356 Trăm thứ bà Dằn (Giằn)
Trăm thứ bà Dằn (Giằn) trong “Từ điển giải thích thành ngữ tiếng Việt” (Nxb. GD, 1995) được giải thích là “nhiều thứ linh tinh, lôi thôi, rắc rối”. “Bác ta mang đi được từ cái ghế ngồi đun bếp, cái thanh sắt que coi, đến cái thùng phuy nữa
trăm thứ bà giằn nặng hàng vài tạ” (Minh Huệ, “Tìm đất”).
Có điều dễ hiểu là trăm trong
trăm thứ bà giằn không phải là từ chỉ số xác định, mà là từ biểu thị số lượng nhiều, không xác định; giống như trăm trong
trăm dâu đổ đầu tằm, trăm công ngàn việc, trăm đắng ngàn cay… Song,
bà Giằn là ai?
Thứ bà Giằn vốn là những thứ gì mà khiến ngày nay được chúng ta hiểu là những thứ linh tinh…?
Tư liệu của nguồn văn học dân gian cho hay bà Giằn vốn là một nhân vật thần thoại mà trong Đẻ đất đẻ nước gọi là mụ Dạ Dần. Các nhà sưu tầm chú thích mụ Dạ Dần là “nữ thần sông ở lưng chừng trời dạy bảo người cách làm ăn”. Cách chú giải này vừa chưa đủ vừa không giúp ta hiểu được câu thành ngữ, với Dạ Dần là ai và từ đâu mà ra. Truyện “Đẻ đất, đẻ nước” kể rằng khi đã có đất, có nước thì đẻ ra cây si. Cây si mọc cao chọc trời, cành lá xum xuê, che kín mất nửa đất nửa trời. Vua trời bực lắm, bèn cho sâu xuống đục vỏ, đục thân, làm cho cây si chết, đổ xuống.
“… Thân si mục
Hóa thành rắn nhiều đầu
Đuôi rắn ở rốn núi
Đầu rắn ở đồi Chu
Chạm phải rắn, rắn cắn, rắn thù
Rắn cắn chảy máu đen
Máu đen hóa thành con vắt.
Mắt si lồi hóa thành con ong
Ong bạc đầu nọc dài chín gang
Lưng ong dài chín sải
Gặp hổ nai, ong lùng ong đuổi
Lá si nát hóa ra thú ra muông
Thú dữ như hổ lang
Muông hiền như chồn cáo
Gốc si đổ ầm ầm
Rễ si đổ ình ình
Đổ một nghìn chín trăm mười chín cành*…!!”
(Mục V, Đẻ mường)
Mỗi cành sanh ra một đất, một mường - HVH.
“Cây si mục
Cành lòa xòa hóa ra chân tay mụ Dạ Dần
Cành lù xù hóa ra đầu mụ Dạ Dần
Cành thia lia hóa ra tai, ra mắt mụ Dạ Dần
Cành sừng sững hóa ra ngực, ra lưng mụ Dạ Dần.
Mụ Dạ Dần
Miệng hay đòi ăn cá
Dạ hay đòi ăn cơm
Miệng nói lời dạy bảo
Dạ nghĩ điều khôn ngoan
Mụ ở dưới đất nên thấp
Muốn cất lên trời cao cao
Mụ ăn, mụ đẻ
Mụ đẻ ra hai trứng
Một trứng nở ra cun Bướm Bạc
Một trứng nở ra cun Bướm Bơ
Cun Bướm Bạc vừa nở
Đã ăn chín chõ cơm
Người lớn bằng cái thúng.
Cun Bướm Bà mới sinh
Đã ăn hết năm chõ xôi
Người lớn bằng cái nia.
Năm qua tháng qua
Hai anh em cao hơn đụn chín, đụn mười
Tiếng cười như tiếng trống ái
Tiếng nói như tiếng sấm vang;
Xương vai dài tám mươi lóng
Xương sống dài bảy trăm gang
Có tướng làm đạo, làm cun, làm lang…”
(Mục VI, Đẻ người)
Sau vua trời cho hai nàng tiên xuống làm vợ. Cun Bướm Bạc lấy được nàng Ả, nên họ lang. Cun Bướm Bơ lấy được nàng hai nên họ dân. Nàng Ả sinh 10 người con nối dõi. Trông chim Tùng, mái chim Tót là con út con yêu.
Những mô-típ cây si (hay cây đa) thần, người đẻ ra trứng và trứng nở thành người, người khổng lồ có sức mạnh phi thường, người lấy tiên, v.v… là những mô-típ quen thuộc trong các truyện thần thoại ở Đông Nam Á. Điều mà chúng ta quan tâm ở đây, qua các đoạn trích từ “Đẻ đất, đẻ nước” nói trên là chuyện thân si mục hóa ra rắn nhiều đầu và cây si mục hóa ra mụ Dạ Dần. Mụ Dạ Dần sinh ra hai quả trứng, nở ra hai người khổng lồ là Bướm Bạc, Bướm Bơ. Và Bướm Bạc lấy tiên đẻ ra trống chim Tùng, mái chim Tót. Mụ Dạ Dần dạy chim Tùng, chim Tót chọn hang để ở, làm ổ để đẻ trứng, dạy chim Tùng, chim Tót dệt lụa, dệt gấm v.v… giúp chim Tùng, chim Tót tìm người ấp trứng. Trứng ấy nở ra muôn loài, trong đó có hai trứng đặc biệt là trứng pỏ và trúng Chiếng nở ra người các dân tộc Kinh, Mường, Mán, Thái… Có điều lạ là tuy Mụ Dạ Dần dạy chim Tùng, chim Tót dệt lụa, dệt gấm, nhưng bản thân mụ dệt thì
Lụa mụ Dạ Dần có chấy, có rận
Gấm mụ Dạ Dần có bọ chó, bọ ma
Về sau, trong một dị bản khác của chuyện kể Mường, mụ Dạ Dần hóa thành
Bà Dằn. Chuyện kể rằng ngày xưa ở Cấm Khê (nay là xã Phũ Khê) có một chiếc phai rất sâu, nước trong xanh, người Mường gọi là Đầu Mõm. Đầu phai là đường đi lại, cuối phai là một hang to. Hang rất sâu, càng đi vào sâu càng tối. Hang này được gọi là động Bà Dằn. Bà Dằn chính là con tinh sống ở trong động, chuyên ăn thịt người.
Thường ngày tinh ra nằm ở ngoài phai, rình bắt người đưa về hang ăn thịt. Từ lâu, người ta đã phải đánh nhau với tinh mà vẫn không trừ khử được nó, vì cứ chém được đầu này, nó lại mọc đầu khác, chém được tay này, nó lại mọc tay khác… Mãi về sau, nhờ có một người con gái chạy thoát khỏi nanh vuốt của tinh, mà người ta mới biết được điểm yếu của tinh là nó rất sợ cứt gà. Vì thế mọi người mang gươm giáo có bôi cứt gà vào hang đánh nhau với
Bà Dằn. Người ta gói bột cứt gà thành những gói to, ngồi chực trước cửa hang, chờ lúc mụ Dằn về thì ném các gói đó tới tấp vào mặt mụ. Mụ hoảng sợ kêu lên một tiếng ghê rợn và lão đảo. Đoàn người xông vào chém, băm vằm mụ ra làm trăm mảnh. Máu chảy ra lênh láng. Máu đọng trên mặt đất hóa thành muỗi, rệp, bọ, rết, vắt… Máu chảy xuống phai thì thành đỉa, rắn, các loại bọ dưới nước…
Ngày nay, ở Phú Khê vẫn còn di tích động
Bà Dằn và trong dân gian vẫn lưu truyền câu:
Chém cha cái họ con Dằn
Sinh vắt, muỗi, đỉa, hay ăn thịt người.
(Theo Tài liệu sưu tầm của Văn Củng).
Như vậy, những tư liệu vừa được trình bày đã cung cấp cho chúng ta những căn cứ để trả lời những câu hỏi được đặt ra trong quá trình tìm hiểu thành ngữ
trăm thứ bà Dằn.
Về câu hỏi thứ nhất: “Bà Dằn là ai?”. Có thể có hai câu trả lời: Một là, Bà Dằn, hay Dạ Dằn là vị nữ thần ở lưng chừng trời, sinh ra những con người khổng lồ, những thủy tổ của muôn loài và con người trên trái đất và dạy con người cách sống, cách làm ăn.
Hai là, Bà Dằn là con tinh chuyên ăn thịt người, không chỉ gây ra những tội ác mà cả khi chết đi rồi cũng còn sinh ra bao thứ làm hại con người như muỗi, vắt, rắn, rết v.v… Như vậy, có thể trả lời câu hỏi thứ hai: “Những
thứ của bà Dằn (Giằn) là rất nhiều thứ, thượng vàng hạ cám, rất linh tinh. Đó chính là nghĩa của thành ngữ
trăm thứ bà Giằn (Dằn).