thực dân cai trị để vét cho cạn cái túi tiền của Đông Dương. Nhưng nước Pháp cũng như người Pháp quá sai lầm, vì nơi xứ này, từ vua quan cho đến dân, quyết một lòng đấu tranh để dành cho nước nhà hai chữ độc lập. Vua Bảo Đại đã gởi de Gaulle, lúc đó là người đứng đầu nước Pháp một lá thư:
“Tôi nói chuyện với nhân dân Pháp, với đất nước tuổi thanh xuân của tôi. Tôi cũng nói chuyện với người đứng đầu và là người giải phóng nước Pháp, và tôi muốn nói chuyện với tư cách một kẻ đứng đầu quốc gia.
Ngài đã trải qua quá nhiều đau khổ trong bốn năm kinh hoàng, không thể không hiểu rằng dân tộc Việt Nam, đã có hai ngàn năm lịch sử và là một quá khứ nhiều lúc vinh quang, không muốn, không thể nào chịu đựng nổi bất cứ sự thống trị hoặc bất cứ sự cai trị của một ngoại bang nào nữa.
Chắc chắn Ngài sẽ hiểu hơn nếu như Ngài được trông thấy ở nước chúng tôi chuyện gì đang xảy ra, nếu như Ngài cảm nhận được cái ý chí độc lập ấp ủ trong con tim của mọi người dân mà không một sức mạnh trần gian nào ghìm lại nổi. Dù cứ khi Ngài tái lập được ở đây một nền cai trị của Pháp đi chăng nữa thì nó cũng chẳng được một ai tuân phục; mỗi một thôn xóm sẽ là một tổ kháng cự, mỗi một người cộng tác viên cũ của Pháp sẽ là một kẻ thù; và tất cả các viên chức và các tên thực dân của Ngài cũng sẽ tự nguyện xin được thoát ra khỏi cái không khí khó thở này.
Tôi yêu cầu Ngài hiểu rõ rằng: Cái phương sách duy nhất để gìn giữ lấy những quyền lợi và cái ảnh hưởng tinh thần của nước Pháp ở Đông Dương là thẳng thắn công nhận nền độc lập của Việt Nam và từ bỏ mọi ý đồ khôi phục chủ quyền hay bất cứ một hình thức cai trị nào.
Chúng ta có thể hiểu nhau rất dễ dàng và trở thành những người bạn nếu Ngài chịu gác bỏ ý đồ trở lại làm những người chủ của chúng tôi.
Kêu gọi tinh thần lý tưởng rất quen thuộc của dân tộc Pháp và sự khôn ngoan sáng suốt của kẻ đứng đầu, chúng tôi hy vọng rằng: Nền hòa bình và niềm vui đã bắt đầu đến với tất cả dân tộc trên thế giới cũng sẽ được bảo đảm cho tất cả mọi người dân bản xứ cũng như ngoại kiều ở Đông Dương.”

Thế nhưng ông ta rất cao ngạo, coi thường sự đòi hỏi của Bảo Đại, vẫn giữ trong đầu óc quyền thực dân cai trị bán đảo Đông Dương. Với tham vọng vét cạn tiền bạc và tài nguyên Đông Dương, nước Pháp, quân đội Pháp tự trả giá cho hành động của họ. Nước Pháp đầu hàng khi thua trận nước Đức. Nước Pháp bị quân Nhật tước quyền cai trị Đông Dương, đánh cho tan tác, tàn quân phải sang Trung Hoa ẩn náu. Và, cuối cùng mất trắng với Việt Minh khi quân lính phải đầu hàng ở mặt trận Điên Biên Phủ. Đến lúc ấy, có lẽ họ mới phản tỉnh, nhớ đến những lời trình bày xác thực của vua Bảo Đại gởi Tướng de Gaulle. Năm 1945, đó là năm lịch sử lớn lao đối với Người Việt Nam. Khi thế chiến thứ hai kết thúc, người Việt có một tầm nhìn ra thế giới rất rộng, và thể hiện lòng yêu nước rất quả cảm. Ngay vua Bảo Đại từ mình thoái vị để trở thành người dân thường trong một nước độc lập. Ký ức về những năm tháng đó, tiếc rằng, tuổi của cô còn bé nhỏ, không được là tuổi hoa niên của lịch sử để cùng sống với đất nước bằng niềm tin, và nhiệt huyết tràn đầy.
Rất còn nhiều ý tưởng lúc này Ý Tâm muốn nói ra hết, nhưng rồi, một thoáng cảm xúc về những hình ảnh cũ, kỷ niệm cũ lay động tâm trí, nàng chợt dừng lại, đôi mắt khô ráo.
Phượng Nga hỏi:
- Nhưng tại sao ông Hồ Chí Minh theo Cộng sản?
Ý Tâm trả lời:
- Trong lịch sử, thường không có chữ nếu. Nhưng người ta dùng chữ nếu như trong phần chứng minh toán học để giải thích rạch ròi các sự kiện, và để chống lại cho sự đã rồi, xảy ra sao, chấp nhận vậy. Hiểu về lịch sử như thế là hiểu với thái độ tiêu cực, trùm chăn. Nếu quân Anh không dùng lực lượng Hải quân đưa quân Pháp trở lại Việt Nam, lịch sử Việt Nam lúc bấy giờ sẽ khác, cho dù rằng trong nước có một số phần tử là Cộng Sản. Nhưng ngoài phần tử này ra, còn hầu hết là người dân yêu nước và người ta hướng vọng nhiều về Quốc dân đảng, đây là một đảng phái của người trí thức hoạt động mà thành phần chủ chốt là nhóm nhà văn Tự lực Văn Đoàn. Với nhóm này, hoạt động chính trị không phải chiếm đoạt quyền hành, tranh nhau làm lãnh tụ, mà cốt yếu mở mang dân trí, đem cho người dân một cuộc sống ấm no, yên lành. Sự mạnh yếu của các đảng phái lúc đó, chưa phải là vấn đề cốt tử, vì thực tâm, nước nhà được độc lập là nguyện vọng cao cả, tâm tình chung cho cả một dân tộc. Nhưng việc quân Anh đưa người Pháp trở lại tái chiếm, cai trị Việt Nam là nguyên nhân chính làm chia rẽ các đảng phái, và cũng là một cơ hội các phong trào Cộng Sản hoạt động ngày càng lớn mạnh. Khi người Pháp đặt chân trở lại Việt Nam, họ gặp ngay sự chống đối của người Việt, nhưng với họ, chỉ có người Cộng Sản mới là đáng sợ. Vì, trong khi người theo quốc gia muốn có sự hòa giải, không đổ máu, thì người Cộng Sản sẵn sàng gây hấn, làm cách mạng bạo động, chủ trương chiến tranh, chiến tranh. Và, người có chủ trương bạo động này, là lãnh tụ Cộng Sản Hồ Chí Minh.
Người Pháp trở lại Việt Nam gặp phải Việt Minh, không khống chế được, họ phải đánh nhau với kẻ thù. Sau 9 năm, họ đã thua, mất trắng tay những quyền lợi đáng lẽ còn có được ở xứ này. Họ thua, sau đó, đành bỏ cuộc để người Mỹ thế chân. Năm 1954, đất nước Việt Nam chia đôi, gần một triệu đồng bào miền Bắc không thể sống dưới chế độ Cộng sản rồi bỏ quê hương vào miền Nam. Từ 1945 ông Hồ Chí Minh lên nắm quyền lãnh đạo đến năm 1969 ông mất là 24 năm. Những người lãnh đạo miền Bắc có một vài điểm đặc biệt là sống rất lâu, nắm quyền hành cũng rất lâu. Và, bởi họ, nên đất nước mới chịu cảnh tang tóc, một nửa miền Bắc nghèo đói, mỗi gia đình ngoài đó, nhà nào cũng treo ảnh Hồ Chí Minh cũng có chữ ký của ông trên mỗi tấm văn bằng liệt sĩ.
Phượng Nga mỉm cười, Ý Tâm cũng vui cười theo. Rồi trở lại một cách nghiêm túc, nàng nêu vấn đề thảo luận.
- Ở miền Nam, dù sao cũng có tự do và cuộc sống cũng dễ chịu. Vậy mà, không hiểu sao, một số đông sinh viên, trí thức, họ khuynh tả ý nghiêng về phía miền Bắc.
- Những người đó họ rất ảo tưởng. Với vốn học chưa chín chắn đã tự coi mình là trí thức, họ mê thuyết hiện sinh, mê chủ nghĩa Marx, họ cũng như đám phóng viên ngoại quốc mê những xác chết của người lính ngã gục trong một cuộc chiến, mê huyền thoại những phi công núp trong mây chờ máy bay địch đến để bắn hạ, mê những cô gái giao liên, du kích, kẻ vượt trường Sơn, người dùng súng trường bắn rớt những chiếc B52 khổng lồ, và rất mê cái những đoàn quân bộ đội đi chân đất, đi dép râu, mà xẻ dọc được cả một dãy Trường Sơn. Họ nói, những đoàn quân của Hồ chí Minh vào miền Nam để giải phóng, đánh Mỹ cứu nước, nhưng họ đã không nói gì, hay thấy gì thảm cảnh đau thương của thành phố Huế, dân Huế trong năm Tết Mậu Thân. Tại sao đám phóng viên mê thích những tấn bi kịch, cả thực và ngụy tạo, vì rằng, chỉ khi nào được nhìn thấy bi kịch họ mới có nguồn cảm hứng để viết hay trong những bài tường thuật hay phóng sự về chiến tranh, và còn cơ hội tạo ra được những tác phẩm về máu lửa trong văn chương. Người trí thức rất dễ bị sách vở xúi giục như ma quỷ, rất dễ nghĩ rằng ý thức hệ, lý thuyết và tư tưởng, tất cả đó thuộc về chân lý. Thực sự, người trí thức rất ít có ai chạm mặt với thực tế, hiểu rõ những con người bình thường trong hoàn cảnh xã hội. Trở về lại miền Nam, theo ý cô, hãy nên đưa hết tất cả đám trí thức khuynh tả và nổi loạn ra miền Bắc để họ sống với người Cộng sản, ngay trong buổi đầu họ sẽ tận mắt nhìn thấy thảm kịch triết gia Trần Đức Thảo, Luật sư Nguyễn Mạnh Tường, và những nhà văn, nhà thơ cùng lớp sinh viên ở Hà Nội trong phong trào Nhân vân Giai phẩm. Ở miền Nam, tính cách dân chủ phần nào đã dung túng những đám trí thức kia hoạt động theo cánh tả. Thử sống ở miền Bắc, một ai trong đó dám làm không?
- Em có biết, nhưng không tường tận.
Ý Tâm lược kể vụ án Nhân văn giai phẩm theo tài liệu và sách báo miền Nam đã in. Trong tuyển tập này, có câu chuyện một nữ sinh viên bị cưỡng ép tình yêu, đã phải lẩn trốn, rồi đành bỏ trường tìm về chốn làng quê để sinh sống.
- Chắc là truyện ngắn hay, em phải tìm đọc.
- Cô có ở nhà, sẽ tìm lại cho Phượng Nga.
Hai người cùng chợt cảm thấy lạnh. Đêm đã xuống thấp, phố vắng vẻ. Từ nãy giờ trên bầu trời, vẫn chỉ có một chiếc phi cơ, và người phi công đơn độc.
Hôm sau, trong căn phòng yên vắng với buổi chiều, Ý Tâm ngồi nghe Phượng Nga chơi đàn dương cầm.
Rồi thời gian đi chơi đã hết Phượng Nga và Ý Tâm cùng trở ra Huế. Về lại thành phố này, chiến tranh được nói tới từng giờ ở một nơi cách xa khoảng chừng hơn sáu mươi cây số.
Hai ngày qua, phi trường Phú Bài ồn ào, rộn rịp, với những chuyến bay C130 đưa quân dù từ Sài Gòn ra Huế. Đây là các Tiểu đoàn vừa dự xong trận đánh An Lộc. Khi xe từ Phú Bài về thành phố, quân lính trên xe được nhìn thấy dân chúng hai bên đường vẫy tay chào, mong đợi. Khi ở một nơi xe dừng, lập tức, dân chúng mang nước, quà bánh ra mời chiến sĩ. Những người lính VNCH có mặt ở đâu, là họ đặt cho dân chúng nơi đó một niềm tin, không sợ hãi.
Huế đã hiện diện trên các trang nhất những nhật báo lớn ở Sài Gòn. Huế, cả thành phố nô nức, rộn rịp, như thể bao nhiêu đoàn quân thiện chiến đang tập trung tại nơi này để chờ một cuộc hành quân tái chiếm lại tỉnh Quảng Trị.
Đoàn xe chở quân lính nhảy dù trước khi trở về nơi trú quân đã chạy một vòng quanh thành phố để chào dân chúng. Hai bên đường, những cánh tay vẫy, những mũ nón đưa lên cao, biểu hiệu tình quân dân cá nước thật rạng ngời, đẹp đẽ.
Tối chủ nhật, sinh viên Huế trình diễn một đêm văn nghệ ở khu Đại học Morin. Phượng Nga và Ý Tâm đến dự. Không khí chiến tranh khơi dậy lòng yêu nước của tuổi trẻ.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 28 Mar 2017

Sau phần hát nhạc du ca, một sinh viên lên diễn ngâm bài thơ của thi sĩ Thanh Tâm Tuyền.
Hãy cho anh khóc bằng mắt em
Những cuộc tình duyên Budapest
Ánh một trái tim em một trái tim
Chúng kéo đầy đường chiến xa đại bác
Hãy cho anh giận bằng ngực em
Như chúng bắn lửa thép vào
Môi son họng súng
Mỗi ngã tư mặt anh là hàng rào
Hãy cho anh la bằng cổ em
Trời mai bay rực rỡ
Chúng nó say giết người như gạch ngói
Như lòng chúng ta thèm khát tương lai
Hãy cho anh run bằng má em
Khi chúng đóng mọi đường biên giới
Lùa những ngón tay vào nhau
Thân thể anh chờ đợi
Hãy cho anh ngủ bằng trán em
Đau dấu đạn
Đêm không bao giờ không bao giờ đêm
Chúng tấn công hoài những buổi sáng
Hãy cho anh chết bằng da em
Trong dây xích chiến xa tội nghiệp
Anh sẽ sống bằng hơi thở em
Hỡi những người kế tiếp
Hãy cho anh khóc bằng mắt em
Những cuộc tình duyên Budapest

Ngày 28 tháng 6, cuộc hành quân Lam Sơn 72 khởi động, lực lượng quân miền Nam gồm Sư đoàn nhảy dù, Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến, Liên đoàn 1 Biệt động quân và Thiết đoàn 7 Kỵ Binh.
Ngày N-2 và N-1, một trận không tập toàn diện bằng B52, cùng hải pháo, phi pháo và pháo binh diện địa vào các vị trí tập trung, các kho cơ giới, và các điểm đặt trọng pháo của địch quân.
Trong hai ngày này, một kế hoạch hành quân nghi binh với một lực lượng dù nhảy xuống Cam Lộ, một lực lượng TQLC đổ bộ vào Cửa Việt.
Ngày N. trận chiến mở màn. Hai đơn vị Tổng trừ bị tiến song song theo thế gọng kềm về phía Bắc, từ bờ biển đến tận đỉnh núi Trường Sơn.
Ba giờ sáng, một cánh quân dù dùng cầu phao và xuồng máy M2 vượt qua sông Mỹ Chánh tấn công các phòng tuyến của địch. Tiểu đoàn 2 nhảy dù đánh thẳng vào Bộ chỉ huy Trung đoàn 203 chiến xa cửa Bắc Việt, tịch thu 3 khẩu phòng không 37 ly, nhiều súng cối 61, 82 ly cùng đạn dược, lấy được hai chiến xa đang nổ máy. Bên cánh của Tiểu đoàn 1 nhảy dù đã giao chiến xáp lá cà với địch, tiêu diệt hết đám xụ thủ, tịch thu 14 khẩu đại bác phồng không 12 ly 7 và 2 khẩu 57 ly, cùng bắt sống nhiều tù binh.
Sau cuộc vượt sông triệt hạ phòng tuyến đầu tiên của địch, các đơn vị dù khai triển hành quân toàn các mặt trận.
Ngày 5 tháng 7, Tiểu đoàn 5 dù di chuyển đến khu nhà thờ La Vang rồi tiến về hướng Tây làng Như Lệ. Trước khi mở cuộc tấn công, pháo đài bay B52 trải thảm dọc theo hai bờ sông Thạch Hãn. Sau trận dội bom, lực lượng dù lục soát, đếm không xuể xác quân BV chết vì oanh kích, đơn vị này thu được 2 khẩu súng phòng không 37 ly và rất nhiều vũ khí cá nhân.
Ngày 7 tháng 7 đánh trận Hải Lăng. Đoàn quân dù rất thiện chiến, thần tốc, vừa xung phong, vừa bứng chốt địch. Những trận giao tranh vô cùng ác liệt, dưới màn mưa đạn và pháo của địch bắn xối xả nhưng quân dù vẫn tiến càn quét qua từng mục tiêu, không chống cự nổi địch phải rút lui để lại rất nhiều xác chết, vũ khí và trang thiết bị cá nhân. Bốn giờ chiều trong ngày, quận Hải Lăng được giải tỏa, quân dù hoàn toàn làm chủ tình thế.
Từ ngày N. khởi sự cuộc phản công, tinh thần quân sĩ và dân miền Nam lên rất cao. Tại mặt trận Quảng Trị đang sổi động, tin tức trên các đài phát thanh Sài Gòn, địa phương được loan báo từng phút, từng giờ. Không chỉ có riêng các lực lượng chủ yếu đang hành quân, trong lúc này, còn có sự hiện diện của đoàn phóng viên báo chí trong và ngoài nước. Những đoạn phim về cuộc chiến, những bài phóng sự, được tường thuật và gởi đi ngay trong ngày.
Ngày 9 tháng 7 bàn giao khu vực cho TD911, TĐ5 di chuyển về hướng Đông băng qua QL1, dừng quân ở thôn An Thái. Tại đây, BCH/TĐ lập sa bàn chuẩn bị kế hoạch điều quân tái chiếm Cổ Thành.
Bên phía quân Bắc Việt, lực lượng đang cố thủ trong Cổ Thành Quảng Trị gồm có: Trung đoàn 48/SĐ320B, Trung đoàn 95/SĐ325, 2 Tiểu đoàn bộ đội địa phương, Tiểu đoàn 8/TrĐ 64. Chi viện trực tiếp là quân số còn lại của hai Sư đoàn 325 và 312.
Ngày 11 tháng 7 Tiểu đoàn 1 TQLC được trực thăng vận đổ xuống hương lộ 560 cách thị xã Quảng Trị 2 km về hướng Đông Bắc để ngăn đường tiếp vận của địch.
Ngày 13 tháng 7, Tiểu đoàn này giao tranh với đơn vị Sư đoàn CSBV có xe tăng yểm trợ, bắn hạ hàng chục chiến xa, tịch thu được nhiều vũ khí cá nhân, cộng đồng.
Vào đêm 14 tháng 7 đơn vị TĐ5ND tiếp cận Cổ Thành. Cổ Thành vẫn còn nguyên vẹn hàng rào kẽm gai và hào nước chung quanh. Quân lính Nhảy dù ngụy trang hoa lá trên người làm quân Bắc Việt không phân biệt bạn hay địch.
Ngày 17 tháng 7, Sư đoàn dù khai triển các cánh quân như sau: Tiểu đoàn 7, kiểm soát vòng đai phía Tây thị xã, Tiểu đoàn 11 truy kích địch quanh khu vực Thạch Hãn đến ngã ba Long Hưng. Tiểu đoàn 9 làm lực lượng trừ bị, Tiểu đoàn 6 án ngữ phía Đông Nam của thị xã.
Phía quân Bắc Việt sức kháng cự còn mạnh, nhất là đại pháo 130 ly từ Trường Sơn bắn xuống, cùng hỏa lực bên kia bờ Bắc sông Thạch Hãn bắn qua rất dữ dội. Trên mặt thành, xạ thủ Cộng quân xiềng chân trong các ổ súng quyết tử.
Sau các đợt giao tranh, các cánh quân dù áp sát mục tiêu và bắt đầu lệnh tấn công thành Đinh Công Tráng. Trung tá Nguyễn Chí Hiếu Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 5 quyết định chiếm mục tiêu bằng hai giai đoạn:
l/ Đưa một toán xâm nhập vào trong thành, nhiệm vụ thám sát các vị trí đóng quân của địch.
2/ Cả Tiểu đoàn đồng loạt tấn câng vào Cổ Thành, và trong hai ngày, ít nhất phải chiếm lại dược nửa chu vi bờ thành.
Để thực hiện kế hoạch 1, Trung tá Hiếu thành lập toán cảm tử quân, chọn lính gốc người Quảng Trị. Có nhiều chiến sĩ xung phong, nhưng chọn sáu người thuộc Đại đội 51. Trưởng toán Hạ sĩ Trần Văn Sáu, Binh I Hồ Khang nhiệm vụ cắm cờ, Binh I Hậu mang máy PRC 25.
Vì xét thấy tường Cổ Thành xây quá cao, Trung tướng Dư Quốc Đống Tư lệnh Sư đoàn dù ra lịnh dùng đại bác gắn trên chiến xa M46A5 bắn phá hủy một góc phía Đông Bắc làm cửa ngỏ cho đơn vị dù vào xâm nhập bên trong, nhưng bờ tường đứng sững. Sau cùng, dùng bốn quả bom tia laser mới đánh sập.
Chiều ngày 18 tháng 7, Trung tá Nguyễn Chí Hiếu cho tập họp toán cảm tử để từ giã những chiến hữu thân thương quyết ra đi theo truyền thống Nhảy Dù Cố Gắng. Vị Trung tá cũng ban quyết định thăng hai cấp cho toán lính cảm tử.
Giờ G hành động. Toán cảm tử 6 người vượt tuyến xuất phát lao qua bóng đêm đột kích vào thành. Trung tá Hiếu và Bộ chỉ huy nín thở nhìn theo toán cảm tử đi vào bóng đêm, chờ đợi. Vào khoảng quá nửa đêm, họ bò lên được mặt thành. Binh sĩ Hậu thì thầm báo cáo đã lội qua hào sâu. Năm phút sau, đột nhiên cả Tiểu đoàn nhìn thấy lá cờ VNCH vụt nhô lên, tung bay trong nền trời mờ tối. Đó là lá cờ mà Hạ sĩ I Hồ Khang đã mang theo lúc xuất phát. Từ xa, các chiến sĩ dù mừng vui la lên, lá cờ dựng được rồi.
Tiếng Hạ sĩ I Hồ Khang hô lớn:
Nhảy Dù Cố Gắng, Nhảy Dù Chiến thắng. Việt Nam Cộng Hòa muôn năm.
Tiếng hô vang lẫm liệt của người chiến sĩ dù, của một người lính bình thường sinh nơi quê quán Quảng Trị. Quân Bắc Việt tử thủ bên trong Cổ Thành tập trung hỏa lực bắn như mưa, Hạ sĩ I Hồ Khang cùng ba đồng đội nữa, ngũ gục trên bờ thành. Toán thám sát sáu người, đã mất đi bốn, hai ngày sau Trung sĩ Sáu và Hạ sĩ I Tâm, tìm lại được chiến tuyến và đơn vị của mình.
Tới ngày 25 tháng 7, Tiểu đoàn 5 xung phong, tiến chiếm Cổ Thành. Cùng với cánh quân nỗ lực chính, có tăng cường Đại đội 1/11 của Trung úy Đinh Viết Trinh đánh trợ lực từ hướng Tây Bắc vượt qua cánh đồng trống vào khu nghĩa địa làng Trí Bưu, chiếm đường Duy Tân để bắt tay với Đại đội 52 của Trung úy Hồ Tường. Và, phía cạnh sườn bắc Cổ Thành có Đại đội 2 Trinh sát của Đại úy Út Bạch Lan làm lực lượng nghi binh.
Đúng ba giờ sáng, Đại úy Trương Đăng Sỹ tung Đại đội 51 đột kích lập đầu cầu trên mặt Cổ Thành, sau đó là Đại đội 52 do Trung úy Hồ Tường chỉ huy, nỗ lực trợ chiến, và một Trung đội của Đại đội này đã cắm được lá cờ VNCH.
Trời vừa rạng sáng, hai Đại đội tiên phong dàn đội hình trên bờ thành chờ xuất phát. Trên bầu trời, hai chiếc, A37 bay vào vùng với trinh sát cơ OV10 đã triệt hạ những khẩu đại bác trực xạ của địch. Sau hai phi vụ oanh kích, pháo binh dù trải màn khói chuẩn bị tác xạ, nhưng bất thần hai chiếc Phantom của Hoa Kỳ đã dội bom trút ngay trên đầu hai Đại đội 51 và 52 đang chuẩn bị xung kích. Tiểu đoàn 5 dù, gần như tan nát. Số chết và thương vong vượt quá 50%. Việc ném bom lần này, đã có dư luận cho rằng là một sự cố ý của cấp thẩm quyền rất cao quyết định, để ngăn chận sự tái chiếm toàn bộ tỉnh Quảng Trị của Quân lực VNCH. Sự thiệt hại cửa Tiểu đoàn 5, nỗ lực tột cùng trong cuộc tấn công tái chiếm Cổ Thành đã làm nản lòng tất cả các chiến sĩ trong binh chủng nhảy dù. Trung tướng Dư Quốc Đống quyết định cho quân dù rút lui, để Tướng Tư lệnh Quân đoàn l điều đơn vị khác thay thế.
Sự việc phi cơ Hoa Kỳ ném bom lầm rất có tác hại cho cuộc chiến. Khi quân dù rút lui sứ mệnh, Thủy Quân Lục Chiến được chỉ định thay thế. Đại tá Bùi Thế Lân Tư lệnh phó lên Chuẩn tướng nắm chức vụ Tư lệnh.
Sau 51 ngày, hai Lữ đoàn 258 bên cánh Tây Nam, 147 cánh Tây Bắc đã quần thảo với địch bằng những trận đánh vô cùng ác liệt. Hàng ngày mưa bom, đạn pháo không ngừng nghỉ, thành phố lúc nào cũng bị rung chuyển như có động đất.
Ngày 15 tháng 9 TQLC đã chiến thắng, quân sĩ sát vai nhau dựng lá cờ lớn của VNCH trên Cổ Thành.
Ngày hôm sau, 16 tháng 9 quân dân làm lễ thượng kỳ có sự hiện diện của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.
Hay tin, thành phố Quảng trị được giải tỏa, người dân Quảng Trị đang tạm trú ở các trại tị nạn, hết sức mừng vui, xúc động.
Ít ngày sau đó, ai cũng nao nức rời bỏ nơi tạm trú để trở lại quê nhà.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 28 Mar 2017

VI

Suốt mùa hè năm 72, các đơn vị tinh nhuệ của quân lực VNCH đã lần lượt đánh bật các đại đơn vị quân Bắc Việt, giải tỏa và chiếm lại được cả tỉnh Quảng Trị, Kontum, An Lộc. Mỗi trận đánh khốc liệt, quân miền Nam chịu đựng nhiều tổn thất khá lớn, về nhân mạng, vũ khí, chiến xa và phi cơ, nhưng phía Bắc Việt sự tổn thất nặng hơn, gấp đến ba lần. Mười Sư đoàn bộ binh và 12 Trung đoàn đại pháo, phòng không, thiết giáp mà Tướng Võ Nguyên Giáp đã cho vượt sông Bến Hải, vượt Trường Sơn đánh miền Nam, nhiều đơn vị bị xóa tên, số quân lính chết trên mười ngàn, và có đến 300 đại bác, súng phòng không, đại pháo 130 ly và xe tăng bị phá hủy và tịch thu. Kể từ các trận đánh Khe Sanh, Hạ Lào, Tết Mậu Thân đến mùa hè này, ở miền Bắc, mỗi gia đình có con em đi B chiến đấu, ít nhất cũng được lãnh từ hai đến ba bằng liệt sĩ. Và, trong những ống tre, trong mỗi chiếc ba lô của người lính miền Bắc còn biết bao nhiêu lá thư đã dính máu chưa được gởi về cho bạn bè, gia đình và người yêu.
Ngọn cờ VNCH được những người lính Thủy Quân Lục Chiến cắm trên kỳ đài Cổ Thành là một biểu tượng của sự chiến thắng, và có ý nghĩa rất lớn đối với nước Mỹ Đồng Minh, và cả chính phủ Cộng sản ở Hà Nội.
Trên quốc lộ I vượt qua Hải Vân, ngày nào trên các chuyến xe hàng, xe nhà binh, cũng đều có người dân Quảng Trị hồi hương. Về tới đây, thành phố đã hoang tàn, bình địa. Từ khu vực nhà ga xuống phố chính, nhà cửa đổ nát, con đường bị cày xới lên từng hố sâu. Đã biết có sự hiện diện khá đông của người dân trong vùng, thành phố vẫn trơ vơ, lạnh lùng như là một nghĩa địa. Rất khó tìm nhà, và nhớ rõ từng con đường, hay tên các dãy phố. Cứ ức đoán, hồi nhớ, hay tình cờ nhận ra được cột mốc, tìm thấy bảng số nhà, cũng là gặp may mắn. Những ngày đầu tiên trở lại đây, bạn như một kẻ mất hồn tưởng mình từ một nơi nào xa lạ đến đây, chứ không phải là người con dân đã sinh ra và lớn lên tại vùng đất này. Sự hồi sinh đối với bạn là chấp nhận chiến tranh, ở nơi đây, cũng như những nơi khác. Bạn chưa hề đến các nước Âu Châu, nhưng bạn có được xem những đoạn phim tài liệu về thế chiến thứ hai, bạn đã trông thấy những thành phố bị tàn phá thật khủng khiếp, bạn bỗng nhận ra, thành phố Quảng Trị trước mắt bạn cũng giống như thành phố Coventry bên nước Anh. Và bạn nhớ ra, trong 51 ngày long trời lỡ đất, thành phố này đã hứng chịu hàng chục ngàn quả đại pháo, hàng trăm tấn bom của máy bay B52 và nhiều loại phi cơ chiến đấu khác. Bây giờ đây, lửa cuộc chiến mới lụi tàn, đang hẳn còn nóng chưa nguội tắt nhưng bạn có được sự trở về, và biết mình được sống sót, Trên các con đường, bạn không chỉ nhìn thấy sự tàn phá nhà cửa, cây cối, mà còn rất nhiều xác chết, súng đạn, xe cộ nằm ngổn ngang.
Thực sự ra, tỉnh lỵ này được chiếm lại mới có một nửa, phía bờ Nam bên này sông Thạch Hãn. Phía bờ Bắc bên kia đến vĩ tuyến 17, vẫn còn trong sự kiểm soát của quân Bắc Việt.
Rồi ở đây, không khí trở nên nhộn nhịp vào ban ngày át đi được mùi tử khí nặng nề, u ám của chiến tranh. Người Quảng Trị trở về nhiều, ngày nào, từ Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế cũng có những đoàn xe chở thực phẩm quần áo, lều chăn màn đến cứu trợ, có các đội y tế khám bệnh, cấp thuốc men, và các toán thiện nguyện đầy nhiệt tình giúp người dân làm nhà ở, hay dựng những mái lều vải ở tạm.
Một nhà văn Nga, Boris Pastrenak nói rằng, con người ta sinh ra là để sống, chứ không phải chuẩn bị sống. Vậy nên, con người dù mất mát thế nào, cũng còn có kỷ niệm, hay quá khứ đã giữ được. Ở thành phố này ngày xưa, có dòng sông êm đềm như dòng sông Đông của nước Nga, một tác phẩm lịch sử của Mikhai Cholokhov, có những con đường rợp bóng cây, yên vắng với với những ngôi nhà mái ngói đỏ. Và, nó muốn nhắc bạn nhớ về những tháng năm tuổi trẻ, nhớ ở nơi đây những ngày cuối tuần rộn rịp cảnh sinh hoạt, vang lớn giữa các dãy phố những tiếng cười, tiếng nói, trong những quán cà phê ồn ào tiếng nhạc, bạn muốn tìm hạnh phúc cho mình bằng một thứ không khí hiện sinh của ly cà phê, khói thuốc và chiến tranh. Và, cho tới một ngày, như hôm nay đã cho bạn nhận ra rằng, hơn bất cứ một nơi nào khác ở thành thị miền Nam, nơi đây bạn tìm kiếm thấy dấu ấn một bài thơ của thi sĩ Prévert, và cô gái Barbara thuở ấy, trong những ngày mưa.
Barbara hỡi, em hãy nhớ
Cơn mưa dầm trên thành phố Brest ngày xưa
Em bước đi sũng ướt
dưới mưa
Cười tươi tắn hân hoan rạng rỡ
Barbara hỡi, em hãy nhớ
Hôm thành phố Brest mưa triền miên
Ta gặp em ngoài phố đường Xiêm
Em nở nụ cười rạng rỡ
Và ta cũng rạng rỡ nụ cười
Barbara hỡi, em hãy nhớ
Em với ta chưa từng gặp gỡ
Em với ta chẳng hề quen nhau
Em hãy nhớ
Ngày xưa ấy dẫu sao
Em hãy nhớ đừng quên

Có chàng trai trú trước cổng nhà
Réo gọi tên em
Barbara
Em chạy đến dưới làn mưa xối xả
Mình đẫm ướt vui tươi hớn hở
Ngã vào tay chàng trìu mến thương yêu
Chuyện này, Barbara hỡi, em hãy nhớ
Và đừng phiền lòng khi ta dịu dàng
Xưng gọi anh - em
Với người ta yêu, ta luôn nói
Tiếng ngọt mềm
Dầu chỉ mới một lần gặp gỡ
Và ta thân thiết với mọi kẻ yêu nhau
Dẫu ta với họ đã quen biết gì đâu

Barbara hỡi, hãy nhớ
Em đừng quên
Cơn mưa ngoan hiền hạnh phúc đó
Trên khuôn mặt em hân hoan
Trên thành phố bình an
Cơn mưa trên mặt biển
Trên xưởng tàu
Trên con tàu ven đảo Ouessant
Hỡi Barbara
Cuộc chiến xuẩn ngốc biết bao
Còn em giờ đã ra sao?
Dưới trận mưa lửa thép
Dưới trận mưa máu trào
Và người từng siết chặt em trong tay
Tha thiết ngày nào
Hiện sống còn đã mất hay biền biệt âm hao
Hỡi Barbara

Brest hôm nay vẫn mưa triền miên trên phố
Như cơn mưa dầm thuở đó
Nhưng chẳng giông ngày xưa
Nay sụp đổ cả rồi
Mưa bây giờ tang thương áo não
Đâu còn là cơn mưa giông bão
Mưa sắt thép máu trào
Mà chí lù mây từ trời cao
Mây lụi tàn
Như những con chó mất dạng
Dưới làn nước trong thành phố Brest
Rồi giụi chết ở nơi xa
Xa, xa hẳn Brest
Thành phố chẳng còn lại chút dấu vết
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

PreviousNext

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 28 guests