Độc Chú (Hạ Long Hà)

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Re: Độc Chú (Hạ Long Hà)

Postby bevanng » 01 Oct 2016

7. HẬU DUỆ DANH TƯỚNG

Hậu duệ của Lý tướng quân tên là Lý Phục Minh. Lý Đức Lượng không biết ý nghĩa của cái tên này có phải là còn trăn trở đại kế phản Thanh phục Minh hay không. Lý Phục Minh sống trong căn nhà dột nát cũ kỹ, tuy cũng là một thương nhân, nhưng gần như có thể mô tả bằng bốn chữ “nghèo rớt mồng tơi”.
Lý Phục Minh thân hình không thật cao lớn, nhưng từ trong ra ngoài đều toát lên một luồng chính khí dương cương lẫm liệt. So với ông, Lý Đức Lượng tuy áo quần là lượt, song không toát ra được khí phách, mà trông lại còn có vẻ hủ lậu.
Thứ chính khí đến từ thời viễn cổ kia lại vẫn hùng hổn đến vậy, Lý Đức Lượng thực sự cảm thấy bất ngờ.
Lý Đức Lượng cũng đã cảm nhận được khoảng cách giữa cụ tổ nhà mình và tổ tiên nhà Lý Phục Minh. Không cần phải giải thích, khí thế chính là thứ có thể phân biệt hết sức rõ ràng bậc trung thần với kẻ phản bội. Trường khí này còn khó thay đổi hơn cả lịch sử.
Lý Đức Lượng cảm thấy cụ tổ có lẽ giống như mình, cũng có thứ cảm giác đó. Cụ tổ năm xưa theo Ngô Tam Quế trở thành kẻ phản bội, hẳn cũng không phải là tình nguyện, nhưng họ lại cùng sống chết với Ngô tướng quân, Lý Đức Lượng quả thực không biết phải nói gì.
Lý Phục Minh không quen biết Lý Đức Lượng, nhưng cũng chu đáo mời ông vào nhà. Người bạn Đài Loan đi cùng giới thiệu rằng, ông Lý là ông chủ lớn tại Mandalay, nghe nói Lý Phục Minh là hậu duệ của Lý tướng quân, nên đặc biệt tới bái kiến.
Lý Phục Minh nói:
- Hậu duệ của Lý tướng quân cái nỗi gì, bây giờ chỉ là một lái buôn quèn, gắng gượng kiếm ăn qua ngày mà thôi.
Lý Đức Lượng đột nhiên nảy ra một phỏng đoán, thình lình hỏi ông ta:
- Lý tiên sinh có quen Đinh Quỷ không?
Lý Phục Minh ngớ người, rồi lập tức lắc lắc đầu đáp:
- Không quen!
Lý Đức Lượng lại hỏi:
- Thế tiên sinh đã từng nghe nói tới chưa?
Lý Phục Minh đáp:
- Nghe nói thì có. Nhưng mà, tuy tôi không quen biết hắn, song hắn lại biết tôi. Hằng năm cứ tới ngày giỗ của cha tôi, hắn đều tới thăm tôi, và khấu đầu trước bài vị của cha tôi. Chỉ có điều tôi lại không biết được. Thực ra, cuộc sống của tôi phần lớn vẫn là do hắn hỗ trợ. Lần nào tới, hắn cũng mang đến một ít vàng bạc.
Không ngờ Đinh Quỷ lại trung nghĩa đến vậy, quả thực khiến người ta quá đỗi bất ngờ.
Lý Đức Lượng đột nhiên có một cảm giác rằng, nếu Đinh Quỷ kia còn có hậu duệ đang còn sống, không biết chừng lại ở ngay trong những người Kokang cũng nên. Người Kokang đều là di dân triều Minh, là hậu duệ của những quan binh từng theo hoàng đế Vĩnh Lịch chạy tới đây, là ký ức quan trọng nhất của triều Minh. Hắn không ở nơi này thì còn ở đâu được nữa?
Lý Đức Lượng bèn hỏi Lý Phục Minh:
- Lý tiên sinh, con phố này có cửa hàng bán quan tài nào không?
Lý Phục Minh ngẫm nghĩ rồi nói:
- Có đấy!
Lý Đức Lượng lại hỏi:
- Ban ngày họ có mở cửa không?
Lý Phục Minh đáp:
- Đương nhiên, chẳng lẽ còn có cửa hàng quan tài mở cửa buổi tối?
Lý Đức Lượng cười nói:
- Cửa hàng quan tài của Đinh Quỷ mở cửa buổi tối đấy thôi.
Lý Phục Minh nói:
- Chuyện này thì tôi chưa nghe bao giờ. Nhưng ở đây chỉ có duy nhất một cửa hàng bán quan tài, mở cửa ban ngày, buôn bán cũng không khá khẩm lắm, ở đây rất nhiều người không dùng tới thứ đó.
Để thăm dò, Lý Đức Lượng bèn nhắc tới chuyện của hội Tam Hoàng, vừa nói vừa quan sát sắc mặt của Lý Phục Minh. Trong lịch sử, có rất nhiều danh tướng triều Minh từng tham gia hội Tam Hoàng, tuy kế hoạch phục Minh không thành công, nhưng cũng cống hiến được phần nào cho sự nghiệp phản Thanh. Song thật bất ngờ, Lý Phục Minh lại trả lời chắc nịch:
- Đinh Quỷ không tham gia hội Tam Hoàng!
Hiển nhiên, ông ta đã hiểu lầm ý đồ của Lý Đức Lượng. Lý Đức Lượng vốn định thăm dò xem ông ta có tham gia hội Tam Hoàng hay không, không ngờ ông ta lại nói tới Đinh Quỷ trước. Nhưng thông tin này khiến cho Lý Đức Lượng vô cùng phấn chấn, bèn hỏi:
- Lý tiên sinh, tại sao ngài lại khẳng định Đinh Quỷ không tham gia hội Tam Hoàng?
Lý Phục Minh đáp:
- Hội Tam Hoàng đã không còn là hội Tam Hoàng năm xưa nữa. Cho dù là năm xưa cũng không ai có thể gây ảnh hưởng tới Đinh Quỷ. Trong hội Tam Hoàng bây giờ, làm gì còn ai có thể khiến Đinh Quỷ thần phục? Đinh Quỷ hành sự quái dị, một mình một đường, không ai có thể chịu được hắn, hắn cũng không thể chịu đựng được bất kỳ ai.
Lý Đức Lượng hỏi:
- Nhưng nếu hội Tam Hoàng mời hắn giúp đỡ?
Lý Phục Minh đáp:
- Việc đó thì cũng có thể.
Lý Đức Lượng biết, muốn nhờ người ta giúp mình, thì phải nói rõ nguyên nhân, người như thế này, không phải chỉ nói bừa vài câu là có thể mời được. Thế là ông ta liền kể lại những chuyện mình gặp phải cho Lý Phục Minh nghe, nhưng lại giấu nhẹm thân phận của tổ tiên mình và Ngô Cương.
Lý Phục Minh nói:
- Tôi có hiểu chút ít về Đinh Quỷ, hắn tuyệt đối không vô cớ làm hại người khác. Bởi vì hồn phách của hắn là của mấy trăm năm về trước, nên không chịu tiếp nhận những thứ mới mẻ, cách thế giới này đã càng ngày càng xa. Nếu hắn quay trở lại, thì chứng tỏ ở chỗ ông có thứ gì liên quan tới Đại Minh, và hắn đã cảm nhận được. Nếu không, hội Tam Hoàng cũng không thể mời được hắn.
Lý Đức Lượng thầm nghĩ, những thứ có liên quan tới Đại Minh ở chỗ ông thì nhiều lắm. Tổ tiên của ông và của Ngô Cương đều từng là tướng lĩnh của Đại Minh, sau đó lại đều hàng Thanh phản Minh. Nhưng đó là cụ tổ kia mà, lại có liên quan tới chuyện này ư?
Đối diện với hậu duệ của trung thần triều Minh, ông thực sự cảm thấy hổ thẹn khi nhắc tới tổ tiên nhà mình và nhà họ Ngô. Nhưng nếu không nhắc tới, không nói rõ nguyên nhân, hiển nhiên không thể nào giải thích với Lý Phục Minh được. Huống hồ bây giờ không nói, người ta sẽ càng nghi ngờ nhiều hơn, chi bằng nói toạc ra cho rồi. Dù sao không nói, chắc chắn sẽ không thể mời được Lý Phục Minh, cứ nói ra chưa biết chừng còn có cơ hội.
Lý Đức Lượng trầm ngâm một lúc, rồi nói:
- Nói ra thật hổ thẹn. Tổ tiên của tôi cũng là tướng lĩnh triều Minh, thuộc hạ của tướng quân Ngô Tam Quế. Về sau, Ngô tướng quân đổi dạ thay lòng, cụ tổ cũng theo tướng quân hàng Thanh. Lẽ nào chính là nguyên nhân này?
Lý Phục Minh ngẫm nghĩ một lát rồi nói:
- Tôi cảm thấy nguyên nhân này cũng không hợp lý cho lắm. Đều đã là chuyện đã qua của lịch sử, Đinh Quỷ sẽ không vô tình đến vậy. Để bảo toàn tính mạng, tướng lĩnh đầu hàng nhà Thanh có đến hàng ngàn hàng vạn, cũng là thuận theo lòng người mà thôi. Lòng người có lúc vì lợi ích cá nhân, mà trở nên vô cùng tàn độc.
Nhắc tới chuyện cũ lịch sử, sắc mặt Lý Phục Minh chất chứa bi thương, hiển nhiên nỗi đau lịch sử đã xuyên suốt mấy trăm năm, vẫn khiến cho con người trẻ tuổi kia không thể nào quên lãng. 
Lý Đức Lượng buộc phải bày tỏ thái độ, trách móc tổ tiên mình:
- So với tổ tiên của Lý tiên sinh, tổ tiên của tôi đúng là tham sống sợ chết, khiến tôi cũng cảm thấy hổ thẹn.
Tuy là bất đắc dĩ, nhưng lời Lý Đức Lượng cũng là thật tâm. Nhân phẩm có nhiều cấp bậc, khi nhân phẩm bậc thấp đứng trước nhân phẩm bậc cao, tự dưng sẽ cảm thấy một áp lực vô hình. Thường ngày, Lý Đức Lượng vẫn cho rằng mình là một bậc chính nhân quân tử, nhưng khi đứng trước một người như Lý Phục Minh, lại cảm thấy rõ bản thân thật nhơ nhuốc. Người ta thì kiên trì giữ nếp thanh bần, không chạy theo lợi lộc, còn mình chỉ vì kiếm tiền mà đi buôn ma túy. Hai loại nhân phẩm, một trời một vực.
Lý Phục Minh hiển nhiên không muốn nhắc tới chủ đề này, bèn nói:
- Đinh Quỷ hành động, chắc chắn là có nguyên nhân khác. Khí số của triều Minh đã càng ngày càng xa, cho dù có ở trong lăng mộ triều Minh, hắn cũng tiếp nhận được càng ngày càng ít. Đinh Quỷ là người thuộc về Đại Minh, cùng với việc triều Đại Minh càng ngày càng xa xôi, chắc chắn hắn cũng sẽ càng ngày càng cách biệt nhân gian, cuối cùng sẽ tan biến. Đây là số kiếp.
Lý Đức Lượng cũng thấy rúng động trong lòng, thở dài sườn sượt, nói:
- Thứ gì cũng có luân hồi, không có gì là vĩnh viễn.
Lý Phục Minh nói:
- Đúng!
Lý Đức Lượng nói:
- Thế thì nguyên nhân gì khiến cho Đinh Quỷ xuất hiện?
Lý Phục Minh nói:
- Loại người này không nhiều. Chỉ có người từng gây ra mối uy hiếp mang tính quyết định đối với Đại Minh, mới có thể kinh động đến Đinh Quỷ.
Lý Đức Lượng bèn hạ quyết tâm, nói thẳng:
- Lý tiên sinh, tôi cũng không giấu giếm nữa. Hậu duệ của Vân Nam Vương đang ở chỗ tôi, tiên sinh nói xem, phải chăng chính là người này đã dẫn dụ Đinh Quỷ xuất hiện?
Lý Phục Minh nghe vậy thì sững sờ, rồi hỏi:
- Vân Nam Vương vẫn còn hậu duệ ở Miến Điện sao?
Lý Đức Lượng nhìn phản ứng của Lý Phục Minh, trong lòng có hơi hối hận vì đã trót nói lộ chuyện này, nhưng lời đã nói ra miệng, không thể thu về, liền đáp:
- Đúng!
Lý Phục Minh lại thở dài, nói:
- Triều Thanh đã sụp đổ rồi, còn tính toán hơn thua mà làm gì nữa? Đinh Quỷ không chịu chấp nhận thế giới mới này, thế giới của hắn chỉ có Đại Minh, cho nên hắn không có cảm xúc như người bình thường.
Lý Đức Lượng nói:
- Hậu duệ nhà họ Ngô ở Miến Điện mấy trăm năm, đã chịu khổ không ít. Sau đó còn bị hội Tam Hoàng truy sát, nếm đủ mùi khổ nạn. Thế sự xoay vần, đều là sinh mệnh, hy vọng tiên sinh có thể xuống núi, giúp khuyên giải Đinh Quỷ.
Lý Phục Minh nghĩ ngợi một lúc, rồi đáp:
- Được!
Lý Phục Minh hiển nhiên là một người thẳng thắn, ngay lập tức thu xếp đồ đạc, cùng Lý Đức Lượng đi thẳng tới Mandalay. Thấy Lý Phục Minh trượng nghĩa đến vậy, Lý Đức Lượng cảm thấy đến bản thân mình cũng như muốn thần phục trước Lý Phục Minh. Người như vậy trong thế giới này, thực quá ít ỏi.
Tôi trung tướng giỏi, quả nhiên hiếm có.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Độc Chú (Hạ Long Hà)

Postby bevanng » 01 Oct 2016

8. THIẾU NIÊN ANH HÙNG

Lý Phục Minh tới ở nhà Lý Đức Lượng.
Cao tăng Đại Đức tới nhà họ Lý, nhìn thấy Lý Phục Minh liền chắp tay, nói:
- Thật là kỳ nhân!
Lý Đức Lượng hỏi cao tăng câu này có nghĩa gì. Cao tăng bèn đáp:
- Cốt cách của người này, hai chữ thanh kỳ cũng chưa đủ để hình dung. Giả dụ có được người này, chắc hẳn sẽ làm nên nghiệp lớn.
Lý Đức Lượng nghe mà kinh ngạc, nói:
- Đúng là huyền diệu đến thế ư?
Cao tăng nói:
- Khí của người này là chính khí Thiên Cang, vạn người mới có một, lại thêm người này thanh tao lễ độ, tiến thoái chừng mực, không phải người thường.
Lý Đức Lượng mới tin rằng đó là bậc kỳ tài thực sự. Nhưng bản thân ông lại theo cái nghề này, không thể tiếp nhận được một con người như thế.
Cao tăng lại nói:
- Chẳng trách Đinh Quỷ lại nghe lời anh ta. Mọi vật trên đời, đều tồn tại vật khắc chế. Chính khí Thiên Cang trên người anh ta, vừa hay chính là khắc tinh của Đinh Quỷ.
Lý Đức Lượng nghe mà ngơ ngác, liền hỏi:
- Đại sư, là Đinh Quỷ khâm phục lòng trung nghĩa của gia tộc họ, chứ đâu phải là hàng phục?
Đại sư nói:
- Nói như thí chủ là xét từ phương diện đạo nghĩa. Còn xét từ phương diện khí, khí của nhà họ Lý có thể khắc chế khí của Đinh Quỷ, nên Đinh Quỷ mới phục anh ta.
Lý Đức Lượng nghe mà không hiểu lắm, nhưng cũng không hỏi nữa, chỉ nhờ đại sư sắp xếp mọi việc.
Đại sư nói, gặp được người này, ông đã thấy yên tâm rồi. Việc cần làm bây giờ là khi Đinh Quỷ tới, hãy tìm cách cho hắn biết người nhà họ Lý đang ở đây, để hắn tạm thời đừng động thủ, sau đó nhờ Lý Phục Minh ra mặt khuyên hắn quay về, như vậy là xong.
Đại sư nhìn trước ngó sau, rồi hỏi Lý Phục Minh:
- Quý tiên tổ giỗ vào ngày nào?
Lý Phục Minh đáp:
- Ngày 21 tháng 7.
Đại sư bấm tay tính toán, rồi nói:
- Còn nửa tháng nữa. Nếu bần tăng không tính nhầm, Đinh Quỷ có lẽ sẽ tới nơi này trước, sau khi giết người xong, sẽ đến nhà thí chủ bái tế lệnh tổ.
Lý Đức Lượng bèn nói:
- Chắc là không phải chứ? Mấy ngày trước hắn vừa mới tới Mandalay, giả dụ đúng là như lời tiên sinh nói, hắn sống trong Minh lăng, canh giữ linh hồn cho hoàng đế triều Minh, thế thì hắn trở về rồi quay lại, sẽ phải mất một thời gian rất dài.
Đại sư nói:
- Với dị nhân, không thể nhìn nhận bằng con mắt của người bình thường. Đinh Quỷ tinh thông huyền môn kỳ thuật, nếu hắn muốn tới, tuyệt đối không đi đường của dương gian. Có lẽ hắn sẽ xuyên qua kết giới, đi đường của âm gian. Âm gian là nơi không có khái niệm không gian, nên hắn muốn tới đây, có lẽ chỉ trong chớp mắt.
Lý Phục Minh xác nhận:
- Lời đại sư nói rất đúng. Đinh Quỷ từng đưa cho tôi một lá quỷ phù, dặn rằng nếu tôi có việc cần tìm hắn, thì nửa đêm cầm quỷ phù, hướng vào chòm sao Bắc Đẩu niệm chú là được, hắn sẽ tới trong thời gian nửa tuần hương.
Lý Đức Lượng nghe vậy thì mừng rỡ, nói:
- Thế thì đêm nay hãy lấy quỷ phù ra gọi hắn tới nói chuyện là được rồi đúng không?
Lý Phục Minh ôm quyền nói:
- Đáng tiếc là tôi chẳng bao giờ dùng đến, nên đã bảo hắn cầm về rồi.
Lý Đức Lượng hỏi:
- Lý tiên sinh nói như vậy, nghĩa là đã từng gặp Đinh Quỷ, sao lại nói là không quen biết?
Lý Phục Minh đáp:
- Đại ca có lẽ không tin, lần nào tôi gặp Đinh Quỷ cũng trong cảnh mờ mờ ảo ảo, chỉ có thể trò chuyện, chứ chúng tôi không hề gặp mặt.
Lý Đức Lượng có vẻ không tin. Cao tăng đại đức bèn nói:
- Đó là bởi vì hắn sợ làm tổn thương tới thí chủ, sát khí trên người hắn cực nặng. Cho dù hắn không muốn làm thí chủ bị tổn thương, nhưng trên thực tế, vẫn gây ảnh hưởng tới thí chủ. Thế nhưng lần này, thí chủ vẫn cần phải lộ diện, nói rõ ràng với hắn.
Lý Phục Minh nói:
- Hằng năm khi hắn tới, đều rất âm thầm, nhưng súc vật trong thôn đều hoảng sợ bất an, nên tôi liền chuyển nhà tới sống ở nơi cách khá xa thôn xóm.
Cao tăng nói:
- Có rất nhiều động vật có thể tương thông với khí âm, nên có thể cảm nhận được sát khí.
Cao tăng nói với Lý Đức Lượng:
- Mấy ngày này, thí chủ hãy dựng một chỗ ở đơn giản ở phương Càn, tới ngày giỗ của Lý tướng quân, hãy để cho Lý thí chủ vào ở trong đó. Khi Đinh Quỷ tiến vào, sẽ cảm nhận được chính khí Thiên Cang của Lý tiên sinh mà không dám tùy tiện hành động. Tới lúc đó, sẽ phải cậy nhờ vào Lý tiên sinh.
Lý Phục Minh lo ngại hỏi:
- Nhưng tôi phải làm thế nào mới thuyết phục được Đinh Quỷ? Đinh Quỷ là người cực kỳ trung nghĩa, không dễ dàng lay chuyển được hắn đâu.
Cao tăng đáp:
- Việc này thực ra không khó. Thí chủ chỉ cần nói rõ thân phận, hắn sẽ nghe theo lệnh của thí chủ. Đây là thói quen suốt mấy trăm năm, hắn sẽ không làm trái. Tuy nhiên, có một việc cần phải chú ý. Nếu làm không tốt, thì tất cả sẽ thành ra công cốc.
Lý Đức Lượng hỏi:
- Là việc gì?
Cao tăng nói:
- Khí cực âm trên người Đinh Quỷ có sức hấp dẫn cực lớn đối với những vật độc ưa thích khí âm, ví dụ như rắn, rết. Những động vật này hút được khí âm trên người hắn, sẽ lập tức biến hóa, vùn vụt lớn lên gấp cả trăm lần hình dạng ban đầu, như vậy sẽ khiến Đinh Quỷ cảm thấy nguy hiểm. Nếu hắn nổi giận sẽ vô cùng khủng khiếp. Cho nên, cần phải bắt hết những động vật thích khí âm trong phạm vi mười dặm, không được để cho chúng xuất hiện trong thời gian này.
Lý Đức Lượng nghe vậy thì hãi hùng, nói:
- Việc này sao có thể làm nổi? Ai có được bản lĩnh lớn đến thế?.
Cao tăng nói:
- Việc này không cần thí chủ phải bận tâm, chỉ cần sáng ngày hôm đó, thí chủ chuẩn bị sẵn cho bần tăng mười trượng vải đỏ là được.
Lý Đức Lượng nói:
- Tôi nhớ rồi!
Cao tăng lại dặn:
- Còn cần phải tăng cường nhân lực, bảo vệ thật chu đáo. Người của hội Tam Hoàng đã có thể gọi Đinh Quỷ tới, chắc chắn cũng biết được những chuyện này, bần tăng chỉ sợ bọn chúng lại tới quấy rối, phá hỏng việc của ta.
Lý Đức Lượng nói:
- Việc này xin đại sư yên tâm, hội Tam Hoàng có ghê gớm tới đâu, tạm thời cũng không dám tới nhà họ Lý nữa.

Ngày 21 tháng 7, nhà họ Lý vô cùng náo nhiệt.
Đầu tiên, dưới sự chủ trì của cao tăng Đại Đức, mọi người thắp hương dập đầu trước bài vị tướng quân Lý Định Quốc, cúng tế anh linh tướng quân. Vào lúc chính ngọ, cao tăng Đại Đức sai người trải vải đỏ xuống nền nhà, bắt đầu tụng kinh làm phép, bắt nhốt muông thú côn trùng.
Đến tối, mọi người làm theo lời căn dặn của cao tăng, ai vào chỗ nấy. Lý Đức Lượng sai thuộc hạ canh gác mọi ngả đường, ngăn chặn không cho hội Tam Hoàng tới làm loạn. Ngô Cương cùng Lý Đức Lượng ẩn trong một gian phòng có thể quan sát toàn bộ sân nhà, căng thẳng chờ đợi đến giờ.
Nửa đêm, sắc trời mỗi lúc càng thêm tối thẫm, bầu trời Mandalay đang trăng sáng sao thưa, bỗng chuyển sang âm u mờ mịt. Trên trời không có mây đen, nhưng mặt trăng dường như đã hòa lẫn với màu trời, không còn sáng nữa. Những đường phố vốn đang sáng tỏ, giờ mỗi lúc một thêm tối tăm, cuối cùng không còn nhìn rõ thứ gì nữa.
Nhà cửa đường phố, tất cả những nơi mắt thường có thể nhìn tới, đều đã biến thành một bức tranh thủy mặc lạnh lẽo, mung lung chập chờn. Trên mặt sân rộng của nhà họ Lý, dường như đang chầm chậm trồi lên một lớp gì quánh đặc như hồ, khí đất không động, gió thổi không tan. Thứ đó tỏa ra hơi lạnh ngùn ngụt, Ngô Cương và Lý Đức Lượng ở trong căn phòng trên tầng hai cũng cảm giác thấy luồng khí lạnh tựa hồ như có thể đông cứng toàn bộ kia đang chầm chậm dâng lên.
Cảm giác của Ngô Cương lúc này, không phải là khiếp sợ, mà là cảm thấy một sức uy hiếp không thể nào chạy thoát. Con người khi đứng trước thứ sức mạnh này, đã không còn khả năng sợ hãi nữa. Toàn bộ cơ thể và tinh thần của anh đã bị khí thế này thống trị, không còn khả năng tư duy của chính mình.
Khí âm từ từ dâng lên, dường như đã bao trùm toàn bộ khu nhà. Ngô Cương không nhìn thấy dấu hiệu nào chứng tỏ Đinh Quỷ đã nhìn thấy Lý Phục Minh, hắn dường như nhất quyết muốn lôi tuột cả khu nhà họ Lý xuống âm phủ. Trong khi Lý Phục Minh phía bên kia lại không hề có động tĩnh gì. Ngô Cương thầm sốt ruột. Nếu Đinh Quỷ ra tay, chắc chắn chỉ trong chớp mắt, tuyệt đối không để cho Lý Phục Minh có thời gian xin hắn lưu tình. Anh biết mục tiêu của Đinh Quỷ chính là mình. Còn anh, dường như không cần Đinh Quỷ động thủ, bản thân đã sắp không trụ nổi nữa rồi.
Ngô Cương đưa mắt nhìn Lý Đức Lượng. Lý Đức Lượng dù sao cũng từng trải hơn, chỉ ngồi bất động nhìn chăm chăm xuống sân.
Lý Phục Minh cuối cùng cũng đã lên tiếng, hét lớn:
- Lý Phục Minh ở đây, Đinh Quỷ tới làm gì?
Giọng Lý Phục Minh sang sảng, Ngô Cương nhìn thấy luồng khí âm hình như rùng lên một cái, chớp mắt đã biến mất tăm, đường phố và nhà cửa lại trở nên sáng sủa, sân nhà cũng quay trở lại với trạng thái ban đầu.
Đứng trong sân là một thiếu niên trông dáng vẻ chẳng khác gì người bình thường, cất giọng trong trẻo:
- Dám hỏi là Lý công tử ư?
Lý Phục Minh mở cửa bước ra ngoài, Ngô Cương nhìn thấy thiếu niên kia lập tức khom người vái Lý Phục Minh. Lý Phục Minh bèn đưa tay ra đỡ thiếu niên dậy.
Ở một gian phòng khác, Lý Đức Lượng đã chuẩn bị thức ăn đầy đủ. Lý Phục Minh kéo tay thiếu niên, đi vào trong phòng. Trong phòng đèn nến sáng trưng, khi thiếu niên bước vào phòng, Ngô Cương thấy thiếu niên khẽ xoay nghiêng, Ngô Cương liền thấy rõ dáng vẻ của người này, không ngờ lại tuấn tú phi phàm, hoàn toàn không phải bộ dạng xấu xí hung ác trong tưởng tượng của anh.
Thực không thể nào hình dung nổi, một con người như thế, lại có thể tay không đóng đinh vào đỉnh đầu người ta, bắt giữ hồn phách, chỉ huy âm binh, đúng là không thể trông mặt mà bắt hình dong cho được.
Lý Phục Minh và Đinh Quỷ vào phòng một lúc, Lý Phục Minh bèn gọi Lý Đức Lượng xuống. Lý Đức Lượng xốc lại tinh thần, bước xuống dưới nhà. Khi bước tới cửa phòng, hai chân ông lại đột nhiên run rẩy. Ông thầm nhủ, sợ cái gì, chẳng qua là một gã thợ đóng quan tài thôi mà. Thế nhưng, cho dù ông có tự động viên bản thân thế nào, khi đi đến trước cửa, lại vẫn chần chừ không dám bước vào trong.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Độc Chú (Hạ Long Hà)

Postby bevanng » 01 Oct 2016

9. ĐỨA CON CÔI CỦA ĐẠI MINH

Lý Đức Lượng vào phòng, thấy người thiếu niên anh tuấn kia đang đờ đẫn nhìn xuống mặt bàn, dường như trên bàn có thứ gì đó đang níu chặt lấy ánh nhìn. Ánh mắt của thiếu niên rất đỗi đau thương, đau thương tới mức gần như tuyệt vọng.
Thiếu niên mặt như thoa phấn, mày kiếm mắt phượng, mủi thẳng miệng vuông, nhìn tướng mạo quả thực vạn người mới có một. Lý Đức Lượng âm thầm khen ngợi, khí tượng của Đại Minh quả thực không phải tầm thường.
Nhìn thấy Lý Đức Lượng bước vào, Lý Phục Minh bèn đứng lên giới thiệu ông với thiếu niên. Thiếu niên ôm quyền hành lễ với Lý Đức Lượng, nói:
- Xin chào đại ca.
Lý Đức Lượng quýnh quáng lập tức đáp lễ, nói:
- Lý Đức Lượng không dám!
Lý Phục Minh giới thiệu, thiếu niên là đồ đệ của Đinh Quỷ, nhưng không nói tên họ.
Lý Đức Lượng ngồi xuống. Thiếu niên thở dài, nói:
- Thực ra, sư phụ cũng biết, Đại Minh đã như nước Hoàng Hà cuồn cuộn, một đi không thể quay về. Tiếc rằng, người sinh ra vì Đại Minh, chết đi cũng phải vì Đại Minh. Không phải là sư phụ chấp mê bất ngộ, mà vì coi trọng đạo đức, đạo nghĩa. Khi Đại Minh mới diệt vong, sư phụ đi khắp nơi tìm kiếm khí của Đại Minh còn rơi rớt, tập hợp nuôi dưỡng, ý muốn phục hồi. Kỳ thực, người cũng hiểu rõ, với khí thế của Đại Thanh, việc khôi phục triều Minh là hoàn toàn không thể thành công. Nhưng đạo lý và đạo nghĩa, rất nhiều khi lại trái ngược nhau. Vì đạo nghĩa, cho dù có phải làm thiêu thân lao vào lửa, sư phụ cũng nhất quyết theo đuổi tới cùng. Vì thế, khi hội Tam Hoàng mới hình thành, sư phụ đã ba lần bị vây khốn, hai lần xác thân bị sát hại.
Lý Phục Minh kinh ngạc hỏi:
- Hội Tam Hoàng lẽ nào là do Đinh Quỷ lập ra?
Thiếu niên lắc đầu, nói:
- Hội Tam Hoàng không có người sáng lập, ban đầu nó là một tổ chức lỏng lẻo trong dân gian. Thế nhưng, sư phụ đã âm thầm giúp đỡ rất nhiều, nếu không, một tổ chức như thế sao có thể là địch thủ của triều Thanh?
Lý Đức Lượng càng kinh ngạc hơn:
- Còn có người gây tổn thương đến Đinh Quỷ được ư?
Sắc mặt của thiếu niên càng trở nên nặng nề, nói:
- Đương nhiên, vạn vật trong vũ trụ, tương sinh tương khắc, phàm vật gì sinh ra, tất có một vật khắc chế được nó. Muốn cho vận nước cường thịnh, thì tất cả mọi mặt đều phải sắp đặt đúng cách. Đại Thanh không những dương khí cường thịnh, tướng mạnh binh hùng, mà ma pháp vu thuật lại càng lợi hại. Pháp sư Saman của Đại Thanh có thể thông âm dương, đuổi ác quỷ. Đáng tiếc là đạo sĩ Đạo gia triều Minh đã suy yếu, nếu không, Đại Thanh cũng không thể trụ lại ở Trung Nguyên. Sư phụ chính là bị pháp sư Saman giết chết thân xác hai lần.
Lý Đức Lượng âm thầm kinh ngạc, nói:
- Đại sư thực là trung nghĩa!
Thiếu niên nói:
- Sự việc trên thế gian, phải cho âm dương điều hòa, tiến thoái hợp lý, mới có thể giành thắng lợi. Ví dụ như Lý Tự Thành vốn là một viên mãnh tướng, tiếc rằng chỉ có tài làm tướng mà không có tài làm chủ soái, khí dương quá thịnh, khí âm quá yếu, âm dương mất cân bằng, mới dẫn tới thất bại. Sư phụ từng tìm người chỉ bảo cho Lý Tự Thành, tiếc rằng ông ta không biết nhìn người, đã đuổi người đó đi. Sư phụ biết đạo lý này, vì thế cũng biết hội Tam Hoàng chắc chắn sẽ thất bại.
Lúc này Lý Phục Minh lấy làm quái lạ, hỏi:
- Tại sao ông ta biết?
Thiếu niên đáp:
- Hội Tam Hoàng âm khí quá nặng, dương khí không đủ. Âm dương mất cân bằng, nên việc lớn khó thành.
Lý Đức Lượng nghĩ tới một chuyện, bèn hỏi:
- Vậy đại sư có dự tính gì?
Thiếu niên cười gượng, rồi nói:
- Thực ra, tôi biết ông đang nghĩ gì. Suy nghĩ thực sự của ông là, nếu đã như vậy, thì sự tồn tại của chúng tôi cũng chẳng còn ý nghĩa. Sự thực cũng chính là như vậy. Sư phụ và Đại Minh là một âm một dương. Đại Minh đã mất, Đại Thanh cũng đã sụp đổ, dương khí của Đại Thanh tận rồi, âm khí lại trở nên cực thịnh. Âm dương tương khắc, âm khí của Đại Minh vì thế mà cũng sắp tận. Tôi và sư phụ chẳng qua chỉ muốn níu giữ một chút âm khí cuối cùng của Đại Minh mà thôi. Đợi đến khi âm khí tiêu tán hết, chúng tôi cũng sẽ công đức viên mãn.
Thiếu niên tuy nói về công đức đạo nghĩa, song lời lẽ lại hết sức thê lương. Lý Đức Lượng bèn hỏi thiếu niên:
- Tại hạ có một việc không hiểu, ngài tuổi trẻ anh tuấn, khí độ phi phàm, đã là tận nhân tận nghĩa, tại sao không bỏ tối theo sáng, tìm lối đi khác?
Thiếu niên lắc đầu, nói:
- Đại ca nhầm rối. Người chưa chết, xác chưa lạnh, làm sao có thể coi là đã tận nhân tận nghĩa? Ngoài miệng nói đã tận nhân tận nghĩa, trong bụng lại nghĩ đến chuyện tìm đường sống tạm, là hành vi mất nước. Vì thế, tại hạ thà tận nghĩa cho đến chết, cùng sư phụ làm thần dân cuối cùng của Đại Minh, kiên trì tới cuối cùng.
Lý Phục Minh hổ thẹn nói:
- Nói ra tôi cũng là hậu duệ của tướng quân nhà Minh, hơn nữa còn lớn hơn người anh em vài tuổi, nhưng so với người anh em, tôi lại sống không hề quang minh lỗi lạc, thực đáng xấu hổ.
Thiếu niên nói:
- Dòng mạch sót lại của Đại Minh, mấy trăm năm nay đã không còn nhiều nữa. Là người bảo vệ dòng mạch triều Minh, chúng tôi cũng chỉ có một bầu nhiệt huyết mà thôi. Việc tôi và sư phụ có thể làm được, chẳng qua chỉ là canh giữ lăng mộ Đại Minh, gìn giữ chút linh khí Đại Minh còn sót lại. Kỳ thực, chỉ là tận tâm thôi, chứ chẳng ích gì.
Lý Đức Lượng không ngờ thiếu niên có thể nói nhiều chuyện với họ đến thế. Thế nhưng, nói nhiều như vậy, vẫn có một chuyện chưa đả động tới. Đó chính là nhiệm vụ ngày hôm nay, không biết thiếu niên sẽ xử lý thế nào.
Lý Đức Lượng khẽ huých cùi chỏ vào Lý Phục Minh, ý muốn giục Lý Phục Minh thử hỏi thiếu niên xem, đối với nhà họ Ngô, họ sẽ xử lý thế nào.
Không ngờ thiếu niên rất đỗi tinh tường, đã nhìn thấy động tác kín đáo của Lý Đức Lượng, bèn nói:
- Đại ca có lời xin cứ nói, tôi đã không giấu giếm điều gì, đại ca sao còn nghi hoặc?
Lý Phục Minh nói:
- Ý của đại ca tôi biết. Người ngay không nói lời mập mờ, dòng dõi họ Ngô vẫn còn có người sống sót, không biết người anh em định xử lý thế nào?
Thiếu niên đáp:
- Tôi hôm nay tới đây cũng chính là vì việc này. Không giấu gì hai vị, trước khi tới đây, sư phụ đã hạ lệnh giết chết không tha. Tôi đã khuyên sư phụ đừng giết người vô tội. Những việc chúng tôi làm, tuy không trái ý trời, nhưng lại trái thời thế. Xã hội không ngừng phát triển, chúng tôi lại cứ giữ khư khư chút hơi tàn của nhà Minh, là đã đứng ngoài xã hội. Bây giờ, lại phải giết người vô tội, không những không có lợi gì cho Đại Minh, mà đối với bản thân cũng chẳng ích gì. Khi Đại Minh hưng thịnh, chúng tôi xây dựng long mạch cho Đại Minh; Đại Minh mất rồi, chúng tôi cũng đã tận lực vãn hồi, cũng từng giết chóc vô số. Bây giờ đến Đại Thanh cũng không còn nữa, mà vẫn giết người, sẽ là làm trái ý trời. Vì thế, sư phụ bảo tôi tự xử trí lấy.
Lý Đức Lượng nghe tới đây, về cơ bản đã yên tâm, nhưng thiếu niên vẫn chưa nói ra cách xử trí của mình. Ông ta vẫn cảm thấy, thiếu niên tuy thông tình đạt lý, nhưng e rằng sẽ không bỏ qua cho họ dễ dàng như vậy.
Quả nhiên, giọng điệu của thiếu niên bắt đầu có phần giận dữ:
- Thực ra việc Ngô Vương hàng Thanh, sư phụ cũng đồng ý. Thời đó, sư phụ thường xuyên tới chỗ quân đội của Ngô Vương. Với khí thế khi ấy, Đại Minh đã không còn hy vọng thu phục nữa, hàng Thanh cũng là kế tạm thời. Thế nhưng sau khi đầu hàng, hắn lại đắm chìm trong vinh hoa phú quý, không còn chí tiến thủ. Lại nữa, để lấy lòng Đại Thanh, sau khi đón hoàng đế Vĩnh Lịch từ Miến Điện về, lại không cho chúng tôi tiếp cận, xây dựng vô số chùa thờ Phật Tổ ở Vân Nam, kỳ thực là để ngăn cản sư phụ tiến vào Vân Nam. Lại còn đón pháp sư từ triều Thanh tới, trừ bỏ khí tượng đế vương trên người hoàng đế Vĩnh Lịch, nhốt vào trong chùa. Với những hành vi đó, hắn chính là kẻ đại nghịch cướp nước. Vì vậy, họ Ngô bại trận, là do hắn tự làm tự chịu. Nếu khi đó hắn biết nghe theo lời khuyên can của sư phụ tôi, vận dụng di mạch của Đại Minh, thì âm dương đều hưng, sự nghiệp phục Minh đã có hy vọng. Đáng tiếc, đáng tiếc thay, Ngô Tam Quế hàng Thanh tuy là giả, nhưng không phục Minh lại là thật. Bởi vậy, toàn bộ gia tộc bị tru di, cũng là số mệnh. Có điều, những người còn sống sót của nhà họ Ngô, sau khi tới Miến Điện, lại bị binh tướng cũ của Đại Minh truy sát, hoảng hốt chui nhủi còn hơn chó mất chủ, cũng là thê thảm tới cùng cực. Họa của nhà họ Ngô là vì không thuận theo thời thế, bị quả báo như vậy, cũng là đáng đời. Nhưng việc gì cũng có mức độ, hôm nay tôi sẽ để lại cho hậu duệ nhà họ Ngô một mạng, cũng là ý trời, tuy nhiên…
Thiếu niên nói tới đây, dừng lại một lát, mới tiếp:
- Tôi muốn gặp mặt hậu duệ của nhà họ Ngô, xin đại ca cho phép.
Lý Đức Lượng vẫn có phần lo lắng, đưa mắt nhìn Lý Phục Minh. Lý Phục Minh nhìn sang thiếu niên, thiếu niên cười cười, nói:
- Nếu tôi muốn giết người, việc gì phải thế này?
Lý Đức Lượng ngẫm nghĩ thấy cũng phải, người ta muốn giết người, còn dễ hơn bóp chết một con kiến, mình không giao Ngô Cương ra, người ta cũng sẽ tìm được. Huống hồ xem tình thế lúc này, thiếu niên hẳn sẽ không ra tay giết chóc.
Ồng lên gác, gọi Ngô Cương xuống.
Thiếu niên nhìn thấy Ngô Cương, lặng đi một thoáng, rồi nói:
- Quả nhiên có chút khí phách. - Hồi lâu sau, lại nói tiếp - Đáng tiếc sinh không gặp thời.
Thiếu niên nhìn Ngô Cương từ xa, rồi nói:
- Tôi có thể tha cho hắn, nhưng có một việc, các vị phải nhận lời với tôi.
Lý Đức Lượng thầm nhủ, cuối cùng đã ra điều kiện rối đấy.
Thiếu niên nói:
- Nhà họ Ngô có một miếng ngọc bội, là quốc bảo của Đại Minh. Năm xưa Đại Minh ủy thác trọng trách quốc gia, đã tặng miếng ngọc cho Ngô Tam Quế. Sau đó Ngô Tam Quế dùng ngọc đó khắc thành bức tượng Phật, lại mời cao tăng khai quang trong chín chín tám mươi mốt ngày. Do đó, miếng ngọc đã trở thành bùa hộ thân của Ngô Tam Quế, bảo vệ cho hắn được sống hết thọ chết yên lành. Miếng ngọc này đối với nhà họ Ngô đã không còn ý nghĩa, nhưng lại là sự tiếc nuối của sư phụ tôi. Tôi từng nhiều lần tìm kiếm, đều không có kết quả, cũng là duyên phận chưa tới. Nhưng miếng ngọc này chắc chắn còn ở trong nhà họ Ngô, tôi muốn cậu tìm được nó, sáu mươi năm sau, nhất định có người tới lấy.
Ngô Cương kinh ngạc há hốc miệng, hỏi:
- Sáu mươi năm sau? Lúc đó tôi có còn sống hay không?
Thiếu niên nói:
- Việc này cậu không cần lo lắng, chỉ cần cậu đồng ý, và ghi nhớ lời hứa này, nếu như nuốt lời, sẽ bị trời cao trừng phạt.
Ngô Cương liếc nhìn Lý Đức Lượng và Lý Phục Minh, lo lắng hỏi:
- Tôi có thể tìm thấy miếng ngọc đó không?
Thiếu niên nói: 
- Đây là duyên phận của cậu, chắc chắn có thể tìm được, hơn nữa, nhà họ Ngô có thể hưng thịnh là nhờ tay cậu. Giữ lại miếng ngọc này, ngược lại sẽ thành tai họa.
Ngô Cương nhìn thiếu niên, rồi nói:
- Được, tôi xin nghe theo.
Thiếu niên thở dài, nói:
- Những việc nên làm, tôi đều đã làm rồi, bây giờ, tôi yêu cầu hai vị một việc. - Nói xong, thiếu niên quay sang vái Lý Phục Minh một vái dài, nói - Lần này gặp được các vị, là phúc phận, cũng là duyên phận của tôi. Toàn tộc Đinh Quỷ có một sứ mệnh, sứ mệnh đó chính là mạng sống của chúng tôi. Khi sứ mệnh của tôi đã kết thúc, mạng sống trên dương thế cũng sắp tận, phải đi sang một thế giới khác. Một lần làm người, kỳ thực cũng có chút lưu luyến đối với dương thế. Có câu con người sắp chết, lời nói thiện lành. Những điều tại hạ nói hôm nay, mong các vị hãy ghi nhớ cho.
Lý Phục Minh nói:
- Chúng tôi xin ghi nhớ.
Sắc mặt của thiếu niên bỗng đầy vẻ thê lương:
- Phải làm phiền Phục Minh huynh và các vị, sau khi tôi ngồi mà hóa, không cần quan tài, không cần nghi lễ, nhất thiết phải bảo mật, tới trưa ngày kia, đem tôi chôn ở mộ địa của tướng sĩ Đại Minh. Tôi đã xây một gian nhà đá, cứ mang tôi đặt ngồi vào đó là được. Tôi ở âm gian vẫn còn nhiệm vụ, nơi này có di dân của Đại Minh, tôi sẽ làm sứ giả canh giữ linh hồn, hô ứng với sư phụ ở nơi xa. Làm phiền các vị! 
Rồi không đợi đám người Lý Phục Minh kịp lên tiếng, thiếu niên bèn chỉnh đốn y phục, rồi khoanh chân ngồi xếp bằng trên mặt đất, sắc mặt dần dần trở nên nghiêm nghị. Một lúc sau, Lý Đức Lượng đưa tay đặt dưới mủi thiếu niên xem thử, đã không thấy hơi thở nữa.
Lý Đức Lượng kinh hãi nhìn sang Lý Phục Minh, nói:
- Chết rổi!
Lý Phục Minh vái thiếu niên liền ba vái.
Lý Đức Lượng kêu lên:
- Phải rồi, chúng ta vẫn chưa kịp hỏi tên tuổi.
Lý Phục Minh nói:
- Trước đây đã nói với tôi rồi.
Lý Đức Lượng hỏi:
- Tên gì?
Lý Phục Minh đáp:
- Con côi của Đại Minh!
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Độc Chú (Hạ Long Hà)

Postby bevanng » 01 Oct 2016

10. DI DÂN

Để kịp tới nơi vào trưa hôm sau, Lý Đức Lượng và Lý Phục Minh bàn bạc xong xuôi, ngay đêm hôm đó đã thuê một cỗ xe ngựa, chuyển di thể của thiếu niên vào trong xe, đi thông đêm.
Khi đi ra khỏi thành phố, đã là nửa khuya, thành phố Mandalay lặng phắc như tờ. Trên đường không có người qua lại, không có xe ngựa, yên tĩnh hệt như một thành phố không người. Tiếng vó ngựa lóc cóc và tiếng bánh xe lịch xịch trở nên vang vọng lạ thường, ba cỗ xe ngựa phóng vun vút trên đường phố Mandalay, dường như đang đi thực thi một sứ mệnh bí mật nào đó.
Lúc sắp ra khỏi thành, Ngô Cương tinh mắt phát hiện ra bên đường dường như có bóng người đang quỳ lom khom.
Anh bèn nói lại với Lý Đức Lượng, Lý Đức Lượng không tin, nghĩ thầm nửa đêm khuya khoắt, còn quỳ ở đó làm gì? Vén rèm che lên xem, quả nhiên thấy có người đang quỳ ở bên đường thực, hơn nữa, hình như không chỉ một người, mà hai bên đường có hai hàng người đang quỳ, nhìn tiếp về phía trước, dằng dặc không thấy tận cùng.
Lý Đức Lượng vô cùng kinh ngạc, bảo Lý Phục Minh ra nhìn, Lý Phục Minh cất giọng cảm thán:
- Hội Tam Hoàng đúng là có cao nhân.
Lý Đức Lượng hỏi lại:
- Là hội Tam Hoàng?
Lý Phục Minh nói:
- Đúng vậy!
Lý Đức Lượng vô cùng kinh ngạc, nói với phu xe:
- Sư phụ, đi nhanh lên!
Lý Phục Minh nói:
- Có tôi ở đây, xin hãy yên tâm. - Rồi nói với phu xe - Sư phụ, dừng xe!
Phu xe bèn dừng lại. Xe của họ đi đầu tiên, họ vừa dừng lại, xe phía sau cũng dừng theo.
Lý Phục Minh xuống xe, hỏi:
- Thủ lĩnh ở đâu?
Có người đứng dậy, bước tới, chào Lý Phục Minh, nói:
- Đường chủ đường khẩu Tây Nam hội Tam Hoàng Trương Phong xin chào Lý công tử.
Lý Phục Minh vội đáp lễ, nói:
- Không ngờ đường chủ đại ca cũng ở đây, tiểu đệ hành lễ không chu toàn, kính xin lượng thứ.
Trương Phong nói:
- Đều là người cũ của Đại Minh, hà tất phải khách khí. Chúng ta hôm nay ở đây cung kính tiễn đưa quỷ bộc (1) của Đại Minh, mong được công tử tác thành.
(1) Có nghĩa là người nô bộc ma quỷ.
Lý Phục Minh nói:
- Đường chủ trung nghĩa, Phục Minh đương nhiên đồng ý. Chỉ có điều thời gian cấp bách, dám mong đường chủ hãy đơn giản cho, càng nhanh càng tốt.
Trương Phong khom người cảm tạ, rồi dẫn người tới trước cỗ xe ngựa chở thiếu niên. Có người trải thảm ở giữa đường, khiêng thiếu niên ra, đặt xuống đó.
Lý Phục Minh bảo phu xe đánh xe sang một bên, thấy bọn họ hành lễ ba quỳ chín lạy trước thiếu niên.
Lý Đức Lượng quan sát kỹ lưỡng, thấy đường chủ kia không phải là tên thủ lĩnh dẫn người tấn công ông đêm hôm xưa, trong lòng cũng thấy yên tâm chút ít. Những người đang quỳ ở hai bên đường đều tập trung vào giữa, dưới sự chủ trì của hương chủ, cung kính dập đầu bái lạy.
Nhìn cả đoàn người đông nghịt quỳ ở trên đường, liên tục khấu đầu trước một người đã chết, Ngô Cương cảm thấy có một thứ sức mạnh thần bí đang rung động tâm can anh.
Đại Minh đã mất nước hơn ba trăm năm, vậy mà vẫn còn biết bao người coi Đại Minh là lãnh tụ tinh thần, quả thực khiến anh không thể nào ngờ được.
Nghi thức hoàn tất, hương chủ dẫn người cung kính đặt thiếu niên vào trong xe, rồi đám Trương Phong lại quỳ thành hai hàng, hương chủ hô lớn:
- Cung tiễn quỷ bộc!
Lý Phục Minh từ biệt đám Trương Phong, lên xe, lại phóng như bay.
Vừa đi, Lý Đức Lượng vừa nhìn hai bên đường, bức tường người vẫn kéo dài dằng dặc.
Ồng hỏi Lý Phục Minh:
- Hội Tam Hoàng đông đảo đến thế ư?
Lý Phục Minh đáp:
- Đâu chỉ có thế. Đường khẩu Tây Nam của hội Tam Hoàng không dưới mười vạn người. Nhưng thành viên cốt cán cũng chỉ hơn một vạn. Người ngoài chỉ biết hội Tam Hoàng có phân hội ở Hồng Kông và Mỹ, thực ra, hội Tam Hoàng ở Miến Điện có thế lực lớn nhất. Miến Điện có rất nhiều di dân của triều Minh, trong số những di dân này, phần nhiều là binh tướng triều Minh theo hoàng đế Vĩnh Lịch tới Miến Điện, vì vậy trong phong trào phản Thanh phục Minh xưa kia, hội Tam Hoàng ở Miến Điện có vai trò vô cùng to lớn. Dưới triều Thanh, hội Tam Hoàng ở Trung Quốc bị triều Thanh tàn sát, Miến Điện là hậu phương lớn của họ. Triều Thanh nhiều lần phái quân tới Miến Điện tiêu diệt hội Tam Hoàng, đều thất bại thảm hại quay về. Sau đó bọn họ không còn dám tới nữa. Tuy hội Tam Hoàng hiện nay đã không còn khí thế và sức mạnh như năm xưa, nhưng vẫn là tổ chức có ảnh hưởng lớn nhất trong cộng đồng người Hoa.
Lý Đức Lượng hỏi:
- Lý công tử, xin đừng trách tôi đường đột, tôi còn muốn hỏi một câu, Trương Phong tại sao lại quen biết công tử?
Lý Phục Minh khẽ cười:
- Thủ lĩnh của hội Tam Hoàng tại Miến Điện, phần lớn là hậu duệ của tướng lĩnh triều Minh. Tổ tiên của Trương đường chủ cũng là đại tướng dưới quyền tổ tiên tôi. Nhà họ Trương đã thống lĩnh đường khẩu Tây Nam hội Tam Hoàng hơn hai trăm năm nay, nhà họ Lý chúng tôi với nhà họ Trương nhiều đời giao hảo, việc này có gì quái lạ?
Lý Đức Lượng nói:
- Đa tạ công tử đã nói thực. Tôi và hội Tam Hoàng từng có khúc mắc, dám mong công tử chỉ giáo.
Rồi Lý Đức Lượng kể lại một lượt toàn bộ chuyện xích mích với hội Tam Hoàng.
Lý Phục Minh ngẫm nghĩ rồi nói:
- Đám người đó không phải thuộc hạ của Trương Phong. Với thế lực của Trương Phong, muốn đối phó với các vị, các vị căn bản không có khả năng phản kháng. Dù sao cũng là bang hội lâu đời đã mấy trăm năm, hội Tam Hoàng tuyệt đối xứng đáng được coi là tàng long ngọa hổ. Đám người mà anh vừa kể, có lẽ là một tổ chức khác. Từ sau khi nhà Thanh sụp đổ, hội Tam Hoàng đã chia làm rất nhiều bang phái, ngoài mặt đều phục tùng Trương Phong, nhưng kỳ thực là bằng mặt không bằng lòng, Trương Phong cũng không cai quản nổi.
Lý Đức Lượng tuy cũng biết đôi điều về hội Tam Hoàng, nhưng đối với những việc chi tiết trong nội bộ thế này, lại không thật rõ. Nghe Lý Phục Minh nói, giờ ông đã hiểu. Hôm nay ông mới biết, hội Tam Hoàng ở Miến Điện lại lớn mạnh đến vậy, trước đây ông đã coi thường họ, quả thực là có mắt không thấy Thái Sơn.
Ông lại nhìn hàng người đang quỳ ở hai bên đường, thấy vẫn kéo dài bất tận.
Ông tính toán sơ qua, rồi nói:
- Đây hẳn phải trên vạn người?
Lý Phục Minh nói:
- Chí ít cũng phải hai vạn.
Hai vạn người, xuất hiện đưa tiễn một thiếu niên, nghĩ cũng thật là khí thế. Cái xã hội này thoạt trông thì đơn giản, kỳ thực lại thâm sâu không thể đoán lường. Bản thân ông dù gì cũng đã hành tẩu giang hồ mấy chục năm trời, không ngờ tới một hội Tam Hoàng cũng không hiểu rõ. Nếu không phải cơ duyên trùng hợp, e rằng vĩnh viễn cũng sẽ không biết được những việc này. Thế còn việc khác thì sao? Xã hội này còn có bao nhiêu lực lượng thần bí vĩ đại nữa mà ông không biết đến?
Năm xưa thấy mình có súng, có người, ít nhiều cũng là một nhân vật tiếng tăm, giờ mới thấy mình quá ư mông muội. Chỉ một bang hội nhỏ bé không chút tên tuổi đã khiến cho ông thảm hại không để đâu cho hết, nếu những lực lượng thần bí ẩn tàng kia ra tay với ông, e rằng ông tới cơ hội phản kháng cũng chẳng có.
Cuồng ngạo chính là tự diệt vong.
Họ đi suốt ngày đêm không nghỉ, cuối cùng bình minh ngày hôm sau đã tới được dưới chân dốc núi nơi mộ địa chôn cất người Minh.
Nơi này, thực ra cũng chính là chỗ ở của Lý Phục Minh.
Mọi người xuống ngựa, Lý Phục Minh muốn tìm người nấu cơm ăn, không ngờ tìm tới mấy nhà đều vắng tanh không một bóng người. Đang ngạc nhiên, chợt thấy vài người đi ra từ một cửa tiệm tạp hóa, vừa nhìn thấy Lý Phục Minh, lập tức sụp xuống vái chào, nói:
- Xin chào công tử.
Lý Phục Minh hết sức bất ngờ, người đang quỳ dưới đất chính là hương chủ của hội Tam Hoàng mà họ từng gặp ở ngoại thành Mandalay. Lý Phục Minh bèn hỏi:
- Hương chủ Tề, sao ông lại tới trước chúng tôi?
Hương chủ Tề đáp:
- Việc này để sau hãy nói. Mời công tử và các vị hãy vào dùng bữa, chúng tôi tới là để đưa tang cho quỷ bộc.
Lý Phục Minh nói:
- Quỷ bộc có lệnh, việc chôn cất không được làm kinh động tới dân chúng, nếu không sẽ bất lợi cho người, các vị muốn hại người ư?
Hương chủ Tề nói:
- Lý công tử hiểu lầm rồi. Công tử không thấy nơi này rất yên tĩnh sao? Tôi đã cho anh em của hội Tam Hoàng ra mặt, di chuyển toàn bộ dân chúng ra sau núi. Đợi chôn cất quỷ bộc xong xuôi, bọn họ mới quay về.
Lý Phục Minh nói:
- Tôi đã hiểu lầm hương chủ, đa tạ hương chủ giúp đỡ.
Mấy người bôn ba ngày đêm không nghỉ, vừa mệt vừa đói. Ăn chút cơm, nghỉ ngơi một lát, họ liền bắt đầu công việc.
Bởi vì phải chôn cất bí mật, không thể cử hành nghi thức, họ chỉ có thể bái tế đơn giản, rồi chôn cất quỷ bộc. Hương chủ tìm thấy ngôi mộ năm xưa quỷ bộc đã cho người xây sẵn, bèn đặt thiếu niên vào trong đó.
Bịt xong cửa mộ, tâm trạng của mọi người rất đỗi nặng nề. Tuy rằng quỷ bộc có thể tự do ra vào hai cõi âm dương, nhưng nghĩ tới việc người canh giữ linh khí vương triều đã đi xa, một pho lịch sử khổng lồ từ đây đã lật qua một trang nặng nề nhất, mọi người bỗng dưng cảm thấy thời gian thực vô tình.
Cuối cùng, mọi người khấu đầu mấy cái trước mộ quỷ bộc. Vừa đứng dậy, bầu trời đột nhiên tối sầm, chốc lát đã đổ mưa xối xả, sấm chớp vang rền. Mọi người đang lúc hốt hoảng, Ngô Cương bỗng cảm thấy có gì quái lạ. Anh sờ lên đỉnh đầu, quả nhiên, tuy mưa trút ào ào, nhưng người anh lại không hề ướt. Nhìn sang mọi người, ai cũng khô bong, cứ như có người đang che ô cho họ.
Mọi người đều hiểu, đó là quỷ bộc đang làm phép bảo vệ cho bọn họ, đổ mưa chính là thúc giục họ mau chóng xuống núi. Cả đoàn liền vội vã quay trở xuống.
Trong lúc Lý Đức Lượng xuống núi, ông nhìn thấy tất cả các ngôi mộ đều là tọa nam hướng bắc. Những di dân của Đại Minh, đến tận khi làm ma vẫn muốn quay về quê cũ, thực khiến ông cảm động sâu xa.
Ông bất giác quỳ sụp xuống, nhìn những nấm mộ của đồng bào trong mưa đổ, nước mắt ầng ậc tuôn trào.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Độc Chú (Hạ Long Hà)

Postby bevanng » 01 Oct 2016

Chương 3 SỰ LẠ

1. NGỌC BỘI

Sáng sớm hôm sau tỉnh dậy, Ngô Diệu Tổ cảm thấy toàn thân rã rời, đặc biệt là đầu, nặng trình trịch như cả ngàn cân. Bố vợ Hoài Trước vừa sáng sớm đã tới thăm con gái, thấy bộ dạng anh như vậy, hết sức kinh ngạc, nói:
- Hỏng rồi!
Hoài Trước làm lính trong quân của Khun Sa (1) hơn mười năm, đánh trận vô số, rất nhiều lần bò ra được từ trong cả đống xác người. Ông ta từng tham gia một trận đánh ác liệt với quân đội Miến Điện. Ông và các chiến hữu bị quân Miến Điện vây hãm trên một trái núi nhỏ.
(1) Tức Trương Kỳ Phu, trùm buôn ma túy khu vực Tam Giác Vàng thập niên 1960, nổi tiếng như một huyền thoại của giới buôn lậu ma túy thế giới.
Đánh suốt năm ngày, thi thể của người chết đã bốc mùi thối, mà họ vẫn chưa xông ra được. Cuối cùng, chỉ còn lại hai người còn sống sót, họ cũng giả vờ làm người chết, nằm trong đống xác người suốt hai ngày trời.
Sau khi quân đội Miến Điện rút lui, hai người họ chui ra từ trong đống xác chết, suýt nữa thì không nhận ra nhau. Cả hai mặt mũi đen sạm, chẳng khác gì so với người chết, hơn nữa cứ cảm thấy các anh em đã chết đang dật dờ ngay trước mắt, đòi họ cho ăn, cho uống.
Hai người không biết là mình đã chết rồi, hay là vẫn chưa hề chết. Cứ thế u u mê mê đi lung tung hơn ba ngày trời, may mắn gặp được một lão hòa thượng biết chút ít vu thuật, đuổi tà cho họ, hai người họ mới có thể sống tiếp.
Hoài Trước nhìn Ngô Diệu Tổ, rồi gọi Lisa tới, nói:
- Mau đi tìm lão hòa thượng, nếu không thì Diệu Tổ rắc rối to.
Ngô Diệu Tổ xua tay, bảo Lisa tránh xa anh ra. Đàn bà âm khí nặng, không được để cô phải vạ lây. Đợi một lát, đoán chừng cao tăng đã hoàn thành khóa tụng, anh bèn gọi điện cho ông ta, kể rõ tình hình, rồi bảo Ngô Khải Văn lái xe đi đón cao tăng tới.
Không ngờ, người tới lại là hòa thượng Huệ Viễn mà họ đã gặp ở Vân Nam. Lão hòa thượng nhìn thấy Ngô Diệu Tổ thì khom lưng vái thật sâu, nói:
- Chào thí chủ!
Ngô Diệu Tổ sững người, hỏi:
- Sao lại là đại sư?
Hòa thượng khẽ mỉm cười, nói:
- Tại sao không thể là bần tăng?
Ngô Diệu Tổ thấy mình lỡ lời, vội cải chính:
- Tôi không có ý đó, ý tôi là, tại sao đại sư lại tới Miến Điện?
Hòa thượng nói:
- Bần tăng tới Miến Điện tham gia hội thảo về Phật giáo Thượng tọa bộ, sư phụ có nói về việc của thí chủ, bần tăng được sư phụ đồng ý, liền tới đây.
Ngô Diệu Tổ hỏi:
- Hành Nguyện đại sư là sư phụ của đại sư?
Hòa thượng đáp:
- Phải. Bần tăng chính là từ Miến Điện tới chùa Phật Tổ. Tuy nhiên, trước khi tới Miến Điện, bần tăng đã xuất gia ở chùa Phật Tổ.
Ngô Diệu Tổ không hiểu, hỏi:
- Vậy tại sao đại sư còn tới Miến Điện? Đã đến rồi tại sao còn muốn quay về?
Hòa thượng nói:
- Trong mười năm động loạn (1), rất nhiều hòa thượng đã chạy từ Vân Nam tới Miến Điện. Thế nhưng, phần lớn đều không quay về.
Ngô Diệu Tổ hỏi:
- Thế tại sao đại sư lại quay về?
(1) Tức mười năm diễn ra Cách mạng Văn hóa ở Trung Quốc.
Hòa thượng đáp:
- Sứ mệnh!
Ngô Diệu Tổ hỏi:
- Sứ mệnh?
Giọng hòa thượng vô cùng nghiêm túc:
- Đúng vậy!
Ngô Diệu Tổ cảm thấy không tiện hỏi tiếp nữa, liền mới hòa thượng Huệ Viễn vào nhà dùng trà.
Ngô Khải Văn ấn tượng vô cùng sâu sắc với sự việc xảy ra vào đêm hôm đó ở Vân Nam, rất cảnh giác với hòa thượng Huệ Viễn, liên tục đưa mắt ra hiệu cho Ngô Diệu Tổ. Ngô Diệu Tổ cười thầm. Anh biết ngôi chùa ở Vân Nam chắc chắn là có huyền cơ, nhưng nếu vị hòa thượng này muốn giam cầm họ, thì đêm hôm đó, họ đã không tìm được đường ra.
Lão hòa thượng dường như nhận ra sự nghi hoặc của họ, bèn nói với Ngô Diệu Tổ:
- Thí chủ có gì thắc mắc, cứ nói thẳng đừng ngại.
Ngô Diệu Tổ tự tay rót trà cho lão hòa thượng, nói:
- Đại sư, tôi cảm thấy quý tự hình như có chút huyền cơ.
Lão hòa thượng gật đầu, nói:
- Không sai. Ngôi chùa và đường núi đều được dày công thiết kế, nếu bài binh bố trận ở núi non quanh đó, thì binh mã đi vào đường này, chắc chắn sẽ có vào mà không có ra.
Ngô Diệu Tổ kinh ngạc, hỏi:
- Đây là một trận thế?
Lão hòa thượng nói:
- Đúng vậy. Vào thời Thanh, việc bày trận dựa vào núi non, làm đường đi thành trận pháp ở Vân Nam đâu đâu cũng có. Ngôi chùa thực ra là tâm của trận pháp, trong bố cục trận pháp, tâm trận cần phải thiết kế vô cùng kín đáo, vậy mà người bố trận lại xây chùa ở ngay vị trí tâm trận, đó là cách thức ẩn trong hiện. Mấy trăm năm nay, vẫn chưa người nào phát hiện ra được.
Ngô Diệu Tổ kinh ngạc thốt lên:
- Hóa ra là vậy!
Lão hòa thượng nói:
- Đáng tiếc mấy trăm năm nay, địa lý biến đổi, chặt cây làm đường, nên sự thần bí của vùng Vân Nam đã không còn nữa.
Ngô Diệu Tổ nói:
- Đúng vậy, thế sự đổi thay, rất nhiều việc sức người không thể làm gì được.
Lão hòa thượng gật đầu, nói:
- Đúng!
Nói tới đây, lão hòa thượng móc trong túi áo ra một vật, giao cho Ngô Diệu Tổ, nói:
- Mời thí chủ hãy xem.
Ngô Diệu Tổ vừa nhìn đã kinh hãi tột độ, buột miệng kêu lên:
- Đây chẳng phải là ngọc bội của tôi sao?
Lão hòa thượng mỉm cười, nói:
- Thí chủ xem ngọc bội của thí chủ còn không?
Ngô Diệu Tổ đưa tay sờ thử, rồi lôi miếng ngọc bội trên người ra.
Anh đặt hai miếng ngọc bội bên cạnh nhau, quan sát tỉ mỉ, thấy giống y đúc.
Lão hòa thượng nói:
- Thí chủ không cần phải hoài nghi, hai miếng ngọc này giống hệt nhau, do cùng một người thợ chế tác. Thực ra, trên đời tổng cộng có ba miếng ngọc thế này. Tuy nhiên, chủ nhân chúng đều cất giữ rất kỹ lưỡng, chưa tới thời khắc hệ trọng, sẽ không mang ra.
Ngô Diệu Tổ gật gật đầu, nói:
- Đại sư nói đúng. Khi ông nội đưa nó cho tôi, đã từng nói, miếng ngọc này có thể sẽ gây họa sát thân.
Lão hòa thượng nói:
- Miếng ngọc này có thể mở cửa địa ngục, chỉ có điều người trần không biết sử dụng mà thôi.
Ngô Diệu Tổ kinh ngạc, hỏi lại:
- Ngọc bội này còn có khả năng đó ư?
Lão hòa thượng nói:
- Phải! Ba miếng ngọc bội này đều là ngọc ở núi Thái Sơn, là đạo sĩ của Toàn Chân giáo (1) tình cờ bắt gặp trong khi tu luyện trong núi, có thể thông linh, chính là bảo vật trấn quốc, nước mất rồi cũng không được để lọt ra ngoài. Đáng tiếc triều Minh sùng tín Chính Nhất giáo (2), không coi trọng Toàn Chân giáo, nên không chịu nghe theo lời của Toàn Chân giáo. Nhưng ngọc kiểu gì vẫn cứ là ngọc tốt, về sau, hoàng đế nhà Minh nhất thời cao hứng, liền tặng ngọc này cho tổ tiên thí chủ. Tổ tiên thí chủ liền lệnh cho người chạm khắc thành ba miếng ngọc bội. Sau đó, tổ tiên thí chủ bại trận, ba miếng ngọc này được truyền cho ba người con cháu.
(1) Một giáo phái quan trọng của Đạo giáo Trung Quốc, do Vương Trùng Dương sáng lập vào thời Kim.
(2) Cũng là một phái của Đạo giáo, mang tính chất mê tín dị đoan, sùng bái quỷ thần, chú trọng vẽ bùa niệm chú, đuổi ma hàng yêu, cầu xin phúc lộc...

Ngô Diệu Tổ nói:
- Vậy thì, theo lời đại sư, người đeo miếng ngọc bội này là cùng dòng họ với tôi?
Lão hòa thượng đáp:
- Đúng vậy!
Ngô Diệu Tổ cất giọng cảm khái:
- Thực không ngờ, miếng ngọc bội này lại có lai lịch phức tạp đến vậy.
Lão hòa thượng nói:
- Đâu chỉ có vậy. Điều bần tăng vừa kể, chỉ là nguồn gốc của miếng ngọc bội này. Miếng ngọc này còn có ý nghĩa trọng đại, sau này thí chủ sẽ biết.
Ngô Diệu Tổ nói: 
- Xin đại sư hãy nói thử xem, miếng ngọc bội này còn có ý nghĩa trọng đại gì?
Lão hòa thượng nói:
- Thiên cơ không thể tiết lộ, sau này thí chủ tự nhiên sẽ biết.
Ngô Diệu Tổ thấy lão hòa thượng không chịu nói, cũng không gặng hỏi nữa. Lại sực nhớ ra một vấn đề khác, anh bèn hỏi:
- Đại sư, tôi còn có một câu hỏi, đại sư có thể nói cho tôi biết tung tích của miếng ngọc còn lại không?
Hòa thượng nói:
- Chủ nhân của miếng ngọc trong tay bần tăng đây đã lưu lạc tới Quảng Tây, bần tăng đã phải tìm kiếm hơn mười năm trời mới tìm ra được. Vật báu kỳ lạ nhường này, khi ở trong dân gian sẽ xuất hiện sự lạ thường, bần tăng chính là dựa vào đó mà dò hỏi, mới tìm được miếng ngọc. Đáng tiếc di mạch đó của họ Ngô, nhân đinh hiếm hoi, đời nào cũng chỉ độc đinh. Khi bần tăng tìm thấy, người này đã là người cuối cùng trong chi họ, hơn nữa cũng sắp qua đời.
Ngô Diệu Tổ hỏi:
- Vậy còn một miếng ngọc nữa thì sao?
Lão hòa thượng đáp:
- Bần tăng cũng đang tìm kiếm. Trong vòng nửa năm, bần tăng buộc phải tìm thấy, nếu không, nhà họ Ngô sẽ lại phải đối mặt với một tai họa mới.
Ngô Diệu Tổ kinh hãi hỏi lại: 
- Là tai họa gì?
Lão hòa thượng khép mắt lại, nói:
- Tai họa diệt vong!
Ngô Diệu Tổ nói:
- Thế thì vật này chẳng phải là vật xui xẻo hay sao?
Lão hòa thượng gật đầu, nói:
- Có thể nói như vậy.
Ngô Diệu Tổ ngẫm nghĩ rồi hỏi:
- Đại sư, thế việc của tôi, phải chăng có liên quan tới miếng ngọc bội này?
Lão hòa thượng đáp:
- Chính thế!
Ngô Diệu Tổ nhìn miếng ngọc bội đã được cha truyền con nối suốt mấy trăm năm, hít ngược một hơi khí lạnh, nói:
- Thực không ngờ!
Lão hòa thượng mỉm cười, nói:
- Thí chủ bất tất phải sợ hãi, bần tăng mang miếng ngọc này về, để cho sư phụ trấn yểm, có lẽ không còn gì đáng ngại nữa. Tuy nhiên, nửa năm sau, miếng ngọc bội này còn có sứ mệnh đang chờ đợi nó, tới lúc đó, bần tăng sẽ tới tìm thí chủ.
Ngô Diệu Tổ nói:
- Việc này không ngại, xin đại sư cứ dặn dò.
Lão hòa thượng bảo Ngô Diệu Tổ thắp hương trong phòng ngủ, ông ta đích thân đốt vàng mã, tụng niệm một hồi, Ngô Diệu Tổ liền cảm thấy khá hơn nhiều. Lão hòa thượng dặn anh mở cửa sổ, cho không khí lưu thông, phải thắp hương liên tục không ngừng, cứ thế ba ngày, thì mọi việc đều ổn thỏa.
Lão hòa thượng nói xong, uống chút trà, rồi mang miếng ngọc đi.
Last edited by bevanng on 01 Oct 2016, edited 1 time in total.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Độc Chú (Hạ Long Hà)

Postby bevanng » 01 Oct 2016

2. BÓ HOA KỲ DỊ

Công ty ở Mandalay gọi điện thoại cho Ngô Diệu Tổ, nói là nhận được một bó hoa tươi chuyển phát nhanh, hỏi nên xử lý thế nào. Ngô Diệu Tổ thường xuyên nhận được những thứ vớ vẩn như thế, nên bảo tùy bọn họ xử lý thế nào cũng được, không cần phải chuyển cho anh.
Song kỳ lạ là ngày hôm sau, công ty chuyển phát nhanh đó lại gửi đến một bó hoa y hệt. Lần này giám đốc công ty không gọi điện cho Ngô Diệu Tổ nữa, mà cứ thế cắm bó hoa lên bàn.
Cứ như thế liên tục suốt bảy ngày liền, giám đốc công ty chịu hết nổi, lại gọi điện cho Ngô Diệu Tổ. Ngô Diệu Tổ cũng cảm thấy sự việc có phần quái dị, liền bảo Ngô Khải Văn lái xe, hai người cùng tới công ty.
Trụ sở chính của công ty Ngô Diệu Tổ tại Mandalay chiếm nguyên một tòa nhà lớn. Anh mua tòa nhà này để đầu tư bất động sản.
Anh tới văn phòng, tổng giám đốc công ty liền bước vào báo cáo sự việc.
Những việc vặt vãnh như thế này, thông thường tổng giám đốc sẽ không hỏi tới, nhưng vì liên quan tới ông chủ, thì sự việc không còn phân biệt lớn hay nhỏ nữa.
Trước tiên, tổng giám đốc báo cáo qua về công việc. Ngô Diệu Tổ ghét nhất là nghe chuyện liên quan tới công việc, nhưng lại buộc phải nghe. Công ty của anh từ sau khi khai trương đến nay, cứ liên tục phải bù lỗ, đã bảy tám năm rồi, thua lỗ không biết bao nhiêu mà kể, nên Ngô Diệu Tổ vẫn không hoàn toàn chấm dứt nghề buôn bán ma túy. Về việc kinh doanh, anh quả tình mù tịt, nhưng còn ma túy, chỉ cần bắt tay vào làm là tiền ào ào như nước, nếu không làm, thì sao có đủ tiền để duy trì tới bây giờ?
Kiên nhẫn ngồi nghe tổng giám đốc báo cáo xong công việc, Ngô Diệu Tổ mới hỏi:
- Mấy bó hoa kia là như thế nào?
Tổng giám đốc bèn nói, từ thứ hai tuần trước đến giờ, ngày nào cũng có người gửi đến một bó hoa tươi, người nhận là Ngô tiên sinh, nên ông ta mới gọi điện cho Ngô Diệu Tổ. Ngô Diệu Tổ bảo tùy ông ta xử lý, ông ta liền cắm hoa lên mặt bàn, cũng không mấy để tâm. Không ngờ ngày hôm sau, vẫn là người ấy tiếp tục mang đến một bó hoa tương tự, ông cũng thấy hơi lạ lùng. Nhưng thật không ngờ, những ngày tiếp theo, người đó vẫn ngày ngày mang hoa đến, nên ông ta mới gọi điện báo cáo với Ngô Diệu Tổ.
Ngô Diệu Tổ hỏi:
- Thế hoa đâu?
Tổng giám đốc đáp:
- Ngay trên bàn của anh.
Ngô Diệu Tổ đưa mắt nhìn bó hoa ấy, cảm thấy hơi quen quen, nhưng lại không biết nó là hoa gì. Bó hoa đỏ rực rỡ đến say lòng, đặt trong văn phòng toàn gam màu lạnh, lại càng diễm lệ đến ma quái. Kỳ quặc nhất là, bên đưa hoa lần này lại không giống như những chỗ khác. Chỗ khác thường là cắm các loại hoa với nhau, đủ màu đủ vẻ, còn chỗ này chỉ rặt một loại hoa, đỏ rực tựa như ngọn lửa đang bốc cháy.
- Còn có một sự lạ nữa. - Tổng giám đốc nói.
Ngô Diệu Tổ hỏi:
- Sao thế?
- Những loại hoa tươi khác để một tuần thường đã bắt đầu héo, nhưng loại hoa này không những không héo, lại còn mọc thêm nụ hoa mới. - Tổng giám đốc nói.
- Thật à? - Ngô Diệu Tổ nghe vậy, rất đỗi ngạc nhiên.
- Đúng vậy, để tôi đi lấy cho anh xem. - Tổng giám đốc đứng lên, tới một khoang văn phòng, cầm lại một bó hoa tươi. Đây là bó hoa đầu tiên nhận được. Hoa tươi thông thường sau một tuần đã khô héo rụng cánh, nhưng bó hoa này không những không hề có một dấu hiệu úa tàn, mà trông lại càng lộng lẫy hơn nữa, trên cành hoa đã nhú lên những nụ hoa mới, có vẻ như chẳng mấy ngày nữa sẽ nở xòe.
Mấy người họ đều cảm thấy vô cùng quái lạ. 
Ngô Diệu Tổ hỏi tổng giám đốc:
- Đây là hoa gì?
Tổng giám đốc lúng túng lắc đầu, nói:
- Tôi không biết, trong văn phòng có bao nhiêu là người, nhưng cũng chẳng ai biết đây là hoa gì.
Ngô Diệu Tổ nói:
- Lạ thật!
Anh bảo tổng giám đốc tìm biên lai của công ty chuyển phát nhanh tới. Biên lai không đúng quy cách cho lắm, địa chỉ cũng khiến Ngô Diệu Tổ thấy nghi hoặc khó hiểu. Bởi vì đó là một nông thôn miền núi, còn anh thì không tài nào nhớ nổi mình có dây mơ rễ má gì với vùng nông thôn này.
Đúng vào lúc đó, anh chàng giao hoa lại tới, tìm người ký nhận.
Ngô Diệu Tổ bảo tổng giám đốc gọi anh ta vào, anh muốn hỏi xem sao.
Người này bước vào, là một anh chàng sạch sẽ lanh lợi, trông rất điển trai. Nhìn thấy Ngô Diệu Tổ, anh chàng hết sức lịch thiệp khom lưng cúi chào anh:
- Chào ngài Ngô!
Ngô Diệu Tổ rất ngạc nhiên, hỏi:
- Sao anh biết tôi?
Anh chàng cung kính nói:
- Ngài là người nổi tiếng, có ai không biết đến ngài?
Cũng thật khéo ăn khéo nói, Ngô Diệu Tổ bèn hỏi anh ta:
- Ai đã bảo các anh gửi hoa tới đây?
Anh ta đáp:
- Chúng tôi không quen ông ta, ông ta chỉ hàng ngày mang hoa tới, bảo chúng tôi gửi đến đây, những việc khác chúng tôi không hỏi tới, đây là quy định của công ty.
Ngô Diệu Tổ hỏi:
- Người đó hình dạng thế nào?
Anh chàng đáp:
- Tôi chỉ phụ trách gửi hàng, không phụ trách nhận hàng, nên không biết mặt. Ngài Ngô, ngài còn có việc gì nữa không?
Ngô Diệu Tổ ngẫm nghĩ một lát rồi nói:
- Không!
Anh chàng bèn nói:
- Xin lỗi, ngài Ngô, thế thì tôi xin phép cáo từ, tôi vẫn còn việc phải làm.
Ngô Diệu Tổ xua xua tay, cậu ta liền ra về.
Ngô Diệu Tổ nhìn tờ biên lai chuyển phát nhanh vừa ký xong, rất đỗi băn khoăn. Trên biên lai không thấy có số điện thoại của đối phương, chỉ có một cái địa chỉ kỳ quặc. Muốn gọi điện hỏi cũng chẳng có manh mối. Chẳng lẽ chỉ vì mấy bó hoa quái quỷ này mà phải lặn lội cả chặng đường xa đi hỏi?
Ngô Khải Văn nói: 
- Em có cách.
Ngô Diệu Tổ hỏi lại:
- Cách gì?
Ngô Khải Văn nói:
- Thằng cha kia vừa nói, kẻ đó ngày nào cũng mang hoa tới công ty họ phải không? Em đoán ngày mai hắn vẫn sẽ mang hoa tới, sáng sớm chúng ta hãy tới công ty chuyển phát nhanh đợi sẵn là biết ngay chứ gì?
Ngô Diệu Tổ đáp:
- Được, cứ làm thế đi!
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Độc Chú (Hạ Long Hà)

Postby bevanng » 01 Oct 2016

3. CÔNG TY CHUYỂN PHÁT NHANH

Sáng sớm ngày hôm sau, Ngô Diệu Tổ và Ngô Khải Văn lái xe tới phố Arter. Đây là một con phố cổ, nghe nói mấy trăm năm trước từng là con phố phồn hoa nhất Mandalay, quan binh và thương nhân triều Minh theo hoàng đế Vĩnh Lịch chạy trốn sang Miến Điện, rất nhiều người sống tại con phố này. Vì vậy, nó đã từng một thời phồn thịnh, nghe nói còn có một đạo sĩ chạy nạn xây dựng một Đạo quán nhỏ ở đây, tiếc là từ lâu đã không còn tăm tích nữa.
Bây giờ, do trung tâm thành phố đã dịch chuyển, con phố nhỏ này đã trở nên quạnh quẽ tiêu điều. Nhà cửa hai bên đường xập xệ cũ kỹ, thi thoảng mới có căn nhà mới xây, trông chẳng ăn nhập gì với cái thành phố cổ lỗ này, giống như một gã giàu mới phất đứng giữa một đám ăn mày.
Tương truyền, cơ quan ngoại giao của triều đình nhà Minh tại Mandalay cũng từng đặt ở con phố này, đáng tiếc đã không còn mảy may dấu vết.
Ngô Diệu Tổ nhìn những tòa nhà cũ nát hai bên đường và những người qua lại lác đác, trong lòng thầm than thở thời gian thật quá vô tình.
Họ nhìn thấy một người đàn bà ở đầu một con ngõ.
Đó là một người đàn bà rất xinh đẹp, đứng ở đầu đường, chăm chú nhìn họ, cứ như đang đứng sẵn đấy để chờ họ tới.
Ngô Diệu Tổ bảo Ngô Khải Văn dừng xe. Rồi anh xuống xe, khom lưng chào người đàn bà, hỏi:
- Chào chị, xin hỏi số 113 phố Arter ở chỗ nào?
Người đàn bà mừng rỡ cười với họ, dường như đang đợi hai người họ thực. Chị ta nói:
- Cuối cùng thì các anh đã tới!
Ngô Diệu Tổ ngẩn người, cứ ngỡ chị ta bị tâm thần, nhưng vẫn kiên nhẫn hỏi tiếp:
- Chị biết chúng tôi sẽ tới à? Công ty chuyển phát nhanh An Tiệp ở kia phải không?
Người đàn bà xinh đẹp nở một nụ cười lịch thiệp, nói:
- Anh đi hỏi họ nhé, tôi còn phải chờ người khác nữa. Này, đến ngã tư phía trước, rẽ phải, căn nhà đầu tiên.
Ngô Diệu Tổ lại cúi người một lần nữa với người đàn bà tỏ ý cảm ơn, rồi lên xe chạy thẳng tới ngã tư.
Sau khi lên xe, Ngô Diệu Tổ cảm thấy người đàn bà có vẻ kỳ quặc, nhưng cụ thể là kỳ quặc ở đâu, anh lại không nói ra được. Anh ngoái đầu nhìn về phía sau, phát hiện ra đầu ngõ trống trơn, người đàn bà kia cứ như đã đột ngột biến mất.
Tới ngã tư, Ngô Khải Văn dừng lại, hai người xuống xe, tìm số nhà 113.
Bên này ngã tư để số nhà 112, đi qua ngã tư, chỉ nhìn thấy một căn nhà đã bỏ hoang. Đó là một căn nhà ba tầng, nóc nhà rất nhiều chỗ đã đổ sập, cửa nẻo không còn cái nào nguyên vẹn, chỉ sót lại mấy cánh cửa sổ đã biến dạng treo lủng lẳng trên khung cửa. Cửa chính quay ra mặt đường chỉ còn trơ khung, cứ như đang mở miệng nói năng gì.
Cửa mở phía đông vẫn còn hai cánh, nhưng không còn kính nữa. Ngô Diệu Tổ cảm giác nó giống như một bộ mặt đang yên đang lành bỗng mất đôi con ngươi, khiến người ta nhìn vào mà ớn lạnh.
Ngô Diệu Tổ vòng ra phía trước ngôi nhà, tìm thấy tấm biển đã phủ đầy bụi bặm, rút giấy ăn ra lau mấy cái, lập tức hiện lên dòng chữ ARTER 113. Không sai, chính là nơi này.
Thế nhưng chỗ này đâu có gì giống như một công ty chuyển phát nhanh? Đừng nói tới người, ngay cả cái bóng người cũng không có.
Ngô Diệu Tổ bước mấy bước vào trong cửa, bên trong trống huơ trống hoác, nền nhà đầy vụn giấy và lá khô bị gió thổi vào, trên tường có dây điện trần.
Ngô Diệu Tổ đang định quay ra ngoài, đột nhiên từ tầng hai bỗng vọt ra một bóng đen. Bóng đen nhanh như chớp xẹt, lao thẳng về phía anh. Anh kinh hãi kêu lên một tiếng, né vội sang bên cạnh, bóng đen vụt ra ngoài cửa.
Ngô Khải Văn nghe thấy tiếng kêu của anh, lập tức rút súng xông vào trong nhà, hỏi:
- Sao thế?
Ngô Diệu Tổ chưa hết kinh sợ, hỏi:
- Chú mày không nhìn thấy có thứ gì lao ra à?
Ngô Khải Văn nói:
- Là một con mèo đen!
Ngô Diệu Tổ nói:
- Thế à? Làm anh sợ chết khiếp.
Ngô Khải Văn nói:
- Công ty chuyển phát nhanh của thằng cha kia không chừng là công ty ma không có giấy phép, nên mới in địa chỉ này lên biên lai cũng nên. Thôi đừng xem nữa, trông bộ dạng này dễ đến hơn chục năm không có người ở rồi.
Ngô Diệu Tổ nói:
- Đã tới rồi, thì cứ lên kia xem thử. Anh cứ cảm thấy nơi này có liên quan tới chúng ta.
Ngô Khải Văn lăm lăm tay súng, đi trước, Ngô Diệu Tổ bám theo sau, hai người một trước một sau đi lên trên tầng.
Cầu thang làm bằng gỗ, giẫm xuống kêu lên kẽo kẹt. Ngô Khải Văn và Ngô Diệu Tổ bước đi hết sức thận trọng, chỉ sợ chẳng may giẫm gãy cầu thang.
Trên tầng có bốn gian phòng. Ngô Diệu Tổ mở cửa gian phòng thứ nhất, trong phòng trống trải, trên tường treo một tấm gương, vẫn nguyên lành. Ngô Diệu Tổ bước lên xem xét, mặt gương bám một lớp bụi dày, đã không còn soi được nữa.
Căn phòng thứ hai có một chiếc bàn mục nát, trên bàn đặt một cái thìa gãy cán.
Căn phòng thứ ba, lại đứng thù lù một con người. Ngô Khải Văn hét toáng lên, vừa định nổ súng, thì Ngô Diệu Tổ đã kêu lên:
- Đừng!
Ngô Khải Văn nhìn kỹ lại, rồi thở phào một cái. Thì ra chỉ là một con ma nơ canh, một con ma nơ canh bằng nhựa vẫn thấy ở cửa hàng quần áo.
Trên nền nhà, còn có vài chiếc mắc áo bằng nhựa, đã bợt màu.
Căn phòng thứ tư dường như được đóng kỹ lưỡng hơn, Ngô Diệu Tổ đẩy cửa không được. Tay nắm trên cánh cửa vẫn chưa hỏng, có điều dường như không được nhạy cho lắm, nên mở cửa rất khó khăn.
Ngô Khải Văn xoay tròn khóa cửa vài vòng, cảm thấy đã vặn hết vòng khóa, thì khẽ đẩy một cái, cánh cửa cọt kẹt mở ra. Đồ đạc bên trong tương đối nhiều. Ngô Diệu Tổ quan sát, có một chiếc bàn, trông khá mới, giống như có người vừa mới dùng xong. Bên cạnh chiếc bàn có một  thùng đựng giấy loại, bên trong lại có mấy chiếc giày rách, hình như của người chủ trước vứt lại. Góc bàn có một chiếc dao cạo râu cũ kỹ, cho thấy gian phòng này có lẽ là phòng ngủ của chủ nhà.
Anh tiếp tục quan sát kỹ lưỡng, bên dưới mặt bàn lại có một tờ biên lai, một tờ biên lai có dòng chữ “Chuyển phát nhanh nội thành An Tiệp”, Ngô Khải Văn cũng tìm thấy trong phòng một nửa cành hoa, chính là loại hoa đã nhìn thấy ở công ty.
Nơi này có người? Nơi này đúng là công ty chuyển phát nhanh An Tiệp?
Thế nhưng lối đi phủ đầy bụi bặm, chỉ có dấu chân của hai người họ, chẳng lẽ người trong công ty lại bay vào đây hay sao?
Ngô Khải Văn định lấy chiếc dao cạo râu, Ngô Diệu Tổ bèn bảo anh bỏ xuống, anh cảm thấy nơi này tà khí rất nặng, không được lấy bất cứ thứ gì.
Hai người không dám đi tiếp lên trên nữa, bèn quay người đi xuống dưới nhà. Ở đại sảnh tầng một, họ lại nhìn thấy người đàn bà đã chỉ đường cho họ khi nãy. Người đàn bà nhìn họ có phần khiếp sợ, dường như cảm thấy họ không phải là người mà chị ta đang đợi.
Ngô Diệu Tổ cảm thấy người đàn bà này trông hơi quái lạ, nhìn kỹ lại, không khỏi kinh ngạc, bởi vì kiểu tóc của người đàn bà trông hết sức kỳ dị. Tóc chị ta chải hết ra phía sau, sau gáy còn có một búi tóc, giống như kiểu tóc của người thời xưa.
Nhìn thấy hai người đi xuống, chị ta cười với họ, hình như còn nói gì đó, sau đó quay người đi thẳng ra khỏi nhà.
Hai người vội vàng chạy xuống cầu thang, muốn hỏi chị ta thêm mấy câu. Ngô Diệu Tổ cứ có cảm giác, người đàn bà kỳ dị này chắc hẳn biết được chuyện gì đó.
Nhưng khi hai người đuổi tới cửa, lại chẳng thấy gì nữa.
Bầu trời hơi u ám, không có mặt trời, nhưng dù sao cũng là ban ngày, cho nên mọi thứ đều nhìn thấy hết sức rõ ràng.
Có người nhìn thấy họ bước từ trong nhà ra, thì nhìn họ với ánh mắt kinh ngạc tột độ.
Ngô Khải Văn nhìn thấy một anh chàng khá trẻ tay xách rau, dáng vẻ giống như người Trung Quốc, vừa đi vừa nhìn họ. Anh bèn chào cậu ta, cùng Ngô Diệu Tổ rảo bước tới, hỏi:
- Xin chào, tôi muốn hỏi thăm một chuyện.
Cậu thanh niên nhìn họ từ đầu tới chân mấy lượt, bộ dạng hết sức cảnh giác, rồi nói:
- Hỏi thăm chuyện gì?
Quả nhiên là người Trung Quốc.
Ngô Khải Văn hỏi:
- Cậu có biết chủ của ngôi nhà này là ai không?
Ngô Khải Văn chỉ vào căn nhà số 113.
Cậu thanh niên bèn đáp:
- Biết. Một gia đình lớn, sống ở đây nửa năm, chết mất bốn người, đã chuyển đi rồi. 
Ngô Khải Văn giật nảy mình kinh hãi, sao lại chết nhiều đến thế?
Cậu thanh niên nói tiếp:
- Ngôi nhà này có ma, người ở đây ai cũng biết. Anh không nhìn thấy à? Những căn nhà ở quanh đây, đều không mở cửa sổ hay cửa ra vào ở phía giáp với ngôi nhà này, ai cũng nói là căn nhà này buổi tối không sạch sẽ.
Ngô Diệu Tổ hỏi:
- Người chủ ban đầu của ngôi nhà này là ai?
Cậu thanh niên lắc đầu, nói:
- Tôi chỉ biết mấy năm nay, người mua căn nhà này phần đông là tới từ Trung Quốc, người bản địa không mua. Gia đình mua lại căn nhà này cuối cùng cũng là người Trung Quốc, nghe nói đã tốn không ít tiền, nhưng cuối cùng lại thành ra người chết nhà tan.
Ngô Diệu Tổ hỏi:
- Nơi này tại sao lại có ma?
Cậu thanh niên đáp:
- Không biết!
Cậu thanh niên đi rồi, Ngô Diệu Tổ và Ngô Khải Văn vẫn đứng nguyên tại chỗ, không biết nên làm thế nào.
Họ nhìn thấy xe vẫn đỗ ở trước cửa nhà số 113, mới nghĩ đến sợ hãi, vội vàng chạy tới khởi động xe, muốn đưa xe tránh xa chỗ này một chút, nhưng làm thế nào cũng không nổ máy được.
Con SUV Toyota này mới mua năm ngoái, chạy chưa được trăm ngàn cây số, động cơ kiểu gì cũng không thể trục trặc được. Thế nhưng lúc này vặn chìa khóa, lại không hề thấy có động tĩnh gì.
Ngô Diệu Tổ bỗng sực nhớ ra điều gì, bèn xuống xe, tìm đến một siêu thị nhỏ, mua một bó tiền mã. Người bán hàng là một ông lão, siêu thị nằm đối diện chéo với nhà số 113.
Ông lão hỏi:
- Có phải là đã gặp thứ gì đó ở đấy không?
Ngô Diệu Tổ cảm thấy ông lão có lẽ biết được chuyện gì đó, vội hỏi:
- Bác có biết chủ nhân ban đầu của căn nhà đó là ai không?
Ông lão đáp:
- Không biết. Chẳng ai biết được căn nhà đó đã đổi bao nhiêu đời chủ rồi. Từ khi nó được xây đến nay, ngôi nhà này chưa từng có ai ở. Không thể ở được, cứ dọn vào là chết.
Ngô Diệu Tổ hỏi:
- Tại sao lại thế?
Ông lão nói:
- Không biết tại sao. Chỉ nghe đồn chỗ đó là một cơ quan gì đó của triều Minh, về sau, khi hoàng đế Vĩnh Lịch qua đời, người trong cơ quan đó đều đã tự sát. Từ đó về sau, chẳng có ai dám ở trong đó nữa. Cứ thế hơn trăm năm, căn nhà đó bị sập, mới có người dỡ đi, xây một ngôi nhà khác. Không ngờ, sau khi ngôi nhà này xây xong, ai dọn vào sống, trong nhà cũng có người chết. Nơi này đã hơn mười năm không có người ở rồi. Chúng tôi buổi tối còn chẳng dám bén mảng lại gần nó. Oán khí quá nặng.
Cơ quan của triều Minh?
Ngô Diệu Tổ quay trở lại, đốt tiền mã trước cửa căn nhà. Ngô Khải Văn khởi động lại xe, không ngờ mới thử một lần xe đã nổ máy ngay. Họ vội vàng lái xe rời khỏi nơi này.
Ngô Diệu Tổ ngoái đầu lại nhìn cánh cửa của ngôi nhà số 113, thình lình lại nhìn thấy người đàn bà kia đứng trước cửa nhà, vẫy tay với họ.
Ngô Diệu Tổ vội hét Ngô Khải Văn dừng xe. Hai người lại ngoái nhìn lần nữa, chẳng thấy ai cả, người đàn bà đã biến mất không tăm tích.
Chẳng lẽ anh đã hoa mắt?
Nhưng lại không giống như hoa mắt.
Đúng lúc này, điện thoại của Ngô Diệu Tổ đổ chuông, là tổng giám đốc công ty gọi tới. Tổng giám đốc nói:
- Thưa sếp, anh chàng kia lại mang hoa tới.
- Cái gì? - Ngô Diệu Tổ suýt nữa thì đánh rơi điện thoại, rồi vội nói - Giữ cậu ta lại, đừng để cậu ta đi mất.
Tổng giám đốc nói:
- Chậm mất rổi, cậu ta đã đi xuống lầu, không thấy bóng dáng đâu nữa.
Ngô Diệu Tổ nói:
- Biết rồi!
Ngô Khải Văn hiển nhiên đã nghe thấy nội dung cuộc điện thoại, bèn nói:
- Quái lạ thật, lẽ nào chúng ta tới muộn?
Ngô Diệu Tổ nói:
- Không phải, chắc chắn không phải là nhận hàng đóng gói ở chỗ này.
Ngô Khải Văn nói:
- Thế họ đưa địa chỉ này cho chúng ta là có ý gì?
- Có lẽ là nhắc nhở chúng ta điều gì đó. - Ngô Diệu Tổ vừa ngẫm nghĩ vừa đáp - Đúng rồi, chính là ý này.
Thế nhưng, nhắc nhở họ điều gì đây?
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Độc Chú (Hạ Long Hà)

Postby bevanng » 01 Oct 2016

4. CON MÈO ĐEN

Họ về tới công ty, tổng giám đốc bèn đưa cho Ngô Diệu Tổ một bó hoa, một bó hoa không biết tên giống hệt như những bó hoa trước đó, đang nở hân hoan, khoe sắc lộng lẫy.
Hân hoan đến độ có phần rùng rợn, lộng lẫy tới mức có phần ma mỵ.
Đúng vậy, có phần ma mỵ, một thứ ma mỵ đầy gớm ghiếc và hân hoan.
Ngô Diệu Tổ cảm giác những bó hoa này có vấn đề, bèn ra lệnh cho tổng giám đốc thu gom tất cả những bó hoa lại, vứt vào phòng rác.
Buổi tối hôm đó, anh bố trí sáu tay súng giám sát ngôi nhà số 113, và sáng sớm ngày hôm sau, dặn dò tổng giám đốc công ty, nếu thằng nhóc giao hoa lại tới, nhất định phải giữ cậu ta lại, nhất quyết không được để cậu ta chạy mất.
Ở nhà, anh bố trí hai người trực ban, cứ cách nửa tiếng lại liên lạc với những tay súng ở ngôi nhà số 113 một lần, xảy ra chuyện gì lập tức báo cáo với anh.
Ngô Diệu Tổ còn bố trí hai chiếc xe mini van lớn, chia nhau đỗ ở chỗ đối diện chéo với hai cửa nhà, trong phạm vi có thể nhìn thấy ngôi nhà. Cho đến tận khi trời sáng, điện thoại từ bên đấy vẫn báo cáo là bình thường.
Ngô Diệu Tổ và Ngô Khải Văn chạy tới đó, sáu tay súng đều ổn cả, vẫn đang giám sát ngôi nhà.
Ngô Diệu Tổ hỏi, có phát hiện vấn đề gì không.
Đàm nói, không có gì khác thường, chỉ có điều lúc nửa đêm, trên tầng hai có ánh nến hắt ra, hình như có người đi lại bên trong.
Nhóm ở đầu còn lại cũng nói không có gì khác thường, nhưng đến nửa đêm, hình như có ánh đèn, không sáng lắm, bật mấy tiếng đồng hổ rồi tắt.
Tại sao lại có ánh đèn?
Thế thì chắc chắn là có ma rồi.
Ngô Diệu Tổ hỏi có ai đi vào hoặc đi ra từ cửa nhà không, bọn họ đều nói không, tuyệt đối không. Ngô Diệu Tổ và Ngô Khải Văn ở lại, tiếp tục giám sát, đồng thời gọi điện bảo tổng giám đốc công ty bố trí sẵn người, chuẩn bị bắt giữ cậu nhóc giao hoa.
Lúc này, mặt trời vẫn chưa mọc, nhưng sắc trời đã sáng tỏ.
Ngô Diệu Tổ lại nhìn thấy người đàn bà đó.
Chị ta đi tới từ đầu ngõ bên kia, đi rất chậm, dáng vẻ như đang trĩu nặng tâm sự. Hơn nữa cứ đi được vài bước, lại ngoái đầu nhìn, mỗi lần đều nhìn rất lâu. Nhìn cái bộ dạng một bước một dừng của chị ta, cho dù là Ngô Diệu Tổ cũng cảm nhận được sự trông chờ và lo âu nặng trĩu. Cứ thế cho tới ngã tư này, đi tới trước cửa ngôi nhà số 113, chị ta đứng ở chính giữa ngã tư, lần lượt nhìn khắp bốn phía. Vì ở xa, họ không nhìn thấy ánh mắt của chị ta, song cảnh tượng này có sức gợi tả rất lớn, có thể khiến người ta cảm nhận được nỗi hoang mang và kinh sợ từ trong ánh mắt chị ta, cứ như khắp bốn phương tám hướng đang sầm sập ập tới một tai họa không thể nào tránh né.
Lúc này, Ngô Diệu Tổ nhìn thấy từ trên gác lao vọt ra một bóng đen, chạy tới trước mặt người đàn bà, ngồi thụp xuống dưới chân chị ta. Người đàn bà run rẩy, bế con mèo đó lên, miễn cưỡng đi về phía căn nhà.
Sau đó, chị ta đi vào qua cánh cửa chỉ còn trơ khung.
Ngô Diệu Tổ quát lên một tiếng:
- Đi! - Rồi lập tức dẫn người xông vào. Anh không tin, giữa ban ngày ban mặt mà lại có ma. Bao nhiêu con người lại mang theo bao nhiêu súng ống thế này, còn sợ một con ma nữ hay sao?
Trong nhà trống trơn. Tám người mở toang tất cả mọi cánh cửa, từ tầng một cho tới tầng ba, đều không có lấy một bóng người. Hôm qua vì sợ hãi, họ không lên tầng ba, lúc này xông vào, phát hiện bên trong đã mục nát hư hỏng đến không còn ra hình dạng. Có một căn phòng ở hướng nam, do mái nhà bị sập, bên trong ngập ngụa mảnh ngói và vụn gỗ.
Đoàn người vừa định trở xuống, thình lình nghe thấy một tiếng kêu rú cực kỳ rùng rợn. Tiếp đó, một vệt đen sì từ trên trời rơi vụt xuống, lao thẳng vào Ngô Diệu Tổ. Ngô Diệu Tổ gắng gượng né được, nhưng vai vẫn bị cào sượt qua, tuy không thật đau, nhưng áo bị xé rách toang, tiếng vải bị xé rách lại chói lói và vang vọng đến không ngờ.
Ngô Khải Văn nhắm vào bóng đen bắn ngay một phát, nhưng dường như không hề tổn thương đến nó. Bóng đen hạ xuống sàn nhà, nhảy vùn vụt mấy cái đã chui qua một lỗ thủng, chạy sang một gian phòng khác.
Ngô Khải Văn đuổi theo, kéo cánh cửa ra. Nhưng cánh cửa lại đột ngột mở tung, anh không tránh kịp, bị cánh cửa đập cho ngã văng xuống đất.
Cả đám Ngô Diệu Tổ đều nhìn rõ mồn một. Bàn tay Ngô Khải Văn vừa chạm vào tay nắm cửa, còn chưa kịp xoay, cánh cửa đã thình lình bật mở.
Không nhìn kỹ, còn ngỡ là Ngô Khải Văn tự giật cánh cửa, khiến cánh cửa đập thẳng vào mình.
Mọi người đều cảm thấy căn nhà này có phần quái dị, sợ Ngô Khải Văn gặp nguy hiểm, liền cùng xông cả lại.
Ngô Khải Văn đang định bò dậy, mọi người cũng đã chạy tới trước cửa, nhưng còn chưa kịp bước vào, bất ngờ thốc tới một cơn gió âm hàn, vô cùng dữ dội, nhưng vụt một cái lại biến mất.
Mọi người còn chưa kịp thực hiện hành động tiếp theo, thì tầng nhà phía trên thình lình đổ ập xuống. Sau một tràng những tiếng đổ gãy khủng khiếp, bỗng “huỳnh” một tiếng vang dội, trần nhà từ trên cao rơi thẳng xuống.
Mọi người đểu không kịp né tránh, bụi cát đã rơi mù mịt đến tối tăm mặt mũi.
Ngô Diệu Tổ hét lên:
- Mau xuống dưới, mái nhà sắp sập rồi.
Mọi người lập tức vừa bò vừa chạy, mò mẫm tìm được cầu thang, chạy thục mạng trở xuống.
Thế nhưng, nóc nhà chỉ dội lên một âm thanh duy nhất, rồi không thấy động tĩnh gì nữa. Cũng có nghĩa là, chỉ sập nóc một gian, những gian khác vẫn còn nguyên.
Ngô Khải Văn sợ mất vía, lập cập nhắc đi nhắc lại:
- May quá, cha mẹ ơi, đúng là quá may!
Đàm nói:
- Đấy là ông trời chưa muốn nhận anh.
Ngô Diệu Tổ nói:
- Quái lạ thật, người đàn bà kia đâu mất rồi?
Đúng vậy, con mèo ở kia, thế người đàn bà đâu?
Mọi người lại tìm khắp lượt các phòng ở tầng hai, vẫn không thấy bóng dáng người đàn bà kia đâu.
Đàm co rụt cần cổ lại, nói: 
- Chẳng lẽ là một bóng ma?
Lời của hắn khiến mọi người giật mình choàng tỉnh, đều cảm thấy nơi đây âm khí trùng trùng. Đúng lúc này, con mèo đen lại đột nhiên gào lên the thé. Mọi người ngẩng đầu lên, chỉ thấy con mèo đen đang ngồi chồm hổm trên tay vịn ở đầu cầu thang tầng ba, từ trên cao nhìn xuống đám người.
Có người định giương súng lên bắn, Ngô Diệu Tổ liền ngăn lại, nói:
- Đi thôi, thứ này tà ma, chúng ta không động chạm tới nó được đâu.
Mọi người bèn đi ra khỏi ngôi nhà, quay đầu lại nhìn lần nữa, thấy con mèo đen đang ngồi trên nóc nhà, dường như đang nhìn họ với ánh mắt đầy ai oán.
Ngô Diệu Tổ cảm thấy ánh mắt của con mèo giống y hệt như ánh mắt của người đàn bà kia. Anh liếc nhìn qua, cảm thấy ánh mắt nó như xuyên thấu vào trong trí não, khiến anh bắt đầu cảm thấy đầu óc u mê.
Anh vội vàng cưỡng ép bản thân dịch chuyển ánh nhìn, rồi dặn mọi người đừng nhìn con mèo đen.
Đúng lúc này, điện thoại di động đổ chuông. Giọng của tổng giám đốc có phần hoảng hốt, nói:
- Thưa sếp, thằng nhóc giao hoa lại tới rồi!
Ngô Diệu Tổ nói:
- Bắt nó lại cho tôi, đừng để nó chạy mất.
Tổng giám đốc nói:
- Chúng tôi không bắt được nó. Nó còn khó bắt hơn cả không khí, vừa túm vào đã biến mất.
Ngô Diệu Tổ chửi toáng lên:
- Nói bậy!
Tổng giám đốc cuống quýt thanh minh:
- Thật đấy, khi nó chuẩn bị đi, có nói rõ là ngày mai lại tới, ngày mai anh cứ đến mà xem.
Ngô Diệu Tổ nhìn vầng mặt trời đang dần dần ló rạng mà không thể nào tin nổi. Chẳng lẽ đúng là đã gặp ma giữa ban ngày?
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Độc Chú (Hạ Long Hà)

Postby bevanng » 01 Oct 2016

5. HOA MANJUSA

Ngô Diệu Tổ cảm thấy muốn biết được chân tướng, chỉ có thể tìm cách bắt lấy thằng cha giao hoa.
Vừa sáng sớm, anh đã dẫn theo thuộc hạ tới công ty.
Đám thuộc hạ này đã theo anh vào sinh ra tử nhiều năm, có thể nói là dày dạn sa trường, ai nấy đều rất thạo đánh đấm và bắn súng, đều là những tay súng tinh anh. Họ nghe nói từng ấy con người chỉ là đi bắt có một thằng nhóc, đều cảm thấy đúng là mang dao mổ trâu đi giết gà.
Nhưng để đảm bảo an toàn, Ngô Diệu Tổ còn bảo Ngô Khải Văn đi mua một ít chu sa.
Bước vào văn phòng, anh nhìn thấy những bông hoa trước tiên. Những bông hoa đã rời khỏi đất bảy tám ngày trời không những không khô héo, mà ngược lại, trông càng thêm rực rỡ.
Ngô Diệu Tổ bảo thuộc hạ thu chúng lại, bẻ gãy rồi vứt vào thùng rác. Anh không tin là hoa đã bị bẻ gãy còn có thể liền lại được.
Thận trọng hơn nữa, Ngô Diệu Tổ lệnh cho tổng giám đốc thông báo cho nhân viên, hôm nay nghỉ làm một ngày.
Chín giờ đúng, anh chàng giao hoa lại tới rất đúng giờ. Tổng giám đốc đã quan sát mấy ngày, lần nào gã đến cũng là chín giờ đúng, chuẩn xác tới mức kinh ngạc.
Nhìn thấy Ngô Diệu Tổ cũng có mặt, gã rất vui vẻ, nói:
- Chào ông chủ Ngô!
Ngô Diệu Tổ nhìn nụ cười rạng rỡ nhường này, không tài nào tưởng tượng được gã lại có liên hệ gì với những chuyện quái đản kia.
Gã trai giao biên lai cho thuộc hạ của Ngô Diệu Tổ ký tên, còn mình thì cắm cúi sắp xếp đồ đạc trong túi. Ngô Diệu Tổ kín đáo nhìn qua, thấy bên trong là đủ loại bưu phẩm chuyển phát nhanh, không có thứ gì khác, mới thấy yên tâm một chút.
Ngô Diệu Tổ nói:
- Tôi đã tới công ty của anh.
Gã trai hờ hững đáp:
- Ổ!
- Nhưng công ty chẳng có ai cả, căn nhà đó đã bỏ hoang mười mấy năm rồi.
Gã trai giải thích:
- Chúng tôi đã chuyển địa điểm rồi, biên lai in sẵn từ trước, vẫn chưa đổi.
Ngô Diệu Tổ hỏi:
- Thế chuyển tới nơi nào?
Gã trai nói rành rọt:
- Thôn Đại Minh, núi Namhsan.
Ngô Diệu Tổ hỏi:
- Ở trong thành phố à?
Gã trai đáp:
- Không phải.
Ngô Diệu Tổ hỏi:
- Thế các anh nhận đơn hàng kiểu gì?
Gã trai nhìn Ngô Diệu Tổ cười cười, nói:
- Chúng tôi hiện giờ chẳng có đơn hàng nào khác, chỉ có một khách hàng duy nhất là ngài.
Ngô Diệu Tổ ngây ra một lúc, mới hỏi:
- Người tặng hoa cho tôi là ai?
Gã trai cười bí hiểm, nói:
- Một người bạn cũ của gia đình ngài.
Ngô Diệu Tổ gặng hỏi:
- Bạn cũ? Họ gì?
Gã trai đanh mặt lại, nói:
- Xin lỗi, khách hàng dặn phải giữ bí mật, nên không thể nói với ngài được.
Ngô Diệu Tổ nói:
- Tôi muốn tới công ty anh xem thử.
Gã trai nói:
- Xin hoan nghênh!
Ngô Diệu Tổ phá lên cười, rồi nói:
- Thế thì tốt, anh dẫn đường cho chúng tôi nhé, chúng tôi không biết đường.
Vẻ mặt gã trai càng trở nên lạnh lùng, gã nói:
- Đường tôi đi, các anh không cách nào đi được.
Ngô Diệu Tổ cười nhạt:
- Chỉ cần có đường, xe của tôi đều đi được.
Anh nói không sai, xe của anh là loại xe Jeep việt dã tốt nhất của Toyota, anh chưa bao giờ nghe thấy có con đường nào mà xe của mình không đi được.
Giọng nói của gã trai trở nên sắc lạnh, gã nói:
- Đường hoàng tuyền, các anh đi được không?
Ngô Diệu Tổ nhìn thấy, sau khi nói xong câu này, sắc mặt của gã trai dần dần biến đổi, màu da đang bình thường lại từ từ xanh mét, giống như có người đang tô màu lên mặt gã. Cho tới khi sắc mặt ngả sang màu tím đen, thịt trên khuôn mặt cũng bắt đầu co rúm lại, cuối cùng, trông chẳng khác gì một quả hồng khô. Rồi như thế, gã cười với Ngô Diệu Tổ, khiến Ngô Diệu Tổ hết cả hồn vía, giật lùi liền mấy bước. 
Thuộc hạ của Ngô Diệu Tổ xông lại từ mọi hướng.
Gã trai lúc này đã như một cái xác khô, chậm chạp quay đầu lại, nhìn mọi người. Thuộc hạ của Ngô Diệu Tổ không hổ danh là những tay súng cự phách, nhìn thấy cái xác sống tuy đều kinh hãi tột độ, nhưng không một ai lùi bước. Một tay vệ sĩ nổ súng vào gã trai.
Gã trai đứng im bất động, viên đạn xuyên qua lồng ngực gã, rồi lại bay ra.
Người gã trai dường như giật lên một cái, nhưng không hề ảnh hưởng tới động tác của gã. Chỉ thấy gã nhanh như chớp vung cánh tay về phía tên vệ sĩ, người này không kịp né tránh, bị đập một cái trúng đầu. Tay vệ sĩ đứng im một lúc rồi từ từ đổ vật xuống đất.
Cần phải nói là tốc độ của gã trai chỉ có thể dùng tốc độ ánh sáng để hình dung. Thuộc hạ của Ngô Diệu Tổ nhìn thấy gã trúng một viên đạn mà không hề suy suyển, thì đều chết sững.
Ngô Diệu Tổ than thầm trong dạ, thuộc hạ của anh trước biến cố bất ngờ, ai nấy đều đứng ngây như phỗng. Bây giờ, gã trai muốn giết họ, thật dễ như trở bàn tay. Gã trai này không phải loại vừa, không thể khắc chế bằng cách thông thường.
Anh kín đáo thò tay vào trong túi áo, móc ra cái túi nilon nhỏ đựng chu sa, mở ra, bốc lấy một nắm, tung về phía gã trai. Gã trai quay người lại nhìn, hoàn toàn không hề sợ hãi.
Chu sa là vật cực dương, những thứ thuộc về âm gian đáng ra đều phải sợ chu sa mới đúng. 
Gã trai nói với Ngô Diệu Tổ:
- Ông chủ Ngô, những thứ tầm thường này không làm gì nổi tôi đâu, anh đừng hoài công nữa. Nhớ kỹ, thôn Đại Minh, núi Namhsan, tôi đợi anh!
Nói xong, gã trai liền biến trở lại hình dạng ban đầu, thong dong đi xuống cầu thang.
Ngô Diệu Tổ lúc này mới hoàn hồn từ cơn kinh hãi, vội vàng tới xem tay vệ sĩ đang nằm gục dưới đất.
Hắn đã tắt thở. Nhưng nhìn từ bên ngoài, cơ thể vẫn lành lặn, không hề có dấu vết bị thương.
Ngô Diệu Tổ lập tức bảo thuộc hạ cõng tay vệ sĩ này lên, xuống dưới nhà, lên xe, phóng thẳng tới bệnh viện.
Bác sĩ khám qua rồi nói:
- Đã chết rồi!
Ngô Diệu Tổ hỏi nguyên nhân gây tử vong, bác sĩ cũng không chỉ ra được.
Đúng lúc đó, điện thoại của Ngô Diệu Tổ đổ chuông.
Anh nghe máy, không ngờ lại là giọng của lão hòa thượng:
Ngô Diệu Tổ có phần kinh ngạc, hỏi:
- Đại sư, có chuyện gì sao?
Lão hòa thượng nói:
- Không phải bần tăng có chuyện. Vừa rồi bần tăng thấy miếng ngọc bội tự dưng lạnh toát khác thường, có lẽ là thí chủ có chuyện, nên bần tăng mới hỏi thăm.
Ngô Diệu Tổ vội nói:
- Đại sư, đúng là có chuyện rồi. Đại sư có thể tới đây xem giúp tôi một lát được không?
Lão hòa thượng hỏi:
- Thí chủ đang ở đâu?
Ngô Diệu Tổ đáp:
- Tôi đang ở bệnh viện Công Nhân.
Lão hòa thượng nói:
- Thí chủ hãy chờ một chút, bần tăng lập tức tới ngay.
Ngô Diệu Tổ sợ lão hòa thượng không tìm được chỗ, bèn sai người ra cổng bệnh viện chờ sẵn. Một lát sau, lão hòa thượng đã tới. Vừa nhìn thấy tay vệ sĩ, mặt lão hòa thượng vụt biến sắc, đưa tay sờ một lượt lên đầu hắn, bật kêu lên:
- Đinh Quỷ!
Ngô Diệu Tổ giật nảy người, hỏi:
- Đại sư, ngài nói gì?
Lão hòa thượng nói:
- Đây là cách thức giết người của gia tộc Đinh Quỷ.
Ngô Diệu Tổ vội hỏi:
- Đinh Quỷ là ai?
Lão hòa thượng đáp:
- Một gia tộc thần bí, đã biến mất từ sau khi triều Minh diệt vong. Người của gia tộc này có thể đi lại giữa hai cõi âm dương, nghe nói, họ cai quản khí tượng của Đại Minh.
- Đại Minh? Đã mấy trăm năm rồi, làm gì còn Đại Minh nữa?
Lão hòa thượng nói:
- Thí chủ không biết đấy thôi, Đại Minh tuy đã diệt vong, nhưng dư khí vẫn còn. Đừng nói là một vương triều, cho dù chỉ là một con người, sau khi chết đi, thì vẫn còn con cháu, còn vợ, còn linh vị, những người những vật đó đều lưu lại khí của người này. Khí đó có thể tồn lưu tới mấy chục năm, huống hồ là cả một vương triều?
Ngô Diệu Tổ hỏi:
- Thế Đinh Quỷ có quan hệ gì với chúng tôi?
Lão hòa thượng ngập ngừng một lát rồi nói:
- Bần tăng hiện giờ cũng không biết được nhiều cho lắm. Tuy nhiên, người này cần phải lập tức hỏa táng ngay, Đinh Quỷ đã dùng đinh Tứ Tượng giam giữ hổn phách của anh ta lại, vì thế hồn phách không thể thoát ra, bị nhốt trong cơ thể. Thân xác của anh ta đã chết, nhưng linh hồn của anh ta vẫn nghe thấy chúng ta nói chuyện, vẫn nhìn thấy chúng ta, chỉ có điều chúng ta không thể trò chuyện được với anh ta mà thôi. Sau ba mươi sáu tiếng đồng hồ, xác của anh ta sẽ sống lại, trở thành một cương thi có suy nghĩ. Loại cương thi này uy lực khủng khiếp, có thể mặc sức hoành hành. Vì nó đã bị Đinh Quỷ điều khiển, nên tai họa vô cùng.
- Đinh Tứ Tượng? Đinh Tứ Tượng ở đâu kia?
Lão hòa thượng ra hiệu cho Ngô Diệu Tổ sờ lên đỉnh đầu tay vệ sĩ. Ngô Diệu Tổ cẩn thận sờ lần một lát, quả nhiên thấy đỉnh đầu hắn có bốn vật tròn tròn.
- Lẽ nào gã trai kia chỉ đưa tay vỗ một cái đã đóng được đinh xuyên ngập vào đỉnh đầu người ta? Đầu người có xương sọ, chỉ đập một cái đã đóng xuyên qua hộp sọ, sức mạnh đó phải ghê gớm đến nhường nào?
Lão hòa thượng nói:
- Loại đinh này không phải làm từ sắt, nhưng còn cứng rắn hơn sắt. Đây là gỗ thiết âm, hiện nay đã tuyệt chủng. Đây là loại gỗ chuyên dùng để đóng quan tài cho hoàng tộc triều Minh, phải mất một ngàn tám trăm năm mới có thể sử dụng, sống ở nơi ẩm ướt cực âm, dùng làm quan tài có thể ngàn năm không mục. Gia tộc Đinh Quỷ đóng quan tài không dùng búa, mà dùng tay không để đóng đinh vào quan tài, đầu người thì có thấm vào đâu.
Ngô Diệu Tổ kinh ngạc nhìn lão hòa thượng:
- Còn có loại người như thế sao?
Lão hòa thượng nghiêm túc nói:
- Họ đã không còn được coi là con người nữa. Họ là vật thể sống tập hợp người - ma - tiên trong một thể, nhưng lại không thuộc bất kỳ loài nào.
Ngô Diệu Tổ lẩm bẩm:
- Thật không ngờ, trên đời còn có cái giống này.
Anh sực nhớ tới những bông hoa mà gã trai đã gửi tới, liền dẫn lão hòa thượng quay về văn phòng.
Song anh đã vô cùng kinh ngạc khi nhìn thấy những đóa hoa bị bẻ gãy giờ lại ngay ngắn quay trở lại mặt bàn, xòe nở chói rực đầy ma quái giữa văn phòng.
Lão hòa thượng vừa nhìn thấy những đóa hoa đang nở rộ trên bàn thì kinh hoàng thất sắc, bật kêu lên:
- Hoa manjusa.
Ngô Diệu Tổ hỏi:
- Gì cơ?
Lão hòa thượng nói:
- Loài hoa này tên là hoa manjusa, còn được gọi là hoa người chết, là loài hoa mọc để chỉ dẫn cho con đường tới suối vàng. Loài hoa này mọc ở rất nhiều nơi, nhưng riêng giống này lại chỉ có thể sống ở những chốn cực âm như nghĩa địa. Chúng hút âm khí từ xác chết, vì thế mà rực rỡ vô cùng.
Ngô Diệu Tổ cảm thấy không cần thiết phải giấu giếm lão hòa thượng, liền kể lại đầu đuôi ngọn ngành về những bó hoa cho ông ta nghe. Lão hòa thượng nói:
- Đúng thế, họ gửi những bông hoa này tới, chắc chắn là có mục đích.
Ngô Diệu Tổ hỏi:
- Là mục đích gì kia?
Lão hòa thượng lắc đầu, nói:
- Việc này lão nạp cũng không rõ, nhưng thí chủ phải cẩn thận.
Nói xong, lão hòa thượng lấy miếng ngọc bội ra, đưa cho Ngô Diệu Tổ, nói rằng sư phụ ông ta đã niệm kinh trừ tà cho miếng ngọc. 
Ngô Diệu Tổ cảm tạ. Anh hỏi lão hòa thượng:
- Những bông hoa này phải làm thế nào?
Lão hòa thượng nói:
- Dễ xử lý thôi. Vào giữa trưa, lúc mặt trời gay gắt nhất, mang nó ra bên ngoài phơi nắng một buổi trưa, xong rồi mang đốt luôn là được. Nhưng tòa nhà này cần phải mở cửa để thông khí, tốt nhất hãy rắc ít chu sa vào từng ngóc ngách, để phòng âm khí tích tụ.
Ngô Diệu Tổ căn dặn thuộc hạ làm theo lời dặn, sau đó lại hỏi:
- Đại sư, ngài có biết một nơi gọi là thôn Đại Minh không?
Lão hòa thượng lắc đầu, đáp:
- Không biết, nhưng bần tăng nhớ ra một chuyện.
Ngô Diệu Tổ nói:
- Xin đại sư cứ nói.
Lão hòa thượng chậm rãi nói:
- Bần tăng cảm thấy thôn Đại Minh mà cậu ta nói có lẽ là nơi ở của di dân triều Minh tại Miến Điện.
Ngô Diệu Tổ cũng có nghe nói về di dân triều Minh ở Miến Điện, nhưng họ phân tán rải rác khắp nơi trên Miến Điện, làm gì có thôn nào là thôn Đại Minh?
Lão hòa thượng nói:
- Bần tăng đoán rằng thôn Đại Minh có lẽ là nơi họ sinh sống trước đây, cũng là nơi đặt phần mộ của các di dân triều Minh.
Ngô Diệu Tổ bần thần một lát, rồi nói:
- Cảm ơn đại sư chỉ giáo.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Độc Chú (Hạ Long Hà)

Postby bevanng » 01 Oct 2016

6. THÔN ĐẠI MINH

Ở Miến Điện, nơi người Hoa tập trung đông nhất chính là vùng Maliba nơi tộc người Kokang sinh sống. Ngô Diệu Tổ rất thông thạo vùng này, đây cũng từng là nơi khởi nghiệp của anh. Năm xưa, tại đó, Ngô Diệu Tổ đã từng hợp tác cả công khai lẫn bí mật với La Tinh Hán (1), Bành Gia Thanh (2). Nhưng thời cuộc biến đổi, vì sợ dính líu tới chính trị, Ngô Diệu Tổ đã hơn mười năm không đặt chân đến mảnh đất thị phi này.
(1) Tức Law Sit Han, người tộc Kokang, Miến Điện, cùng với Khun Sa, là trùm buôn lậu ma túy lớn nhất Đông Nam Á trước đây.
(2) Tức Pheung Kya Shin, người tộc Kokang, Miến Điện, là một tướng lĩnh vũ trang nổi tiếng của tộc Kokang, được mệnh danh là vua Kokang.

Sau khi bọn họ bước vào Maliba, phát hiện thấy ngoài những vùng như Laukai (3) càng phồn hoa hơn trước, thì thôn bản vẫn tiêu điều hoang lương như xưa. Vì đã hạn chế trồng cây thuốc phiện, đất núi quá mỏng, sản lượng trồng ngô thấp, giá bán cũng không cao, cuộc sống của người dân miền núi thậm chí còn không bằng trước đây.
(3) Thủ phủ của Maliba.
Nhìn thấy vẻ nghèo nàn rách rưới của con cháu những di dân triều Minh vẫn còn mang dấu ấn rõ nét của người Hoa, Ngô Diệu Tổ cảm thấy chua xót trong lòng.
Người dân miền núi sống rất phân tán, đám Ngô Diệu Tổ vòng vèo trên núi ba ngày trời, cũng chẳng tìm thấy thôn nào tên là thôn Đại Minh.
Phần mộ của di dân thì dễ tìm hơn chút ít, nhưng cũng chỉ là mấy ngôi mộ lẻ tẻ, đổ nát hoang lạnh. Dựa vào cảm giác, Ngô Diệu Tổ đã biết không thể là những nơi này.
Buổi tối hôm đó, họ nghỉ lại trong một quán trọ nghe nói là do hậu duệ của một viên tướng triều Minh mở ra.
Đây là một quán trọ nhỏ, chỉ có mấy gian phòng, nhìn bề ngoài, không khác biệt mấy so với các hộ nông dân bình thường, chỉ là bên trong được ngăn thành từng gian phòng nhỏ mà thôi. Nhưng phòng trọ được quét dọn rất sạch sẽ, bà chủ quán trọ là một phụ nữ nông thôn, trông xinh xắn hiền hậu, đem lại cho người ta một cảm giác rất đỗi dịu dàng.
Đám Ngô Diệu Tổ đã đi từ một thôn làng cách đó rất xa, vượt qua một chặng đường dài dằng dặc mới tới được đây, nên ai nấy mệt mỏi rã rời. Trên đường đi, họ đã định dựng lều ngủ tạm, không ngờ lại nhìn thấy quán trọ này. Ngô Diệu Tổ cảm thấy hết sức ngạc nhiên, liền cho thuộc hạ dừng xe, nghỉ lại đây.
Bà chủ quán nhìn thấy đám người Ngô Diệu Tổ đi xe sang trọng, dẫn theo vệ sĩ, biết ngay không phải là khách trọ bình thường, bèn phục vụ họ rất cẩn thận. 
Ngô Diệu Tổ muốn dò hỏi thông tin, liền bắt chuyện với bà chủ quán.
Bà chủ quán nói với anh, có được quán trọ này đều là nhờ vào dòng sông kia. Đá dưới sông có ngọc, nên hàng năm cứ sau mùa mưa, lại có hàng tốp người Trung Quốc, người Mỹ, người Nhật Bản đi từ thượng lưu lần theo dòng sông xuống đây tìm ngọc. Tới nơi này, họ vừa mệt vừa đói, liền tìm vào trong thôn kiếm chỗ trọ, mua đồ ăn. Chị ta và chồng cảm thấy việc này ít nhiều cũng được coi là kinh doanh, liền mở một quán trọ ở đây. Vì việc này, họ còn cắm một tấm biển quảng cáo bên bờ sông, trên tấm biển chỉ viết vỏn vẹn năm chữ: “Quán trọ khe Ngọc Thạch”.
Năm xưa, khi Ngô Diệu Tổ còn lặn lội trong núi buôn bán ma túy, đã từng nhiều lần chạm mặt những nhóm buôn ngọc. Đó là những kẻ còn khổ nhục hơn cả dân buôn lậu ma túy. Trong số họ, có người Trung Quốc, người Thái Lan, cõng theo những tảng đá to tướng, trèo đèo vượt núi, cực nhọc hơn cả phu khổ sai. Nhưng dưới sông có ngọc lại là lần đầu tiên anh nghe thấy.
Mọi người tắm gội một hồi, ăn chút cơm, cảm thấy tinh thần đã khá hơn nhiều. Trời vẫn chưa tối, Ngô Diệu Tổ bèn nói sẽ dẫn mọi người xuống sông tìm ngọc, ai tìm được là của người đấy.
Mọi người nghe vậy thì phấn chấn hẳn lên. Thuộc hạ của anh, ngoài Ngô Khải Văn ra, đều là những trai tráng chừng ba chục tuổi, tinh lực sung mãn, đương nhiên là không chịu ngồi yên. Xuống sông tìm ngọc, chỉ là chơi đùa cho vui, nên mọi người đương nhiên đều phấn khởi. 
Từ quán trọ đi thẳng về phía đông khoảng chừng ba trăm mét là tới bờ sông. Con sông khá rộng, lúc này đang mùa cạn, nên lòng sông rất nhiều chỗ chỉ trơ cát sỏi. Trên bãi sông lổn nhổn những đá, nhưng phần lớn đều là đá cuội tròn xoe, hoặc những tảng đá to đùng như con trâu mộng, hoàn toàn chẳng thấy bóng dáng của ngọc đâu cả.
Dù sao trời cũng chưa tối lắm, nên mọi người cứ thế đi men theo bờ sông lên phía thượng lưu.
Sông chảy theo thế núi, quanh co uốn lượn, một lúc sau mọi người rẽ theo một khúc quanh, không còn nhìn thấy đoạn lòng sông trước đó nữa. Khúc sông khi nãy rộng rãi, hai bên bờ dốc núi thoai thoải, còn giờ đây, đôi bờ núi dựng sừng sững, trên núi cây xanh um tùm.
Lòng sông cũng đột ngột thu hẹp lại, nước sông chảy xiết, nhưng hai bên bờ vẫn còn vạt bãi sông nhỏ. Nước sông trong veo, nơi sát với lòng sông, cát mịn như bột. Ngô Diệu Tổ cởi giày ra, đi chân trần trên mặt cát, cảm giác dễ chịu tuyệt vời.
Đám Ngô Khải Văn nhìn thấy ông chủ đã cởi giày, cũng cảm thấy dưới chân nóng nực khó chịu, nhưng bọn họ biết mình không thể cởi giày được, bọn họ phải sẵn sàng chiến đấu bất cứ lúc nào để bảo vệ an toàn cho ông chủ.
Ngô Diệu Tổ trông rất vui vẻ, quay sang nói với họ:
- Cởi giày ra cho mát, nơi này không có chuyện gì đâu!
Đám vệ sĩ lúc này mới cởi giày, ùa xuống đi lên bãi cát và lội xuống nước. Tìm kiếm nãy giờ mà chẳng thấy ngọc đâu, xem chừng không có hy vọng gì, thôi thì cứ coi như ra đây tản bộ cho vui vậy. Đoàn người cứ thế đi men theo dòng sông, vừa đi vừa ngắm nghía phong cảnh hai bên bờ. Lòng vòng qua rất nhiều khúc quanh, cho tới khi Ngô Diệu Tổ thấy hơi mệt, nhìn sắc trời sắp ngả tối, liền chuẩn bị quay về.
Ngô Khải Văn tinh mắt, nhìn thấy phía trước hình như có người, bèn nói:
- Đại ca, phía trước hình như có người, hay là cũng tới đây tìm ngọc nhỉ?
Ngô Diệu Tổ ngước mắt nhìn kỹ, đúng là có người thật, hình như đang lom khom tìm kiếm thứ gì. Anh bất giác nổi hứng, nói:
- Qua đó xem xem!
Đám vệ sĩ đúng là tố chất tuyệt vời, sợ có điều bất trắc, đều đã xỏ giày vào, thọc tay vào túi, nắm lấy báng súng.
Ngô Diệu Tổ lại gần, nhìn thấy người đó quả nhiên đang chăm chú tìm kiếm trong bãi đá lộn xộn.
Ngô Diệu Tổ dùng tiếng Hoa chào hỏi:
- Xin chào!
Người đó ngẩng đầu lên, Ngô Diệu Tổ giờ mới nhìn rõ, đó là một ông lão râu tóc đều đã bạc phơ.
Tuy là vậy, ông lão trông rất quắc thước tinh anh, đưa mắt nhìn lướt qua đám Ngô Diệu Tổ, rồi phá lên cười ha hả, hỏi:
- Mấy anh chắc là tới tìm ngọc phải không?
Ngô Diệu Tổ đáp: 
- Chào cụ, bọn cháu chẳng qua nhàn rỗi không có việc gì làm, nên đi dạo loanh quanh thôi.
Ông lão nói:
- Ồ, mấy anh thực là có nhã hứng.
Ngô Diệu Tổ hỏi:
- Thưa cụ, cụ đang làm gì thế?
Ông lão đáp:
- Không giấu gì mấy anh, tôi đang tìm ngọc.
Ngô Diệu Tổ ngạc nhiên hỏi:
- Nơi này đúng là có ngọc thật à?
Ông lão đáp:
- Đương nhiên. Phỉ thúy Miến Điện quý giá nức tiếng, trong núi này rất nhiều nơi có ngọc, lũ quét trên núi hàng năm đều sẽ cuốn xuống ít nhiều ngọc thô thượng đẳng. Năm xưa, loại ngọc tốt nhất của triều đình Đại Minh chính là do vua Miến Điện tiến cống, đã được lấy từ chính vùng này đấy.
Ngô Diệu Tổ bèn hỏi:
- Thưa cụ, thế thì viên đá như thế nào mới có ngọc?
Ông lão khẽ mỉm cười, nói:
- Cái này thì không thể dăm câu ba lời mà nói cho rõ được. Các anh nếu muốn biết, thì phải đi hỏi sư phụ của tôi.
Ngô Diệu Tổ nhìn lên bầu trời, nói:
- Giờ thì muộn quá rồi, cảm ơn cụ nhé.
Ồng lão khẽ mỉm cười, nói: 
- Không có gì. Nhưng nếu anh không đi gặp sư phụ của tôi thì sẽ hối hận đấy.
Ngô Diệu Tổ thầm nhủ, tôi có phải tới tìm ngọc thật đâu, hối hận cái quái gì.
Anh nhìn ông lão, nói:
- Cảm ơn cụ đã chỉ bảo, hôm nay thì muộn quá rồi, xin để lần sau tới thăm vậy. Nhưng không biết nhà cụ ở thôn nào?
Ông lão khẽ nói:
- Thôn Đại Minh.
Thôn Đại Minh?
Ngô Diệu Tổ gần như không dám tin vào tai mình, anh vô thức hỏi lại ông lão lần nữa:
- Cụ sống ở thôn nào?
Ông lão đáp rành mạch:
- Thôn Đại Minh.
Lần này không chỉ Ngô Diệu Tổ, mà đám vệ sĩ cũng đều nghe rõ rành rành. Bọn họ kinh ngạc nhìn Ngô Diệu Tổ, chờ phản ứng của anh.
Thôn Đại Minh, đó chính là địa chỉ của “công ty” gã trai giao hoa.
Ngô Diệu Tổ chẳng còn tâm trí đâu mà xử lý những ngờ vực trong lòng, vội vàng hỏi ông lão:
- Thôn đó cách đây có xa không?
Ông lão đưa tay lên chỉ về ngọn núi bên cạnh, nói:
- Đi vòng qua chân núi là tới.
Ngó Diệu Tổ bèn nói:
- Thế thì cháu sẽ theo cụ tới thăm sư phụ cụ.
Ông lão nói:
- Xin mời!
Nói xong ông ta liền đeo chiếc túi vải lên lưng, đi trước dẫn đường. Ngô Diệu Tổ dẫn theo thuộc hạ, theo sau ông lão, tiến vào trong núi.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Độc Chú (Hạ Long Hà)

Postby bevanng » 01 Oct 2016

7. NHÀ TRANH

Lúc này, trời đã tối sập, ông lão dường như cảm thấy đã muộn, liền rảo bước nhanh hơn. Ngô Diệu Tổ sợ theo không kịp, cũng gắng sức bám sát.
Vòng qua chân núi, họ tiến vào một con đường mòn không rộng nhưng thẳng tắp, vượt qua một dòng suối hẹp, sau đó đi vào một vạt rừng nhỏ. Đi thêm một lúc nữa, ra khỏi khu rừng, họ liền nhìn thấy một sơn thôn.
Đến đầu thôn, ông lão chỉ vào tấm bia đá, nói:
- Tới rồi!
Ngô Diệu Tổ nhìn vào tấm bia, trên đó quả nhiên có viết ba chữ “Thôn Đại Minh”.
Do sắc trời nhập nhoạng, Ngô Diệu Tổ không nhìn ra tấm bia làm bằng loại đá gì, nhưng bia đá rất cao lớn, trên đỉnh bia còn khắc hai con rồng vờn bay chầu đầu vào nhau. Con rồng giương nanh múa vuốt, kín đáo toát ra một khí thế uy mãnh.
Ngô Diệu Tổ bảo thuộc hạ đưa mấy chiếc bật lửa tới, quan sát kỹ lưỡng nội dung bia đá: “Thôn Đại Minh, năm 1661 công nguyên, năm Vĩnh Lịch thứ 15, nơi ở đầu tiên của binh tướng Đại Minh. Ban đầu có hơn một ngàn người, đều là binh tướng theo hoàng đế Vĩnh Lịch tới Miến Điện. Sau đó có cư dân chuyển đi các nơi, nhưng vẫn tôn nơi này là đất tổ.”
Tấm bia này có lẽ là do người đời sau lập nên, nhưng niên đại cũng đã khá lâu đời, những con chữ dưới cùng, do bia đá bị phong hóa nên đã không còn nhìn rõ.
Quả nhiên là thôn Đại Minh. Ngô Diệu Tổ than thầm trong dạ.
Đang định quay sang hỏi ông lão cho kỹ lưỡng, mới phát hiện ra ông lão nãy giờ vẫn đi trước mặt lúc này chẳng thấy bóng dáng đâu nữa. Ngô Diệu Tổ hỏi Ngô Khải Văn:
- Ông cụ đâu rồi?
Ngô Khải Văn cũng rất đỗi ngạc nhiên:
- A, quái lạ thế nhỉ, vừa rồi vẫn ở đây mà, sao chớp mắt đã không thấy đâu nữa?
Mọi người tìm kiếm khắp nơi, nhưng chẳng thấy bóng dáng ông ta đâu cả.
Ngô Diệu Tổ bảo mọi người chuẩn bị sẵn sàng:
- Cẩn thận một chút, tôi cảm thấy nơi này rất bất thường.
Đúng là rất bất thường. Sơn thôn trước mặt, đổ nát tiêu điều, được xây dựa vào sườn núi, nhà cửa đều là nhà tranh mái cỏ, thấp bé mục nát. Đáng sợ nhất là, nguyên một vạt nhà tranh dày đặc đang chìm nghỉm trong bóng đêm mỗi lúc càng thêm đặc quánh, không có lấy một nhà sáng đèn.
Trước mặt họ, những ngôi nhà thấp lè tè ấy, xem ra giống như mộ địa hơn là một sơn thôn, âm khí trùng trùng.
Ngô Khải Văn nói:
- Đại ca, em cảm thấy thôn này có vẻ kỳ quặc.
Ngô Diệu Tổ không hổ là trùm ma túy, gan góc hơn người. Anh hạ giọng nói:
- Kỳ quặc thì cũng phải vào xem thử, nếu không thì chúng ta đến đây làm gì?
Mọi người đều cảnh giác cao độ, Ngô Diệu Tổ đi trước dẫn đầu, bước vào trong thôn.
Đã tiến lại gần dãy nhà tranh đầu tiên, tim ai cũng nhảy lên tận họng. Những gian nhà tranh lặng phắc tới đáng sợ, ngoài nhà cửa ra, không một bóng người, thậm chí chó gà cũng chẳng có. Nhưng đường đi lại rất bằng phẳng thẳng thớm, trông hệt như thao trường duyệt binh.
Mọi người thận trọng bước trên con đường trong thôn. Các gian nhà tranh đều đóng cửa kín bưng, phảng phất sát khí, dường như các binh sĩ Đại Minh vẫn đang rình nấp bên trong.
Không có một sinh vật sống nào, trên đường thậm chí còn không có lấy một cái cây.
Hình như ở chính giữa thôn có một quảng trường nho nhỏ. Trên quảng trường có một căn nhà hơi nhỉnh hơn một chút. Căn nhà này cao hơn hẳn, trước sau đều có sân. Trên quảng trường có khóa đá (1), bên cạnh còn có hai chiếc giá dùng để cắm binh khí. Cổng chính của căn nhà không quá cao lớn, nhưng đứng giữa vạt nhà tranh lụp xụp, lại nổi bật khác nào chim hạc giữa bầy gà, khí thế bất phàm.
(1) Tảng đá lớn được đẽo thành hình ổ khóa, các binh sĩ thời cổ thường dùng nó để rèn luyện thể lực.
Ngô Diệu Tổ biết, nơi này có lẽ là chỗ ở của thủ lĩnh trong thôn, hay nói cách khác là viên quan cấp cao nhất trong cánh quân Đại Minh này.
Thế nhưng, nơi đây tại sao lại không có lấy một bóng người?
Họ đã chuyển đi đâu cả rồi?
Đột nhiên, Ngô Diệu Tổ phát hiện thấy, bên trong dường như có ánh sáng hắt ra.
Do còn có cổng chính và tường bao ngăn cách, nên không nhìn rõ lắm, nhưng ánh sáng vẫn tạo thành một quầng sáng trên khoảng không trong sân. Ngô Diệu Tổ ra hiệu cho Ngô Khải Văn đẩy cổng ra. Ngô Khải Văn thu súng lại, bước lên phía trước, trước tiên đẩy khẽ một cái thăm dò. Cánh cổng dường như đã được chốt bên trong, đẩy không ra.
Ngô Diệu Tổ bước lên, đẩy thật mạnh, nhưng cánh cổng cứ như nặng nghìn cân, không hề nhúc nhích.
Quái lạ nhất là, thoạt nhìn thì cánh cổng không phải là khép chặt, nhưng lại không nhìn thấy bất cứ thứ gì qua khe cửa.
Đúng lúc này, Ngô Diệu Tổ cảm thấy miếng ngọc trên cổ đột nhiên phả hơi lạnh toát. Hơi lạnh buốt giá thấm qua da thịt, dường như xuyên thẳng tới tận tim, khiến anh cảm thấy trái tim như hóa thành băng giá. Không hay rồi, đã có chuyện! Qua lời nói của lão hòa thượng, anh biết miếng ngọc này có khả năng thông linh.
Ngô Khải Văn phát hiện ra miếng ngọc trên cổ Ngô Diệu Tổ lờ mờ tỏa sáng, liền hét lên:
- Đại ca, miếng ngọc của anh sao lại phát sáng?
Ngô Diệu Tổ nhìn xuống miếng ngọc trên cổ, đúng là nó đang tỏa ra ánh sáng lục rõ ràng. Anh hiểu, nơi này không thể ở lâu. Ánh đèn kia, e rằng không nên nhìn vào. Anh liền gọi thuộc hạ đi theo đường củ trở về.
Nhưng rắc rối là ở chỗ, họ đã không tìm thấy đường cũ đâu nữa.
Đi ra khỏi quảng trường, rẽ trái quay lại, đi thêm một lúc, họ mới phát hiện ra đã bị lạc đường.
Lúc vào trong thôn, họ không để ý xem mình đi vào từ ngã rẽ nào, bây giờ trước sau phải trái đều là những gian nhà tranh giống y hệt nhau, những con đường y hệt nhau, khắp bốn bề đều là lớp lớp nhà tranh vô cùng vô tận như mặt biển.
Đúng vậy, giống hệt như mặt biển, bọn họ đã rơi vào một biển nhà tranh. Họ giống như một con thuyền nhỏ lọt thỏm giữa biển khơi, hoảng hốt mất phương hướng trong đại dương vô tận.
Ngô Khải Văn hỏi anh:
- Đại ca, làm thế nào bây giờ?
Ngô Diệu Tổ nói:
- Đừng rẽ, đi thẳng về phía trước!
Họ liền đi thẳng về phía trước. Ngô Diệu Tổ liếc nhìn đồng hồ, thấy chỉ mười giờ đêm. Anh giật mình kinh ngạc, anh cảm thấy trời mới chỉ vừa sập tối, mà sao đã mười giờ rồi?
Đi được một lát, Ngô Diệu Tổ lại nhìn đồng hồ, không đúng, hình như chưa đi nổi mấy bước, nhưng lại đã hơn một tiếng đồng hồ trôi qua, đồng hồ chỉ mười một giờ mười phút.
Xung quanh vẫn là một biển nhà tranh.
Anh ngẫm nghĩ một lát, rồi bảo Ngô Khải Văn đi đốt nhà tranh.
Ngô Khải Văn vâng lời, lập tức tiến lên, đánh bật lửa, châm vào căn nhà tranh.
Sự việc quái dị đã xảy ra, những căn nhà tranh khô nỏ lại không hề bén lửa.
Ngô Diệu Tổ không tin, bảo các thuộc hạ mỗi người cởi một chiếc áo ra, chất trước cửa căn nhà tranh, để Ngô Khải Văn châm lửa. Quần áo vẫn dễ cháy như thường, bật lửa vừa ghé vào, đã lập tức bén lửa. Vừa định đưa ngọn lửa lại gần cánh cửa, thì căn nhà vụt cái đã biến mất.
Tất cả các căn nhà đều tan biến. Trước mắt chỉ còn lại một con đường rải cát bằng phẳng, phía xa xa có ánh đèn, sáng rực, vừa nhìn đã biết là ánh sáng đèn điện.
Ngô Diệu Tổ nói:
- Đi!
Mọi người nhìn thấy tia hy vọng, chân bước vùn vụt như gió cuốn, lao về phía ánh sáng của nhân gian.
Cũng chỉ một quãng đường ngắn ngủi, họ đã tới một ngôi làng. Ở đầu làng, họ nhìn thấy một cửa hàng, trong cửa hàng còn có người đang mua đồ. Ngô Diệu Tổ bước lại gần, hỏi thăm về ngôi làng có quán trọ khe Ngọc Thạch. Ông chủ ngẩn ra nhìn họ, rồi nói đi thẳng về phía trước, có một con đường lớn, rẽ trái, bên trái con phố chính là quán trọ này.
Hóa ra, lúc này, họ đang ở ngay trong ngôi làng ấy.

Quay về quán trọ, bà chủ hỏi họ đã đi đâu, sao muộn thế này mới về.
Ngô Diệu Tổ đáp:
- Đi dạo loanh quanh thôi.
Bà chủ thấy họ có vẻ như không muốn trả lời, cũng không hỏi nữa. Mọi người trải qua một vố hãi hùng, đã mệt rũ rượi, bèn tắm qua loa rồi đi ngủ.
Sáng hôm sau, họ đã gặp ông chủ nhà nghỉ, một người đàn ông cao lớn, khuôn mặt đen sạm.
Ngô Diệu Tổ ăn sáng xong, liên bắt chuyện với ông chủ.
Ông chủ ít nói, nhưng khá nhiệt tình. Thấy Ngô Diệu Tổ tỏ ra rất thích thú với thứ trà do ông tự tay sao lấy, bèn nói:
- Loại trà này gọi là trà Đại Minh, hái trên một quả núi nhỏ cách đây khoảng bốn năm dặm về phía bắc.
Trà Đại Minh? Ngô Diệu Tổ sực nhớ lại chuyện tối qua, bèn hỏi:
- Gần đây có thôn Đại Minh phải không?
Ông chủ liếc nhìn anh, rồi nói:
- Không có. Thôn này rất hẻo lánh. Cách đây ba mươi dặm về phía đông có một thôn xóm của người Miến Điện, ngoài ra không còn thôn xóm nào khác nữa.
Ngô Diệu Tổ vẫn không nản lòng, anh cảm thấy tấm bia đá tối qua không phải vô duyên vô cớ mà có.
Anh dẫn thuộc hạ, đi tới bờ sông một lần nữa, tiếp tục lần theo tuyến đường tối qua.
Họ đã thuận lợi tìm thấy chỗ đã gặp ông lão râu trắng. Đi theo con đường ông lão đã dẫn họ đi, quả nhiên tìm thấy một con đường mòn. Nhưng con đường mòn không bằng phẳng sạch sẽ như tối hôm qua, mà cỏ dại mọc dày, may mà không có cây cối gai góc, nên họ cứ thế tiến lên theo con đường đã đi tối qua.
Vòng qua chân núi, vẫn là băng qua một vạt rừng nhỏ, cây cối thẳng hàng, con đường mòn trong rừng nhỏ hẹp, vẻ như chỉ đủ cho một chiếc xe bốn chỗ đi qua, nhưng khác với đoạn đường vừa đi qua lúc nãy, đoạn đường ở đây rất bằng phẳng sạch sẽ, không có cỏ dại, như thể ngày nào cũng có người chăm chút. 
Vẫn là đi qua một cây cầu nhỏ, rồi lại tới một cánh rừng, trước mặt là một sườn núi thoai thoải. Sườn núi rộng rãi khác thường, cỏ hoang rậm rạp, thi thoảng lại có vài bụi cây lúp xúp nhô lên trên cỏ dại. Tối hôm qua, chính tại sườn núi này, là lớp lớp nhà tranh vô cùng tận, bây giờ một căn cũng chẳng có.
Trước mặt có lẽ là nơi đặt tấm bia đá, bây giờ chỉ là một cồn đất nhỏ, bên trên không biết bị ai quăng lên cả đống cành cây và cỏ dại.
Nhìn đống cỏ dại, Ngô Diệu Tổ cứ cảm thấy như nó đang che giấu thứ gì.
Anh bảo thuộc hạ dọn dẹp đống cỏ dại, vứt cành cây đi, quả nhiên bên dưới lộ ra hai con rồng vờn trên nóc bia hình mũ. Ngô Diệu Tổ cho người vào trong thôn tìm lấy cái cuốc, mấy người thay nhau đào bới, một lúc sau, tấm bia đá đã hiện ra.
Ngô Diệu Tổ lại tìm dụng cụ quét cạo sạch sẽ bùn đất dính trên mặt bia, dòng chữ trên bia đã hiện ra rõ ràng, không sai một chữ so với những gì nhìn thấy tối qua.
Nơi này đã từng là thôn Đại Minh, thế nhưng thôn Đại Minh đã đi đâu mất rồi?
Ngô Khải Văn hỏi:
- Đại ca, anh nói xem, thôn xóm phía trước kia có phải là thôn Đại Minh chuyển tới không?
Ngô Khải Văn ngẫm nghĩ một lát, thấy chuyện này cũng không phải là không thể. Đương nhiên cũng có một khả năng khác, chính là người trong thôn Đại Minh này đã chết hết, rồi nhiều năm sau, người khác lại lập ra một thôn khác ở phía trước.
Cho dù thế nào đi nữa, nơi này vẫn chính là thôn Đại Minh.
Thế thì, Namhsan cũng chính là ngọn núi ở phía nam thôn.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Độc Chú (Hạ Long Hà)

Postby bevanng » 01 Oct 2016

8. ĐỘC CHÚ

Ngô Diệu Tổ cho thuộc hạ chôn lại tấm bia như cũ, xong rồi, họ lại men theo con đường mòn quay về quán trọ. Bà chủ đang giặt quần áo trong sân, Ngô Diệu Tổ lên tiếng chào, sau đó hỏi chị ta:
- Ngọn núi bên kia tên là Namhsan phải không?
Bà chủ cười mà nói:
- Chúng tôi không gọi là Namhsan, chúng tôi gọi là Namh Ying. Trên ngọn núi đó toàn là mồ mả, đã có từ mấy trăm năm về trước.
Ngô Diệu Tổ thầm nhủ: “Thế thì đúng là nó rồi.”
Anh hỏi tiếp:
- Trên núi có loài hoa tên là hoa người chết phải không?
Bà chủ mặt hơi biến sắc, nói:
- Có, nhưng loài hoa đó chỉ mọc ở những ngôi mộ cổ xưa trong núi. Những ngôi mộ cổ xưa âm khí rất nặng, đi vào sẽ mất mạng, rất hiếm khi có người dám tới.
Ngô Diệu Tổ nói:
- Cảm ơn chị.
Bà chủ ngẩng đầu lên nhìn anh, rồi nói:
- Chỗ những ngôi mộ cổ xưa, không thể đi vào được đâu, nghe nói có ma đấy. Thường xuyên có người lạc đường nhìn thấy một thanh niên đẹp trai đang trồng hoa trên những ngôi mộ cổ. Các anh hỏi thăm chỗ đấy làm gì?
Ngô Diệu Tổ đáp:
- Ổ, tiện miệng hỏi thôi.
Bọn họ lái xe ra, men theo con đường dưới chân núi, vòng tới sườn núi phía nam, đổ xe dưới chân núi rồi bắt đầu trèo lên.
Ngô Diệu Tổ biết, gã trai kia chắc chắn đang chờ họ. Ngô Diệu Tổ đã được lĩnh giáo bản lĩnh của gã, anh biết, cái kẻ thần thông này có thể tìm đến mình, chắc chắn là có nguyên nhân. Hôm nay tới đây chính là để làm rõ ngọn nguồn, hóa giải nghi vấn. Họ tuy có súng có người, nhưng lại không phải là đối thủ của những sức mạnh thần bí kia. Cho nên, anh gần như chẳng chuẩn bị gì, những thứ trừ tà như gạo nếp, chu sa, tiết chó, anh đều không mang theo.
Đoạn đường núi thoạt đầu còn khá bằng phẳng, nhưng càng lên cao lại càng dốc, mặt đường cũng mỗi lúc một xấu. Đường núi vì dựa theo thế núi, nên thường xuyên vòng vèo rẽ ngoặt trong rừng cây thưa thớt. Sau khi họ đã rẽ ngoặt nhiều tới mức không còn phân biệt được đông tây nam bắc, địa thế trước mắt đột nhiên trở nên trống trải.
Trước mắt họ xuất hiện một vạt mộ phần. Họ nhìn những ngôi mộ trải dài bất tận như một đại dương trước mắt, hệt như đột ngột bị hàng ngàn hàng vạn đôi mắt chằm chằm nhìn vào, cảm giác vô cùng nhột nhạt.
Những ngôi mộ được sắp xếp dựa vào núi, nên từ phía dưới nhìn lên, cảm giác như không thấy điểm tận cùng, càng lên trên càng thu hẹp. Tuy nhiên, đoạn cuối cùng dường như có một cánh rừng, không biết là nơi đó không có mồ mả, hay là mồ mả đã bị cây rừng che lấp.
Họ đi theo con đường mòn ở giữa khu mộ, leo lên phía trên.
Những ngôi mộ ở dưới cùng hiển nhiên là mộ mới. Có ngôi mộ bên trên còn chèn giấy, trước mộ thấy có tro tiền vàng. Càng đi lên trên, càng thấy hoang lương. Có ngôi mộ rõ ràng không có hậu duệ, nấm đất thấp lè tè, cỏ dại phủ kín. Có ngôi mộ thì nhận ra vẫn có người chăm nom, nấm mộ trông cao to sạch sẽ. Trạng thái sinh tồn ở dương gian, tại đây đã được chuyển hóa sang một phương thức khác, càng trở nên kỳ dị và phô trương.
Đám Ngô Diệu Tổ vừa đi vừa nhìn, họ tên đề trên các bia mộ muôn hình vạn trạng, nhưng có một điểm tuyệt đối thống nhất, đó chính là nguyên quán. Tất cả nguyên quán đều là Nam Kinh.
Ngô Diệu Tổ từng nghe nói về gốc gác của những tướng sĩ triều Minh trước đây, họ phần lớn đều theo hoàng đế Vĩnh Lịch từ Nam Kinh bôn ba lưu lạc tới đây, nguyên quán thực sự có lẽ là khắp mọi vùng miền của Trung Hoa, nhưng sau khi tới Miến Điện, thì Nam Kinh - cố đô của vương triều cũ, đã trở thành một dấu ấn, một mật mã, một mối xúc cảm trong tâm khảm họ, nguyên quán thực sự cũng vì thế mà trở nên không còn quan trọng.
Nam Kinh và trái núi nhỏ vô danh ở Miến Điện này đây, vượt qua không gian và thời gian, đã kết thành một mối ràng buộc khác thường như vậy đấy.
Trái núi thoạt nhìn không phải là cao lắm, nhưng họ đã trèo rất lâu rồi. Ngẩng đầu nhìn lên, vẫn miên man không thấy đỉnh đâu.
Ngô Khải Văn thình lình hét toáng lên: “Hoa người chết!”
Quả nhiên ven đường mòn, xuất hiện mấy đóa hoa rực rỡ, đúng là loại hoa mà gã trai đã mang đến cho họ. Lúc này, chúng mọc rải rác hai bên vệ đường, lộng lẫy, si tình, tựa như thiên thần tại một cõi nước khác, tuyệt đẹp và quyến rũ.
Ngô Diệu Tổ hết nhìn lên rồi lại nhìn xuống, trên đoạn đường phía dưới, một bông hoa cũng không có, còn đoạn đường phía trên hoa lại mỗi lúc một nhiều. Cứ như chỗ này là một giới tuyến, có tồn tại một mốc dấu nào đó.
Càng lên cao, lại càng cảm thấy âm u lạnh lẽo. Vừa mới đây thôi còn mệt đến nỗi mồ hôi vã đầm đìa, chỉ thoáng chốc đã thấy mát rượi. Thoạt đầu, mọi người đều lấy làm mừng vì đã hết nóng nực, nhưng đi thêm một lúc, họ đã không còn mừng nổi nữa. Càng đi lên, càng thấy  lạnh, cứ như trên đỉnh núi có một dàn máy lạnh khổng lồ, đang ồ ạt táp hơi lạnh xuống phía dưới.
Mắt thấy đã gần đến đỉnh núi, cách khu rừng mỗi lúc một gần, mồ mả cũng không còn dày đặc nữa, các nấm mộ cũng mỗi lúc càng thấp bé, sạt lở, cũ kỹ. Rất nhiều nấm mộ đã gần như bị san bằng. Hiển nhiên, trước vô số các vị tổ tiên trong mấy trăm năm trời, con cháu đời sau đã không còn hơi sức đâu mà chăm nom nữa, đành bỏ mặc cho tàn tạ. Có lẽ thêm vài chục năm, thậm chí là vài năm nữa thôi, rất nhiều ngôi mộ sẽ không còn dấu tích, mà hòa làm một thể với núi rừng.
Lúc này, họ đã lên tới gần khu rừng trên đỉnh núi, hơi lạnh lẽo mỗi lúc càng thêm ghê gớm. May mà họ đang vận động cường độ cao, nếu không thì cả đám chắc đã rét cóng.
Sườn núi bên dưới khu rừng khá thoải. Theo suy đoán của Ngô Diệu Tổ, trên đỉnh núi có lẽ không có mồ mả, hoặc là nếu có, hẳn cũng xói mòn hết cả rồi. Song thật bất ngờ, phần mộ trên đỉnh núi lại nhô cao như mới đắp, ngay ngắn, sạch sẽ, sửa sang trông còn đẹp hơn cả công viên nghĩa trang ở Mandalay, hiển nhiên có người thường xuyên tới đây chăm chút.
Giữa các ngôi mộ, hoa người chết nở từng vạt lớn. Dường như đây chính là quê hương của chúng, nên chúng cứ mặc tình mà nở một cách phóng túng, rực rỡ và ngay hàng thẳng lối, đồng thời lại toát lên một vẻ trang trọng, toát lên một ý tình. Dường như chúng đang dùng số lượng đông đảo, dùng vẻ đẹp tinh tế để miêu tả về nhân tính của âm gian.
Ngô Diệu Tổ cảm thấy những bông hoa trong thời khắc này đã không còn vẻ tà ác như khi xuất hiện tại công ty mình nữa, mà trở nên thánh thiện và vĩ đại.
Ngô Khải Văn đưa cánh tay huých vào người Ngô Diệu Tổ, nói:
- Đại ca, anh nhìn hướng của những ngôi mộ này xem.
Ngô Diệu Tổ lúc này mới chú ý, tất cả những ngôi mộ đều quay về hướng bắc. Những ngôi mộ trên đỉnh núi có lẽ là phần mộ của những tướng sĩ triều Minh tới Miến Điện sớm nhất. Xa cách quê nhà, chết nơi đất khách, nỗi lòng thê thiết của họ, hiển nhiên người khác khó lòng hiểu thấu. Vì thế, quê hương là nơi họ nằm mơ cũng khao khát được quay về. Trong giấc mơ cũng không về được, thế thì làm ma mà trở lại quê hương.
Những ngôi mộ ở ngoài rìa khu rừng quay về phía nam, đoàn người đang trèo về phía những ngôi mộ đó, nên lúc này, những ngôi mộ đang quay lưng lại với họ.
Ngô Diệu Tổ nói:
- Họ muốn quay về quê đấy.
Phương bắc chính là quê hương mà họ nhớ nhung khắc khoải ngày đêm. Thế nhưng, họ tuy có nhà mà khó lòng quay về, có nước mà không thể trở lại, tâm nguyện chưa thỏa, đành phải kéo dài tới âm gian. Hoa người chết còn được gọi là hoa bỉ ngạn (1), có lẽ ở bờ bên kia xa xôi nơi họ đang dõi tới, cũng có những đóa hoa đang chào đón họ.
(1) Bỉ ngạn có nghĩa là bờ bên kia.
- Phía trước có người. - Ngô Khải Văn đột nhiên hoảng hốt kêu khẽ lên một tiếng.
Ngô Diệu Tổ ngẩng đầu nhìn về phía trước, quả nhiên, dưới một gốc đa, có người đang đứng quay lưng về phía họ,
Đám Ngô Khải Văn định rút súng ra, nhưng Ngô Diệu Tổ ngăn lại.
Anh thấy bóng người này quen quen.
Ngô Diệu Tổ bước tới, đứng sau lưng người đó, cung kính khom lưng, nói:
- Xin chào cụ.
Người đó quay lại, đám Ngô Khải Văn đểu kinh hãi thất sắc, quả nhiên là ông lão tìm ngọc dưới lòng sông hôm trước, ông lão râu tóc bạc phơ, song mặt mày quắc thước.
Ông lão gật đầu, đáp:
- Chào Ngô tiên sinh.
Ngô Diệu Tổ nói:
- Không biết cụ dẫn bọn cháu tới đây, có gì căn dặn?
Ông lão gật đầu, nói:
- Đã tới rồi, trước tiên cho anh gặp một người đã.
Ông lão quay người, bước tới bên cạnh cây đa, cây đa bất ngờ biến thành một cánh cửa. Ông lão đập cửa, cánh cửa liền mở rộng, từ bên trong có một người đi ra.
Người này tuy trông ít tuổi hơn ông lão ít nhiều, nhưng tinh thần thì lại không bằng.
Ông ta nhìn Ngô Diệu Tổ, rồi khẽ nói:
- Diệu Tổ, con tới rồi đấy à?
Ngô Diệu Tổ cảm thấy người này trông rất quen, nhưng nhất thời không nhớ ra được là ai.
Ông lão tóc bạc thấy Ngô Diệu Tổ không nói năng gì, liền giận dữ quát lên:
- Ngô tiên sinh, còn không chịu chào cha mình à?
Cha! Ngô Diệu Tổ nhìn kỹ, quả nhiên người này trông rất giống ông nội, chỉ là không được cao lớn bằng ông.
Ông ta mặt lạnh băng đứng ở một bên, dường như sự việc trước mắt chẳng liên quan gì tới mình.
Ngô Diệu Tổ bước tới trước mặt ông ta, quan sát thật kỹ rồi hỏi:
- Ông đúng là cha tôi?
Ông ta đáp:
- Diệu Tổ, ta có phải là cha của con hay không, đã không còn quan trọng nữa. Ông nội con có khỏe không?
Nhắc tới “ông nội”, trong mắt ông ta bỗng ứa lệ.
Ngô Diệu Tổ trả lời:
- Khỏe, ông rất khỏe. Cha, sao cha lại ở đây?
Cha anh lại lấy lại vẻ bình thản, nói:
- Đây là ý trời.
Ngô Diệu Tổ còn muốn nói thêm vài điều với cha, thì ông ta đã xua tay, rồi quay người đi thẳng. Đi tới dưới gốc đa, ông ta quay lại nhìn Ngô Diệu Tổ một cái, rồi dứt khoát đi vào bên trong. Cây đa dường như mở ra một cánh cửa, đợi ông ta đi vào rồi, lại tự động đóng lại.
Ngô Diệu Tổ nhìn về phía người cha vừa biến mất mà thẫn thờ. Khi cha anh mất tích, Ngô Diệu Tổ vừa mới biết nhớ, trong ký ức của anh, cha anh là một thanh niên tráng kiện. Bốn mươi năm rồi, cha anh nay đã già đến thế.
Ông lão tóc bạc nhìn Ngô Diệu Tổ, thở dài một tiếng, nói:
- Đời người một kiếp, cây cỏ một mùa. Đáng tiếc, rất nhiều người không hiểu.
Ngô Diệu Tổ khom lưng trước ông lão, nói:
- Thưa cụ, tôi muốn đón cha tôi về nhà, mong cụ đồng ý.
Ông lão nói:
- Là cha anh tự nguyện tới đây, cha anh có thể quay về bất cứ lúc nào. Nhưng có một việc, vẫn mong Ngô tiên sinh giúp cho.
Ngô Diệu Tổ nói:
- Nếu có thể đón cha tôi về nhà, chỉ cần là việc tôi có thể làm được, xin cụ cứ căn dặn.
Ông lão nói:
- Việc này nói ra thì đơn giản, nhưng lại không hề đơn giản. Anh hãy đưa miếng ngọc bội trên người cho ta.
Ngô Diệu Tổ tháo miếng ngọc ra, đưa cho ông lão.
Ông lão đón lấy, nhìn miếng ngọc, sắc mặt bỗng trở nên buồn thảm. Ồng ta thốt lên:
- Đáng thương thay, một lòng khổ tâm đã thành mây khói.
Ngô Diệu Tổ đang ngơ ngác, thì ông lão đột ngột giơ tay vỗ lên đầu anh một cái. Động tác của ông lão nhanh đến không ngờ, Ngô Diệu Tổ không né kịp, bị vỗ trúng, lão đảo vài cái rồi đổ gục xuống đất.
Đám Ngô Khải Văn kinh hãi, vội rút súng ra chĩa vào ông lão. Họ còn chưa kịp nổ súng, bỗng cảm thấy khẩu súng trong tay lạnh lẽo dị thường, hơi ấm trong tay cũng bị khẩu súng hút lấy, nguyên cả cánh tay chớp mắt dường như đã biến thành khối băng, ngón tay không thể nào nhúc nhích, cả bàn tay cứng dơ, súng cứ thế rơi thẳng xuống đất.
Họ vội vàng cúi xuống nhặt. Tay còn chưa kịp chạm vào súng, đã bỏng giãy như bị lửa thiêu.
Hóa ra, cảm giác lạnh cóng tới cực độ lại giống hệt như bị bỏng.
Họ nhìn ông lão, ông lão bèn nói:
- Các vị đừng hoảng hốt, Ngô tiên sinh sẽ tỉnh lại ngay thôi.
Còn chưa dứt lời, đằng sau ông lão vụt hiện lên một người, chính là gã trai giao hoa.
Song gã trai lại không ăn vận như hôm trước, mà áo dài bên trong, áo chẽn ngắn mặc ngoài, trông cách ăn vận rành rành là một thanh niên anh tuấn thời xưa. Cậu ta sờ vào đầu Ngô Diệu Tổ một cái, Ngô Diệu Tổ liền tỉnh lại. Nhìn thấy cậu thanh niên, Ngô Diệu Tổ kinh hãi kêu lên một tiếng, hoảng hốt bò dậy.
Mọi người thấy Ngô Diệu Tổ vẫn nguyên lành, thì đều thở phào nhẹ nhõm.
Cậu thanh niên vái chào Ngô Diệu Tổ, nói:
- Xin chào ông chủ Ngô.
Ngô Diệu Tổ nói:
- Hai vị có lẽ là người ủng hộ Đại Minh, đáng tiếc lòng người bạc bẽo. Tôi từ ngàn dặm xa xôi tới đây, chỉ vì muốn tìm hiểu cho rõ sự tình, không ngờ các vị lại lén lút ra tay độc ác, mà làm hại tôi.
Cậu thanh niên lạnh lùng cười lên mấy tiếng, nói:
- Ông chủ Ngô, chúng ta làm việc xưa nay quang minh lỗi lạc, còn dạng người xấu xa nhỏ mọn mà ngươi vừa nói, hẳn là nhà họ Ngô các ngươi. Còn nhớ năm xưa, cụ tổ Ngô Tam Quế nhà ngươi lừa được lòng tin của hoàng đế Đại Minh, được ủy thác trọng trách, nào ngờ ngoài miệng nói là giả đầu hàng, kỳ thực lại giở mánh khóe tiêu diệt Đại Minh. Loại người này, đại gian đại ác, bị tru di cửu tộc, cũng chẳng có gì sai. Nhiều năm trước, ta nhận lệnh truy sát nhà họ Ngô, nhưng rồi nghe theo ý tốt của Lý tiên sinh, mới tha mạng cho ông nội Ngô Cương của ngươi, chỉ bảo ông ta sáu mươi năm sau, hãy trả lại miếng ngọc mà hoàng đế Đại Minh đã tặng cho Ngô Tam Quế là được. Thật không ngờ, người nhà họ Ngô các ngươi lòng gian không đổi, lại dùng ngọc giả qua mắt ta. Những câu bất nhân bất nghĩa, mặt người dạ thú, dùng cho người nhà họ Ngô các ngươi là thích hợp không gì bằng!
Ngô Diệu Tổ nghe mà kinh hãi:
- Ông nội tôi? Ông nội tôi quen anh à?
Thiếu niên giận dữ nói:
- Đương nhiên. Sáu mươi năm trước, chính tại nơi này, ông ta đã từng thề lên thề xuống, nói là sẽ trả ngọc lại cho ta. Chúng ta không tham lam gì ngọc bội, mà vì miếng ngọc đó không phải vật tầm thường, có liên quan tới sự an toàn của lăng mộ nhà Minh. Quỷ bộc ta cho dù xác hồn tan nát, cũng phải thu hồi cho bằng được.
Ngô Diệu Tổ nghi hoặc hỏi:
- Đúng là ông nội tôi đã đưa ngọc giả cho anh?
Ông lão tóc bạc tiếp lời:
- Đúng! Nếu không, miếng ngọc thật tại sao lại ở trên người anh.
Ngô Diệu Tổ nhìn miếng ngọc bội, bỗng sực nhớ tới lời của lão hòa thượng ở chùa Phật Tổ. Trong ấn tượng của anh, ông nội tuy là trùm ma túy, nhưng vẫn là một người quang minh lỗi lạc, không thể dùng thủ đoạn hèn hạ đó để lừa gạt họ. Lẽ nào là do lão hòa thượng? Ông ta nói miếng ngọc bội có liên quan tới sự hưng thịnh của nhà họ Ngô về sau, ông nội vì nghĩ cho gia tộc, khó tránh khỏi sẽ làm ra những việc hồ đồ.
Nhưng bây giờ, anh đã biết được lai lịch của miếng ngọc bội, cảm thấy một vật thế này, nên trả lại cho người ta mới đúng, liền nói:
- Thế thì miếng ngọc của tôi hôm nay xin trả lại cho các vị. Tôi có thể đưa cha tôi về nhà được chưa?
Cậu thanh niên nói:
- Không phải chỉ một miếng. Ở nhà họ Ngô các ngươi, tổng cộng có ba miếng ngọc. Ba miếng ngọc này hợp lại với nhau sẽ thành một Thái cực đồ, có thể tương ứng từ xa với ngọc trong lăng nhà Minh, mở được lăng mộ. Ông nội ngươi chắc chắn đã biết được huyền cơ này, nên mới không chịu giao ngọc cho chúng ta.
Ngô Diệu Tổ cảm thấy nói như vậy đúng là vu oan cho ông nội anh. Nhà họ Ngô tuy chưa thể nói là hàng cự phú, nhưng tuyệt đối không cần thiết phải đi trộm mộ. Anh bèn nói:
- Thế này đi, tôi sẽ về nhà hỏi ông nội cho rõ ràng, nếu ba miếng ngọc mà anh nói đều ở nhà họ Ngô, tôi chắc chắn sẽ tìm cho bằng được, rồi mang tới cho anh.
Cậu thanh niên nói:
- Mong là được như vậy.
Ông lão tóc bạc nói:
- Ngô tiên sinh, còn có một việc cần phải nói cho anh biết. Miếng ngọc này, nhất định anh phải tìm được và mang tới đây trong vòng bốn mươi chín ngày. Nếu không, khí độc trên đầu anh sẽ phát tác, mà nguy hiểm tới tính mạng.
Ngô Diệu Tổ thất kinh:
- Ông hạ độc tôi à?
Ông lão không nói gì, cậu thanh niên bèn cướp lời:
- Ông ấy chỉ vì muốn tốt cho ngươi, nên mới ra tay hạ độc chú với ngươi trước. Nếu để ta ra tay, hừm, thì ngươi phải nửa tháng tới một lần.
Ngô Diệu Tổ giận tới nghiến răng nghiến lợi, nói:
- Đại Minh có loại người như thế này, chẳng trách kết cục bi thảm.
Cậu thanh niên vung tay lên định xông tới, nhưng bị ông lão cản lại. Ông lão nói:
- Ngô tiên sinh xin đừng nóng giận. Việc này nên trách nhà họ Ngô hết lần này tới lần khác thất tín mới phải. Đầu tiên là cụ tổ anh thất tín với Đại Minh. Ông nội anh Ngô Cương nhờ ta giúp đỡ cứu mạng, nhưng lại thất tín với ta và quỷ bộc. Quỷ bộc năm xưa đã hứa tha cho ông nội anh và nhà họ Ngô một con đường sống, ngài ấy là người nhất ngôn cửu đỉnh, vì thế tuy ông nội anh lừa gạt ngài ấy, ngài ấy cũng không ra tay tàn sát nhà họ Ngô, mà chỉ giở vài chiêu vặt để nhắc nhở anh mà thôi. Kỳ thực, cho dù ngài ấy muốn giết ai trong nhà họ Ngô, cũng đều dễ như trở bàn tay. Ngọc bội của Đại Minh, nếu ngài ấy thực sự muốn ra tay, cũng có thể cướp về được. Nhưng như thế thì không hợp với quy củ. Ngọc đó năm xưa là do hoàng đế Đại Minh ban tặng cho nhà họ Ngô, nếu ngài ấy cướp về, lại là làm trái với thánh chỉ của Minh đế. Vì vậy, ngài ấy mong muốn mọi việc viên mãn và hợp tình hợp lý. Lời đã nói tới đây, hy vọng Ngô tiên sinh thông cảm. Chúng ta làm như thế này, quả thực là bất đắc dĩ.
Ngô Diệu Tổ ngẫm nghĩ, cảm thấy ông lão nói rất có lý. Nếu đúng là ông nội đã lừa họ, thì quả thực là quá đáng. Anh lại nghĩ tới cha mình, liền hỏi:
- Thưa cụ, tôi muốn biết bố tôi tại sao lại tới đây?
Ông lão đáp:
- Đây là duyên phận của nhà họ Ngô các anh với Đại Minh. Đợi lần sau anh tới, tự nhiên anh sẽ biết được.
Ngô Diệu Tổ lại hỏi:
- Thế còn có hai miếng ngọc nữa, tôi phải làm thế nào mới tìm được?
Ông lão đưa miếng ngọc trong tay cho Ngô Diệu Tổ, nói:
- Việc này anh không cần lo lắng, miếng ngọc có duyên với anh, tới lúc đó anh chắc chắn sẽ biết. Tuy nhiên, tôi có thể gợi ý cho anh một điều, Ngô Cương ông nội anh khẳng định là có biết.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Độc Chú (Hạ Long Hà)

Postby bevanng » 01 Oct 2016

Chương 4 ĐỌ SỨC

1. CHẠY TRỐN

Đám Ngô Cương quay trở về ngôi nhà tranh của Lý Phục Minh. Lý Phục Minh bảo hương chủ Tề thông báo cho dân chúng quay về, sai người làm một bữa cơm thịnh soạn, khoản đãi đám Lý Đức Lượng.
Bữa cơm này khiến cho Lý Đức Lượng vô cùng cảm khái. Những người trước mặt đều là hậu duệ của quan binh triều Minh, còn mình và Ngô Cương lại là hậu duệ của hàng tướng triều Minh, năm xưa hai bên chưa biết chừng còn so đao đấu kiếm, chỉ một lòng muốn giết chết đối phương. Giờ đây, hậu duệ đời sau lại vui vẻ nâng chén chuyện trò, thời gian quả thực là một ảo thuật gia siêu hạng.
Sau bữa rượu, hương chủ Tề kéo Lý Đức Lượng cùng tới uống trà. 
Hương chủ Tề hỏi Lý Đức Lượng là người ở đâu, Lý Đức Lượng giống như những tướng sĩ cũ của triều Minh, nói rằng mình là người Nam Kinh, tổ tiên của ông đi lính ở Nam Kinh, sau đó theo Ngô Tam Quế chạy trốn xuống phía nam, tới Miến Điện. Ở đây, chỉ cần nói mình là người Nam Kinh, người ta liền biết anh là hậu duệ của các tướng sĩ cũ triều Minh.
Hương chủ Tề nghe Lý Đức Lượng tự xưng mình là người Nam Kinh, thì cười mà nói:
- Ông chủ Lý e rằng không phải người Nam Kinh?
Lý Đức Lượng hỏi lại:
- Hương chủ có ý gì?
Hương chủ Tề đáp:
- Không có ý gì khác. Tất cả đều là người Hán, chỉ bằng cứ nói thật thì tốt hơn, nếu không, sẽ chẳng thể kết giao bạn bè ở đây được.
Lý Đức Lượng thấy lời nói của hương chủ Tề có ẩn ý, liền hỏi tiếp:
- Hương chủ có ý gì?
Hương chủ Tề cười cười, nói:
- Không có ý gì khác. Ở đây đều là hậu duệ của tướng sĩ cũ nhà Minh, nếu thân phận của ngài và Ngô công tử đây bị bại lộ, ha ha…
Lý Đức Lượng biết tay hương chủ này có ý đồ bất trắc.
Ông lạnh lùng liếc nhìn hắn, rồi nói:
- Hương chủ có gì chỉ giáo? 
Nụ cười của hương chủ Tề trở nên ôn hòa, hắn nói:
- Ông chủ Lý là người thấu suốt, thế thì tốt, tôi cũng nói thẳng nhé, tôi muốn hợp tác làm ăn với ông chủ Lý, không biết ý ông thế nào?
Lý Đức Lượng bình thản hỏi:
- Hợp tác như thế nào?
Hương chủ Tề nói nhẹ như không:
- Việc này cứ tùy ông chủ Lý lựa chọn.
Lý Đức Lượng nói:
- Tôi muốn nghe thử ý kiến của hương chủ trước.
Hương chủ Tề nghĩ ngợi một lát rồi nói:
- Tôi có mấy cách, có thể đưa cho ông chủ Lý lựa chọn. Thứ nhất, ông chỉ cần lo buôn bán, chúng tôi sẽ phụ trách bảo hộ, ông nên tin tưởng vào thế lực của hội Tam Hoàng. Có chúng tôi bảo hộ, việc kinh doanh của ông có thể triển khai trên khắp thế giới.
Lý Đức Lượng cung kính đáp:
- Cảm tạ hương chủ. Thuộc hạ của tôi đã đủ để bảo vệ cho việc buôn bán lặt vặt của tôi.
Hương chủ Tề lạnh lùng nói:
- Nếu người của tôi không thể giúp ông buôn bán, mà trở thành cướp thì sao?
Lý Đức Lượng nói:
- Tôi cảm thấy đường đường là hội Tam Hoàng, chắc không tới mức lại đi làm thổ phỉ.
Hương chủ Tề cười ha hả, nói:
- Ông chủ Lý đúng là đánh giá chúng tôi quá cao rồi. Hội Tam Hoàng cũng phải ăn cơm chứ. Không có cơm ăn, đám anh em của chúng tôi đừng nói là làm cướp, đến giết người cũng dám.
Lý Đức Lượng nói:
- Xin hương chủ nói ra cách thứ hai.
Hương chủ Tề nói:
- Cách thứ hai là cách tôi đã nghĩ rất nhiều cho ông chủ Lý đấy. Bên chúng tôi cũng tự thu mua thuốc phiện, tự vận chuyển, nhưng làm phiền ông chủ Lý giúp đỡ dẫn dắt các anh em. Sau này, ai làm việc người nấy, không xâm phạm lẫn nhau.
Lý Đức Lượng bèn hỏi hắn:
- Dám hỏi hương chủ Tề, việc này có phải là ý của đường chủ không?
Hương chủ Tề nói xa xôi:
- Ý của ai không quan trọng, quan trọng là ông chủ Lý rốt cuộc lựa chọn cách hợp tác nào.
Lý Đức Lượng ngẫm nghĩ, rồi nói:
- Hương chủ Tề có thể đợi tôi cân nhắc một thời gian không?
Hương chủ Tề tỏ ra rộng rãi:
- Việc này không thành vấn đề. Dù sao ngày mai các vị mới đi, xin ông chủ Lý ngày mai cho tôi câu trả lời là được.
Lý Đức Lượng nói: 
- Được!
Hương chủ Tề hỏi:
- Thế thì cứ quyết định như vậy nhé!
Lý Đức Lượng nói:
- Quyết định!
Hương chủ Tề chào Lý Phục Minh, rồi dẫn thuộc hạ ra về.
Thiên Phúc và Ngô Cương bước lại, hỏi Lý Đức Lượng, tên hương chủ kia vừa nói gì với ông, Lý Đức Lượng bèn nói:
- Không có gì, nói chuyện phiếm mà thôi.
Buổi chiều, Lý Đức Lượng bảo Lý Phục Minh đưa ông ta ra ngoài dạo quanh.
Lý Phục Minh liền dẫn Lý Đức Lượng và đám Ngô Cương đi lòng vòng khắp nơi. Nơi đây có sông có núi, phong cảnh tuyệt đẹp, còn có một dải đồng bằng quý báu, có thể trồng lúa nước. Quả là một chốn tốt lành.
Ngô Cương chỉ mải mê ngắm phong cảnh, còn Lý Đức Lượng liên tục hỏi han Lý Phục Minh về các nẻo đường đi. Lý Phục Minh đắc ý nói với Lý Đức Lượng rằng, nơi này có thể nói là thông suốt bốn phương tám hướng, lại dễ thủ khó công. Nếu có địch tới tấn công, có thể rút vào khu rừng rậm sau núi, trong rừng có con đường mòn, thông thẳng tới đường cái, hết sức thuận tiện, nhưng không phải người thạo đường thì vào được mà không thể ra được.
Lý Đức Lượng hỏi:
- Thế nào là vào được mà không ra được?
Lý Phục Minh đáp:
- Khi cụ tổ tôi còn sống ở đây, triều đình nhà Thanh nhiều lần phát binh vây quét. Họ đã dựa vào trận pháp trong Kỳ môn độn giáp, đốn cây trong rừng rậm để tạo thành một con đường nhỏ. Nếu không am hiểu trận pháp, đi vào trong đó tuyệt đối không thể đi ra. Trong cánh rừng đó, không biết đã giam chân đến chết biết bao nhiêu quân binh, sát thủ của triều Thanh, thậm chí còn có cả pháp sư Saman. Cho dù là bây giờ, vẫn có người bảo vệ trận pháp này, tháng nào cũng cắt cử người lên núi sửa đường.
Lý Đức Lượng giả vờ như hỏi vu vơ:
- Là người của hội Tam Hoàng phải không?
Lý Phục Minh đáp:
- Không phải!
Lý Đức Lượng hỏi:
- Thế thì là ai?
Lý Phục Minh im lặng một lát rồi mới nói:
- Là một tổ chức bí mật. Việc này thú thực tôi cũng không biết rõ.
Còn có chuyện mà đến Lý Phục Minh cũng không biết rõ ư? Lý Đức Lượng cảm thấy quái lạ. Ông bèn hỏi:
- Nếu đã là thần bí đến vậy, chắc là rất ít người có thể thoát ra khỏi trận pháp?
Lý Phục Minh nói:
- Đúng, cực ít. Cho dù tới tận bây giờ, đã trải qua mấy trăm năm, cũng không có mấy người biết cách phá giải trận pháp này. 
Lý Đức Lượng tò mò hỏi:
- Vậy trong trận pháp có lẽ còn có cơ quan cạm bẫy gì nữa phải không?
Lý Phục Minh đáp:
- Cái này thì không có.
Lý Đức Lượng cảm thán:
- Cổ nhân thực là vĩ đại!
Lý Phục Minh không tiếp lời ông, mà lại hỏi:
- Đại ca, hương chủ Tề tìm anh có chuyện gì không?
Lý Đức Lượng sững người, rồi đáp:
- Không có!
Lý Phục Minh thở dài:
- Hội Tam Hoàng đã đến lúc suy tàn. Sau khi Đại Thanh sụp đổ, hội Tam Hoàng đã không còn hy vọng nữa, bây giờ càng chẳng ra thể thống gì. Người người tham sống sợ chết, bỏ nghĩa theo tiền, bang hội lớn nhất Trung Hoa đã suy tàn từ đây.
Lý Đức Lượng nói:
- Công tử đã quan tâm đến hội Tam Hoàng như vậy, sao không tham gia để phục hưng?
Lý Phục Minh nói:
- Không giấu gì đại ca, ông nội tôi đã từng gia nhập hội Tam Hoàng. Kỳ thực, giữa các phân bộ trong hội Tam Hoàng lại luôn nghi kỵ lừa bịp, đấu đá lẫn nhau. Tổ tiên của đường chủ đường khẩu Tây Nam của hội Tam Hoàng Trương Phong vốn là tướng quân dưới trướng cụ tổ nhà  tôi, vì hiềm khích lẫn nhau, nên ông nội tôi bất đắc dĩ phải rút lui khỏi hội, và căn dặn con cháu đời sau không được phép gia nhập hội Tam Hoàng nữa. Bây giờ hội Tam Hoàng đã ngày càng suy tàn, thanh danh sa sút, tôi sao có thể gia nhập đây?
Lý Đức Lượng nói:
- Trăng có khi tròn khi khuyết, sự nghiệp có lúc thịnh lúc suy, đó là quy luật, không phải sức người có thể thao túng.
Buổi tối, Lý Đức Lượng lấy cớ ngày mai phải dậy sớm lên đường, nói với Lý Phục Minh muốn đi nghỉ sớm, cơm nước xong xuôi liền bảo đám Ngô Cương về phòng sắp xếp đồ đạc, mang theo nước uống và lương thực, sau đó đi ngủ.
Nửa đêm, Ngô Cương còn đang say giấc, Lý Đức Lượng đã đánh thức họ dậy, bảo họ mang theo hành lý, lập tức xuất phát.
Đám Ngô Cương biết là có chuyện, cũng không hỏi nhiều, lấy đồ đạc xong, khẽ khàng mở cửa đi ra.
Ngựa của họ buộc trong chuồng ngựa ở phía đông sân nhà, nhưng vì chuồng ngựa giáp với phòng của Lý Phục Minh, nếu họ đi dắt ngựa, chắc chắn sẽ kinh động tới Lý Phục Minh. Lý Đức Lượng bèn phẩy tay bảo họ đi luôn, chẳng cần tới ngựa nữa.
Mấy người họ nối đuôi nhau đi ra, tiến về phía chính đông.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Độc Chú (Hạ Long Hà)

Postby bevanng » 01 Oct 2016

2. KHU RỪNG THẦN BÍ

Đêm sâu mờ mịt, cả đoàn người ra khỏi cổng nhà, đi về phía đông, bước lên một con đường nhỏ.
Lý Đức Lượng buổi chiểu đã quan sát kỹ lưỡng, con đường nhỏ không hề nổi bật này chính là lối đi thuận tiện nhất để ra khỏi thôn. Con đường mà bọn họ tới đây sáng hôm qua, chắc chắn hương chủ Tề đã cho người phong tỏa. Lý Đức Lượng đã quan sát thấy con đường mòn này có không ít người qua lại, đông đúc hơn nhiều so với con đường lớn kia. Hiển nhiên là đường mòn thông tới chợ, có thể buôn bán hàng hóa. Tìm được đến chợ, họ sẽ mua được ngựa, cũng có thể thuận lợi quay về Mandalay. Nhưng Lý Phục Minh chiều qua lại chẳng đả động gì tới con đường mòn này, vì thế, Lý Đức Lượng cũng có phần hoài nghi Lý Phục Minh.
Do đó, Lý Đức Lượng chỉ để lại cho Lý Phục Minh một tờ giấy, rồi dẫn đám Ngô Cương vội vã bỏ đi.
Đi ra khỏi thôn là một đoạn đường xuống dốc, sau đó, đi qua một cây cầu tràn. Bên dưới cầu tràn cũng có cửa cống, khi nước nhỏ sẽ chảy qua dưới cầu, đến khi nước lớn, sẽ chảy tràn qua trên mặt cầu.
Đi qua cầu tràn là một đoạn dốc lên ngắn. Lên khỏi dốc là một cánh rừng nhỏ, cây không lớn lắm. Lý Đức Lượng buổi chiều đã quan sát thấy xung quanh rừng cây đều là cánh đồng, cho nên khu rừng rất nhỏ, có lẽ không có nguy hiểm.
Ngô Cương đi đầu tiên.
Anh nhìn thấy ở bìa rừng có người đang di chuyển, bóng người vụt một cái đã khuất vào trong rừng.
Anh huơ tay bảo mọi người dừng lại, rồi nói với Lý Đức Lượng, trong rừng có người.
Lý Đức Lượng hỏi:
- Có nhìn rõ không?
Ngô Cương đáp:
- Rõ!
Lý Đức Lượng nói:
- Quay lại, đi đường khác!
Đoàn người vội vã quay trở lại.
Còn có ba sự lựa chọn. Đi về phía nam thì phải đi qua ngôi mộ của quỷ bộc. Phía bắc, cũng chính là phía sau thôn, là khu rừng rậm, trong rừng có trận pháp Kỳ môn độn giáp mà Lý Phục Minh đã nói tới. Đi về phía tây là con đường họ vừa đi tới. Trên đường đến, Lý Đức Lượng phát hiện ra bên đường có những căn nhà nhỏ, trong đó chắc chắn có người mai phục.
Làm thế nào đây, biết chọn đường nào?
Lý Đức Lượng ngẫm nghĩ một lát, cứ cảm thấy lời nói của Lý Phục Minh không thực đáng tin. Hai ngày nay, Lý Đức Lượng thấy Lý Phục Minh có rất nhiều bí mật, mỗi lần Lý Đức Lượng hỏi tới, Lý Phục Minh liền khéo léo lái câu chuyện sang hướng khác. Lúc chôn cất quỷ bộc, Lý Đức Lượng đã quan sát tỉ mỉ địa thế của những ngôi mộ ở đây. Mộ tuy cũ kỹ sạt lở, nhưng kéo dài bất tận, lờ mờ như có sát khí. Ông liền cảm thấy, những ngôi mộ kia chắc chắn còn có huyền cơ.
Ông do dự một thoáng, rồi dẫn mọi người chạy về phía cánh rừng rậm sau thôn.
Quả nhiên có một con đường mòn, còn được sửa sang rất sạch sẽ. Lý Đức Lượng bảo Ngô Cương đi đoạn hậu, còn mình đi trước, vừa quan sát tình hình xung quanh, vừa thận trọng đi sâu vào trong rừng.
Khu rừng vô cùng tĩnh mịch, cây cối mọc ngay hàng thẳng lối, dưới ánh trăng lờ mờ, trông rất đỗi trang nghiêm. Lý Đức Lượng đi một lúc, cảm thấy có gì gờn gợn, càng đi, cảm giác này lại càng rõ nét.
Ngô Cương lên tiếng:
- Quái lạ thật, đến một tiếng động cũng không có.
Lý Đức Lượng sững người. Đúng vậy, đúng là ông đang cảm giác thấy sự lạ thường này. Lúc ở trong thôn còn có thể nghe thấy tiếng chim hót, thú kêu xung quanh, thế mà trong khu rừng này, đáng lẽ phải ồn ào đủ loại âm thanh mới phải, nhưng thật quái lạ, họ lại chẳng hề nghe thấy động tĩnh gì. Không có tiếng chim hót, không có tiếng sói tru, không có tiếng kêu của loài linh cẩu.
Dường như họ đang đi vào một khu rừng chết, nhưng cây cối lại tốt bời bời.
Lý Đức Lượng biết rằng có việc không lành.
Ông nghe nói, người xưa có một loại trận pháp, không những có thể giam hãm kẻ địch, mà còn có thể thay đổi trường khí, khiến cho chim muông trong đó không thể sống nổi.
Lẽ nào nơi này thực sự có một trận pháp như thế?
Lý Đức Lượng biết, bây giờ có hối hận cũng vô ích, chỉ còn cách tiếp tục tiến lên, vừa đi vừa nghĩ cách.
Ông ta bảo Ngô Cương bẻ gãy một thân cây nhỏ, đặt ở chính giữa con đường, sau đó tiếp tục đi về phía trước.
Trước mặt là con đường mòn thẳng tắp, trang nghiêm chẳng khác nào chết chóc. Đám Lý Đức Lượng không chút đắn đo, rảo bước thật nhanh tiến lên phía trước.
Không biết đã đi mất bao lâu, Lý Đức Lượng ước tính đi chừng ba bốn chục dặm đường là có thể thoát ra ngoài. Con đường mòn quanh co khúc khuỷu, dốc lên dốc xuống, còn băng qua một dòng sông nhỏ, trên sông có một cây cầu gỗ. Lúc đi qua cầu gỗ, họ cảm thấy có một cơn gió âm tà thổi thốc lại từ phía đối diện. Gió thổi rất mạnh, giống như có người đang cuốn gió lao thẳng tới, xô ập vào đám Lý Đức Lượng khiến họ suýt chút nữa thì ngã nhào xuống sông.
Họ lao qua cây cầu, chạy vào khu rừng đối diện. Khu rừng bên này gần như giống hệt với khu rừng bên kia. Con đường thẳng tắp, cây cối thẳng hàng. Lý Đức Lượng ngẩng nhìn mặt trăng đã chếch về tây, biết rằng trời sắp sáng, bèn giục mọi người nhanh chân hơn nữa.
Mấy người này thể lực rất tốt, cộng thêm tâm lý nôn nóng, suốt cả đoạn đường đi gần như chạy. Đi được một lúc, Ngô Cương đang chạy đầu tiên bỗng vấp một cái lão đảo. Anh chửi thề một câu, khó khăn lắm mới đứng vững được, liếc nhìn thứ ngáng chân mình, lập tức chết sững. Đó chính là cái cây nhỏ mà anh đã đốn xuống.
Lý Đức Lượng biết là không ổn rồi. Con đường thẳng tắp như vậy lại còn có thể vòng trở lại, quả thực khiến ông không tài nào lý giải nổi. Ông biết, bây giờ mình không được hoang mang, ông chính là đầu tàu, chính là sức mạnh. Nếu ông gục ngã, mấy con người kia chắc chắn sẽ chết. Nơi đây quạnh quẽ đến thế, chẳng khác nào một ngôi mộ khổng lồ.
Lý Đức Lượng cho mọi người nghỉ ngơi một lát, còn mình suy nghĩ tìm giải pháp.
Nếu cứ đi tiếp thế này, dù có đi đến tàn đời có lẽ cũng không thoát ra được. Thế nhưng ông lại hoàn toàn mù tịt về thuật Kỳ môn độn giáp cổ xưa của Trung Quốc. Khu rừng này, con đường thẳng tắp này, ông không nhận ra bất kỳ vấn đề gì.
Trong suốt mấy chục năm hành nghề buôn ma túy, Lý Đức Lượng có thể nói là đã vô số lần vào sinh ra tử. Thế nhưng những nguy hiểm đó đều có thể nhìn thấy được, chỉ cần vung đao lên, liền có hy vọng chạy thoát. Còn lúc này, họ còn không thể tìm ra được đối tượng để liều mạng.
Thế nhưng chờ đợi thế này lại càng không phải là cách.
Lý Đức Lượng bảo mọi người đi chầm chậm, xem xem có lối đi nào khác hay không.
Họ lại đi tới bên cạnh cây cầu. 
Lý Đức Lượng nhìn khu rừng âm u bên bờ đối diện, bỗng cảm thấy toàn thân rời rã không còn chút hơi sức.
Cả đoàn người đều tuyệt vọng thở dài.
Ngô Cương hỏi:
- Sư phụ, thế là thế nào?
Lý Đức Lượng nói:
- Chúng ta đã lọt vào trong một trận pháp.
Ngô Cương hỏi:
- Vậy phải làm thế nào?
Lý Đức Lượng nói:
- Ta đang nghĩ, thế nào cũng sẽ có cách.
Song kỳ thực, nói như vậy chẳng qua là để ổn định lòng quân mà thôi. Đây là trận pháp gì, làm thế nào mới có thể tìm được cách phá trận, trong lòng ông lại mù tịt hoàn toàn.
Họ từ từ đặt chân lên cây cầu gỗ, thình lình, ở đầu cầu đối diện, bên rìa khu rừng nhỏ, hình như xuất hiện một bóng người, vẫy tay về phía họ.
Lý Đức Lượng nói:
- Đi theo!
Ngô Cương nói:
- Liệu có phải là một cái bẫy không?
Lý Đức Lượng nói:
- Không cần biết, chỉ cần tìm thấy con người, chúng ta sẽ có thể thoát ra. 
Mọi người đã nhìn thấy hy vọng, lập tức chạy như gió cuốn đuổi theo người kia.
Người kia cứ thong thả đi phía trước, không nhanh không chậm, dường như có ý dẫn đường cho họ. Lý Đức Lượng dặn mọi người chuẩn bị vũ khí sẵn sàng, phòng khi bất trắc, đồng thời bám sát theo bóng người kia.
Đi một lúc lâu, tới khi mặt trăng lặn khuất, bầu trời đã dần sáng hửng, bóng người đó vẫn đi ở phía trước. Đột nhiên, trước mặt xuất hiện một ngã rẽ. Lý Đức Lượng sững sờ, vội vàng chạy theo, tìm bóng người kia, thì lại không thấy đâu nữa.
Xuống dốc là một con đường lớn, hai bên đường rải rác có mấy căn nhà.
Đã thoát được rồi!
Lý Đức Lượng quay về phía con đường vừa đi tới, khom người vái một vái, nói:
- Cảm tạ người anh em Phục Minh đã cứu giúp.
Từ trong rừng rậm vang ra ba tiếng cười lớn.
Lý Đức Lượng mặt biến sắc, hỏi lại:
- Quả thật là người anh em Phục Minh?
Phía đó không có tiếng trả lời.
Lý Đức Lượng quỳ sụp xuống, hướng về phía khu rừng, lớn tiếng nói:
- Lý Đức Lượng cầu xin được gặp mặt.
Trong ánh bình minh, chính giữa con đường mòn chợt hiện một bóng người, đứng xây lưng lại. Bóng người chậm rãi quay đầu, hướng về Lý Đức Lượng vái một vài dài, rồi thong thả đi vào trong rừng. Vì khoảng cách quá xa, ánh sáng lại lờ mờ, nên họ đều không nhìn rõ hình dạng của người đó.
Lý Đức Lượng hỏi:
- Đúng là Phục Minh huynh phải không?
Không có lời đáp.
Người đó chậm rãi đi vào trong rừng, rồi biến mất.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Độc Chú (Hạ Long Hà)

Postby bevanng » 01 Oct 2016

3. QUÁN ĂN GIẾT NGƯỜI

Đám Lý Đức Lượng không dám chậm trễ, lập tức chạy thẳng một mạch xuống núi.
Cho tới khi nhìn thấy những căn nhà tranh dưới chân núi, nhìn thấy nông dân dắt trâu lên núi, họ mới hơi yên tâm chút ít.
Ở đầu thôn, họ nhìn thấy một quán ăn nhỏ. Cả đám đều đã đói mềm, Lý Đức Lượng cũng muốn tìm nơi để hỏi đường, liền dẫn mọi người vào quán.
Quán ăn rất nhỏ, chỉ có một chiếc bàn. Trong quán, ngoài chiếc bàn này ra, còn bày rất nhiều hình nhân bằng giấy. Hình nhân được làm rất đẹp, đều là mày liễu, mắt phượng, miệng anh đào chúm chím. Đám Lý Đức Lượng ngồi xuống đối diện với hơn mười hình nhân, cứ cảm thấy chờn chợn thế nào. 
Chủ quán là một phụ nữ trung niên trông rất vâm váp.
Giống như phần đông những cư dân miền núi khác, chị ta rất lặng lẽ kiệm lời, chỉ hỏi qua đám Lý Đức Lượng muốn ăn gì, rồi đi làm ngay. Trước cửa chính là một con đường quanh co mà Mã bang thường đi qua, không rộng lắm, hai bên đường ngoài đồi núi ra chỉ toàn cây cối. Lý Đức Lượng cứ cảm thấy đoạn đường này có vẻ rất quen thuộc, nhưng lại không nhớ ra đã đi qua hoặc từng gặp khi nào.
Lý Đức Lượng hỏi người đàn bà đang bận rộn trong sân, nơi đây là nơi nào. Người đàn bà chẳng buồn ngẩng đầu, đáp:
- Núi Đoạn Mã.
Cái tên này rất xa lạ. Lý Đức Lượng lại hỏi:
- Chị có biết đường đi đến Mandalay không?
Người đàn bà hình như chẳng biết gì về Mandalay, chỉ lắc đầu. Lý Đức Lượng hỏi tiếp:
- Thế đến Monngai thì sao?
Nghe hỏi tới Monngai, người đàn bà liền chỉ về một đầu của con đường núi.
Lý Đức Lượng lại hỏi:
- Ở đây có bán ngựa không?
Người đàn bà lắc đầu.
Đường núi xa xôi như thế, không có ngựa thì khác nào đi thí mạng.
Lý Đức Lượng hỏi tiếp: 
- Thế đến đâu mới mua được ngựa?
Người đàn bà ngẩng mặt lên, liếc nhìn Lý Đức Lượng, nhưng rồi vẫn lắc đầu.
Cái nhìn của bà ta đã khiến Lý Đức Lượng chết điếng. Bởi vì “bà ta” có cục yết hầu nhô cao, và trong ánh mắt né tránh của “bà ta”, ông đã lờ mờ nhìn thấy một làn khí sắc lẹm như dao chém.
Tim Lý Đức Lượng thót lại.
Đàn bà đi lại ở vùng Tam Giác Vàng không nhiều. Để che giấu thân phận, bọn họ phần lớn đều cải trang thành đàn ông. Còn đàn ông cải trang thành đàn bà, Lý Đức Lượng có gặp mấy lần, lần nào cũng đi kèm với cảnh bỏ xác tha hương. Nếu đàn bà cải trang thành đàn ông là để chạy trốn, thì đàn ông cải trang đàn bà dứt khoát là để tấn công.
Lý Đức Lượng không biết cái bẫy này có phải là bày sẵn cho mình hay không, nhưng có một điểm ông hiểu rất rõ, cho dù cái bẫy này có liên quan tới mình hay không, thì nhanh chóng rời khỏi cái nơi quỷ quái này vẫn là sáng suốt nhất.
Thế nhưng, ông lại không thể đi ngay lúc này. Chẳng may cái bẫy của người ta không liên quan tới mình, mình đã gọi cơm nước rồi mà chưa ăn đã đi, lại chuốc thêm họa vào thân, thì càng bất lợi.
Song cũng thật xui xẻo, do họ đã đói ngấu, nên thức ăn gọi ra thực không hề ít, đủ để cho bà chị giả mạo kia bận rộn một hồi lâu.
Để tránh gây ra sự hoang mang không cần thiết, Lý Đức Lượng không tiết lộ điều gì với đám Ngô Cương, mà quay vào trong quán, im ắng ngồi chờ thức ăn bưng lên.
Ngô Cương rất tò mò với những hình nhân giấy dựng trong nhà, đưa mắt nhìn kỹ từng con một. Hình như quán cơm này còn kiêm cả nghề làm hàng mã, đám hình nhân giấy làm rất khéo léo sinh động, đẹp đẽ dễ thương. Trong cùng căn phòng còn có một gian phòng nữa, buông rèm kín mít. Ngô Cương vén rèm nhìn vào, lập tức kinh hãi tới mức suýt nữa thì hét ầm lên.
Căn phòng này là phòng ngủ, ngoài một chiếc giường lớn ra, không còn đồ đạc gì khác. Trên giường trống trơn, chăn đệm gấp rất ngay ngắn, xếp ở góc tường. Song nằm dài dưới đất là một đôi vợ chồng già, có lẽ vừa mới tắt thở không lâu, vết máu trên cổ vẫn còn rất mới.
Ngô Cương nhảy vọt ra ngoài, kéo Lý Đức Lượng vào xem. Hai ông bà lão kia bị người ta dùng đao cứa đứt cổ họng mà chết, hung thủ ra tay cực nhanh, cả hai ông bà lão đều không có dấu vết giằng co phản kháng.
Hiển nhiên, cái chết của hai ông bà lão này không thể không có quan hệ với bà chị giả mạo ngoài kia. Lý Đức Lượng ra hiệu cho Ngô Cương không được lên tiếng, hai người quay trở lại ngồi xuống bàn ăn, giả vờ như đang nhìn ngó vu vơ xung quanh.
Bốn bề lặng im phăng phắc, không một bóng người. Lý Đức Lượng lờ mờ cảm thấy không ổn, nhưng lại không biết không ổn ở chỗ nào.
Thức ăn cuối cùng đã được dọn lên. Sợ bị hạ độc, Lý Đức Lượng lấy kim bạc ra thử trước, thấy không có vấn đề gì, mới cho mọi người ăn. Có một chút bất ngờ, đó là đồ ăn do bà chị giả mạo kia làm lại rất ngon miệng, đám Lý Đức Lượng ăn lấy ăn để, chỉ có một khuyết điểm là đồ ăn hơi mặn.
Cả đám ăn no, mỗi người lại uống một bát nước to. Lý Đức Lượng trả tiền cơm xong, cả đoàn liền vội vã theo con đường lớn đi tiếp.
Đi được một lúc, đột nhiên Lý Đức Lượng cảm thấy đầu váng mắt hoa. Lại nhìn sang Ngô Cương và hai tên thuộc hạ, thấy đều có dấu hiệu bất ổn. Tên yếu nhất đã thấy miệng sủi bọt trắng, mặt tái nhợt như sáp.
Lý Đức Lượng than thầm trong dạ, còn chưa kịp phản ứng, đã thấy đất trời chao đảo, rồi lăn ra ngất lịm.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

PreviousNext

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 22 guests