329 Thẳng ruột ngựa
Khi nói về tính cách của một con người bộc trực, thẳng thắn, nghĩ sao nói vậy, không lắt léo, không giấu giếm, giữ kín những điều suy nghĩ, những tâm tư riêng của mình, Dân gian ta thường hay dùng thành ngữ “thẳng ruột ngựa” để ví. Thí dụ:
“Tính đệ cứ thẳng ruột ngựa, biết thế nào nói thế ấy, không dám ba hoa văn vẻ” (Chu Thiên, “Bóng nước hồ Gươm”).
Thành ngữ thẳng ruột ngựa được hình thành nhờ vào sự quan sát con vật nuôi quen thuộc, dùng để kéo xe thồ, chở, dùng làm phương tiện chiến đấu cho các hiệp sĩ, các đội quân (đội kị binh). Ngựa là con vật ăn cỏ như trâu bò. Dạ dày ngựa thuộc loại dạ dày đơn, không tiêu hóa được nhiều chất xơ cứng. Ruột ngựa rất dài, đặc biệt đoạn nối ruột non với dạ dày, gọi là manh tràng, cũng rất dài và rất lớn. Đoạn này là một ống dài tới một mét, thẳng và to với đường kính 25-35 cm. Quá trình tiêu hóa chủ yếu diễn ra ở đây chứ không phải ở dạ dày. Có lẽ dựa vào cơ sở giải phẫu nội tạng của ngựa và căn cứ vào những điều thu nhận được bằng quan sát trực quan mà trong nhận thức của người Việt Nam, ruột ngựa được xem là một đối tượng về tính chất thẳng trái với cong. Thoạt đầu, phép so sánh thẳng ruột ngựa chắc là chỉ miêu tả tính chất hình thể, vật thể mà con người có thể thấy được, quan sát được. Tuy nhiên, trong tiếng Việt ruột hay bụng, lòng, dạ đều có ý nghĩa biểu trưng cho tình cảm, tâm tư, suy nghĩ, nhận thức của con người, lệ như: ruột đau như cắt, nóng gan nóng ruột, ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều, ruột để ngoài da,…
Chính nhờ vào tính biểu trung này mà thành ngữ thẳng ruột ngựa như được “thổi” vào một chất mới. Thành ra, thành ngữ “thẳng ruột ngựa” được chuyển từ ý nghĩa miêu tả đặc điểm, tính chất cụ thể bề ngoài, trực quan đến ý nghĩa biểu thị tính tình con người hoặc tính chất trừu tượng thuộc phạm vi tinh thần. Trong sử dụng ngôn ngữ, thành ngữ “thẳng ruột ngựa” thường được dùng để chỉ sự bộc trực ngay thẳng, thật thà của tính cách con người. Trong cách đối xử, người có tính thẳng ruột ngựa được xem là người hiền lành, không có ác tâm, không lắt léo, không tính toán vòng vo, không cân nhắc hơn thiệt, nhỏ mọn. Ví dụ:
“Cán bộ nhà ta khó tìm được người thật thà, thẳng ruột ngựa, không có bụng dạ lắt léo, làm việc rõ ràng”
“Triều đình và các quan ta có lẽ không biết cái thâm ý ấy, cứ thẳng ruột ngựa mà đối xử” (Chu Thiên, “Bóng nước Hồ Gươm”).
“Nếu thơ Thái và thơ Mường bay bướm thì thơ Mèo thẳng ruột ngựa, không bóng gió” (Văn nghệ, 9-1953).Vậy là, theo đánh giá của người đời, đặc tính “thẳng ruột ngựa” được xem là tốt, tích cực, đáng yêu, dễ thông cảm. Tuy nhiên nói như vậy không có nghĩa là những gì trái với tính chất “thẳng ruột ngựa” đều xấu, đều tiêu cực. Thực ra, người Việt trong nhiều cảnh huống, nhiều trường hợp chỉ dùng thành ngữ “thẳng ruột ngựa” để xác định tính cách của con người, tính chất sự vật đối lập với sự kín đáo, tế nhị, bóng bẩy, hoa lá và những tính chất đa dạng khác trong cuộc sống. Nếu chỉ xét về cách ứng xử ở đời thì tính thẳng ruột ngựa nhiều khi lại không phù hợp. Thí dụ:
“Vịt đực thì thô mộc, thẳng ruột ngựa. Nói như thế không phải nhà phê bình cứ thẳng ruột ngựa mà viết” (Nghiên cứu văn học, 1960).Đôi khi người ta dùng thành ngữ “thẳng ruột ngựa” đồng nghĩa với thành ngữ “ruột để ngoài da” với dụng ý chê trách sự phơi bày, sự bộc bạch tất cả mọi điều nghĩ suy, cũng như mọi tâm tư nguyện vọng sâu kín của mình cho người khác biết một cách không cần thiết. Dẫu vậy, những con người có tính tình “thẳng ruột ngựa” vẫn là người chân thật, mộc mạc, ngay thẳng và hành vi bộc bạch, giãi bày ý nghĩa tình cảm theo lối “thẳng ruột ngựa” có thể gây ra những hậu quả không hay trong cách đối xử nhưng cũng có thể thông cảm và đáng khen hơn những kẻ nham hiểm.