by bevanng » 23 Feb 2017
233 Ngồi như La Hán
Muốn hiểu rõ thành ngữ “Ngồi như La Hán” là ngồi như thế nào thì phải hiểu rõ câu chuyện về La Hán.
La Hán, hay A La Hán là tên dịch âm qua tiếng Hán, từ chữ Arhat (Sanskrit) hoặc Arahant (Pháp). Arhat là dạng tắt của Arahant, và La Hán là dạng tắt của A La Hán!
Theo đạo Phật, thì La Hán là bậc thánh đã tu đắc quả, nghĩa là đã giác ngộ lý vô ngã (không có cái tôi) và có đủ những phép huyền diệu, đó là:
1) Bất sinh: vĩnh viễn vào cõi niết bàn, giải thoát khỏi vòng sinh tử, luân hồi, không còn tái sinh nữa, vĩnh viễn trở thành bất tử.
2) Ứng cúng: xứng đáng được hưởng sự cúng dâng của người và trời.
3) Sát tặc: trừ bỏ được ba độc tham, sân, si; nghĩa là, các vị La Hán đều không còn lầm lỗi, thoát khỏi phiền não, đạt tới sức mạnh huyền vi, tư tưởng tự do, tâm trí tự tại, biết hết tất cả. Niết bàn kinh còn chép: Ngươi đắc quả A La Hán trải qua hai vạn kiếp sẽ đắc quả Phật Như Lai.
Trong những cuộc thuyết pháp lớn của Đức Phật, thường có 1250 đệ tử A La Hán hợp kết tập thành Vương Xá (Rajagrha), dọn thành ba tạng kinh. Một trăm năm sau, có 700 vị A La Hán hợp kết tập kì hai tại thành Tỳ Xá Ly (vacali). Kế tới đời vua A Dục, khoảng 242, hoặc 244 t. CN, có 1000 vị Ala Hán hợp kết tập kì ba tại thành Hoa Thị để nhuận sắc bộ Tam Tạng Kinh và lo truyền bá đạo Phật ra nước ngoài.
Hồi đức Phật còn trụ trên thế gian, ngài có phái La Hán đi các nước ngoài để truyền bá giáo lý của ngài. Đó là các vị:
1. Tần độ la bạt na địa xa (Pindolapharadvâja)
2. Ca nặc ca phạt xa (KaraKavatsa)
3. Ca nặc ca bạt li đọa xà (Kanakabharadvâja)
4. Tổ tần đà (Suvinda)
5. Nặc cự la (Nakula)
6. Bát đa la (Bhadra)
7. Ca rí ca (Karika)
8. Phạt xà la phất đa la (Vajrajutra)
9. Thú bác ca (Svaka)
10. Bán thác ca (Panthaka)
11. La hỗ la (Râhula)
12. Na ca tê na (Nagasena)
13. Nhơn yết đà (Ingata)
14. Phạt na bà tù (Vànavâcin)
15. A thị ta (Ajita)
16. Chú đồ bán thác ka (Cudapanthaka)
Có 16 vị, song thường người ta tưởng lầm là có những 18 vị.
Từ góc độ mỹ thuật mà xét, có thể thấy các vị La Hán thường được thể hiện dưới ba dạng: tượng, phù điêu và tranh vẽ để thờ ở các chùa. Trong chùa Việt Nam, các vị La Hán thường được thể hiện dưới dạng tượng và phù điêu, như ở chùa Trăm gian (Quảng Nghi Tự), Chùa Thầy (Thiên Phúc Tự), chùa Mí (Sùng Nghiêm Tự) (các chùa này đều ở Hà Tây). Tượng các vị La Hán thường được bài trí thành hai dãy, mỗi bên 9 vị ở hai bên tiền đường (ở miền Trung và miền Nam), hoặc ở hai nhà giải vũ kiểu như ở chùa Dâu (ở miền Bắc).
Tượng La Hán ở miền Bắc thường được tạc trong tư thế ngồi trên loại bệ tự nhiên, như tảng đá, mô đất, gốc cây. Tượng La Hán ở miền Nam được làm ở tư thế cưỡi trên lưng các con thú. Hình hài, động tác, nét mặt mỗi vị một vẻ rất sinh động và gần gũi với con người đời thường. Có chùa, như chùa Tây Phương (Sùng Phúc tự) không bài trí tượng La Hán, mà thay vào đó là tượng 18 vị Tổ sư phái Thiền tông Tây Thiên (Mi Patriarche de L’Iude) nối tiếp nhau chủ trì, gìn giữ Phật pháp ở Ấn độ sau Phật Thích Ca. 18 tượng này, kể từ vị Tổ thứ nhất Ca Diếp, (Kacyapa) đến vị Tổ thứ 18 là Tăng già gia xá (Sainghayacas), 18 pho tượng Tổ rất sinh động, biểu lộ rõ nội tâm, có giá trị thẩm mỹ cao.
Những hiểu biết về lai lịch của La Hán, về cách bài trí về cách thể hiện bằng tượng các vị La Hán ở trong các chùa… sẽ giúp ta hiểu sâu hơn về nghĩa của thành ngữ “ngồi như La Hán”.
Có thể nói ngắn gọn: “Ngồi như La Hán” là ngồi la liệt thành hàng, thành dãy với những tư thế và tâm thức khác nhau, mỗi người một vẻ. Trong tiếng Việt còn có một biến thể khác của thành ngữ vừa nêu. Đó là bày như La Hán. Bày như La Hán là bày la liệt thành hàng ngang, dãy dọc nhiều thứ với những hình thù và sắc vẻ khác nhau… Rõ ràng câu thành ngữ vừa xét này đã phản ánh khả năng quan sát tinh tế của dân gian đối với thực tế khách quan trong cuộc sống.