by bevanng » 10 Feb 2017
220 Năm bè bảy mối
Nam bè bảy bối
Bảy mối để chỉ sự bề bộn, phức tạp của công việc, khiến cho đẩu óc con người rối bời, khó đường tháo gỡ, xoay trở. Thí dụ:
“Đầu óc của Tiến thật là năm bè bảy mối, mọi việc đặt ra trước mắt anh đòi hỏi anh phải làm cho tốt: Vấn đề đoàn kết tương trợ nhau đưa năng suất lên cao, thái độ đối với tổ kiểm soát”
Thành ngữ “năm bè bảy mối” còn được dùng để biểu thị sự không thống nhất, chia rẽ thành nhiều phe phái trong nội bộ một cơ quan, một tổ chức. Thí dụ: “Quân đội ngày càng mất sức chiến đấu, năm bè bảy mối cắn xé nhau”
Việc nhận diện ý nghĩa của thành ngữ này nói chung là đơn giản và không có vấn đề gì vướng mắc. Tuy nhiên, nếu xem xét về cấu tạo, thì thành ngữ “năm bè bảy mối” lại bộc lộ nhiều điều cần được lý giải. Trong thành ngữ này, năm đối với bảy, bè đối với mối. Nếu chỉ xem qua, ta dễ lầm tưởng bè và mối vốn chỉ là điểm nút ở trên bè, như thế bè không thể tương hợp với mối được, vì trong cơ cấu thành ngữ đối, có hai yếu tố chỉ lượng, trong tiếng Việt, không bao giờ có sự tương hợp giữa cái toàn thể và bộ phận của nó. Sự bất hợp lý này đòi hỏi chúng ta tìm kiếm những lý giải khác cho phù hợp.
Như đều biết, trong tiếng Việt, ngoài dạng “năm bè bảy mối” còn có dạng “năm bè bảy bối”. Thí dụ:
“Mồi thì ngon đấy nhưng mà năm bè bảy bối, bề nào cũng muốn ăn, ngoài thì tử tế với nhau nhưng thật ra trong bụng lúc nào cũng muốn làm nhau cho lụn bại để cưỡi lên đầu, lên cổ” (Nam Cao, “Chí Phèo”).
Thoạt tiên chúng ta dễ nghĩ dạng thức “năm bè bảy bối” được biến đổi từ dạng gốc “năm bè bảy mối”. Cũng vậy, bối được xuất phát từ mối và có nghĩa là “điểm nút”. Điều này xét về cơ sở biến âm thì hoàn toàn phù hợp. Hai âm môi m và b có thể luân chuyển cho nhau ví như (nhái) mén - (nhái) bén, mánh - bánh, mê - bê,… Song sự tình lại khác, nếu đi sâu vào tiếng Việt tìm kiếm, đối chiếu kĩ. Quả nhiên, trong tiếng Việt có từ bối với nghĩa là mớ vật mềm, nhiều sợi xoắn lại với nhau, quấn vào nhau như bối tóc, bối rác, bối rau. Các bối rau, bối cỏ, bối rác cũng trôi nổi và có nhiều đặc điểm như bè (bè rau, bè cỗ), ở một nơi, ở một mặt hồ, mặt ao mà có nhiều bè, nhiều bối trôi nổi thì ở đó cũng chẳng gọn gàng gì, mà trái lại rối bời, phân tán hỗn độn. Đó cũng là ý nghĩa chung mà thành ngữ “năm bè bảy mối” và “năm bè bảy bối” biểu hiện. Hiểu từ bối với ý nghĩa này, chúng ta thấy thành ngữ “năm bè bảy bối” là thành ngữ đối trong đó bè, bối đối với nhau về từ loại, lại tương hợp về nghĩa. Chính vì lý do này, chúng ta giả định rằng dạng “năm bè bảy bối” là dạng gốc, ngược lại “năm bè bảy mối” là dạng biến thể. Ở đây chúng ta phải cắt nghĩa cơ sở chuyển đổi từ bối - mối. Hai từ này, xét về cơ sở ngữ âm, như đã phân tích ở trên, không có gì vướng mắc nữa. Ngoài ra, sự chuyển đổi này còn do tác dụng ngữ nghĩa tác động vào. Ta vẫn biết, bối là một từ không phổ biến lắm, trong khi đó trong tiếng Việt có từ mối với ý nghĩa là điểm nút lại biểu hiện, thường được dùng trong ngôn ngữ hàng ngày. Lại nữa, khi thành ngữ có từ bè ở phía trước nó thì người ta dễ liên tưởng đến một bộ phận của bè là các mối buộc, mối kết bè. Ngoài ra, mối lại gây cảm giác “quấn quyện, rắc rối” mà ý nghĩa chung của toàn thành ngữ “năm bè bảy bối” đã biểu hiện. Với những lý do về âm và nghĩa như vậy, người dùng thành ngữ “năm bè bảy bối” dễ đồng nhất với “năm bè bảy mối”. Dần dà, trong quá trình sử dụng người ta quên hẳn nghĩa ban đầu của từ bối mà trái lại nhận thức nghĩa của mối khác đi. Thực ra, mối trong dạng biến thể và cần phải hiểu là bối, tức là các mớ thân mềm xoắn vào nhau, trôi nổi trên mặt nước, chứ không phải là những điểm nút dây ở trên bè. Thành ngữ “năm bè bảy bối” còn có biến thể khác nữa là “năm bè bảy búi”. Thí dụ:
“Xếp máy, cai thầu chuyên lôi kéo phu thợ ra năm bè bảy búi, tỉnh nọ, vùng kia, phu mới phu cũ” (Nguyên Hồng, “Sóng gầm”).
Cơ sở chuyển đổi giữa búi và bối được giải thích khá đơn giản. Hai âm u và ô vốn rất dễ chuyển đổi cho nhau, như ta vẫn thấy ở hàng loạt cặp từ tương ứng trong tiếng Việt như tui-tôi, mui-môi, chủi-chổi,…
Các dạng thức “năm bè bảy mối”, “năm bè bảy bối (búi)” đã trở thành khuôn mẫu để hình thành hàng loạt dạng thức tương đồng về nghĩa như năm bè bảy mảng, ba bè bảy mảng, năm bè bảy phái, ba bè bảy cánh, hiện đang được dùng rộng rãi trong tiếng Việt.