Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 21 Mar 2017

Với nụ cười cầu thân, tôi nói:
- Cám ơn Thiếu úy đã giúp.
- Anh ở đơn vị nào thuyên chuyển đến?
Tôi lấy ra gói thuốc, mời Thiếu úy Thuyên.
- Mới ra trường, Thiếu úy.
- Mới, à.
- Vâng.
- Sao mà trình diện sớm quá vậy?
- Nghỉ phép cũng đủ rồi, Thiếu úy.
Thiếu úy Thuyên nhìn đồng hồ, xong nói:
- Anh Thụy nghỉ đi, cần gì tắm giặt cứ tự nhiên.
- Cám ơn Thiếu úy.
- Ở Câu lạc bộ có cơm nước. Anh muốn ăn ở đó hoặc ra phố, tùy anh.
- Vâng.
Rồi tôi hỏi:
- Mấy giờ, Thiếu úy về?
- Sáu giờ.
Đáp lời xong, viên Thiếu úy lấy trong túi ra xâu chìa khóa. Tôi hỏi:
- Tôi lên câu lạc bộ giờ này được không?
- Được chứ.
Khi thấy Thuyên tìm một cái chìa khóa, tôi ngăn lại:
- Tôi cũng đi ngay, Thiếu úy cứ khóa phòng lại đi.
- Vậy thì mình đi.
Cửa phòng được đóng lại. Hai người ra đường, đi bên nhau một đoạn rồi chia tay.
Tôi hướng về phía Câu lạc bộ, lúc đến gần, tôi nghe rõ tiếng nhạc và lời hát.
Vừa bước vào bên trong, tôi hết sức bất ngờ, vô cùng ngạc nhiên.
Định đứng phắt dậy, dáng người cao lớn trong bộ đồ bay của phi công. Người đàn bà vẫn ngồi ở quầy chú ý nhìn thấy tôi bối rối, bà ta mỉm cười.
Tôi cũng mất một vài giây mới nhớ được rõ hơn về người bạn. Định và tôi cùng học khóa 69B ở Nha Trang, Định đã trở thành phi công, còn tôi về Bộ Binh.
Bây giờ, bàn của mấy chàng phi công có thêm tôi nữa. Đúng lúc có sự hiện diện của tôi, họ ngưng, xếp lại bộ bài không chơi nữa.
Định gọi cho tôi một ly cà phê. Bên ngoài, trời đang mưa nhỏ hạt. Chỉ trong ít phút, người đàn bà đem cà phê ra. Cà phê đã pha sẵn, chỉ cần cho thêm một lớp sữa mỏng.
Định mỉm cười nhìn tôi. Và, đợi tôi uống nóng hớp cà phê xong rít vài hơi thuốc, hắn mới hỏi:
- Vì sao mầy bị ra bộ binh?
Tôi cười, hỏi:
- Đoán thử coi?
- Bị kỷ luật.
- Không đúng. Tao rớt Anh ngữ.
- Trời, thi Anh ngữ sao để rớt ông?
- Trật bùa.
Nhưng rồi, một cách thẳng thắn tôi kể lại rành rẻ trường hợp của mình cùng năm mươi bạn khác nữa. Bây giờ đây, ngồi quanh tôi là Định bạn cùng khóa 69B, rồi Trạc, Huỳnh, Phú, đều là phi công bay loại phi cơ quan sát. Bốn anh chàng này thuộc phi đoàn 110 ở Đà Nẵng, nhưng do nhu cầu, phi đoàn trưởng đã cử một biệt đội vào Quảng Ngãi tăng phái cho Sư đoàn 2.
- Thời gian ở đây lâu không?
- Tụi tao vừa mới đến.
Tôi trở nên tự nhiên với mấy người bạn. Tôi cảm thấy vị ngọt của sữa, và mùi thơm cà phê là ngon hơn cả.
Tối hôm ấy, cả đám rủ nhau ra phố choi, đi ăn tối, rồi vào tiệm bi da, đến khuya mới trở về.
Thuyên vẫn chưa ngủ, anh nằm đọc báo. Khi tôi trở về, Thuyên rời giường ra mở cửa, lúc đó, tôi hết sức bối rối nhưng Thuyên hiểu bạn, anh tỏ ra cởi mở.
Bây giờ, tôi mới chú ý đến chiếc kệ dã chiến của Thuyên. Chiếc kệ cao hơn một mét, ba ngăn, trên mặt kệ để các thứ linh tinh, rồi ngăn thứ nhất là một số sách truyện và cả sách học về Luật, ngăn thứ hai: các tạp chí văn nghệ có Văn, Văn Học, Bách Khoa. Số báo Văn nhiều hơn hết, và ngăn dưới cùng là những tờ nhật báo và báo Chiến sĩ Cộng Hòa. Cũng có vài ba tờ báo Lý tưởng, bìa ngoài giấy láng, màu xanh da trời.
- Anh có viết lách gì không?
- Không, Thuyên đáp.
- Anh chắc đọc nhiều.
- Ở nhà tôi có khá nhiều sách truyện.
- Quê anh ở đâu?
- Tôi ở Tân Uyên.
- Một quận của tỉnh Biên Hòa.
- Anh nói đúng.
- Tôi có thời gian ở Biên Hòa.
- Anh dạy học hay làm công chức?
Tôi nói qua với Thuyên một chút về mình. Sau những lời của tôi, Thuyên gật đầu hiểu. Hai người đứng cạnh nhau bên chiếc kệ. Thuyên cảm thấy vui khi những sách báo anh trưng bày được sự quan tâm của người bạn, và lúc này, Thuyên thấy tôi đang muốn tìm một đề tài nào đó trong những tạp chí sắp ở hàng kệ thứ nhì.
- Anh đọc thứ gì, cứ lấy đọc.
Tôi quay sang hỏi:
- Thực sự anh chỉ đọc thôi, chứ không viết lách gì cả.
- Không.
- Mình hiểu nhau, anh đừng quá khiêm tốn.
- Không đâu.
- Anh có trà không?
- Có.
- Làm một ấm, anh em mình chuyện trò.
- Dễ dàng.
Thuyên đi lấy nước và nấu bằng résistance. Chừng ít phút, nước sôi, Thuyên tắt công tắc xong đổ nước sôi vào ấm nhôm đã có sẵn trà.
- Anh ở Sư đoàn lâu chưa?
- Hơn hai năm.
- Từ ngày ra trường?
Thuyên gật đầu. Khi trà uống được, Thuyên rót vào hai cái ly nhỏ, thứ ly cũng dùng để uống cà phê buổi sáng.
Một hớp trà đậm ngon, tôi hỏi:
- Anh Thuyên đã có vợ con chưa?
- Chưa.
- Tôi cũng chưa.
- Không có gì quan trọng cả.
Hai người bỗng im lặng nhìn nhau cười. Tôi hỏi:
- Anh quen nhiều anh em văn nghệ ở đây không?
- Có biết thôi, không quen ai cả.
- Những bạn đó có thơ và truyện đăng trên Văn.
- Ờ, đại khái biết họ qua sự xuất hiện tên trên báo.
- Tôi cũng như anh. Nhưng nói chung, anh em văn nghệ ở miền Trung rất là chí tình.
- Họ dễ thương lắm. Anh có viết lách gì không?
- Tôi có viết, tính cách văn nghệ thôi.
- Viết được cũng là niềm vui.
Tôi châm điếu thuốc, rồi giọng chậm rãi nói:
- Rồi đây, tôi sẽ viết khác xưa rất nhiều. Tôi sẽ viết về chiến tranh, V đã đến lúc mình có sự hiện diện. Tôi vẫn nghĩ rằng, sự quan trọng của người viết tiểu thuyết, là nhìn được tận mắt các sự vật, các bối cảnh và hiểu về nó một cách trung thực.
Thuyên nói:
- Tôi đọc anh em trẻ viết khá nhiều, nhưng tựu trung, vẫn chưa có được mấy người nổi bật.
Tôi nghĩ ngợi hơi mông lung. Bỗng tôi quay sang hỏi Thuyên:
- Anh buồn ngủ chưa?
- Chưa.
Tôi nói:
- Ít ra, tôi cũng ở đây với anh đến cả một tuần mới ra Trung đoàn.
Thuyên cười:
- Sao anh không nghĩ, là anh sẽ làm việc ở đơn vị này, vào những ngày sắp tới.
- Không, chắc là không, anh Thuyên.
- Tôi rất mong anh ở đây. Để tôi cố gắng.
Bên ngoài cửa, đột nhiên có đèn lóa sáng, một chiếc xe Jeep đang chạy chậm, tới gần hơn, rồi ngừng lại ở trước một căn phòng kế bên. Không lâu, máy xe ngừng nổ, và đèn tắt.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 21 Mar 2017

III

Trời mưa dai dẳng, nhìn về phía những ngôi làng nằm ven dưới chân núi và qua con sông sương mù giăng kín, không thể nào trông thấy rõ cảnh vật nơi xa kia. Thời tiết xấu, hôm nay phi cơ cũng không thể cất cánh để yểm trợ hành quân cho các đơn vị bạn dưới đất.
Dưới hàng hiên, có hai mươi tân chuẩn úy đang đứng chờ xe đến bốc đi đưa ra các Trung đoàn. Trong số này, tôi lớn tuổi, hai mươi sáu, còn anh em khác trẻ hơn tuổi xấp xỉ hai mươi, hăm mốt. Tôi có vẻ mặt khô khan, trầm lặng, cặp mắt sâu, luôn trông thấy mình già, vụng về, và tới bây giờ, tôi sống đời quân ngũ đã gần sáu năm.
Tôi ngồi xuống băng ghế để tránh tạt mưa, vừa có chút thoải mái đốt điếu thuốc. Những làn khói nhẹ nhàng gợi lên trong tâm hồn tôi chút vương vấn, qua dư vị điếu thuốc tôi cảm thấy có sự thân thiết đang gần mình, lúc này, tôi nhớ ra được bao nhiêu gương mặt các thiếu nữ thật dễ thương tôi đã quen, đã có những nụ cười, những lời tỏ tình.
Tôi là người trình diện sớm nhất. Từ hôm đến, cho tới lúc này sắp lên đường tính ra hơn mười ngày ở đây, tương đối rất dễ chịu. Ngày nào trời, cũng mưa, không vào buổi sáng thì cũng đến lúc chiều. Những ngày chờ đợi, tôi chỉ thấy tôi qua hình ảnh của một anh lính đi lang thang trên phố, vào quán cà phê, ghé tiệm ăn, đến tôi, để dỗ giấc ngủ cầm một tờ báo đọc cho đến lúc mỏi mắt, mới tắt đèn.
Nơi thị trấn xa lạ này, mới đặt chân tới lần đầu, hẳn nhiên có biết bao nhiêu mối cảm nhận làm lay động ý tưởng và dễ gây cho tâm hồn mình một sự xôn xao, thầm lặng, thế nhưng, tôi đã không thể hiện được gì cả. Tôi chẳng háo hức muốn viết truyện ngắn, không mong tìm gặp các bạn văn, và cũng không đơn độc để rồi nghĩ đến những mối tâm sự mà viết thư gởi cho nàng Phượng Nga và Thúy Hà. Trong lòng tôi, từ nay ít nhiều gì cũng mong muốn Thúy Hà hãy quên mình đi, tất cả, với tôi và cả nàng nữa. về Phượng Nga, nàng luôn có một sự thủy chung của dòng sông.
- Thụy có đủ áo ấm chưa?
- Có chiếc áo jacket đang mặc đây.
- Một cái không đủ đâu? Để mình đan cho Thụy áo len.
- Anh Nguyên có chưa?
- Có rồi.
Trưa hôm ấy ngồi uống cà phê với nàng, tôi có cảm giác như câu chuyện muốn viết, đã viết nên được qua tiếng nói của nàng.
- Sao chị bỏ không học đàn dương cầm?
- Những năm ở trường Mỹ Thuật, rồi lo học thi Tú Tài chiếm quá nhiều thời gian nên mình tạm ngưng.
Một giọng vui, tôi nói:
- Hình ảnh của chị đã là một bản đàn dương cầm rồi.
Nàng bảo:
- Bạn khen mình nhiều quá.
Nói xong, đôi mắt nàng nhìn qua tôi.
- Chị có ý định xin vào Đà Nẵng dạy không?
- Mình đợi anh Nguyên, nhưng chắc cũng trở về lại nhà.
- Về lại nhà, chị gần với Mỵ Châu hơn.
- Mỵ Châu cũng rất cần đến mình.
Chiếc xe GMC xuất hiện chạy rất chậm, rồi ngừng. Người lính xuống xe, đến trình diện viên Thiếu Tá.
- Anh vào Trung đoàn 4 trước, xong trở ra.
- Bao nhiêu người Thiếu Tá?
- Hai mươi.
- Mỗi người đều có sự vụ lệnh riêng.
- Không, sự vụ lệnh từng toán đến Trung đoàn.
Xe đang ngừng và đợi đến lúc ngớt mưa.
- Rồi, xin các anh lên xe.
Viên Thiếu Tá nói xong, ông bắt tay một vài anh em đứng gần.
Tôi nhường các bạn lên trước. Tôi lên sau cùng, ngồi ở băng ghế bên trái.
Viên Thiếu Tá đưa cao tay chào tạm biệt. Bên cạnh ông có một vài sĩ quan đứng hút thuốc, trên mỗi gương mặt tỏ lộ sự yên tâm như vừa trút xong gánh nặng.
Trời mưa trở lại. Từ con đường chính này, xe hướng ra cổng. Khi vào quốc lộ I, xe rẽ trái. Người bạn ngồi gần tôi hỏi:
- Anh đi Trung đoàn nào?
- Trung đoàn 5.
Trung đoàn này ở Tuần Dưỡng.
- Xa không?
- Ra phía ngoài Quảng Tín.
- Gần quận Thăng Bình không?
- Không, trong này nữa.
Những bạn khác cũng đang trao đổi chuyện với nhau. Một người nói:
- Vào phía trong là đi Trung đoàn 4
- Ở đâu?
- Sa Huỳnh, Mộ Đức.
Ngồi phía ngoài, mưa tạt lất phất nhưng tôi thích, với nữa, mình cần đến ánh sáng để quan sát từng cảnh vật. Hình ảnh thị xã Quảng Ngãi trở nên quen thuộc, như nó đã nằm lòng, thân thiết với tôi như là người ở đây đã lâu. Hai ngày trước, Thuyên đến tìm tôi. Anh là một người dễ mến, dáng người nhỏ, vừa tầm thước, mái tóc đen nhánh lộ sáng đường rẽ ngôi, trong cặp mắt có nụ cười thầm lặng, một giọng nói chừng mực, rõ ràng, nghe kỹ tôi nhận ra anh có một sự hiểu biết rất là căn bản, chín chắn.
Lúc Thuyên đến, tôi đang sắp xếp lại quần áo bỏ vào túi sac marin. Vừa thấy Thuyên, tôi hỏi:
- Hôm nay anh được nghỉ.
- Tôi có giấy nghỉ phép thường niên.
- Hay quá, tôi reo lên. Chừng nào anh đi?
- Bạn có rảnh không?
- Cứ ở đợi thế này, làm sao không rảnh.
- Ra phố uống cà phê được chứ?
- Không một ai được quyền từ chối.
Trời đang mưa, nhưng không ào ạt. Hai bạn mặc ngoài áo mưa, bên trong áo jacket, vui với tiếng chuyện trò vừa nhàn nhã đi bộ ra lối cổng chính, tới đầu ngã ba phố rẽ trái, chừng trăm mét là có quán cà phê.
Vào quán, tôi cảm thấy ấm nhờ ánh đèn. Trong quán, một vài chiếc bàn sâu bên trong có khách ngồi. Lệ Thu đang hát, tiếng hát của nàng vang xa những lời gọi của một người tình. Và, tiếng hát như còn đeo đuổi theo một hình bóng đang ra đi, mải miết. Đứa gái nhỏ đi tới, trên tay cầm ấm nước đặt xuống bàn.
- Cho hai cà phê sữa.
Tôi để gói thuốc lên bàn, rút một điếu châm lửa.
- Anh đi phép bao nhiêu ngày?
- Hai tuần lễ.
- Ngày đường tính riêng.
Thuyên gật đầu hài lòng.
- Ngày mai lên đường chưa?
- Ngày mai tôi ra Đà Nẵng.
- Lúc này đi máy bay quân sự dễ dàng.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 21 Mar 2017

Đứa gái nhỏ bưng khay cà phê ra. Cà phê dậy mùi thơm, đang nóng. Trong lúc hai người cầm cái thìa nhỏ khuấy lớp sữa dưới ly, một khúc hát vang lên, vẫn là giọng hát Lệ Thu. ,
Về đâu nét tàn úa phai mờ duyên xưa
Lòng tôi bỗng chùng xuống, chiếc muỗng cũng dừng không khua động.
- Anh đi đơn vị nào, biết chưa?
- Chưa. Tôi nghe nói Sư đoàn sắp sửa dời đô?
- Hai tháng nữa.
- Đi đâu, anh biết không?
- Ra Chu Lai.
- Ngoài đó có căn cứ của Mỹ.
- Đã bàn giao rồi. Đang sửa chữa.
Thuyên hỏi tôi:
- Hình như anh có bà con với Tướng Toàn.
Tôi cười nói với người bạn.
- Nếu được bà con, tôi đâu có ra Trung đoàn, mà làm việc ở Sư đoàn với anh.
- Nếu anh được ra Trung đoàn 5, gần Huế, dễ về thăm nhà.
- Trung đoàn 5 đóng ở đâu?
- Căn cứ Tuần Dưỡng?
- Cái tên nghe lạ.
- Phía ngoài Tam Kỳ, cách thị xã chừng 7 cây số.
- Vậy thì, ra Đà Nẵng gần.
- Đúng vậy.
Quán ngừng mở nhạc, tôi hỏi:
- Anh Thuyên còn học tiếp nữa không?
- Tôi cũng học lơ mơ, chưa có chuẩn bị kỹ để đi thi.
- Anh đã xong năm thứ mấy rồi?
- Năm thứ hai.
- Còn hai năm nữa.
- Với mình, không có chắc gì cả.
Tôi bỗng hỏi:
- Anh có ra vùng hành quân không?
- Ở phòng nhì, tôi đi hoài.
- Những tờ báo bên kia, chiến lợi phẩm của Phòng nhì?
Thuyên gật đầu.
- Nhiều không?
- Khá nhiều. Cả thư từ của cán binh CS nữa.
- Tôi có đọc một cuốn bút ký cán binh của Cục Chính Huấn. Những lá thư đó nguyên văn hay được sửa lại.
- Có sửa lại, chừng mười phần trăm.
- Chữ viết không thay đổi.
Thuyên cười:
- Ông qua làm bên tâm lý chiến thì rõ hết.
- Trong trường cũng đã có dạy.
Hai bạn cùng cười. Rồi một giọng yên lặng, tôi nói:
- Tôi có đọc một số truyện trong mấy tạp chí anh đem về.
- Anh đọc, thấy sao?
- Chủ nghĩa anh hùng ghê gớm quá.
Thuyên biết tôi còn nói tiếp, nên anh chờ.
- Tôi không hiểu sao họ viết ngây thơ đến vậy được. Dễ như họ viết, miền Nam đã mất lâu rồi, khiến gì cho mấy anh ngoài bưng biền phải lội sông, lội suối, núp dưới những hầm hố tránh đạn, tránh bom. Những đá này, khác gì với quân phiến loạn trong thời Đệ nhất Cộng Hòa. Còn ngoài Bắc, thanh niên đi B vào Nam, cuồng tín trong đầu óc chuyện giải phóng đánh nhau chỉ vì thù hận, vì quân Mỹ dội bom. Trong đám này cũng vậy, thơ văn họ sáng tác để tuyên truyền chiến đấu, để làm người hùng, chứ không phải là ỷ thức về một cuộc chiến.
Thuyên nói:
- Ở miền Nam, trí thức và sinh viên cũng đã bị chủ nghĩa Cộng Sản mê hoặc.
Có lẽ, tôi đã bộc lộ mặc cảm cùng với nỗi phẫn uất của chính mình. Tôi nói như là giảng giải khiến Thuyên cười nhìn tôi. Nhưng sau đó, người bạn cũng gật đầu thông cảm.
- Người trí thức thiên tả, thân cộng, họ đang sống ở miền Nam ít ra cũng có chút tự do, cởi mở, vậy nên họ chỉ luôn nhìn thấy cái mặt trái của chế độ, nhưng đã không nhìn thấy mặt trái về chiến tranh.
- Anh còn nhớ vụ đưa mấy người trí thức qua sông Bến Hải không?
- Tôi còn nhớ rõ tên và đọc kỹ các bài báo.
- Anh thấy người nào cũng sợ hãi, đúng không?
- Không sợ sao được, họ cũng quá rõ người Cộng Sàn mà. Và, không ai trong những người đó mà không biết đến vụ Nhân Văn Giai Phẩm.
- Thực sự mà nói, đó là những người của thế hệ trước chúng mình. Hào quang của cuộc kháng chiến chống Pháp còn là dư âm vang trong lòng họ. Vì thế, họ còn say với Việt Minh, và nhớ nhiều đến miền Bắc, đến mặt trận Điện Biên Phủ.
- Anh nói đúng. Thế hệ chúng mình hiểu được những mặt trái của chiến tranh nên vẫn muốn bảo vệ miền Nam. Tôi có người bạn thân đã chết. Anh ấy là một người viết truyện ngắn tài hoa.
- Ai, anh nói tên đi.
- Y Uyên.
- Bạn học cùng lớp anh?
- Không. Y Uyên cùng khóa 27 và ở chung với tôi một Đại Đội. Tôi và Y Uyên khá thân nhau. Ngày ra trường, hai chúng tôi có ghé đến thăm một cô hàng cà phê ở bên khu sinh hoạt. Cô ấy cũng khá xinh, và trở thành một nhân vật trong truyện ngắn của bạn tôi.
Tôi đỡ lời:
- Tạp chí Văn có làm một số đặc biệt về Y Uyên nhân ngày giỗ đầu của nhà văn. Tôi có mua số báo đó, và đọc hết tất cả những bài viết của bạn bè cùng các bạn văn.
- Tôi và anh bạn thi ra trường đậu thấp nên người đi Sư đoàn, người ra Tiểu khu. Tôi làm Trung đội trưởng, lội rừng cũng hơn một năm, may chạy thuốc để có được chỗ này yên thân. Còn Y Uyên, ra Phan Thiết, làm trung đội trưởng đóng đồn ở Nora. Số Y Uyên thật run rủi, vừa đúng lúc được SVL về Sài Gòn, một viên đạn tên du kích bắn sẻ, anh ngã gục, không kịp trối một lời. Thực ra, hôm đó Y Uyên muốn trở lại tiền đồn để được nhớ chiến tranh, nhớ kỷ niệm cũ, và nhân thể để nói lời tạm biệt với các chiến hữu. Y Uyên đã có cái thật, sống thật với chiến tranh như là những nhân vật trong truyện của nhà văn Đức, Erich Maria Remarque. Y Uyên đã xuất bản được ba tác phẩm: Bão khô, Tượng đá sườn non, Chiếc xương lá mục. Khi ra được cuốn nào, anh cũng gởi tặng cho tôi với lời đề tặng rất chí tình.
- Trong số tưởng niệm, anh có viết gì không?
- Không, nhưng cái chết của người bạn làm tôi bàng hoàng.
Tôi nhìn vào cặp mắt của Thuyên, đọc được một sự tưởng nhớ rất chân tình của người bạn.
Y Uyên là một nhà giáo hiền lành. Trong tâm hồn phong phú của anh có một sự hóm hỉnh rất dễ thương. Những năm dạy học ở Tuy Hòa, anh được nhiều bạn văn quý mến, và anh cũng sống rất gần gũi với các bạn. Dù, với tên tuổi đã nổi lên, tài năng cũng vượt trội, nhưng anh luôn ở giữa bạn bè với thái độ cởi mở, thẳng thắn. Người bạn gái của anh là cô N. cũng là giáo viên tốt nghiệp trường sư phạm Quy Nhơn. Tôi quen biết với Y Uyên qua tâm trạng của một người đọc. Và, mỗi lần đọc một truyện ngắn nhà văn trẻ này viết, tôi luôn cố hình dung ra người đó. Nhưng tuyệt nhiên, chỉ vậy thôi, tôi không có chút háo hức tìm gặp để được làm quen và kết bạn. Tôi có một ý nghĩ nhỏ, Y Uyên đã làm hỏng nhiều bạn văn không phải do anh tạo nên, mà do bởi cái bóng của anh mà những người khác cố chụp lấy, níu lấy, và khi bắt được cái bóng đó thì tưởng nghĩ rằng đó là chính mình. Và, tôi còn hiểu thêm một người nữa, đó là nhà văn Trần Phong Giao. Tạp chí Văn bán ra được một số lượng lớn ở miền Trung, và trong tạp chí này, sự đóng góp của các nhà văn trẻ ở miền ngoài này rất là nhiều. Vì muốn khích lệ các nhà văn trẻ hăng hái viết, anh Giao đã có một sự bao dung khi chọn bài để đăng, và cố nhiên, những truyện ngắn được đăng này cũng tạo được ảnh hưởng tốt đối với độc giả. Nhưng cái tốt ấy, thành ra hại, khiến các bạn văn trẻ ngoài này viết gần như giống nhau, và họ thường mãn nguyện làm nhà văn khi thấy truyện của mình đăng ở báo Văn. Từ đó, anh nào cũng ham viết, ham làm nhà văn, không muốn ngừng để chịu khó tích lũy trong việc đọc, nghiền ngẫm sáng tác để viết hay hơn, độc đáo hơn. Vậy rồi, người đọc cứ thấy tên tuổi quen quen xuất hiện đều đặn, còn họ như đã bằng lòng làm nhà văn.
Sau cái chết của Y Uyên, những truyện của anh được tái bản, và được nói tới rất nhiều. Riêng tôi, đọc và rất thích nhà văn này. Truyện của Y Uyên viết, không khí chiến tranh của miền Nam được mô tả ở những vùng xôi đậu, nơi đây, những người dân thường lúc nào cũng thấy sự bất an ngày cũng như đêm, họ luôn bị bóng ma một cuộc chiến ám ảnh, và nỗi sợ hãi về cuộc chiến này đã khiến họ là những con người bị tật nguyền, những con người bất bình thường, ở trong cùng một nơi chốn, nhưng họ đã sống dửng dưng, lạnh lùng, gần như là vô cảm. Khi đọc truyện của Y Uyên, bạn như chưa biết gì về một thị trấn, một quận lỵ làng mạc có thực trên bản đồ, mà là đó là một thế giới riêng như cái vùng riêng biệt của người du mục. Hình dung nơi ấy, bạn chỉ thấy một chiếc xe đò dừng lại bên đường giữa nắng trưa, một con sông đục nước, chiếc cầu gãy, cánh đồng khô, chiếc phi cơ đang bay qua đầu ngọn núi, và một đoàn người đang đi bộ qua đèo. Trong sinh hoạt, cũng có những buổi chiều ồn ào, nhộn vui ở các buổi họp chợ, ở tiếng đùa giỡn la hét của bọn trẻ con, bọn học trò, và ở nơi quán rượu thường pha trộn những tiếng giọng khàn đục của những kẻ chán đời. Tiếng súng nổ cũng có, nhưng nghe tiếng súng đó, bạn không thể biết nó xuất phát từ bên phía nào. Và rồi, cái chết bỗng dưng xảy ra, trông thấy thật rùng rợn.
Buổi chiều ấy, tôi và người bạn ngồi trong quán rất lâu. Mưa không dứt hạt, tôi nghĩ nhiều đến hạnh phúc và sự chờ mong của những người lính về phép thăm gia đình.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 21 Mar 2017

IV

Lúc thả năm anh em chúng tôi xuống một bãi đất trống, chiếc GMC đi liền, và cơn mưa vẫn chưa ngừng tạnh. Căn cứ Trung đoàn nằm trên ngọn đồi, từ nơi này, chúng tôi trông thấy bóng con đường quốc lộ ở xa chừng khoảng hơn cây số. Về phía con dốc chiếc GMC đang chầm chậm tiến lên.
Người giữ SVL chung hỏi:
- Anh em mình tính sao?
Ai cũng im lặng. Rồi một người nói:
- Lúc xe đi ngang, tôi thấy có câu lạc bộ.
- Bạn nói hay, đến đó đi.
Năm người lội bộ, hỏi một anh lính gặp trên đường, chỉ đến một căn nhà tôn. Vào quán, chúng tôi ngồi chung bàn gọi bữa ăn sáng, có cả cà phê. Chúng tôi yên lặng, nói chuyện nhỏ.
Mỗi đứa ăn một tô mì xong, thấy ấm bụng. Cà phê uống được không ngon lắm. Ở ngoài trời đang mưa, gió trông lạnh thổi bạt vào quán. Trong quán một bếp lò đang cháy đều ngọn lửa. Một người bạn đứng dậy đi tìm ống tăm, anh ta đến quầy, người lính bán quán hỏi:
- Các Chuẩn úy ở đơn vị xa tới.
- Vâng, từ Sư đoàn chúng tôi ra đây.
Rồi một giọng dè dặt anh bạn hỏi người lính:
- Chúng tôi mới tới, không có gia đình ngoài.
- Hãy qua bên Đại đội công vụ.
Khi rời quán, mỗi người trả tiền riêng phần của mình. Vừa lúc trời tạnh, theo sự hướng dẫn và chỉ chỗ của người lính chủ quán, chúng tôi đến Đại đội công vụ.
Sau khi coi giấy tờ của chúng tôi, Chuẩn úy Thái dẫn đi. Trên đường, chúng tôi chuyện trò với nhau, viên Chuẩn úy tỏ ra cởi mở và đầy thiện chí. Anh bạn đi kế bên hỏi:
- Ở đây cơm nước sao, Chuẩn úy.
- Có Câu lạc bộ Trung đoàn. Mấy anh đến đó ăn, đóng tiền.
- Đóng tiền cả tháng hay sao?
- Cơ hữu, thì đóng tiền tháng, nhưng các anh mới có thể đóng ngày hoặc tuần.
- Chúng tôi còn ở đây lâu không?
- Tôi không rõ. Nhưng chắc các anh còn về Tiểu đoàn, không ở đây đâu.
Chúng tôi đi bộ chừng nửa cây số thì đến nơi. Khu vãng lai vắng vẻ, bên trong có một chiếc bàn gỗ, chừng mười cái giường sắt có nệm, ẩm và tối, lúc Chuẩn úy Thái bật công tắc, có hai bóng đèn sáng giữa trần.
- Các anh tạm nghỉ đây.
- Chúng tôi có trình diện ngay không?
- Mới đến, các anh thong thả.
Chuẩn úy Thái đưa chúng tôi đến khu vãng lai, cẩn thận chu đáo với từng người, và không ở lâu, ông trở về nơi làm việc.
Chỗ rộng, ai chọn giường nào cũng được. Tôi mở cửa sổ nhìn ra ngoài, trông về hướng cổng chính thấy hai người lính gác, bên ngoài hàng rào là một dãy nhà tôn và tranh thấp, có lẽ nơi đó là khu gia binh.
Có người lên tiếng mở hội đánh bài. Nhưng có một bạn nói:
- Mình ra đây, tiền bạc không nhiều. Chớ nên sát phạt nhau.
- Ông này đạo đức gớm,
- Thật mà, bạn nhớ, mình ra đơn vị tác chiến còn với nhau ở đây bao nhiêu ngày.
Anh em im lặng. Sau khi ổn định xong, anh em ra ngoài, tự do. Lúc nghe tiếng còi hụ, từ các phòng ban lính tráng ùa ra, họ đi ăn, và có nhiều người lên xe về nhà hoặc ra ngoài phố.
Ít ngày lưu lại đây, mỗi chúng tôi có được cái nhìn khái quát về đơn vị mới. Rồi chúng tôi cùng một lúc trình diện vị Đại tá Trung đoàn trưởng. Ông hỏi chuyện từng anh em về học vấn và gia đình. Phòng làm việc của ông không lớn, nhưng mọi thứ đều rất ngăn nắp. Tôi thoáng nhận thấy, vị Đại tá có vóc dáng nhà binh chuyên nghiệp. Giọng nói ông nhẹ, ngắn gọn, có sự thân tình.
- Tôi phân phối các anh về Tiểu đoàn. Ra Tiểu đoàn, các anh có thêm phụ cấp tác chiến.
Không khí trong căn phòng yên lặng, sự chờ đợi cũng yên bình, không căng thẳng, Thời gian chừng khoảng nửa tiếng, vị Đại tá ký giấy tờ xong, rời ghế đứng dậy bắt tay từng anh em. Ông chợt hỏi tôi:
- Anh người Quảng Trị, phải không?
- Dạ đúng.
- Tôi cũng là người ở ngoài đó.
Tôi không dám hỏi gắng, và vị Đại tá cũng không nói gì thêm. Ra ngoài, chúng tôi cùng trở lại ban 1 để nhận SVL đi về các Tiểu đoàn. Trưởng ban 1 là Trung úy Nhượng, người miền Nam. Gặp chúng tôi ông đón tiếp niềm nở, mời trà thuốc, chuyện trò thân tình, số quân nhân làm việc ở ban này khá đông, đến 20 người. Trong ban 1, có thêm tiểu ban tuyển mộ do một Thiếu úy đảm trách. Trong lúc chờ nhận SVL, tôi để ý đến công việc của tiểu ban tuyển mộ đang làm. Anh Trung sĩ tên Mạnh có mái tóc hớt cao, vẻ mặt còn thư sinh chắc cũng vừa mới ở trường Đồng Đế Nha Trang ra đơn vị đang kẻ chữ lên một tờ giấy trắng lớn. Những hàng chữ thẳng đều và cân xứng. Trên tờ giấy lớn này, anh ta ghi những điều lệ nhập ngũ và quyền lợi của quân nhân về lương bổng, phụ cấp, và các ngành học chuyên môn. Mỗi tờ viết xong, anh ta dán lên tấm gỗ mỏng, rồi bao ngoài bằng tấm nylon dày, trong suốt. Tôi cảm thấy vui, lắng nghe mấy người lính trò chuyện, qua đó, tôi được biết những tấm bảng này sẽ được đặt ở trạm gác dọc tuyến đường do Trung đoàn phụ trách.
Không đợi lâu, chúng tôi cùng nhận SVL mới một lúc. Những ngày được bên nhau không còn nhiều, trước khi chia tay, chúng tôi kéo nhau ra quán nằm ở khu gia binh, cơm nước, và mua mấy chai bia rót ra mời nhau cụng ly.
Tôi đi Tiểu đoàn 1. Căn cứ Tiểu đoàn nằm trên ngọn đồi cao nhất nhìn thấy bao quát hết quang cảnh bên trong và ngoài căn cứ. Tự dưng, tôi thấy bơ vơ, tưởng như mình không còn có dịp về thành phố nữa. Đường quốc lộ vắng bóng người và xe, những mái nhà trông thật ảm đạm, và cả đồng ruộng cũng chìm ngập trong cảnh buốt giá của mùa đông.
Ba người ngồi bên trong căn hầm nhìn ra cửa khi thấy tôi xuất hiện. Viên Thượng sĩ hỏi:
- Chuẩn úy cần gì?
- Tôi trình diện Tiểu đoàn.
Vừa đáp lời xong, tôi mở nắp túi áo lấy tờ SVL đưa cho viên Thiêu úy.
Viên Thượng sĩ tìm một chiếc ghế trống ở gian bên đem qua mời tôi ngồi. Tôi vẫn còn đứng, tay dựa thành ghế. Trên bàn có trà và một gói thuốc, nhưng chỉ có mình ông Trung sĩ đang hút.
Sau lưng ba người, có chiếc bàn dài, một anh lính truyền tin đang ngồi nghe máy.
- Mời Chuẩn úy ngồi.
- Cám ơn.
Nãy giờ, viên Thiếu úy im lặng. Khi nhận SVL của tôi, ông không nói gì mà mở ra một cuốn sổ lớn, rồi cầm bút vừa nhìn qua tờ giấy vừa ghi.
- Chuẩn úy ở đơn vị nào đổi đến?
- Không, tôi vừa mới rời quân trường sau khi mãn khóa học.
- Chỉ có một mình Chuẩn úy về Tiểu đoàn.
Tôi cầm ly nước trà nóng uống một hớp đầy.
- Chúng tôi về Trung đoàn năm người, và được phân phối đi bốn Tiểu đoàn.
Xong việc, viên Thiếu úy hỏi tôi.
- Chuẩn úy có cần chúng tôi giúp gì không?
Chỉ sau ít giây, tôi nói:
- Quân trang của tôi còn thiếu…
- Không sao? Chuẩn úy sẽ được cấp phát bổ sung.
- Cám ơn Thiếu úy.
Rồi tất cả cùng im lặng. Người lính truyền tin đưa ống liên hợp cho viên Thượng sĩ. Từ căn cứ hành quân, vị Tiểu đoàn trưởng đang cho lệnh để hậu cứ thi hành. Sau mỗi lệnh của vị chỉ huy, ông Thượng sĩ đáp nhận rõ qua khẩu lệnh truyền tin.
Nhận chỉ thị xong, ông cho vị Tiểu đoàn trưởng hay biết là có một Chuẩn úy mới đến trình diện.
- Già hay trẻ.
- Còn trẻ, mới ra trường.
- Cho lên trình diện tôi.
- Nhận rõ.
Ông Thượng sĩ rời máy, nói với tôi:
- Thứ hai có chuyến tiếp tế, Chuẩn úy sẽ đi theo lên gặp Thiếu Tá.
Tôi uống hết ly trà, rồi đứng dậy cùng đi với viên Trung sĩ đến nhà kho. Tại đây, tôi làm thủ tục lãnh quân trang, quân dụng. Tôi nhận được hai bộ quần áo trận mới, hai chiếc nón vải, một cái nón sắt, một chiếc ghế bố, một cây súng M16 và cấp số đạn hành quân.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 21 Mar 2017

Ở Tiểu đoàn cũng có phòng vãng lai. đặt bốn chiếc giường sắt giống như ở quân trường. Sau khi nhận xong quân trang và quân dụng, tôi đến nơi này bỏ ba lô, đồ đạc, xong theo viên Trung sĩ đến ban quân lương. Kể từ hôm nay, tôi thuộc về quân số Tiểu đoàn và sẽ được hưởng phụ cấp 4500 tiền hành quân.
Ở Tiểu đoàn, thủ tục rất đơn giản. Chỉ qua ít giờ, mọi việc xong xuôi, và ngày lên căn cứ hành quân đã được ấn định nên tôi không còn lo nghĩ hay chờ trông gì cả.
Trời đã tạnh mưa. Những cái bóng sáng vừa lay động đã xóa tan rất mau cái vẻ ảm đạm của buổi chiều. Không có ai trông đợi nhưng rồi tiếng còi hụ vang lên, ngay lập tức, người nào cũng vội vã. Hầu hết lính, hạ sĩ quan làm việc ở hậu cứ Tiểu đoàn đều là người địa phương, họ ở khu gia binh và ngoài thị xã.
Tôi vẫn còn được ít ngày nữa mới lên căn cứ hành quân. Đây cũng là sự ưu ái của vị Tiểu đoàn trưởng đối với những người ở xa mới đến.
Buổi sáng thứ sáu, tôi quá giang xe cơ hữu của Tiểu đoàn ra thị xã Tam Kỳ. Xe dừng ở giữa phố chính, bên kia đường là một tiệm buôn bán trà và hàng tạp hóa. Vừa xuống xe, tôi hỏi đường đến Ty Bưu điện, và đi bộ nhanh bước.
Bên ngoài sân, cảnh vắng lặng, có thể mới đầu buổi sáng còn vắng khách. Vào bên trong, tôi đến chỗ bàn đá có chia nhiều ngăn cho khách viết thư hay gói hàng trước khi gởi.
Tôi viết thư gởi về Huế cho mẹ và các em. Lá thư viết trên giấy có kẻ giòng.
Kính thăm mẹ,
Hiện giờ con đang ở hậu cứ Tiểu đoàn. Ngày thứ hai, con sẽ lên vùng hành quân theo chuyến bay tiếp tế. Mới đến đơn vị, nhưng con cũng đã nhận được lương của tháng này. Với số tiền lãnh được, con gởi Mẹ một ít tiêu dùng, và cho mấy em mua sách vở học.
Anh Nguyên có hay về nhà không? Kỳ phép vừa rồi, con có ra Quảng trị chơi và gặp chị Phượng Nga. Chị có nói với con, dạy thêm một năm nữa, chị sẽ xin vào Đà Nẵng để được gần nhà.
Thư của ba, con sẽ gởi sau. Mẹ yên tâm, cố giữ gìn sức khỏe và các em gắng chăm học. Nhờ trời Phật phù hộ cho con luôn bình yên. Nơi đơn vị con đang ở, cách thị xã Tam Kỳ chừng 7 cây số. Như vậy, không xa Đà Nẵng và Huế. Từ đây về Huế, chỉ chừng năm giờ xe đò là tới, thành ra, con vẫn có nhiều dịp về thăm gia đình. Vài giòng thư ngắn, con tin cho mẹ và các em hay. Nhận được thư và tiền, mẹ nhớ tin cho con biết.
Con rất nhớ mẹ, cầu mong mẹ và em luôn mạnh khỏe.
Con của mẹ,
Thụy

Có hai người khách rời quầy, vừa đúng lúc tôi đến. Nhưng tôi lại dừng, chờ, vì cô nhân viên đang còn bận xếp lại thư từ và mấy gói bưu kiện vừa mới nhận.
Khi cô ta quay lại, tôi lên tiếng chào và nói:
- Tôi cần mua một tấm mandat.
- Bao nhiêu tiền, Chuẩn úy.
- Năm ngàn đồng.
Cô nhân viên đưa một tờ giấy kê khai tiền gởi cho tôi điền. Làm xong, tôi đưa tiền cho cô nhân viên đếm. Sau khi đếm đủ, cô viết một tấm ngân phiếu, xong đưa cho tôi.
Tôi nhận tấm mandat liền cho vào phong bì rồi dán kín, và đưa lại cho cô nhân viên đóng dấu tem bảo đảm.
- Thư bảo đảm này đi chừng mấy ngày cô?
- Đây ra Huế chừng hai ngày, có thể ba ngày.
Cô nhân viên giao giấy biên nhận cho tôi. Tôi cẩn thận cất mẩu giấy này vào trong ngăn ví.
- Cám ơn cô.
- Không có gì, Chuẩn úy.
Nãy giờ, cô ta đã có sự chú ý đến người lính, vừa cảm nhận một chút gì đó, nhưng không dám hỏi. Hình như cô nhớ ra được cái tên rất quen biết của người gởi.
- Chào cô, tôi đi.
- Vâng, chào Chuẩn úy.
Bỗng nhiên cô gái đứng lên, chợt gọi tên tôi. Tôi ngạc nhiên, quay bước trở lại.
- Có gì trở ngại không cô?
Không, tôi chỉ muốn hỏi trước đây Chuẩn úy đã có ở Nha Trang hay là Đà Lạt?
- Có. Tôi ở hai thành phố như cô biết.
- Tôi có gia đình ở Đà Lạt?
- Tôi có hai năm học ở Đà Lạt, trường Việt Anh.
Cô gái nhìn lại tôi, đôi mắt dò xét. Bỗng cô nói:
- Hình như đã có gặp, mà lúc này không nhớ ra ở nơi đâu.
Một giọng thân tình, tôi hỏi:
- Từ trong đó, cô ra ngoài này làm việc.
- Gia đình vẫn còn ở chỗ cũ. Nhưng lấy chồng, nên theo chồng về ngoài này.
- Anh là công chức hay quân nhân?
- Dạy học.
Hai người trao đổi chuyện trong lúc vắng khách. Tiếng nói của nàng gợi tôi nhớ nhiều đến thời niên thiếu. Không chỉ riêng Đà Lạt thôi, mà có những ngày tháng bình lặng ở Quảng Trị nữa. Nơi ấy, là nhà ga, bóng dáng tháp nước, quán hàng cơm của mẹ. Trong ánh mắt nàng, mỗi lúc biểu lộ sự dịu dàng và tôi vừa thấy một màu ánh sáng buồn và đẹp trên khuôn mặt.
Sự im lặng thật nhẹ nhàng trong ánh mắt có nụ cười lúc hai người bạn nhìn nhau. Bỗng nghe có tiếng nói, tiếng vọng bước chân, tôi ngoái đầu thấy ở cửa chính có vài người khách xuất hiện. Nhưng lúc vào, họ còn dừng ở chỗ bàn đá, một người gói đồ, hai người kia viết thư. Tôi vẫn đứng bên quầy chuyện trò với người mới quen.
- Cô ra ngoài này lâu chưa?
- Hai năm.
- Nhà cũng ở ngay trong thị xã.
Nàng gật đầu, hỏi:
- Chuẩn úy làm việc ở Tiểu khu?
- Không, ở ngoài Trung đoàn. Hai ngày nữa đi lên căn cứ hành quân.
- Xa không?
- Chưa biết. Tôi mới tới đơn vị mấy ngày nay.
Nàng lấy một chiếc phong bì, ghi địa chỉ nhà mình ở đưa cho tôi.
- Đây là nhà của Liên. Có dịp rảnh, mời ghé chơi.
Một giọng vui, tôi nói:
- Muốn ghé chơi, tôi phải được cô nhận là bạn.
- Hẳn rồi.
- Tôi tên Thụy.
- Anh Thụy nhớ ghé chơi.
- Có dịp về, là ghé.
- Nhớ ghé nghe.
- Chắc rồi. Cám ơn Liên, cho gởi lời thăm anh ở nhà.
Khi tôi dời bước, hai người khách hướng về ghi sê của Liên. Liên đang nhìn theo cái bóng của Thụy. Dù biết đằng sau, bên khung cửa lưới bóng dáng Liên đang đứng nhìn theo mình, nhưng tôi vẫn không ngoái đầu.
Hình như, trong tôi chỉ còn một bóng dáng đơn độc, nó giữ lại một thành phố trên miền cao nguyên.
Nắng dậy sáng, mở rộng cả khu phố. Tôi không biết mình đi đâu. Đây là lần đầu tiên tôi biết đến thị xã này, cảm thấy mới lạ và mong đợi. Luôn luôn, trong cuộc sống tôi mong mỏi tìm người bạn.
Trong cảm giác của một người xa lạ bỗng dưng xuất hiện ở nơi này, tôi không thể tìm cho mình một mái nhà, một người bạn, hay một hình ảnh thân thương nào cả. Tôi thấy mình như một chiếc thùng rỗng đang lăn lóc, vật vờ. Khi trông thấy một cửa hiệu sách đầu ngã ba, tôi ghé vào. Cửa hiệu khá lớn, nhiều sách, và trông mặt ra hai con đường, một đường thuộc về thị xã, một đường nằm trên quốc lộ. Người chủ tiệm ngồi ở quầy nhìn tôi có vẻ chú ý. Tôi cũng biết, nhưng làm lơ, và cũng không muốn hỏi chuyện về sách vở để làm quen. Bây giờ, tôi nhớ ra, dọc con đường chính của thị xã này, có đến ba nhà sách tôi trông thấy trưng bảng hiệu, nhưng có lẽ đây là nhà sách lớn nhất. Tôi muốn đốt điếu thuốc, nhưng có phần ngại. Chung quanh tôi, chỗ này, chỗ kia bên các hàng ghế, hay trong mỗi góc, một vài người đang yên lặng tìm kiếm sách. Bỗng nhiên, có tiếng cười lớn làm ai cũng ngạc nhiên. Người chủ hiệu trong dáng bước tự tin, vừa rời khỏi quầy để tiếp một người bạn quen.
- Hôm nay ông được nghỉ?
- Không, tôi vừa mới ở trường về.
Người khách cầm gói thuốc mời, chủ hiệu rút một điếu. Tôi bước đến chỗ đặt hai cái bàn lớn, và trên mặt bàn này những loại sách mới vừa xuất bản được trưng bày để giới thiệu khách hàng. Tôi cảm thấy ngợp, trầm trồ, chiêm ngưỡng những tác phẩm đồ sộ của hai nhà văn lớn nước Nga: Tolstoi và Dostoievsky. Sách dịch in rất đẹp, bìa dày, giấy loại tốt, và giá khá đắt. Tôi biết mình không thể mua nổi, với lại tác phẩm cũng khó đọc, nhất là với Dos là đại văn hào của thế giới, tôi đành nhìn tác phẩm như nhìn pho tượng. Bên cạnh những tác phẩm đồ sộ này, có một số khá nhiều tiểu thuyết mới của các nhà văn tên tuổi ở Sài Gòn. Hai nhà văn đang ăn khách là Mai Thảo và Duyên Anh.
Tôi chỉ nhìn bằng mắt, lướt qua mỗi cái tựa tác phẩm in ngoài bìa. Tôi không mó tay, lật qua vài trang để xem, và cũng không có ý định chọn một cuốn nào để mua.
Thỉnh thoảng câu chuyện giữa vị thầy giáo và ông chủ hiệu sách lọt vào tai tôi. Bất ngờ nhìn qua, tôi thấy cái cung cách ông chủ hiệu có vẻ niềm nở, thoải mái với người khách kia, vừa như có chút hãnh tiến về mình, cùng là hạng trí thức. Người khách là thầy giáo, ít nói, tỏ ra điềm đạm, mực thước hơn.
Một lúc sau, tôi đến trước những dãy kệ dựa lưng tường. Nơi nào cũng đầy kín sách, và mỗi dãy, sách được phân loại và sắp theo từng ngăn. Tôi nhận ra ngay ở hiệu này, tuy có đủ loại sách về sáng tác và biên khảo, nhưng vẫn không nhiều hơn các lại sách giáo khoa.
Sự tình cờ tôi được gặp một số truyện dịch mà tôi yêu thích. Ở đây, có Khung cửa hẹp của André Gide, Giao cảm của Albert Camus, Kiếp người của Somerset Maugham. Tôi dễ dàng đưa tay lấy cùng một lúc ba cuốn và coi giá tiền, tính nhẩm, và cảm thấy hài lòng. Giữ lấy ba cuốn sách trong tay, tôi đi qua những hàng kệ khác, và một tác phẩm tôi mua được thêm là cuốn Chùa đàn của nhà văn Nguyễn Tuân.
Tôi không tìm thêm, chỉ đến quầy trả tiền. Người khách là vị thầy giáo đã ra về lúc nào, tôi không hay. Người chủ hiệu nói với tôi:
- Sách được bớt 10%
- Cám ơn ông chủ.
- Ở đây, tùy theo loại sách chúng tôi bớt giá.
Tôi thật tình hỏi:
- Nhà sách của ông lớn nhất ở đây.
Ông chủ mỉm cười, đáp:
- Có lẽ.
Rồi ông hỏi tôi:
- Chuẩn úy ở xa mới đến.
- Dạ, tôi mới đến.
- Tôi là người sinh trưởng ở đây, ông nói.
- Tôi biết, nghe được rõ giọng nói của ông.
Kể ra, hôm nay là một ngày bình yên. Tôi gặp Liên, một người như có quen biết trong ngày tháng cũ. Vào hiệu sách, gặp ông chủ dễ dãi, thiện cảm, và tôi cũng tìm được mấy cuốn truyện mình thích đọc, mà cũng rất cần có nó để đọc, trau dồi cho nghề văn.
Trước khi rời quầy, tôi được ông chủ hiệu tặng cuốn lịch bỏ túi. Trưa mùa đông, nắng thật sáng và ấm, nhưng trời vẫn thấm lạnh. Trên đường đi, tình cờ thấy có sạp báo, tôi dừng mua mua ít tờ.
Dọc con phố, nhà nào cũng là cửa hiệu buôn bán, hay tiệm ăn.
Vừa trông thấy tôi ở cửa, người đàn bà chủ quán lên tiếng chào và mời tôi bước vào. Tôi chọn bàn ở góc, chỗ này trông ra đường thấy rõ mọi quang cảnh sinh hoạt. Người chạy bàn đến, tôi gọi cơm phần ba món. Khi ông ta đi khỏi, tôi bỗng cảm thấy chỉ còn lại mình với một nỗi niềm an ủi, dễ chịu. Rồi, trong lúc chờ cơm, tôi lấy mấy tờ báo vừa mua mở ra đọc.
Bữa cơm mang đến, tôi bắt đầu ăn. Tôi đang đói, lạnh nên ăn rất ngon miệng. Lúc này, tôi hiểu rằng mình chỉ còn ít ngày nữa thôi. Vậy đó, nhưng mối tình của tôi với Thúy Hà, vẫn không vơi, không hết. Tôi chẳng có ý mong đợi đến một ngày được ở bên nàng, nhưng chắc rằng, nàng vẫn luôn nhớ đến tôi.
Bữa ăn xong, no, vừa đủ. Tôi rót trà, vắt một múi chanh và cho ít muỗng đường. Tôi uống ít hớp, cảm thấy ấm ngọt, rồi thư thả đọc báo.
Ngoài trang nhất, chiếm một nửa là tin chiến sự, còn lại những tin sinh hoạt quốc nội, đặc biệt có tin và hình từ dinh độc lập tiếp đón các phái đoàn ngoại giao. Tình hình chiến sự ở vùng hỏa tuyến được yên tĩnh trong mùa đông này, nhưng ở phía Nam thuộc miền Đông và miền Tây giáp biên giới Cam Bốt, diễn biến đang sôi động với nhiều trận đánh lớn. Hà Nội không chỉ chuyển quân vào Nam với quân lính và cơ giới hạng nhẹ, mà còn có xe tăng, đại pháo, chuẩn bị cho những trận toàn diện trên chiến trường.
Tôi đọc khá kỹ những bài cần đọc. Rồi lật vào trang trong, tôi lướt qua những mẩu tin sinh hoạt thường ngày từ Sài Gòn đến các tỉnh thành. Huế sắp có cuộc triển lãm cho mùa xuân năm Nhâm Tý 1972.
Bỗng nhiên, tôi đâm ra ngỡ ngàng, như thể tờ báo trên tay tôi nhẹ nhàng một chiếc lá đang rớt xuống mặt đất. Tôi bâng quơ với những kỷ niệm đã muộn màng. Rồi giữ được chút bình tâm, tôi đọc lại tin vui của Huê. Bây giờ, lòng tôi trống trơn, cố gắng hình dung lại gương mặt của Lan Huê, nhưng sau đó mấy giây khắc, lạ thay tôi không còn nhớ được gì thêm về nàng nữa.
Ngồi trong quán ăn như đã lâu, tôi gấp tờ báo đứng dậy đến quầy trả tiền.
Khi ra ngoài đường, trong cái lạnh, tôi chợt có cảm tưởng như Huê đang còn trong tôi, chứ không phải đi lấy chồng.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 21 Mar 2017

V

Một giọng bình thường, mẹ tôi hỏi:
- Đi sớm vậy con?
Tôi không đáp lời, bất chợt ngửi mùi vị sương muối từ ngoài vườn tan vào, rồi lặng yên ngồi xuống bên giường mẹ. Trên chiếc gối, mái tóc đã bạc của mẹ xõa rộng, lúc này, tôi vẫn không biết mình muốn nói điều gì.
- Sang năm, con về thăm nhà?
- Dạ, chưa biết.
- Sao con không xin về ngoài này cho gần nhà?
Tôi nắm lấy bàn tay của mẹ. Vừa đủ để cho mẹ nghe tiếng, tôi nói:
- Ở trong đó con có điều kiện tìm kiếm thêm việc làm.
- Con ở nhà thuê?
- Không, ở trại lính.
- Thằng Nguyên có đem cô bạn gái về.
- Con biết.
- Con đã gặp chưa?
- Dạ chưa.
- Cô Nga dễ thương lắm, ở Đà Nẵng.
- Dạ.
- Với con, thì sao. Đã quen ai chưa?
- Chưa.
- Ba mẹ rất mong các con có gia đình.
- Nhưng vẫn còn lâu, mẹ ạ.
Trong bóng tối, tiếng chuyện trò vẫn gây một cảm giác xa vắng lẫn vào trong sương muối. Tôi chợt nghĩ đến người cha. Hình như trong đời mình, ba tôi luôn sống xa gia đình nhưng mỗi khi có được dịp trở về, lòng ông thấy rất vui, rồi bao nhiêu hạnh phúc của mình lại chỉ muốn được để dành hết cho người vợ.
- Thôi, mẹ nằm nghỉ đi.
Tôi nhấc bổng chiếc ghế đem cất. Với túi xách nhỏ trên tay cùng vai đeo ba lô, tôi bước ra ngoài rồi cẩn thận đóng cánh cửa. Có tiếng Phương cất lên gọi. Vừa mới dời bước, tôi ngoái đầu nhìn lại rồi vẫy tay tạm biệt cô em gái.
Nhà gia đình tôi thuê ở nằm khuất sau lưng vườn, có lối đi riêng bằng đường nhỏ, và trong lúc trời hẳn còn tối tôi đi bộ ra phía cổng để gặp con đường chính. Tôi dừng bước ít giây vì mắt tôi bị chói lóa bởi ánh đèn điện hắt xuống. Từ con đường ngang trước mặt, tôi lại đi bộ lên phía nhà ga nơi có trạm ngừng xe buýt. Một mình, khí lạnh ban mai làm tôi cảm thấy thật dễ chịu. Mùa hè như đã xa, và mùa thu đang về từ một nơi nào đó.
Bên ngoài sân ga, đèn mở sáng suốt đêm. Chỉ có một chiếc xe buýt đậu chờ khách. Khi vượt qua khỏi cây cầu, tôi trông thấy hai quán hàng mở cửa bán cà phê. Đèn trong quán hắt ra một vũng nhỏ, tôi đến vừa kịp lúc xe sắp chạy.
Người tài xế dụi tắt điếu thuốc, tiếng máy xe nổ khô khan, rồi nặng nề lăn bánh. Ra khỏi ga, chiếc xe vượt cây cầu nằm trên con đường về trung tâm thành phố. Những hàng cây phượng đẫm ướt qua sương sớm, ánh đèn điện cứ lùi dần khi xe đang chạy. Tôi nhìn qua công viên thấy sương mù trên sông, thấy những chấm đèn sáng của mấy con thuyền neo đậu, còn bên xa kia kinh thành vẫn đang mờ tối, chập chùng những cái bóng di chuyển trên bức tường gạch.
Chỉ hơn mười phút từ nhà ga đến cầu Mới, rồi xe qua phố Trần Hưng Đạo để vào bến chính nằm bên trái khu chợ.
Xe ngừng, hành khách xuống. Không khí buổi sáng sớm ở bến xe yên lặng, ấm áp. Những người đạp xích lô đang chuyện trò, mấy người buôn bán còn đứng bên cạnh những gánh hàng để chờ xe đổi chuyến. Quán cà phê mở cửa sớm, trong quán, đông khách ngồi. Tôi ghé vào quán, ngồi bàn trống ở ngoài gọi một ly cà phê và thêm chiếc bánh pâté chaud. Cà phê đã pha sẵn, rất nóng, tôi uống một hớp nhỏ rồi đốt điếu thuốc. Tôi sẽ ăn chiếc bánh, và uống cà phê sau khi hút xong điếu thuốc. Buổi sáng sớm, trời thấm lạnh, lúc này sắp sang thu. Mùa hè mong muốn đi xa, còn đang ngồi đây với bao nỗi niềm riêng của mình. Tôi chợt nghĩ đến một thiếu nữ nhỏ bé áo trắng, và một cô gái mang bóng hình áo tím như đang lớn dậy giữa cuộc đời, hai hình ảnh đó tôi có thể mang theo với sự trìu mến ân cần, hay tốt hơn, hãy nên cứ gởi lại cho thành phố để nhớ ngày về.
- Con đã quen ai chưa?
- Dạ chưa.
Chiều hôm ấy trời đổ một trận mưa lớn. Căn phòng ở tầng lầu hai bật đèn sáng. Trên chiếu bạc, mọi người hồi hộp theo dõi cô Hoa làm cái đang bắt bài. Rút cây thứ tư, cô nhẩm cộng số nút trên từng lá, ra vẻ ngập ngừng, suy nghĩ. Lan cười nói:
- Còn bài non đó cô.
Cô Hoa không đáp lời mà chỉ nhìn qua mỗi tụ bài của các nhà con đang để úp. Trong lúc chờ, tôi đếm tiền sắp lại ngay ngắn. Trời mưa lớn, tôi nghe tiếng mưa và cứ tưởng mình đang ngóng đợi, trông chờ ai.
- Nhà nào bù, bỏ ra.
Cô Hoa đã rút thêm cây bài nữa mà tôi chẳng hay. Huê reo mừng:
- Em hên quá.
Rồi tiếp theo là Lan với nụ cười mãn nguyện. Cô Hoa bắt lá 6 chót, dư một nút, nếu cây 5 hay 4 là ngũ linh, cô ăn toàn làng. Từ trái sang phải, theo thứ tự, cô Hoa lật bài xem xét lại và chung tiền. Bài của tôi hai con tây, quá chắc ăn. Từ trưa đến giờ tôi thật đỏ, trúng luôn nhưng vì không đặt lớn nên ăn không nhiều lắm.
Hết cái, cô Hoa đưa bộ bài qua cho anh Bường. Với bàn tay mau lẹ anh Bường xóc bài, rồi chẻ bài, trước khi mở hội đã lên tiếng:
- Cho đặt líp.
Tôi nghỉ chơi, đứng dậy nhường Phụng vào chiếu. Ra lối cầu thang, tôi bước nhanh chân xuống nhà. Nhà dưới vắng lặng, mọi người đang ở trên lầu chơi bài thành hai hội, một hội xì dách, một hội tứ sắc. Ở hội tứ sắc, người lớn chơi và luôn có tay dì Hồng mẹ của Thúy. Thúy cũng đang ngồi bên chiếu bạc, say mê.
Tôi đi xuống bếp, mở chạn tủ lấy gói cà phê và chiếc phin ra. Tôi cho cà phê vào phin vừa đúng hai muỗng đầy. Xong, tôi để phin lên cái ly nhỏ rồi xách chiếc ấm ra bể lấy nước. Nước múc đầy ấm, tôi đem vào bếp đặt lên lò, tay sắp những thanh củi gác chồng lên nhau xong bật diêm mồi que đóm cho lèn vào dưới lớp củi. Đóm bằng gỗ thông có chất dầu nên mau bắt lửa, cháy bùng thật nhanh.
Gian bếp nằm riêng biệt, không rộng nhưng ngăn nắp. Trên cái bàn gỗ cũ kỹ, phía đầu để một rổ chén bát, và ngay bên trên là ống tròn bằng nhôm móc vào sợi thép cứng để bó đũa. Chiếc bàn dựa sát tường phên với nhà bên cạnh, có ô cửa lưới ăn thông. Vào giờ đứng bếp, hai nhà cùng nấu nướng, vừa chuyện trò với nhau. Nhà dì Hồng và cô Tư rất thân thiện. Bên cô Tư đông con cái đến mười người. Cô chỉ có hai cậu con trai, còn tất cả là gái, từ mấy chị lớn đến các cô nhỏ người nào cũng thùy mỵ, dễ mến trong cách trò chuyện hay vui đùa. Cô Tư ở nhà nội trợ, còn thầy đang làm Hiệu trưởng trường tiểu học cầu Kho.
Tôi đứng cạnh bếp lò nhìn những ngọn lửa cháy sáng đều. Trời mưa lớn, bỗng tôi thích thú với ý nghĩ mình sẽ được thưởng thức một ly cà phê thơm, vừa đậm ngon. Mọi thứ, đều đã có sẵn. Tôi để tay lên túi áo sờ nhẹ gói thuốc, thấy nó còn đầy. Chút nữa, pha xong cà phê, tôi uống một ngụm cho ngon miệng rồi mới đốt một điếu thuốc.
Bất giác tôi mỉm cười, vừa lức ấy Huê xuất hiện. Tôi hỏi:
- Sao em nghỉ, không chơi nữa?
- Em thua, hết tiền rồi.
- Có cần, anh cho mượn,
- Không, em cũng không thích ngồi lâu.
Tôi ngước mắt nhìn khuôn mặt Huê. Tôi thấy cái dáng vẻ Huê đúng là một thiếu nữ đẹp. Huê mặc bộ quần áo thường có chấm bông đỏ, khuôn mặt trái soan rất hợp với mái tóc cắt ngắn. Và nét đẹp của Huê rất là Tây phương. Thúy, con dì Hồng cũng dịu dàng nhưng không đẹp bằng Huê. Trong ngõ hẻm từ dãy nhà đầu đến cuối rất đông các cô gái còn đi học, nhưng không một cô nào đẹp sánh bằng Huê cả. Ba mẹ cô gái người Bắc, nhưng mấy anh em đều nói theo tiếng Nam. Huê có hai anh chị học Đại Học. Vào ngày thường, Huê hay mang gạo qua gởi nhà dì Hồng quen gọi là cô Ba để nhờ nấu cơm. Tôi đã để ý đến Huê, và bắt chuyện làm quen sớm hơn ai hết, ngay sau tuần lễ đầu tôi đến ở nhà dì Hồng. Huê cũng mến tôi, cô rất thường hay qua nhà Thúy và lúc gặp tôi cô gái chuyện trò rất tự nhiên. Huê học trường Gia Long, cô học khá, là một thiếu nữ rất ghiền xem phim. Tôi cũng mê phim ảnh, các nam nữ tài tử tôi đều nhớ hết tên, và những phim kể chuyện tình, lúc xem, tôi còn nhớ rõ từng chi tiết. Thế nhưng, tôi không có được sự kiên nhẫn, chăm chỉ với sách đèn. Tôi đã bỏ học, và rồi đây tôi sẽ xa cách với bao nhiêu kỷ niệm buồn, câm nín trong lòng mình.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 21 Mar 2017

- Anh đun nước pha cà phê?
Chỉ trong ít giây, hình ảnh Huê kéo tôi trở về gần gũi bên nàng. Tôi mỉm cười, nói giọng tự nhiên:
- Trời lạnh, không có gì thú bằng uống cà phê.
- Anh có tâm hồn nghệ sĩ.
- Một chút thôi. Em uống cà phê nghe, uống với anh cho vui.
- Không, em không uống được cà phê.
Tôi nấu một ấm đầy cho cả nhà dùng luôn nên đứng chờ lâu. Giờ thì nước sôi đã reo, vừa bốc hơi. Cả hai người cùng lặng im để nghe tiếng nước reo, bên ngoài mưa càng lớn.
Tôi nhấc ấm nước, lửa trong bếp dần tàn ngọn. Huê bước tới gần nhìn tôi pha cà phê. Sau khi rưới cho thấm ướt cà phê một chút, tôi đổ nước sôi đầy phin, xong đậy nắp. Cà phê rớt xuống chiếc ly trong từng giọt đậm, thật đẹp mắt làm Huê thích thú. Huê đứng ngắm những giọt cà phê chảy, cô chợt nghĩ, nước mưa thì vui như tiếng nói hay tiếng cười, còn từng giọt cà phê là màu đen đậm đặc, nó luôn mang mang nỗi buồn.
- Em lên chơi bài tiếp đi.
- Bộ anh đãng trí rồi sao?
- Không. Anh sẽ đưa tiền cho em lên chơi tiếp. Ăn thì mình cưa đôi.
- Còn thua, sao?
- Thì thôi.
- Thôi, hôm nay em đen lắm. Anh ăn nhiều phải không?
- Anh được hơn sáu trăm.
- Anh ăn non rồi đứng dậy.
- Anh chơi cho vui thôi. Ít ngày nữa, anh xa Sài Gòn.
- Anh đi đâu vậy?
Tôi và Huê bỗng đưa mắt nhìn nhau. Tôi nói, giọng nhỏ đi:
- Ngày mai anh xa em đó, biết không?
Huê hỏi:
- Nhưng mà anh đi đâu?
- Anh đi Nha Trang. Anh vào lính rồi.
- Anh không học nữa sao?
- Không.
Tôi đáp, giọng nói khô vừa tan trong tiếng hạt mưa lớn rớt xuống mái tôn. Rồi phút giây ấy lặng im, vừa dửng dưng, mỗi người chợt theo đuổi một ý nghĩ riêng. Tôi vừa thoáng thấy vẻ buồn trên cặp mắt của Huê. Giữa tôi và cô gái, không phải hai người có đã có nỗi rung động vì yêu nhau, mà đúng ra, rất mến nhau một cách thân tình như anh em. Lúc nãy chơi bài ở trên lầu Huê ngồi cạnh tôi, có lúc nàng hơi nghiêng đầu dựa vai, mắt chăm chú xem những cây bài tôi bắt lên. Và lúc ấy, tôi nhìn thấy người em dễ thương lạ.
Cà phê ngừng chảy. Tôi nhấc chiếc phin ra khỏi ly, múc mấy muỗng nhỏ đường cho vào cà phê khuấy nhẹ. Cà phê pha xong dậy lên mùi thơm làm Huê thấy thèm, và cô cũng thấy cái dáng vẻ nghệ sĩ của người con trai qua mái tóc quăn dợn sóng, thật tự nhiên.
Tôi cầm ly cà phê đưa mời:
- Em uống thử đi.
Rất chậm từng tiếng, Huê đáp:
- Đã bảo, em không uống được mà.
- Em nói giọng Bắc hay lắm.
- Vâng, anh.
Hai người nhìn nhau cười. Trời vẫn mưa, mù mịt. Tiếng mưa lớn, nước dội ào ào xuống mái tôn. Tôi bỗng nhớ đến một câu thơ cổ: Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách.
Trong gian bếp, có mấy chiếc ghế con. Tôi để cà phê lại trên bàn, lấy một chiếc ghế nhỏ đưa cho Huê cầm rồi hai người dời ra gần chỗ sáng.
- Mưa lớn quá.
- Có mưa, mới giữ được em ngồi đây, tôi nói.
Tôi uống vài hớp nhỏ, xong châm điếu thuốc. Huê cười trong mắt, nàng nhìn tôi uống cà phê, hút thuốc tỏ ra thích thú. Tôi nhắc lại câu nói lúc nãy:
- Có mưa, mới giữ được em ngồi đây với anh.
- Tại sao anh bỏ học đi lính?
Đôi mắt tôi bỗng trở nên trơ trọi sau câu nói của Huê. Và, tôi bỗng nhớ đến Thúy Hà, người bạn gái ở nơi một thành phố xa xôi.
- Tuần rồi, em có đi xem phim không?
- Có. Phim Les jeunes loups, anh coi chưa?
- Có, phim hay lắm.
- Em lặng người đi lúc nghe tiếng kèn thật não nuột.
- Em thật giàu cảm xúc.
- Còn anh, lúc nào cũng ra vẻ nghệ sĩ.
- Anh cũng có một vài điểm giống em.
Tôi nói xong, Huê không giãi bày gì cả. Cơn mưa bị chiều gió thổi tạt một giọt mưa lớn rớt xuống vai áo của Huê. Tôi bỗng cầm lấy tay Huê lúc cô gái đứng dậy dịch chỗ ngồi tránh mưa. Rồi tôi buông tay ra lúc Huê ngồi xuống. Nhìn gương mặt đẹp của cô gái, tôi nói:
- Anh có một người bạn gái rất thân.
Huê hỏi:
- Anh sẽ đi xa bao lâu?
- Chừng ba tháng.
- Rồi anh trở về lại đây.
- Chưa biết nữa. nhưng anh mong về. Anh rất nhớ Sài Gòn, anh nghĩ đây là thành phố tuổi trẻ của mình.
- Anh sẽ làm phi công?
- Không, anh đi chuyên viên. Có thể sau này anh trở thành thợ máy.
- Làm thợ máy cho phi cơ?
- Khi nào phi cơ hư hỏng, trở ngại đem vào ụ thì chuyên viên coi sóc sửa chữa. Giống như xe hư, mình sửa vậy.
Tôi giải thích cho Huê bằng những điều nghe được trong những ngày qua khi tôi làm đơn tình nguyện vào Không quân, và những ngày đi khám sức khỏe tôi hay chuyện trò với những người lính cũ, họ đã cho tôi biết một số ngành nghề trong binh chủng này.
Huê hẳn còn là một cô gái học sinh. Nàng chưa quen ai cả, và nàng cũng đã biết tôi để ý tới nàng ngay từ những ngày đầu mới gặp.
- Anh học ở quân trường nào?
- Nha Trang. Em đến thành phố đó chưa?
- Chưa.
- Em có thích những thành phố ở miền biển?
- Rất thích. Nhưng tại sao anh không làm phi công?
Tôi bỗng nhìn lâu vào mắt Huê. Tôi thấy Huê đúng là hình ảnh của cô Phượng trong tiểu thuyết Đời Phi Công của nhà văn Toàn Phong. Tôi đã đọc cuốn đó một đôi lần, thật mến yêu cô Phượng là hình ảnh đẹp trong văn chương đem ra giới thiệu với người đời. Và rồi, tôi cũng nghĩ mình chọn binh chủng Không Quân vì yêu cuốn sách, vì bóng hình cô gái đó. Giờ đây, Huê chính là cô Phượng đang ngồi trước mặt tôi. Nàng thật là giống, giống lắm, với mái tóc cắt ngắn bao quanh gương mặt đầy đặn, với nỗi buồn quá nhẹ chỉ để làm đẹp cặp mắt khi nàng cảm thấy vui, hạnh phúc. Nhưng thật buồn thay, tôi không phải là phi công. Tôi nói thầm với Huê, anh không phải là thế, nhưng anh yêu em.
Những ngày cuối sắp rời Sài Gòn, giây phút nào nỗi buồn cũng cứ buông trôi, chấp chới trong cõi lòng khiến tôi có cảm giác miệng lưỡi cứ đầy ứ những vị chua, vừa đắng. Mỗi ngày, tôi hầu như ngồi trên các chuyến xe buýt. Một hôm ấy, tôi tìm đến Lăng. Vừa thấy bóng ai xuất hiện lối hiên ngoài, Lăng vội ngừng viết, gấp sách. Tôi bước vào, với vẻ mặt ủ rũ. Lăng nhìn tôi lo ngại, định lên tiếng hỏi nhưng vừa ngồi xuống ghế, tôi nói ngay.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 21 Mar 2017

- Tôi sắp đi Nha Trang.
- Anh đi có việc gì?
- Tôi nhập ngũ, vào binh chủng Không Quân.
Tôi hơi ngạc nhiên, và những ý tưởng Lăng muốn nói bỗng nằm lại trong cặp mắt mình với một nỗi xốn xang, tuy nhiên, nếu có nói ra cũng sẽ không phù hợp với những điều tôi đang nghĩ. Tôi tiếp lời:
- Tôi đi chuyên viên, lính thường thôi.
- Chừng nào anh đi?
- Hai ngày nữa.
Hai người im lặng. Tôi nhìn vào chồng sách, cầm một cuốn sách Luật xem qua rồi gấp lại. Lăng hỏi:
- Anh không đợi đến hè, thi cử xong đã.
- Thôi, tự nhiên tôi chán chuyện học hành.
- Anh đi, có bạn nào quen không?
- Có, bạn học ở Đà Nẵng. Bạn thân, nó muốn tôi đi cùng.
Lăng không nói gì, nhưng rất hiểu tâm trạng của tôi. Từ ngày vào Sài Gòn, tôi sống như một kẻ lạc lõng, chênh vênh không có điểm tựa. Những ngày đầu háo hức trước một thành phố có đời sống xô bồ, sôi nổi, giờ đây đã lắng dịu, buồn bã trong lòng tôi. Vào đây, tôi cố gắng tìm kiếm việc làm, nhưng nó không chắc chắn.
- Anh đợi thi xong đã.
- Thôi, tôi không thích học nữa.
Tôi vẫn muốn giấu, không cho Lăng biết đơn xin hoãn dịch của tôi đã bị từ chối. Buổi chiều thật yên tĩnh. Lăng xếp sách vở cho vào kệ xong thay quần áo, mở hòm rương lấy ít tiền bỏ túi rủ tôi đi chơi.
Hai người rời nhà đi ra trạm xe buýt. Vừa đi, tôi bắt đầu câu chuyện nói với Lăng. Bằng một giọng cố gắng giữ niềm tự tin, tôi nói cho Lăng biết tôi đã làm đơn xin nhập Không Quân từ một tháng nay. Mỗi ngày, tôi đều có mặt ở Bộ Tư Lệnh Không Quân để bổ túc hồ sơ và khám sức khỏe. Kết quả, tôi đủ điều kiện để theo học khóa chuyên viên. Bên Không Quân khác với Bộ Binh, nói là đi lính, nhưng sau mấy tháng học căn bản quân sự không phải ra ngoài chiến trận mà sau đó, được theo học ngành nghề, những ngành như không lưu, kiểm báo, hoặc cơ khí, rất dễ có cơ hội được gởi đi ngoại quốc học thêm về chuyên môn.
Lúc tôi ngừng nói, Lăng hỏi:
- Anh đi học chừng bao lâu?
- Ba tháng.
- Rồi trở về Sài Gòn.
- Không biết nữa, ra khỏi quân trường là đi đơn vị.
- Mình có chắc được đi học ngành không?
- Ở đơn vị một thời gian, sau dó họ sẽ cho đi học.
Hai người đứng chờ bên trạm xe buýt. Không biết nói với nhau gì thêm, tôi nhìn ra con đường, lúc này trên gương mặt tôi không giấu được cái vẻ còn ngơ ngác của mình. Chuyến xe buýt tới trạm ngừng. Xe đông khách, tôi và Lăng đứng ở cạnh lối cửa lên xuống. Và, chuyến xe chạy đi ngay sau ít phút ngừng, rồi cứ ghé vào mỗi trạm là thả khách xuống rồi đón khách lên.
Xe vào bến chính ở trước chợ Bến Thành trong cảnh tượng buổi chiều thật huyên náo giữa đô thị. Xuống xe, tôi hỏi Lăng:
- Mình đi đâu?
- Đi lòng vòng chơi phố một lúc.
Tôi bước theo Lăng, trong đầu óc đôi lúc còn nghĩ vẩn vơ. Ngang qua những tiệm tạp hóa, hiệu sách và các quán dọc vỉa hè, tồi và Lăng chỉ đưa mắt nhìn thoáng. Bất chợt Lăng hỏi:
- Anh cần mua gì không?
- Không.
- Anh cứ mua đi, có tiền đây.
- Thôi, chẳng có gì cần mang theo.
Tôi và Lăng cứ đi dọc theo vỉa hè phố Lê Lợi mắt lướt nhìn, và trong ý nghĩ như cố gắng gợi nhớ ra một chuyện gì quan trọng. Tôi tự dưng cảm thấy mình bức rức trước hình ảnh một ngày cuối ở Sài Gòn. Tôi nhìn quang cảnh phố trong nỗi buồn xa lạ, dù rằng, đã ở được sáu tháng, nhưng tôi vẫn không thể coi đây là thành phố thân thuộc với mình.
Không mua sắm gì, tôi và Lăng tạt vào quán Mai Hương ngồi nghỉ chân uống nước. Ngồi chơi một lúc lâu, sau đó, hai người rời quán, ra đường phố lang thang qua một vài nơi rồi tìm đến rạp hát Lê Lợi.
Rạp hát này luôn chiếu thường trực, có nhiều phim hay và giá vé rất rẻ. Tôi thường hay xem ở đây, bạn có 10 đồng trong túi là mua được một ly trái cây xay, một lát bánh mì nướng và một vé vào rạp.
Rạp đang chiếu phim The Sun Also Rises. Trong lúc Lăng đến quầy mua vé, tôi ghé vào quán nước mua bánh mì và nước giải khát mang vào rạp để vừa xem vừa ăn.
Xuất hát trước vãn, giờ đang đón khách cho xuất hát mới. Dòng người theo nhau tiến vào cửa. Ánh đèn và hơi mát của máy lạnh làm cho tôi cảm thấy dễ chịu khi bước vào trong rạp. Hai đứa ngồi ở bên bìa hàng ghế giữa. Lúc này, đang giờ nghỉ, phim chưa chiếu nhưng có phần nhạc đệm cho khán giả nghe vừa giải lao. Vừa nhớ ra được gương mặt nữ tài tử Ava Gadner trong cuốn phim cũ vào ngày hôm đó tôi và Lăng coi ở rạp Lê Lợi, bây giờ chợt nghĩ thời gian mấy năm của tôi trong quân ngũ tưởng quá lâu.

Bên dưới, cảnh vật trông hoang vắng, buồn bã. Tôi không chờ đợi gì hơn ngoài sự hiện hữu của mình, những kỷ niệm mà tôi nhớ cũng chỉ đến tình cờ không đứng yên một chỗ. Khi vượt qua khỏi cánh rừng, tôi nhìn thấy con suối uốn lượn quanh chân đồi. Rồi, chiếc trực thăng hạ cánh. Bãi đáp được lót bằng những tấm ghi, có bề mặt ước chừng bằng nửa sân đá bóng. Hai người phi công chính và phụ vẫn ngồi ở ghế lái, cánh quạt cứ quay đều trong lúc hàng tiếp tế gồm hai cái thùng giấy và bốn bao tải lần lượt được chuyền xuống. Tôi rời phi cơ khi hàng tiếp tế được tải xong, và từ chỗ bãi đáp tôi theo toán lính tải hàng đi lên phía đồi dốc nơi đóng quân của Ban chỉ huy Tiểu đoàn.
Tiếng động chiếc phi cơ trôi xa dần, bay qua khỏi con suối và cánh rừng. Mưa cũng đã tạnh. Vừa đi vào bên trong căn hầm, tôi nghe một sĩ quan ban 3 đang liên lạc hành quân với một đơn vị đang hoạt động ở ngoài.
Tôi cầm sẵn sự vụ lệnh trên tay, đứng chờ. Tôi không vào văn phòng mà đã gặp ngay vị Thiếu Tá ở đây, ông đang theo dõi viên Trung úy liên lạc với các toán bên ngoài.
Rồi lúc vị Thiếu Tá quay lại, tôi đứng nghiêm chào kính. Ông nhìn tôi vừa nhận tờ SVL, cúi mắt đọc.
Một lúc sau, ông hỏi:
- Anh là người ở đâu?
- Tôi, người Quảng Trị.
- Có biết Đại úy Thụ không?
- Dạ không.
- Đại úy Thụ cũng là người ngoài quê anh.
- Vâng.
Vị Tiểu đoàn trưởng người miền Nam. Dáng vóc cao lớn, rắn chắc, nhưng giọng nói rất nhỏ nhẹ, ôn hòa.
- Anh mới ra trường, chưa có kinh nghiệm để nắm một trung đội tác chiến.
- Vâng.
- Anh sẽ về Đại Đội II của Trung úy Chánh, nhưng tôi giữ anh lại đây một tuần để thực tập công việc của ban 3.
- Vâng.
Trong dáng vẻ của mình, tôi biểu lộ tính cách con người chơn chất. Tôi không hỏi han, yêu cầu, chỉ thuận nghe những lời vị Thiếu tá đã nói với mình. Tới giờ ăn trưa, tôi được dùng cơm chung với vị Thiếu Tá và các sĩ quan trong ban chỉ huy của Tiểu đoàn.
Ngày hôm sau, tôi bắt đầu công việc ở ban chỉ huy. Tôi thực tập với sĩ quan hành quân về liên lạc vô tuyến, nhận lệnh và chuyển lệnh của Tiểu đoàn trưởng xuống cho các Đại đội đang hoạt động ở ngoài. Cũng ở đây, vẫn thường xuyên liên lạc với hậu cứ Trung đoàn để nhận các chi tiết hành quân và yểm trợ của phi cơ.
Vì đã có một thời gian làm hiệu thính viên nên việc sử dụng máy truyền tin, tôi làm rất quen tay, và hiểu rõ các khẩu lệnh hành quân.
Hết thời gian nghỉ phép hai tuần, vị Tiểu đoàn phó trở lại đơn vị. Hôm ông trở về, không khí trong Tiểu đoàn vui nhộn hẳn lên.
Lúc nghe vị Thiếu tá nói đến một người Quảng Trị, không phân biệt cấp bậc, chức vụ, ông tìm đến ngay.
Tôi đứng lên, chào kính. Rồi, trả lời:
- Tôi có ở Quảng Trị, nhưng đi xa cũng đã lâu.
- Ngoài đó, anh không còn ai?
- Dạ không, chỉ còn làng quê bên ngoại và nội.
Vẫn giọng bình thường, viên Đại úy hỏi:
- Ở Quảng Trị, hồi đó nhà anh ở đâu?
- Tôi ở ga. Gia đình tôi từ Đông Hà vào tỉnh năm đình chiến, đến năm 60 vào miền Nam.
- Sao lại đi?
- Ba tôi làm giáo viên. Do bị kỷ luật, ba tôi phải đổi đi xa vào dạy học ở tỉnh Phước Thành.
- Sao anh đi lính trễ quá vậy?
Tôi lược kể qua thời gian đi học và đi lính của mình. Viên Đại úy lắng nghe, mắt nhìn tôi chú ý tìm trong gương mặt tôi nỗi buồn của một kẻ thất bại.
- Thôi được, bạn hãy quên, và bắt đầu vào giai đoạn mới. Biết đâu…
Tôi hỏi:
- Ngày trước, Đại úy có học trường Nguyễn Hoàng?
- Tôi học trường đó, chứ đâu khác.
- Tôi có biết anh Khanh, phi công bay vận tải.
- Huỳnh Đăng Khanh, phải không?
- Đúng, anh Khanh đó. Chắc anh Khanh cũng lên Đại úy rồi.
- Tôi biết Khanh, nhưng học khác ban.
Với tình thân, lúc này tôi cảm thấy cần nói rõ hơn về trường hợp xin đi học trễ muộn ở trường Thủ Đức.
- Vậy, anh đã xong Tú Tài đôi chưa?
Tôi cười trừ, đáp:
- Chưa.
Bỗng để ý vào ngón tay đeo nhẫn, tôi hỏi:
- Đại úy xuất thân trường Đà Lạt.
- Đúng. Trong khóa tôi, có bốn người Quảng Trị.
Hai người Quảng Trị đã tình cờ gặp nhau, và họ có một giờ trò chuyện trong buổi chiều nắng ấm, vừa lạnh vào thời gian mùa đông sắp sửa hết. Nhớ đến Quảng Trị, tôi còn có thêm một ảnh hình hiền dịu của chiếc áo dài tím là chị Phượng Nga. Và rồi, thời niên thiếu của tôi ở Đà Lạt, luôn luôn gợi nhắc tôi nhớ đến một câu chuyện của Thùy.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 21 Mar 2017

Trên đồi, những quả đạn súng cối 60 ly bắt đầu được bắn quấy rối vào các mục tiêu nghi ngờ có địch quân.
Bỗng nhiên tôi hỏi:
- Đại úy có gia đình chưa?
- Chưa.
- Anh thì sao?
- Dạ, cũng chưa.
Nắng buổi chiều vắt qua con suối, phía bên kia cánh rừng lao xao trong tiếng gió và bất chợt có tiếng vỗ cánh của bầy chim vụt bay lên.
- Anh còn nhớ một thời cũ ở trường Nguyễn Hoàng không? Đó là một đêm văn nghệ tuyệt vời, không thể nào quên…
- Có nàng Yên Cơ trong vở kịch Kinh Kha, phải không?
- Anh biết tên nàng không?
- Biết rõ lắm, nàng Vương Lệ Chi.
- Tên rất hay, đúng với mộng của người đẹp.
- Và, Kinh Kha sẽ không đi vội sang Tần, nếu Thái tử Đan không dâng hai bàn tay đẹp của nàng Yên Cơ cho chàng.
- Đêm ấy, thật tuyệt vời,
- Một đêm để cùng trở về, và luyến nhớ.
Với mối tình thân của người đồng hương, tôi có được lòng tin về cuộc sống. Ở nơi đây là núi rừng và của bao nhiêu chiến hữu.
Thời gian tôi phụ việc ban 3 đúng một tuần, không hơn. Buổi sáng thứ hai các Đại đội trưởng lên Tiểu đoàn họp hành quân, sau một giờ, tôi mang lô, nón sắt, cùng súng đạn đi theo Trung úy Chánh ra ngoài Đại đội II.
Từ ngọn đồi có hai con đường nhỏ đi xuống, lối trước qua sân bay là phía dòng suối và bên kia là cánh rừng, lối nằm sau lưng nhìn thấy rõ đồng bằng trải rộng quang cảnh các làng mạc. Mùa đông có một chút ảm đạm, nhưng trông yên bình. Trời không mưa, sương mù cũng đã tan, và có ánh nắng sáng lên một vài nơi.
Tôi lên tiếng hỏi vị Đại đội trưởng:
- Trung úy học Đà Lạt hay Thủ Đức.
- Tôi ra trường Thủ Đức.
Tôi vẫn còn ấm ức chuyện đời lính của mình, nhân lúc này lại dài dòng nói ra những lời tâm sự. Một giọng vui, viên Trung úy hỏi:
- Anh ở bên Không quân, dù làm lính, có phải sướng hơn không?
- Thực sự là nhàn, nhưng việc học của tôi trì trệ quá.
- Mỗi người có cái số. Biết đâu, ra ngoài này đánh trận, anh lên lon nhanh, bù lại cho mấy năm thua thiệt.
- Tôi không dám nghĩ vậy.
- Đời binh nghiệp khó đoán lắm. Anh cũng thấy rõ, nhiều ông tá và tướng, chỉ sau mười năm lính là như gió gặp diều, lên lon, chẳng có ai cản nổi.
Lối đi ngoằn ngoèo, có khúc rộng, khúc chật, hai bên cỏ lau cao, ướt át vì trong mùa này ngày nào cũng có mưa lớn nhỏ, lúc sáng, lúc chiều, có khi qua đêm.
- Trong tháng rồi, Đại đội mình đụng trận lớn không Trung úy?
- Không, ở vùng này, mình đụng thường xuyên đám du kích.
- Đây là vùng bất an, ổ hoạt động của Việt Minh hồi trước.
- Bọn du kích ở đây lỳ lợm lắm.
- Đại đội thanh toán đám nào lớn chưa?
- Có, năm ngoái.
- Trung úy có nghĩ năm tới đánh lớn không?
- Chắc chắn rồi.
Tôi nói:
- Khi Mỹ rút quân, ngoài Bắc đã chuẩn bị. Trước đây, tôi có đi theo hành quân của toán Không trợ với đơn vị Sư đoàn dù, nhưng chỉ có ngồi ở bản doanh của Lữ đoàn. Tôi mang máy, còn mọi việc liên lạc có Sĩ quan lo.
- Anh khá tiếng Anh không?
- Tạm thôi.
- Trường hợp liên lạc trực thăng Mỹ, anh nói được không?
- Cũng được ít câu. Tôi có học trường Anh ngữ Quân đội sáu tháng.
- Vậy tiếng Anh của anh, cũng khá đấy.
Tôi tính nói những lần thi test của mình, nhưng thôi.
Hai người đi xuống hết đường núi, rẽ trái trên con đường đất ngoài bìa làng. Tôi ngoái đầu, thấy quả đồi của căn cứ West càng vươn lên cao, xa dần. Bỗng dưng, tôi nhớ nghĩ đến Huê. Hai người lính bên nhau, lại bắt đầu những chuyện ngoài đời, về phần riêng của cá nhân mình, trong câu chuyện, sự hồi tưởng đã có ít nhiều chút bụi bặm của thời gian muốn cho mờ phai. Thời trước, Huế là thành phố của tuổi trẻ, và những tháng ngày sôi động ở nơi này, Chánh có dự phần và ý thức về một cuộc cách mạng. Nơi đây, tuổi trẻ bắt đầu hiểu rằng mình cần phải nhận lãnh một trách nhiệm về đất nước, không thể thụ động, bằng lòng đóng khung trong nếp sống suy nghĩ cầu an của gia đình, của trường học, để rồi, cái học cốt là có được mảnh bằng làm điểm tựa cho cuộc sống. Ngày tháng ấy, Chánh cũng thuộc vào những nhóm sinh viên dấn thân, có lý tưởng về một xã hội mới mẻ, tốt đẹp. Và, chính anh, cùng các bạn tạo ra được một phong trào thanh niên phụng sự xã hội, sống cuộc đời lãng tử, đáng yêu. Nhưng, trong một lớp tuổi nhu cầu động viên đòi hỏi, Chánh rời trường Đại học sớm, đi vào quân trường, và trở thành một người lính như hôm nay. Ở mấy năm Đại học, Chánh chỉ lấy được chứng chỉ dự bị, thi có một lần thôi. Và, vào trường Thủ Đức, anh nhập học khóa 24. Tiếp lời dẫn, anh nói đây là một khóa tôi được biết đến nhà thơ Nguyên Sa vừa là một ông thầy dạy môn Triết và rất nhiều anh em làm văn nghệ đã có truyện đăng trên báo Văn và Bách Khoa.
Bỗng cắt lời vị Đại đội trưởng, tôi nói:
- Tôi không có được tuổi trẻ đầy ý nghĩa như Trung úy đã có trong thời sinh viên. Nhưng tôi vẫn nghĩ, tuổi trẻ là tuổi của hai mươi, trong đó, cái đẹp chính là phần trí thức để hiểu tại sao mình hành động và dấn thân. Tôi đã có suy nghĩ về biến cố 1963, và thấy rằng, sau biến cố này, ở miền Nam đã có được một luồng gió dân chủ tạo nên nguồn sống mới cho cả một thế hệ thanh niên miền Nam với sinh viên là tiên phong. Ở trong thành phần này, tính cách làm dáng chỉ là một hình thức, nhưng mỗi người sinh viên trong giai đoạn này rất cần thiết, vì họ hiểu rằng, mình đã ý thức được một trách nhiệm. Sự xáo trộn và chiếm quyền của các ông Tướng chỉ thuộc về lãnh vực chính trị, còn xã hội, chính là lớp trẻ, và chính họ mới tạo nên được nhiều phong trào sinh hoạt, trong đó, du ca là một nét đẹp tìm về ý nghĩa đích thực của quê hương.
- Đúng, anh nói đúng.
- Tôi không biết thời gian Trung úy học ở Huế. Nhưng tôi đã ở thành phố biến động này vào những năm tháng đó, tự coi mình như là một người chứng trước mọi biến cố xảy ra, tôi thấy ngay, ý thức của sinh viên Huế trong biến cố đó, tuy bồng bột, nhưng rất sôi nổi, nhiệt huyết, khởi đầu cho sự thay đổi xã hội miền Nam. Tôi cũng hiểu thêm, từ sự dấy động gây ra biến cố Phật Giáo, đây cũng là thời điểm lột xác của người miền Nam, hầu như, ai cũng nhận ra, sự an bình và phục tùng một chế độ, con người chỉ còn là sự cầu an, thấp hèn, bởi quá nỗi sợ hãi.
Một giọng hùng hồn, tôi tiếp lời:
- Tôi cũng thấy biến cố 1963, rất là quan trọng. Phật Giáo trong phong trào đấu tranh tôn giáo không phải chỉ là chuyện lá cờ, không phải cuộc thảm sát xảy ra ở Đài Phát Thanh, nhưng là một tiếng nói trung thực cần phải được bày tỏ và xác nhận về giá trị của con người. Con người không chỉ mong an bình, phục tùng, và chờ đón ân huệ. Con người phải biết mình sống một cách đáng sống. Vậy thì, không nói đến cuộc đảo chánh, đến thời điểm đó, bằng cách nào đi nữa, chế độ của ông Ngô Đình Diệm phải đổ, vì đó là một chế độ bảo thủ và phong kiến. Ở chế độ này, những người trí thức phục vụ đều xuất thân là khoa bảng, nhưng không một ai có được tính cách làm chủ lấy cương vị của mình, hầu như chỉ biết cúi đầu, lệ thuộc, mấy ai nhận thức rằng, mình là người trí thức nhưng cũng chỉ là cái bình phong để gìn giữ sự trường cửu cho một chế độ quan lại. Nói thực tình, ông Diệm chỉ là một người có đạo đức trong tinh thần Nho Giáo, chỉ là một vị quan lại cấp tỉnh, và ông đã sai lầm khi tự xét mình như là vua, mỗi việc làm không là một trách nhiệm với đất nước, với một tinh thần dân chủ, tự do, mà đó là một sự ban ơn, vì khi nắm được quyền lãnh đạo, ông đã coi, miền Nam là một lãnh địa của riêng ông, gia đình ông, và toàn dân cũng thuộc về tôn giáo của ông. Trong biến cố ngày lễ Phật Đản, chứng tỏ ông và chính phủ của ông quá sức vụng về, lá cờ chỉ là một chuyện rất bình thường, lãnh tụ một quốc gia không giải quyết được, thì nói gì đến đại sự liên hệ đến vận mệnh của lịch sử. Rõ ràng, qua biến cố này, dân chúng mới thấy ông bất tài không đúng là một vị anh quân sáng suốt, và quốc gia này ông đang lãnh đạo chỉ là để tạo nên một sự nghiệp lớn cho gia đình của ông, cho riêng tôn giáo của ông thôi. Còn nữa, trong chín năm cầm quyền, ông không hề tự xét và tìm hiểu nguyên nhân nào có vụ ám sát hụt ở hội chợ Ban Mê Thuột, nguyên nhân nào xảy ra cuộc chính biến 60 để phía Cộng sản dựng lên được mặt trận giải phóng, nguyên nhân nào dinh độc lập bị ném bom, và kết cục, chế độ ông đã thực sự sụp đổ trước sự vùng dậy của toàn quân dân miền Nam cùng một lòng ủng hộ phong trào Phật giáo đấu tranh. Ở biến cố này, phía Phật Giáo đấu tranh đòi hỏi tự do tôn giáo, không phải rằng, đây là một sự ngụy tạo để hình thành cuộc thánh chiến.
- Vậy trong giai đoạn đó, anh hay gia đình có ai bị bắt bớ, giam cầm không.
- Không, ba tôi làm công chức cấp nhỏ. Nhưng anh tôi, chắc học cùng thế hệ với Trung úy có hoạt động rất tích cực, nhưng may mắn, thoát được màng lưới của mật vụ.
- Người anh của anh là ai?
- Anh tôi là Nguyên.
- Nguyên, tôi biết.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 21 Mar 2017

Riêng tư với mình, Chánh cảm thấy hài lòng về một người bạn cũ học cùng lớp. Bây giờ, đứa em của người bạn đi bên cạnh anh, đã có những suy nghĩ kéo anh trở về lại những ngày tháng tuổi trẻ ấy. Đó cũng là một niềm vui nhỏ trong mùa đông này.
- Nguyên bây giờ làm gì?
- Anh ấy ở Trung đoàn 54.
- Vậy là đang ở Huế.
- Vâng.
- Vợ con gì chưa?
- Có. Vợ anh dạy học.
- Chắc là nữ sinh Đồng Khánh.
- Không, chị ấy tốt nghiệp trường Mỹ Thuật.
- Cũng hay, Nguyên hay lắm. Một con người dáng vẻ thanh tú, muôn thuở là sinh viên.
- Anh Nguyên chẳng xong được một chứng chỉ nào ở Đại học.
- Tôi biết.
- Tôi nghe giọng nói của Trung úy, nhưng khó nhận ra đích xác một vùng quê nào của nơi sinh trưởng.
Chánh nói:
- Tôi gốc gác ở ngoài Đồng Hới, Quảng Bình. Nhưng biết về nơi đó, thì hoàn toàn không. Ông cụ tôi làm nghề giáo, dạy học ở Huế, rồi vào phía trong này, ở Tam Kỳ, đến Quảng Ngãi, Quy Nhơn. Tôi là người ở bên ông bố, và những năm tiểu học, trung học đi theo ông đến các tỉnh, lúc lên đệ nhị cấp, và Đại học, tôi phải ra học ở Huế. Tôi cũng chưa xong Đại Học, vỏn vẹn chỉ có được một chứng chỉ của năm dự bị, rồi bỏ học, dạy giờ trường quận, đến năm 1966 tôi bị động viên khóa 24, từ ngày ra trường đến giờ, chỉ có đơn vị này thôi.
Hai người lính khuất dạng, một lúc sau, rời khỏi con đường núi, bóng họ xuất hiện trên con đường làng. Con đường khá rộng, từ phía này bạn đã nhìn thấy rõ quang cảnh sinh hoạt trong làng. Ở nơi đó, xuất hiện bóng dáng nhà ở, những hàng tre, hàng dừa, và những đồng ruộng thưa thớt.
Viên Trung úy chợt hỏi:
- Anh có sinh hoạt văn nghệ nào không?
- Tôi không có năng khiếu, không biết chơi một loại nhạc cụ nào cả.
- Ở Đại đội, thiếu đi nhiều phần sinh hoạt này. Anh em thường la cà đến quán, hoặc ăn nhậu cho qua hết ngày giờ. Không có gì nâng đỡ đời sống của họ ở nơi đây, ai cũng nghĩ cuộc sống trôi qua từng ngày, chết chóc bởi trận chiến không hay trước được.
- Các biệt đoàn văn nghệ có hay đến trình diễn không?
- Không có tác dụng. Chính trong đơn vị của mình tạo nên không khí mới có tác dụng.
- Họ có đọc sách báo gì không?
- Có. Anh em cũng có đọc, cũng nói chuyện về văn học. Nhưng ở đây, tinh thần binh sĩ không coi đó là điểm tựa.
- Tôi hiểu mối ưu tư của Trung úy.
Một giọng trầm lặng, viên Trung úy nói:
- Rồi anh sẽ cảm thấy mỏi mệt, mong chiến tranh chấm dứt. Nhưng cuộc chiến này không dứt nổi, ngày càng sa lầy, trầm trọng. Về phía chúng ta, chiến đấu cách nào cũng không diệt được sự điên rồ và sự tàn ác của người Cộng Sản. Miền Nam, lãnh thổ của mình, nhưng mình không kiểm soát nổi, và luôn đặt trong tình thế bị động, ở ngoài này, dọc theo dãy Trường Sơn, nơi đồi núi nào cũng có tiền đồn, căn cứ đóng quân, nhưng lại trở thành bao nhiêu mục tiêu của đạn pháo địch. Tôi không hiểu sao được người Mỹ tham dự cuộc chiến này mà họ lại không muốn quyết đánh. Hà Nội đưa quân vào miền Nam hàng binh đoàn, Sư đoàn quá dễ dàng, trong khi phía mình hoạt động ra miền Bắc chỉ một nhóm nhỏ, và nhóm nào cũng bị tóm bắt. Tôi nghĩ đến lúc này, quân Cộng Sản hoạt động ở miền Nam tương đương với quân số miền Nam. Về phía họ, đã vào Nam là thực sự là những thành phần chiến đấu, trong khi, bên quân đội mình, quân số ở thành phố, hậu phương, ở căn cứ từ cấp trung đoàn đến Sư đoàn đã chiếm hết 2/3, còn lại 1/3 trong số đó mới là thành phần cầm súng trực tiếp với chiến trận. Anh Thụy sẽ thấy khi nắm giữ Trung đội trưởng với quân số lính từ mười lăm đến hai mươi người, anh sẽ làm được gì trước bọn du kích ở trong vùng này, quân số chỉ vài chục tên. Cái khó, không phải mình không diệt được, mà mình không truy tìm được đó là tên du kích, tên trốn lính, tên đào ngũ, hay nằm vùng hoạt động giao liên. Chừng đó tên du kích mà cả làng này luôn ở trong tình thế bất an. Không phải vì chúng ta không bảo vệ được an ninh, nhưng chính dân làng đã nuôi dưỡng bọn du kích này hoạt động. Không tố cáo được, ai cũng sợ trả thù, với lại, những tên du kích, giao liên đều là những tên của các gia đình được nhiệm vụ hoạt động cho Việt Cộng cả.
Tôi nói:
- Vùng nông thôn là vùng xôi đậu. Một đám thanh niên làng, ngày theo quốc gia, đêm theo Việt Cộng. Nói chi vùng nông thôn, ngay ở Sài Gòn, đám sinh viên, công chức, cả trong quân đội nữa, cũng được VC gài người vào. Tôi có đọc nhiều tài liệu cho thấy, ở miền Nam, mình đã bán gạo, thực phẩm, thuốc men cho VC, để đổi lại là được vào rừng đốn cây để buôn gỗ. Chừng đó sự kiện, Trung úy thấy, làm sao mình thắng nổi với chỉ một lực lượng binh lính ngoài mặt trận, mỗi Tiểu đoàn, không đủ quân số đến 500, mỗi Đại đội như của Trung úy đang chỉ huy, chưa quá một trăm người lính.
- Thế hệ tuổi trẻ của chúng mình bị tước đoạt những ước mơ, những dự tưởng.
- Tôi thấy miền Nam mất hẳn sự quân bình mọi mặt.
- Anh có đọc cuốn Người Mỹ trầm lặng không?
- Tôi rất thích cuốn truyện này. Có thể nói, đấy là tác phẩm thực sự về cuộc chiến tranh Việt Nam.
- Trong đó, nói đến lực lượng thứ ba, theo anh thì sao?
- Tôi thấy miền Nam rất cần. Phải có lực lượng thứ ba, miền Nam mới độc lập tự quyết, tách rời khỏi ảnh hưởng Hà Nội. Và, có lực lượng này rồi, Hà Nội không thể nào lợi dụng được, và đó là một kế sách diệt trừ CS chính quy và du kích địa phương.
- Đó là một điều kiện cần. Nhưng chúng ta có nghĩ thêm rằng, bản chất của người Cộng sản là gây hấn. Không tìm được cách này, họ lại vận dụng cách khác.
- Nhưng, khi có lực lượng thứ ba rồi, Cộng sản không thể lớn mạnh được. Và, quân đội miền Nam, giữ được lợi thế để diệt trừ địch.
- Nhưng, ước muốn của miền Nam, lúc này đã trễ.
Hai người lính, một mới, một cũ, trong buổi đầu gặp nhau, và sẽ cùng sống chung một đơn vị đã có mối đồng cảm, những suy tư về một cuộc chiến lẽ ra không nhất thiết vì hận thù, mà lý lẽ chính đáng của nó là sự tự quyết của con người, đúng hơn là của một thế hệ vừa lớn lên sau một trận thế chiến kinh hoàng.
- Trung úy có những ngày vui của tuổi trẻ không?
- Cũng có chứ.
- Tôi chưa lên Đại Học. Người ta nói tuổi trẻ đẹp nhất, là tuổi của thời sinh viên. Trong thời ấy, cái đẹp thể hiện cả bên ngoài cuộc đời với những hoạt động tự do, và bên trong, là tâm hồn lãng mạn của riêng mình. Tôi cũng đã có chút ước mơ đó, nhưng muộn rồi, không thể trở về ngày tháng cũ nữa.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 22 Mar 2017

VI

Không thể ra Huế, tôi dừng ở Đà Nẵng. Tôi tới nhà dì Vân, bác Hội nay ở nhà mới đầu đường Lê Đình Dương, phía sân sau của trường Sao Mai. Ngồi trò chuyện với bác và dì, tôi cảm thấy ấm áp, thân tình, nhớ nhiều đến những kỷ niệm của thời học sinh. Rồi, nói xong lời chào và mấy câu chúc Tết, tôi đến nhà ông bà Kha, vừa thấy tôi xuất hiện, cả nhà mừng vui, cùng reo lên. Nhưng lòng tôi sau đó buồn lại, vì không được gặp Thúy Hà. Thúy Hà ra sao nhỉ? Hay có phải, Hội An thành phố nhỏ ấy là của nàng.
Và, sau cùng tôi tìm đến nhà Phượng Nga.
Nàng ngạc nhiên, hỏi:
- Ở Huế vào, phải không?
- Không.
- Sao vậy, không ra thăm gia đình?
- Có được ngày hôm nay thôi. Tiểu đoàn mới về dưỡng quân, ngày mốt lên căn cứ.
- Cứ tưởng Thụy ghé chơi là trong thời gian nghỉ phép.
Nhìn nàng, tôi cười nói:
- Một ngày, cũng là đi phép vậy.
- Ở lại đây nghe.
- Có tiện không?
- Bày vẽ ra nữa.
- Trong nhà, đâu phải một mình chị.
- Biết, đừng ngại.
Trên tường, chiếc đồng hồ có quả lắc, vừa đong đưa, vừa đánh lên những tiếng nhạc.
- Uống cà phê nghe.
- Cũng được, nhưng không uống một mình.
Trong ánh mắt nàng, một nụ cười thay cho tôi biết bao nhiêu lời mà tôi cảm thấy như mình vừa đặt một bàn tay thân thiết lên vai nàng. Nàng, là hạnh phúc của gia đình tôi. Ba mẹ, các em tôi rất là vui, linh hoạt từ ngày nàng làm vợ anh Nguyên và làm dâu trong nhà.
Và, lúc này đây, tôi đang ở trong một không gian của mọi thứ sự vật và màu sắc kết hợp. Đây là căn phòng khách chính của gia đình, có một khung cửa sổ lớn. Bức màn treo nơi khung cửa này màu trắng bạc, có hoa thêu, và hình nổi những loài chim đậu trên những cành cây. Bộ bàn ghế để ngồi đánh bóng véc ni đẹp sáng, dựa sát tường là một chiếc kệ nhỏ có đặt trên mặt kệ một bình hoa, còn hai phía tường đối diện, một bên là treo những khung ảnh của gia đình, một bên là những bức tranh vẽ của nàng.
- Chị nghỉ Tết được bao nhiêu ngày?
- Mười ngày.
- Hôm nào chị ra Huế?
- Anh Nguyên mồng ba vào, có lẽ ra ngoài nhà mồng năm.
Hai chiếc phin cà phê đang chảy xuống lớp sữa mỏng trong hai cái ly nhỏ từng giọt sánh đen. Tôi cảm thấy buổi chiều ở bên nàng thật dễ chịu, ngồi đây, chỉ có hai người.
- Một ngày nữa thôi, Tết đến rồi.
- Hôm qua ở ngoài này mưa.
- Cô Như năm nay thi chưa?
- Thi năm ngoái rồi, trượt. Năm nay thi lại.
Trong lúc còn đợi cà phê, nàng ngồi yên, tạo dáng một chút để cho tôi ngắm nàng. Một giọng vui, tôi nói:
- Bây giờ, cái thành phố nhỏ bé đó đã có một người mẫu rồi, phải không?
- Mình đã làm đơn xin thuyên chuyển, năm học tới vào đây.
- Có dễ không?
- Mình dạy giờ, nên việc xin thuyên chuyển cũng dễ dàng.
Tôi được dịp ngắm vẻ đẹp tự nhiên của nàng. Nhìn nàng qua hai bờ vai, tôi thấy một phần khuôn mặt và mái tóc.
Hai người thưởng thức cà phê. Nàng khéo pha, cà phê thật ngon, vị ngọt của sữa thơm như là miếng kem.
Vừa có ý muốn kể chuyện về Huê cho nàng nghe, tôi bỗng ngượng ngùng đỏ mặt. Nàng đang ở bên tôi, việc gì phải kể ra chuyện của mình, để mà so sánh, thì hao hụt quá đi. Nàng mặc bộ quần áo nhẹ, màu kem ướp trái dâu, mái tóc thả vai, gương mặt hình trái soan như sáng lên một tấm gương, đôi mắt nàng màu hạt dẻ như vừa mới làm khô những dòng mực viết trên một trang nhật ký.
- Có viết được truyện nào mới không?
- Chưa, nhưng gợi được một vài ý.
- Ở đơn vị hành quân, đâu có thì giờ sáng tác, phải không?
- Khó, nhưng ở mức cảm hứng có nhiều thì vẫn tìm cách viết được.
- Cuộc sống ở đơn vị ra sao?
Tôi nghe nàng hỏi, và tôi chợt nghĩ như nàng gợi ra một vài ý tưởng về tình cảnh của người lính thời chiến tranh. Tôi nói:
- Căn cứ đơn vị Tiểu đoàn đóng ở trên núi. Không có nghe tiếng đạn pháo, thì cảnh nơi này thơ mộng lắm. Có rừng cây, dòng suối, tiếng chim hót vọng qua những lớp sương mù, mỗi sáng sớm cũng như chiều tối. Nhưng khi phải nghĩ tới chiến tranh, thì lo sợ, từng phút, từng giây. Những tiếng đạn pháo nổ long trời, ngồi trong hầm ẩn núp có cảm tưởng là như mình chỉ còn may sống thêm một ngày nữa thôi.
- Như vậy thì nguy hiểm quá.
Tôi rất bình thản nhìn nàng. Tôi nói với nàng bằng sự im lặng của mình. Tôi biết, nàng rất mến tôi luôn coi như một người bạn.
Từ ngày rời Tiểu đoàn ra Đại đội, tôi đi hành quân luôn. Nhưng khu vực hành quân vẫn nằm trong làng Quế Hạnh, ngôi làng này ít đồng bằng gần núi, du kích hoạt động thường xuyên. Tôi nắm chức vụ Trung đội trưởng, dẫn mười lăm người lính đi tuần tiễu, lục soát và phục kích. Đã ba lần chạm súng, rất may, tôi không bị thương và chiến tích cũng tóm được vài tên du kích ẩn núp trong nhà dân làng hoạt động. Những ngày đầu dẫn lính đi kích tôi có nỗi lo sợ, nhưng rồi, lúc vào trận, tiếng súng nổ và những đợt tiến quân vào mục tiêu của địch làm tôi trở nên gan dạ, dũng cảm. Về sử dụng máy vô tuyến liên lạc hành quân, tôi rất là quen, vì trước đây tôi đã từng làm hiệu thính viên truyền tin.
Buổi chiều hết nắng lúc nào, hai người chẳng hay. Phượng Nga đứng lên bật đèn sáng, một lúc sau, cả nhà dùng cơm tối. Tôi ngồi bên cạnh ông Tri, vừa nói chuyện với ông, mắt vừa để ý đến Như. Tôi có sự để ý đến cô gái, tuy không đẹp bằng người chị, nhưng dáng vẻ dễ thương, dịu hiền.
Sau bữa cơm tối, tôi ngồi chơi bài các-tê với mấy chị em trong nhà. Có chơi ăn tiền, nhưng đặt nhỏ, và đến lúc sắp nghỉ, tôi thắng ván cuối cùng. Suốt buổi, tôi luôn thấy cặp mắt Phượng Nga cười nhìn mình. Và, những câu nói của Như luôn ngập ngừng, do dự.
Bên ngoài trời mưa, nhưng không ra vẻ nặng hạt và kéo dài. Mưa xuân về trong đêm. Đã khuya mọi người ngừng chơi, và Phượng Nga dắt tôi đến một căn phòng trống, nàng mang chăn màn và gối, tự mình làm lấy để cho tôi có chỗ nghỉ.
Ngày hôm sau, đến trưa tôi mới ra bến xe để trở lại đơn vị. Lúc về Đà Nẵng tay không, giờ có thêm mấy thứ quà Tết được người chị dâu cho, một túi nylon khá nhiều.
Khi trở lại đơn vị, bất thần, tôi có lệnh gọi trình diện vị Trung đoàn trưởng. Sau khi để tôi chào kính xong, ông cho tôi hay một sự việc xảy ra cách đây đã hơn một tháng giữa lính Trung đoàn và đám nghĩa quân. Hai bên đụng chạm, xô xát, và một lính Trung đoàn bị bắn tử thương. Cuộc điều tra chưa rõ ngọn ngành, đến lúc này, cần phải làm rõ. Tôi được gọi trình diện, vì vị Đại tá có hay biết tin, ngoài dân sự tôi đã có viết báo.
- Sao, anh có thể giúp tôi được không?
- Dạ được.
- Anh đến địa điểm đó xem sự việc xảy ra thế nào, trình cho tôi hay.
- Vâng.
Chỉ sau một ngày Tiểu đoàn trở lên vùng hành quân, tôi ra Tiểu khu và theo chuyến bay tiếp tế lên tiền đồn địa phương quân nằm ở ngọn đồi 46, nhìn xuống ngôi làng Vạn Hương cách đó chừng hơn một cây số. Hàng tiếp tế có gạo lương khô. Trong ba lô, ngoài quần áo và đồ dùng cá nhân, tôi còn đem theo vài cuốn truyện, có rảnh thì giờ thì đọc, và tôi được vị Đại tá cho biết là thời gian công tác là một tuần đến mười ngày.
Chiếc trực thăng bay dọc theo triền núi, xong hạ thấp cao độ và vào vòng đáp nơi phía tiền đồn vừa cho nổ trái khói.
Bên dưới đông lính đứng chờ để bốc hàng. Đi công tác trong vụ này, tôi không mang súng cá nhân M16, nhưng có mang khẩu súng lục phòng thân.
Vừa lúc trực thăng hạ cánh, lính ùa ra bãi đáp và nhận ngay hàng tiếp tế, trong lúc này, cánh quạt vẫn quay đều. Không mất lâu thời gian, chuyển hàng tiếp tế xong, phi cơ cất cánh ngay.
Tôi tìm gặp viên Đại úy, tự giới thiệu mình và sự vụ lệnh của Trung đoàn do Trung đoàn trưởng ký tên và đóng dấu. Tuy tôi cấp nhỏ, nhưng tôi đại diện Trung đoàn và xem ra, công việc người đại điện là quan trọng nên viên Đại úy tỏ ra rất lịch thiệp, vừa mời trà nước, và nói chuyện.
Với cuốn sổ và cây bút cầm tay, tôi vừa lắng nghe, vừa ghi những sự kiện đáng chú ý. Và, trong lúc trình bày diễn tiến vụ án mạng, viên Đại úy luôn nhìn tôi để xem chừng các phản ứng. Nhưng tôi vẫn im lặng, và chỉ cầm bút ghi những chi tiết cần cho nội vụ sáng tỏ. Tôi đã quen với những bài phóng sự điều tra, cũng biết qua về nghề báo, nên tôi dễ dàng phân biệt và ghi nhận những lời khai nhân chứng, phía bên nguyên và bên bị. Tôi có cả máy cassette chưa dùng đến. Với lại, đây chỉ là một nhiệm vụ trung đoàn cần biết, hơn là là phóng sự điều tra hình sự.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 22 Mar 2017

Viên Đại úy ngừng vài giây đốt điếu thuốc. Tôi cũng cầm ly trà nhấp ít hớp, và đợi nghe chuyện.
- Chuẩn úy ở Trung đoàn lâu chưa?
- Tôi mới ở quân trường ra đơn vị hơn bốn tháng.
Một giọng thờ ơ, ông ta nói:
- Tôi ở đây đã lâu. Vùng này mất an ninh, lính của Trung đoàn 5 đóng ở đây cũng phá phách ghê lắm.
- Tại sao vậy?
- Họ nghĩ mình là lính chính quy.
- Ở bộ binh, đâu có là binh chủng nhảy dù, Thủy quân lục chiến đâu mà ra vẻ kiêu binh.
- Chuẩn úy không rõ đâu. Họ cũng phá lắm.
- Lính của Tiểu đoàn nào, Đại úy.
- Tiểu đoàn nào trách nhiệm lãnh thổ, cũng luôn có đám lính quậy phá.
- Tôi nghĩ, lính tráng cũng có một số ngang tàng, nhưng nói chung, họ đều có ý thức về kỷ luật.
- Vậy mà, chuyện đó đã xảy ra.
- Phía bên nào gây sự trước, Đại úy?
- Bên Tiểu đoàn 2.
- Tôi thực sự không rõ. Vị Đại tá Trung đoàn trưởng bảo tôi đến đây để xem xét tình hình.
- Chuẩn úy sẽ điều tra ra sao? Vụ này có đăng báo không?
Tôi đáp lời:
- Đại úy cũng biết, phận sự của tôi làm theo chỉ thị của Đại tá Trung đoàn trưởng. Tôi đến đây không phải điều tra như bên ngành an ninh. Án mạng xảy ra, đương nhiên kẻ can phạm phải bị bắt giữ, hỏi cung, còn phần việc của tôi chỉ tìm hiểu nguyên nhân, sự kiện, và hỏi các nhân chứng liên quan đến một sự việc đã xảy ra.
- Vậy tôi cũng là nhân chứng.
- Ở đây, Đại úy có trách nhiệm về an ninh lãnh thổ và quân lính dưới thuộc quyền của Đại úy.
- Tôi đã cho anh biết rõ sự việc.
- Tôi ghi nhận phần trình bày của Đại úy. Nhưng, xin Đại úy cho tôi được tiếp xúc riêng với anh em lính ở đây, cùng với dân làng đang sống nơi vùng này. Tôi sẽ làm bản tường trình về chuyến công tác của tôi, còn về mặt luật pháp, an ninh có trách nhiệm về chuyện này. Nói dễ hơn tôi chỉ là đặc phái viên cho trung đoàn.
- Tôi hiểu.
Một lúc sau, hai người nói đến chuyện về cuộc sống hiện tại, ngoài đời và trong quân ngũ. Tôi cảm thấy bối rối, vừa ấp úng tìm lời giải thích khi viên Đại úy cho rằng, tôi thuộc thành phần trí thức, sinh viên bị gọi động viên nhập ngũ. Về phần mình, ông cho tôi biết là xuất thân khóa mười ở trường Thủ Đức. Năm 1960, ông tình nguyện vào trường Thủ Đức với một văn bằng trung học đệ nhất cấp và một chứng chỉ lớp đệ nhị.
Từ hai năm qua, bắt đầu ra khỏi đời sống nhàn hạ của người lính thành phố, nay tôi thấy mình thực sự lột xác, nhận ra giá trị của người lính trong thời chiến, vừa tìm lấy cái can đảm của tuổi trẻ, vừa có trách nhiệm của mình cùng đồng đội.
Tới đầu giờ buổi chiều, tôi đi theo một viên Thiếu úy rời tiền đồn xuống làng. Dưới làng có một đại đội nghĩa quân canh phòng. Tôi được đưa tới đây, và bắt đầu chuyến công tác của mình.

Buổi chiều đầu tiên ngồi trong quán cà phê, tôi bỗng nhớ đến gia đình một người thân với mình. Buổi sáng hôm ấy, ngồi trên chiếc xe khách đang chạy mà đầu óc tôi như là kẻ vô hồn, không có một ý tưởng nào khác ngoài sự bơ vơ đối với con đường học vấn đã chấm dứt. Làm gì cho tương lai, điều này, tôi không dám có một chút tự tin nơi sức mình mà chỉ còn một nguyện cầu khao khát là mong ông Trời bù lại cho tôi một chút may cuộc đời trong ánh sáng thế gian.
Khi xe hàng đỗ bến, xuống xe tôi đi bộ về nhà. Trên đường nhìn hoa phượng nở đỏ, nhìn những dòng xe đạp của nam nữ học sinh dạo chơi cười nói rất vui, tự dưng tôi cảm thấy mình lạc lõng như thể là kẻ lạ đâu từ miền xa nơi chốn biệt xứ nào về đây mà không thể có ai quen nhận ra mình. Hoa phượng đối với tôi trong phút giây này là nỗi buồn chảy nước mắt. Huế, tuổi trẻ vẫn cứ luôn ôm ấp cả một bầu trời thân thương có dòng sông xanh và những hàng cây phượng mỗi mùa hè sẽ mang đến nét thắm tươi, rực rỡ cho thành phố này.
Về đến nhà, tôi dừng bước trên bực cửa. Nhìn vẻ mặt buồn bã của tôi, ba mẹ không hỏi han gì nữa. Các em tôi cũng vậy. Rồi tôi bước vào nhà, lặng yên ngồi xuống như một người vừa mới ngã bệnh.
Tiếng mẹ tôi nói rất nhỏ:
- Con cái mình không có được chút ân huệ khoa bảng.
Tôi nhìn ra cửa, buổi chiều đang xuống bên ngoài. Trên đường, một chiếc xe buýt đi lên Long Thọ vừa chạy ngang qua. Tôi trông thấy con sông, ngôi trường Bình Linh bên kia nơi tôi vào học ở đó năm trước nữa, và sự yên lặng buổi chiều như muốn nói cho tôi biết rõ về chuyện gia đình của mình.
Sau hai tuần lễ về nằm nhà với bao nhiêu nỗi buồn chán không nguôi được, vào một buổi tối trong bữa cơm gia đình, tôi nói với ba mẹ cho tôi vào Sài Gòn tìm kiếm việc làm.
- Con làm được công việc gì?, ba tôi hỏi.
- Con chưa biết. Nhưng vào trong đó, tìm kiếm công việc làm cũng dễ hơn.
- Con có bạn bè thân trong đó không?
- Có.
- Con viết thư cho bạn con đi.
Sau ít giây suy ngẫm, ba tôi tiếp lời:
- Ba biết con nản chí chuyện học hành. Thôi, thì cũng là cái số phận của mỗi người. Con kiếm việc làm để ra đời sớm. Rồi về sau, nếu được trời giúp cho con chút cơ may.
Các em rưng rưng khóc đưa mắt nhìn tôi. Tôi đọc được trên từng giọt nước nóng ấm của em mình hình ảnh sự đơn độc, khó khăn trước cuộc đời khi tôi phải giã biệt gia đình ra đi. Vào Sài Gòn, đó là nơi đến dứt khóa rồi. Nhưng tôi sẽ làm công việc gì và nương tựa nơi đâu. Khi nghĩ đến chỗ nương tựa, tôi không dám tìm gia đình các cậu và các dì em ruột của mẹ tôi. Chẳng như, tôi thi cử đỗ đạt, chuyện nương nhờ còn may, chứ một thân xơ xác vào Sài Gòn mà tìm đến người thân thực là một nỗi khó.
Sau cùng, đến lượt anh Nguyên cũng ra đi. Anh Nguyên cũng vừa mới rớt vấn đáp năm Dự bị Văn Khoa, thực là cái số của gia đình tôi mạt phúc đến như vậy. Nhưng anh Nguyên còn may là có được bằng Tú Tài II, và thêm khả năng viết báo. Từ quyết định của anh Nguyên, ba tôi cho hai anh em đi Sài Gòn.
Một lời dứt khoát, tôi nói:
- Ba mẹ đừng lo. Con còn độc thân, kiếm được đồng lương con giúp ba mẹ và các em đi học.
Chỉ còn một tuần nữa là bắt đầu niên học mới. Nhưng từ nay, gia đình tôi lại một cảnh hai quê. Tôi và anh Nguyên đi xa mưu tìm cuộc sống. Từ nay, cả hai anh em không còn có mộng ước ở ngưỡng cửa Đại Học như bao nhiêu bạn bè khác nữa. Từ nay, hai anh em cùng dấn bước vào đời với chuyến đi xa khởi sự vào những ngày sắp tới.
Trước quyết định ra đi, tôi muốn trở vào lại Đà Nẵng. Tôi đi nội trong ba ngày, trước nhất thăm dì Hường Vân, sau đó sẽ đến với gia đình Thúy Hà. Chuyến xe hàng không đông khách nhưng ngừng nhiều trạm, mỗi nơi có khách xuống và khách lên, tới đỉnh đèo đã gần trưa. Xe nghỉ thường lệ nửa tiếng để chờ xuống đèo hai phía Nam Bắc, nhưng hôm nay, phía Nam, một quãng đường gần cây số đang được Công binh sửa chữa. Tôi thèm ly cà phê nên đi tìm quán. Đang đi, bỗng nghe có tiếng gọi làm tôi giật mình và thật bất ngờ khi trông thấy chú Hoàng. Ông chú đang ngồi ở bàn phía ngoài hiên, uống bia một mình.
- Cháu uống gì?
- Thưa chú, cà phê.
- Gọi đi.
Tôi gọi một ly cà phê đá. Trong lúc chờ, tiếng chú Hoàng hỏi:
- Đi Đà Nẵng có việc gì vậy?
- Cháu vào thăm dì Vân. Chú còn nhớ dì Vân con ông bác Huyện không?
- Có. Bên ngoại con, chú biết hết.
Nhìn lại người chú, tôi nói:
- Con sắp đi Sài Gòn.
- Học trong đó?
- Dạ không. Con đi tìm kiếm việc làm.
Cô gái mang ly cà phê ra. Tôi mở hủ đường cho thêm vài muỗng rồi khuấy uống. Cà phê không được ngon. Tôi cầm gói thuốc của chú Hoàng rút một điếu và xin phép hút. Một giọng khàn đục, tôi nói:
- Số phận cháu đen đủi quá.
- Nhưng sao mà cháu bỏ học?
- Không thi đậu, làm sao học tiếp được nữa chú. Cái số của cháu không sáng dạ trong sách đèn, thôi cháu vào đời kiếm lấy cuộc sống mà lo cho bản thân.
- Vào trong đó cháu làm công việc gì?
- Cháu chưa biết. Nhưng ở đô thành việc làm công nhân cũng dễ kiếm.
- Cháu đi một mình.
- Có anh Nguyên đi nữa chú. Anh theo nghề viết báo.
- Được lắm. Thằng Nguyên theo nghề báo là hay, chọn đúng đường đi.
Tôi uống cà phê chậm từng hớp như cố lấy bình tĩnh. Một dòng đời trôi nhẹ qua tâm hồn tôi. Tưởng rằng bao nhiêu kỷ niệm cũ ở miền quê thời ấy, tôi đem ra bộc bạch với người chú, nhưng mà không, một giọng buồn tôi đã nói:
- Gia đình con không có nếp khoa cử, buồn quá chú.
- Chú rất hiểu.
Chú Hoàng đặt ly bia xuống bàn. Như thể cố nén giọng buồn bực và chia xẻ với người khác, chú nói:
- Chú hiểu từ lâu rồi.
- Cháu biết, ba mẹ cháu buồn lắm nhưng số phận từng đứa con và cả gia đình luôn lận đận.
- Cháu đến tuổi quân dịch chưa?
- Dạ rồi.
Đã mười một giờ trưa, xe vẫn còn đợi sửa đường. Nắng lan rộng trên đỉnh đèo, sương mù đã tan hết nhưng khí lạnh từ núi, vang âm dòng su tuôn chảy và sóng vỗ trên mặt biển dần dần tràn ra xa. Bỗng nhiên, lúc trông thấy bóng dáng con tàu tôi chợt nhớ một buổi sáng mùa đông trên bến Cảng, vào giờ đó, trước khi vào lớp học tôi cùng với đám bạn đứng công viên vẫy tay chào một đoàn thủy thủ mặc áo trắng đứng trên boong, họ cũng cười vui la hét vẫy vẫy những cánh tay khi con tàu từ từ tách bến.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 22 Mar 2017

Hai người trở lại chuyện cũ về gia đình. Tôi bỗng hỏi:
- Ngày trước, chú đã ở Hội An?
- Chú làm việc ở đó ba năm mới ra ngoài này.
- Chú có mặt ngay lúc đầu Đại Học Huế mở.
Chú Hoàng gật đầu. Tôi đốt thêm điếu thuốc. Những sợi khói mỏng trườn lên làm tôi nhớ đến Lăng. Lăng đang học Luật ở Sài Gòn, ở nhà cậu Nghiêm. Hội An, thành phố nhỏ ấy tôi đã đến thăm, đi chơi cùng với mấy người bạn. Nơi thành phố ấy, tôi nhớ biển Cửa Đại, nhớ một mùa hè thanh bình, và vào năm đậu xong Trung học Đệ Nhất Cấp, từ Quảng Trị Lăng đi một mình vào Hội An thăm gia đình người chú. Lăng với tôi là anh em bạn dì. Lăng mồ côi năm lên ba tuổi. Dì Quyên mẹ Lăng lấy chồng có ba mặt con, ở góa bụa từ thời còn trẻ. Mẹ tôi, dì Quyên, cậu Nghiêm là chị em cùng một cha, một mẹ. Thực ra, ông bà ngoại tôi có sáu người con nhưng đã mất đi ba. Năm đó, cảnh tản cư chạy loạn những gia đình người thân trôi giạt về tạm trú ở quê ngoại rồi tản mát. Hình ảnh chú Vinh ba của Lăng và chú Hoàng đây tìm lại trong trí nhớ thuở đó, tôi chỉ nhớ ra được dáng người. Rồi tôi gặp lại chú Hoàng sau này khi đã lớn, đó lần đầu tiên tôi đến nhà chú vào mùa hè cách đây ba năm ở khi tôi rời Đà Lạt về Huế học. Ở Sài Gòn, thỉnh thoảng Lăng có viết thư cho tôi. Dịp Tết, có một năm Lăng gởi cho anh ít sách truyện và báo Xuân để đọc. Luôn luôn anh em sống có tình nghĩa với nhau. Trong các đứa cháu, Lăng được các cậu, các dì cả bà con xa gần bên ngoại nữa biểu lộ nhiều tình cảm vừa hãnh diện về sự học hành, đỗ đạt của Lăng hơn mấy anh em bên nhà tôi. Người ở bên ngoài nhìn thấy vậy nghĩ rằng, Lăng mồ côi cha tự thuở bé nên được nhiều tình thương của người thân. Có đúng một phần, nhưng không phải vậy đâu. Bên ngoại rất bề thế về sự vinh hiển qua nhiều đời làm quan và khoa bảng, nhưng riêng mẹ tôi rất ít học, và ba tôi làm rể gia đình ông ngoại chỉ là giáo viên với mảnh bằng Tiểu học. Vào thời gian gia đình gặp hoạn nạn, sống nương nhờ người thân, cứ đến bữa ăn ngồi yên lặng tôi không dám chuyện trò, tôi luôn có cảm giác nôn nao trong cổ họng khi cố gắng ăn thật chậm rãi, khẽ khàng để nuốt từng miếng cơm vào cổ họng. Và ngồi ở đây, chốn này, đem những lời tâm sự ra nói với người chú của Lăng, mới hai mươi tuổi đầu, tôi biết mình nên đi tìm đến một vùng đất mới. Và, tôi rất tin cậy ánh sáng, con người, cùng thiên nhiên ở miền Nam.
- Cháu có muốn xin việc làm ở Huế không?
- Dạ không. Cháu không thể ở ngoài này được. Và bước đường cùng, cháu nhảy vào lính là xong chuyện.
- Cháu đi học Sĩ quan được không?
- Không được, vì cháu không có bằng Tú Tài.
- Nếu cháu ở lại Huế, chú sẽ xin cho cháu một chân giáo viên dạy ở trường Tiểu học.
- Cháu không nghĩ tới trường học nữa. Cháu muốn làm công nhân, hoặc là đi lính thôi.
Chú Hoàng rót phần bia còn lại trong chai vào ly. Tôi thấy chú uống từng ngụm trong sự cố gắng mà có lẽ bởi những điều thất vọng của đứa cháu vừa bày tỏ làm chú băn khoăn, suy nghĩ.
Một giọng thản nhiên, chú nói:
- Con cháu, đứa nào chú cũng thương.
- Dạ, cháu biết.
Nắng ấm ấp, sáng sủa, tự dưng lòng tôi cởi mở.
- Bây giờ, chị Nguyệt sao rồi chú?
- Nó thi đậu vào trường Sư phạm Quy Nhơn.
- Chị Nguyệt đi dạy, cũng hay đó.
- Nó thi rớt loạt nhì, hai kỳ luôn.
- Cháu cũng bị hỏng loạt nhì.
Có tiếng kẻng của người lính canh đánh vang lên nghe giòn giã. Hành khách cười nói, vui chuyện, và họ trở lại những xe khách trong vội vàng.
Chú Hoàng đi traction An Lợi, tôi lên xe Tiến Lực. Những tiếng còi hiệu vang xa, thực rộn ràng. Rồi từng chiếc một nối nhau thành một đoàn chuyển bánh rời trạm nghỉ trên đèo. Lúc này, lòng tôi tự nhiên hoang mang vương vấn một nỗi buồn. Tôi thoáng nghĩ đến Liên An trong mối tình thơ dại của cô em gái dịu hiền như hương gió thoảng qua. Ngày rời xa Đà Lạt, lòng tôi rất buồn. Tôi đi một mình, không có ai đưa tiễn cả. Hành lý của tôi có chiếc va li và túi xách đeo vai. Bến xe lam nằm ở chợ, đến nơi, tôi vừa kịp chuyến xe chạy đưa khách lên nhà ga.
Tôi mua được giá vé học sinh. Thời gian còn sớm, tôi vào quán ở phòng đợi ăn tô mì nóng và uống ly cà phê. Tôi hút thuốc lúc nhấm nháp ly cà phê. Trời lạnh, mưa nhỏ hạt, tuy trong lòng buồn nhưng qua làn khói tôi vẫn cảm thấy vui thích với sự cô đơn.
Hai toa xe hạng ba nằm phía gần đầu máy. Hành khách đi tàu không mấy đông nên không có sự chen lấn. Dưới sân ga trở nên vắng, và rồi sắp đến giờ tàu khởi hanh. Tôi không cảm thấy nôn nao, vì hiểu được rằng chuyến đi này của tôi không còn mong ngày trở lại nữa. Trong một thoáng nhớ đậm màu khói thuốc, tôi chợt nghĩ, những kỷ niệm về tuổi niên thiếu đời tôi xin gởi lại thành phố này.
Tàu chuyển bánh, rời ga. Những vòng bánh vừa mới lăn trên đường sắt thật nhẹ nhàng như giấc mơ. Tàu xuống ga Phan Rang gần nửa đêm. Tại đây, tôi chuyển sang tàu đi ra Huế.
Trưa hôm đó, tôi đạp xe tìm đến nhà Lăng. Từ ngày vào Huế học, Lăng ở nhà ông Hoàng, người chú ruột.
Tôi gặp một cô gái từ trong vườn bước ra, vội cất tiếng chào hỏi. Cô gái chỉ cho tôi lối rẽ xuống bến sông. Tôi chưa hề gặp chú Hoàng của Lăng, nên để xe đạp ở sân vào nhà trước để chào. Vừa thấy tôi xuất hiện, hai ông bà nhận ra ngay, vui vẻ hỏi chuyện. Tôi ngồi xa một chút, ở chiếc ghế bên góc cột vừa nhìn hai người, vừa đáp lời. Mới lần đầu gặp, tôi cảm thấy thực sự gần gũi với mọi người trong gia đình.
Một lúc sau, tôi đứng dậy đi cùng với một em gái nhỏ xuống bến sông. Vừa bước qua vòm cổng, tôi đã nghe tiếng chuyện trò và trông thấy bọn trẻ nhỏ đang tắm la hét, đuổi bơi xa ngoài sông. Anh Nguyên, Lăng, và người bạn ngồi trên chiếc giường tre dưới bóng cây nhãn cùng reo lên khi thấy tôi. Đi xa, nay trở về gặp được người thân anh biết mình xúc động. Anh Nguyên và Lăng, vừa mới thi xong cách đây hai ngày nên tôi không hỏi kết quả. Người bạn tên là Đông, dạy học các em nhỏ trong nhà. Đông biết tên tôi, dù mới lần đầu gặp. Và một niềm vui tự nhiên mang đến là Đông và tôi cùng tuổi, cùng học cùng một lớp. Vừa chuyện trò với anh em, tôi để mắt chú ý một cô bé đang ngồi giặt quần áo trên bậc đá. Một lúc sau, tôi bỗng lên tiếng hỏi:
- Em học lớp mấy rồi?
- Dạ Đệ Lục.
- Em học trường nào?
- Dạ, Đồng Khánh.
Cô bé ngừng giặt, ngước mắt nhìn tôi. Sau đó, tôi đứng lên rời khỏi chỗ mình bước qua thềm đá, ngồi xuống bên cô.
- Em tên là An, phải không?
Cô gái cười, nhìn tôi nói:
- Anh đoán tên không đúng.
- Vậy em cho anh biết tên đi.
- Không.
Cô gái mím chặt môi, mắt cười nhìn tôi. Rồi cô hỏi:
- Sao anh gọi tên em là An?
- Hình ảnh nhỏ bé của em khiến anh nghĩ đến cái tên mình yêu thích.
- Hay là, một người bạn gái anh tên An.
- Không, không phải vậy.
- Nói cho em nghe chuyện đi.
- Không có ai hết. Chỉ có em cho anh tên An, thôi.
- Anh đặt tên cũng hay, cô gái nói.
- Vậy tên em, cho anh gọi là Liên An
- Em tên thật là Kim Ly.
Tôi tự nhiên thấy vui trong lòng. Giặt hai chiếc áo cánh xong, cô gái lấy cái thau nhựa múc nước để xả. Tôi nhìn dáng điệu của cô qua bóng nắng. Hai lần cô thay nước trong thau, đến lần thứ ba xả xong nước chót rồi vắt khô áo. Bên cô, tôi có được ngày trở về sau nhiều năm đi xa. Liên An, cái tên tôi hình dung qua cô gái nhắc tôi nhớ một loại thảo mộc, và nhớ đến Cybèle cô bé trong phim Les dimanches de ville d'Avray.
Giặt xong, Liên An còn ngồi lại chuyện trò với tôi. Tôi nhận ra niềm vui của Liên An trong ánh mắt nhìn qua tôi, mỉm cười với cái tên tôi gọi cô. Tuy nhiên, biết thế tôi không tin chắc rằng cô sẽ tự hỏi, tại sao trong gia đình ba mẹ không đặt cho cô tên đó.
Vừa mới biết nhau, nhưng tôi và Liên An nói chuyện rất là tự nhiên, thân mật. Hình ảnh Đà Lạt còn nguyên vẹn trong trí nhớ nên tôi chỉ cần nhắc lại một đôi chút là đủ để cho Liên An tưởng tượng, hình dung ra một thành phố có hoa anh đào, những con đường dốc, những ngôi nhà ngói đỏ, các tu viện, những khu rừng, những đồi thông bị sương mù bao phủ khi nắng buổi sáng chưa lên cao hay trong buổi chiều khi trở về cùng với mưa. Một đôi câu hỏi, hay là những chuyện kể về Huế trước khi mùa hè tới, bằng giọng nói thật dễ thương của Liên An trong vẻ ngập ngừng, tự dưng, tôi có ý nghĩ nay mình đã trở nên khác hẳn.
Khi rời đèo Hải Vân để về thành phố, các xe nhỏ chạy nhanh hơn nên tới bến trước. Tuy nhiên, các xe lớn cũng về đến nơi chỉ chậm sau chừng mươi, mười lăm phút.
Vừa ra khỏi xe, tôi bỗng thấy chú Hoàng còn đứng chờ ai ở bến chưa vội đi. Thấy vậy tôi bước nhanh đến chào và hỏi:
- Chú đợi xe cơ quan?
- À. Chú đợi cháu.
- Dạ.
Tôi theo chú Hoàng vào quán ăn trưa ở bến xe. Tôi không biết người chú định nói gì, nhưng tôi cứ đi theo. Ngồi trong quán nắng trưa hừng hực nên cần phải có nước giải khát. Tôi uống nước đá chanh, còn chú uống bia. Bữa cơm phần được gọi chờ mang ra. Tôi và chú đốt điếu thuốc trong lúc chờ bữa ăn.
- Chừng nào cháu đi?
- Dạ tuần tới.
Chú nhìn lại vẻ mặt tôi và tôi ước tưởng, trên gương mặt mình đã lộ thấy cả một đoạn trường đầy chông gai, trắc trở.
Khi bữa ăn mang ra, tôi cảm thấy đói vì cơm và thức ăn nóng hổi, lên khói.
- Ăn đi cháu.
- Dạ, cháu mời chú.
Hai người ăn thong thả. Chú Hoàng chắc đã nghĩ kỹ, rồi hỏi:
- Cháu muốn nghe lời chú không?
Tôi đáp:
- Dạ. Lúc nào cháu cũng coi chú như ruột thịt.
- Cháu ở lại Huế đi. Chú sẽ xin việc cho cháu. Tốt nhất, cháu xin dạy một trường tiểu học ngoại ô. Đi dạy còn có thì giờ để cháu học thi lấy bằng Tú Tài.
Tôi đang nuốt miếng cơm, bỗng dưng có cảm giác trong cổ bị nghẹn. Lòng tốt của chú Hoàng, biết tôi sẽ nói ra sao để chú hiểu được tâm trạng của mình. Lặng im trong chốc lát, tôi mới mở lời:
- Gia đình cháu không có ai sáng dạ học hành. Anh Nguyên là người khai khoa cho cả họ hàng bên nội cháu với mảnh bằng Tú Tài. Về phía ngoại, anh em của cháu chẳng dám tơ tưởng để thừa một chút danh thơm. Vậy nên, cháu không thiết nghĩ đến chuyện học làm chi. Đến chuyện nghề giáo cũng vậy, ba cháu cũng đã nhận ra nghề bạc bẻo này trong đời mình. Cháu muốn đi xa, vào miền Nam kiếm sống giống như phu đồn điền thời trước bỏ xứ đi tìm cuộc mưu sinh. Thà đi như vậy, cháu có đủ can đảm hơn, vươn mình hơn là an phận cuộc đời như ba của cháu. Cháu rất biết ở đây, với uy tín của chú việc gì chú giúp cũng thành. Chú rất tốt, cháu biết và cháu hiểu.
Bữa cơm dọn ra nhiều món và tôi ăn thực tình. Khi đã hiểu tấm lòng đứa cháu trống trải, đơn độc, chú Hoàng lặng im, suy nghĩ về hoàn cảnh của tôi như là con của chú phải đi xa vậy.
Xong bữa ăn, chú Hoàng và tôi tiếp tục câu chuyện đời. Sau đó, rời quán tôi nói lời chào chú rồi từ bến xe đi bộ về nhà người dì.
Một câu chân tình, dì Hường Vân hỏi:
- Vào Sài Gòn, cháu vẫn tiếp tục học?
- Dạ không, cháu tìm việc làm.
Trên gương mặt người dì lộ vẻ buồn lo lắng. Tôi nói chuyện với hai người thân khá lâu, sau đó, qua phòng khách lớn lúc ấy nghe có tiếng dạo đàn. Chị Bích Ái đang chơi dương cầm, tôi có nhớ một vài bản cổ điển và yêu cầu chị đánh cho nghe. Tiếng đàn ngân vang, trong sáng, tôi nghe mà như ôm giữ cả dòng nhạc trong tâm hồn một nỗi buồn nhớ lạ lùng.
- Ít ngày nữa, con đi.
Tôi đáp lời lúc chào từ biệt. Và từ nhà người dì, tôi ra đường đón xe lam xuống phố, ghé vào hiệu sách đọc báo, rồi về nhà Thúy Hà.
Vừa thấy tôi xuất hiện, Thúy Hà rời ghế đứng dậy tay cầm một tập giấy. Nàng nói:
- Rất tiếc truyện không được đăng.
Tôi chợt nghĩ đến một hạnh phúc. Nàng đã đem lại cho tôi hạnh phúc về một lá thư của tôi mà chính tay nàng đã mở ra xem. Tôi rất vui với sự chân tình của nàng.
- Cả nhà đi vắng?
Cả nhà qua thăm bác Phúc.
Tôi và Thúy Hà cùng ngồi xuống chỗ bàn khách.
- Tiếc quá, tôi nói.
- Sao mà tiếc?
Nàng hỏi tôi, không đưa mắt nhìn. Tôi nói:
- Nếu truyện được đăng là cả một niềm vui. Lúc gởi đi, cứ ước ao truyện được đăng để làm món quà tặng Thúy Hà.
- Bày vẽ ra.
- Thực lòng đó.
- Không được đăng thì mình viết truyện người khác.
Nàng đáp lời tôi, rồi cúi mắt chăm chú đọc. Tôi hỏi:
- Mà truyện viết được không?
- Không được. Bịa đặt và tưởng tượng nhiều quá.
- Thì truyện viết phải tưởng tượng.
- Đồng ý, nhưng phải tôn trọng sự thật.
- Có nhiều sự thật trong đó, biết không?
- Đâu, sự thật nào đâu?
- Hà đọc qua hết truyện rồi sẽ thấy.
- Có thấy, nhưng hôm đó chỉ chơi cờ ca rô thôi mà, làm gì có tóc nàng xõa kín gương mặt rồi để chàng vén mái tóc nàng lên cho hai người đưa mắt nhìn nhau.
Thúy Hà có giọng nói thật hay. Nhớ lại một buổi trưa hôm đó trong giấc ngủ tôi mơ thấy cảnh tôi và nàng chơi cờ ca rô trong lớp học. Người ta thường nói chiêm bao là do ức chế, nhưng thực ra, hình ảnh nào đã gặp thì được nhìn thấy trở lại trong giấc mơ. Trong truyện, tôi có thêm thắt đôi chút để hai người hiểu nhau. Trong giấc mơ, hình ảnh đó đã bày tỏ tình cảm thân mật của hai người.
Truyện ngắn tôi viết 10 trang, Thúy Hà đọc hết không bỏ sót dòng nào. Đọc xong, nàng đưa qua cho tôi. Tôi cầm lấy, hơi bối rối không biết làm gì với một món quà tặng không còn dùng được nữa.
Nàng mỉm cười nhìn lại tôi. Hai người cùng vui chuyện, nhờ vậy, tôi quên được nỗi buồn về sự hỏng thi.
- Ngày mai, anh trở ra lại Huế.
- Anh đi Sài Gòn không?
- Có. Đi, nhưng không bao giờ quên Thúy Hà đâu.
Giọng tôi nói thật chân tình, cảm động. Thúy Hà ngước mắt nhìn tôi. Lúc ấy, hạnh phúc dành cho tôi là nụ cười trong cặp mắt sáng của nàng.
Anh ra đi bình yên. Em rất thương anh, luôn nhớ đến anh. Những tấm ảnh này em gởi anh làm kỷ niệm. Em không ghi lời đề tặng gì cả. Em cũng rất biết hoàn cảnh anh, đi xa như vậy sẽ thiếu thốn lúc ban đầu. Tiền Ba Mợ cho để dành, em cho anh để anh dùng đến lúc cần.
Em,
Thúy Hà


Ngày hôm sau với cuốn sổ tay, tôi hòa mình trong cuộc sống người dân làng ở đây. Tôi vừa quan sát, đồng thời tìm kiếm những người có thể biết rõ về án mạng đã xảy ra khiến một người lính ở bên Trung đoàn bị bắn tử thương. Cái chết của người lính này không được phơi bày rõ ràng, tìm can phạm mập mờ giữa quân du kích và lính địa phương. Trong quán giải khát nơi tôi ngồi uống vào buổi chiều hôm qua là nơi xảy ra vụ thách thức và tranh chấp giữa lính Trung đoàn và nghĩa quân. Và do đâu có chuyện này xảy đến, tôi đi tìm hiểu, ngờ đoán rằng đôi bên có sự liên hệ đến một cô gái trong làng này. Dần dần, tôi đi đến một kết luận có thể là đúng. Nhưng không chỉ mặt này, tôi còn tìm hiểu thêm những sinh hoạt trong vùng này mà đơn vị các Tiểu đoàn thường biệt phái đến tăng cường.
Và, suốt thời gian công tác, tôi ăn cơm hàng ngày và cùng sinh hoạt với anh em lính nghĩa quân. Sau khi ghi nhận khá đầy đủ các sự việc, tôi báo cáo qua máy truyền tin về trung đoàn, ít ngày sau, có chuyến trực thăng tiếp tế đến, tôi theo trở về đơn vị.
Nhưng, trưa hôm ấy máy bay không đáp xuống sân trung đoàn mà ở Tiểu khu. Nhân tiện có ngày về thành phố, tôi tìm đến thăm Liên.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 22 Mar 2017

VII

Chiếc xe dodge đang trì chậm xuống dốc đèo. Con đường này vừa được mở rộng và có rải đá. Người lính tài xế vẫn kềm giữ chân thắng và tay lái. Nắng trưa chói chang, nhưng gió đang thổi tung lên từng đám bụi. Chỉ có hai người trên xe, phía trước. Phía sau, tấm bạt được phủ kín. Cách đây hơn một giờ, chiếc xe này đã chở quân trang, quân cụ, và bốn người lính hết kỳ phép trở lên tiền đồn. Bây giờ, quang cảnh mở rộng ra và hiện diện một vùng đất hoang, tầm mắt xa hút dưới vùng mây trắng tưởng như nó đang hạ thấp xuống tạo thành một mặt biển.
Rồi cũng khá lâu, xe mới gặp một ngả ba có con đường đất nện. Đây là con đường đi xuống quận. Và, từ quận đến quốc lộ của tỉnh cũng còn non mười cây số nữa. Xe vẫn không chạy nhanh, nhưng quãng này đường bằng, ít bị nhồi xóc. Người lính lấy gói thuốc, rút một điếu châm hút. Tôi cám ơn, không hút. Đang muốn tìm một câu chuyện, tôi bỗng nghe hỏi:
- Chuẩn úy đi phép hay công tác?
- Tôi về hậu cứ chờ đi học.
- Học gì, Chuẩn úy?
- Tôi mới được hay là học một khóa về hỏa tiễn chống xe tăng?
- Học ở Trung đoàn?
- Không rõ. Có thể ở đó hay vào Sư đoàn.
Khói thuốc làm ngột cùng với hơi nồng của xăng làm tôi khó chịu, hạ cánh cửa xuống cho nhẹ bớt hơi thở.
- Anh đi lính lâu chưa?
- Em đi lính được ba năm?
- Anh vào Quang Trung hay Nha Trang?
- Không. Em học ở Trung tâm huấn luyện sư đoàn.
- Học ở đó lâu không?
- Ba tháng.
- Anh thuộc quân số của tiểu đoàn hay trung đoàn.
- Em ở ban 4 trung đoàn.
Xe đi qua một ngôi làng, con đường hẹp lại nhưng có bóng im của cây cối, cảnh vườn tược, và gió thổi nhẹ mát.
- Chuẩn úy từ đơn vị nào đến?
- Không có. Tôi học ở Thủ Đức ra trường.
- Trường quân sự đó ở miền Nam.
- Anh nói cũng đúng.
- Có xa Sài Gòn không?
Tôi bỗng hỏi lại:
- Anh chưa biết Sài Gòn sao?
- Dạ chưa.
- Trường Thủ Đức chỉ cách Sài Gòn hơn mười cây số.
Người lính lại đốt thêm điếu khác sau khi ném mẩu tàn ra ngoài. Hai người cùng vui với câu chuyện, có lúc liền lạc, lúc thì lan man. Gió thổi mát và hương vị lá tre làm tôi cảm thấy dễ chịu, Bỗng dưng tôi nhớ đến những hình bóng thân quen, hiền dịu. Đã lâu, tôi không có một chút tin tức gì về Liên An. Hình ảnh cô gái ấy là chiếc áo trắng, cây cầu, con sông nhỏ, nhà ga, và một buổi chiều hai người cùng đứng đợi một con tàu sẽ về, dừng lại ở tháp nước. Từ khung cảnh đó, tôi nhận ra rằng Huế thuộc về Liên An. Hình như trong cuộc sống, tôi vẫn chỉ biết mình là người lính trong tâm tư ghi nhớ vài kỷ niệm qua những lần về nghỉ phép thăm nhà. Về Lan Huê, tôi chẳng rõ, nàng sống ở đâu, còn nhắc nhở đến ai không? Trưa hôm đó, một cột tin mừng trên báo cho tôi hay Lan Huê đã lấy chồng. Tôi chợt ước mong mình sẽ gặp người khác…
Chiếc xe dừng lại trước một quán ăn trông qua bên kia đường, phía trên là tòa hành chánh quận. Không hỏi han gì người lính, tôi cùng anh ta mở cửa xuống. Hai người vào quán ăn, gọi cơm và nước uống.
- Gia đình anh ở đây, hay là xa?
- Nhà em ở ngay trong tỉnh?
- Anh chưa có gia đình riêng?
- Chưa có gì cả. Chuẩn úy thì sao?
- Tôi cũng độc thân.
- Vậy hả. Tưởng Chuẩn úy có vợ con rồi.
- Chưa, chưa gì cả.
Tôi đáp lời trong niềm vui, và chợt nghĩ, mình vẫn còn tuổi trẻ. Bữa ăn mang ra, hai người cùng đói nên ăn sạch, không chừa lại thứ gì cả.
Tôi vừa đốt điếu thuốc, anh lính cười bảo:
- Em tưởng Chuẩn úy không hút thuốc.
Lúc nãy, nồng khói thuốc và mùi xăng sống nên tôi hơi bị ngộp. Hai người ngồi nghỉ trong quán không lâu. Khi chị chủ quán ra tính tiền tôi bao trả nhưng người lính ngăn lại, đề nghị cùng trả chung.
Và, khi trở lên ghế ngồi, người lính nói:
- Thỉnh thoảng em cũng kiếm chác được đôi chút.
- Về xăng dầu, phải không?
- Cũng có, nhưng thứ khác, mình khấm khá hơn.
- Thứ nào vậy?
Người lính không trả lời, nhưng tay chỉ vào cái thùng gỗ có trong đó chừng sáu trái lựu đạn.
Người lính nói với tôi:
- Thứ này, dân đánh cá rất cần.
- Tôi hiểu.
Xe đã lăn bánh, rồi theo đó, câu chuyện như muốn ngừng. Quận lỵ xa khuất, xe bắt đầu tăng tốc độ, và khi vào đến quốc lộ, nếu rẽ trái là ra Đà Nẵng, còn rẽ phải là đi Tam Kỳ.
Tôi đã về tới hậu cứ cùng anh lính tài xế, và qua ngày sau với tờ sự vụ lệnh của vị Trung đoàn phó ký, tôi dẫn một toán lính mười người cùng tôi lên xe GMC ra Trung tâm huấn luyện Hòa Cầm, xa Đà Nẵng khoảng mười cây số?
Khóa học tập trung đông đơn vị các Trung đoàn thuộc Quân đoàn I. Thời gian học cả lý thuyết và thực hành đúng hai tuần lễ. Ngày mãn khóa học, có thi trắc nghiệm và được cấp chứng chỉ chuyên môn cho khóa sinh. Cùng ngày này, dân chúng trong quân khu được xem một buổi tác xạ biểu diễn. Một chiếc connex chứa sắt vụn được đặt làm mục tiêu cách tầm súng ba cây số. Khi đạn hỏa tiễn phóng ra, sau đúng ba giây, mục tiêu bùng cháy lên một đám lửa lớn. Kết quả tác xạ cho thấy hiệu quả của loại súng tối tân của Hoa Kỳ để tiêu diệt xe tăng của địch quân. Ngày kết thúc khóa học nhằm vào thứ sáu cuối tuần, và sự vụ lệnh ghi ngày phải có mặt ở đơn vị là thứ ba, nên các khóa sinh có được ba ngày nghỉ.
Tôi tập trung cả toán lại, nói:
Anh em có mấy ngày nghỉ, đi đâu tùy ý, nhưng sáng thứ ba phải trình diện đủ ở Trung đoàn.
- Rõ.
Hầu hết, anh em về dự khóa học đều ở lại Đà Nẵng chơi ít ngày, vẫn quen với những lần trước, tôi đến thăm nhà bác Hội, ông bà Kha, và gia đình bên chị Nga. Thúy Hiền từ Đà Lạt về thăm nhà, cô đã lớn hẳn, học đến năm thứ ba trường Chính trị kinh doanh. Mới một ngày nào đó, tôi còn là một cậu học sinh, giờ tôi đã trưởng thành trong hoàn cảnh của cuộc sống và chiến tranh. Có một điều lạ, ông bà Kha vẫn như ngày xưa, không có gì thay đổi, tiếng nói, câu chuyện và sinh hoạt của gia đình vẫn bình thường. Ở nơi căn nhà này, những cánh cửa sơn màu xanh là kỷ niệm làm tôi nhớ đến Thúy Hà, nhớ những chiếc áo dài nàng thường mặc đi học.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 22 Mar 2017

Bà mẹ nói:
- Em nó rất buồn cậu ạ.
Tôi không tỏ bày, chỉ muốn nghe lời người mẹ để hiểu nàng.
- Tôi không hiểu sao cậu Duy cứ sa vào cờ bạc, bất cứ là ở đâu. Cũng buồn cho em và gia đình. Em nó lấy chồng sớm quá, bây giờ, chẳng biết làm sao?
Với nụ cười rất dễ thương, Thúy Hiền hỏi:
- Anh Thụy lúc này sao?
- Em thấy anh có thay đổi nhiều không?
- Có, nhưng không nhiều lắm.
Rồi, Đà Lạt thành phố tôi đã sống ở đó trong hai năm của thời niên thiếu được hình dung lại qua giọng kể chuyện thật mới mẻ của người em gái bạn mình. Một đôi lúc, trong tiếng nói của cô em, có giọng của người chị xen vào vào để thay thế cho câu chuyện, và dường như muốn dẫn câu chuyện đi sang một hướng khác.
- Anh có sáng tác được nhiều không?
- Từ ngày ra đơn vị đến giờ, anh chưa viết được gì cả.
- Chắc anh không có thì giờ.
- Em nói đúng. Em về thăm nhà lâu không?
- Em về một tuần.
Buổi tối, tôi và Thúy Hiền đạp xe đi chơi phố, nhân trời có trăng hai ra bờ sông ngồi ở ghế đá ngắm trăng và nhìn cảnh sông nước lung linh trong ánh đèn.
Tiếng Thúy Hiền nói:
- Em có một người bạn trai.
- Sinh viên cùng lớp?
- Không, học trên em một năm.
- Anh ấy người ở đâu?
- Cũng ở ngoài này lên đó học.
- Quen biết em lâu chưa?
- Hai năm. Cũng quen biết thôi, em chưa cảm thấy gì cả.
Tôi vui giọng hỏi em gái:
- Sao mà lại chưa?
- Em vẫn cứ nghĩ anh ấy như một người bạn, hay là người anh thôi.
- Em đã lớn, trưởng thành, có một người bạn trai là mình phải nghĩ đến tình yêu trong đó. Nhưng tình yêu theo cách nào, trong ý nghĩa này, em là người định hướng.
- Anh ta rất quý mến em.
- Có lúc nào, em chợt nhớ nghĩ đến mình và anh ấy.
- Em nghĩ mình chưa có đối tượng.
Một giọng thân tình, tôi nói:
- Vậy mà, em lại cho anh biết một tin quan trọng.
- Anh thấy là quan trọng sao?
- Một phần nào đó, có ý nghĩa quan trọng với em, cả anh nữa khi em cho anh biết.
Thúy Hiền hướng mắt nhìn ra sông, khung cảnh ấy trở nên xa xôi. Tôi đọc một ý tưởng, và nhìn dáng điệu của Thúy Hiền qua mái tóc.
- Anh vẫn còn yêu chị Thúy Hà phải không?
Tôi vẫn còn giữ mãi hình ảnh người bạn gái, nhưng tôi không dám kể ra hết, chuyện riêng của tôi và nàng.
- Khi em lên Đà Lạt học, em nhớ đến anh, nhớ đến một mối tình của anh và chị Thúy Hà.
- Trong em, có sự ước nào về tình yêu như khi anh gặp chị Thúy Hà.
Thúy Hiền gật đầu. Một lúc sau, cô gái nghe tiếng tôi nói:
- Em rất khác với chị Thúy Hà. Lúc nào, em cũng vẫn nhỏ bé, dịu hiền trong sáng với tuổi thơ ngây. Anh nghĩ rằng, em là cô em gái đúng ý nghĩa trọn vẹn với tâm hồn của anh. Em mãi mãi nhỏ bé, và cho riêng anh, một chút hương vị như đó mới là tình yêu.
- Có thực vậy không anh?
- Em sẽ hiểu anh. Và, em hiểu rồi, riêng với anh, em mãi mãi còn nhỏ bé.
Thúy Hiền nở một nụ cười. Trước khi về nhà, hai người đạp xe đến một quán nước.
Thúy Hiền nhìn qua tôi với vẻ mặt nghiêm, cô gái hỏi:
- Anh chưa tính lập gia đình?
Tôi đáp lời ngay:
- Anh không mong đợi em ạ.
- Em cũng như anh, nhưng nay em biết mình đã lớn.
Tình yêu là tiếng nói, hay của một màu chiếc áo được hình dung thấy bằng đôi mắt, thế nhưng vẻ đẹp muôn thuở của nó vẫn là một dòng sông. Một dòng sông thôi, và bên trên dòng ấy là thành phố. Ngày hôm nay, trời có vẻ lặng buồn. Nhưng ngày mai, trong nắng sớm, thành phố sẽ cho bạn một dáng màu để ghi nhớ về vẻ huyền nhiệm của đất và trời.
- Hôm nào anh trở lại đơn vị?
- Ngày mai.
- Anh cho em địa chỉ, em sẽ viết thư thăm anh.
- Cám ơn em.
Thúy Hiền giữ trong tay mình vuông giấy trắng, cô gái nhìn tôi, và lúc ấy nói với tôi một lời biểu hiện trong cặp mắt.
Trời đêm dịu mát. Hai người như là đôi tình nhân, dù rằng, riêng người lính nghĩ về người em gái của mình bằng ý nghĩ chân thực, quý hiếm. Thế nhưng, bên anh, cô gái biểu hiện cho anh một hình ảnh khác. Anh nghe tiếng nói, cho rằng, tình yêu không giống như người ta nghĩ theo lẽ thường tình, mà đối với cô, phải thấy ra cái nhân dáng của đối tượng, hay đó là một nhân vật đang đi tìm kiếm mình. Hai người uống nước chậm, một đôi lời vu vơ, nhưng không hề tỏ chút ẩn ý. Hạnh phúc của người lính bên một cô gái đã xoa dịu đi nỗi buồn nhớ cứ luôn ám ảnh. Và lúc này, cô gái rất tự nhiên trong cách tạo dáng để cho người anh của cô được nhìn ngắm.
Khi đứng lên, tôi đến quầy trả tiền nước. Và hai người trở về trên một con phố vắng. Đi bên nhau, họ nghe tiếng gió thay cho lời nói. Và rồi, bàn tay cô em gái đặt qua bên tay tôi. Tôi để yên, rồi từng ngón tay đan vào nhau khiến cho hai chiếc xe đạp chạy rất chậm, rồi ngừng.
Thúy Hiền ngước mắt, và cô hé môi để cho tôi đặt môi hôn. Nụ hôn mỗi lúc, trở nên yên lặng và sâu trong bóng tối.
Tiếng tôi nói:
- Em gái của anh, em ngoan ngoãn suốt đời.
Về nhà, tôi nằm ngủ ở trên tấm divan đặt ở gần cửa sổ. Giấc mơ một đêm hè qua đi, mộng mỵ.
Ngày hôm sau, tôi đi sớm. Trước khi lên xe, tôi ngồi ở quán uống một ly cà phê và đốt điếu thuốc. Trong một thoáng nhớ qua màu khói, tôi nghĩ đến Thúy Hiền, và nhớ cùng một lúc, về Lan Huê và Liên An với từng tên gọi thân quen của bao nhiêu cô gái khác riêng biệt với từng tháng năm giữa dòng đời.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

PreviousNext

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 27 guests