Doanh Nhân Việt Trong Thế Trận Toàn Cầu (Alan Phan)

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Re: Doanh Nhân Việt Trong Thế Trận Toàn Cầu (Alan Phan)

Postby bevanng » 31 Oct 2016

Bao giờ nền Kinh Tế Việt sẽ phục hồi?

Ngày: 03 /06/2013
Tôi thích tạo ra rất nhiều dự đoán kinh tế. Người ta sẽ quên những dự đoán sai và chỉ cần họ nhớ một lần khi tôi trúng (Alan Cox)
Tuần qua tôi ra Hà Nội để nói chuyện ở 3 cuộc hội thảo nhỏ với khoảng 2 ngàn người. Câu hỏi đầu môi ở khắp nơi là “bao giờ kinh tế chúng ta mới phục hồi?”. Ngoài các quan chức, ai cũng muốn đánh giá và đo lường sức chịu đựng của họ trước cường độ và thời gian của cuộc khủng hoảng.

Lại chuyện dự đoán kinh tế
Tôi nghiêm túc lập lại các lý do tôi không còn làm những dự đoán kinh tế cho Việt Nam là vì (a) các số liệu thống kê toàn dựa trên thành tích và chỉ tiêu thay vì thực tế hay khoa học (b) nền kinh tế ngầm lớn hơn 30% sẽ làm sai lạc mọi kết luận và (c) phần lớn quyết định kinh tế đều xuất phát từ nhu cầu chính trị, trung ương đến địa phương.
Tôi tin rằng ngay cả những quan chức lãnh đạo kinh tế xứ này cũng không chắc chắn về quy trình để hoàn thành quyết định và chính sách hay cả về sự hữu hiệu của việc thực thi. Kiếm một vài tỷ đô la cho ngân sách qua việc mua bán độc quyền vàng và đô la; hay in tiền mà không gây lạm phát (vì suy thoái về tổng cầu quá nặng) không có nghĩa là “vận may” hay các “thủ thuật bùa phép” sẽ có những kết quả tương tự trong tương lai.

Mâu thuẫn của mô hình
Trong khi đó, căn bản yếu kém của nền kinh tế vẫn là một cấu trúc cốt lõi “kinh tế thị trường với định hướng xã hội”. Thực ra, ngay cả các nền kinh tế tự do của Âu Mỹ Úc đều chứa đựng những chất tố lẫn lộn giữa thị trường và xã hội. Nhưng chỉ tại Việt Nam mới có sự áp đặt “tùy tiện” của chính quyền trong vấn đề thực thi.
Như bất động sản, để bảo vệ quyền lợi cho các đại gia BDS, chúng ta để giá cả nhẩy múa thăng tiến theo giá thị trường. Khi dân không đủ tiền để trả giá cao như vậy thì chánh phủ bơm ngay 30,000 tỷ đồng ngân sách để cứu trợ. Khi ngân hàng kiếm tiền vô tội vạ bằng cách cho vay bừa bãi không kể đến rủi ro, chúng ta tôn vinh quy luật thị trường. Khi nợ xấu đe dọa sự sống còn của vài ngân hàng, chính phủ phát hành trái phiếu quốc gia với mệnh giá 100% để chuyển đổi dùm nợ xấu. Mọi ngành nghề khác trong nền kinh tế đều được quản lý tương tự.
Thông điệp của chánh phủ khá rõ ràng, “chúng ta sẽ cứu vài nhóm giàu có quyền lực bằng tiền thuế của toàn dân”. Điều này được biện minh là sự sụp đổ của nhóm nhỏ sẽ kéo theo sự sụp đổ chung của mọi người; do đó, nếu lấy 330 ngàn đồng mỗi người (nghèo đi không bao nhiêu), chúng ta sẽ có 30 ngàn tỷ đồng để kích cầu và phục hồi BDS.
Nhân cách suy nghĩ này lên 100 lần cho các gói cứu trợ khác, chúng ta sẽ có một bức tranh khá chính xác về nền kinh tế Việt Nam. Danh từ để gọi mô hình kinh tế vĩ mô này là “dở dở ương ương” hay “nửa đực nửa cái, nửa đồng bóng”.

Giải pháp rất đơn giản
Thực ra giải pháp cho sự phục hồi của nền kinh tế rất đơn giản nếu các nhà lãnh đạo xác quyết một con đường sẽ chọn. Nếu đây là một nền kinh tế thị trường đúng nghĩa, thì việc đầu tiên là bán hết các doanh nghiệp nhà nước qua các cuộc đấu giá quốc tế công khai minh bạch, ước lượng của một công ty kiểm toán đa quốc là ngân sách sẽ thu về khoảng 70 tỷ đô la. Ngoài tiền bạc, hiệu ứng lớn nhất là niềm tin sẽ quay trở lại với các nhà đầu tư nội cũng như ngoại. Với 60 tỷ đô la trong dân và khoảng 30 tỷ FD1, dòng tiền sẽ khai thông phần lớn bế tắc hiện nay, kể cả BDS.
Nếu chúng ta nhất quyết giữ mô hình kinh tế chỉ huy, thì việc đầu tiên là đánh thuế thật nặng các doanh nghiệp và đại gia tư nhân, đẩy dòng tiền về các dự án xã hội, hạ tầng và để cho các doanh nghiệp nhà nước đầu tư tràn lan. Hậu quả là nạn lạm phát bùng nổ mạnh, mọi người dân sẽ nghèo đi một ít, tiêu dùng sẽ co cụm, GDP suy giảm, nhưng tựu trung xã hội sẽ thâu ngắn khoảng cách giầu nghèo, chánh phủ sẽ nắm chặt quyền bính và chúng ta có ổn định kiểu bao cấp. Viễn cảnh cũng nhận được khá nhiều ủng hộ từ 3 triệu công chức và gia đình. Họ muốn quên chuyện biển lớn để ta có thể về tắm ao ta. An toàn hơn.
Lựa chọn nào thì cũng cần một quyết tâm chánh trị và một sự ban phép về quyền lực từ trung ương. Tôi hoàn toàn không có thông tin nội bộ, cũng không là thầy bói biết số tử vi của các lãnh đạo để đoán mò. Cho nên, tôi thực tình không biết bao giờ thì chúng ta mới bắt đầu một chu kỳ phục hồi. Cũng có thể tương quan quyền lực sẽ không cho phép một đổi thay gì và chúng ta sẽ dậm chân tại chỗ trong vài năm tới?

Con thiên nga đen
Tuy nhiên trong 2 cuộc hội thảo vừa rồi, tôi có dịp thảo luận phân tích tình hình với anh Trương Đình Tuyển, cựu bộ trưởng. Anh vừa được thủ tướng bổ nhiệm làm đặc sứ trong cuộc đàm phán TPP (Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương) ở Peru. Theo dự tính, nếu Việt Nam gia nhập TPP sau khi quốc hội Mỹ thông qua, GDP của Việt Nam có thể tăng trưởng 11% trong khi xuất khẩu gia tăng 26% mỗi năm. Đây sẽ là một cú hích quan trọng tương đương với việc gia nhập WTO.
Vài ba rào cản khá lớn trong tiến trình này:
- Vì các điều khoản mậu dịch và mục tiêu của 12 nước thành viên chứa nhiều khác biệt, hiệp định sẽ không hoàn tất vào cuối 2013 như dự định mà có lẽ phải dời đến cuối 2014.
- Hiệp định là một thủ thuật của Mỹ để kéo vài nước ASEAN và Nhật khỏi ảnh hưởng kinh tế của Trung Quốc (và từ đó, địa chánh trị). Gần như 80% thương mại và sản xuất của Việt Nam tùy thuộc vào Trung Quốc. Chắc chắn Trung Quốc sẽ không khoanh tay ngồi yên nhìn Mỹ lấy mất miếng mồi béo bở này.
- Những điều kiện đòi hỏi từ các thành viên là sự minh bạch của quy chế thị trường, khó thực thi cho bối cảnh Việt Nam.
- Quốc hội Mỹ quàng thêm điều kiện tự do và nhân quyền vào hiệp định. Dù chánh phủ Mỹ coi Việt Nam như đồng minh chiến lược (Đại sứ David Shear tuần rồi đến Little Saigon để “dân vận” cộng đồng Việt kiều), chưa chắc Obama sẽ có sự đồng thuận mong muốn.
Nếu TPP được thông qua với Việt Nam là thành viên vào cuối 2014, tôi nghĩ kinh tế Việt sẽ phục hồi mạnh mẽ vào giữa 2014. Hai quỹ đầu tư lớn của Mỹ dường như đánh cuộc vào kịch bản này khi KKR rót vào Masan 200 triệu USD và Warburg Pincus theo gương, đầu tư 200 triệu USD vào Vincom Retail.
Trong khi đó, chúng ta vẫn phải tiếp tục xin ơn Trên phù hộ.

P.S. Một câu hỏi bên lề hội thảo là gói kích cầu 30 ngàn tỷ chủ chánh phủ có thể vực dậy ngành BDS đang ngủ đông? Câu trả lời của Alan: KHÔNG.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Doanh Nhân Việt Trong Thế Trận Toàn Cầu (Alan Phan)

Postby bevanng » 31 Oct 2016

Cái gọi là kinh tế Việt Nam…

Ngày: 24/ 11/ 2013
Mỗi tuần tôi đều nhận vài Email hỏi sao bác không viết bài về kinh tế Việt Nam? Nhiều lý do; nhưng các trợ lý của tôi lại lưu ý là các bài viết về kinh tế của tôi thực ra cũng không nhiều người đọc. Những bài của khách khá nổi danh như anh Phạm Đỗ Chí, Phạm Chí Dũng… đăng trên NGA cũng cùng chung số phận hẩm hiu. Có lẽ các Emails là từ những dư luận viên hướng dẫn chúng tôi ra khỏi các bài về lịch sử và văn hóa xã hội thường liên quan chút đỉnh đến chính trị gây khó chịu cho các quan lãnh đạo?
Dù thế nào, cách đây 2 năm, tôi đã cảm nhận là hệ thống kinh tế của Việt Nam đã biến thái thành một sân chơi hoàn toàn do các chính trị gia điều khiển theo mục tiêu chính trị của họ. Mặc cho những lời nói bầy tỏ quyết tâm này chương trình nọ trong kế hoạch 5 năm, 10 năm, 50 năm… không một kinh tế gia nào sống tại Việt Nam thực sự tin vào những chiêu PR hay các khẩu hiệu này. Sau 80 năm, chỉ còn những thế hệ trẻ vừa tập tễnh ra đời là còn chút hy vọng.
Kinh tế Việt Nam đã trở thành một nơi chốn mà mọi thành phần có quyền có lợi tranh dành xâu xé, mang những miếng mồi ngon nhất về cho gia đình và phe nhóm mình. Một chế độ tư bản hoang dã, với nhiều cách phá luật, để kiếm tiền nhiều nhất và nhanh nhất. 5% dân số đang kềm kẹp và thuyết phục đa số còn lại nhận những mẩu cơm vụn, canh thừa… để an phận (sinh ra đã đòi… làm chủ?).
Vả lại, điều này cũng không gì xa lạ. Cách đây 150 năm, Mỹ đã xây dựng nền kinh tế vĩ đại của mình trên những thủ thuật tương tự, dù kín đáo hơn. Gần đây, Hàn Quốc, Đài Loan, Indonesia, Phi Luật Tân… đều có những trải nghiệm đau thương của tư bản hoang dã. Họ may mắn là nền kinh tế toàn cầu lúc đó chưa liên thông rộng rãi nên họ thoát khỏi vũng bùn mà không có nhiều cạnh tranh. Hiện nay, Việt nam sẽ vất vả hơn nhiều và chu kỳ trì trệ chắc chắn sẽ kéo dài thành thập kỷ, nếu không canh tân theo môi trường mới.
Đó cũng là lý do chính khiến tôi không nói chuyện về kinh tế Việt Nam nữa. Chúng ta không có chính sách hay kế hoạch kinh tế nghiêm túc để thi hành. Chúng ta có một cơ chế hành chánh đã bén rễ sâu từ 80 năm qua, và những nhóm đặc quyền sẽ không cho ai đụng tới. Mặc cho mọi kêu gào về tái cấu trúc hay đổi mới, những người biết chuyện đều quay lưng cười đểu. Chúng ta có một kỹ năng ngoại giao rất giỏi, nên chúng ta ca bài con cá rất phù hợp với những gì người Mỹ, người Nhật, người Hàn… hay người Tàu, người Nga muốn nghe (cũng không nên tự hào lắm về việc này, họ chỉ gật đầu khi quyền lợi của họ được tôn trọng). Chúng ta tuyên huấn dậy dỗ bọn dân đen, nhưng phần lớn thời gian và đầu óc chúng ta còn loay hoay với đơn đặt hàng của mẹ đĩ, của xếp lớn, của đối tác, của con cháu…
Tuy nhiên, với các bạn BCA muốn phân tích sâu rộng hơn về nền kinh tế này, tôi xin nhắc các bạn về vài điều căn bản:

1. Số liệu thống kê
Hơn 3 thập kỷ nay, phân tích định lượng (quantitative analysis) của kinh tế vĩ mô càng ngày càng chiếm ưu thế tuyệt đối so với định tính (qualitative). Các số liệu thống kê và dữ kiện chính xác là yếu tố đầu tiên và cuối cùng. Điều này cũng không tránh được những “xoa bóp” cố tình của chính trị gia để trục lợi cho chánh sách và quyền lực. Tuy nhiên, trong một thể chế minh bạch với sự soi mói của ngàn góc nhìn từ chuyên gia đến báo giới, mọi lạm dụng đều bị giới hạn.
Trong những quốc gia mà quyền tự do ngôn luận bị kiểm soát chặt chẽ, mọi sử dụng số liệu là một trò hài kịch cỡm. Trừ khi vì miếng cơm manh áo, khi các chuyên gia khoác cho dự đoán và phân tích của mình cái áo khoa học dựa trên các số liệu sản xuất từ bệnh thành tích, họ đã tự lừa dối bản thân và bao nhiêu người dân khác?

2. Quán tính (inertia) là một lực đẩy bền bỉ
Ngược với thái độ tô hồng vô trách nhiệm ở trên là những đánh giá vô cùng tiêu cực của nhiều chuyên gia khi họ nhận ra những hiểm nguy và rủi ro lớn của bất cứ nền kinh tế nào. Danh từ “vỡ trận”, “sụp đổ”, suy thoái “trăm năm”… được sử dụng bừa bãi. Một thí dụ điển hình là xứ Zimbabwe của ông Mugabe. Mặc cho lạm phát cả trăm ngàn phần trăm mỗi năm, dân tình phải bỏ chạy khỏi xứ hàng loạt, cuộc khủng hoảng làm thế giới há hốc miệng cũng chấm dứt sau 6 năm. Đến nay, dù không khá gì hơn các nước láng giềng, Zimbabwe và ông Mugabe (đắc cử từ 1980) vẫn tồn tại và nhe răng cười rất tươi trước các ống kính phóng viên (hay ngủ say sưa trong một cuộc họp thượng đỉnh các quốc gia Phi mấy ngày trước).
Những thí dụ về các quốc gia khác như Bắc Triều Tiên, Hy Lạp, Argentina… tràn đầy trong lịch sử kinh tế thế giới.

3. Mọi nền kinh tế đều có những mảng tối sáng khác nhau và luôn thay đổi
Không một nền kinh tế nào giống nhau. Ngoài kích cỡ, đặc thù cạnh tranh, cơ hội và rủi ro, các nền kinh tế quốc gia lại còn luôn biến dạng theo tình thế hay theo lãnh tụ. Phi Luật Tân đang trì trệ vì các Tổng Thống từ Ramos đến Arroyo đã để quán tính và các phe nhóm lợi ích lôi cuốn. Đến 2010, khi vị Tổng Thống trẻ Aquino nắm quyền, ông đã quyết tâm theo đuổi một chính sách cải cách và hiện đại, tạo nhiều thành quả ngoạn mục trong mấy năm vừa qua.
Quay lại với Việt nam, trong khi các doanh nghiệp tư nhân vất vưởng vì nhiều thế yếu cạnh tranh, lồng trong một nền kinh tế vĩ mô giáo điều và nặng nề, khu vực FDI hiện đang phát triển tốt với những đặc lợi ban phát vô cùng béo bở. Các nhà đầu tư FDI rất nhậy bén với cơ hội và thêm vào đó, thị trường tương lai của 90 triệu dân số trẻ trung luôn tạo hấp dẫn. Sản lượng xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI sẽ là đầu tàu chính cho những phát triển sắp đến.

4. Ba gánh nặng ngàn cân
Tuy nhiên con rồng kinh tế Việt Nam sẽ không cất cánh được, ngay cả khi gia nhập TPP (dự trù vào cuối 2014); vì trọng lực nặng nề của 3 yếu tố: doanh nghiệp nhà nước, nợ xấu ngân hàng và ngân sách chánh phủ. Ngày nào mà toàn dân còn phải khiêng đỡ các hành lý này, thì ngày đó kinh tế Việt Nam chỉ nên bàn về mô hình “sống sót” (survival).
Khi các nhà lãnh đạo chính trị và kinh tế vẫn kiên định về định hướng lạ lùng và ngược đời của Việt Nam, thì hệ quả là ngay cả 120 năm sau, chúng ta cũng không bắt kịp Singapore. Các thế hệ trẻ sau này sẽ tiếp tục đi đào vàng giữa sa mạc hay biển cả.
Nhưng trên hết, tôi vẫn muốn chia sẻ một nguyên lý mà tôi hay lập đi lập lại: kinh tế cá nhân vẫn quan trọng hơn vĩ mô. Một doanh nghiệp đầy đủ kỹ năng và có một kế hoạch chi tiết bài bản về mô hình kinh doanh, cùng một quyết tâm và kiên nhẫn cao độ, vẫn sẽ tìm cho mình một chỗ đứng xứng đáng dưới ánh mặt trời.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Doanh Nhân Việt Trong Thế Trận Toàn Cầu (Alan Phan)

Postby bevanng » 31 Oct 2016

Giải mã nền kinh tế ngầm

Ngày: 29/09/2011
Trong viễn ảnh bi quan, nhiều chuyên gia níu lấy cái phao khó phản bác là “nền kinh tế ngầm” của Việt Nam rất mạnh, lượng dự trữ vàng và ngoại hối rất cao, các hoạt động này sẽ cứu nguy tình trạng vĩ mô, và chúng ta sẽ ổn thôi.

Những ngày qua, tình hình kinh tế thế giới biến đổi nhanh chóng, S&P hạ cấp tín dụng nước Mỹ; vàng vượt 1,700 dollar một lượng; Dow Jones rớt hơn 1,300 điểm trong vài ngày; Trung Quốc chửi Mỹ thậm tệ vì làm sụt giảm giá trị dollar (coi bài Kẻ cắp gặp Bà Già để hiểu thêm mánh mung của hậu trường chính trị). Cá nhân tôi có thể “gáy” to với bạn bè: tôi đã khuyên là cứ ôm lấy “vàng” 4 năm về trước; tôi đã đoán trước một năm các cuộc khủng hoảng tài chính 2007 và 2011 từ bong bóng BDS, rồi nợ công vì kích cầu, và lạm phát vì in tiền bừa bãi.
Nhưng thực sự, tôi phải thú nhận là những kiến thức chính xác này tôi đã “trộm” được sau khi lắng nghe những mẫu chuyện bình thường của các anh chị lao công, các người mua bán hàng lẻ nhỏ, các nhân viên cấp thấp của văn phòng… trong giao thiệp hàng ngày. Không gì nguyên bản.
Các chuyên gia kinh tế thường chỉ nhìn vào số liệu thống kê từ chánh phủ và đưa ra kết luận dựa trên sách vở từ tháp ngà nghiên cứu, nên đến 90% không biết chuyện gì đang xẩy ra và chuyện gì sẽ sắp đến. Như con ngựa bị bịt mắt hai bên, chỉ biết cắm đầu trên con đường trước mặt.
Trong viễn ảnh bi quan, nhiều chuyên gia níu lấy cái phao khó phản bác là “nền kinh tế ngầm” của Việt Nam rất mạnh, lượng dự trữ vàng và ngoại hối rất cao, các hoạt động này sẽ cứu nguy tình trạng vĩ mô, và chúng ta sẽ ổn thôi. Theo ước tính, nền kinh tế ngầm của Trung Quốc và Việt Nam có thể chiếm 30 đến 45% GDP, so với khoảng 8% bên Mỹ. Lý do là tín dụng cá nhân ở đây không phổ biến như bên Mỹ và các giao dịch tiền mặt lên đến 65% tổng số thương vụ. Giả thuyết này khá thuyết phục vì không ai rờ nắm được hiện trạng thực hư của con số dự phóng.
Tuy nhiên, một sự kiện nhỏ trong gia đình làm tôi “vấn đáp” lại tiêu đề này. Bà ô sin trong nhà có một bà chị buôn bán tạp hóa tại một xã nhỏ ở Hậu Giang. Thương vụ chừng 7 triệu một tháng; và ước tính lạc quan nhất cho bà một lợi tức khoảng 2 triệu một tháng hay 24 triệu một năm. Bà vừa phải trốn khỏi xã sau khi không trả nổi số nợ lên đến khoảng 350 triệu. Sự phá sản của bà tạo phản ứng dây chuyền và sau đó có hơn 20 người phải đi trốn nợ. Cho đến nay, mọi người liên quan vẫn tìm cách giải quyết là đi vay nợ thêm từ nhiều thành viên khác của gia đình bạn bè. Hệ thống “hụi”, nợ trả góp từ cá nhân, vay mượn từ bạn bè gia đình… từ xưa đã thành một tập tục phổ thông khắp xã hội, và hệ thống ngân hàng không chánh thống này được nhiều chuyên gia đánh giá cao về hiệu quả.
Tôi nhận thấy ngay khác biệt giữa tín dụng “ta” và “tây”. Các mạng truyền thông thường nêu ra khuyết điểm lớn nhất của nền kinh tế Mỹ là tín dụng cho các người tiêu dùng chiếm tỷ lệ quá cao trên tổng số tín dụng của quốc gia (hơn 30% của 40 ngàn tỷ dollar).
Khi tỷ lệ thất nghiệp vượt 10%, thu nhập để trả tiền nhà, tiền xe, tiền thẻ (credit cards) không đủ, tạo nên những thất thoát lớn cho ngân hàng. Trong khi đó, một chuyên gia nói với tôi là ở Việt Nam, phần lớn tín dụng là dành cho các doanh nghiệp, thay vì cá nhân, nên hiểm họa nợ xấu do ăn tiêu quá mức khó xảy ra. ông quên rằng hơn 40% nợ vay ngân hàng là để đầu tư vào bất động sản, chứng khoán hay các hoạt động thương mại phiêu lưu khác, dù mọi người vẫn hay lách luật bằng những tên gọi khác nhau.
Dĩ nhiên, sự tiêu xài của người Mỹ là một vấn nạn; thêm vào đó, các chánh phủ Mỹ đã lợi dụng yếu điểm này của người dân để làm lực đẩy cho GDP, lấy thuế cho ngân sách, gia tăng quyền lực của quan chức, chi tiêu cho những phiêu lưu quân sự của đế chế và vay tiền bừa bãi.
Nhưng dù tiêu xài cao, phần lớn nợ tư của các gia đình bị giới hạn vào chỉ tiêu cho vay của ngân hàng, vì khó mà đi vay từ cá nhân ở Mỹ. Thông thường, vay nợ để mua nhà được tài trợ khoảng 25% dựa trên khả năng trả nợ (thu nhập) và ngân hàng cho thêm khoảng 15% cho các nợ xe, nợ thẻ và các nợ khác. Tóm lại, nếu bạn có 5 ngàn dollar lợi tức mỗi tháng (trừ ra khoảng 800 dollar thuế) thì số nợ tối đa theo giấy tờ là vào 1,680 dollar mỗi tháng, số nợ an toàn là $300,000 cho một căn nhà trả 30 năm với lãi suất 5. 5% và nợ xe, nợ thẻ khoảng $60,000 với lãi suất 10% trung bình.
Quay lại chuyện Việt Nam, nếu gia đình bà bán hàng nói trên chỉ có 2 triệu lợi tức, bà chỉ được vay tối đa chừng 30 triệu với lãi suất 20%. Khi bà nợ đến 11 lần khả năng trả nợ thì sớm muộn gì bong bóng cũng vỡ, dù ở Việt Nam hay Mỹ. Sự thiếu minh bạch về hệ thống tín dụng và khả năng thu nhập đã gia tăng rủi ro rất cao. Tôi càng ngạc nhiên hơn khi một báo cáo về “hụi” cho thấy hoạt động này khá phổ biến vì tổng số được ước tính đến 22% tổng số nợ của ngân hàng. Ngoài bong bóng bất động sản đã bắt đầu xì hơi, một bong bóng nợ cá nhân khắp xứ sẽ khiến nhiều ngân hàng chao đảo, vì có rất nhiều người với khả năng vay ngân hàng đã dùng tiền này để cho vay lại ngoài tư nhân, tìm khoản lời sai biệt.
Nhiều người cũng so sánh Việt Nam với Trung Quốc nơi nền kinh tế ngầm cũng rất phát triển và hiện tượng hụi cũng rất phổ thông, sống ở Trung Quốc 15 năm qua, tôi nhận xét một điều là nói chung, dân Tàu thực sự cần kiệm (dù không bằng Ấn Độ) hơn dân ta nhiều. Thống kê của Visa International về mức độ tiêu xài cá nhân xác định Việt Nam dẫn đầu bảng, và nếu tính theo thu nhập đầu người, chúng ta qua mặt cả dân Mỹ về mặt tiêu xài. Ngay cả trong lãnh vực sản xuất, tôi cũng nghe và biết khá nhiều khoản vay mượn ngoài luồng của các doanh nghiệp với lãi suất chóng mặt (5% một tháng) để sống còn.
Nền kinh tế ngầm Việt Nam có thực sự đủ mạnh để giúp mọi người vượt qua bão lớn? Tầm ảnh hưởng của nó như thế nào với hệ thống ngân hàng, với bong bóng bất động sản, với mức tiêu dùng của người dân? Nó tùy thuộc thế nào vào lượng kiều hối, vào kênh đầu tư vàng, vào sự trú ẩn an toàn của lượng tiền nhàn rỗi?
Như đã nói từ đầu, tôi nghĩ là kinh tế toàn cầu sẽ lâm vào cảnh suy phát (stagflation) trong 4 đến 6 năm kể từ 2012. Bài viết này đặt ra vài câu hỏi để chúng ta bàn luận vì kết quả thực sự sẽ thay đổi những dự phóng về khả năng vượt bão của Việt Nam trong những năm tới. Hỏi thế thôi, chứ bất cứ kết luận nào, dù tích cực hay tiêu cực cũng đều có sác xuất đúng sai như nhau.
Nhưng khi quyết định kinh doanh hay đầu tư, doanh nhân cũng nên suy nghĩ thêm về yếu tố này.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Doanh Nhân Việt Trong Thế Trận Toàn Cầu (Alan Phan)

Postby bevanng » 31 Oct 2016

Những số tiền phi pháp cho nền kinh tế ngầm

Ngày: 31/08/2013
Bài viết của báo Tầm Nhìn dưới đây cụ thể hóa tỷ lệ “phí bôi trơn” cho các dự án BDS. Tỷ lệ này là từ 25% đến 30%. Các cựu quan chức như GS Đặng Hùng Võ và TS Cao Sỹ Kiêm cũng xác định một vụ việc mà có lẽ mọi người đều biết và đã trở thành chuyện hàng ngày ở huyện.
Nếu theo tổng kết của sở thống kê thì con số FDI đầu tư vào BDS trong 10 năm qua là khoảng 60 tỷ USD. Tiền đầu tư từ nội địa của các nhà đầu tư Việt chiếm khoảng 45 tỷ USD. Bỏ qua con số cho những đầu tư chui (không cách gì định lượng) thì số tiền “bôi trơn” vào khoảng 27 tỷ USD. Đây là một số tiền khủng cho một quốc gia còn nghèo như Việt Nam; và số tiền này là một trong những nhân tố tạo nên một nền kinh tế ngầm đáng kể ở Việt Nam; cũng như là những lý do khiến thế giới đặt Việt Nam vào những quốc gia có số lượng rửa tiền cao nhất thế giới.
Tuy nhiên, tiền bôi trơn không chỉ giới hạn ở các dự án BDS. Một bài viết của tôi về nạn phá rừng http://www.gocnhinalan.com/bai-tieng-vi ... -trng.html cho thấy nếu chỉ tính 8,000 USD cho mỗi mét khối gỗ của rừng sinh nguyên, con số thu nhập của việc phá rừng lấy gỗ là khoảng 65 tỷ USD trong 16 năm qua. Phí bôi trơn của các lâm tặc cũng đem đến cho nền kinh tế ngầm hơn 20 tỷ USD.
Đây tôi chỉ nói đến có 2 ngành nghề. Chúng ta còn có thể tính ra phí bôi trơn cho các dự án xây cất cầu đường, khai thác khoáng sản hay các nhà máy lọc dầu, thép, xi măng, phân bón… Các dịch vụ như logistics với phí vận chuyển, cảng bãi, thuế hải quan, và cả trăm cách để kiếm tiền bằng kỹ nghệ phong bì.
Có thể nói phí bôi trơn phủ tràn tất cả các lãnh vực ngành nghề của nền kinh tế, từ công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ… và mọi doanh nghiệp lớn hay nhỏ (kể cả những quán hàng rong) đều phải chịu món “thuế” vô hình này. Ngay cả các người dân vẫn đối mặt hàng ngày với những món tiền “thuế” khi di chuyển và bị CSGT hỏi thăm.
Một vài ước lượng về tầm cỡ của nền kinh tế ngầm từ các chuyên gia (dĩ nhiên có thể sai hoàn toàn) là lượng giao dịch giữa các thành phần tham dự có thể lớn hơn 50% của GDP Việt nam hay khoảng 60 tỷ USD.
Hệ quả đầu tiên của phí bôi trơn là việc gia tăng giá thành của mọi sản phẩm. Trong khi lương nhân công Việt Nam được tiếng là một trong những nơi rẻ nhất thế giới, giá cả sinh hoạt tại các thành phố lớn đều nằm trong top 20 của toàn cầu. Xem bài Gánh Nặng Phí Quản Lý http://www.gocnhinalan.com/bai-tieng-vi ... qun-2.html
Hệ quả sau đó là các số tiền khủng từ thu nhập phi pháp này tạo nên một nền kinh tế ngầm rất lớn, ngoài tầm kiểm soát của chánh phủ và không thể định lượng bởi các nhà phân tích kinh tế. Thực tình, nếu những dòng tiền bất hợp pháp này đổ vào những hoạt động đầu tư và thương mại chính thống như các dòng tiền khác, thì ảnh hưởng của chúng trên nền kinh tế cũng rất tích cực và đáng khuyến khích. Nhưng bản chất cần che giấu của dòng tiền khiến chúng thường đổ vào những phi vụ đầu cơ chụp giựt, đánh mau rút gọn, nên chúng thay đổi nhiều bản sắc của nền kinh tế trong các lãnh vực BDS, chứng khoán, vàng, ngoại hối… Việc đem các khối tiền lớn ra nước ngoài để tìm sự an toàn về lâu dài… cũng làm xuất huyết vốn luân chuyển trong nước.
Và chưa nói đến những hệ quả khác liên quan đến vấn đề đạo lý, sự vô cảm do phong trào chạy theo đồng tiền bẩn (và dễ kiếm), tấm gương của các người có quyền, sự yếu kém của một xã hội dân sự, và một nền giáo dục “dạy không người nghe”…
Nền kinh tế ngầm là biểu hiện của tất cả những gì không minh bạch. Và một nền kinh tế chính trị không minh bạch là rào cản lớn nhất cho mọi tiến bộ của xã hội.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Doanh Nhân Việt Trong Thế Trận Toàn Cầu (Alan Phan)

Postby bevanng » 31 Oct 2016

Giá trị kinh tế của quan chức…

Ngày: 29/01/2012
Dĩ nhiên là chúng ta cần lãnh đạo để đất nước được thăng hoa và ổn định; nhưng theo kinh nghiệm của mấy ngàn năm lịch sử, càng nhiều lãnh đạo thì người dân càng nghèo.

Ai đã học MBA chắc nhớ câu chuyện khôi hài này. Một ông vào tiệm nuôi thú hỏi mua một con vẹt biết nói làm quà cho vợ (chắc ông nghĩ có nó thì vợ mình sẽ im bớt chăng? Đàn ông lúc nào cũng ngu?). Cô bán hàng nói giá 1 ngàn đô cho con này. “Ồ, sao đắt thế” “Nó biết hát nữa cơ” Cô ra dấu và con vẹt ca ngay bài “năm anh em trên 1 chiếc xe tăng”. Ông khách khoái lắm, nhưng hỏi thêm “Còn con này?” “Nó đến 2 ngàn đô, vì ngoài hát, nó còn biết đi diễn hành, nhẩy múa và thuộc lòng 20 bài diễn văn quan trọng của XHCN” Ông khách chỉ vào con thứ ba. Cô bán hàng, “Bác trả nổi không? 4 ngàn đô đấy.” “Nó biết làm gì?” “ Không biết làm gì cả. Nhưng 2 con kia gọi nó là - Đồng chí lãnh đạo.

Đóng góp của nghề làm quan
Sau bài viết về máu làm quan của thế hệ 9X, tôi nhận khá nhiều phản hồi. Một bạn đọc ấm ức là nghề làm quan cũng là một đóng góp cao quý cho xã hội và nhiều ông quan cũng rất tốt và liêm chính, ông bạn này hiểu lầm tôi rồi. Chắc chắn không có nghề nào xấu và tôi đã từng gặp nhiều người quân tử hành nghề đạo chích. Vì đây là góc nhìn về kinh tế, nên tôi xin được bỏ qua chuyện đạo đức và chánh trị, mà chỉ xin phân tích khía cạnh giá trị đóng góp thực sự của các quan chức trong quy trình sản xuất hàng hóa và dịch vụ của một quốc gia. Đây mới thực sự là tài sản và thu nhập chính yếu làm “dân giàu nước mạnh”; không phải là các số liệu thống kê mơ hồ như GDP, CPI hay “chỉ số hạnh phúc”.
Trước hết, ở các nước theo kinh tế thị trường, phần lớn công chức được coi như trọng tài. Nhiệm vụ của họ là đặt ra luật lệ của sân chơi và theo dõi giám sát không cho cầu thủ nào phạm luật. Vì vậy, trong 22 vận động viên của trận bóng đá, chúng ta có 3 trọng tài. Trong vận hành nền kinh tế quốc gia, công chức Mỹ không được phép liên quan đến việc kinh doanh, vì mọi lạm dụng quyền lực sẽ gây bất công trên thị trường. Tóm lại, sự đóng góp của lãnh vực công trong quy trình sản xuất hay cung cấp dịch vụ gần như không có. Tuy nhiên, mọi tiêu xài của chánh phủ qua tiền thuế hay nợ công đều được tính vào GDP tạo cảm giác là chánh phủ cũng góp phần tạo dựng tài sản quốc gia. Đây là một huyền thoại.
Ở các nước có những “định hướng” lạ lùng khác, đôi khi trọng tài lại nhiều hơn cầu thủ, gây rối rắm cho cuộc chơi. Câu nói “vừa đá bóng vừa thổi còi” là một hiện tượng dễ thương ở các xứ này. Vì có quyền lực, nên luật lệ sân chơi cũng thiên về các “trọng tài-cầu thủ” này, còn gọi là các nhóm lợi ích. Họ độc chiếm các vị trí cốt lõi và dĩ nhiên, luôn luôn thắng giải đấu, dù có chơi dở hay ngay cả khi không thèm chơi.

Nghề làm quan đang ở chu kỳ thịnh vượng
Trên thế giới, nghề làm quan là một nghề có tốc độ tăng trưởng tốt. Ngay cả nước Mỹ, một nước mà người dân thường khinh rẻ chính trị gia và quan chức, nghề này cũng đã phát triển mạnh mẽ. Khi tôi qua Mỹ học vào 1963, các chánh phủ liên bang, tiểu bang, làng xã… tiêu xài khoảng 18% của GDP. Hiện nay, con số đã gia tốc đến 40 phần trăm, tổng cộng 5 ngàn 800 tỷ đô la mỗi năm. Số công chức ngày xưa tổng cộng khoảng 8 triệu người nay đã lên đến 22 triệu. Trong khi cả nước Mỹ suy thoái kinh tế vì giá bất động sản vỡ tung, nhà cửa các quận ngoại ô quanh thủ đô Washington DC lại tăng giá chóng mặt vì số lượng quan chức dưới triều đình Obama gia tăng ngùn ngụt. Hiện tượng này không chỉ giới hạn ở Washington DC mà còn phổ thông ở khắp nơi trên mọi thủ đô của thế giới. Roma, Paris, Moscow, Beijing, Tokyo…
Trong khi đó, theo thống kê chính thức, Việt Nam có tổng cộng khoảng 2 triệu công chức, chưa kể quân đội và các lực lượng an ninh (thêm 1 triệu người). Nếu tính đổ đồng, chánh phủ tiêu xài khoảng 34% của GDP, một con số khá lớn so với các quốc gia láng giềng như Singapore (19%) và Thái Lan (18%).
Các con số trên không bao gồm số công chức trong hàng ngũ nhân viên của doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Theo một thống kê không chi tiết lắm của các chuyên gia chánh phủ, DNNN sử dụng 52% vốn của quốc gia, nhưng chỉ đóng góp 24% GDP. Nói kiểu nhà quê là năng suất họ khoảng 50% nhân viên làm ở lĩnh vực tư, hay 2 người làm việc của 1 người, hay 1 người ăn lương lậu gấp đôi một người cùng làm một công việc.

Sản xuất cần lãnh đạo?
Do đó, nếu gộp chung mọi con số với nhau thì ở Việt Nam có 21 triệu nhân công và doanh nhân phải làm việc để đóng thuế và lãnh nợ cho 3 triệu quan chức ngồi “lãnh đạo”. Dĩ nhiên là chúng ta cần lãnh đạo để đất nước được thăng hoa và ổn định; nhưng theo kinh nghiệm của mấy ngàn năm lịch sử, càng nhiều lãnh đạo thì người dân càng nghèo. Một đứa trẻ lên 3 cũng hiểu rằng cả gia đình chỉ “sản xuất” được 5 bát cơm, mà tới 10 miệng ăn thì có đứa phải đói. Gặp cha mẹ tham lam, ăn luôn phần con cháu thì các em chỉ từ bị thương đến chết yểu.
Đức Phật nói “tham, sân, si” là cội rễ của mọi đau khổ của thế nhân. Tôi nghĩ căn tính “làm quan” là một tổng hợp của các cội rễ này, do đó, là một bệnh tâm thần khá nặng của con người. Sự say mê danh vọng, hào quang, thành tích, sĩ diện, làm cha mẹ dân, để tiếng cho lịch sử, làm thánh sống (hay chết), ăn trên ngồi trước… đã gây nên bao đại họa cho bao triệu sinh linh trong quá khứ qua những bài học mà lịch sử không hề che dấu.
Thậm chí, cả trăm ngàn người dân của thành Troy và của quân Hy Lạp đã hy sinh về nước Chúa sớm vì chàng hoàng tử Trojan mê say bà vợ của vị vua láng giềng. Sau khi cả hai đã chạy theo tiếng sét ái tình, vị vua “vĩ đại” mất sĩ diện nên đem hơn 120 ngàn quân trên 1,100 chiến thuyền để tiêu diệt Troy.
Cho nên khi tôi nghe ngài Tập Cận Bình qua đây để lập Viện Khổng Tử đề xướng lại chủ nghĩa “quân, sư, phụ” (ủa, chuyện XHCN của Trung Quốc đi đến đâu rồi?) tôi nghe khiếp vía cho dân Tàu và các nô lệ. Dĩ nhiên, đạo Khổng phức tạp nhiều, nhưng ông Tập và các lãnh tụ chỉ muốn thần dân nhớ một điều: vua bảo dân chết thì dân phải chết để báo trung. Các phim TV của Tàu chiếu đi chiếu lại đề tài này. Một đệ tử của Tàu, lãnh tụ Kim Jong Il đã từng dọa đánh Hàn Quốc vì bọn này dám cứu sống một bà diễn viên mà ngài Kim mê say và sai thuộc hạ bắt cóc đem về Bắc Triều Tiên. Không biết cậu bé 28 tuổi con của ngài Kim hiện mê say món gì?

Một con ong nuôi 20 con ruồi
Nói chung, giá trị kinh tế của quan chức thì không nhiều; nhưng ảnh hưởng của nó trên phương diện xã hội thì vô cùng to lớn.
Trong 3 thập niên vừa qua, không hiểu sao dân số ong tại Bắc Mỹ bị giảm hơn phân nửa, gây thiệt hại nặng cho kỹ nghệ mật ong và môi trường sinh thái của hoa trái. Dr. John Hafernik tình cờ tìm ra nguyên nhân là một loại ruồi ký sinh trùng xâm nhập và đẻ trứng vào cổ các con ong. Một con ruồi li ti có thể sinh ra khoảng vài chục con và dùng thân thể ong làm thực phẩm để sinh sống, ngay cả khi con ong đã chết. Ruồi cũng chết theo nhưng chỉ sau khi phân hủy hoàn toàn thân xác ong.
Tôi nghĩ đến các xã hội với những thành phần ký sinh trùng đang bám chặt như bầy đĩa đói. Có hơi chua xót là những người tạo dựng tài sản thực sự cho quốc gia lại chết trước những kẻ ăn không ngồi rồi.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Doanh Nhân Việt Trong Thế Trận Toàn Cầu (Alan Phan)

Postby bevanng » 02 Nov 2016

Vẫn Cố Bán Phone Trung Quốc Với Giá IPhone Mỹ?

Ngày: 20/ 12 / 2013
“Nếu có tiền tôi cũng không mua bất động sản”
“Đến thời điểm này tôi vẫn thấy giá bất động sản chưa phù hợp với thị trường, nên cần phải làm thế nào để giá xuống thấp hơn nữa”…
Một khi giá bất động sản vẫn chưa phù hợp với túi tiền của đại bộ phận người dân thì chừng đó thị trường vẫn chưa thể chuyển biến tốt lên được, quan điểm của TS. Alan Phan - chuyên gia kinh tế, khi nói về triển vọng của thị trường bất động sản trong năm tới, đặc biệt là trước những bình luận lẫn các động thái trái chiều của các nhà quản lý lẫn doanh nghiệp, chủ đầu tư trong thời gian qua.
http://vneconomy.vn/201312191150239P0C1 ... ng-san.htm


Trao đổi với Bảo Anh (VnEconomy), TS. Alan Phan nói:
- Thị trường bất động sản Việt Nam luôn phụ thuộc vào nhu cầu của thị trường. Vấn đề quan trọng và cũng là câu hỏi mấu chốt đó là “giá bất động sản có phù hợp với túi tiền của người dân hay không?”
Ngày nào mà mức giá chưa phù hợp thì bất động sản chưa thể chuyển động được. Còn chuyện người này nói thị trường sẽ lên hay có người nói nên thoát khỏi thị trường… thì tôi chỉ khuyên những ai quan tâm, cần phải coi lại đằng sau những ẩn ý của các phát ngôn đó. Tại sao người ta nói như vậy… Hiểu được điều đó sẽ hiểu được thị trường.
Tôi có thể khẳng định rằng, nhu cầu về bất động sản tại Việt Nam là rất lớn, song phần lớn các sản phẩm hiện nay vẫn chưa phù hợp với túi tiền thì người dân chưa mua mà thôi.

Nhưng thưa ông, khá nhiều doanh nghiệp bất động sản hiện nay đều khẳng định giá bán đã xuống mức thấp nhất, ngang bằng với 6-7 năm về trước, nhưng họ vẫn không bán được và có thể phải đối diện với phá sản?
Xin nhớ rằng, giá thị trường không phải là giá do doanh nghiệp định đoạt. Giá đó là mức mà người dân có đủ tiền để mua. Trong quan hệ mua bán, làm thế nào để người ta chịu móc tiền túi ra mới là điều quan trọng.
Chẳng hạn, một chiếc iPhone được làm ra hết 100 USD, nếu doanh nghiệp bán 500 USD mà người dân thấy có thể mua được thì họ vẫn mua. Còn nếu chi phí làm đến 800 USD và người dân không thể mua được thì bắt buộc phải bán 500 USD và chịu lỗ thôi.
Còn chuyện người này nói thị trường sẽ lên hay có người nói nên thoát khỏi thị trường… thì tôi chỉ khuyên những ai quan tâm, cần phải coi lại đằng sau những ẩn ý của các phát ngôn đó. TS. Alan Phan

Vậy theo ông, làm thế nào để giải được bài toán giằng co về lợi ích khá nan giải này?
Trong tương lai, thị trường bất động sản có thể sẽ chịu ảnh hưởng của hai yếu tố quan trọng.
Thứ nhất, nếu lạm phát cao, đồng tiền của người dân giảm giá trị và tài sản bất động sản cũng giảm tương ứng thì có thể phù hợp với túi tiền.
Thứ hai, nếu lãi suất xuống thấp trong nhiều năm tới thì người dân có thể vay hoặc mua trả góp thì cũng có thể mua được nhà. Khi đó thị trường có thể chuyển động tích cực.
Nhưng, nếu không có hai đột biến nói trên mà tình trạng như hiện nay vẫn tiếp tục kéo dài, thì tôi không tin thị trường sẽ có chuyển động gì thực sự có ý nghĩa.
Ngoài ra, trong trường hợp thu nhập của người dân tăng cao hoặc là có một tác động gì lớn lao về kinh tế có thể tạo ra một cú hích đáng kể để có thể thay đổi việc làm, thu nhập cho người dân thì mới tạo ra chuyển động cho thị trường được.

Vừa qua, một doanh nhân có tiếng tăm trong làng bất động sản Việt Nam là ông Đoàn Nguyên Đức, Chủ tịch Công ty Cổ phần Hoàng Anh Gia Lai, đã có những phát ngôn và hành động cho thấy doanh nghiệp này sẽ rút lui dần khỏi bất động sản tại Việt Nam, phải chăng là thị trường sẽ tiếp tục diễn tiến xấu trong thời gian tới?
Nhận xét và quyết định của cá nhân ông Đức và Hoàng Anh Gia Lai cũng chỉ là một phần trong tổng thể. Tất nhiên, vì ông ấy làm về bất động sản thì có thể sẽ hiểu biết hơn nhiều người khác. Nhưng, như tôi đã nói ở trên, chúng ta đều phải xem kỹ mục đích đằng sau những phát ngôn, tuyên bố đó.
Và quan trọng hơn là phải nhìn vào những việc người ta làm.

Vậy còn nhiều chuyên gia và giới truyền thông quốc tế cho rằng bất động sản Việt Nam đã qua đáy, thì sao?
Thực tế, các chuyên gia nước ngoài vào Việt Nam cũng không hẳn nắm rõ hết thị trường bất động sản Việt Nam. Một số quỹ nước ngoài kêu gọi khách hàng để bán cổ phiếu, cổ phần… tại Việt Nam thì họ cũng chỉ là các trung gian, họ tất nhiên phải ca ngợi sản phẩm mà họ đang bán hoặc tiếp thị. Không ai đi bán hàng mà lại rao rằng hàng tôi hàng ôi, hàng xấu.
Ngay cả những ngân hàng lớn trên thế giới khi đưa ra một dự báo hay một thông điệp nào đó cũng đều có những mục tiêu và lợi ích riêng của họ.

Còn ông, ông có cho rằng, thị trường bất động sản Việt đã qua giai đoạn khó khăn nhất?
Thực sự thì đến thời điểm này tôi vẫn thấy giá bất động sản chưa phù hợp với giá thị trường, nên cần phải làm thế nào để giá phải xuống thấp hơn nữa mới tiêu thụ được. Nó cũng không phải là bài toán gì to tát quá mức không thể giải được.
Tôi không quan tâm đến đáy hay không đáy. Giá thị trường có thể đi ngang, đi lên hoặc đi xuống. Quan trọng là thu nhập của người dân như thế nào, để lúc nào đấy hai yếu tố này gặp nhau, tức thì thị trường sẽ chuyển động.
Tất cả các dự báo, đặc biệt là của các chuyên gia, ngay cả tôi đây thì cũng đều có thể sai hết. Còn thống kê dự báo hiện nay của Việt Nam thì cũng chưa đủ sức thuyết phục.
Thực sự thì đến thời điểm này tôi vẫn thấy giá bất động sản chưa phù hợp với giá thị trường, nên cần phải làm thế nào để giá phải xuống thấp hơn nữa mới tiêu thụ được.

Ông nhìn nhận thế nào về tác động của gói tín dụng hỗ trợ nhà ở 30.000 tỷ đến thị trường bất động sản?
Thực tế nếu chỉ việc đưa tiền cho người dân, doanh nghiệp vay thì xài hết 30.000 tỷ đồng ngay. Còn nếu cứ đòi hỏi điều kiện này, điều kiện kia thì còn lâu mới xài hết.
Thị trường sẽ tốt lên nếu như các thủ tục rườm rà được loại bỏ.

Theo ông, các nhà đầu tư có nên kỳ vọng vào thị trường bất động sản trong năm 2014?
Như tôi đã nói, tôi không tin tưởng vào các số liệu thống kê được công bố. Do đó, tôi không thể có một căn cứ nào để nói thị trường sẽ thế này, thị trường sẽ thế kia trong năm tới.
Tôi cũng hoàn toàn không phê bình tốt, xấu về triển vọng gì của thị trường. Nếu như thị trường bất động sản Việt Nam là một thị trường đúng nghĩa như các nước phát triển thì nó lại khác. Còn hiện nay, mặc dù gọi là thị trường nhưng đằng sau đó là cả một “hậu trường” khiến cho ngay cả những người làm chính sách nhiều khi cũng không thể hiểu nổi.

Nếu có tiền, năm tới ông có chọn bất động sản là kênh đầu tư?
Thực tế thì tôi đã rút khỏi thị trường Việt Nam từ 3 - 4 năm nay rồi, sau khi đã thua lỗ khá lớn trong tài chính, chứng khoán. Tôi cũng xem đó như là một bài học cho mình.
Còn nếu có tiền, trong thời gian tới tôi cũng không bỏ tiền vào bất động sản, vì giá vẫn chưa phù hợp với khả năng của người dân. Khả năng phục hồi của thị trường vẫn là một điều khá mơ hồ.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Doanh Nhân Việt Trong Thế Trận Toàn Cầu (Alan Phan)

Postby bevanng » 02 Nov 2016

“Đội lái” chứng khoán Việt lắt léo và nhiều nguy hiểm!

Ngày: 02/01/2014
TS. Alan Phan: “Đội lái” chứng khoán Việt lắt léo và nhiều nguy hiểm!
Nhà đầu tư Mỹ cũng có thể chạy theo “cá mập”, tuy nhiên họ có những phân tích, định giá rõ ràng, nên nếu họ muốn đầu tư cách độc lập, họ có nhiều lựa chọn hơn.

Với kinh nghiệm đầu tư chứng khoán của mình, ông có thể cho biết sự khác biệt giữa “chơi” chứng khoán ở Mỹ và Việt Nam?
TS. Alan Phan: Chứng khoán nào cũng có quy luật chung là giá thị trường luôn luôn tùy thuộc vào cảm xúc của nhà đầu tư, trong đó nhiều đội lái rất ảnh hưởng.
Ngay cả bên Mỹ cũng vậy. không khác gì. Nhà đầu tư Mỹ cũng có thể chạy theo “cá mập”, tuy nhiên họ có những phân tích, định giá rõ ràng, nên nếu họ muốn đầu tư cách độc lập, họ có nhiều lựa chọn hơn.
Thường khi theo đuôi đúng “cá mập”, đúng đường cũng có thể ăn, nhưng nếu nó có tin sai, vô tình hay cố ý, thì mất tiền rất dễ.
Còn ở Việt Nam thì phần đầu cũng giống như vậy nhưng phần thứ hai tức nhà đầu tư độc lập khó có sự định giá rõ ràng, hay nhận định chính xác vì các số liệu, thông tin từ các công ty niêm yết rất đáng ngờ, không ai biết rõ sự thật sau hậu trường ra sao.
Thành ra ngoại trừ mình muốn đầu tư theo kiểu đoán mò thì cứ việc đầu tư, cũng giống như đi ra đường nói ngày hôm nay sẽ xui hay hên chứ cũng không ai biết được trúng hay trật.
Riêng ở Việt Nam, các “đội lái” mang nhiều yếu tố lắt léo, thủ đoạn… nên dễ bị lầm đường và gặp nguy hiểm nhiều hơn.

Và quy phạm pháp luật đối với chứng khoán thì cũng khác rất nhiều, thưa ông?
Hiện nay ở Mỹ kể cả những “nhà lái tàu” lớn như các đại gia Wall Street lớn như Citibank, JP Morgan… đều bị phạt rất nặng khi họ bị khám phá ra những vi phạm; do đó “đội lái tàu” của họ có sự nghiêm túc về tuân thủ pháp luật, không dám đi quá đà.
Ở Việt Nam gần như không có sự kiểm soát đó thành ra ai muốn làm gì thì làm, đây là khác biệt rất lớn và gây ra khó khăn cho các nhà đầu tư nhỏ lẻ.

Một người đang nắm giữ tiền và hỏi ông nền đầu tư vào đâu, ông sẽ khuyên họ thế nào?
Tôi khuyên nếu họ không biết về bất cứ lĩnh vực gì thì đừng nên vứt tiền vào đó, cũng giống như đi lấy vợ mà không biết cô ấy gốc gác hay cá tính ra làm sao; thì đó là một phiêu lưu rất vô vọng. Tôi nghĩ bất cứ doanh nhân hay nhà đầu tư nào cũng có những kỹ năng, kinh nghiệm khá đặc thù trong công việc. Lãnh vực, ngành nghề nào đối với họ là tốt và thích hợp nhất, thì nên đào sâu để sinh lợi.
Muốn kiếm tiền có nhiều cách chứ không chỉ có chứng khoán, bất động sản, đô la… và phải nghĩ sáng tạo hơn. Nhưng tuyệt đối không bao giờ nên đầu tư vào những gì mình không biết!

Ông có thể chia sẻ kinh nghiệm trong đầu tư chứng khoán?
Thực tình thì mỗi thời kỳ mỗi kinh nghiệm nó khác nhau. Khi chứng khoán ở đỉnh hay ở đáy thì đều có những cái phản ứng rất khác biệt, đừng lấy kinh nghiệm khi ở đỉnh đem áp dụng khi ở đáy: đó là tử huyệt.
Riêng chứng khoán là kênh đầu tư rất phức tạp Tôi đã đọc nhiều cuốn sách mô tả là trung bình có khoảng 140-150 yếu tố ảnh hưởng đến giá thị trường của một cổ phiếu, một nhà đầu tư nhỏ lẻ không chuyên nghiệp khó mà biết hết được. Như tôi nói cái gì mình không biết rõ thì đừng nên chơi với lửa.

Ông có thể nói một chút về cái gọi là thời điểm trong chơi chứng khoán?
Như tôi nói thời kỳ chứng khoán ở đỉnh, ngay như cả ở bên Mỹ cũng vậy, nhắm mắt đầu tư thế nào cũng có lời nhưng khi bắt đầu đi ngang hoặc xuống đáy nếu không cẩn thận có thể lỗ nặng. Thành ra đừng có lấy kinh nghiệm lúc kiếm tiền được để áp dụng cho mọi thời điểm, khi thời thế thay đổi đừng nghĩ đến cách kiếm tiền như ngày xưa.
Nguyên tắc này cũng không áp dụng riêng cho chứng khoán, mà cho bất động sản, vàng, đô la… Tôi đã từng kiếm rất nhiều tiền khi mà vàng lên nhưng khi vàng xuống tôi không nhảy ra kịp thì cũng lỗ một số tiền khá lớn. Thành ra thời điểm vô cùng quan trọng.
Thời điểm mà tôi đầu tư vào thị trường Trung Quốc cũng giống như Việt Nam cách đây mấy năm, nên tôi kiếm tiền khá nhiều ở thị trường chứng khoán Trung Quốc. Thế nhưng khi qua Việt Nam tôi đã lỗ nặng, đó là kết luận về tầm quan trọng của thời điểm (timing).
Xin cảm ơn ông!

Huyền Trâm (Bizlive.vn 1/1/2013)
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Doanh Nhân Việt Trong Thế Trận Toàn Cầu (Alan Phan)

Postby bevanng » 02 Nov 2016

Giáp Ngọ và Con Ngựa Kinh Tế VN

Ngày: 18/01/2014

4 Tín Hiệu Cho Kinh Tế Việt Nam
(Bài viết đã đăng trên báo Xuân Giáp Ngọ của Doanh Nhân xuất bản ngày 11Jan 2014)
Sau một đêm đông dài, mọi người đều mong đợi và sẵn sàng cho mùa xuân mới. Tết Giáp Ngọ có là một khởi đầu của hồi phục sau giai đoạn suy thoái đã kéo dài từ 2009? Theo kinh nghiệm của kinh tế thế giới, chu kỳ suy thoái thường kéo dài trung bình khoảng 5 năm. Do đó nếu chúng ta là một nền kinh tế thị trường đúng nghĩa và đã hội nhập, nhiều chuyên gia sẽ kết luận cuối 2014, chúng ta sẽ thấy ánh sáng le lói cuối đường hầm.
Nhưng Việt Nam luôn là một ngoại lệ với nhiều nghịch lý. Nền kinh tế này thực ra là một hỗn hợp của những mảnh sáng, tối, không rõ ràng và chịu nhiều ảnh hưởng của các nhóm lợi ích nhỏ nhưng đầy quyền lực. Do đó, các dự đoán thường dựa trên nhiều giả thuyết và mặc định, tùy cảm quan cá nhân và theo đơn đặt hàng của vài nhóm lợi ích, kể cả chánh phủ. Tuy nhiên, dù có cá tính khá đặc thù, chúng ta vẫn có thể đoán bắt xu hướng chung về một hướng đi dựa trên các sự kiện và hành xử đã xẩy ra trong những năm vừa qua.
4 sự kiện theo tôi có thể là móc ngoặc của một chu kỳ mới trong 5 năm sắp đến. Khó có thể nói một hai sự kiện có thể là lực đẩy chính, vì nhiều tương quan không cân bằng lắm trong bối cảnh thay đổi thường trực của thế giới ngoài kia cũng như tác động của các phản ứng xã hội và chính trị trong nước. Mỗi người chúng ta đều có thể rút ra kết luận khác nhau từ 4 sự kiện gốc này và đều có thể đúng hay sai.
Theo phong tục của ngày Tết cổ truyền, hãy bắt đầu bằng “good news” (tin tốt).

1. Sự phát triển của khu vực FDI (đầu tư nước ngoài):
Điểm nổi bật của nền kinh tế Việt trong 2 năm vừa qua là sự quay lại của các nhà đầu tư FDI. Nhiều lý do khách quan: (a) gia tăng phí tổn sản xuất tại Trung Quốc (b) thiếu kiên nhẫn với những thị trường mới mở ở ASEAN như Myanmar, Laos, Kampuchea (c) chánh sách khuyến mãi khá tích cực của chánh phủ Việt để mong một cú hích mới chống suy thoái và (d) thị trường nội địa vẫn còn nhiều tiềm năng (e) suy thoái làm giảm giá bán các doanh nghiệp Việt trong nhiều phi vụ M&A và (f) chánh sách đón đầu TPP của Hàn Quốc, Đài Loan và ngay cả Trung Quốc.
Với một đầu tư lớn vào các nhà máy lắp ráp điện tử, tập đoàn Samsung đã chiếm hơn 20 tỷ USD về xuất khẩu, tương đương với hơn 14% của GDP nước nhà. Nhiều FDI nhỏ hơn đến từ các nước Á Châu bắt đầu vào Việt Nam tìm kiếm cơ hội và kết quả của các hoạt động hiện tại sẽ thể hiện trong tăng trưởng của khu vực FDI trong nhiều năm tới.
Đầu tư FDI sẽ mang lại các lợi ích thiết thực như tạo việc làm cho nhân công, nâng cao chất lượng quản lý của doanh nhân Việt nhờ cạnh tranh, và có thể giúp nguồn cầu của chứng khoán và bất động sản phần nào. Ở bình diện khác, sự gia tăng FDI sẽ làm suy yếu các doanh nghiệp Việt (tư nhân và nhà nước) và tạo nên một lực chủ đạo mới nằm ngoài sự kiểm soát của chánh quyền và các nhóm lợi ích hiện tại. Vốn có lòng yêu nước cao độ, người dân Việt Nam có thể bất mãn sâu xa với sự lệ thuộc mới vào “giới tư bản nước ngoài”. Mọi phản ứng chánh trị bất lợi sẽ khiến dòng tiền FDI đổi chiều với hệ quả là một suy thoái mới.

2. Con thiên nga đen TPP (Hiệp Định Thương Mại Xuyên Thái Bình Dương)
Đây là một sự kiện khá bất ngờ cho các nhà hoạch định kinh tế Việt Nam. Mục tiêu của Mỹ khi đề xướng TPP là để ngăn chận phần nào sự bành trướng kinh tế của Trung Quốc tại Đông Á. Mỹ gần như không có nhiều lợi ích về việc mở cửa thị trường của mình cho Việt Nam hay ngược lại, vì suốt 8 năm từ WTO, Việt Nam luôn hưởng lợi xuất siêu từ giao thương với Mỹ.
Tuy nhiên, chiến lược chánh trị của Mỹ tại Đông Á muốn lôi kéo Việt Nam ra khỏi tầm ảnh hưởng chặt chẽ của Trung Quốc, ít nhất là muốn Việt Nam trung lập trong mọi tranh chấp Mỹ-Hoa. TPP là một phần quà kinh tế để mua chuộc đồng minh chiến lược này. Do đó, vấn đề nhân quyền Việt dù bị Quốc Hội Mỹ chống đối cũng không cản được sự gia nhập của Việt Nam vào TPP.
Nhưng phân tích kỹ hơn, lợi ích từ hàng rào thuế quan cho các ngành may mặc, giầy dép, đồ gỗ… có thể bị trung hòa bởi những thiệt hại kinh tế cho Việt Nam vì sự cạnh tranh của nông sản ngoại nhập, cũng như việc siết chặt bản quyền trí tuệ trong ngành IT.
Một điểm tích cực khác của TPP là áp lực của các công đoàn Hoa Kỳ về việc lập hội hay đình công, cũng như đòi hỏi về sự cải tổ các doanh nghiệp nhà nước và nhu cầu về sự minh bạch của nhiều định chế.
Tuy nhiên, cái nhìn tổng thể cho thấy kinh tế Việt Nam có thể không vượt qua được những thách thức để thoát khỏi suy thoái hiện tại. Hệ quả sẽ là một nền kinh tế trì trệ kéo dài hàng thập kỷ, và theo thời gian, Việt Nam sẽ càng mất dần lợi thế cạnh tranh, nhất là cho những doanh nghiệp nội. Hai yếu tố tiêu cực chính có triển vọng làm trật đường rày con tàu kinh tế Việt Nam.

3. Sự can thiệp thường xuyên của chánh phủ
Hiến pháp mới của Việt Nam xác định thêm một lần nữa quyết tâm của lãnh đạo Việt Nam “nắm quyền chủ đạo” kinh tế qua sự tồn tại và kiểm soát các doanh nghiệp nhà nước. Do đó, mọi biện pháp hành chánh, tài chánh hay ngân sách trong tương lai đều sẽ gia tăng quyền lực của chánh phủ. Viễn cảnh một Việt Nam với nền kinh tế thị trường tự do, liên thông với kinh tế toàn cầu là một ảo tưởng.
Theo lịch sử kinh tế hiện đại, không một quốc gia nào cô lập trong một chánh sách chỉ huy từ Trung Ương hay chánh phủ có thể cất cánh và cạnh tranh hữu hiệu với sự năng động của các nền kinh tế thị trường khác. Mọi động lực để sáng tạo, cải tổ hay tranh đua của lãnh vực tư nhân lần hồi sẽ bị thui chột bởi những thành công phi lý toàn dựa trên quan hệ. Lãnh đạo bởi một tầng lớp zombies, dù từ khu vực nào, sẽ kéo dài suy thoái và trì trệ. Khi các doanh nghiệp nội địa yếu kém, các công ty FDI sẽ nắm quyền kiểm soát các vận hành của kinh tế Việt Nam. Họ sẽ có những mục tiêu và lợi ích riêng và không để chánh phủ can thiệp sâu xa vào nội bộ của họ.
Nếu chánh phủ dùng quyền lực để “force the issue” (làm theo ý mình) thì khối FDI sẽ bắt đầu rút khỏi Việt Nam, đẩy nền kinh tế lún sâu thêm vào suy thoái.

4. Nợ xấu và sự ổn định của hệ thống ngân hàng
Trong những thách thức cốt lõi lớn nhất, số nợ xấu từ các ngân hàng cũng như doanh nghiệp nhà nước là một bài toán gần như không giải pháp. Ở một khía cạnh, hành động cứng rắn quá sẽ gây sụp đổ của một số ngân hàng nhỏ với hiệu ứng “domino” đe dọa; ở một thái cực khác, in thêm tiền để trả nợ cho người gởi tiền ngân hàng sẽ gây nạn lạm phát phi mã. Ở giữa là những biện pháp nửa vời, không giải quyết vấn đề mà chỉ “dấu bụi dưới thảm” đợi ngày sau hay thế hệ lãnh đạo sau lo tìm giải pháp theo tình hình lúc đó.
Mà thời gian để che đậy càng ngày càng gần chốt đáo hạn. Mỹ có từ ngữ tài chánh “day of reckoning” (ngày phải kết toán) để mô tả tình huống này.
Quyết định của chánh phủ về vấn đề này cũng sẽ cho thấy định hướng nào cho kinh tế Việt Nam trong 5 năm tới?
Mùa xuân luôn mang theo hy vọng mới và những giấc mơ đẹp cho tương lai. Nhưng những bộ quần áo Tết rồi cũng phải xếp lại, và các ngày nghỉ vui vẻ bao giờ cũng chóng qua. Khi quay lại với công việc thường nhật, chúng ta sẽ phải làm gì?
Câu trả lời không đến từ chúng ta, những người đích thực “làm” kinh tế, mà từ một tháp ngà nào đó của các ngài lãnh đạo và nhóm tay chân. Phải chăng đó là bi kịch của kinh tế Việt Nam?
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Doanh Nhân Việt Trong Thế Trận Toàn Cầu (Alan Phan)

Postby bevanng » 03 Nov 2016

Phần 6: Môi trường kinh doanh và xã hội

Trận đấu kinh tế giữa người dân và chuyên gia

Ngày: 29/09/ 2011
Theo một báo cáo riêng của một chuyên gia phân tích, mức hoàn trái về đầu tư (ROI = return on investment) trung bình của các quỹ tại Việt Nam trong 3 năm vừa qua là âm -17%. Tỷ số ở hiệp ba trận đấu: người dân: 3; chuyên gia: 0.

Khi tôi hoàn tất luận án Tiến Sĩ về Quản Trị cho Đại Học Southern Cross (Úc) vào cuối năm 2006, tôi về lại Thượng Hải, được sự đồng ý của các đối tác cổ đông của Quỹ Viasa, trích ra 20 triệu USD trong trương mục, để đầu tư vào các cổ phiếu và trái phiếu của thị trường chứng khoán Trung Quốc (TTCK TQ). Các đối tác của tôi rất lạc quan, tự tin vì họ tin vào “kỹ năng” chuyên biệt mới được đào tạo rất bài bản của tôi.
Dù sao, trong quá trình làm luận án, tôi đã thực hiện một cuộc khảo sát sâu rộng hơn 800 quỹ đầu tư tại TQ, đọc hơn 200 cuốn sách về TTCK TQ và nghiên cứu cả ngàn bài viết, sưu khảo của đủ loại học giả khắp thế giới về đề tài này. Hơn cả cái bằng Tiến Sĩ, tôi được Đại Học Tongji phong cho một hàm vị rất “kêu”: chuyên gia về TTCK TQ. Các quỹ đầu tư khác cũng ngõ ý hợp tác đầu tư vì mọi người nghĩ là tri thức của tôi về TTCK TQ chắc chắn sẽ giúp họ kiếm tiền thành công hơn.
Trong 12 tháng sau đó, số tiền 20 triệu USD đầu tư vào TTCK TQ của Quỹ kiếm được 36%. Trong khi đó, từ tháng Một 07 đến tháng Một 08, chỉ số SSI của Sàn Thượng Hải tăng từ 2786 đến 5272 (khoảng 89%). Một nhà đầu tư tay ngang bỏ tiền vào ETF (exchange traded fund), cũng có thể kiếm được 75% không cần suy tính (giá từ $32 lên đến $56). Nhưng xấu hổ nhất cho tôi là anh bạn hàng xóm: anh ta kiếm được khoảng 124% trong cùng thời gian đó. Anh là một cựu viên chức công an cỡ trung ở tỉnh Hồ Nam TQ, chưa học xong trung học, mới có 32 tuổi, kiếm được một mớ tiền phong bì khi làm quan, rồi hạ cánh an toàn ở Thượng Hải. Kết quả của hiệp đầu trong trận đấu: người dân: 1; chuyên gia: 0.
Cũng vào đầu năm 2007, tôi đến Hà Nội theo lời mời của một nhóm đại gia trong ngành chứng khoán và quỹ đầu tư, để mạn đàm trong một họp mặt nhỏ có chừng 30 người tham dự. Tôi nói về dự đoán của tôi: khủng hoảng tài chánh sẽ xảy ra trong vài ba tháng tới, lạm phát toàn cầu sẽ lên hơn 12% năm 2008 và vàng sẽ đạt đỉnh $2,000 USD vào 2009. Tôi đúng về cuộc khủng hoảng kinh tế, nhưng sai bét về lạm phát và giá vàng.
Lái xe cho tôi đi quanh Hà Nội chuyến viếng thăm đó là một anh tài xế taxi còn trẻ, khoảng 25 tuổi. Gia đình anh ta vốn làm ruộng là chính, sở hữu vài thửa đất lớn gần Hà Nội, giá đang tăng vùn vụt, và anh ta hỏi ý kiến tôi về vấn đề đầu tư vì nghe mọi người ca tụng tôi là một “chuyên gia”. Tôi khuyên anh bán hết đất vì các thành tố căn bản cho thấy hiện tượng bong bóng (giá đất Hà Nội đắt như thành phố New York). Sau đó, nên bỏ tất cả tiền thâu được vào vàng, giá đang ở khoảng $630 USD một lượng và trong 2 năm, sẽ kiếm được gấp 3 lần vì lạm phát sẽ hoành hành.
Anh ta không đồng ý, nói sẽ giữ đất vì giá còn lên cao trong 2 năm tới, trong khi vàng thì chưa chắc. Khi tôi về lại Hà Nội vào 2009, anh tìm ra khách sạn tôi ở qua một tin về hội thảo đầu tư trên mạng. Anh khoe là trúng lớn trong lần bán ra các thửa đất vừa qua, không còn chạy taxi nữa và đang làm một nhà đầu tư (?). Tỷ số trận đấu ở hiệp hai: người dân: 2; chuyên gia: 0.
Thực ra, đây không chỉ là 2 trường hợp đơn lẻ hay đặc biệt. Trong mọi xã hội, từ tư bản đến xã hội, từ dân chủ đến độc tài, không thiếu những tình huống mà người dân tỏ ra khôn ngoan, hiểu biết và quan trọng hơn cả, là có khả năng “biết kiếm tiền” nhiều hơn các chuyên gia kinh tế tài chánh.
Lấy bà osin của gia đình tôi: trong 3 năm vừa qua, bao nhiêu tiền dành dụm được, bà bỏ ra mua vàng miếng. Vào năm 2008, giá vàng là $800 USD một lượng; bây giờ là $1,400 USD, cho bà ta một mức “hoàn trái” khoảng 25% mỗi năm. Tôi chắc chắn đây là mức lời mơ ước của mọi chuyên gia đang làm cho các quỹ đầu tư nỗi danh (nước ngoài hay nội địa) tại thị trường chứng khoán Việt Nam. Theo một báo cáo riêng của một chuyên gia phân tích, mức “hoàn trái về đầu tư” (ROI=return on investment) trung bình của các quỹ tại Việt Nam trong 3 năm vừa qua là “âm” -17%. Tỷ số ở hiệp ba trận đấu: người dân: 3; chuyên gia: 0.
Đã có rất nhiều nghiên cứu và giả thuyết về sự yếu kém về thành quả của các chuyên gia trong những nhận định, dự đoán, kết luận và khuyến nghị về tình hình kinh tế tài chánh hay xã hội. Nhưng giá trị tiên đoán của các chuyên gia kinh tế, tài chánh đã hạ xuống rất thấp sau cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu vào cuối 2007. Hơn 83% các nhận định của chuyên gia tại New York và Luân Đôn không tiên đoán được sự suy thoái nghiêm trọng của các định chế tài chánh. Tại sao những đầu óc “lớn” trên đỉnh cao của xã hội lại vấp ngã thảm thương như vậy? Tại sao các siêu sao, với đầy đủ dụng cụ, kỹ năng, kinh nghiệm và thì giờ, lại không thể “hát hay” bằng một cô gái quê mộc mạc?
Trước hết, mọi người phải lưu ý đến những nhận định, kết luận hay khuyến nghị của các chuyên gia “có quyền lợi” trong khi phát biểu cái gọi là “ý kiến riêng” của mình. Không ai lạ gì khi nghe các nhà quản lý hay các nhà phân tích của các quỹ đầu tư ca tụng triển vọng huy hoàng của nền kinh tế hay thị trường tài chánh trong giai đoạn sắp tới. Đây chỉ là những PR (public relation) để các vị này kêu gọi vốn đầu tư cho quỹ của họ (hay để các cổ đông hiện tại an tâm đừng chửi bới và rút vốn đã lỡ đầu tư).
Còn các chuyên gia kinh tế, tài chánh hay pháp lý được trả tiền trực tiếp để viết những bài có lợi cho các nhóm lợi ích đang vận động hành lang (lobby) để tạo đặc quyền đặc lợi cho nhóm mình thì nhiều vô số kể. Giá trị của các bài viết này thiếu kém chiều sâu và chuyên nghiệp, không đáng được quan tâm, nhưng vì số lượng của chúng nhiều (và miễn phí để các mạng truyền thông phổ biến khắp nơi) nên bức tranh tổng quát phản ánh trên dư luận công chúng bị lệch lạc rất nhiều.
Tuy nhiên, ngay cả với những chuyên gia có thực tâm nghiên cứu, tìm hiểu và đúc kết một nhận định khách quan, họ thường rơi vào những thiên kiến (bias) như sau.
Thứ nhất, tôi vẫn nghĩ rằng khi làm một việc gì liên quan đến đồng tiền không do mình làm ra, thì thái độ và tư duy của việc hành xử sẽ rất khác biệt so với khi “đồng tiền liền khúc ruột”. Chuyên gia thì hay nghiên cứu chuyện của người ta, không phải chuyện nhà nên không chịu áp lực của vợ con, gia đình hay bạn bè như người dân thường. Các kết luận thường “làm nhẹ” đi tầm ảnh hưởng trên đời sống của người dân. Các số liệu thường được bóp méo để hổ trợ cho suy luận đã đúc kết sẵn từ thiên kiến. Các khuyến nghị gần đây về kinh doanh vàng miếng hay đô la chợ đen cho thấy sự khác biệt rất lớn giữa ý kiến của người dân và các chuyên gia tài chánh. Sự suy nghĩ về lạm phát cho thấy hiện tượng các chuyên gia đang sống trong những tháp ngà của xã hội, xa rời thực tế, không hiểu hay chịu đối diện với những tình huống khó khăn của việc mưu sinh thường nhật.
Ngoài ra, người ta thường nghĩ chuyên gia là các nhà khoa học, lấy sự độc lập làm nền tảng cho tư duy của mình, sự mềm dẻo uyển chuyển làm căn bản cho suy luận… Nhưng sau khi lăn lộn nhiều trong giới khoa bảng và môi trường nghiên cứu, tôi nhận thấy chuyên gia lại là những người rất thích bầy đàn, thích suy nghĩ theo số đông (group think) và cứng ngắc với định kiến đã lỗi thời. Các kinh tế gia của trường phái Chicago thì luôn luôn phải đả kích, bài bác các lập luận của phe Ivy League và ngược lại. Chả thế mà trong lịch sử tri thức nhân loại, Galileo đã bị cầm tù vì nói trái đất tròn và Socrates phải uống thuốc độc với triết thuyết lạ tai của mình. Cái “tôi” (ego) quá lớn của các nhà đại trí thức khiến họ không thể chấp nhận sự lầm lẫn hay thua kém của mình: họ sẽ triệt hạ mọi đối thủ bằng mọi cách, chính thống hay tà đạo, để bảo vệ cái “tôi”.
Gần đây, trước tình hình kinh tế khó khăn, nhiều doanh gia cũng như các sinh viên hay Email đến tôi để xin một vài nhận định, dự đoán về viễn tượng. Tôi thành thực tin rằng cái trực giác và những tiếp xúc hàng ngày với thực tại sẽ làm mọi suy đoán nhận xét của họ chính xác hơn là nhưng số liệu vô nghĩa mà tôi thu lượm từ các bài khảo luận của các chuyên gia khác. Thực ra, kinh tế vĩ mô cũng chỉ ảnh hưởng một phần nhỏ trong việc làm ăn của họ. Điều quan trọng hơn vẫn là sự sáng tạo cá nhân trong tư duy, sự kiên trì trong tình huống, và sự bộc phát trong hành động.
Dĩ nhiên, họ cũng như tôi, đặt ý kiến riêng của các chuyên gia vượt quá tầm quan trọng trong suy luận và hành xử của người dân. Tôi thường lướt qua danh sách các bài “nóng” nhất của các trang mạng như Vietnamnet, VNExpress hay Tuổi Trẻ. Gần đây, những bài viết thu hút số lượng độc giả nhiều nhất vẫn là chuyện bà vợ đốt chồng ở Long An (rất nóng) hay vụ sức khỏe của Cụ Rùa Hồ Gươm (rất lạnh), không phải các bài khảo luận khô khan về lạm phát, tỷ giá hay lãi suất. Có lẽ người dân hiểu rõ giá trị thực sự của các bài nhận định? Hay nghĩ cho cùng, cách thức để ngủ ngon và không lo bị chồng hay vợ đốt vẫn quan trọng hơn là chuyện kiếm tiền lặt vặt?
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Doanh Nhân Việt Trong Thế Trận Toàn Cầu (Alan Phan)

Postby bevanng » 03 Nov 2016

Một biểu tượng của kinh tế thị trường

Ngày: 13 /06/2012
Trong nền kinh tế thị trường, mọi chuyện đều có thể xẩy ra. Nếu Facebook có thể đạt thị giá 100 tỷ đô la trong 8 năm (từ 1 ngàn đô la khởi nghiệp) thì Facebook cũng có thể mất 32 tỷ đô la về thị giá chỉ trong 20 ngày. Các tay chơi tự do kiện nhau về mất mát, nhưng không ai chạy đến chánh phủ xin cứu trợ.

Cả tháng nay, thế giới tài chánh bàn tán không ngớt về IPO của Facebook với một định giá kỷ lục là 100 tỷ đô la (tương đương GDP của Việt Nam và lớn hơn GDP của 124 quốc gia khác) cho một công ty thành lập trong một căn phòng nội trú 8 năm về trước với 1 ngàn đô la giữa 2 sinh viên. Công ty Facebook sẽ thu về 16 tỷ đô la tiền mặt từ IPO; có doanh thu 6.3 tỷ đô và lợi nhuận trước thuế khoảng 2.2 tỷ đô; nhưng tài sản lớn nhất là 900 triệu thành viên trên khắp thế giới.
Bỏ qua những lời ngợi khen hay chê bai, thán phục hay dửng dưng về sự trổi dậy của một đế chế IT mới, tôi tìm ra vài điều thú vị từ hiện tượng Facebook này, nhất là khi nhìn từ một xã hội gần như tương phản:

Mô hình kinh doanh khác biệt
Khác với các công ty IT khác như Google phải thu nhặt dữ liệu qua trăm ngàn máy chủ, hay Microsoft phải trang bị Windows và các phần mềm lên các máy tính, các thành viên của Facebook đã tự nguyện cho lên trang mạng xã hội này các thông tin dữ liệu cá nhân của mình để Facebook hưởng lợi bằng cách khai thác thương mại quảng cáo với những doanh nghiệp khách hàng. Có thể nói Facebook chỉ là một trang mạng, không hơn không kém, và dịch vụ duy nhất là để bạn bè gia đình kết nối và chia sẻ. Một ý tưởng trị giá 100 tỷ đô la? Và một mô hình kinh doanh hoàn toàn do khách hàng chủ động, họ tiếp thị và bán cho nhau dịch vụ kết nối này mà Facebook không phải trả đồng nào.

Facebook chỉ có thể xảy ra ở Mỹ
Dưới chế độ tư bản ích kỷ, mọi người tự do theo đuổi lợi nhuận và ý thích của mình, không cần ai cho phép. Nếu bạn ngu xuẩn và mất tiền của bạn hay của khách hàng ký gởi, thì đó là một lựa chọn dựa trên căn bản tự nguyện. Thêm vào đó, văn hóa của nền kinh tế Mỹ coi chuyện thất bại là một sự kiện bình thường, không gì để bài bác.
Nếu Zuckerberg, hay Larry Page hay Steve Jobs trước đây, sống ở một xã hội như Trung Quốc thì thế giới chắc chắn không có Facebook hay Google hay Apple. Các sinh viên trẻ này không phải là các hoàng tử đỏ hay có đủ quan hệ chánh trị để sáng tạo một công ty với mô hình kinh doanh chưa hề hiện diện. Các hoàng tử công chúa thực ngoài đời thì bận rộn khoe các “đồ chơi” thể hiện đẳng cấp. Các đầu óc quan chức thì chắc chắn không thể hiểu nổi một quan niệm sống và chia sẻ quá tự do và cách mạng kiểu này của thế hệ mới. Và chắc chắn, sáng tạo không thể thực hiện bằng biện pháp hành chánh, nghị quyết hay khẩu hiệu.

Sự khép kín của các tỷ phú Facebook
Sau IPO, phần lớn các nhân viên trẻ vây quanh Zuckerberg đã trở thành triệu phú đô nhiều lần, kể cả anh bạn thiết kế logo cho Facebook. Các phóng viên truyền thông đã để ý đến cuộc sống khép kín bình dị của những nhà triệu phú mới này. Sheryl Sandberg, COO, xây căn nhả nằm dưới đất trong một khu rừng để tránh những tương phản khá lớn với môi trường. Zuckerberg mua một biệt thự 6 triệu đô, sau khi thị trường định giá tài sản cá nhân anh là 32 tỷ đô. (Một đại gia cỡ nhỏ Việt vừa mời tôi ăn tân gia ở khu Thảo Điền và khoe là đã chi 5 triệu đô cho căn biệt thự ở đây). Zuckerberg cũng vừa tổ chức đám cưới với cô bạn gái bác sĩ, mời 100 khách, chi ra khoảng 27 ngàn đô. (Chỉ bằng một phần hai mươi tiền của đại gia Hà Tĩnh chi ra cho đám cưới con trai, mà Zuck lại quên mời Mr. Đàm và Quang Lê).

Sáng tạo cần hủy diệt để tiến bộ
Kiếm tiền theo định chế thị trường vô cùng vất vả. Vừa mới đăng quang xong, Facebook đã phải đối diện với bao cạnh tranh, cũng như các lời tiên đoán về số tuổi của mình. Đe dọa lớn không chỉ là nhà khổng lồ Google +, mà là cả ngàn công ty đang nằm trong các phòng nội trú hay các nhà để xe khắp thế giới. Nhược điểm của Facebook về ứng dụng cho các điện thoại thông minh đã khiến một nhà phân tích IT cho là Facebook sẽ biến mất sau 10 năm. Các nhà giao dịch chứng khoán thích so sánh Facebook với Yahoo. Họ cho rằng Yahoo sau khi ra đời khoảng 7 năm cũng đạt thị giá hơn 100 tỷ đô và chỉ 6 năm sau, còn 30 tỷ đô.

Luôn luôn có tay đua nhanh hơn
Thực ra, mạng xã hội đầu tiên là MySpace, đã chào đời vào 2003, 2 năm trước Facebook. Nhưng MySpace vướng hai vấn đề. Một là ban quản trị chậm chạp hình thức kiểu quan lại vì nằm dưới quỹ đạo của News Corp (thích kiểm duyệt nội dung và ngăn cấm các đề tài gây khó chịu cho các chánh phủ thân hữu như Trung Quốc) và hai là đội ngũ IT đã không cải tiến sản phẩm thường trực, gây vướng mắc kỹ thuật liên tục cho khách hàng. Khi gặp đối thủ nhanh hơn, sáng tạo hơn, nhỏ hơn… MySpace đã không cạnh tranh hữu hiệu và trở thành một viên gạch lót đường cho Facebook và các mạng xã hội khác như YouTube.

Càng lên cao càng té nặng
Các ngân hàng đầu tư như Morgan Stanley hay Goldman Sachs thường kiếm tiền vô khối cho mình và khách hàng thân thích của mình trong dịch vụ IPO. Đây là một hình thức ban phát ân huệ của các ngân hàng vì giá IPO thường được hạ thấp để sau khi IPO, giá cổ phiếu sẽ tăng vọt tạo ấn tượng cho công ty, ngân hàng bảo lãnh IPO và thị trường.
Tuy nhiên, IPO của Facebook lại gặp nhiều vấn đề ngoài dự đoán. Vì lòng tham, Morgan Stanley đã ra giá cao lợi dụng thời điểm tốt của thị trường và những chiêu PR quá tốt cho Facebook khắp thế giới. Được rao truyền là sắp vượt mặt các đàn anh như Google, Apple…, giá Facebook tại IPO ngày 18 tháng 5 là $ 38 USD. Chỉ sau 20 ngày, hôm nay (7/6/2012), Facebook chỉ còn thị giá $ 26. Các nhà đầu tư lỗ 31%. Mỗi tuần, Morgan Stanley, Nasdaq, Facebook, Zuckerberg… và bất cứ ai liên quan đến vụ IPO của Facebook đều nhận hơn ngàn đơn kiện từ khắp nơi.
Từ góc nhìn của tôi, Facebook là một biểu hiện rất trung thực của nền kinh tế thị trường. Sự thành công của Facebook là một mô hình kinh doanh sáng tạo, nắm bắt nhu cầu thị trường nhanh chóng và luôn cải tiến để thỏa mãn khách hàng, xây dựng một thương hiệu đẳng cấp. Nhưng nền kinh tế thị trường cũng đẩy ra những cạnh tranh khốc liệt liên tục, từ các địch thủ cũ như Google+ đến những doanh nhân mới chưa ai biết đến. Và trong nền kinh tế thị trường, mọi chuyện đều có thể xẩy ra. Nếu Facebook có thể đạt thị giá 100 tỷ đô la trong 8 năm (từ 1 ngàn đô la khởi nghiệp) thì Facebook cũng có thể mất 32 tỷ đô la về thị giá chỉ trong 20 ngày. Các tay chơi tự do kiện nhau về mất mát, nhưng không ai chạy đến chánh phủ xin cứu trợ.
Một điều chắc chắn: sẽ còn nhiều hiện tượng Facebook trong tương lai ở những xã hội mở. Bài học Facebook có thể dạy các nhà lãnh đạo kinh tế thế giới về một môi trường cần có để tạo dựng những công ty đột phá. Còn nếu cứ khư khư ôm giữ những định luật thời đồ đá, người dân của họ sẽ biến thành những con thạch sùng chỉ biết thở dài trong đêm tối.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Doanh Nhân Việt Trong Thế Trận Toàn Cầu (Alan Phan)

Postby bevanng » 03 Nov 2016

Sức chịu đựng bền bỉ của doanh nhân Việt

Ngày: 14/10/2012
(Bài viết cho Saigon Times nhân Ngày Doanh Nhân của Việt Nam)
Nếu hỏi tôi lợi thế cạnh tranh của doanh nhân Việt so với các đồng nghiệp trên khắp thế giới thì tôi có thể trả lời không cần suy nghĩ là sức chịu đựng bền bỉ của họ và cách điều chỉnh hoạt động nhanh chóng để thích hợp với một môi trường kinh doanh luôn bất ổn.
Trong vài năm qua, tôi đã gặp và nói chuyện nhiều với các doanh nhân Việt, thành đạt cũng như khó nhọc. Họ đều chia sẻ những chuyện làm ăn khá thần kỳ trong thời bao cấp cũng như thời mở cửa chỉ để bám trụ và tồn tại. Tình hình hiện nay rất phức tạp và khó khăn nhưng cơn bão năm Thìn này không nghĩa lý gì khi so lại những trải nghiệm của quá khử. Tôi nghĩ tiềm lực nội tại của doanh nhân Việt sẽ giúp họ vượt bão và vươn cao hơn khi tình thế xoay chiều.
Tuy nhiên, có một điều khác biệt giữa hôm qua và ngày nay. Hai mươi năm trước, các doanh nhân này còn nhỏ và rất “đói” về mọi phương diện. Họ không có nhiều để mất và cả thế giới ào ạt đổ bộ vào Việt Nam để đầu tư vào một thị trường nguyên sinh (như Myanmar hiện giờ). Các doanh nhân này đã già hơn, mệt hơn và no đủ hơn vào thời điểm này. Thêm vào đó, sau 20 năm, mô hình kinh doanh dựa trên quan hệ tạo đặc quyền đã không còn hiệu lực và các nhà đầu tư ngoại đã bỏ đi tìm những cơ hội khác.
Tôi hy vọng là thế hệ thứ hai của doanh nhân Việt sẽ thay thế bậc đàn anh bằng những kỹ năng mới hơn, những sáng tạo đặc thù hơn và một tầm nhìn dài hạn hơn để xây dựng một nền kinh tế bền vững và hiệu quả. Khác với cha anh, họ sẽ có rất nhiều thứ để mất.
Sau cùng, trong một nền kinh tế dựa trên tri thức, các đột phá thường bất ngờ và lan phủ rất nhanh. Các doanh nhân trẻ phải cảnh giác về những đổi thay liên tục trong công nghệ, trong nhu cầu tiêu dùng, trong lợi thế cạnh tranh để không bị đào thải khỏi cuộc chơi. Sự tiếp cận và tương tác với ngôi làng toàn cầu qua đám mây điện toán hay các phi vụ xuyên biên giới là một nhu cầu thiết yếu.
Với tôi, “nghịch cảnh thường thể hiện nhân tài, trong khi thịnh vượng lại che giấu nó”.
Các câu hỏi của PV Từ Nguyên Báo VN Economy (Kinh Tế Thời Báo);

Nhưng theo ông, sau một vài vụ việc đáng tiếc với một số doanh nhân có tên tuổi ở Việt Nam vừa qua, bài học mà doanh nhân Việt cần rút ra là gì?
Tôi cho rằng, thực tình thì cũng không có điều gì là quá quan trọng cả vì tất cả các nước trên thế giới đều có chuyện doanh nhân phạm luật, họ cũng chỉ là một thành phần của xã hội. Khi phạm luật thì họ sẽ bị xét xử thôi. Còn doanh nhân nào làm sai trái, phải trả giá thì đó cũng chỉ là chuyện riêng của họ.
Sau một vài vụ việc vừa qua, thực tế thì người ta cũng chỉ quan tâm đến những doanh nhân đang hoạt động trong giới ngân hàng, hoặc có những hành động tương tự. Với những người đang hoạt động trong lĩnh vực này hoặc có liên quan, có phạm luật, sai trái tương tự thì đương nhiên sẽ bị ảnh hưởng. Còn không thì cũng chỉ là những sự cố, những hạt sạn nhỏ mà thôi.
Phải thay đổi nếu không muốn bị đào thải

Vậy còn niềm tin của doanh nhân vào nền kinh tế thì sao, thưa ông?
Niềm tin thì nó khác, nó phụ thuộc vào môi trường kinh doanh. Đó chính là những đòi hỏi về sự minh bạch, về thực thi luật pháp cho công bằng và về những gánh nặng từ chánh phủ như thuế, thủ tục hành chính, chi phí bôi trơn…
Nếu không có những bất cập, những gánh nặng trên thì doanh nhân sẽ thoải mái hơn để sáng tạo, kinh doanh. Tất nhiên, bất cứ môi trường kinh doanh nào cũng có người thua, người thắng.
Do đó, niềm tin hiện nay của đội ngũ doanh nhân nếu có “xao xuyến” chút nào đấy thì cũng do ảnh hưởng của môi trường kinh doanh, chứ không phải là vì một vài người nào đó bị bắt.

Theo ông, bản lĩnh của doanh nhân Việt cần thể hiện như thế nào trong bối cảnh hiện nay?
Tôi cho rằng, anh nào yếu thì phải chấp nhận thua thôi. Những yếu kém mang tính kinh niên của doanh nhân Việt là kỹ năng quản trị về tài chính rất yếu và phần lớn vẫn có tầm nhìn ngắn hạn, thay vì dài hạn nên hệ quả là rủi ro về đạo đức rất cao.
Hai yếu tố trên là yếu kém nhất, còn những kỹ năng khác thì cũng chỉ là bình thường, nó sẽ lớn mạnh dần theo thực tế. Nhưng nếu không muốn bị đào thải thì chắc chắn họ phải thay đổi.

Với những khó khăn hiện nay, ông nghĩ giới doanh nhân Việt có thể vượt qua như thế nào?
Như tôi đã nói ở trên, trong quá khứ, họ đã đối diện với khó khăn còn “ly kỳ” hơn mà họ vẫn vượt qua, nên giờ đây khó khăn cũng là chuyện bình thường. Chỉ lưu ý rằng, tình hình nay đã khác xưa, vì giờ họ dùng những đòn bẩy tài chính quá lớn mà không quản lý nổi thì phải gặp rắc rối lớn.
Tôi đã kể câu chuyện về một người Việt làm ăn tại Mỹ để các bạn hiểu rõ hơn về bản lĩnh người Việt. Chị từ một công nhân thất nghiệp trong nước, sang Đức, sang Mỹ làm công nhân, sau đó tích góp rồi vay tiền để mua lại một cửa hàng, rồi sau đó hàng chục cửa hàng ăn uống, massage… và trở thành một bà chủ giàu có, thành đạt. Chị Gấm này sau còn cố gắng đi học ban đêm để trở thành một quản lý cấp trung của ngân hàng lớn Wells Fargo.
Thua cuộc chỉ là tạm thời…

Là một doanh nhân từng bôn ba khắp thế giới, ông có so sánh gì về môi trường kinh doanh ở Việt Nam và các nước khác?
Nền kinh tế Việt Nam vẫn mới mở cửa, nhiều hoạt động vẫn còn tính chất nguyên khai. Chúng ta đi sau các nước phát triển khác hàng chục năm, thậm chí hàng trăm năm nên các thách thức hiện nay là điều bình thường. Vì trước đây thì họ cũng như chúng ta bây giờ.
Nhưng vì đi sau thì chúng ta phải lo tránh những sai lầm, hạn chế của người đi trước. Nếu vẫn cố tình đi vào vết xe đổ thì đó không những là phí phạm mà còn phải coi là ngu ngốc.

Ông có ấn tượng về giá trị gia tăng của doanh nhân Việt hiện nay?
Tôi cho là không nhiều, vì nhìn chung một bộ phận không nhỏ vẫn có lối kinh doanh bầy đàn, thậm chí đi copy của nhau. Trong khi nền kinh tế tri thức, doanh nhân phải dựa trên sự sáng tạo, trên tư duy mới và trên khả năng điều chỉnh để thay đổi kịp thời. Còn nếu vẫn giữ tư duy cũ của thời nông nghiệp 100 năm trước, thì họ sẽ không bao giờ bắt kịp được các đối thủ.

Ông đang có những thay đổi gì và có ấp ủ dự án đầu tư nào ở Việt Nam?
Tôi chỉ mới trở về nước thường xuyên trong vài năm nay và chia sẻ những nhận thức của mình, có thế đúng hay sai, với các doanh nhân Việt. Phần lớn công việc và tài sản của tôi vẫn ở Mỹ và Trung Quốc. Môi trường kinh doanh ở Việt Nam vẫn còn thiếu nhiều điều kiện để thích hợp với các mô hình kinh doanh của tôi. Do đó, tôi sẽ khó thâu hoạch được kết quả tốt.
Tuy nhiên, chúng tôi cũng đang thương lượng để đầu tư vào một vài dự án ở Việt Nam.

Nhân Ngày Doanh nhân Việt Nam, ông có muốn gửi thông điệp gì đến các đồng nghiệp?
Tôi không có thông điệp gì cả, vì các doanh nhân trong nước có những kỹ năng nhậy bén hơn tôi nhiều về môi trường làm ăn ở đây. Tôi chỉ muốn chia sẻ với các đồng nghiệp rằng nền kinh tế toàn cầu đã thay đổi sang một chu kỳ mới. Chúng ta phải hiểu là lối làm việc trước kia giờ đã lỗi thời rồi. Phải chấp nhận một tư duy mới và một sáng tạo mới.
Trước bối cảnh khó khăn hiện tại của kinh tế thế giới, và dự đoán là tình hình trong nước còn chưa sáng sủa trong nhiều năm tới, theo nhận định chủ quan của tôi, tôi muốn nói với các doanh nhân của Việt Nam, trong hay ngoài nước, là phải vững tay lái, chăm chú vào mục tiêu và tạo những kế hoạch dài hạn hơn cho doanh nghiệp. Nếu những con người như chị Gấm đã làm được, chúng ta cũng sẽ làm được.
Luôn nhớ rằng “Thua cuộc chỉ là một tình trạng tạm thời. Bỏ cuộc biến nó thành một sự kiện thường trực”.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Doanh Nhân Việt Trong Thế Trận Toàn Cầu (Alan Phan)

Postby bevanng » 04 Nov 2016

Nghịch lý kinh tế và giao thông Việt Nam

Ngày: 05 /04/2011
Khi nào các bạn hiểu được cái kỳ diệu dù nghịch lý của hệ thống giao thông ở VN, các bạn sẽ hiểu về tổng quan của kinh tế và xã hội của xứ này. - TS. Alan Phan chia sẻ với các nhà đầu tư quốc tế.

Những gì sẽ xảy ra cho kinh tế VN trong 6 tháng tới? Đó là đề tài các nhà quản lý của 8 quỹ đầu tư ở Hồng Kông đặt ra cho bữa gặp ăn sáng thường kỳ tại khách sạn Four Seasons. Bao cặp mắt quay về tôi, người duy nhất biết tiếng Việt (và hy vọng biết chút đỉnh về kinh tế VN). Tôi nói đùa, “Đố các bạn cái khác biệt giữa con đà điểu và các chuyên gia kinh tế ở VN là gì? Trả lời: đôi khi con đà điểu biết rút đầu ra khỏi mặt cát”.
Theo mắt nhìn của các chuyên gia được đào tạo từ Âu Mỹ (kể cả tôi) thì nền kinh tế VN chứa nhiều rủi ro và nghịch lý rất nguy hiểm. Chẳng thế mà Moodys đưa VN vào Top Ten (10 hàng đầu) của các trái phiếu bất ổn nhất thế giới. Tất cả tín hiệu và số liệu nói lên một điểm giao thoa mà mọi lực đẩy tiêu cực sẽ động chạm nhau vào cùng thời điểm, gây nên một hiện tượng mà người Âu Mỹ quen gọi là “when the sh@t hits the fan” (khi phân đụng vào chiếc quạt máy).
Thực ra, tôi đã phản biện nhiều lần, trong các bài viết cũng như tại những thảo luận trên diễn đàn, là số liệu thống kê hay mô hình đồ biểu không thể giải minh đầy đủ hình ảnh tổng quan của tình thế; cũng như những phân tích định lượng thường không chính xác khi dùng để dự đoán tương lai, xa hay gần.
Tư duy và văn hóa đặc thù của cá nhân hay xã hội, sự khôn ngoan luồn lách của mọi tầng lớp đang đóng góp vào nền kinh tế sẽ thay đổi những kết quả trên nhiều phương diện. Trong khi đó, các chuyên gia lại có thói quen dùng số liệu như một bình phong che đậy sự thiếu hiểu biết của mình. Tôi nhớ cuộc họp gần nhất ở Hàng Châu, Trung Quốc, các chuyên gia đã dùng con số 5,2% lạm phát của 5 tháng đầu để đưa ra 6 tình huống về bất động sản hoàn toàn trái ngược. Dĩ nhiên, nhiều chuyên gia có những lợi ích cá nhân về nghề nghiệp hay phe nhóm để cố bẻ cong dự đoán theo hướng lợi cho mình.
Tôi bắt đầu nói về tờ báo đọc ở Arizona, bài phỏng vấn các du khách vừa trở về từ VN. Họ hỏi điều gì làm ông hay bà ấn tượng nhất sau khi thăm VN. Câu trả lời không phải là Vịnh Hạ Long hay những bờ biển Nha Trang, Đà Nằng. Cũng không phải cung điện rêu phong ở Huế hay sông nước miền Mekong. Cũng chẳng phải các nụ cười thân thiện của người dân hay lễ hội hoành tráng trong những ngày đăng quang.
Câu trả lời được 72% du khách cho là ấn tượng nhất: những con đường tràn ngập xe máy ở Sài Gòn và Hà Nội. Một hệ thống giao thông (nếu có thể gọi là hệ thống) thật hỗn loạn, tự phát và không kiểm soát. Điều làm mọi người kinh ngạc là khả năng luồn lách của các tài xế. Một bà Mỹ nói thật là một phép màu, khi không có tai nạn nào xảy ra trong những ngày bà thăm viếng và dòng xe lại chuyển động khá êm ả, dù rằng rất chậm.

Nền kinh tế tài chính cũng lộn xộn như giao thông?

Điều này rất dễ hiểu: với lối lái xe và văn hóa của người Âu Mỹ, một hệ thống giao thông như vậy không thể vận hành được. Xe cộ phải tắc nghẽn, tai nạn phải xảy ra liên tục và mọi người trên đường sẽ bày tỏ thái độ “cuồng nộ” (road rage). Nhưng ở VN, dường như mọi người vẫn kiên nhẫn và tránh né thay vì giận dữ với các tay lái không tôn trọng luật lệ giao thông. Không ai chửi rủa bằng chân tay hay bằng các câu nói tục tĩu như tài xế Âu Mỹ, khi họ bị cắt đầu xe, đụng đít hay bị những va chạm nhỏ làm trầy trụa xe. Dĩ nhiên, hệ thống giao thông rất tự do và hỗn độn này phải trả giá bằng một tắc nghẽn thường trực: Một khoảng cách 15 km trên xa lộ của Mỹ có thể mất chừng 8 phút lái xe, nhưng ở VN, từ trung tâm TP. HCM lên Suối Tiên, bạn phải mất ít nhất 50 phút.
Nhìn chung, nền kinh tế tài chính của VN cũng lộn xộn không kém. Ước tính 37% GDP nằm trong giao dịch bất động sản. Khoảng 45% dự trữ ngoại hối bắt nguồn từ kiều hối và viện trợ. 88% hàng nhập khẩu là những nguyên liệu để chế biến xuất khẩu. Người Việt được xếp hạng tiêu xài sang nhất Á Châu, nhưng 64% người dân vẫn sống nhờ vào nông nghiệp. Số lượng vàng trữ trong nhân dân được ước tính có thể lên tới 1,000 tấn, tương đương với 52% GDP. Ngân hàng là ngành nghề có lợi nhuận cao nhất trên sàn chứng khoán, nhưng tài sản hay nợ xấu tính theo chuẩn mực thế giới thì chỉ có thể phỏng đoán. Công ty gần như không được phá sản cho đến khi trả hết thuế và nợ nần.
Các doanh nghiệp nhà nước (tiền của nhân dân?) là thành phần lãnh đạo kinh tế, nhưng những đại gia giàu nhất VN xuất thân từ nền kinh tế tư nhân. Y tế môi trường là những vấn nạn thường trực của người dân; nhưng rượu và thuốc lá là hai món hàng thông dụng và có giá rẻ nhất thế giới.
Những vấn nạn này của nền kinh tế không khác gì những vấn đề của hệ thống giao thông. Và các doanh nhân cùng người dân sẽ tìm ra phương thức để tránh bão và đi tới. Những trận mưa lớn vẫn làm ngập lụt đường phố, nhưng cuối cùng rồi ai cũng về nhà, dù ướt át và chậm trễ.
Tôi kết luận là khi nào các bạn hiểu được cái kỳ diệu dù nghịch lý của hệ thống giao thông ở VN, các bạn sẽ hiểu về tổng quan của kinh tế và xã hội của xứ này. Tôi cũng nói thêm, VN không có quạt máy nào quá lớn và phân thì trải đều khắp ruộng đồng. Vô tình, chúng lại trở thành phân bón tốt.
Với người ngoài, thì tôi phải giải thích và nhe răng cười để giữ chút “sĩ diện” cho quê hương. Nhưng giữa chúng ta với nhau, tôi muốn nói rõ là nếu suốt ngày phải sống với phân thì khổ lắm.
Cuộc trò chuyện hôm đó với nhóm quản lý quỹ nhắc tôi đến chuyện gia đình của 1 bà nhân viên làm cho tôi ở Thượng Hải. Ông chồng kiếm được khá nhiều tiền, nhờ đông bà con cũng hay giúp đỡ, dù ông chỉ là một nhân công bình thường trong 1 xưởng máy nhỏ. Tuy nhiên, ông có tật xài tiền như nước, ăn nhậu liên hoan mỗi ngày để “nổ” với bạn bè. Ông cũng hoang phí rất nhiều tiền bạc với những chuyện làm ăn không hiệu quả theo lời rủ rê của bạn bè phe nhóm, ông vay mượn tùm lum, trả không nổi, nên uy tín không còn. Tình trạng tài chính khẩn trương, vì tiền tiết kiệm đã bay hơi, nhu cầu tiêu xài cho gia đình gấp rưỡi số tiền thu nhập.
Trong khi đó, bà vợ lại đảm đang, chịu khó làm ăn ngoài giờ làm việc, nên để dành được khá nhiều tiền và vàng, ông thường tìm mọi cách để rút tỉa tiền của bà vợ, với đủ mọi thủ thuật. Lần chót, khi tôi rời Thượng Hải, ông than phiền là nguy ngập với dòng tiền. Tôi dặn bà vợ là hãy cẩn thận, ông này có lịch sử rất bạo lực và làm ẩu, nên hãy lo giấu tiền và tránh gây xích mích để ông đừng đánh đập.
Khi rời cuộc họp ở Four Seasons, tôi lại thắc mắc là không hiểu bà ta có nghe lời mình?
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Doanh Nhân Việt Trong Thế Trận Toàn Cầu (Alan Phan)

Postby bevanng » 04 Nov 2016

Global Witness và nước mắt môi trường

Ngày: 22 /05 / 2013
Con người phải hiểu rằng chúng ta không thể sống nếu không có Mẹ Trái Đất, nhưng hành tinh này vẫn có thể sống mà không cần chúng ta. - Evo Morales

Kinh tế phá rừng
Dù đau xót khi chứng kiến sự tàn phá vô cảm của con người với rừng (lá phổi của trái đất), tôi vẫn chưa nghĩ ra sự thiệt hại về kinh tế cho đến khi đọc bài blog của B/S Hồ Hải về giá trị của lâm sản. Theo B/S Hải, mỗi m3 của gỗ trắc tốt Việt Nam có giá khoảng 36,000 USD trong khi loại gỗ rẻ nhất cũng thu về hơn 15,000 USD mỗi m3. Một vòng qua google về giá cả của các cây rừng nguyên sinh xác nhận khung giá này.
Năm 1993, tổng số gỗ trong các khu rừng Việt là 1,025 triệu m3 (khoảng 76 m3/mẫu-hectare trên 14 triệu mẫu diện tích). Vài nghiên cứu khác chỉ ghi nhận đến 728 triệu m3. Giai đoạn 1993 đến 2009, cả nước mất khoảng 7,650 mẫu mỗi năm hay 122,400 mẫu trong 16 năm tương đương với 9.3 triệu m3 gỗ. Nếu tính giá bèo là 15,000USD mỗi m3 gỗ bán ra, các lâm tặc và đồng lõa đã bỏ túi 139 tỷ USD. Đây là một mất mát lớn gấp 30 lần Vinashin, bằng 115% GDP của Việt Nam trong 2012 và gấp 3 lần số nợ xấu của các ngân hàng theo báo cáo hiện nay. Số tiền này có thể xây 7 triệu nhà xã hội (20,000 USD mỗi căn) để tặng không cho các hộ nghèo; hay trả tiền ăn học cho 25 triệu trẻ em miền sâu miền xa trong 12 năm học (trung bình 500 USD/năm/em).
Dĩ nhiên, tôi và đến 99% dân số không có thẩm quyền gì về pháp luật nên những phân tích… chỉ là những phân tích. Tuy nhiên, sự im lặng tuyệt đối của xã hội với một vấn nạn kinh tế tầm cỡ này là một điều khó nuốt cho mỗi bữa ăn.

Global Witness
Nhìn lại hoạt động của Global Witness (GW) trong 20 năm vừa qua, chúng ta nhận thấy là GW đã trung thực đi đúng với tôn chỉ và mục tiêu của tổ chức. Một là giúp cho những hộ nghèo ở vùng có tài nguyên không bị các thế lực tư bản hay quan chức “móc túi” cho nghèo thêm; hai là bảo vệ môi trường “sống” cho toàn cư dân của trái đất. Họ đã thành công ngăn chận “kỹ nghệ kim cương máu” ở Phi Châu cũng như những tàn phá rừng và khai thác gỗ ở Campuchia thời Khmer Đỏ, ở Indonesia, ở Liberia, ở Myanmar…
Phương thức hoạt động của họ không nhắm vào quan chức hay công ty địa phương, mà vào các nhà tư bản Tây phương đang đổ tiền tài trợ cho các dự án này Trong phi vụ “kim cương máu”, mục tiêu chính là tập đoàn kim cương lớn nhất thế giới, DeBeers. Khi bị áp lực của dư luận người tiêu dùng không muốn vấy bẩn vào “kim cương máu”, DeBeers ngưng thu mua và thị trường teo tóp ngay qua đêm. Mục tiêu khi tấn công vào việc phá rừng khai thác lâm sản của các quốc gia đã nêu tên là vào các nhà tài trợ dự án và các công ty mua bán gỗ.
GW làm việc hoàn toàn dựa trên nguyên lý tư bản, “Khi dòng tiền ngưng chảy vào một lãnh vực kinh doanh, các dự án sẽ tự hủy diệt theo thời gian”. Người Tàu hay nói, “con cá nó sống vì nước”.
Vì được tài trợ một phần bởi các chánh phủ Anh, Mỹ, Âu… GW không bao giờ đụng trực tiếp đến các tầng lớp chánh phủ hay quan chức, vì đây là phạm trù của Bộ Ngoại Giao của các chánh phủ tài trợ cho họ. GW biết nên không bao giờ lấn sân qua các hoạt động chánh trị hay đánh đấm với các công ty địa phương.
Cho nên khá khôi hài khi các công ty Việt Nam có tên trong bản cáo buộc của GW lên tiếng phản bác, phủ nhận hay mời GW đến thăm quan cơ sở. Cũng như khi các chánh phủ Việt, Miên, Lào… vội kết tội “phản động” cho GW với chiếc mũ “thế lực thù địch”. Cả trăm tờ báo lề phải được huy động hay trả tiền để bới móc, lăng mạ GW hay nhà sáng lập George Soros. Các ngài đã phản ứng quá nhanh, quá nhậy và tốn tiền cũng như thời giờ vô ích. Tất cả các mạng truyền thông thế giới không chút quan tâm đến các phản bác của các ngài và chỉ đợi phản ứng chính thức từ các nhà tư bản tài trợ như Deutsche Bank, IFC, Temasek Holdings, BIDV hay quỹ Jaccar…

Tư bản có trách nhiệm
GW là một công cụ của thế giới tư bản để chống lại những lạm dụng quá đà của quyền lực. Những nhà tư bản thường cho là mình “bất bại” và trong mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận cho công ty, các nhà quản lý đôi khi vượt qua ranh giới của lương tâm để đạt “chiến thắng”. Những hoạt động vô vụ lợi của GW là tiếng còi báo động sớm cho các công ty đa quốc, các ngân hang, quỹ đầu tư thế giới cũng như các mạng truyền thông chính thống khác.
GW (và các nhóm vô vụ lợi khác của toàn cầu) cộng với tự do ngôn luận là những rào cản hữu hiệu để nền kinh tế tư bản có được một chuẩn mực đạo đức và trách nhiệm với xã hội chung quanh. Vì lòng tham con người là vô hạn nên chúng ta cần những công cụ như GW, dựa trên những lý tưởng đáng ca ngợi của tuổi trẻ còn biết cảm xúc với những nỗi đau của con người và thiên nhiên. Đó mới thực sự là cốt lõi của văn hóa và văn minh nhân loại.

Lại chuyện mất hay được?
Một câu hỏi khác của một nhà báo cũng làm tôi phải suy nghĩ. Là người Việt, ông phải ủng hộ doanh nhân Việt chống lại bọn “ngoại xâm”, ông nghĩ thế nào về hậu quả kinh tế cho ngành cao su Việt Nam khi đối diện với cáo buộc của GW?
Thú thật, tôi yêu quê hương nhưng không có một lòng ái quốc cuồng tín. Tôi tự hào với thành quả tốt đẹp mà các sinh viên, các khoa học gia, các doanh nhân Việt đã gặt hái trên khắp thế giới. Nhưng tôi cũng xấu hổ khi đọc về những tội phạm ma túy, xã hội đen Việt… trên các mạng truyền thông toàn cầu. Tôi xấu hổ khi phần lớn đối tác, bạn bè, sinh viên ngoại… vẫn nghĩ đến Việt Nam như là một banana republic (cộng hòa quả chuối).
Về hệ quả kinh tế, chúng ta sẽ thâu nhặt những gì chúng ta đã gây trồng. Nếu các nhóm môi trường và các định chế truyền thông khác tham gia để tăng cường độ của lời cáo buộc, tôi nghĩ là nhiều cổ đông hay quỹ đầu tư sẽ rút ra khỏi các dự án cao su của Đông Dương để tránh tai tiếng. Ngoài sự thiếu hụt cho dòng tiền luân chuyển, các công ty có thể còn bị sức ép về giá cả nếu các nhà tiêu dùng lớn tìm nguồn cung cấp khác ngoài Đông Dương. Đây là rủi ro lớn nhất về lâu dài.
Tuy nhiên, sau khi bỏ túi ngon lành 139 tỷ đô la trong 16 năm qua, các đại gia Việt có thể mất vài tỷ đô la? Chỉ là muối bỏ biển. Các chân dài kiếm nhiều hơn thế từ các đại gia trong 6 năm qua.

Chú thích: Nhiều phản biện cho rằng giá gỗ trắc của rừng nguyên sinh ở $15,000 USD là hơi đắt. Giá có thể chỉ từ 8,000USD. Do đó, nếu lấy trung bình các con số trên Google và các chia sẻ từ các bạn BCA, tôi sẽ dùng 10,000USD là giá để tính thiệt hại. Good news. Chúng ta chỉ mất có 93 tỷ USD trong 16 năm qua chứ không mất đến 139 tỷ USD. Có nên mở sâm banh để ăn mừng?
http://luanvan.co/luan-van/hien-trang-s ... -nam-6146/
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Doanh Nhân Việt Trong Thế Trận Toàn Cầu (Alan Phan)

Postby bevanng » 05 Nov 2016

Sự hấp dẫn của nền kinh tế pháp trị

Ngày: 29/07/2014
Sẽ không bao giờ có một đêm dài hay một vấn nạn đủ sức để chiến thắng một bình minh hay hy vọng - There was never a night or a problem that could defeat sunrise or hope - Bernard Williams

Trong tháng vừa qua, một tin nhỏ từ Mỹ đã gây trận địa chấn trong giới đầu tư Trung Quốc. Một sự kiện mà giới tài chánh toàn cầu hoàn toàn không quan tâm, kể cả những mạng truyền thông lớn.
Câu chuyện bắt đầu từ năm 2012 khi công ty Ralls của Trung Quốc mua một miếng đất và tài sản của Terna Energy tại tiểu bang Oregon và đem trang thiết bị Trung Quốc qua Mỹ để vận hành một trang trại điện gió (wind farm). Dự án gặp sự phản đối của dân địa phương (có lẽ vì tự hào dân tộc) và vì tọa lạc quá gần một căn cứ hải quân Mỹ, nên ứng cử viên Tổng Thống Romney lợi dụng vụ việc để công kích đối thủ Obama về chánh sách đối đầu Trung Quốc. Trong thế phản đòn và xoa dịu dư luận, Obama ký một sắc lệnh hành pháp (executive order) cấm khai triển dự án trên căn bản an ninh quốc gia (national security) và bắt Ralls phải giải ngân, rút khỏi dự án trong vòng 9 tháng.
Theo lời khuyên của luật sư, Ralls đút đơn kiện TT Obama về lạm dụng quyền lực để vi phạm quyền hiến định (constitutional right) của công ty Trung Quốc Ralls. Sau 2 năm tranh nghị giữa 2 bên, tháng vừa qua, Tòa Án Liên Bang đã đồng ý với Ralls và phán quyết là executive order của Obama không có hiệu lực.
Đây là một chiến thắng của một công ty cỡ trung của Trung Quốc trong tranh chấp với một người được coi như là “nhiều quyền lực nhất thế giới” có cả một chánh phủ siêu cường ở sân sau.
Vài nhà đầu tư Trung Quốc bình luận, “Nếu Ralls đút đơn kiện Tập Cận Bình, chắc toàn bộ quản lý đang chia phòng giam với Chu Vĩnh Khang”. Còn ông bạn Mỹ của tôi, “Bạn nghĩ có bao giờ Goldman Sachs hay Walmart thắng được trong một tòa án xã (đừng nói đến Trung ương hay thành phố) tại Trung Quốc?”
Tuy vậy, các mạng truyền thông lớn của thế giới chỉ lướt qua tin này, vì chuyện một phó thường dân thắng kiện Tổng Thống Mỹ là chuyện hằng ngày ở huyện. Ngay cả trường hợp một người nước ngoài, đang bị Bộ Nội An (Homeland Security) coi là “thế lực thù địch”.
Tác động tài chánh của sự kiện gần như không đáng kể (khoảng 6 triệu đô la), nhưng câu chuyện đã trở thành một huyền thoại với các nhà đầu tư Trung Quốc. Nó trở thành một dấu ấn sâu sắc trên tư duy của người dân Trung Quốc, về một xã hội minh bạch, công bằng và pháp trị cho những người thấp kém yếu thế. Nó đẹp hơn cả tượng Nữ Thần Tự Do luôn dang tay chào đón những tù nhân tự nguyện của các chế độ phong kiến độc tài. Nó là biểu tượng cao quý nhất của sức mạnh mềm của một thế giới mới cho một thế hệ mới. Nó là lý do chính tại sao dòng tiền đầu tư tại Trung Quốc và mọi quốc gia khác dồn dập đổ về Mỹ.
Obama đã thua nhưng nước Mỹ và chủ nghĩa giẫy chết của Tây Phương sống mạnh; đem hy vọng hiếm quý cho mọi người dân trong những thiên đường đang mục nát.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Doanh Nhân Việt Trong Thế Trận Toàn Cầu (Alan Phan)

Postby bevanng » 05 Nov 2016

Alan Phan: “Nhà đầu tư rất ngại yếu tố chính trị trong các DNNN”

Ngày: 11/08/2014
“Nhiều doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam thất bại trong việc tìm kiếm đối tác chiến lược thông qua IPO chủ yếu là do vẫn tồn tại yếu tố chính trị nằm trong cơ chế quản trị tại các doanh nghiệp, về mặt khả thi, phần lớn nhà đầu tư nước ngoài rất ngại cái yếu tố này”.

Có thể nói Việt Nam đang đứng trước một thử thách lớn trong việc thực hiện “đại kế hoạch” cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước (DNNN).
Nhiều nhà đầu tư ngoại cho rằng, thử thách ở đây không hẳn nằm ở tiến độ “1 ngày phải cổ phần hóa 1 doanh nghiệp” mà nằm chính ở những yếu tố nội tại trong các DNNN.
Với góc nhìn của một nhà đầu tư, Chuyên gia Alan Phan đã chỉ rõ những hạn chế nội tại của các DNNN trong việc cổ phần hóa.

Gần đây, thị trường đang dành nhiều sự quan tâm đối với kế hoạch cổ phần hóa của các DNNN lớn. Đặc biệt, chỉ tính riêng lượng cổ phần chào bán của 7 tập đoàn, tổng công ty lớn đã lên tới con số 4,7 tỷ USD. Ông có đánh giá thế nào về cơ hội IPO của những cái tên như Vietnam Airlines, Mobiphone, PVGas…?

Theo tôi thấy thì cái này hơi phức tạp, bởi vì thường các công ty nhà nước lớn của Việt Nam đều có những yếu tố đặc biệt, khó có thể xác định được, nói đúng hơn cũng không thể đánh giá chuẩn được.
Thành ra, về thị trường mua bán - sáp nhập (M&A) của các doanh nghiệp quốc doanh (DNNN) ở Việt Nam, không ít nhà đầu tư cũng muốn nhảy vào.
Tuy nhiên, nó chỉ phù hợp với những nhà đầu tư chiến lược muốn tạo tài sản lâu dài trong một quốc gia ít biến động, với một thị trường có quy mô dân số lớn lại trẻ.
Tuy vậy, những nhà đầu tư chiến lược này phải chấp nhận lỗ vài ba năm đầu để tái cấu trúc, tăng giá trị… và cũng chưa chắc họ đã thành công.
Mặt khác, cũng sẽ có những nhà đầu tư tài chính nhỏ lẻ muốn nhảy vào thị trường này để lướt sóng cổ phiếu, kiếm lời nhanh.
Tuy nhiên, việc tìm kiếm nhà đầu tư chiến lược mới là đặc biệt quan trọng đối với những kế hoạch IPO lớn.
Nói chung, thị trường IPO lên tới 4,7 tỷ USD của 7 DNNN lớn kể trên cũng có thể tạo chút lực chuyển, nhưng không phải là hấp dẫn lắm đối với các nhà đầu tư dài hạn về chứng khoán.

Thời gian qua thị trường cũng chứng kiến nhiều vụ IPO của các DNNN lớn kém hiệu quả nếu không muốn nói là thất bại. Theo ông, nguyên nhân chính của việc này do đâu?
Như tôi đã từng phân tích, nguyên nhân chính của việc này là do ở Việt Nam, đặc biệt ở các DNNN vẫn tồn tại yếu tố chính trị nằm trong cơ chế quản trị. Về mặt khả thi, phần lớn nhà đầu tư nước ngoài rất ngại cái yếu tố này lắm.
Cũng giống như việc tham gia một trận chiến, họ vừa mua lại thì đã phải chống đỡ với cả trăm mặt trận, cho nên họ thấy bỏ tiền ra bị quá nhiều rủi ro, không khả thi lắm.
Thế nên họ vẫn thường theo dõi và đợi các nhà đầu tư khác mạo hiểm trước mua đi rồi làm cho sạch sẽ vào.
Sau đó, thậm chí họ phải trả giá cao hơn khi mua lại, nhưng họ vẫn sẽ an toàn hơn so với việc phải giải quyết hàng trăm thứ không nằm trong chuyên môn.

Ở góc nhìn của một nhà đầu tư, theo ông các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm đến việc mua cổ phần của các DNNN thuộc lĩnh vực nào hoặc cụ thể là doanh nghiệp nào trong số hơn 400 cái tên phải cổ phần hóa từ nay đến hết năm 2015?
Như tôi nói đấy, những DNNN nào ở Việt Nam đơn giản, ít rắc rối về mô hình kinh doanh và có ban quản trị chuyên môn hơn sẽ thu hút sự quan tâm của nhiều nhà đầu tư nước ngoài.
Ví dụ như Mobiphone, nó khá đơn giản, có 1 cái giấy phép, có một thị trường tốt với thị phần tương đối cao, đồng thời nó cũng chỉ tập trung vào một lĩnh vực chuyên môn là dịch vụ điện thoại.
Mobiphone không dính dáng tới đầu tư dàn trải, như bất động sản hoặc các ngành, lĩnh vực khác mà trong bối cảnh khó khăn hiện nay rất dễ gây ra thua lỗ.
Thực trạng đầu tư tràn lan ngoài ngành, kéo dài thua lỗ, gây nhiều nợ xấu của các DNNN là một thực trạng phổ thông. Những doanh nghiệp như Mobiphone sẽ là kiểu doanh nghiệp được nhà đầu tư nước ngoài ưa chuộng hơn trong việc mua bán cổ phần thông qua IPO.

Vậy theo ông, sẽ khá nhiều DNNN trong số hơn 400 cái tên cần cổ phần hóa sẽ gặp khó khăn khi IPO?
Theo nhận xét trên, nội tại của các DNNN chứa đựng nhiều khuất tất từ quản trị đến kết quả hoạt động kinh doanh và hiệu năng nhân viên. Kể cả những công nghệ, cơ sở và sản phẩm xưa cũ, không phù hợp với kinh tế cạnh tranh của toàn cầu.
Do đó, ai thâu tóm các DNNN này sẽ cần tái cấu trúc toàn diện và dọn dẹp những lãng phí, mất mát… rất phức tạp.
Trong khi đó, nhà đầu tư nước ngoài có rất nhiều lựa chọn trên thế giới, không ai sẵn tiền và thì giờ muốn ra tay làm những việc khó khăn này. Đi kèm là những rủi ro ngoài tầm kiểm soát.
Họ sẽ sẵn sàng bỏ tiền đầu tư vào các DNNN đơn giản, dễ hiểu, có minh bạch, thương hiệu tốt, thị phần cao, tầm nhìn tốt… bởi sau cùng, họ sẽ mất ít thời gian và tiền bạc để tái cơ cấu.
Họ cần xây dựng và phát triển công ty ngay theo chiến lược mới của họ để tạo ra lợi nhuận nhanh nhất.
Xin cảm ơn ông!

Theo Vũ Minh - Biz Live -9 Aug 2014
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

PreviousNext

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 105 guests