Độc Chú (Hạ Long Hà)

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Độc Chú (Hạ Long Hà)

Postby bevanng » 01 Oct 2016

Image
Hạ Long Hà

Độc Chú

(Vương quốc ma túy Tam Giác Vàng rừng thiêng nước độc Miền Điện
Trong cõi thâm u tàn độc ẩn giấu một bí mật lịch sử động trời)
Dịch từ nguyên bản tiếng Trung
Công ty cổ phần Văn hóa Huy Hoàng Nhà sách Huy Hoàng 2015
An Lạc Group dịch. 2015. – 656 trang, 21 cm.

Lời Tựa

Trong truyền thuyết,
phượng hoàng là sứ giả của
hạnh phúc trên nhân gian,
cứ mỗi năm trăm năm,
sẽ phải mang theo tất cả tội ác của thế gian,
lao mình vào lửa tự thiêu,
kết thúc sinh mệnh để đánh đổi lấy
hạnh phúc cho nhân thế,
sau khi nếm trải những đớn đau khủng khiếp
và vượt qua luân hồi,
mới có thể tái sinh.
Chết rồi tại tái sinh,
trong kinh Phật gọi tà “niết bàn”.
“Niết bàn kinh” quyển thứ tư có viết:
“Diệt mọi phiền não, gọi là niết bàn;
Rời bỏ các hữu, sẽ là niết bàn”.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong, Can Tran

Re: Độc Chú (Hạ Long Hà)

Postby bevanng » 01 Oct 2016

Chương 1 CUỘC HẸN NƠI THÁNH ĐỊA

1. NGÔI CHÙA CỔ

Ngô Diệu Tổ nhớ kỹ lời dặn dò của vị cao tăng chùa Dữu Mộc, nơm nớp thận trọng, gặp Phật thắp hương, thấy chùa lễ bái.
Họ đã đi hai ngày trong một khe núi ở biên giới Trung - Miến, theo chỉ dẫn của thiết bị dẫn đường trên xe, còn hơn một giờ đồng hồ nữa sẽ tới Cảnh Châu, Vân Nam.
Khi qua một ngã rẽ, vô tình quay đầu lại, trong ánh nắng tàn buổi hoàng hôn, Ngô Diệu Tổ chợt nhìn thấy một ngôi chùa xưa cũ.
Anh vội gọi lái xe dừng lại, quan sát kỹ lưỡng ngôi chùa cứ như vừa thình lình mọc ra. Ngôi chùa không lớn lắm, nhưng xem ra rất bề thế. Chùa chiền ở Vân Nam phần nhiều đều được xây gần vùng dân cư, chùa xây trong núi sâu quả thực rất hiếm thấy.
Huống hồ, nhìn vào quy mô của ngôi chùa, năm xưa hẳn rất huy hoàng.
Anh bảo lái xe quay đầu, lái về phía ngôi chùa.
Cổng chùa đổ nát tan hoang, nhiều miếng gỗ đã rơi mất, được vá víu lại bằng tôn và đinh sắt. Song quái lạ là cổng chùa rộng đến thênh thang, đủ cho cả hai chiếc ô tô đi vào cùng lúc. Trong sân rất sạch sẽ, lư hương lớn ở chính giữa sân còn có mấy nén hương đang tỏa khói lãng đãng.
Ngô Diệu Tổ đang lúc ngạc nhiên, bên tai bỗng vang lên một giọng nói lạnh lẽo như băng:
- Thí chủ có gì căn dặn?
Ngô Diệu Tổ quay người lại, phát hiện ra một lão hòa thượng đã đứng sừng sững ngay bên cạnh không biết tự bao giờ. Lão hòa thượng nét mặt khô quắt lạnh lùng, nếu không lên tiếng, dễ khiến người ta ngỡ rằng đó là một pho tượng.
Ngô Diệu Tổ nhìn ông ta mà lạnh cả người, nhưng vẫn rất mực cung kính đáp lễ, nói:
- Xin chào đại sư, tôi là khách qua đường tới dâng hương.
Ngô Diệu Tổ cứ ngỡ rằng nói như vậy thì lão hòa thượng sẽ trở nên nhiệt tình. Trên đường đi, anh đã thấy quá nhiều những ngôi chùa thế này. Dâng hương chắc chắn sẽ có tiền, các sư trụ trì vừa nghe nói anh muốn dâng hương, cứ như lập tức hóa thân thành lái buôn, thao thao bất tuyệt giảng giải về đủ loại lợi ích của việc dâng hương.
Thế nhưng lão hòa thượng trước mặt lại khác, nghe Ngô Diệu Tổ nói muốn dâng hương, ông ta vẫn chẳng có chút phản ứng gì. Vẫn giữ nguyên vẻ mặt lạnh lùng như cũ, ông ta chỉ nói:
- Xin mời!
Ngô Diệu Tổ được mời vào đại điện. Ngôi chùa cổ này không khác mấy so với chùa chiền của Miến Điện, chỉ có điều pho tượng Phật Tổ trong Đại Hùng bảo điện có vẻ tráng lệ khác thường, kèo cột trong chùa đều chạm khắc tinh xảo, khí thế phi phàm. Cho dù là một người khá từng trải như Ngô Diệu Tổ cũng phải tấm tắc khen thầm. Anh biết, mình đã coi thường ngôi chùa này. Trông khí thế nhường kia, ngôi chùa chắc chắn có lai lịch không phải tầm thường. Anh bèn hỏi lão hòa thượng:
- Đại sư, ngôi chùa này chắc hẳn đã khá lâu năm?
Lão hòa thượng không nhìn anh, chỉ đáp:
- Phải!
Hiển nhiên lão hòa thượng không muốn tiếp chuyện anh, Ngô Diệu Tổ đành phải ngậm miệng. Quan sát xung quanh một lát, anh chợt bị thu hút bởi một pho tượng Phật.
Pho tượng Phật mặt vuông tai lớn, xem ra duyên Phật thâm sâu, đầu mày khóe mắt anh khí ngời ngời, là tướng mạo của người phàm. Nói là tượng Phật, kỳ thực là pho tượng nửa người nửa Phật.
Lão hòa thượng thấy Ngô Diệu Tổ cứ nhìn chằm chằm vào pho tượng Phật, có phần kinh ngạc, sắc mặt nghiêm trang như đá tảng chợt thay đổi, hỏi anh:
- Thí chủ nhận ra vị Phật này?
Ngô Diệu Tổ đáp:
- Nhận ra. Đại sư, trong chùa tại sao lại có pho tượng Phật này?
Lão hòa thượng nói:
- Được truyền lại từ mấy trăm năm trước.
Ngô Diệu Tổ lại hỏi:
- Đại sư có thể nói cho tôi biết, ngôi chùa này đã xây được bao nhiêu năm rồi không?
Lão hòa thượng buột miệng đáp liền:
- Đã được ba trăm bốn mươi năm rồi, xây dựng vào năm 1678.
Ngô Diệu Tổ ngẫm nghĩ một lát, rồi lại hỏi lão hòa thượng:
- Đại sư có thể nói cho tôi biết lai lịch của pho tượng này không?
Lão hòa thượng trầm ngâm một lát, rồi nói:
- Xin thí chủ lượng thứ. Pho tượng này liên quan tới điều cơ mật của bản tự, không phải truyền nhân của bản tự, không thể nói được. Lão nạp cũng xin nói với thí chủ một câu, nếu thí chủ biết được, xin cũng đừng truyền ra ngoài.
Ngô Diệu Tổ vái một vái thật sâu, nói:
- Đại sư, tôi muốn quỳ bái Phật Tổ và vị Phật này, không biết có tiện không?
Lão hòa thượng nhìn Ngô Diệu Tổ một cái, sắc mặt lại sầm xuống, nói:
- Xin thí chủ cứ tự nhiên.
Ngô Khải Văn bố trí sáu vệ sĩ thay nhau nghỉ ngơi, chia làm hai ca luân phiên canh gác, nhờ lão hòa thượng tìm giúp chỗ nghỉ. Thật bất ngờ, ngôi chùa nhỏ trông cũ kỹ đổ nát là thế mà lại có hai buồng ngủ rất sạch sẽ. Lão hòa thượng nói, hai căn buồng này để dành cho các cư sĩ tới nghe giảng kinh nghỉ lại. Sau khi các cư sĩ ra về, chăn đệm đều được giặt giũ sạch sẽ, xin cứ yên tâm sử dụng. Những người đi theo Ngô Diệu Tổ bận rộn suốt một ngày trời, đã mệt mỏi đến kiệt sức, sau khi ăn uống qua loa chút đỉnh, rồi người thì canh gác, người thì lăn ra ngủ.
Thực ra, họ chỉ cần đi hết con đường nhỏ này, rẽ vào con đường trải nhựa cách đó chừng mười dặm (1), chạy thêm nửa tiếng nữa là tới được thành phố, nhưng Ngô Diệu Tổ lại khăng khăng đòi ở lại nơi này. Ở lại thì ở lại, nhưng còn phải bái lạy tượng Phật, lại bắt các anh em đã vất vả cả ngày trời canh gác ngoài cổng nữa chứ!
(1) Đơn vị đo lường thời cổ ở Trung Quốc, 1 dặm tương đương 0,5 km.
Ngô Khải Văn không tài nào hiểu được, ông chủ vốn là một tay sừng sỏ khét tiếng vùng Tam Giác Vàng, giết người cướp của, nghe đến mà quỷ khốc thần sầu. Thế nhưng mấy năm gần đây chả hiểu sao lại đâm ra thần hồn nát thần tính, ngày nào cũng xì xụp thắp hương bái Phật, lãng phí không biết bao nhiêu thời giờ quý báu vào mấy pho tượng đất. Ngô Khải Văn tuy không dám nói ra, nhưng trong lòng vô cùng bất mãn.
Rảnh rỗi đi lòng vòng một lát, một vật đen trũi tạo hình quái gở ở một góc nhà đã thu hút sự tò mò của Ngô Khải Văn. Từ xa nhìn lại, đường nét của vật đó trông na ná như cái hũ muối dưa của người dân tộc Shan ở Miến Điện, nhưng cao to hơn một chút.
Xung quanh toàn là những đồ vật liên quan tới Phật, nên cái hũ này bỗng trở nên lạc lõng, khiến người ta cảm thấy lạ lùng.
Ngô Khải Văn rất đỗi hiếu kỳ, liền bước lại gần, muốn nhìn cho rõ đó là vật gì.
Trong chùa thắp nến, ánh sáng lờ nhờ. Thi thoảng có cơn gió thổi tới, ánh nến lập lòe, cứ như phụt tắt đến nơi, khiến cho một người đã quen với ánh đèn điện như Ngô Khải Văn cảm thấy rờn rợn. Còn cách hai bước chân nữa mà Ngô Khải Văn không thể nhìn rõ đó là thứ gì, vừa định tiến sát lại gần, thình lình một cơn gió lạnh lẽo thổi thốc tới, ánh nến chao đảo dữ dội vài cái rồi tắt ngấm.
Ngô Khải Văn không hút thuốc lá, không mang theo bật lửa, không thể thắp nến lại, thình lình bị nhấn chìm trong bóng đêm vô tận. Hắn cảm thấy có phần quái dị. Lão hòa thượng vẫn đang tụng kinh ra rả, dường như đối với ông ta, ánh nến có cũng được mà không có cũng chẳng sao, hoặc có thể nói, nó cơ bản là vật không nên có.
Ngô Khải Văn âm thầm rút súng ra.
Thế nhưng, tiếng tụng kinh của lão hòa thượng vẫn đều đều chậm rãi, không nhanh không chậm, dường như đã chìm vào trong thế giới của kinh Phật, vạn vật trên thế gian, thậm chí ngay cả cơ thể của chính mình, đã đều không phải thứ mà ông quan tâm nữa.
Thẳm sâu trong rừng rậm mơ hồ có tiếng gầm của dã thú, văng vẳng lúc trầm lúc bổng, nghe như lời ẩn ngữ, hài hòa một cách hoàn hảo với bóng đêm.
Trong thời khắc này, Ngô Khải Văn bỗng cảm thấy con người thật thừa thãi, giống như những kẻ xâm phạm đường đột xông bừa vào cái thế giới ẩn mật này.
Đám vệ sĩ bên ngoài thấy nến đã tắt, bèn chạy lên xe, tìm được một chiếc đèn pin, soi đèn thắp nến, sau đó lại cảnh giác quan sát xung quanh.
Đây đều là những người anh em kề vai sát cánh với Ngô Khải Văn đã nhiều năm, rất có trách nhiệm, lão luyện nhạy bén. Ánh nến bừng lên khiến cho căn phòng lại trở về với trạng thái trước đó. Ngô Diệu Tổ không biết đã ngủ thiếp đi từ lúc nào. Tuy anh đang quỳ, đầu cúi gằm, nhưng thi thoảng lại bật ra tiếng ngáy khe khẽ. Phải nói rằng, như thế là việc đại bất kính với Phật Tổ. Nhưng Ngô Khải Văn hiểu rõ tính khí của Ngô Diệu Tổ, nếu khuyên anh về đi ngủ, anh sẽ không đồng ý, nên cũng không gọi anh.
Ngô Khải Văn lại nhét súng vào thắt lưng. Hắn cũng chẳng còn hứng thú quan sát cái hũ muối dưa kia nữa, chỉ muốn quay lại ngồi xuống chợp mắt một lát. Trở lại chỗ ngồi ban nãy ngồi xuống, Ngô Khải Văn đưa tay sờ lên mặt, vừa định ngẩng lên, đột nhiên chết sững.
Ngay trước mặt, rành rành một hàng dấu chân.
Trước đó, vệt dấu chân của họ ra đều rất ngắn. Từ ngoài cửa đi vào, tới gần tượng Phật là kết thúc, dấu chân ở xa nhất là của Ngô Khải Văn, bước tới gần cái hũ muối dưa. Dấu chân của họ, có chỗ vì đi đi lại lại nhiều lần, có chỗ vì giẫm xuống đã lâu, nên không còn rõ lắm. Nhưng dấu chân này lại khác hẳn, vì dính bùn đất ở bên ngoài, in lên nền xi măng, nổi bật lên mồn một.
Ngô Khải Văn móc súng ra, bước theo hàng vết chân. Chưa được vài bước, đã ra khỏi phạm vi chiếu sáng của ánh nến, chỉ thấy đen ngòm một mảng, chẳng nhìn rõ thứ gì. Nơi này có vấn để!
Ngô Khải Văn chạy ra ngoài cửa, gọi Đàm. Đàm đáp lời, Ngô Khải Văn bảo hắn cầm đèn pin vào.
Đàm bước vào, Ngô Khải Văn chỉ cho hắn xem hàng dấu chân. Dấu chân rất rõ ràng, là đi từ ngoài cửa vào. Đàm vô cùng kinh ngạc, chẳng còn kịp nói gì, vội cùng với Ngô Khải Văn lần theo hàng dấu chân. Hàng dấu chân băng qua đại điện, đi qua cánh cửa ngách, tiến vào vườn sau.
Vườn sau là vạt đất bùn, chính giữa là một vườn rau nhỏ, có một lối đi men theo mái hiên. Vết chân đó biến mất ở đây, mặt bùn nhão nhoét, nhưng rõ ràng không có dấu vết chân.
Ngô Khải Văn và Đàm chiếu đèn soi khắp xung quanh, luồng ánh sáng xé toang bóng tối, chiếu tới đâu sáng trưng tới đó. Hai người nhìn vào hai dấu chân cuối cùng tại cửa ngách, suy nghĩ mãi mà vẫn không tài nào hiểu nổi.
Ngô Khải Văn cầm lấy đèn pin, soi hết một lượt những chỗ đáng ngờ, vẫn chẳng thấy gì. Đúng lúc đang cảm thấy quái lạ, thình lình một luồng gió lạnh toát quét qua, khiến hắn giật nảy mình rụt cổ lại. Còn chưa kịp phản ứng, lại thêm một cơn gió lạnh nữa vụt qua trước mặt, như thể có thứ gì đó cứa thẳng lên da thịt, sau đó mất tăm mất dạng.
Vì tay cầm đèn pin nên súng đã được nhét vào thắt lưng, nếu không thì hắn đã cho ngay một băng đạn rồi. Tới khi Ngô Khải Văn kịp chuyển đèn pin sang tay trái, rút súng ra khỏi thắt lưng, thì mọi thứ đã yên tĩnh trở lại. Cứ như cơn gió lạnh lẽo vừa rồi chỉ là một giấc mơ.
Hắn ngẩng lên tìm Đàm, thầm nghĩ sao thằng cha này lại chẳng thấy nói năng gì thế nhỉ? Thế nhưng, Đàm vừa nãy rõ ràng còn đứng ngay bên cạnh, mà giờ chẳng thấy tăm hơi đâu nữa. Chỉ có bóng tối bốn bề vây chặt lấy hắn.
Ngô Khải Văn tìm kiếm khắp mọi ngóc ngách, soi đèn pin khắp một lượt quanh sân, vẫn không thấy đâu.
Ngô Khải Văn đột nhiên cảm thấy vô cùng kinh hãi. Ở đây, không còn nghe thấy tiếng tụng kinh của lão hòa thượng, ánh nến ở sảnh trước cũng không chiếu được tới nơi, lại cộng thêm Đàm biến mất một cách ma quái, khiến Ngô Khải Văn chợt cảm thấy như thể đang trơ trọi một mình trong ngôi chùa cổ giữa núi sâu, vây kín xung quanh là những con mắt đầy hiểm độc.
Ngô Khải Văn gắng gượng trấn tĩnh lại, song tinh thần vẫn hoảng loạn rối bời, không thể nào bình tĩnh được. Thực quái lạ! Hắn từng theo Ngô Diệu Tổ nam chinh bắc chiến, những lúc nguy cấp, từng qua đêm nơi nghĩa địa, từng xông vào nhà rắn, sợ thì có sợ, nhưng chưa bao giờ cảm thấy thấp thỏm bất an như hôm nay. Khi đó, biết được sợ cái gì, còn hôm nay, cảm giác thật ma quái, song lại không chỉ ra được ma quái ở đâu.
Ngô Khải Văn sợ Ngô Diệu Tổ có chuyện, vội vàng quay người trở vào sảnh chính.
Quả nhiên là đã có chuyện, Ngô Diệu Tổ và lão hòa thượng đều đã biến mất. Chỉ có ánh nến nghiêng ngả, và khuôn mặt trang nghiêm của Phật Tổ Như Lai. Ngô Khải Văn quát lớn gọi hai vệ sĩ đang ở bên ngoài. Song thật quái lạ, quát liền mấy tiếng đểu không có người đáp lại. Đám vệ sĩ kia không những bắn súng thiện xạ, võ nghệ cao cường, mà người nào người nấy đều đã từng theo Ngô Diệu Tổ đánh nam dẹp bắc, trải qua vô số nguy hiểm, thân thủ tuyệt vời, tại sao đột nhiên lại im hơi lặng tiếng như thế được?
Ngô Khải Văn định ra ngoài xem xét, chợt phát hiện ra mình không thể cử động được nữa. Cổ họng Ngô Khải Văn nghẹn cứng, có hét lên cũng chỉ mình mình lơ mơ nghe thấy, âm thanh còn chẳng bằng tiếng ruồi vo ve. Toàn thân trên dưới, chỉ còn đôi mắt có thể cử động, còn chân tay cứ như súc gỗ, hoàn toàn không nghe theo sự điều khiển của chính mình.
Ngô Khải Văn thầm kinh hãi trong lòng, dồn hết sức lực toàn thân lên đầu ngón tay, bóp cò súng.
Một tiếng súng đanh giòn vang lên, ngay lập tức, hắn cảm thấy toàn bộ cơ thể hệt như vừa được bung dây trói, đã có thể cử động được. Ngô Khải Vãn chạy vụt ra ngoài, thấy hai gã vệ sĩ đang đứng nghệt ra tại chỗ, bộ dạng giống như vừa mới tỉnh ngủ. Hắn quát hỏi:
- Tao gọi sao chúng mày không trả lời?
Một tay vệ sĩ đáp:
- Đâu có, bọn em chẳng nghe thấy gì cả!
Ngô Khải Văn lại hỏi:
- Chúng mày không nghe thấy tiếng súng nổ à?
Tay vệ sĩ ngơ ngác nói:
- Tiếng súng? Không nghe thấy!
Ngô Khải Văn thầm nhủ, quái lạ thật, cho dù mình có mộng du thì những người khác cũng không thể mộng du cả lượt như thế được!
Hắn lại bắn thêm hai phát súng chỉ thiên nữa, rồi hỏi bọn họ:
- Lần này có nghe thấy không?
Hai người đáp:
- Nghe thấy rồi!
Ngô Khải Văn bảo họ rút súng ra, cùng mình đi vào bên trong, nói rằng đại ca đã biến mất.
Tay vệ sĩ đáp:
- Không thể nào, vừa nãy còn ở đó mà, không tin anh nhìn mà xem.
Ngô Khải Văn thò đầu nhìn vào trong, quả nhiên, lão hòa thượng vẫn niệm kinh, Ngô Diệu Tổ đã tỉnh ngủ, đang ngẩng đầu nhìn họ.
Ngô Khải Văn biết, ở đây chắc chắn có vấn đề. Cho dù là quỷ thần, nghe thấy tiếng súng cũng phải kinh hãi vài phần, thế mà lão hòa thượng ngay cả tiếng súng cũng không nghe thấy, mẹ kiếp, sao lại có chuyện như thế được?
Ngô Khải Văn kéo Ngô Diệu Tổ sang một bên, kể lại chuyện vừa xảy ra cho anh nghe. Ngô Diệu Tổ chỉ biết mình vừa ngủ thiếp đi, cũng không nghe thấy tiếng súng.
Trong lúc trò chuyện, Ngô Khải Văn lén quan sát nét mặt của lão hòa thượng. Chỉ thấy lão hòa thượng giống như đang nhập định, ngoài việc không ngừng niệm kinh, không có bất cứ biểu hiện gì khác thường.
Ngô Diệu Tổ nghe Ngô Khải Văn kể xong, bèn nói:
- Không sao, chú mày đi xem mấy anh em đang ngủ xem thế nào.
Ngô Khải Văn lúc này mới sực nhớ tới bọn họ. Hắn đã liên tiếp nổ ba phát súng, bọn họ không lý nào vẫn chưa chạy ra!
Ngô Khải Văn ra khỏi gian đại sảnh, tới gian phòng nơi ba tay vệ sĩ đang ngủ. Đập cửa, không thấy có người trả lời. Ngô Khải Văn bèn đẩy cửa, bên trong không khóa, hắn bèn chiếu đèn vào trong căn phòng. Ngô Khải Văn hết sức bất ngờ, bên trong căn phòng trống trơn.
Chăn đệm trên giường giống hệt như lúc họ mới tới, được gấp phẳng phiu, trên giường không có một ai.
Ngô Khải Văn phải nghiến chặt hàm răng mới không hét toáng lên. Ngô Khải Văn chạy trở lại đại sảnh, nói với Ngô Diệu Tổ:
- Đại ca, ba người đó biến mất rồi! 
Ngô Diệu Tổ kinh ngạc nhìn Ngô Khải Văn, nói:
- Chú mày đùa trò gì thế?
Ngô Khải Văn nói:
- Đúng là biến mất thật rồi.
Ngô Diệu Tổ nói sẽ cùng Ngỏ Khải Văn đi xem thử. Ngô Khải Văn trở nên cảnh giác, nói rằng sẽ gọi lão già kia đi cùng, nói xong liến bước tới kéo giật lão hòa thượng dậy. Ngô Diệu Tổ vội nói:
- Khải Văn, không được vô lễ với đại sư.
Ngô Khải Văn nói:
- Đại sư cái khỉ gì, đại ca, chúng ta bị lão lừa rồi.
Ngô Diệu Tổ xua tay, thi lễ với lão hòa thượng, nói:
- Đại sư, xin đại sư đừng trách, chúng tôi muốn nhờ đại sư giúp một việc.
Lão hòa thượng cứ như không nhìn thấy Ngô Khải Văn, chắp tay nói với Ngô Diệu Tổ:
- Thí chủ cứ nói.
Ngô Diệu Tổ nói:
- Người anh em này của tôi vừa rồi đi tìm mấy anh em đang ngủ mà không tìm thấy, muốn nhờ đại sư tìm giúp xem sao.
Lão hòa thượng nói:
- Xin mời thí chủ.
Ngô Khải Văn sợ ông ta giở trò sau lưng, liền bảo ông ta đi trước dẫn đường. Lão hòa thượng sắc mặt lạnh băng, dẫn đám Ngô Diệu Tổ ra khỏi chính điện, vẫn đi theo con đường mà Ngô Khải Văn đi lúc nãy, gần như không chệch bước nào. Bước tới trước gian phòng, đẩy cửa ra, Ngô Khải Văn chiếu đèn pin vào trong, thấy ba người kia đang nằm trên giường ngủ như lợn.
Ngô Khải Văn kinh hãi hết nhìn ra sân, rồi lại nhìn lão hòa thượng, nói:
- Đại ca, chúng ta phải đi thôi!
Ngô Diệu Tổ hỏi:
- Tại sao?
Ngô Khải Văn giật tay áo anh, nói:
- Ở nhà có việc.
Ngô Diệu Tổ biết là có chuyện, không hỏi thêm nữa, chỉ nói:
- Được!
Anh cúi người chào lão hòa thượng, rồi móc ra một trăm đô la Mỹ đưa cho ông ta. Lão hòa thượng chẳng buồn nhìn, cầm lấy đút luôn vào trong túi, nói:
- Cảm tạ thí chủ!
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Độc Chú (Hạ Long Hà)

Postby bevanng » 01 Oct 2016

2. LẠC ĐƯỜNG

Ngô Khải Văn bỗng sực nhớ tới Đàm. Trước đó, hai người đang lần theo dấu chân, rồi chớp mắt đã không thấy hắn đâu nữa.
Ngô Khải Văn nói với Ngô Diệu Tổ:
- Thằng Đàm vừa biến mất rồi!
Ngô Diệu Tổ nói:
- Chắc là đi vệ sinh thôi.
Ngô Khải Văn nói:
- Không phải, hắn đột nhiên biến mất. Em không biết tại sao hắn biến mất, nhưng chắc chắn không phải đi vệ sinh.
Ngô Diệu Tổ chỉ vào một người đang đứng trước cửa đại sảnh, hỏi:
- Thế ai kia?
Ánh nến trong đại sảnh không sáng lắm, bên cửa không biết tại sao đã thình lình mọc ra một bóng người. Ngô Khải Văn chiếu đèn pin qua, quả nhiên là tay Đàm.
Đàm ánh mắt đờ đẫn, dường như vẫn đang mơ ngủ.
Ngô Khải Văn bước tới, hỏi hắn:
- Đàm, vừa nãy mày đi đâu?
Rồi lắc hắn một hổi lâu, hắn mới sực tỉnh lại, nói:
- Em cũng không biết. Mẹ kiếp, chả hiểu tại sao lại ngủ quên đi mất.
Ngô Khải Văn kéo hắn lên xe, bảo hắn không được phép đi xuống, sau đó đếm đầu người, thấy đã đầy đủ rồi mới lên xe.
Xe nổ máy, hai chiếc xe một trước một sau ra khỏi cổng chùa, Ngô Khải Văn mới thở phào một hơi.
Ngô Khải Văn kể lại những chuyện quái dị xảy ra trong chùa cho Ngô Diệu Tổ nghe. Ngô Diệu Tổ nghe xong, nói:
- Anh cũng cảm thấy ngôi chùa hơi quái dị. Nhưng chùa chiền làm sao lại có tà khí được. Không chừng là do trường khí của chúng ta xung đột với trường khí của ngôi chùa, mới xuất hiện những chuyện quái đản đó cũng nên. Chỉ cần không bị tổn thương gì thì không sao. Chúng ta từ Miến Điện qua đây, là khách lạ, gặp phải vài chuyện quái dị cũng chẳng có gì khó hiểu.
Ngô Khải Văn nói:
- Đại ca, chuyện quái dị thì chúng ta đã gặp không ít, nhưng cảm giác hôm nay lạ lắm. Chỗ nào cũng thấy tà khí, anh còn không biết à? Chủ yếu là anh lại không cho phép ra tay. Nếu mà là ở Miến Điện, quăng cho nó một cục thuốc nổ, tà khí gì cũng tan xác hết. Em thấy làm người tốt đúng là khó hơn làm người ác nhiều.
Ngô Diệu Tổ cười nói:
- Tại chú mày làm người ác quen rồi.
Ngô Khải Văn cười cười, vừa định nói gì đó, ánh mắt vừa quét ra ngoài, đã thình lình quát lên:
- Không đúng, dừng xe!
Lái xe đỗ xịch lại. Ngô Khải Văn băn khoăn xuống xe, nhìn ngó một lát, rồi quay lên xe nói:
- Đại ca, gặp “ma xây tường” rồi.
Ngô Diệu Tổ nói:
- Chú mày chỉ vớ vẩn, trên đường còn thấy xe khác đi qua, không thấy vừa rồi còn có hai chiếc xe ba bánh đang chạy đấy à?
Ngô Khải Văn nói:
- Thật đấy, không tin em đánh dấu ở đây, rồi bảo lái xe chạy tiếp một lúc xem sao.
Ngô Diệu Tổ nói:
- Cái nơi bé tẹo này mà cũng giam chân chúng ta được à? Đây có phải là rừng rậm Miến Điện đâu? Chú mày cứ xuống xe mà đánh dấu đi, anh chẳng tin.
Ngô Khải Văn xuống xe, tìm một thân cây nhỏ, rối lấy hai cái túi nilon một đỏ một trắng buộc lên cây, sau đó bảo lái xe chạy tiếp.
Đây là một đoạn đường mòn khấp khểnh, khó khăn lắm hai xe mới có thể tránh nhau. Lúc ban ngày, họ nhìn thấy hai chiếc máy kéo vì tránh nhau mà rơi xuống rãnh nước.
Mặt đường còn tạm chấp nhận được, ít nhất đối với con Jeep Toyota của Ngô Khải Văn, thì vẫn có thể chạy ổn, nhưng tốc độ rất chậm, hết lên dốc lại xuống dốc, quanh co vòng vèo, đèn xe chiếu về phía trước, chỉ thấy các dốc núi nhỏ nhấp nhô.
Lúc hỏi đường, họ nghe một người bạn bản địa của Ngô Khải Văn nói, đoạn đường này còn tương đối dễ đi, chỉ cần không rẽ vào đường nhánh, cứ thế đi thẳng về phía đông, chừng hơn mười dặm, sẽ nhìn thấy một con đường cái rộng rãi, lên đường cái rẽ phải, đi một đoạn ngắn nữa là tới thành phố Cảnh Châu. 
Hơn mười dặm đường, đi chậm đến mấy thì hai mươi phút cũng phải tới nơi mới phải.
Thế nhưng, họ nhìn đồng hồ, đã đi thêm hơn nửa tiếng mà vẫn chưa tới. Cộng thêm đoạn đường ban đầu, đã sắp được một tiếng đồng hồ rồi, trước mắt vẫn là những dốc núi trập trùng không thấy điểm kết thúc, đến cái bóng của con đường cái cũng không thấy đâu.
Thật quái lạ!
Ngô Diệu Tổ và Ngô Khải Văn mở to mắt nhìn chăm chú vào con đường trước mặt, chỉ sợ lái xe rẽ nhầm vào đường nhánh. Nhưng không, lái xe không hề rẽ vào đâu. Lại đi thêm nửa giờ đồng hồ nữa, Ngô Diệu Tổ chợt nhìn thấy hai cái túi nilon mà Ngô Khải Văn đã buộc trên cây. Một trắng một đỏ, hai màu sắc đối chọi dữ dội, toát lên một vẻ cuồng ngạo và ma quái trong bóng đêm đen.
Không ai xuống xe. Có xuống xe cũng chẳng ích gì. Ngược lại, mọi người chốt chặt khóa cửa, dường như e sợ bên ngoài có thứ gì sẽ tông cửa xông vào.
Ngô Khải Văn rút súng ra, quan sát hai cái túi nilon qua cửa kính xe. Hắn cảm thấy hai cái túi trông tựa như sứ giả của vong hồn, đến đây hạ chiến thư.
Nhìn khắp tứ phía, toàn là những dốc núi tựa hồ như vĩnh viễn giống hệt nhau.
Ngô Diệu Tổ không tin, anh đổi chỗ cho lái xe, đích thân tự lái. Trên đường đi, anh nhìn không chớp mắt vào mặt đường, tiếp tục đi về phía đông một tiếng đồng hồ, và họ lại nhìn thấy hai cái túi nilon quái quỷ kia. Ngô Diệu Tổ xuống xe, cầm đèn soi khắp xung quanh, gần đó không hề có mồ mả, sao lại có “ma xây tường” ở đây được?
Anh nhìn thấy cách đó không xa hình như có một tòa kiến trúc, rẽ phải đi thêm một đoạn ngắn là tới. Anh lên xe, rẽ sang phải, mới đi được một đoạn, Ngô Khải Văn đã kêu toáng lên:
- Sao em thấy chỗ này quen thế nhỉ?
Ngô Diệu Tổ nói:
- Anh lại không thấy thế?
Ngô Khải Văn nói:
- Không tin anh đi tiếp xem sao.
Ngô Diệu Tổ nói:
- Dù gì cũng có một căn nhà, chúng ta cứ đến hỏi đường xem sao, mặc xác trông có quen hay không!
Tòa kiến trúc mỗi lúc một gần, hai con mắt Ngô Khải Văn trợn trừng lên, hắn hét lớn:
- Chẳng phải là ngôi chùa chúng ta vừa đi khỏi đấy à?
Ngô Diệu Tổ nhủ thầm, chẳng lẽ lại trùng hợp đến thế? Đi sát đến nơi, anh đã không thể không tin. Chính xác là ngôi chùa họ vừa đi khỏi. Cổng chùa xiêu vẹo, toát lên một làn tà khí.
- Như vậy là chúng ta nãy giờ cứ đi lòng vòng quanh nó?
Ngô Khải Văn đáp:
- Đúng vậy.
Ngô Diệu Tổ nói: 
- Thật quái lạ. Chẳng lẽ người ở đây lại làm đường thành hình tròn?
Ngô Khải Văn định bước lên gõ cửa, Ngô Diệu Tổ bèn ngăn lại:
- Anh thấy ngôi chùa này quái đản lắm, tốt nhất đừng động vào nó.
Ngô Khải Văn nói:
- Em đi tìm lão hòa thượng hỏi đường, chắc là được chứ?
Ngô Diệu Tổ nói:
- Bỏ đi, anh thấy trời cũng sắp sáng rồi, đợi thêm tí nữa, trời sáng là ổn thôi. Thời điểm này càng không được manh động. Nếu là một cái bẫy, chúng ta không chui vào thì có đặt bẫy cũng vô ích. Dù sao đều mệt cả rồi, nghỉ một lát cũng tốt.
Mấy người bèn lên xe, đóng cửa lại, chợp mắt một lát.
Ngô Khải Văn không quen ngủ trên xe, nên tỉnh dậy rất sớm. Vừa mở mắt, mặt trời cũng bắt đầu ló rạng. Ngô Khải Văn vô cùng sửng sốt khi thấy cánh cổng chùa vốn ngỡ là hướng về phía bắc, giờ lại hướng về phía đông bắc. Hắn đẩy cổng chùa, vừa định bước vào, thì mọi thứ bên trong lại khiến hắn phải sững sờ. Tối hôm qua, Ngô Khải Văn nhìn thấy rất rõ ràng, đối diện với cổng chùa chính là Đại Hùng bảo điện, cũng chính là cửa chính của ngôi chùa. Còn lúc này, nhìn qua cánh cổng vào bên trong, lại chỉ có thể nhìn thấy một góc của chính điện. Cũng có nghĩa là, gian chính điện không đối diện với cổng chùa, mà nằm lệch sang một bên. Thế nhưng tối qua, rõ ràng là chúng còn thẳng hàng kia mà.
Ngô Khải Văn đang định bước vào, Ngô Diệu Tổ liền cản lại, giục:
- Đi thôi! Không hiểu sao anh cứ cảm thấy ngôi chùa này trông còn tà quái hơn cả tối qua.
Ngô Khải Văn nói:
- Đã sáng bảnh rồi, chúng ta còn sợ quái gì nó? Lại còn có hàng nóng sẵn đây, em chẳng tin lại có thứ gì không sợ súng ống.
Ngô Diệu Tổ nói:
- Chú mày đừng quên chúng ta tới đây để làm gì đấy. Lần này có thể để người khác bắt nạt chúng ta, nhưng chúng ta không được bắt nạt người khác. Hơn nữa, đây là Trung Quốc, nếu để cảnh sát phát hiện ra chúng ta mang hàng nóng là phạm pháp đấy.
Ngô Diệu Tổ nói vậy, Ngô Khải Văn đành phải lên xe.
Trên đường dần dần đã có người đi lại, lái xe bèn bám theo một chiếc xe ba bánh hình như là đi giao sữa, quả nhiên đi chưa đầy mười phút, họ đã nhìn thấy con đường cái.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Độc Chú (Hạ Long Hà)

Postby bevanng » 01 Oct 2016

3. LÃO HÒA THƯỢNG

Ngô Diệu Tổ tới đây là để bái tế tổ tiên.
Việc này, đã dằn vặt anh suốt hai năm rồi. Trong gia tộc họ, Ngô Diệu Tổ là trưởng nam của ngành trưởng. Hơn mười năm trước, đứa con trai đầu của anh mới sáu tuổi, thế mà lại bất ngờ tự treo cổ chết trên cây chuối ở vườn hoa sau nhà. Mạnh Lệ vợ anh không chịu nổi cú sốc này, đã mắc bệnh tâm thần. Ba năm sau, đứa con thứ hai vừa tròn bốn tuổi cũng treo cổ chết trên thân cây đó ở vườn sau, và người vợ thứ hai cũng bị hóa điên.
Anh biết, đây không phải là tai nạn ngẫu nhiên. Điều khiến anh không tài nào hiểu nổi, đó là ở Miến Điện, người buôn bán ma túy rất nhiều, thế nhưng họ vẫn được bình an yên ổn, con cái đề huề. Thế mà anh đã rửa tay gác kiếm bao nhiêu năm, chẳng nhẽ lại chỉ mình anh gặp quả báo.
Anh đã mời vị cao tăng chùa Dữu Mộc tới vườn sau làm phép, và tuân theo lời chỉ dẫn của cao tăng, xây một cái đình nhỏ ở đó, bày đài tế, ngày ngày cúng bái. Cao tăng bấm độn tính toán, nói rằng để đảm bảo, còn có một cách nữa, đó chính là tìm ra phần mộ của tổ tiên ở trong nước, rổi đến đó bí mật cúng tế. Tổ tiên nhà anh đã mấy trăm năm không có người cúng bái, nên oán khí ngút trời.
Nhà họ Ngô vào thời Khang Hy đã chạy nạn từ Vân Nam sang Miến Điện, trong gia phả dòng tộc ở Miến Điện, không thấy có ghi chép về tổ tiên. Lịch sử của nhà họ Ngô bắt đầu được viết từ Miến Điện. Nghe nói cho dù là vậy, nhưng vào cuối thời nhà Thanh, nhà họ Ngô vẫn bị truy sát, phải chạy trốn từ vùng biên giới Trung - Miến tới gần Mandalay.
Ngô Diệu Tổ thắc mắc:
- Nếu đã là cúng tế tổ tiên, thì cứ làm cho rầm rộ hoành tráng vào chứ, lén lén lút lút còn ra làm sao?
Cao tăng nói:
- Bây giờ không nên. Tổ tiên nhà thí chủ hình như có đại nạn, bây giờ chưa thích hợp để nhận đại lễ.
Ngô Diệu Tổ rất tin tưởng công lực của cao tăng, vì thế suốt dọc đường đi, anh gặp Phật thắp hương, gặp chùa bái lạy, không gây chuyện phiền toái, rộng kết thiện duyên. Vì thế mới có sự thể như tối hôm qua.
Không kính Phật, không tin Phật là tội lỗi, nhưng sự việc quái đản tối hôm qua cứ khiến anh cảm thấy có điềm không lành.
Tuy nhiên, tạm thời vẫn phải thế thôi, đi đến đâu tính tới đó. Vật vã suốt nửa năm trời, bây giờ cuối cùng đã có chút manh mối, từ bỏ là không thể.
Tới công ty Cảnh Châu, Sầm Vĩ đã đứng đợi anh trước cửa công ty.
Sầm Vĩ là tai mắt mà Ngô Diệu Tổ gài vào công an Trung Quốc đại lục từ hơn hai mươi năm trước, khi anh còn buôn bán ma túy. Bây giờ anh đã bỏ nghề, Sầm Vĩ cũng trở thành một công an đường đường chính chính, nghe nói năm nay còn có thể thăng chức lên làm phó giám đốc sở.
Sầm Vĩ bảo anh đợi một lát, người dẫn đường mà hắn tìm là do một đồn cảnh sát ở xã dưới kiếm giúp, lát nữa sẽ dẫn tới. Trong khi trò chuyện, một chiếc xe cảnh sát đỗ xịch lại trước mặt họ, trên xe bước xuống một cảnh sát và một hòa thượng.
Ngô Diệu Tổ vừa nhìn thấy vị hòa thượng đã chết sững, kinh ngạc thốt lên:
- Là đại sư?
Hòa thượng Huệ Viễn cúi người chào anh, nói:
- Xin chào Ngô thí chủ.
Sầm Vĩ lại càng kinh ngạc, quay sang nhìn họ, hỏi:
- Các vị quen nhau?
Ngô Diệu Tổ nói:
- Đúng, chúng tôi vừa quen biết tối qua.
Anh nghĩ lại, cảm thấy có phần quái gở, liền hỏi lão hòa thượng:
- Đại sư, ngài chưa từng hỏi tên họ tôi, sao biết tôi họ Ngô?
Lão hòa thượng đáp:
- Chuyện đấy à, ha ha, thứ nhất là do thí chủ Sầm Vĩ nói lại, thứ hai là do bần tăng tối qua gặp thí chủ, liền biết ngay lai lịch của thí chủ. Nếu bần tăng không nhầm, thì trên cổ thí chủ có một miếng ngọc bội, trên đó khắc tượng Tây Lai tôn giả.
Ngô Diệu Tổ cả kinh hỏi lại:
- Đại sư, sao ngài biết được những điều này?
Lão hòa thượng đáp:
- Miếng ngọc bội đó là do nhà họ Ngô khai quang, có linh tính.
Ngô Diệu Tổ cảm thấy sự việc có vẻ không đơn giản như vậy, đang định hỏi thêm, thì lão hòa thượng đã khép mắt lại, không nói năng gì nữa. Anh cảm thấy chuyện này có phần kỷ quặc, nhưng kỳ quặc ở chỗ nào, lại không nói ra được.
Theo chỉ dẫn của lão hòa thượng, họ phóng như bay trên đường, đi hơn hai tiếng đổng hồ, rồi rẽ vào một con đường đất nhỏ, đi thêm khoảng mười dặm, thì ô tô không thể nào đi tiếp được nữa.
Họ buộc phải xuống xe đi bộ.
Leo qua mấy dốc núi thấp, băng qua một cánh rừng, trước mắt họ bỗng sáng bừng. Một ngọn núi nhỏ không cao lắm, song rất uy nghiêm chặn trước mặt họ.
Lão hòa thượng cúi gập người trước ngọn núi, lớn giọng tụng niệm Phật hiệu, rồi nói với Ngô Diệu Tổ, thí chủ, đây chính là phần mộ của tổ tiên.
Ngô Diệu Tổ ngờ vực nhìn sườn núi trông rất đỗi hoang vu, hỏi:
- Đại sư, sao đại sư có thể khẳng định là chỗ này?
Lão hòa thượng trầm ngâm một lát rồi mới nói:
- Ngô thí chủ, việc này là cơ mật của nhà Phật, theo lý mà nói không nên tiết lộ. Nhưng bần tăng có thể nói cho thí chủ một vài điều. Tổ tiên thí chủ khi ở Vân Nam, từng làm rất nhiều việc thiện, hoằng dương Phật pháp. Sau khi mắc bệnh qua đời, các chùa đều cử hành pháp sự cho tổ tiên thí chủ. Khi tổ tiên thí chủ hạ táng, tuy vô cùng bảo mật, nhưng lại không bảo mật với Phật môn. Ngôi chùa của bần tăng tuy đổ nát, nhưng năm xưa cũng từng khói hương phồn thịnh, trụ trì bản tự cũng có tham gia tang lễ của tổ tiên thí chủ, được tổ tiên thí chủ nhờ cậy, thay mặt thắp hương cúng bái. Sau khi tổ tiên thí chủ thất bại, các chùa chiền vùng Vân Nam, Quý Chầu đều bị triều đình nhà Thanh tra xét, tăng chúng chết oan vô số. Bản tự do ẩn trong núi sâu, tránh được quấy nhiễu, ghi chép thuở xưa, chưa từng mất mát. Đây vốn là cơ mật trong chùa, nếu không phải là nhìn thấy ngọc bội của thí chủ, bần tăng đã không dẫn thí chủ tới đây.
Ngô Diệu Tổ nghe vậy, vô cùng phấn khởi, không ngờ ngôi chùa nhỏ kia lại có lai lịch đáng nể đến vậy, bèn hỏi:
- Đại sư, vậy tôi có thể xem những ghi chép của quý tự được không?
Lão hòa thượng đáp thẳng thừng:
- Việc này tuyệt đối không được. Điều cơ mật nhường này, chỉ có trụ trì của bản tự mới được đọc. Bần tăng có may mắn biết được, nhưng thiếu người kế nghiệp, hương khói không thịnh. Điều cơ mật đó, nếu để người ngoài đọc được, sẽ bị trời phạt, xin thí chủ lượng thứ.
Ngô Diệu Tổ cũng không miễn cưỡng. Mỗi nhà đều có quy tắc riêng, không cho phép đọc cũng có thể hiểu được.
Khi họ bắt đầu leo núi, mới hơn tám giờ sáng, cứ liên tục hết leo lên rồi lại leo xuống, cho đến tận trưa, lão hòa thượng mới dừng lại ở dưới chân một quả núi nhỏ.
Ngô Diệu Tổ ngờ vực quan sát ngọn núi nhỏ trước mặt, trông chẳng có khác biệt so với núi non xung quanh, không mấy tin tưởng đây chính là nơi chôn cất tổ tiên mình.
Lão hòa thượng niệm vài tiếng Phật hiệu, rồi nói:
- Thí chủ chớ coi thường quả núi này. Nơi đây xung quanh đều là đỉnh núi, núi không cao nhưng có thế, chính là bảo địa phong thủy. Núi này chất đất dày dặn, song cây cỏ không mọc được, là do đất đắp mộ được xử lý đặc biệt, việc này người dân bình thường không thể nào làm được. Người xuất gia không nói xằng, xin thí chủ định đoạt.
Ngô Diệu Tổ quan sát xung quanh, cảm thấy nơi này quả thực tuyệt diệu, địa thế không quá cao, nhưng tầm nhìn khoáng đạt. Lớp đất dưới chân rất dày, nhưng lại không thấy cây cối tốt tươi như những ngọn núi khác, mà chỉ lơ thơ vài ngọn cỏ xanh.
Ngô Diệu Tổ nhìn sang Ngô Khải Văn. Ngô Khải Văn cũng đang nghi hoặc nhìn ngó xung quanh. Ngô Khải Văn không hiểu về phong thủy mộ táng, Ngô Diệu Tổ cũng không hiểu. Quay về bái tế tổ tiên, họ vốn dĩ cho rằng việc này thật quá hoang đường. Phần mộ của tổ tiên anh, cả nước xúm vào tìm suốt mấy trăm năm rồi, đều không tìm thấy. Lần này họ trở về tìm, lại không dám công khai rình rang, chỉ được lén lén lút lút, cứ ngỡ phải tìm đến dăm ba năm cũng chưa chắc đã tìm ra. Bây giờ, có được chỉ dẫn tạm coi là đáng tin, Ngô Diệu Tổ liền dự định bái tế ở đây luôn cho xong. Huống hồ, cho dù là cúng nhầm, thì năm xưa nơi đây cũng là thiên hạ của cụ tổ, hồn ma khác nhìn thấy, có lẽ cũng sẽ ngoan ngoãn mang đồ cúng dâng cho cụ thôi.
Ngô Diệu Tổ liền nhờ lão hòa thượng tìm cho một vị trí, rồi sai thuộc hạ bày biện đồ cúng lễ.
Bởi trong thời gian ở Miến Điện, cao tăng chùa Dữu Mộc từng căn dặn anh rằng, việc cúng lễ trọng lòng thành chứ không trọng lễ vật, nên anh không mang theo quá nhiều đồ cúng. Sau khi bày biện xong xuôi, hòa thượng bắt đầu niệm kinh, Ngô Diệu Tổ liền cùng Ngô Khải Văn tiến hành cúng tế.
Cúng tế xong xuôi, Ngô Diệu Tổ và Ngô Khải Văn vừa định quỳ xuống khấu đầu, chợt phát hiện ra ba cây hương lớn đang cắm ngay ngắn đột nhiên gãy gập ngang thân. Ngô Diệu Tổ kinh hãi bật kêu lên một tiếng, Ngô Khải Văn cũng vô cùng kinh ngạc. Ngô Diệu Tổ vội nhìn sang lão hòa thượng. Lão hòa thượng dường như cũng cảm giác được thứ gì đó, sắc mặt luôn bình thản bỗng trở nên vàng ệch, tiếng niệm kinh nhanh lên thấy rõ.
Ngô Khải Văn đứng dậy châm hương. Vừa mới bật bật lửa, một cơn gió liền thổi thốc lại, dập tắt luôn ngọn lửa, rồi biến mất. Cứ thế lặp lại ba lần, thì Ngô Khải Văn không dám thắp hương nữa.
Lão hòa thượng niệm kinh một hồi, cuối cùng đã bình tĩnh trở lại. Ông ta nói với Ngô Diệu Tổ:
- Thí chủ hãy lấy ngọc bội ra, bày lên hương án, sau đó thắp hương lại.
Ngô Diệu Tổ vội vã lôi miếng ngọc bội ra, cung kính đặt lên hương án, bảo Ngô Khải Văn đưa bật lửa cho mình, tự tay châm hương.
Anh lập cập đưa cây hương ghé lên chiếc bật lửa, ngọn lửa phập phù mấy cái rồi lại tắt phụt.
Lão hòa thượng nói:
- Không sao, thắp lại!
Ngô Diệu Tổ thầm nhủ, cụ tổ nhà mình tính khí cũng bạo liệt thật đấy, quả không hổ là Vân Nam Vương.
Lại bật thêm lần nữa, cuối cùng đã châm được hương thuận lợi.
Ngô Diệu Tổ cắm hương, khấn:
- Cụ tổ trên trời, con cháu bất tài Ngô Diệu Tổ bái kiến chậm trễ, mong cụ tổ không trách tội. Khẩn cầu cụ tổ phù hộ cho một mạch hương hỏa của dòng họ Ngô được nối tiếp mãi mãi, Diệu Tổ cảm kích vô cùng.
Ngô Diệu Tổ và Ngô Khải Văn khấu đầu mấy cái, tảng đá đè trĩu trong lòng Ngô Diệu Tổ cuối cùng coi như đã được nhấc bỏ.
Lão hòa thượng từ biệt họ, nói rằng mình sẽ không đi cùng họ nữa, vượt qua hai ngọn núi trước mặt là đã tới chùa. Ngô Diệu Tổ không tin, nhìn theo tay hòa thượng chỉ, quả nhiên lờ mờ nhìn thấy hình dáng của ngôi chùa. Anh băn khoăn hỏi:
- Đại sư, thế là chúng ta lại quay trở lại à?
Lão hòa thượng nói: 
- Đúng vậy. Chẳng qua lần này đi theo con đường khác mà thôi.
Ngô Diệu Tổ định đưa tiền cho hòa thượng, nhưng lần này ông ta lại nhất quyết không chịu nhận. Ông ta nói:
- Tổ tiên của thí chủ từng làm nhiều việc thiện, chút việc nhỏ nhoi hôm nay là chuyện bần tăng nên làm. Chỉ cần thí chủ sau này chú ý hành thiện tích đức, tránh xa tà niệm, cũng chính là sự cảm tạ tốt nhất đối với đức Phật. Bần tăng còn muốn tặng thí chủ một câu…
Ngô Diệu Tổ nói:
- Xin cứ nói.
Lão hòa thượng nói:
- Nói bừa sẽ thua, làm bừa sẽ diệt. Phật nói chúng sinh bình đẳng, muốn có thiện báo, phải làm nhiều việc thiện. Tây Lai tôn giả cũng là người có tấm lòng nhân từ, làm ra việc thiện lớn nhất trong thiên hạ, chẳng qua là bị tiểu nhân lợi dụng mà thôi. Thí chủ có tâm, sẽ phát hiện ra những việc mà rất nhiều người không phát hiện ra. Lời chỉ có thể nói tới đây, xin thí chủ suy ngẫm cho kỹ.
Lão hòa thượng nói xong, cúi chào từ biệt.
Ngô Diệu Tổ nhìn theo lão hòa thượng đang trèo lên một ngọn núi nhỏ, thong dong ra về, cảm giác trong lời nói của lão hòa thượng như có điều ẩn ý.
Cụ tổ của họ từng bị coi là đại Hán gian, đây cũng là nguyên nhân khiến họ phải tiến hành cúng tế bí mật. Ở trong nước, ngoài Sầm Vĩ ra, không ai biết nhà họ Ngô của anh là hậu duệ của Vân Nam Vương. Đây cũng là lời di huấn mà tổ tiên ở Miến Điện truyền lại. Để tránh chuốc họa sát thân, hậu duệ của nhà họ Ngô người thì đổi sang họ khác, người thì đổi theo họ mẹ. Năm xưa, sau khi cụ tổ bại trận, triều Thanh từng phái sát thủ sục sạo khắp nơi tìm kiếm hậu duệ nhà họ Ngô. Cụ tổ của Ngô Diệu Tổ chạy trốn sang Miến Điện, còn bị thuộc hạ của hoàng đế Vĩnh Lịch ở Miến Điện truy sát. Cái đêm ở Laukai, nếu không phải là nhờ các hộ vệ liều mạng bảo vệ, cụ tổ của Ngô Diệu Tổ có chết cả trăm lần cũng chưa đủ. Suốt mấy trăm năm sau, người nhà họ Ngô bị ám sát vô số, cũng chuyển nhà vô số lần.
Thực ra, nếu con người có thể lựa chọn, làm gì có ai muốn làm việc xấu?
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Độc Chú (Hạ Long Hà)

Postby bevanng » 01 Oct 2016

4. MỘ “THỦY THỦ”

Trên xe, Ngô Diệu Tổ nhận được điện thoại của công ty, nói là văn phòng ủy ban thành phố gọi điện thoại tới công ty, ngày mai tại hội trường chính quyền thành phố có một cuộc hội đàm về thu hút vốn đầu tư, hy vọng Ngô Diệu Tổ có thể tới tham dự.
Ngô Diệu Tổ không thích tham gia mấy thứ hội hè vô bổ như vậy, liền bảo giám đốc công ty gọi điện cho ủy ban thành phố, nói là bận không đi được. Vừa tắt điện thoại được một lát, chuông lại vang lên. Lần này Ngô Diệu Tổ không thể không bắt máy. Người gọi tới là văn phòng ủy ban thành phố, một cậu nhóc nói thị trưởng Vương tìm anh, Ngô Diệu Tổ buộc phải nghe máy.
Thị trưởng Vương lời lẽ rất lịch sự, nói là hy vọng anh ủng hộ, tham gia cuộc hội đàm lần này. Ngô Diệu Tổ biết nếu tiếp tục từ chối thì có phần không nể mặt ông ta, đành phải nhận lời.
Những cuộc hội đàm của chính quyền giả tạo phát ngán, Ngô Diệu Tổ rất rất không thích đến những nơi như thế. Anh luôn cảm thấy chính quyền lãng phí tiền bạc của nhân dân để bày ra những trò vô bổ này, kỳ thực chẳng tốt đẹp hơn là mấy so với việc anh buôn bán ma túy năm xưa. Nhìn bộ dạng đứng đắn nghiêm nghị của đám quan chức, anh khó chịu không để đâu cho hết, còn khó chịu hơn cả gặp ma quỷ.
Một vị phó thị trưởng sau khi giới thiệu về đặc sản địa phương và phong cảnh diễm lệ của Cảnh Châu, bèn chuyển sang vấn đề tài nguyên nhân văn. Vị phó thị trưởng này ăn nói rất lưu loát, có một đoạn như sau:
- Bàn về cảnh quan nhân văn của Cảnh Hồng, ở Trung Quốc là độc nhất vô nhị. Tại sao lại nói như vậy? Bởi vì ở đây có di tích của Ngô Tam Quế - đệ nhất Hán gian trong lịch sử Trung Quốc tự cổ chí kim.
Năm xưa Ngô Tam Quế chinh phạt Miến Điện, đã đi qua địa phận Cảnh Châu chúng ta. Đúng rồi, ngài Ngô chẳng phải có kế hoạch phát triển du lịch hay sao? Ngài có thể khai thác trường hợp Ngô Tam Quế. Ngày nay, chỉ cần có đầu óc, cái gì cũng có thể là văn hóa, ăn uống ngủ nghỉ cũng là văn hóa. Thế nhưng, mảng văn hóa này của chúng ta là thứ văn hóa có ý nghĩa, có thể giáo dục cho đời sau. Ví dụ như chúng ta có thể thực hiện cái gọi là văn hóa du lịch Hán gian. Ngài Ngô chẳng phải họ Ngô ư? Ngài cứ nói rằng mình là hậu duệ của Ngô Tam Quế. Đương nhiên, tôi biết ngài không phải, nhưng nói như thế chẳng phải là càng oách, càng thu hút được sự chú ý hay sao? Cái này là tôi lấy ví dụ…
Những lời tiếp theo, Ngô Diệu Tổ càng nghe càng chói tai. Ngô Diệu Tổ chỉ muốn đứng bật dậy, nói toẹt vào mặt tay phó thị trưởng, anh chính là hậu duệ của Ngô Tam Quế.
Nói thực, anh chẳng có ý kiến gì đối với việc cụ tổ đầu hàng nhà Thanh, nhưng về việc cụ tổ ngụy tạo tấu chương, phái đại quân đi bắt hoàng đế Vĩnh Lịch, anh cứ cảm thấy có phần quá đáng.
Cho nên, anh vẫn xấu hổ không muốn để cho người khác biết về gia thế của mình.
Đúng là Ngô Diệu Tổ muốn đầu tư du lịch ở Vân Nam, cũng muốn thực hiện một vài dự án liên quan tới cụ tổ. Đặc biệt, anh muốn phát dương công đức của cụ tổ, để mọi người nhìn nhận lịch sử một cách khách quan hơn.
Đang lúc buồn bực, điện thoại bỗng rung lên trong túi anh. Anh rút ra xem, là điện thoại từ Miến Điện gọi tới. Anh biết chắc chắn là có chuyện gấp, nếu không có chuyện gì quan trọng, bọn họ thông thường sẽ gọi đến công ty bên Cảnh Hồng hoặc gọi cho Ngô Khải Văn.
Anh đứng lên, đi ra khỏi hội trường nghe điện thoại.
Là bố vợ anh gọi tới. Ông báo cho Ngô Diệu Tổ một tin như sét đánh giữa trời quang: Lisa vợ anh đã bị bắt cóc.
Bố vợ anh cuống cuồng tới mức nói năng lộn xộn chẳng nên đầu đũa. Ngô Diệu Tổ bèn nói:
- Bố ơi, bố đừng hoảng hốt, trước tiên hãy nói cho con biết, kẻ nào đã bắt cóc Lisa.
Ông đáp:
- Là Thiên Kim Hưng.
Ngô Diệu Tổ loạng choạng mấy cái, suýt chút nữa thì không đứng vững. Anh nói với nhân viên của ủy ban thành phố đang đứng bên một tiếng, rồi vội vàng chuẩn bị quay về Miến Điện.
Từ Cảnh Châu đi qua cửa khẩu, suốt chặng đường phóng xe như bay, cả đoàn người nhem nhuốc bụi đường, hộc tốc quay về Mandalay.
Ngô Diệu Tổ về đến nhà, thấy cả nhà đều đang đợi anh. Anh chẳng kịp cả tắm rửa, lập tức hỏi vệ sĩ Vương Thái Sinh ở nhà:
- Chuyện là như thế nào, tại sao bà chủ lại mất tích?
Vương Thái Sinh đáp:
- Bà chủ bị bắt cóc trên đường về nhà. Bà chủ chỉ cho Tiểu Lục Tử đi theo.
- Thế Tiểu Lục Tử đâu?
- Cũng bị bắt cóc rồi.
Ngô Diệu Tổ thở phào một cái, vẫn may chưa xảy ra án mạng. Bọn bắt cóc chỉ ra điều kiện để đòi tiền. Chỉ cần người không sao, vẫn còn có cơ may cứu vãn. 
Thiên Kim Hưng gửi cho anh một bức thư, sai một gã ăn mày mang tới, bảo anh trong vòng năm ngày phải tới “thánh địa” tìm hắn, quá hạn không đợi.
Lại là “thánh địa”. Ngô Khải Văn xông tới xem qua bức thư nói:
- Đại ca, nơi này chúng ta không thể tới được, đây là nơi giải quyết vấn đề khi còn buôn bán thứ hàng kia. Bây giờ chúng ta không làm nữa, nên đổi địa điểm khác.
Ngô Diệu Tổ nói:
- Chúng ta không làm nữa, nhưng hắn vẫn làm.
Ngô Khải Văn nói:
- Cho nên mới phải đổi địa điểm. Năm xưa chúng ta binh hùng tướng mạnh, có thể đối chọi với hắn. Bây giờ thì không được nữa, đã mười năm không lăn lộn trước mũi dao, người không còn sát khí nữa rồi, sát khí thì không thể đóng giả được. Bây giờ mà đi đối đầu với người ta, thì không còn ngang cơ nữa. Cái khác không nói, chỉ nói tới vũ khí thôi, em nghe nói hàng của hắn bây giờ đều là súng tiểu liên và súng trường bắn tỉa nòng cỡ lớn đời mới nhất. AK47 bị đào thải lâu rồi, vũ khí của chúng giờ còn tân tiến hơn cả quân đội chính quy.
Ngô Diệu Tổ nói:
- Tân tiến cũng vô dụng, vẫn chẳng bị người ta dồn vào trong mộ đấy thôi.
Ngô Khải Văn nói:
- Kiểu gì thì chúng ta cũng chẳng thể so với hắn được.
Ngô Diệu Tổ cười nói:
- Chúng ta không so với hắn. Hắn bắt cóc người không phải là để so găng đối địch với chúng ta, có lẽ là vì tiền hoặc thứ gì khác, ví dụ như con đường trong rừng rậm của chúng ta. Hai năm nay, Thiên Kim Hưng đã bị cảnh sát hình sự quốc tế vây hãm tới hai lần, sau đó còn thuê lính đánh thuê quốc tế, hắn đã phải hao phí cả núi tiền. Vài đồng bạc kiếm được mấy năm về trước có lẽ đểu dốc cả vào đấy rồi. Lần này chắc là túng quá hóa liều, nếu không cũng chẳng phải đi bắt cóc người của chúng ta. Thằng này đúng là ghê gớm thật đấy, nhưng nếu là vì tiền thì cũng dễ xử thôi.
Nghe Ngô Diệu Tổ phân tích có lý, Ngô Khải Văn không ngăn cản nữa, chỉ nói:
- Đại ca, thế bao giờ thì chúng ta đi?
Ngô Diệu Tổ liếc nhìn đổng hồ rồi nói:
- Tối nay. Trước đây chúng ta giải quyết vấn đề hay giao dịch đều chọn lúc đêm tối, nên để tỏ ý tôn trọng hắn, chúng ta vẫn cứ đi buổi tối. Có lẽ ban ngày hắn cũng không dám thò mặt ra. Còn bốn tiếng nữa, chúng ta hãy nghỉ ngơi một lát. Đến tối bảo thằng Vương lái xe, đưa chúng ta đến đấy là được. Không cần dùng tới những người khác, chỉ ba người thôi.
Việc này đi đông người cũng chẳng ích gì, Ngô Khải Văn hiểu rõ.
Sau đó hai người tắm rửa nghỉ ngơi. Trên đường về đã ngủ trên xe, nên không mệt lắm, Ngô Diệu Tổ tắm xong, tới vườn hoa sau nhà thắp hương cầu khấn một hồi. Chuẩn bị một lát, trời cũng đã tối.
Hai người ăn uống qua loa, Ngô Diệu Tổ bảo Ngô Khải Văn bỏ súng lại, chỉ mang theo dao găm. Ngô Khải Văn kinh ngạc hỏi:
- Súng lục cũng không mang à?
Ngô Diệu Tổ nói:
- Mang theo thì cũng biếu không cho chúng nó thôi.
Ngô Khải Văn nghĩ thấy cũng phải, bèn nhét dao găm vào trong ủng da, rồi hai người lên xe.
“Thánh địa” thực ra là một nghĩa địa, là khu mộ phần của tướng quân họ Lý năm xưa đã từng theo cụ tổ nhà họ Ngô nam chinh bắc chiến, và bảo vệ nhà họ Ngô chạy trốn sang Miến Điện.
Tới Miến Điện, hậu duệ nhà họ Lý liền dời đi nơi khác sinh sống. Thời gian lâu dần, hai nhà dần dần mất liên lạc. Sau này, tới đời ông nội Ngô Cương của Ngô Diệu Tổ, nhà họ Ngô vẫn nghèo túng khốn khó, nhà họ Lý đã phất lên muốn lập gia phả, bèn tìm tới nhà họ Ngô. Nhà họ Ngô có gia phả, nhưng chỉ ghi chép sơ sài ngày nào tháng nào từ Trung Quốc chuyển tới, còn không có nội dung gì khác.
Lúc đó, Ngô Cương chưa đầy hai mươi tuổi, Lý Đức Lượng hỏi ông có phải là công tử nhà họ Ngô hay không. Ngô Cương nói phải, tôi họ Ngô. Lý Đức Lượng liền nhảy xuống ngựa, lập tức dập đầu bái lạy.
Sau khi Lý Đức Lượng gặp ông nội của Ngô Cương, sắp sửa ra về, tỏ ý muốn dẫn tiểu công tử theo, để dạy cách kinh doanh buôn bán. Nhà họ Ngô khi đó cơ hàn khốn quẫn tột độ, tuy không hiểu rõ về nhà họ Lý, nhưng nhìn dáng vẻ của Lý Đức Lượng, thì biết không phải người xảo trá. Huống hồ theo lời Lý Đức Lượng, tổ tông nhà họ Lý vốn là tướng quân dưới trướng cụ tổ nhà họ Ngô, Lý Đức Lượng gặp người nhà họ Ngô cực kỳ cung kính, bộ dạng không giống như giả dối. Thế là họ liền cho Ngô Cương đi theo Lý Đức Lượng.
Từ đó nhà họ Ngô bắt đầu đổi vận. Hay đúng hơn là Lý Đức Lượng đã cứu nhà họ Ngô.
Hàng tháng, Ngô Cương đều gửi đủ tiền cho ông nội chi tiêu, nhà họ Ngô dần dần thoát khỏi cảnh đói nghèo, bắt đầu trở nên giàu có. Khi Lý Đức Lượng chết, toàn thể nhà họ Ngô đều tới đưa tang. Cha của Ngô Cương, cũng chính là cụ nội của Ngô Diệu Tổ từng nói, con cháu sau này có thể không cúng bái đốt tiền cho ông, nhưng chỉ cần nhà họ Ngô còn người, nhất định phải tới dập đầu trước mộ nhà họ Lý.
Được Lý Đức Lượng cứu giúp còn có gia tộc nhà Thiên Kim Hưng. Ông nội của Thiên Kim Hưng đi theo Lý Đức Lượng sớm hơn Ngô Cương. Lý Đức Lượng chỉ có một người con gái, sau khi ông ta qua đời, Ngô Cương và cha của Thiên Kim Hưng là Thiên Lai đều làm tròn bổn phận của con cái, phát tang cúng mộ, chưa từng lơ là.
Trong mắt họ, mộ tổ của nhà họ Lý chính là thánh địa. Đây là một thứ tình cảm rất mực chân thành.
Ngô Diệu Tổ bảo tay Vương dừng xe ở bên đường, anh và Ngô Khải Văn đi bộ về phía mộ địa.
Màn đêm tối đen như mực.
Khi còn buôn bán ma túy, đây là nơi anh và Thiên Kim Hưng thường xuyên qua lại vào buổi tối. Khi đó, hai bên đều có hơn hai mươi người, súng ống đầy đủ, lái xe thẳng vào bên cạnh khu mộ, hơn mười chiếc xe xếp thành một hàng thẳng tắp, trước tiên thắp hương đốt tiền cho Lý Đức Lượng, dập đầu bái lạy, sau đó hai bên mới giải quyết tranh chấp.
Cũng lạ, cho dù là vấn đề gì, hai người khi đứng trước mộ của ông cụ, đều có thể cởi mở tâm tư, nói chuyện rõ ràng. Dần dà, nơi này trở thành phương thức và địa điểm duy nhất để hai người giải quyết tranh chấp. Huống hồ nơi này gần như cách biệt với thế giới bên ngoài, cho dù là quân đội hay là tổ chức chống ma túy quốc tế, đều không thể ngờ rằng hai tên trùm buôn ma túy lại chọn nơi này làm chỗ hội họp đàm phán.
Thế nhưng, từ khi anh rút khỏi nghề buôn bán ma túy, đã rất nhiều năm không tới đây vào buổi tối rồi. Cộng thêm đêm nay chỉ có hai người là anh và Ngô Khải Văn, lại không mang theo súng ống, nên khi nhìn thấy vạt rừng rậm rì đen quánh như sơn, anh bất giác cảm thấy ớn lạnh từng chập.
Tuy cách thành phố không xa mấy, nhưng nơi này lại thưa thớt bóng người. Năm xưa nhà họ Lý đặt phần mộ ở đây, có lẽ còn trong thời kỳ lang bạt trốn tránh, chủ yếu là nhằm bảo mật, nên không suy xét quá nhiều tới vấn đề phong thủy. Nơi này là núi hoang rừng thẳm đúng nghĩa, ngoài bìa rừng vốn đã có không ít mộ hoang, nên rất hiếm người dám đi sâu vào bên trong.
Khu mộ của nhà họ Lý là một bãi đất trống nằm phía sau một vạt rừng nhỏ. Bãi đất trống dường như được người ta cố tình lưu lại, không rộng lắm, phía sau là cánh rừng nguyên sinh bạt ngàn. Có cảm giác những ngôi mộ kia dường như cũng đang chuẩn bị để sẵn sàng lẩn trốn vào rừng sâu lập tức.
Hai người cố gắng kìm chế nỗi sợ hãi, đi vòng qua những ngôi mộ hoang rải rác, chân thấp chân cao hì hục băng qua khu rừng nhỏ. Họ tôn trọng quy tắc trong nghề, không dùng bất cứ dụng cụ chiếu sáng nào.
Việc này khiến hai người họ gặp bất lợi rất lớn.
Vốn dĩ sau khi đi vòng qua đám mộ hoang, sẽ lờ mờ xuất hiện một lối mòn. Đó là con đường mà đám Ngô Diệu Tổ cất công tạo ra khi đi viếng mộ. Nhưng vào buổi tối, không có đèn đuốc, họ vòng vèo một lúc lâu, cũng không tìm thấy tung tích lối mòn đâu, nên đành phải bỏ cuộc, cứ thế lẩn mò đi đại vào bên trong.
Hai người vấp ngã thì thụp. Ngô Khải Văn vừa đi vừa chửi:
- Thằng khốn kiếp Thiên Kim Hưng, động một tí là lại chạy tới khu mộ này, ai mà biết được chỗ đấy có ma quỷ gì không?
Nói tới đây, chợt cảm thấy mình lỡ lời, Ngô Khải Văn vội vàng nhổ nước bọt phì phì.
Nếu trong tay có “hàng”, cho dù là đối phó với người hay ma quỷ đều có thể gây uy hiếp, bản thân cũng thấy vững dạ hơn. Nhưng bây giờ, hai người đều tay không, chưa nói tới chuyện khác, nếu lúc này thình lình vọt ra một gã nửa người nửa ma, cũng đủ để hai người họ vỡ mật.
Đang mải nghĩ ngợi, Ngô Diệu Tổ đột nhiên loạng choạng, rồi ngã thẳng cánh xuống đất.
Vì đang đi vội, chướng ngại vật lại ở ngay phía trước, Ngô Diệu Tổ đã ngã một cú vập mặt đúng nghĩa.
Anh đưa tay sờ vào vật thể đã ngáng chân mình theo phản xạ, không ngờ lại là một mô đất. Anh hoảng hốt nhảy dựng lên, suýt chút nữa hét lên thành tiếng. Anh vừa ngã rạp lên một nấm mồ.
Ngô Diệu Tổ đã quá quen thuộc với nấm mồ này. Đây là phần mộ anh để lại khi chôn cất tay “thủy thủ” trước kia. “Thủy thủ” là tên gián điệp đầu tiên bị sư phụ Lý Đức Lượng nổ súng giết chết mà năm xưa Ngô Cương nhìn thấy. Hắn đích thực là một thủy thủ từng làm việc rất nhiều năm trên Ấn Độ Dương, nhưng hắn còn có một thân phận khác, là gián điệp của tổ chức chống ma túy quốc tế.
Tin tình báo của hắn đã khiến ba người anh em thân thiết của Lý Đức Lượng thiệt mạng. Sau khi Lý điều tra ra thân phận thực sự của “thủy thủ”, liền giết hắn ta ngay tại nơi này.
Sau đó, nhà họ Ngô gọi những đồng bọn phản bội hoặc gián điệp là “thủy thủ”. Không tính thời Lý Đức Lượng và ông nội, trong hơn hai mươi năm Ngô Diệu Tổ theo nghề buôn ma túy, đã giết chết mười mấy tên “thủy thủ” tại đây.
Mô đất này chính là nơi chôn thân của một tên “thủy thủ”. Chỉ là không biết tên “thủy thủ” này là do ai xử. Ngô Diệu Tổ đã nhiều năm không lăn lộn kiếm ăn trên mũi dao, trên người từ lâu đã không có sát khí, nên lúc này chính là thời điểm hồn ma oan gia dễ tìm đến đòi nợ nhất. Ngô Diệu Tổ chửi một câu xúi quẩy, rồi hét to gọi Ngô Khải Văn, muốn nhắc hắn chú ý. Ngô Khải Văn kinh hãi rụng rời, hỏi:
- Sao lại có nhiều mộ thủy thủ thế nhỉ?
Ngô Diệu Tổ lặng người, rút điện thoại ra, bật sáng, dưới ánh sáng yếu ớt của màn hình, quả nhiên nhìn thấy từng dãy từng dãy mộ, phải có đến hơn ba chục nấm. Đất đắp trên mộ dường như là hoàn toàn mới.
- Nhiều thế cơ à! - Ngô Diệu Tổ kinh ngạc buột kêu một tiếng. Đám mộ này chắc chắn không phải do họ xử, có lẽ là Thiên Kim Hưng làm. Tội phạm buôn bán ma túy chỉ theo đuổi tiền bạc, giết người là việc bất đắc dĩ. Nhìn vạt mộ thủy thủ trước mặt, Ngô Diệu Tổ đã biết cuộc sống của Thiên Kim Hưng gần đây nguy hiểm tới chừng nào.
Nhờ ánh sáng của màn hình điện thoại, bọn họ đi vòng qua đám mộ, tiến về khu nghĩa địa nhà họ Lý.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Độc Chú (Hạ Long Hà)

Postby bevanng » 01 Oct 2016

5. BẢN ĐỒ ĐƯỜNG CỔ

Tuy nằm trên dãy núi hoang vu, nhưng Lý Đức Lượng về sau đã sửa sang khu mộ, dựng bia, cho nên khu mộ địa nhà họ Lý trông vẫn khá bề thế.
Ngô Diệu Tổ nhìn thấy khu mộ nhà họ Lý, cảm giác cũng đã hơi yên tâm. Đầu tiên, anh đốt chút tiền vàng cho Lý Đức Lượng. Anh chưa từng gặp Lý Đức Lượng, nhưng được nghe ông nội kể rất nhiều về ông ta. Ông nội anh đã hoàn toàn coi sư phụ của mình là huyền thoại. Hồi đầu, trong bang buôn bán ma túy ấy, Lý Đức Lượng tuy làm ăn không lớn, nhưng rất có danh tiếng. Đối với Thiên Phúc và Ngô Cương, ông thực sự coi họ như con đẻ.
Cho nên, Ngô Diệu Tổ không hề cảm thấy sợ hãi.
Mà lại là Ngô Khải Văn nhìn rừng bia lập lòe trong ánh lửa, cảm thấy ớn lạnh từng cơn. Cho nên, khi một bộ mặt trắng toát thò ra từ sau bia mộ, Ngô Khải Văn sợ tới mức hét lên oai oái.
Ngô Diệu Tổ cũng kinh hãi ngã phệt mông xuống đất.
Người đó sắc mặt xám xịt, không chút sinh khí. Hắn nhìn hai người họ, chẩm chậm đứng lên.
Sau lưng Ngô Diệu Tổ và Ngô Khải Văn đã lố nhố mấy kẻ lăm lăm súng ống. Ngô Diệu Tổ than thầm trong dạ: mình bỏ nghề hơn chục năm rồi, đã không còn độ nhạy bén cảnh giác của ngày xưa nữa. 
Người mặt trắng kia cất giọng lạnh lùng:
- Đắc tội với ông chủ Ngô rồi.
Lời nói vừa dứt, anh và Ngô Khải Văn lập tức bị trói quặt hai tay, bịt kín mắt lại. Ngô Diệu Tổ vô cùng sửng sốt. Năm xưa, khi bọn họ có việc cần bàn bạc, phần lớn đều tiến hành trước mộ Lý Đức Lượng. Đây cũng là tuân theo truyền thống của hai nhà, mang ý nghĩa để cho Lý đại lão gia đức cao vọng trọng chứng kiến. Tuy sau lưng, hai bên cũng ngấm ngầm giở đủ thủ đoạn chiêu trò, nhưng đối mặt với phẩn mộ của tổ tiên, mọi người vẫn cảm nhận thấy một áp lực vô hình.
Bởi họ theo đuổi cái nghề hại người, nên để có được sự an ủi về tâm lý, phần lớn đều tín ngưỡng Phật pháp. Đại lão gia Lý Đức Lượng lại càng sùng tín. Lúc sinh thời, ông từng có dự định, đợi đến khi tuổi già sức kém sẽ xuất gia, làm chút việc thiện để chuộc lại tội nghiệt trong nửa phần đời. Cho nên, rất kỳ lạ, khi đối mặt với mộ phần của ông, mọi người đều có cảm giác như đối diện với cha cố.
Hôm nay Thiên Kim Hưng không đến đây, vậy hắn muốn dẫn họ đi đâu?
Ngô Diệu Tổ, Ngô Khải Văn bị giải qua rất nhiều khúc ngoặt, kỳ quái nhất là còn phải đi xuống phía dưới một lúc rất lâu. Hình như là đi xuống cầu thang, bước xuống dưới từng bậc từng bậc một. Ngô Diệu Tổ cảm thấy vô cùng kinh ngạc. Nơi đây là rừng hoang núi thẳm, lấy đâu ra nhà lầu? Trừ phi là bọn họ đi xuống dưới lòng đất.
Đi ít nhất là hai mươi phút, bọn chúng mới cho hai người đứng lại, sau đó cởi bịt mắt và dây trói cho họ.
Ngô Diệu Tổ mở mắt ra, nhìn thấy một cây nến đang cháy. Cây nến đặt trên một mặt bàn. Nhìn ra xung quanh, bốn bể đều tối thui. Quái lạ là bức tường, không phải là tường vôi, không phải là tường xi măng, mà trông giống như tường đất.
Ngô Diệu Tổ ngẩng đẩu nhìn trần nhà, trần nhà hình vòm, quét lên một thứ đen sì. Trong lòng anh đột nhiên trỗi dậy một cảm giác quái dị, buột miệng thốt lên:
- Đây là một ngôi mộ.
Bên cạnh có người tiếp lời:
- Ông chủ Ngô thông minh quá đấy, nơi này đích xác là một ngôi mộ. Nhưng không phải là để chôn người, mà là để giấu người. Ngôi mộ của người sống.
Ngô Diệu Tổ nhìn xung quanh, hỏi:
- Sao mày biết được nơi này?
Thiên Kim Hưng cười vang hai tiếng:
- Nhà họ Ngô các người mới đi theo ông lớn được vài năm, đã tưởng rằng thứ gì ông lớn cũng cho các người sao? Đừng có nằm mơ! Nói cho mày biết, thứ mà nhà họ Ngô các người không biết còn nhiều lắm.
Ngô Diệu Tổ nói:
- Không phải thứ gì cũng cứ cho là có được. Tất cả mọi thứ của nhà họ Ngô chúng ta đều là tự mình nỗ lực giành lấy, không phải nhờ người khác ban cho.
Thiên Kim Hưng giận dữ gầm lên:
- Thế đường đi thì sao?
Ngô Diệu Tổ sững người, rồi hỏi lại:
- Đường đi? Đường đi nào?
Thiên Kim Hưng nói:
- Mày còn giả ngốc? Không có con đường đó, thì có nhà họ Ngô các người được không?
Ngô Diệu Tổ lúc này mới hiểu hắn muốn nói gì, bèn đáp:
- Đường đi là do nhà họ Ngô chúng tao phát hiện ra, không liên quan gì tới ông lớn.
Thiên Kim Hưng cười nhạt mấy tiếng, nói:
- Ý của mày là con đường đó cũng chả liên quan gì tới nhà họ Thiên chúng tao?
Ngô Diệu Tổ nói:
- Đường đi là do ông nội tao phát hiện ra. Còn Thiên lão gia đã mất tích vì nhà họ Lý, hy vọng mày hiểu rõ.
Thiên Kim Hưng càng lớn giọng:
- Tao lại thấy là ông nội nhà mày giết chết ông nội nhà tao vì con đường ấy đấy!
Ngô Diệu Tổ bước dấn lên một bước, nói:
- Thiên Kim Hưng, tao mong mày nhận thức cho rõ ràng, khi Thiên lão gia mất tích, ông nội tao và ông nội mày vẫn là thuộc hạ dưới quyền ông lớn, cả hai người đều không ai nghĩ tới việc tách ra làm ăn riêng. Hơn nữa, khi ông nội nhà mày mất tích, có rất nhiều người đi cùng với ông ấy, bây giờ vẫn có người còn sống. Mày có thể đi điều tra.
Thiên Kim Hưng nói:
- Được, chúng ta không nói những việc này nữa. Tao chỉ hỏi một cầu, mày định bao giờ thì đưa bản đồ đường đi cho tao?
Ngô Diệu Tổ nói:
- Việc này tao phải hỏi ông nội tao đã, thứ này không phải là của tao, mà là của ông nội tao.
Thiên Kim Hưng cười nham hiểm:
- Được thôi, có phải mày muốn tao giúp mày mời ông ấy tới đây không?
Ngô Diệu Tổ lạnh lùng đáp:
- Ông chủ Thiên, thế mày có tin tao sẽ bóp chết mày không?
Thiên Kim Hưng cười cười, nói:
- Tao tin, tao tin. Chúng ta không nói việc này nữa, ông cụ đã già cả rồi, tốt nhất đừng để ông phải can thiệp vào những chuyện đau đầu của chúng ta. Rất đơn giản, mày đưa bản đồ đường đi cho tao, thì chúng ta coi như không có chuyện gì xảy ra.
Ngô Diệu Tổ nói:
- Tao vẫn chỉ một câu đó thôi, chuyện tấm bản đồ không phải một mình tao có thể quyết định được. Hơn nữa, muốn có được tấm bản đồ cũng không phải theo cách của mày. Ông nội tao muốn cho mày, mày có không muốn cũng vẫn cho. Ông không muốn cho mày, mà mày lại làm cách này, e rằng đã quá xem thường nhà họ Ngô rồi.
Thiên Kim Hưng nói:
- Tao cũng chả sợ gì mà cho mày biết, mấy năm nay, chẳng phải mày đang xun xoe tay tư lệnh quân khu kia à? Đừng có tưởng chỉ mình mày biết bỏ tiền ra mua chuộc người khác, còn tao phải chịu lép. Nói toẹt ra nhé, trong chính phủ tao cũng có người đấy. Nếu không thì Thiên Kim Hưng tao còn sống được tới bây giờ không? Những việc mày làm trước đây, tao đều giữ lại chứng cứ cả đấy. Nói cho mày biết, nếu tao muốn chơi mày, quá đơn giản!
Ngô Diệu Tổ sững người. Thiên Kim Hưng cũng bỏ tiền mua ô dù che chắn, việc này anh quả thực không ngờ tới.
Thiên Kim Hưng đổi sang giọng ôn tồn, nói tiếp:
- Vả lại, bây giờ mày không theo nghề này nữa, thì tấm bản đồ kia cũng chỉ tổ bỏ không thôi. Nếu thực sự là không thể được, thì mày cho tao một bản copy cũng xong. Tao kiếm chác được, thì chắc chắn mày cũng có phần.
Ngô Diệu Tổ nói:
- Thế thì mày hãy thả người nhà tao ra trước đã.
Thiên Kim Hưng cười cười, nói:
- Này đại ca, đại ca đừng có đùa! Thả bà chị ra rồi, tao còn có trò gì để diễn?
Ngô Diệu Tổ nổi giận, nói:
- Đây là chuyện của đàn ông chúng ta, mà mày còn thò tay ra bắt đàn bà. Mẹ kiếp, mày là cái loại đàn ông gì thế?
Thiên Kim Hưng nở nụ cười âm trầm: 
- Đại ca, đừng có tự dát vàng lên mặt mình nữa. Việc chúng ta làm là nghề thất đức, còn nói tới đàn ông đàn ang cái nỗi gì, nếu để chính quyền bắt được, lập tức ra ma đấy!
Ngô Diệu Tổ nổi khùng:
- Biết là thất đức mà mày vẫn làm? Còn không mau quay đầu?
Thiên Kim Hưng nói:
- Quay đầu thì cũng phải có tiền chứ. Dưới tay tao có bao nhiêu anh em, cùng tao vào sinh ra tử suốt chừng ấy năm qua, kiểu gì tao cũng phải làm một mẻ lớn, để cho họ đều có được khoản tiền dưỡng già. Mày nói xem, tao làm sao có thể bảo giải tán là giải tán, khiến bọn họ chẳng biết đi đâu để kiếm cơm ăn?
Ngô Khải Văn đứng bên cạnh bèn lên tiếng:
- Ông chủ Thiên, đừng than nghèo kể khổ nữa, không phải ông không có tiền cho các anh em dưỡng già, mà là ôm hết tiền sang Mỹ mua nhà cửa mất rồi. Làm ăn kiểu đấy, có kiếm được bao nhiêu tiền cũng chả đủ tiêu.
Ngô Diệu Tổ ngẫm nghĩ một lát rồi nói:
- Thế này đi, nếu mày muốn làm ăn đàng hoàng tử tế, tao có thể giúp mày, cũng có thể cho mày mượn tiền. Còn bản đồ đường đi là việc trọng đại của nhà họ Ngô chúng tao, tao không quyết định được.
Thiên Kim Hưng cất giọng lạnh lẽo:
- Thế còn đứa con trong bụng vợ mày thì không phải việc trọng đại của nhà họ Ngô chắc? 
Ngô Diệu Tổ gằn từng chữ:
- Ông chủ Thiên, Ngô Diệu Tổ tao nói với mày một câu, nếu vợ và con tao có gì sơ sảy, thì cho dù hôm nay mày có giết chết tao tại đây, tao cũng bảo đảm nhà họ Thiên chúng mày một mạng cũng không còn sống sót. Mày có tin không?
Thiên Kim Hưng không ngờ lại khiến Ngô Diệu Tổ nổi cơn thịnh nộ ghê gớm đến thế, thì vội vàng đổi giọng:
- Tao chỉ nhắc nhở thôi mà. Ông nội mày và ông nội tao là anh em kết nghĩa, sao tao có thể làm ra chuyện không nên không phải với mày?
Ngô Diệu Tổ vặc lại:
- Thế mà mày còn bắt cóc vợ tao?
Thiên Kim Hưng giải thích:
- Đấy là tao sợ không mời nổi mày tới! Bây giờ mày làm ăn lớn, nếu không mời kiểu này, thì mày có chịu tới không?
Ngô Diệu Tổ nói:
- Thế mày thấy mời tao kiểu này có tác dụng không?
Thiên Kim Hưng cười nói:
- Có tác dụng hay không, phải thử xem mới biết được. - Ngừng một lát, hắn nói tiếp - Nhưng bất kể có tác dụng hay không, vẫn phải xin mày nhẫn nhịn ở tạm đây hai ngày. Thường ngày mày bận tối mắt tối mũi, cứ coi như ở đây tĩnh dưỡng vài hôm. Đồ ăn tao sẽ cho người mang tới cho mày. Nơi đây yên tĩnh, mày cứ ở đây suy nghĩ cho kỹ lưỡng. Hai ngày sau, tao sẽ tới thăm mày.
Nói xong, Thiên Kim Hưng quay người định đi luôn. Ngô Khải Văn nổi nóng, sấn lên định túm lấy Thiên Kim Hưng, liền bị một tay thuộc hạ đập cho một báng súng ngã gục.
Thiên Kim Hưng đá cho Ngô Khải Văn một cái, chửi:
- Mày muốn chết à?
Máu tươi chảy ngoằn ngoèo trên mặt Ngô Khải Văn. Ngô Diệu Tổ vội vàng đỡ Ngô Khải Văn dậy, móc trong túi áo ra một tờ giấy, lau mặt cho hắn, vừa lau vừa quát lớn:
- Họ Thiên kia, mày mau tìm ngươi băng bó cho người anh em của tao!
Thiên Kim Hưng chẳng buồn đếm xỉa, cứ thế bước thẳng lên bậc thang mất hút.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Độc Chú (Hạ Long Hà)

Postby bevanng » 01 Oct 2016

6. HẦM MỘ DƯỚI LÒNG ĐẤT

Vết thương của Ngô Khải Văn không nặng, chỉ là bị đánh toạc da đầu. Ngô Diệu Tổ xé tay áo sơ mi, băng qua loa cho hắn.
Ngô Khải Văn nói:
- Không sao. Thằng khốn nạn này đúng là tàn độc. Bao giờ nó rơi vào tay em, em sẽ hành cho nó chết.
Ngô Diệu Tổ không nói gì. Anh không ngờ Thiên Kim Hưng lại tuyệt tình đến vậy, dám nhốt mình ở nơi này. Anh cầm nến đi xem xét một vòng xung quanh. Vách tường bốn phía được xây bằng gạch đen, sát tường có một chiếc bàn dài, bên cạnh bàn kê hai chiếc giường lớn. Nhìn vào đám gạch đen, biết rằng chỗ này tuyệt đối không phải là kiến trúc hiện đại, gạch đen giờ đã tuyệt chủng từ lâu rồi. Vì thế, nơi này không thể nào do Thiên Kim Hưng xây dựng. Nhưng cũng không thể là do ông Lý xây. Nếu là ông Lý xây, ông nội anh không thể không biết.
Giường là đồ mới, chăn ga trên giường cũng là đồ mới. Nơi này có lẽ là chỗ ngủ của Thiên Kim Hưng khi lánh nạn. Thế nhưng, bây giờ bọn chúng đi đâu nhỉ? Bên ngoài không có xe, Thiên Kim Hưng sẽ không quay lại thành phố vào giờ này. Thế có nghĩa là ở gần đây còn có một công trình ngầm dưới đất khác. Đúng vậy, chắc chắn là có. Ở đây chỉ có hai chiếc giường, theo lý mà nói, chỉ đủ chỗ cho bốn người ngủ. Thuộc hạ chủ lực của Thiên Kim Hưng không dưới hai mươi người, nếu tới lánh nạn, đám tay chân đó chắc chắn sẽ ở cả đây. Thế thì phải có chỗ lớn hơn.
Là ai đã xây nên một công trình to lớn nhường này? Ngô Diệu Tổ nghĩ mãi không ra. Nơi này là mộ tổ của nhà họ Lý, từ khi đời thứ nhất nhà họ Lý tới nơi đây, có lẽ đã hơn hai trăm năm rồi, lẽ nào công trình ngầm này được xây từ hơn hai trăm năm về trước.
Ngô Khải Văn cầm một chiếc đèn pin nhỏ, cũng đang soi khắp xung quanh. Đột nhiên, hắn hét tướng lên:
- Đại ca, anh xem đây là cái gì? 
Ngô Diệu Tổ bước tới, phát hiện trong góc tường có một pho tượng Phật. Thật kỳ lạ, pho tượng này giống y hệt với miếng ngọc bội gia truyền của anh, là tượng Tây Lai tôn giả. Nghe nói, pho tượng Phật này năm xưa do trụ trì chùa Thiên Canh ở Vân Nam chế tác riêng cho cụ tổ, tượng trưng cho hình tượng của cụ tổ trong thế giới tương lai. Theo như lời của lão hòa thượng, nếu chùa chiền ở địa phương đều thờ phụng tượng Phật này, thì sau khi pho tượng hưởng hương hỏa một trăm năm, sẽ có hy vọng thành Phật. Đáng tiếc, sự việc không được như mong muốn, cụ tổ hưởng hương hỏa trong chùa chưa đầy hai mươi năm, đã trở thành sát tinh của các chùa chiền, nên các chùa đều theo nhau thỉnh bức tượng tôn giả này ra khỏi chùa.
Nhưng ở đây, tại sao lại có pho tượng tôn giả?
Ngô Diệu Tổ còn chưa nghĩ ra được nguyên do, thì Ngô Khải Văn ở đầu bên kia lại hét váng lên.
Ngô Diệu Tổ hỏi:
- Chú mày hét cái gì đấy?
Ngô Khải Văn nói:
- Bản đồ. Đại ca, ở đây có bản đồ đường cổ… - Nói đến mấy chữ cuối cùng Ngô Khải Văn như sực nhớ ra điều gì, bèn hạ thấp giọng xuống.
Bản đồ đường cổ?
Ngô Diệu Tổ nhảy vụt dậy, bước tới xem xét, quả nhiên, bên một vách tường, có một vạt đá xanh sắp xếp theo hàng ngang, trên một viên đá trong số đó có khắc một tấm bản đồ. Tuy là dùng vật sắc nhọn khắc bằng tay, nhưng nét khắc vô cùng tinh xảo, rõ ràng. Bên cạnh còn có ký hiệu thước tỉ lệ. Ngô Diệu Tổ vô cùng quen thuộc với tấm bản đổ này, đó chính là bản đồ đường cổ mà ông nội anh để lại, từng nét chấm, từng mũi tên, đểu giống y chang, cứ như được copy nguyên gốc. Thế nhưng, nếu không chú ý, rất khó nhận ra được tấm bản đồ. Trên viên đá xanh bên cạnh, khắc hình một đoàn binh mã. Tuy đường nét đơn giản, nhưng lại cực kỳ sống động. Trên viên đá xanh tiếp theo khắc hình đoàn quân đánh thành, lại nhìn tiếp, trên một viên đá khác có khắc hình một chiếc xe tù, một người dáng vẻ trông như hoàng đế đang ngồi bên trong. Viên đá tiếp dưới nữa khắc hình một người mặc áo sô đang bái kiến vị hoàng đế đó. Viên đá cuối cùng khắc hình một người mặc long bào treo cổ chết, còn vị tướng quân kia đang cung kính đưa một người ra khỏi thành.
Hình khắc trên mấy viên đá đầu tiên, Ngô Diệu Tổ không cần nghĩ cũng có thể hiểu được. Hình khắc trên hai viên đá cuối cùng, anh ngẫm nghĩ một hồi lâu, rồi không khỏi kinh ngạc đến sững sờ. Ý tứ của hai bức tranh đó, rõ ràng là nhân vật chính đã bỏ đi, còn người treo cổ tự sát là giả.
Điều này là thật ư?
Nếu tất cả mọi việc này đều là sự thật, thì cũng có nghĩa là, cụ tổ anh căn bản không hề giết chết hoàng đế Vĩnh Lịch, mà đã giấu ông ta đi.
Ai lại đi khắc những thứ này ở đây? Lẽ nào là tổ tiên nhà họ Lý? Nhưng sao anh cứ cảm thấy dường như chúng đang thuật lại chuyện về tổ tiên của mình, không hề có chút liên quan gì với nhà họ Lý? Giả dụ nơi đây là do người nhà họ Ngô xây dựng, vậy thì công trình này dùng đề làm gì? Ngô Diệu Tổ bỗng sực nhớ tới câu nói của lão hòa thượng ở Trung Quốc: “Tây Lai tôn giả cũng là người có tấm lòng nhân từ, làm ra việc thiện lớn nhất trong thiên hạ, chẳng qua là bị tiểu nhân lợi dụng mà thôi. Thí chủ có tâm, sẽ phát hiện ra những việc mà rất nhiều người không phát hiện ra. Lời chỉ có thể nói tới đây, xin thí chủ suy ngẫm cho kỹ.”
Lẽ nào lời của lão hòa thượng chính là ám chỉ việc này? Thế nhưng, việc này có phải là sự thật không?
Ngô Khải Văn vừa nhìn vừa nói:
- Đại ca, đây chẳng phải là kể chuyện về tổ tiên của chúng ta à?
Ngô Diệu Tổ trầm ngâm trả lời:
- Cũng hơi giống.
Ngô Khải Văn lại hỏi:
- Thế hình vẽ cuối cùng có ý gì?
Ngô Diệu Tổ đáp:
- Không rõ.
Ngô Khải Văn nói:
- Em cảm thấy nơi này là do người nhà họ Ngô xây dựng.
Ngô Diệu Tổ nói:
- Anh cũng cảm thấy thế. Nhưng người nhà họ Ngô xây thứ này trong khu mộ của nhà họ Lý là có ý gì?
Ngô Khải Văn nói:
- Đại ca, em từng nghe ông nội kể rằng, người nhà họ Ngô sau khi tới Miến Điện vẫn bị triều đình nhà Thanh truy sát, họ xây dựng nơi này ở khu mộ nhà họ Lý, liệu có phải là để tránh bị truy sát hay không?
Ngô Diệu Tổ nói:
- Nghe cũng hợp lý, nhưng trốn tránh truy sát cũng không nhất thiết phải trốn trong nghĩa địa nhà người ta. Lập luận này quá khiên cưỡng.
Ngô Khải Văn nói:
- Lẽ nào đây là một ngôi mộ?
Ngô Diệu Tổ sợ tới rụt cổ lại:
- Chú mày đừng có dọa anh đấy nhé!
Ngô Khải Văn nói:
- Đại ca, em nghĩ, không biết chừng lại là thế thật. Anh thử nghĩ mà xem. Nhà họ Ngô khi mới tới Miến Điện chẳng phải vẫn bị truy sát hay sao? Bởi vậy, cho dù họ chết rồi, cũng không dám chôn cất đường đường chính chính. Thế là, họ chỉ có thể mượn tên người khác để xây mộ cho mình. Hơn nữa, mộ phần xây xong, lại không chôn người, mà lén lút mang người đi chôn cất ở chỗ cần chôn, còn nơi đây chỉ chôn một cái quan tài rỗng. Nhưng nơi này lại được xây dựng cầu kỳ như thế, chưa biết chừng tổ tiên còn có dụng ý khác cũng nên, ví dụ như khi bị truy sát không còn nơi ẩn náu, có thể trốn xuống căn phòng ngầm này. Đại ca, em nói nghe có hợp lý không?
Ngô Diệu Tổ nói:
- Ít nhiều cũng đúng, nhưng rất khiên cưỡng.
Ngô Khải Văn ngẫm nghĩ rồi nói:
- Chuyện này phải nói với ông nội mới được, ông hiểu biết nhiều hơn, nghe xem ông nói thế nào.
Ngô Diệu Tổ đáp:
- Ừ!
Ngô Khải Văn ngẩng đầu nhìn khắp xung quanh, nói:
- Thế nhưng, khi nào chúng ta mới có thể ra ngoài đây? Mẹ kiếp, thằng cha Thiên Kim Hưng đúng là đồ khốn nạn.
Ngô Diệu Tổ nói:
- Hắn nói là nhốt hai ngày, hai ngày sau có lẽ sẽ thả chúng ta ra thôi.
Hai người lại nhìn ngó xung quanh, chỉ phát hiện ra trong góc phòng có một thùng gỗ đậy nắp. Không cần nghĩ cũng biết, có lẽ là để chứa phân với nước tiểu.
Ngoài những thứ đó ra, không còn phát hiện thêm gì khác nữa. Chỉ có thể nói, căn phòng này là một phần của một công trình ngầm khổng lồ.
Công trình ngầm này rốt cuộc là dùng để làm gì? Còn nữa, nhà họ Ngô tại sao phải xây dựng công trình này ở đây? Ngô Diệu Tổ nghĩ tới đau đầu cũng không tìm ra được một lời giải thích hợp lý.
Điện thoại di động đã bị thuộc hạ của Thiên Kim Hưng khám người tịch thu mất, nên họ cũng không biết được giờ giấc. Âm thanh và ánh sáng của thế giới bên ngoài không lọt tới được nơi này. Ngô Diệu Tổ áng chừng, lúc này có lẽ cũng nửa đêm rồi, bèn giục đi ngủ.
May mà có hai chiếc giường. Hai người nằm lên giường, cũng chẳng cởi quần áo, cứ thế nhắm mắt lại, chuẩn bị ngủ.
Nhưng không tài nào ngủ được. Ngô Diệu Tổ nhắm mắt, mải miết suy nghĩ đủ chuyện.
Không biết đã bao lâu, cuối cùng anh cũng thấy buồn ngủ, liền thiếp đi.
Trong cơn mơ màng, anh nghe thấy có người gọi “Diệu Tổ”. Giọng nói rất mực ảo não, chập chờn. Anh ngờ rằng mình nghe nhầm, liền trở mình rồi ngủ tiếp. Nhưng tiếng gọi cứ văng vẳng mãi bên tai, cứ như chưa nghe anh trả lời thì quyết không dừng lại. Ngô Diệu Tổ ngồi bật dậy, chăm chú lắng nghe, thì tiếng nói lại biến mất.
Anh vừa định ngủ tiếp, bỗng nhìn thấy trên bậc đá có một người bước xuống. Người này mặt trắng thân dài, ánh mắt đờ đẫn. Trong ấn tượng của Ngô Diệu Tổ, hình như anh không quen biết người này, nhưng lại lờ mờ cảm thấy có gì như thân thuộc.
Di chuyển ánh mắt từ khuôn mặt người này xuống dưới, Ngô Diệu Tổ kinh ngạc tới sững sờ. Người này mặc trang phục thời cổ, áo dài kèm áo chẽn kiểu Mãn Châu. Sau khi xuống khỏi cầu thang, người này nhìn quanh quan sát. Ngô Diệu Tổ nhìn thấy dường như có một bàn tay cầm cây nến từ bên này qua đó, chiếu sáng cho ông ta. Ông ta vừa quan sát, vừa như đang nói gì với ai đó, nhưng Ngô Diệu Tổ không nghe thấy. Một lúc sau, ngọn nến không di chuyển nữa, cảm giác như có người đặt nó lên bàn. Người áo dài áo chẽn kia cũng ngồi xuống đó.
Ngô Diệu Tổ chỉ có thể lờ mờ nhìn thấy dáng ông ta đang ngồi, mông lơ lửng trong không khí, không có bàn cũng chẳng có ghế. Ông ta thần người ra một lúc, cây nến trên bàn dường như bị ai đó dịch chuyển. Tiếp đó, ông ta tựa như cầm đũa lên, gắp thứ gì đó bỏ vào trong miệng.
Nơi này, lẽ nào là phòng ăn?
Người đó ăn rất chậm, ăn mất nguyên một tiếng đồng hồ. Gắp thức ăn bỏ vào miệng phải nhai một hồi lâu, mới lại động đũa gắp tiếp một miếng. Còn có một lần, nhai một lúc, ông ta còn nhổ xuống đất, hình như là nhổ xương hay thứ gì đó ra ngoài.
Rất lâu rất lâu sau, cuối cùng ông ta cũng đã ăn xong. Ngô Diệu Tổ nhìn thấy ông ta đứng dậy, bộ dạng giống như cầm chén nước lên uống. Đột nhiên, ông ta tựa như phát hiện ra điều gì đó, cảnh giác đưa mắt nhìn Ngô Diệu Tổ.
Ngô Diệu Tổ sợ tới mức hồn vía rụng rời. Ngô Diệu Tổ nghĩ thầm, nhìn mình làm gì thế không biết? Anh muốn nằm xuống, trốn vào trong chăn, nhưng lại cảm giác toàn thân không thể nào động cựa, ngay cả tròng mắt cũng không thể nào đảo được.
Nhìn vị quái nhân mặt mũi như người chết kia tiến thẳng về phía mình, Ngô Diệu Tổ kinh hãi tột độ, nhưng lại chỉ có thể giương mắt nhìn ông ta bước tới. Ông ta đi vòng quanh Ngô Diệu Tổ, sau đó dừng lại sau lưng anh.
Điều này còn khủng khiếp hơn là ông ta đứng trước mặt Ngô Diệu Tổ. Ngô Diệu Tổ muốn quay lại nhìn xem ông ta đang làm gì ở sau lưng mình, song lại không tài nào cử động được.
Cuối cùng, ông ta lại vòng tới trước mặt Ngô Diệu Tổ, bộ mặt lạnh băng như xác chết gần như dán vào trước mặt anh. Anh còn cảm nhận thấy hơi lạnh phả ra từ mặt ông ta giống hệt như hơi điều hòa trong mùa hè, táp thẳng vào mặt mình.
Ngô Diệu Tổ không ngừng gào thét trong lòng, chỉ muốn xua đuổi ông ta đi. Thế nhưng, miệng anh lại không thể phát ra được âm thanh gì. Tay chân lại càng chẳng cần nói, không thể động đậy dù chỉ một ly.
Anh dồn hết tinh thần vào đầu ngón tay, khiến ngón tay của mình từ từ nhúc nhích, sau đó kéo theo cả bàn tay cử động. Anh âm thầm vận lực, đang định đẩy khuôn mặt gớm ghiếc đó ra, thì nó lại tự động rời đi. Ông ta bước tới một góc tường, tựa như đẩy một cánh cửa ra, bước vào trong đó.
Ngô Diệu Tổ nhìn thấy hình như có người dịch chuyển ngọn nến, bưng đồ đạc mang đi. Ngô Diệu Tổ muốn gào lên bảo bọn họ đặt cây nến xuống, nhưng lại không thốt được nên lời.
Một lúc lâu sau, anh mới vận đủ sức mạnh để hét được lên thành tiếng. Tiếng hét của anh khiến Ngô Khải Văn giật bắn mình choàng tỉnh dậy.
Ngô Khải Văn gọi toáng lên:
- Đại ca, anh hét gì thế?
Ngô Diệu Tổ cuối cùng đã có thể nói năng được bình thường. Anh thở lấy thở để, nói:
- Khải Văn, vừa rồi chú có nhìn thấy gì không?
Ngô Khải Văn đáp:
- Chẳng thấy gì cả!
Anh kể lại giấc mơ vừa nãy cho Ngô Khải Văn nghe. Ngô Khải Văn bèn nói:
- Đại ca, anh đừng có dọa em. Cái chỗ này vốn đã đủ ma quái lắm rồi.
Ngô Diệu Tổ nói:
- Ma đều sợ người. Anh còn không sợ, thì chú mày sợ cái nỗi gì?
Nói thì nói vậy, chứ Ngô Diệu Tổ đã khiếp vía tới mức không ngủ nổi nữa. Ngô Diệu Tổ ngồi phắt dậy, cầm nến lên, đi tới chỗ con người kia ngồi ăn cơm khi nãy. Chỗ đó chẳng có thứ gì hết.
Anh lại nhìn khắp xung quanh, muốn xem ông ta đi ra từ chỗ nào. Tìm kiếm một hồi lâu, vẫn chẳng phát hiện ra điều gì khác thường, nhưng chợt cảm thấy có thứ gì đó cộm dưới bàn chân.
Anh cúi xuống, đưa nến lại soi, nhìn thấy một vật nhỏ xíu màu đen. Trên nền đất bằng phẳng, trông nó rất nổi bật.
Anh nhặt lên, nhìn kỹ, là một mẩu xương, một khúc sườn lợn nhỏ.
Ngô Diệu Tổ lập tức nhớ ra, con người kia nhai một lúc rồi có nhổ thứ gì xuống đất.
Anh sợ mất vía, vứt vội mẩu xương đi, đứng chết trân tại chỗ.
Đặt cây nến xuống, quay lại giường, anh không tài nào ngủ nổi nữa. Anh cứ thế mở mắt trừng trừng, nhìn đăm đăm về chỗ đó, cho tới khi Ngô Khải Văn tỉnh dậy một lần nữa.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Độc Chú (Hạ Long Hà)

Postby bevanng » 01 Oct 2016

7. CHẠY TRỐN

Ngô Diệu Tổ cảm thấy mình không thể tiếp tục như thế này, cứ kéo dài như vậy, chắc anh sẽ phát khùng lên mất.
Nhưng chẳng có cơ hội. Nơi này được thiết kế như một nhà tù, hoàn toàn không tìm được lối ra. Phía trên cầu thang đá hình như là nơi Thiên Kim Hưng đi ra, nhưng khi hai người họ trèo lên trên, chỉ nhìn thấy một cánh cửa đá cực lớn. Họ đẩy thử, nhưng cánh cửa không hề nhúc nhích. Loại cửa này cần phải dùng đến cơ quan để đóng mở, sức người không ăn thua.
Giả dụ nơi này năm xưa thực sự là một căn phòng ngầm, thế thì người đi vào sẽ phải đi ra, bên trong chắc chắn phải có nút điều khiển. Nếu không, chẳng lẽ phải chịu chết ở trong này? Thế nhưng, hai người sục sạo khắp một vòng xung quanh, sờ soạng khắp tất cả mọi chỗ, cũng chẳng tìm thấy cái nút bấm nào. Ngẫm lại thấy cũng phải, những gì mình có thể nghĩ ra, thì tên Thiên Kim Hưng kia chắc hẳn cũng sẽ nghĩ tới, hắn đã muốn nhốt họ ở đây, chắc chắn sẽ khiến họ không thể tìm ra nút bấm. 
Nút bấm thì không tìm thấy, mà hai người lại mệt tới thở không ra hơi. Cuối cùng, họ quyết định lợi dụng thời gian bọn chúng đưa cơm để bỏ chạy ra ngoài.
Ngô Khải Văn lo lắng hỏi:
- Nhưng như thế chính là trở mặt với Thiên Kim Hưng, chẳng may hắn làm gì bất lợi cho chị dâu thì sao?
Ngô Diệu Tổ nói:
- Việc này không thể trách chúng ta được. Thằng nhãi này bây giờ không còn coi trọng chút đạo nghĩa giang hồ, một lòng muốn đuổi cùng giết tận chúng ta. Chúng ta không thể nhẫn nhịn thêm nữa, nếu không, chúng ta toi mạng, chị dâu chú lại càng đừng mong được cứu.
Ngô Khải Văn nghĩ cũng thấy đúng. Hai người định tìm lấy món vũ khí, đáng tiếc là con dao găm mang theo đã bị thuộc hạ của Thiên Kim Hưng tước mất. Ngô Khải Văn tìm một cục đá, cạo hết bùn đất cát bụi bám bên trên, mài cho sắc nhọn chút đỉnh, rồi nhét vào trong túi áo.
Đợi mãi đợi mãi mới thấy có người mang cơm tới, Ngô Khải Văn giả vờ đau đớn vì vết thương trên đầu, nằm trên giường rên hừ hừ. Ngô Diệu Tổ thì lớn giọng chửi bới Thiên Kim Hưng, đe dọa nếu không thả họ ra, anh bảo đảm Thiên Kim Hưng sẽ không sống qua nổi ngày mai. Lúc anh tới đây đã dặn dò người nhà rằng, nếu ngày hôm sau chưa thấy anh về, họ sẽ báo quân cảnh, đến đào tung xới ngược nơi này lên.
Thằng oắt đưa cơm nghe vậy thì ngẩn người, đang định chạy ra báo cáo với Thiên Kim Hưng thì Ngô Diệu Tổ quát: 
- Mày chạy cái gì, mau mang nước nóng lại cho người anh em của tao!
Thằng oắt nói:
- Đã mang đến rồi mà, ở đây!
Ngô Diệu Tổ bảo nó mang lại. Thằng oắt cười, nói:
- Ồng chủ Ngô, đừng có giở cái trò này làm gì. Thôi thì cứ nói thật với anh nhé, anh có hạ gục tôi, rồi chạy theo đường hầm ra ngoài, cũng chả chạy được đâu. Phía trước là đại sảnh, hơn hai chục anh em đang ở đó cả đấy.
Ngô Diệu Tổ chửi luôn:
- Bảo ông chủ của chúng mày tới đây, tao có chuyện muốn nói.
Thằng oắt đáp:
- Được thôi, ông chủ Ngô, anh yên tâm, tôi nhất định sẽ chuyển lời cho anh.
Thằng oắt đi ra, cánh cửa đá không đóng lại. Ngô Diệu Tổ bảo Ngô Khải Văn lên xem thử, nhân tiện mang đồ ăn xuống. Ngô Khải Văn leo lên, phát hiện trước cửa có hai kẻ bịt mặt, tay cầm súng trung liên giảm thanh đang chĩa thẳng vào anh. Ngô Khải Văn biết, nếu mình tiến thêm một bước, thì sẽ bị bắn rỗ như tổ ong, đành phải bưng đồ ăn lên rồi quay trở lại.
Một chốc sau, Thiên Kim Hưng đã tới.
Ngô Diệu Tổ cố nén cơn giận dữ, nói:
- Ông chủ Thiên, mày làm thế này đúng là không trượng nghĩa.
Sắc mặt Thiên Kim Hưng cũng rất khó coi, hắn nói:
- Ông chủ Ngô, tao đang cho mày thử nếm mùi cuộc sống của anh em chúng tao đấy. Chúng tao bị cảnh sát, quân đội, tổ chức chống ma túy quốc tế truy đuổi tới mức phải sống chui lủi trong hầm mộ hơn một tháng rồi. Vụ sau, nếu không có đường đi khác, chúng tao sẽ hoàn toàn không có cửa làm ăn. Cho nên bất đắc dĩ mới phải dùng hạ sách này.
Ngô Diệu Tổ cười nhạt một tiếng, nói:
- Đấy là mày tự đâm đầu vào ngõ cụt đấy chứ. Bây giờ làm ăn khó khăn như thế, mày có thể đổi nghề cơ mà. Cứ khăng khăng cứng đầu, tự tìm đường chết, có liên quan gì đến tao?
Thiên Kim Hưng cũng cười gằn, nói:
- Đương nhiên là có liên quan, tấm bản đồ đường đi, lần này tao nhất định phải lấy cho bằng được, dù sao cũng chẳng còn con đường sống nào khác nữa, tao không sợ phải liều chết cả chùm với mày.
Ngô Diệu Tổ nói:
- Thế thì lần này mày nhất quyết không chịu bỏ qua cho tao phải không?
Thiên Kim Hưng đáp:
- Đúng vậy!
Ngô Diệu Tổ nói:
- Nếu tao không đồng ý thì sao?
Thiên Kim Hưng cười ầm hiểm:
- Thế thì mày phải ở đây với tao vĩnh viễn. 
Ngô Diệu Tổ cười nhạt nói:
- Mày tưởng rằng tao tới đây mà không có sự chuẩn bị gì hết?
Thiên Kim Hưng nói:
- Tao biết mày đã để lại mảnh giấy chỉ đường ở bên ngoài. Còn một thằng lái xe nữa.
Ngô Diệu Tổ nghe vậy thì vô cùng kinh hãi, nhảy dựng lên khỏi ghế quát:
- Mày đã làm gì nó?
Thiên Kim Hưng vừa phẩy tay, thuộc hạ liền mang vào một cái túi. Thiên Kim Hưng mở túi ra, xộc vào mũi Ngô Diệu Tổ là mùi máu tanh lợm giọng.
Một bàn tay trắng bợt vì kiệt máu bày ra lù lù trước mắt Ngô Diệu Tổ. Là tay phải của thằng Vương lái xe. Chiếc nhẫn đeo ở ngón giữa tay phải là do chính Ngô Diệu Tổ sai người mua cho nó.
Ngô Diệu Tổ quát:
- Thiên Kim Hưng, mày không sợ quả báo à?
Thiên Kim Hưng nói:
- Sợ cũng chẳng ích gì. Mấy năm nay giết biết bao nhiêu người, đứa nào muốn báo thù thì cứ đến. Tao nói cho mày biết, Thiên Kim Hưng tao gặp Phật giết Phật, gặp ma giết ma, tao chỉ sợ không có tiền tiêu, thứ khác đều cóc sợ.
Ngô Diệu Tổ nói:
- Thế mày không sợ tuyệt tử tuyệt tôn à? 
Thiên Kim Hưng nói:
- Mẹ kiếp, người như chúng tao, sống hết một kiếp đã là tốt lắm rồi, tao chịu khổ quá nhiều rồi, không muốn lại có thêm một thằng con cùng chịu tội.
Ngô Diệu Tổ âm thầm cố gắng tiếp cận Thiên Kim Hưng, Ngô Khải Văn cũng thò tay vào trong túi áo. Ngô Diệu Tổ ra vẻ vô cùng rầu rĩ, ngửa mặt lên thở dài thườn thượt, liếc qua khóe mắt thấy Thiên Kim Hưng không để ý đến mình, thì thình lình xông tới, tay trái kẹp chặt cổ hắn, tay phải móc ngay khẩu súng của hắn ra, chĩa súng vào đầu hắn.
Cùng lúc đó, Ngô Khải Văn cũng lao vọt tới, móc ra một nắm đất bụi trộn lẫn vôi bột, ném thẳng vào mặt hai tên vệ sĩ đằng sau Thiên Kim Hưng. Hai tên vệ sĩ không ngờ anh sẽ giở chiêu này, vội đưa tay lên chặn, Ngô Khải Văn từ nãy đã nhắm sẵn con dao găm giắt bên thắt lưng của một tay súng, tay trái vừa tung nắm đất ra, tay phải đã cướp ngay lấy con dao găm, thuận tay liếc qua cổ hắn một nhát. Tên vệ sĩ còn lại biết sự tình không ổn, quay người định chạy, Ngô Khải Văn lập tức xoạc chân ngáng ngã hắn, rồi lao vọt tới, lại lia một dao, tay súng “hự” vài tiếng trong cổ họng, nhưng vẫn chưa chết, lại loạng choạng bò dậy. Ngô Khải Văn biết nhát dao của mình đâm hơi nông, đành phải xông tới, bồi thêm một nhát nữa. Hắn lúc này mới lão đảo vài cái, giơ tay chỉ vào Ngô Khải Văn rồi ngã gục.
Ngô Khải Văn tước ngay hai khẩu trung liên giảm thanh trên người bọn chúng. Hai anh em áp giải Thiên Kim Hưng đi ra ngoài.
Leo lên bậc thang, đi ra khỏi cửa, là một hành lang rất dài. Thiên Kim Hưng không nói một câu, cứ thế đi theo họ. Quả nhiên, đầu cuối của hành lang là một căn phòng ngầm rất lớn. Ngô Diệu Tổ chẳng có thời gian mà quan sát, chỉ hết sức cảnh giác nhìn khắp xung quanh, cánh tay kẹp chặt lấy Thiên Kim Hưng, tiến ra ngoài. Ngô Khải Văn bắt những tay súng đứng hết dậy, dồn vào một góc. Những kẻ này đều là lũ liều mạng, nhưng nhìn thấy ông chủ đã nằm trong tay hai người, thì đều ngoan ngoãn nghe theo mệnh lệnh của Ngô Khải Văn, lùi vào một góc.
Băng qua căn phòng, lại là một đường hầm. Đường hầm tối om om, để ngăn chặn những tay súng kia bám theo, Ngô Khải Văn trước khi bước vào trong đường hầm, liền hung hãn uy hiếp:
- Các người hãy đứng nguyên tại chỗ, ai dám bước chân vào đường hầm, cứ coi chừng cái mạng.
Đi được vài bước, hắn quay ngoắt người lại bắn ra một tràng.
Đi tiếp thêm hơn hai trăm mét, trước mặt không còn đường nữa. Ngô Khải Văn cầm chiếc đèn pin nhỏ soi thử, phát hiện ra đây là một cánh cửa đá. Hắn bắt Thiên Kim Hưng mở cửa. Thiên Kim Hưng biết không mở không được, đành phải tìm công tắc, mở cửa ra. Trước khi bước qua cánh cửa, Ngô Khải Văn lại bắn một tràng đạn về phía đường hầm, sau đó giải Thiên Kim Hưng đi ra ngoài.
Song họ đã sơ suất, không chú ý tới tay súng mai phục bên ngoài. Ngô Khải Văn vừa mới thò đầu ra, cánh tay đã ăn ngay một phát đạn. May mà khẩu trung liên đeo trên cổ nên mới không bị rơi.
May thay viên đạn đi chệch, chỉ sượt qua cánh tay. Ngô Khải Văn nghiến chặt răng, nâng súng lên, bắn một phát về phía viên đạn vừa bay tới. Có tiếng người rú lên thảm thiết rồi không thấy động tĩnh gì nữa.
Thiên Kim Hưng biết nơi đây có rất nhiều mai phục, liền hét:
- Mẹ chúng mày, đừng có bắn nữa, mù rồi à?
Ngô Khải Văn và Ngô Diệu Tổ dựa lưng vào nhau, vừa quan sát kỹ lưỡng xung quanh, vừa vội vã xông ra bên ngoài. Thiên Kim Hưng sợ thuộc hạ bắn nhầm phải mình, chốc chốc lại hét toáng lên:
- Không ai được bắn nữa, đừng có cậy mình bắn giỏi, súng đạn không có mắt đâu! - Giữa những lần hò hét, hắn còn trò chuyện với Ngô Diệu Tổ - Ông chủ Ngô, gan mày cũng lớn thật đấy.
Ngô Diệu Tổ nói:
- Không lớn gan thì đã không tới.
Thiên Kim Hưng giọng đầy khâm phục:
- Được, đáng mặt mày râu.
Ngô Diệu Tổ hỏi:
- Đừng ba hoa nữa, vợ tao đâu?
Thiên Kim Hưng hỏi ngược lại:
- Bản đồ đường đi đâu?
Ngô Diệu Tổ dứt khoát: 
- Không nói cũng được, tao giao phắt mày cho sở cảnh sát luôn.
Thiên Kim Hưng ngẫm nghĩ một lát rổi nói:
- Nếu tao nói cho mày địa chỉ giả thì sao?
Ngô Diệu Tổ nói:
- Trừ phi mày không cần cái chỗ trú ẩn bí mật này nữa. Thiên Kim Hưng thở dài, rồi nói:
- Được thôi, tao nói cho mày biết, vợ mày đang ở nhà vợ của Lục Tử.
Ngô Diệu Tổ kinh ngạc, hỏi:
- Cái gì? Ở nhà vợ của Lục Tử?
Thiên Kim Hưng nói:
- Đúng, là Lục Tử đã bắt cóc cô ta.
Ngô Diệu Tổ hỏi hắn:
- Lục Tử là người của mày à?
Thiên Kim Hưng đáp:
- Cũng coi là thế.
Ngô Diệu Tổ chửi thề một câu. Lục Tử cũng đã đi theo anh bảy, tám năm rồi, bình thường trông có vẻ là người chín chắn đáng tin, không ngờ lại là một “thủy thủ”. Thiên Kim Hưng trầm ngâm một lúc, rồi nói:
- Ông chủ Ngô, tao xin mày một việc.
Ngô Diệu Tổ đáp:
- Nói!
Thiên Kim Hưng nói:
- Xin mày tha cho Lục Tử.
Ngô Diệu Tổ nghi hoặc hỏi:
- Tại sao?
Thiên Kim Hưng nói:
- Là tao uy hiếp nó phải làm, kỳ thực, thằng nhóc đó rất trung thành với mày.
Ngô Diệu Tổ hỏi hắn với giọng châm biếm:
- Bán đứng tao mà còn coi là trung thành?
Thiên Kim Hưng nói:
- Tao bắt cóc em gái nó, dọa nó nếu không nghe lời tao, ta sẽ cho thủ hạ thay phiên hãm hiếp con bé, nên nó buộc phải làm vậy.
Ngô Diệu Tổ liếc nhìn Thiên Kim Hưng, nhổ phì một cái:
- Mày đúng là loại súc sinh. Mày đã phá hoại quy tắc mà ông lớn lập ra.
Thiên Kim Hưng giận dữ nói:
- Nếu tao cứ giữ khư khư những quy tắc đó, thì tao đã chết mẹ nó từ lâu rồi.
Ngô Diệu Tổ nói:
- Không được, tha cho Lục Tử, là phá vỡ quy tắc của tao.
Thiên Kim Hưng nói:
- Nó là người của mày, mày liệu mà làm. Nhưng mày đã không còn là người trong nghề nữa, thì còn quy tắc cái nỗi gì?
Ngô Diệu Tổ bèn hỏi:
- Thế em gái của Lục Tử đâu?
Thiên Kim Hưng thở hắt ra:
- Việc này mày không cần bận tâm, tao lập tức sai người thả nó ra là được chứ gì.
Ngô Diệu Tổ lạnh lùng nói:
- Nếu mày không thả người, lần này tao sẽ một mất một còn với mày.
Trong lúc trò chuyện, họ đã đi ra khỏi khu rừng nhỏ, tới chỗ vạt mộ hoang rải rác bên ngoài bìa rừng. Từ chỗ này đi xuống sườn dốc, sẽ đến con đường cái vòng quanh núi. Ngô Diệu Tổ nhìn thấy xe của mình vẫn đỗ trên bãi đất trống cạnh con đường, nhưng lại không thấy Vương đâu cả.
Anh cố kìm nén cơn giận dữ trong lòng, đạp cho Thiên Kim Hưng một cái, quát hỏi:
- Mẹ kiếp, sao mày lại giết người anh em của tao?
Thấy Ngô Diệu Tổ nổi giận, Thiên Kim Hưng sợ hãi nói:
- Là tự nó mò tới đấy chứ. Anh em của tao cứ tưởng là gián điệp, mới giết chết nó. Ông chủ Ngô, mày cũng biết đấy, đây là quy định trong nghề của chúng ta. Thà giết nhầm chứ không thể bỏ sót. Giết nó xong, tao mới nhận ra nó là anh em của mày. Việc này không thể trách tao được.
Ngô Diệu Tổ hỏi:
- Xác nó đâu?
Thiên Kim Hưng đáp:
- Chôn rồi!
Ngô Diệu Tổ nói:
- Chó chết, mày bảo chúng nó đào ngay lên, mang tới đây cho tao.
Thiên Kim Hưng hét vọng lên trên mấy câu, Ngô Diệu Tổ liền giải Thiên Kim Hưng đi ra thật xa quan sát. Một lúc sau, họ thấy hai kẻ khiêng theo một cái bao đi tới. Ngô Diệu Tổ bảo thuộc hạ của Thiên Kim Hưng đặt xác Vương vào trong xe. Sau đó, nhìn bọn chúng lui về rồi, mới đích thân giải Thiên Kim Hưng đi xuống.
Trước khi lên xe, họ cởi thắt lưng và dây giày của Thiên Kim Hưng ra, trói nghiến hắn lại, sau đó lên xe, phóng vút đi.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Độc Chú (Hạ Long Hà)

Postby bevanng » 01 Oct 2016

8. KÝ ỨC XA XƯA

Ngô Diệu Tổ quan sát thi thể của Vương. Vương bị cứa đứt cổ họng, trên người không còn vết thương nào khác, tới dấu tích ẩu đả cũng không có. Trước khi đi theo Ngô Diệu Tổ, Vương là bộ đội đặc chủng của Miến Điện, võ nghệ cực kỳ cao siêu, có thể cứa đứt họng Vương trong lúc Vương không hề hay biết, xem ra dưới trướng Thiên Kim Hưng vẫn có cao thủ.
Lúc này chẳng còn thời giờ đâu để đau buồn nữa, Ngô Diệu Tổ tạm thời đưa thi thể của Vương vào nhà tang lễ, sau đó lái xe phóng thẳng tới nhà bố vợ của Lục Tử.
Bố vợ Lục Tử mở một tiệm đồ ăn vặt ở ngoại ô thành phố, thường giao tận nhà các món thịt rừng, đám Ngô Khải Văn đều đã từng tới đó ăn uống nên rất quen đường, đi một lát đã tới nơi.
Cửa hàng không mở cửa, Ngô Diệu Tổ lo ngại bọn họ đã bỏ trốn, Ngô Khải Văn bèn an ủi:
- Không sao, có lẽ chưa chạy đâu. Anh có nhìn thấy cái bếp lò ở bên đường không? Tro than vẫn chưa dọn đi, có lẽ là mới đốt tối qua. Người mở hàng ăn, chỉ cần không phải là bán đồ ăn sáng thì đều dậy muộn.
Người đi đường bắt đầu đông dần. Ngô Diệu Tổ bảo Ngô Khải Văn xuống xe, Ngô Khải Văn đập cửa, Ngô Diệu Tổ rút súng ra, nhìn chằm chằm vào cánh cửa cuốn.
Một lúc sau, nghe thấy có người mở khóa lạch cạch, vừa mở vừa hỏi:
- Ai đấy?
Là giọng của người già. Ngô Diệu Tổ nhét súng vào trong túi. Anh quen bố vợ của Lục Tử, là một người Miến Điện rất thật thà, thời trẻ là một thợ săn cừ khôi, sau khi về già thì mở cửa tiệm nhỏ này, chủ yếu bán thịt thú rừng và thổ sản rừng núi, việc buôn bán không đắt khách cũng không ế ẩm, đủ tiền dưỡng già.
Sau khi cửa mở, ông lão nhận ra Ngô Diệu Tổ, rất kinh ngạc, vội vã mời anh vào nhà. Ngô Diệu Tổ thấy ông lão dường như không biết chuyện bắt cóc, liền hỏi ông ta: 
- Bác này, Lục Tử không tới đây à?
Ông lão lắc đầu, nói Lục Tử không tới.
Ngô Diệu Tổ hết sức băn khoăn, lẽ nào là Thiên Kim Hưng đã lừa mình? Hay là ông lão này đang lừa gạt?
Ngô Khải Văn hỏi ông lão:
- Bác chỉ có một căn nhà này thôi à?
Ông lão nói:
- Còn mấy gian nhà nữa, mua về định sửa sang lại cho thằng con trai lấy vợ.
Ngô Khải Văn liếc nhìn Ngô Diệu Tổ, hỏi ông lão:
- Bác ơi, Lục Tử có biết căn nhà đấy không?
Ồng lão nói:
- Có chứ. Căn nhà đó là do Lục Tử mua hộ, nó vẫn cầm chìa khóa.
Ngô Diệu Tổ hỏi ông lão địa chỉ rõ ràng rồi chào từ biệt ông ta, cùng Ngô Khải Văn lái xe như bay tới căn nhà đó.
Đây là một căn nhà khá cũ kỹ. Trước đây, Ngô Khải Văn từng nghe Lục Tử nói, ngôi nhà này trước kia là của một bà đồng. Bà đồng gần giống như phù thủy của Trung Quốc, nghe nói có thể phục yêu bắt ma. Sau khi bà đồng chết, ngôi nhà không có người ở, Lục Tử bèn mua lại, chuẩn bị cho cậu em vợ lấy vợ.
Nghe nói là nhà của bà đồng, Ngô Diệu Tổ thấy hơi ớn. Gần đây gặp nhiều chuyện cổ quái, cứ nghe nói tới ma quỷ là thấy sợ. Nhưng nghĩ tới vợ mình đang bị Lục Tử nhốt ở đây, thì cũng bất chấp. Tường không cao, Ngô Khải Văn tung mình một cái đã trèo được vào, rồi mở cổng cho Ngô Diệu Tổ.
Họ đang định đưa chân đạp toang cửa chính, thì cánh cửa thình lình mở ra.
Lục Tử quỳ sụp xuống trước mặt họ. Ngô Diệu Tổ bước lên cho hắn hai cái bạt tai. Ngô Khải Văn hỏi:
- Chị dâu đâu?
Lục Tử đáp:
- Đang ngủ.
Ngô Diệu Tổ xông vào, nhìn thấy bên trong bày biện cũng rất sạch sẽ. Lisa vợ anh đang ngủ say sưa trên giường, hình như không bị tổn thương gì.
Ngô Diệu Tổ gọi cô dậy, sau đó dẫn vợ và Lục Tử về nhà.
Lục Tử do bị uy hiếp, nên Ngô Diệu Tổ cũng không trừng phạt gì hắn, kết toán tiền lương xong rồi cho về nhà. Dẫn Lisa tới bệnh viện kiểm tra, mọi thứ đều bình thường, Ngô Diệu Tổ lúc này mới yên tâm.
Bôn ba suốt bao nhiêu ngày qua, cuối cùng đã có thể thoải mái ngủ một giấc ở nhà. Ngô Diệu Tổ tắm nước nóng xong, xem ti vi một lúc. Đài truyền hình đang phát bản tin Phật giáo, bản tin giới thiệu về hội thảo nghiên cứu Phật giáo Thượng tọa bộ Đông Nam Á tổ chức tại Mandalay. Miến Điện là một đất nước Phật giáo, các hội thảo Phật giáo đủ kiểu được tổ chức liên miên bất tuyệt, Ngô Diệu Tổ thoạt đầu không để ý lắm, chỉ hờ hững liếc qua, bỗng cảm thấy gờn gợn, nhìn lại lần nữa, không khỏi sững sờ kinh ngạc.
Hình ảnh trên màn hình chính là ngôi chùa nhỏ mà anh gặp ở Vân Nam. Huệ Viễn đại sư đang thao thao bất tuyệt giới thiệu về sự phát triển của Phật giáo Thượng tọa bộ ở khu vực Vân Nam - Quý Châu. Khi nói tới ngôi chùa cổ, ông ta giới thiệu rằng, xưa có một vị tướng quân từng đánh trận ở đây, do đối thủ sử dụng thuật Kỳ môn độn giáp nên đã bị vây khốn ở nơi đây, cứ thế đi lòng vòng xung quanh hơn mười ngày trời, sau đó hạ trại ở ngọn núi này, nửa đêm nằm mơ thấy Phật Tổ. Phật Tổ dạy ông cách phá giải trận pháp, và truyền cho huyền cơ của thiên hạ. Tướng quân thao luyện ở nơi này ba ngày ba đêm, thuận lợi đột phá vòng vây. Sau đó, tướng quân xây chùa ở nơi này, gọi là chùa Phật Tổ.
Tuy lão hòa thượng không nói chi tiết, nhưng Ngô Diệu Tổ vẫn biết được, vị tướng quân mà ông nói đến chính là cụ tổ nhà mình. Không ngờ ngôi chùa nhỏ này lại có lai lịch đặc biệt tới vậy, thực khiến cho anh có phần kinh ngạc.

Nửa đêm, Ngô Diệu Tổ nhìn thấy có một người xuyên tường đi vào, nhìn ngó một vòng khắp phòng anh. Ngô Diệu Tổ muốn lần lấy súng, nhưng lại cảm thấy toàn thân không thể cựa quậy, chỉ có thể giương mắt nhìn con người hình thù cổ quái kia đi quanh một vòng, rồi quay mặt về phía anh. 
Ngô Diệu Tổ kinh hoàng tột độ. Đó chính là người đã xuất hiện trong căn phòng ngầm dưới khu mộ nhà họ Lý. Cái dáng điệu nhai lâu nuốt chậm nhả xương sườn của ông ta khiến Ngô Diệu Tổ ấn tượng sâu sắc.
Chính là ông ta, thân hình cao lớn, khuôn mặt rộng trắng bệch không chút cảm xúc, không nhìn rõ sống mũi và lông mày, ánh mắt trống rỗng. Giống hệt như ngày hôm ấy, ông ta bước lại gần, nhìn Ngô Diệu Tổ một lát, dường như còn muốn đưa tay ra sờ vào anh, nhưng cánh tay mới đưa ra nửa chừng liền khựng lại, bất động trong không trung.
Lúc này, Ngô Diệu Tổ cảm thấy miếng ngọc bội trên cổ hơi ấm lên, dường như còn tỏa ánh sáng lờ mờ. Hồn ma kia nhìn chăm chú vào miếng ngọc bội, rồi bất ngờ thò tay tới.
Ngô Diệu Tổ nhìn thấy bàn tay đó chỉ còn trơ xương. Quái lạ là móng tay vẫn còn, hơn nữa còn rất dài và nhọn. Ông ta vươn dài bàn tay tua tủa những chiếc móng dài nhọn hoắt, chầm chậm thò vào cổ anh. Ngô Diệu Tổ cảm thấy từng đợt khí lạnh phả ra từ những móng tay, thấm sâu vào da thịt.
Ngô Diệu Tổ nhìn thấy khuôn mặt cứng đờ của người đó dường như mỉm cười. Một nụ cười ma quái, khiến cho Ngô Diệu Tổ hồn phách muốn rụng rời. Đúng vào lúc bàn tay của người đó sắp chạm vào da thịt anh, Ngô Diệu Tổ bỗng nhìn thấy khuôn mặt ông ta nứt toác. Máu đen đặc chảy dọc theo khuôn mặt, nhỏ xuống cổ anh. 
Ngô Diệu Tổ cuối cùng cũng hét toáng lên được một tiếng. Cùng với tiếng thét kinh hoàng của anh, bóng người thình lình tan biến.
Ngô Diệu Tổ nhìn ánh đèn sáng trưng trong phòng, không biết việc vừa rồi là mơ hay là thực.
Lisa choàng tỉnh, hỏi chồng:
- Anh hét gì thế?
Ngô Diệu Tổ uể oải xua tay, nói:
- Không có gì!
Lisa thấy anh mồ hôi đầm đìa, sắc mặt tái nhợt, thì lo lắng hỏi:
- Hay là anh mệt mỏi quá nên bị tà ma đeo bám?
Ngô Diệu Tổ gạt đi:
- Không phải đâu, em ngủ đi.
Tuy là nói như vậy, song trong lòng Ngô Diệu Tổ vẫn vô cùng phấp phỏng. Anh rất muốn gọi điện thử hỏi cao tăng xem, việc này là như thế nào. Nhưng nghĩ lại, lúc này là giữa đêm khuya, nên đành phải thôi.
Anh bước xuống giường, thắp hương trước tượng Quan Âm và Quan Vũ, lầm rầm khấn vái một lúc, cảm thấy ổn hơn chút ít, mới lên giường đi ngủ.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Độc Chú (Hạ Long Hà)

Postby bevanng » 01 Oct 2016

Chương 2 VÀO NGHỀ

1. THIÊN ĐAO

Năm xưa, khi được Lý Đức Lượng dẫn đi khỏi nhà họ Ngô, Ngô Cương đã mười tám tuổi.
Đến tuổi trưởng thành, anh muốn cùng đám thanh niên trong thôn đi làm vệ sĩ cho Mã bang, song ông nội anh sống chết không chịu đồng ý. Anh đành phải đốt ruộng khai hoang trồng một ít thuốc phiện, nhưng thu nhập rất bèo bọt.
Khi Lý Đức Lượng cưỡi trên con ngựa cao lớn, tìm tới ngôi làng nhỏ nơi họ sinh sống, Ngô Cương đang buồn chán đi lững thững trên đường.
Đám Lý Đức Lượng hơn mười người, nghênh ngang ngựa lớn, ăn vận sang trọng, xuất hiện trước mặt anh.
Ngô Cương tưởng rằng họ tới tìm mua thuốc phiện, nên cũng chẳng quan tâm, cứ thế đi tiếp. 
Một gã mặt thịt ngang phè lớn tiếng gọi anh:
- Này, anh bạn, có biết nhà ông Ngô ở đâu không?
Ông Ngô? Trong thôn này chỉ có mỗi nhà anh là họ Ngô. Ngô Cương bèn hỏi lại:
- Anh tìm ông Ngô nào? Ở đây chỉ có một nhà họ Ngô thôi.
Lý Đức Lượng ôm quyền nói:
- Ông cụ tên là Ngô Phong.
Ngô Cương liền dẫn họ về nhà.
Ông nội đang ngồi trước căn nhà lá sắc thuốc. Lý Đức Lượng vừa nhìn thấy ông, vội vàng xuống ngựa, hành lễ với ông nội.
Ồng nội tuy nghèo khó, nhưng vẫn là một ông cụ rất uy nghiêm. Ông hỏi Lý Đức Lượng tìm một ông già như ông để làm gì, nói rằng dù Lý Đức Lượng có trả bao nhiêu tiền cũng không để cho cháu trai đi bán mạng cho họ.
Ông nội tưởng Lý Đức Lượng là phường buôn ma túy muốn đến thuê Ngô Cương.
Khi đó, thị trường buôn bán ma túy ở Tam Giác Vàng đã bắt đầu có chuyển biến do sự lũng đoạn của Âu Mỹ, xuất hiện rất nhiều tổ chức buôn bán ma túy lớn nhỏ.
Lý Đức Lượng đề nghị ông nội hãy vào nhà nói chuyện. Ông nội đành phải đi theo Lý Đức Lượng vào nhà.
Lý Đức Lượng tới tìm ông nội là vì muốn lập gia phả cho nhà họ Lý. Tổ tiên nhà họ Lý đã theo cụ tổ nhà họ Ngô từ Trung Quốc tới Miến Điện, nghe nói nhà họ Ngô có gia phả, ghi chép rất nhiều sự tích về tổ tiên nhà họ Lý, nên ông ta tới đây để xin được xem qua gia phả nhà họ Ngô.
Thời đó, nhà họ Ngô không biết đã bao nhiêu năm không ghi chép gia phả rồi, người họ Ngô cũng không còn nhớ được tổ tông là ai. Ông nội hỏi thăm kỹ lưỡng những chuyện về cụ tổ nhà họ Lý, rồi mới cho Lý Đức Lượng xem gia phả nhà họ Ngô.
Khi Lý Đức Lượng sắp sửa ra về, bèn hỏi ông nội, Ngô Cương là gì của ông, ông đáp là cháu nội.
Lý Đức Lượng thở dài một tiếng, rồi nói muốn dẫn Ngô Cương đi làm ăn. Ngô Cương cứ ngỡ ông nội sẽ từ chối, không ngờ ông nội vui vẻ đồng ý ngay.
Ông nội chỉ nói một câu, cháu tôi giao cho anh, tôi yên tâm.
Đến tận khi Ngô Cương bằng tuổi ông nội lúc bấy giờ, mới hiểu được tại sao ông nội lại yên tâm đến vậy. Đó là sự nhạy bén của một người đã từng trải sự đời. Điều duy nhất ông nội anh không biết, đó là Lý Đức Lượng cũng là người buôn bán ma túy, hơn nữa, còn là một trong những trùm ma túy lớn nhất Tam Giác Vàng vào thập niên 20.
Nhưng ông nội hiểu rõ, cho dù là trùm ma túy, cũng phải cho cháu trai đi theo Lý Đức Lượng để rèn giũa. Ông không thể để cho cháu mình cả đời bị giam chân nơi xó núi hoang dại này được.
Ngô Cương được ông nội dạy cho một chút đao pháp, nên sau khi đến chỗ Lý Đức Lượng, chuyện đánh nhau bằng binh khí cơ bản chẳng có gì khó khăn. Lý Đức Lượng nói, quan trọng nhất là phải luyện gan.
Tam Giác Vàng thời đó, thổ phỉ hàng đàn, trong những cánh rừng rậm, tập trung đủ mọi thể loại tội ác trên đời. Tội phạm của rất nhiều nước như Trung Quốc, Việt Nam, Thái Lan đều coi chốn rừng thiêng nước độc này là chốn ẩn thân.
Muốn tồn tại trên mảnh đất này, ngoài thế lực ra, gan góc cũng là một yếu tố vô cùng quan trọng.
Luyện gan, rất đơn giản, cấp cho anh đủ đồ ăn vật dụng, quẳng anh vào sâu trong rừng rậm là được. Ở đó, thứ gì cũng có, rắn độc, chướng khí, lang sói, và những bộ xương người la liệt khắp nơi. Chỉ cần ở trong rừng sâu đủ nửa tháng, người nhát gan tới cỡ nào rồi cũng thành không sợ trời, không sợ đất.
Có thể sống sót trong rừng rậm, gan dạ là yêu cầu cơ bản nhất.
Ngô Cương sau khi được dạy cho các kiến thức đơn giản về sinh tồn trong rừng rậm, liền bị Lý Đức Lượng sai người ném vào trong rừng sâu.
Trước đó, vì sợ hãi, Ngô Cương chưa bao giờ dám một mình đi vào núi sâu. Nhìn theo bóng đao thủ (thời đó là thập niên 20, dân buôn bán ma túy và thổ phỉ trong lãnh thổ Miến Điện vẫn trong thời binh khí lạnh, rất ít người có súng) dắt ngựa, dần dần biến mất trong ánh hoàng hôn, Ngô Cương hiểu rằng, mười lăm ngày sau, anh sẽ trở thành một người đàn ông thực thụ. Đương nhiên, vẫn còn một kết quả khác, mười lăm ngày sau, hoặc chưa tới mười lăm ngày, anh đã biến thành một cỗ xác, hoặc là một bộ xương. 
Song anh không biết được rằng, cách chỗ anh ở không xa, là Thiên Phúc đang nhận lệnh bảo vệ anh.
Nhìn sắc trời mỗi lúc một tối dần, loáng thoáng có tiếng gầm rú của các loài dã thú văng vẳng bên tai. Ngô Cương cầm đao đốn mấy thân cây nhỏ, phạt hết cành nhánh, chọn chỗ mấy gốc cây gần nhau, dọn sạch phía dưới, rồi buộc mấy thân cây nhỏ lên gốc cây thành cái khung chữ nhật, sau đó buộc vài cành cây lên trên, thế là thành một chiếc giường đơn giản. Để đề phòng thú hoang, anh còn đào mấy cái hố sơ sài xung quanh chiếc giường, cắm đầy tre nhọn hoắt dưới đáy.
Sau đó, anh lại tìm lấy ít cành khô, nhóm một đống lửa, nướng cơm lam, ăn kèm với dưa muối. Nhìn lại chiếc giường nhỏ và đống lửa, lắng nghe tiếng thú gầm lúc một rõ dần, lại nhìn màn đêm mịt mùng vây bủa xung quanh, Ngô Cương lúc này mới thấm thía con người là loài động vật thân thương biết mấy.
Anh không biết một buổi tối sẽ phải dùng hết bao nhiêu cành cây, sợ rằng chẳng may đốt hết củi, thú hoang sẽ mò đến gần, bèn đi ra xung quanh tìm thêm một ít.
Để không sợ hãi, Ngô Cương cố gắng không nhìn ra xung quanh. Ông nội nói trong núi có rất nhiều người chết, âm khí tích tụ, có những thứ có thể biến thành hình dạng con người, buổi tối xuất hiện hù dọa người ta, rất nhiều người đã bị những thứ này dọa cho chết khiếp. Ở Miến Điện, người ta gọi những thứ này là “ma núi”. Nghe đồn ma núi còn có thể biến thành những cô gái xinh đẹp, giả vờ bị lạc đường, để dụ dỗ đàn ông trẻ tuổi. Gặp phải ma núi kiểu này, nếu không bị mắc lừa, cô ả lập tức xoay người, biến thành nữ quỷ với hình hài rùng rợn, khiến người ta khiếp vía mà chết. Nếu là người can đảm, không đếm xỉa đến nó, nó cũng hết cách. Thế nhưng rất hiếm người có thể thoát nổi hai chiêu trên của ma núi.
Song càng khiếp sợ lại càng muốn nhìn, Ngô Cương thận trọng ngẩng đầu, nhìn ra xung quanh, vừa nhìn, đã khiến anh hồn bay phách tán. Bốn bề tuy tối đen mù mịt, nhưng lại thù lù đứng đó không biết bao nhiêu con người. Những bóng người này hình thù quái đản, đang nhìn anh với ánh mắt âm trầm.
Ngô Cương không sợ sói, không sợ rắn, cảm thấy sức người có thể đánh thắng chúng, thế nhưng ma núi thì lại phiền phức hơn nhiều.
Anh thấy trong cái thế giới đen đặc xung quanh, dường như có vô số ma núi đang rình mò anh, không biết lúc nào sẽ thình lình xông tới. Ngô Cương khiếp hãi tới mức quăng cả cành cây đi, rú toáng lên.
Tiếng rú của anh văng vẳng dội lại trong thung lũng, Dường như có vô số ma núi đang bắt chước giọng anh, cứ thế rú đi rú lại. Ngô Cương kinh hoàng, xoay người nhìn khắp xung quanh, dường như có vô số ma núi đang đi về phía anh.
Anh chạy tới bên cạnh đống lửa, cầm cây đao lên.
Lúc đó, anh chợt thấy bên cạnh có tiếng cành cây lào xào, âm thanh rất rõ. Anh nhặt một hòn đá, ném về phía phát ra tiếng động. Tiếng động biến mất, anh vẫn không yên tâm, gầm lên một tiếng vang động, cầm lên một cành cây dài đang bốc cháy, xông về phía phát ra tiếng động. Tới đó, anh cũng không cần biết có thứ gì hay không, cứ thế điên cuồng chém loạn xạ như phát rồ. Chém rồi, anh vẫn còn lo sợ phía sau lưng, liền xoay người chém vòng tròn.
Chém túi bụi một hồi, anh đã mệt rã, nhưng lại không dám dừng tay. Cứ như thế nếu dừng lại, con ma sẽ áp sát tới gần. Anh nghiến răng gầm rít, chém lia lịa về phía con ma núi trong tưởng tượng, rồi tung chân đạp, giơ đầu húc.
Thế nhưng, anh vẫn cứ bị ma núi ếm phép.
Cây đao trong tay đột nhiên bị ma núi kẹp chặt.
Anh rút về mà không rút nổi.
Toi rồi! Anh sợ quá quăng luôn cây đao, chạy về bên đống lửa.
Ồng nội từng nói, ma núi cũng sợ lửa. Bọn chúng chỉ có thể hoạt động ngoài đống lửa mười bước chân. Trong vòng mười bước chân, chúng sẽ biến thành dơi, không thể hại người được.
Anh chạy tới sát bên đống lửa, gần đến không thể gần hơn được nữa.
Bọn ma núi không xông tới.
Không còn cây đao, anh càng thấy hoang mang. Xung quanh có tiếng động, anh chẳng còn can đảm để xông ra ngoài nữa. Ngô Cương nằm cuộn tròn bên đống lửa, lúc này đã không còn đường lui, thì anh lại trở nên bình tĩnh. Nếu đúng là có ma núi thật, những thứ tà ma rất sợ lửa, chúng sẽ không dám xông tới. Nếu như có thứ gì không sợ lửa mà xông tới, thì cũng chẳng có cách nào khác, đành phải liều chết thôi.
Nghĩ tới cái chết, trong lòng anh lại trấn tĩnh hơn rất nhiều.
Bỗng nhiên, anh sực nhớ đến lời ông nội nói, rất nhiều người không phải là bị đánh chết, mà là bị cắn chết, bị dọa chết. Chỉ cần không sợ, con người sẽ có thể sống được trong núi. Dưới gầm trời này, thứ gì là vĩ đại nhất? Chính là con người. Con người sợ những thứ khác, nhưng kỳ thực, những thứ khác lại càng sợ con người.
Đúng vậy. Rắn hổ mang đúng là ghê gớm, nhưng nếu biết tránh né chúng, thì chúng chưa bao giờ chủ động cắn người. Sói rất hung dữ, nhưng chúng chỉ có thể trốn trong núi sâu, không phải là đói khát tới kiệt cùng thì chưa bao giờ xông ra đối mặt với con người. Thế nhưng, ma núi có sợ người không? Ông nội từng nói, chúng có lúc sợ người, có lúc không. Lời của ông nội chưa hẳn đã chính xác. Tại sao mình lại không hỏi ông lớn xem ma núi có sợ người hay không nhỉ?
Nằm co quắp bên đống lửa một hồi lâu, hình như ma núi cũng không xông tới. Ngô Cương bèn đứng lên, bước ra khỏi phạm vi mười bước chân bên ngoài đống lửa. Không có ác quỷ, cũng chẳng có mỹ nữ. Lẽ nào ma núi đã lấy cây đao của anh đi nghịch chơi?
Anh cầm một cành cây đang cháy lên soi, đi tới chỗ mình chặt chém loạn xạ vừa rồi, thì nhìn thấy cây đao của mình đang bị giắt cứng trên một chạc cây.
Hoàn toàn chẳng phải là ma núi, mà là cây đao của anh chẳng may bị chạc cây cản lại.
Anh bước lại gần, lấy cây đao xuống, chém đứt luôn chạc cây vừa kẹp giữ cây đao của anh.
Đêm đầu tiên, anh gần như không ngủ, cứ thế co ro bên đống lửa, nắm khư khư cây đao, nhìn trân trối vào bóng đêm rùng rợn nhạt dần. Đến sáng hôm sau, anh đã không gượng nổi nữa, ngồi bên đống lửa đã tắt, ngủ thiếp đi.
Anh ngủ một mạch đến gần trưa. Khi tỉnh dậy, cảm giác hai chân tê dại, suýt nữa không đứng dậy nổi.
Lúc này, sương mù trong rừng rậm đã tan, không gian tĩnh lặng, ấm áp.
Dù sao cũng là thanh niên, ngủ một giấc dậy, đã lập tức cảm thấy sức lực dồi dào. Đám ma núi đông như nêm tối qua đã biến thành những thần cây cao thấp so le thư thái vươn mình dưới ánh nắng.
Trải qua cơn khốn đốn đêm qua, anh cho rằng mình đã hiểu được một chút về rừng rậm.
Nghe anh chàng đã dẫn anh vào rừng nói, đi về phía tây không xa có một con suối nhỏ, có thể rửa mặt uống nước tại đó. Anh liền cầm theo dao và túi da bò đựng nước đi về phía đó.
Vì là mùa hạn, dòng suối nhỏ đã cạn khô. Tận dưới lòng sông có một vũng nước, nước đã ngả màu vàng quạch, trên bề mặt nổi lên một lớp gì đó màu xanh vàng. Anh biết bên dưới lớp váng lúc nhúc những đỉa, trong nước còn có trứng của chúng. Nước ở đây không thể uống được. 
Ngô Cương thực sự không thể ngờ rằng, nước đã trở thành một vấn đề. Anh men theo lòng sông, đi lên phía trên một đoạn, tìm thấy vài vũng nước nữa, nhưng trông đều tương tự như vậy.
Song anh không biết rằng, cứ lang thang xung quanh nguồn nước như thế này, là đã phạm vào đại kỵ của cuộc sống trong rừng rậm.
Bám theo sau lưng anh là một gia đình linh cẩu gồm tám mạng. Chúng đã lâu lắm rồi chưa có gì bỏ bụng, nhìn thấy một con người như Ngô Cương, đương nhiên là vô cùng hưng phấn.
Thế nhưng, còn chưa quan sát kỹ, bọn chúng sẽ không hành động. Trong rừng rậm, linh cẩu là loài thú săn mồi tinh khôn nhất. Bọn chúng không có sức mạnh như hùm beo, ngoài việc tác chiến theo bầy, thì nắm rõ chân tướng, nắm chắc thời cơ là một trong những sách lược của linh cẩu. Nghe nói, về phương diện tấn công con người, linh cẩu có một loạt những phương pháp độc đáo của riêng chúng.
Trước khi quyết định có phát động tấn công một con người hay không, chúng sẽ đứng thẳng dậy trên hai chân, để ước chừng chiều cao của người này. Nếu người này cao hơn chúng, chúng sẽ không tự mình phát động tấn công, mà sẽ đợi đồng bọn tới, đánh giá sức mạnh của hai bên. Nhưng nếu người này không cao hơn chúng khi đứng thẳng, chúng sẽ không hề khách khí.
Gia đình linh cẩu đang bám theo Ngô Cương không phải là quá lớn mạnh. Vợ chồng linh cẩu đang nuôi một ổ linh cẩu con. Bọn linh cẩu con ăn rất khỏe, khiến hai vợ chồng nó kiệt sức. Đàn con đang trong thời kỳ ăn khỏe mà chưa biết tự kiếm mồi, nếu muốn đối phó với Ngô Cương, hiển nhiên không có hy vọng. Vì thế bọn linh cẩu biết, xét về thực lực, chúng không đánh nổi Ngô Cương. Thế nhưng một tảng thịt to đến thế, không ăn được lại không cam lòng. Vì thế, vợ chổng linh cẩu cứ bám lẵng nhẵng theo Ngô Cương, hy vọng có thể tìm được thời cơ tấn công anh.
Ngô Cương không hề phát giác ra điều này. Anh quay lại trước vũng nước đầu tiên, đào một cái hố nhỏ ở vạt đất ẩm ướt bên cạnh, đợi nước thấm ra đầy hố, thì đong đầy vào túi da.
Vừa mới ngẩng đầu lên, anh đã phát hiện thấy một con rắn hổ mang bò ra từ trong rừng. Con rắn hổ mang có lẽ đã phát hiện ra anh từ lâu, đang chuẩn bị cắn trộm, lúc này đã tiến đến rất gần Ngô Cương.
Ngô Cương vừa phát hiện ra nó, nó liền ngóc đầu dậy, phun phì phì về phía anh.
Những giống này, Ngô Cương không sợ. Anh dùng đao dẫn dụ nó nhảy múa, rồi thình lình chém phập một nhát đứt bay cái đầu đang ngóc lên của nó, sau đó nhặt thân mình vẫn đang co giật của con rắn lên, chuẩn bị mang về nướng ăn.
Một loạt các hành động của Ngô Cương đã khiến cho cả nhà linh cẩu kinh hãi. Linh cẩu bố còn thè lưỡi liếm đầu mấy đứa con, hình như muốn kiểm tra xem đầu của chúng phải chăng vẫn còn nguyên vẹn.
Theo lý mà nói, đối mặt với một địch thủ đáng gờm nhường này, linh cẩu bố nên dẫn cả nhà bỏ đi mới phải. Thế nhưng, tình cảnh khắc nghiệt trong rừng rậm khiến chúng đã quen với việc không chịu từ bỏ một cơ hội nào. Đắn đo một lúc, nó vẫn cứ dẫn cả nhà âm thầm bám theo Ngô Cương.
Đương nhiên, có những việc vợ chồng linh cẩu không thể nào ngờ tới, đó là còn có một con sói nữa đang bám theo bọn chúng. Sói tính toán rất chu toàn. Nó đợi vợ chồng linh cẩu bỏ đi săn mồi, thì sáu con linh cẩu con kia sẽ là một bữa ăn thịnh soạn.
Ngô Cương không hề hay biết những điều này. Trong rừng rậm, đây là hiện tượng hết sức bình thường. Tất cả mọi động vật ở trong rừng rậm, bắt đầu từ thời khắc chúng đặt chân vào rừng, đã lập tức biến thành một phần trong chuỗi thức ăn tại đây.
Bắt được một con rắn, Ngô Cương khá là phấn khởi. Thịt của loài rắn hổ mang này là một món ngon. Hồi còn ở dưới quê, mấy năm cũng chẳng bắt nổi một con. Con rắn này rất to, bữa trưa coi như đã được giải quyết.
Anh làm sơ qua bụng rắn, chặt một cành cây xiên vào mình nó, quay trở về nhóm lửa, bắt đầu nướng thịt.
Một lúc sau, thịt rắn đã tỏa hương thơm phức.
Ngô Cương lấy ra ít muối, đổ vào một chiếc bát con, đợi thịt rắn chín sẽ chấm muối ăn.
Mùi thơm của thịt rắn cũng khiến cho cả nhà linh cẩu nước dãi ròng ròng. Linh cẩu con không nhịn được, liền xông bừa lên phía trước, bị linh cẩu lớn giơ đầu húc ngã. Linh cẩu con ấm ức, rên lên ư ử.
Tiếng rên không lớn, nhưng rất rõ ràng. Ngô Cương bỏ miếng thịt rắn xuống, xách dao lên, bước thẳng tới.
Linh cẩu bố vừa thấy có chuyện không hay, thú tính liền trỗi dậy, lập tức lao vọt ra từ sau bụi cây đang ẩn nấp, hụp thấp đầu xuống, nhe nanh ra với Ngô Cương, từ trong cổ họng phát ra những tiếng gầm ghè uy hiếp.
Ngô Cương biết rằng giống này mặc dù thân hình nhỏ bé, nhưng lại hung tàn cực độ. Khác với chó sói, bọn chúng chỉ tiến chứ không lùi, chỉ cần nhắm được mục tiêu, lập tức xông lên bất chấp cả tính mạng.
Ngô Cương không biết rằng con linh cẩu mẹ nhân lúc anh đang thủ thế với con linh cẩu bố, đã khẽ khàng vòng ra phía sau anh, uốn cong lưng lên, chuẩn bị tấn công.
Ngô Cương không nhìn thấy con linh cẩu sau lưng. Con linh cẩu trước mặt đã nhấp nhỉnh muốn lao lên, hai chân trước từ từ tiến lên thăm dò.
Ngô Cương vừa lùi vừa tìm cơ hội tấn công. Anh biết, một chiêu đánh ra, nếu không chém trúng, bản thân anh sẽ vô cùng nguy hiểm. Tốc độ tấn công của linh cẩu nhiều khi còn nhanh hơn cả sói.
Ngô Cương đã lùi về phía sau liền mấy bước, anh biết mình đã không thể lùi thêm nữa. Càng lùi, lại càng chứng tỏ mình khiếp nhược, con linh cẩu sẽ càng hung hãn hơn. Trong lúc này, khí thế là vô cùng quan trọng.
Anh hơi lùi về phía sau một bước, rồi thình lình xoạc cẳng nhảy vọt lên, con dao trong tay chém thẳng xuống cần cổ con linh cẩu.
Con linh cẩu cứ như biết trước anh sẽ ra chiêu này, nên nhẹ nhàng nhảy sang một bên, đã tránh được một đòn trí mạng. Sau đó, nó không hề dừng lại, mà nhân lúc Ngô Cương loạng choạng vì chém hụt, lập tức lao tới tấn công từ bên cạnh.
Ngô Cương muốn thu dao lại thì đã muộn, đành phải tung một chân lên, đạp về phía nó.
Con linh cẩu ngoắt đầu, thuận đà cắn phập vào cổ chân Ngô Cương, cả quần lẫn da thịt đều bị xé toạc một mảng. Ngô Cương đau tới suýt chết ngất.
Đúng lúc đó, anh nghe thấy một tiếng gió rít sát sạt bên cạnh. Anh biết ngay là không ổn, chẳng kịp nghĩ ngợi, lập tức xoay người chém liền một dao.
Nhát dao chém vào không khí. Con linh cẩu mẹ phía sau khẽ lách mình đã tránh được nhát chém, hạ xuống bên cạnh anh.
Ngô Cương biết mình đã lâm vào nguy hiểm. Hai con linh cẩu kia muốn biến mình thành bữa trưa của chúng, bản thân anh e rằng cũng chẳng còn cơ hội để phản kháng nữa.
Lần này con linh cẩu mẹ tấn công trước. Khi nó nhảy vọt lên còn cuốn theo mùi hôi của sữa. Ngô Cương biết nếu mình chết, còn phải làm thức ăn cho cả đám linh cẩu con, nghĩ đến cảnh bị một bầy linh cẩu lớn bé xâu xé xác mình, anh cảm thấy thật ghê tởm. Ngô Cương gầm lên một tiếng, giả vờ định tung chân đá nó, sau đó lưỡi dao phía sau liền quét tới. Linh cẩu cũng thực gớm ghê, lắc mình một cái trên không trung, lại né được nhát chém của Ngô Cương.
Con linh cẩu bố nhân lúc Ngô Cương chưa kịp đứng vững, cắn vào chân anh giật mạnh. Ngô Cương mất trọng tâm, ngã đánh huỵch xuống đất. Linh cẩu mẹ thấy cơ hội đã tới, không chút do dự, nhảy phóc lên cao, há ngoác miệng, lao thẳng tới yết hầu của Ngô Cương.
Ngô Cương thầm nhủ, lần này chết chắc.
Anh chỉ biết giơ tay lên đỡ một cách vô thức, không ngờ con linh cẩu sau khi đớp lấy tay anh, lại nhả ngay ra, nằm vật sang một bên.
Con linh cẩu bố đang định xông tới, Ngô Cương bỗng nhìn thấy một vệt sáng trắng không biết từ đâu bay vụt đến, cắm phập vào cổ nó. Con linh cẩu lão đảo vài cái thì ngã gục xuống đất, giãy giụa một hổi rồi chết.
Ngô Cương lại nhìn con linh cẩu mẹ vừa đánh lén, thấy trên cổ nó cũng cắm một ngọn phi đao. Nó đã chết.
Anh bò dậy, nhìn thấy một người đàn ông vạm vỡ đang bước từ trong rừng ra, bèn nói:
- Cảm ơn đại ca đã cứu giúp.
Người đó nhìn anh, rút ngọn phi đao trên người con linh cẩu ra, nói:
- Không có gì, chỉ tiện tay thôi.
Ngô Cương thấy người này vận quần áo ngắn, bèn hỏi:
- Chắc anh là “Thiên Đao”?
Thiên Phúc cười đáp:
- Đúng vậy, tôi là Thiên Phúc.
Kỳ thực, Thiên Phúc đã nhận mệnh lệnh của ông lớn Lý, tới đây bảo vệ cho Ngô Cương.
Vừa rồi nếu không nhờ Thiên Phúc ra tay, thực không dám chắc cái mạng nhỏ bé của Ngô Cương có giữ được hay không.
Sau đó, Thiên Phúc đã cùng với Ngô Cương sống. trong rừng rậm mười lăm ngày. Trong mười lăm ngày này, Ngô Cương đã học được rất nhiều điều từ Thiên Phúc, và hai người cũng trở thành đôi bạn chí thân.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Độc Chú (Hạ Long Hà)

Postby bevanng » 01 Oct 2016

2. ĐÊM GIẾT NGƯỜI

Dưới quyền Lý Đức Lượng có hơn ba mươi người, ngoài hơn chục phu ngựa ra, còn lại đều là đao thủ. Đó là thời đại mà binh khí lạnh còn chiếm địa vị chủ yếu. Kể cả hơn hai mươi năm sau, giặc Nhật đánh tới Miến Điện, người Miến Điện vẫn dùng cung tên và đại đao chống Nhật.
Chỉ mình Lý Đức Lượng có một khẩu súng, cũng được coi là món vũ khí hiện đại, ông ta đã phải bỏ ra một khoản tiền kếch xù để mua nó từ quân đội Anh đóng tại Miến Điện.
Lý Đức Lượng đã giao khẩu súng đó cho Ngô Cương.
Đó là thời kỳ buôn bán ma túy phát triển cực thịnh. Vào thời điểm giao dịch ma túy bị người phương Tây lũng đoạn, giá cả rất thấp. Lý Đức Lượng đã nâng cao mức giá mua vào, được dân trồng thuốc phiện nhiệt liệt ủng hộ. Thu mua thì không thành vấn đề, nhưng muốn vận chuyển thuốc phiện ra ngoài, lại là việc vô cùng mạo hiểm.
Con đường Lý Đức Lượng thường đi là con đường cổ xưa do Mã bang để lại. Vận chuyển ma tủy theo con đường này ra nước ngoài, dọc đường đi có vô số băng đảng thổ phỉ lớn nhỏ. Mục tiêu của bọn thổ phỉ chính là khách buôn đi đường, Lý Đức Lượng cũng không phá vỡ được quy tắc này. Cho nên, gặp phải thổ phỉ, phần lớn đều cống nạp chút đỉnh cho xong chuyện. Mọi người ai cũng chỉ vì kiếm miếng cơm ăn, rất hiếm khi giao chiến thực sự, trừ phi gặp phải bang thổ phỉ mới toe hoặc cướp.
Lần đầu tiên Ngô Cương đi giao hàng cùng Lý Đức Lượng, đã gặp phải một toán cướp.
Mấy ngày đầu, hành trình của họ vô cùng thuận lợi. Lý Đức Lượng cũng rất vui mừng, nói với Thiên Phúc rằng, đúng là nhờ sơn thần phù hộ, lúc quay về phải đốt thêm nhiều tiền vàng cho ngài.
Đi tới một nơi gọi là thung lũng Người Chết, trời đã tối sập. Họ tìm một sườn núi tương đối bằng phẳng, tầm nhìn rộng rãi, đào bếp nấu cơm.
Theo ý Thiên Phúc, nên đi tiếp về phía trước, chừng tới nửa đêm có thể đến được một nơi mà họ đã từng nghỉ chân trước kia. Lý Đức Lượng nhìn nhìn đám thuộc hạ đã mệt mỏi rã rời, nói:
- Nghỉ lại đây!
Chuyến hàng này khá lớn, giá cả bên mua đưa ra cũng khá hời, nên Lý Đức Lượng cũng thận trọng hơn, thuê thêm rất nhiều người mới. Những đao thủ mới phần lớn đều là vệ sĩ bảo vệ trong nhà, hoặc là đám lưu manh đầu trộm đuôi cướp, chưa từng trải qua cảnh trèo đèo lội suối đường dài như thế này, nên đã mệt phờ phạc từ lâu.
Lý Đức Lượng vừa hô nghỉ, mọi người lập tức bận rộn mỗi người một công việc theo như phân công từ trước.
Thiên Phúc dẫn Ngô Cương xem xét khắp xung quanh, sửa sang lại những cạm bẫy đã đặt sẵn từ trước đó. Giống như hai đội quân đối địch thường chôn giấu địa lôi trước trận địa, trước khi đi ngủ, họ đều phải đào bẫy hoặc cắm chông tre ở một số ngả đường hoặc những nơi hiểm yếu. Đây là cách thức từ thời kỳ Mã bang để lại, đã có lần khiến cho lũ thổ phỉ đánh lén gặp phải thương vong nghiêm trọng.
Hai tháng trước, đoàn Lý Đức Lượng đã từng nghỉ đêm tại đây, trước lúc rời đi, đã tiến hành che chắn cho các cạm bẫy, phần lớn vẫn được bảo toàn nguyên vẹn, chỉ cần sửa sang qua loa là được. Những thứ này kỳ thực rất hiếm khi dùng tới. Đao thủ của Mã bang ban đêm đều đặt chân gác ngầm và gác công khai, đi ngủ cũng ôm đao mà ngủ. Vì biết rõ buổi tối dễ xảy ra sự cố, nên mọi người đều phòng bị rất nghiêm ngặt, hơn nữa nếu trong đêm có người xuất hiện, các đao thủ đều đâm chém chí mạng, không giống như ban ngày chủ yếu là hư trương thanh thế, dọa cho bỏ chạy mà thôi. Cho nên nếu không thực sự chắc chắn, hoặc quả thực là cùng đường bất đắc dĩ, thì chẳng có mấy kẻ đêm hôm liều chết xông vào.
Song họ không thể ngờ được rằng, tối hôm nay sẽ có một trận ác chiến vô cùng quái dị.
Lúc ăn cơm, cái bát đang yên đang lành trên tay Lý Đức Lượng bỗng tuột tay rơi xuống đất. Ông băn khoăn nhặt lên, nhìn những hạt cơm trắng rơi tung tóe đầy mặt đất, tự hỏi:
- Sao thế nhỉ?
Đầu bếp đơm cho ông ta một bát khác, vừa mới ăn được vài miếng, bát cơm lại tuột tay rơi xuống. Ông kinh ngạc nhìn sững vào bát cơm, không hiểu chuyện gì đang xảy ra.
Đầu bếp là người cũ của Mã bang. Nhìn bát cơm của ông chủ rơi trên mặt đất, ông ta không nói năng gì. Ăn cơm xong, ông ta kéo Lý Đức Lượng sang một bên, nói:
- Không chừng đêm nay sẽ có chuyện.
Lý Đức Lượng hỏi:
- Tại sao?
Đầu bếp nói:
- Rơi bát thì tôi đã gặp phải hai lần, không ít thì nhiều đều xảy ra chuyện. Tôi cảm thấy tối nay có vẻ kỳ quặc, cẩn thận một chút vẫn hơn.
Với những chuyện kiểu này, Lý Đức Lượng vẫn bán tín bán nghi, nhưng bước chân ra khỏi nhà, cẩn thận cũng không thừa. Vốn dĩ trực đêm thường sáu người một ca, ba ẩn ba hiện, nhưng tối hôm đó lại bố trí những mười người. Đấy là vẫn chưa tính Thiên Phúc và Ngô Cương. Hai người họ thông thường không trực đêm, nhưng tối hôm đó đã thức trắng.
Quá nửa đêm, vẫn không có chuyện gì xảy ra. Lý Đức Lượng bảo Ngô Cương đi chợp mắt một lát, Ngô Cương liền đi ngủ.
Khi anh choàng tỉnh dậy, bên cạnh đã chẳng còn mấy người. Đập vào mắt anh là một một cảnh tượng rất đỗi rùng rợn, Lý Đức Lượng và Thiên Phúc dẫn theo đám đao thủ, đang giao chiến kịch liệt với một đám người đánh lén đeo mặt nạ mặc trang phục cổ xưa, trông chẳng khác gì ma quỷ. Bọn đánh lén đao pháp cực kỳ điêu luyện chớp nhoáng, cho dù là đao thủ chuyên nghiệp dưới trướng Lý Đức Lượng, đọ sức với chúng cũng rất chật vật.
Khi anh bật dậy đã có ba đao thủ chết dưới tay bọn chúng.
Ngô Cương biết rằng lần này đã gặp phải bọn liều mạng thực thụ. Những băng thổ phỉ khác, thường khi đánh lén bất thành, sẽ tìm cơ hội rút lui. Nhưng đám người này lại có vẻ như không phải đến vì tiền của. Mục đích của chúng dường như là tàn sát.
Song Ngô Cương lại nhìn thấy Lý Đức Lượng và Thiên Phúc đều không thẳng tay giết chóc. Cho dù đối phương tấn công bức bách, nhưng Thiên Phúc và Lý Đức Lượng cũng chỉ chặn đỡ. Ngô Cương cảm thấy vô cùng quái lạ. Cho dù anh không phải dân giang hồ lão luyện, cũng có thể nhận ra, chỉ dựa vào hơn hai mươi đao thủ của họ, muốn giữ chân đám người kia để cho các phu ngựa xua đàn ngựa chạy thoát, căn bản là điều huyễn tưởng. Quân số của đối phương không ít hơn họ, võ nghệ cũng không hề thua kém, tuyệt đối không phải là phường ô hợp. Trong tình hình này, chỉ có thể đánh cho chúng tả tơi thảm bại, không sức chống đỡ mới có thể thoát thân.
Ngô Cương tìm cơ hội áp sát Thiên Phúc, hỏi:
- Đại ca, sao anh không giết chúng?
Thiên Phúc vừa chống đỡ đường đao của đối phương, vừa đáp:
- Chúng ta không thể kết oán với chúng được. Bọn chúng là hội Tam Hoàng của tộc người Kokang*.
* Hay còn gọi là tộc Quả cảm, sinh sống tập trung ở phía Bắc Miến Điện, chủ yếu là người Hoa tị nạn sang từ thời Minh, là một khu tự trị do quan thổ ti địa phương cai quản.
Ngô Cương không biết hội Tam Hoàng là tổ chức gì, tại sao lại không thể kết oán với bọn chúng. Nhưng nhìn bộ dạng của sư phụ và Thiên Phúc, anh biết đối phương không phải là thổ phỉ bình thường.
Lý Đức Lượng dù sao tuổi tác cũng đã cao, sau một hồi chống đỡ, chân tay đã chậm chạp hẳn, bị trúng một đao vào lưng. Xung quanh đã có thêm ba người anh em nữa gục trong vũng máu. Lý Đức Lượng hét lớn một tiếng:
- Xin mời thủ lĩnh ra nói chuyện.
Một cái bóng cao lớn thô kệch lù lù đứng ra trước mắt Lý Đức Lượng.
Lý Đức Lượng nói:
- Có yêu cầu gì, mời thủ lĩnh cứ nói ra, đừng để các anh em phải thí mạng nữa.
Thủ lĩnh nói:
- Cầm đầu phải chăng là Lý Đức Lượng?
Lý Đức Lượng đáp:
- Phải!
Tên thủ lĩnh cười nhạt một tiếng, nói:
- Hội Tam Hoàng có điều lệnh, không làm những việc thương thiên hại lý. Cái chúng ta cần chỉ là công lý.
Lý Đức Lượng thở dài, nói:
- Thủ lĩnh đã nhầm rồi. Món nợ cũ của vài trăm năm trước, đã mục nát từ lâu, biết tìm công lý ở đâu đây. Nhà họ Ngô trên dưới mấy trăm người đã bị giết sạch, món nợ này thủ lĩnh biết tới đâu để tìm người tính sổ?
Thủ lĩnh trầm giọng nói:
- Nhà họ Ngô vẫn chưa tuyệt hậu, chuyện này ngươi rõ hơn ta. Hai anh em chạy tới Miến Điện, trong đó một nhà đã đổi họ, còn một nhà nữa trăm năm trước từng bị sư gia của ta truy sát, từ đó mất tích. Nhưng theo ta biết, ngươi đã tìm được hậu duệ của nhà họ Ngô. Hôm nay, ta chỉ cần một người đó, để bái tế linh hồn của hoàng đế Vĩnh Lịch trên trời.
Lý Đức Lượng nổi giận, nói:
- Chẳng qua chỉ là một hoàng đế Vĩnh Lịch, các người đã giết chết hơn hai chục người nhà họ Ngô rồi, các người còn muốn thế nào nữa?
Tên thủ lĩnh gằn giọng:
- Người mà nhà họ Ngô giết chết, không chỉ là một hoàng đế Vĩnh Lịch, mà là cả giang sơn Đại Minh, bọn chúng đã khiến cho hàng ngàn hàng vạn con dân Đại Minh vĩnh viễn lưu lạc nơi đất khách, trở thành nạn dân vong quốc. Đại Minh đối với nhà họ Ngô ơn nặng như núi, thế mà nhà họ Ngô lại chẳng bằng loài cầm thú. Để một gia tộc như thế tồn tại trên đời, sớm muộn cũng thành tai họa. Chỉ cần đường khẩu Tây Nam của hội Tam Hoàng còn tồn tại, chúng ta nhất định sẽ tàn sát nhà họ Ngô đến đoạn tử tuyệt tôn.
Lý Đức Lượng cười lạnh lẽo, nói:
- Việc khác ta không quan tâm, nếu các anh em dưới tay ta còn chết thêm một người nào nữa, ta sẽ bắt các ngươi đền mạng. Lý Đức Lượng ta đã nhượng bộ hết nước rồi, ta hy vọng thủ lĩnh không ép người quá đáng.
Tên thủ lĩnh không hể do dự, nói liền:
- Kẻ nào cản ta, giết!
- Giết! - Thuộc hạ của hắn ta đồng thanh hét lớn. Ngô Cương nghe ra trong đó còn có tiếng con gái, nhỏ nhẹ trong trẻo, rất dễ nhận.
Lý Đức Lượng nói:
- Thế thì chúng ta cũng không khách khí nữa!
Vừa dứt lời, chỉ thấy tên thủ lĩnh ném một thứ gì đó vào Lý Đức Lượng, Lý Đức Lượng nghiêng đầu né được, giận dữ gầm lên:
- Giết!
Người ra tay đầu tiên là Thiên Phúc. Từ tay anh lóe lên mấy vệt trắng lòa, phía đối phương lập tức có mấy kẻ ngã gục. Đám người hội Tam Hoàng sững sờ, rồi lập tức xông vào Thiên Phúc.
Lý Đức Lượng hét lớn một câu:
- Thủ lĩnh, hôm nay ngươi chớ trách lão Lý ta đại khai sát giới, là ngươi đã ép ta.
Tổ tiên của Lý Đức Lượng là tướng quân, võ nghệ đương nhiên xuất chúng. Ông không dùng binh khí, chỉ dùng hai nắm đấm thép, chẳng mấy chốc đã có hai sát thủ ngã gục dưới nắm đấm của ông.
Đám thuộc hạ thấy ông lớn và Thiên Phúc đã ra tay, lòng quân phấn chấn, tiếp đó, lại có ba bốn tên sát thủ bỏ mạng dưới lưỡi đao.
Thủ lĩnh của hội Tam Hoàng quát lên một tiếng, dẫn theo bảy tám người còn sống sót bỏ chạy tháo thân.
Ngô Cương lần đầu tiên biết được trên đời này lại có người muốn lấy mạng anh. Sau đó, Lý Đức Lượng không chỉ một lần nói với Ngô Cương rằng, cụ tổ của anh quá ư cố chấp. Người nhà họ Ngô cho dù ở lại Trung Quốc, hay là bỏ chạy sang Miến Điện, phần lớn đều đã đổi sang họ khác. Chỉ còn lại chi tộc nhà anh, thà phiêu bạt lưu ly cũng quyết không đổi họ.
Sau này, Ngô Cương mới biết, ở Miến Điện mà lại mang họ Ngô, đúng là tự chuốc tội vạ vào thân.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Độc Chú (Hạ Long Hà)

Postby bevanng » 01 Oct 2016

3. CÔ GÁI TRONG NÚI

Được phát tiền lương, Ngô Cương ra phố đi dạo. Anh muốn nhân tiện mua chút đồ mang về nhà tặng cho ông nội. Mười mấy ngày nữa là sinh nhật ông nội, mà họ không biết chừng lại sắp phải lên đường rổi.
Tại một sạp bán đồ da, anh ngắm được một cái túi đeo lưng. Ông nội anh thích vào trong núi hái lượm mấy thứ mọc hoang, chiếc túi này rất hợp cho ông đeo.
Ngã giá với chủ hàng xong, đang định trả tiền, nhưng sờ tới túi áo thì tiền đã không cánh mà bay.
Anh đứng đờ ra tại chỗ.
Tiền đâu rồi?
Anh cảm thấy hình như vừa nãy, bên cạnh có ai sờ vào người anh một cái, khi đó, anh đang mải xem túi nên không để ý. Bây giờ nghĩ lại, tiền của anh có lẽ đã mất khi bị kẻ đó sờ vào người.
Không sai, chính là hắn.
Anh nhìn thằng nhãi đang mặt mày hớt hải, bèn đưa tay chụp luôn lấy nó. Thằng nhãi kinh ngạc hỏi:
- Anh làm gì thế?
Ngô Cương nói:
- Chẳng làm gì cả, trả tiền cho tao, tao sẽ thả mày đi.
Thằng ranh bèn cãi:
- Anh đừng có nói càn, ai lấy tiền của anh?
Ngô Cương nói:
- Vừa rồi chính là mày đã chạm vào tao một cái, rồi tiền của tao liền biến mất, mẹ kiếp, mày còn giả vờ giả vịt?
Thằng nhãi nói:
- Tao còn định nói tao cũng mất tiền đây này, mẹ mày, muốn gây chuyện phải không?
Ngô Cương lúc này mới phát hiện ra, xung quanh thằng nhãi đã có vài tên đồng bọn đang từ từ quây lại. Anh hơi chột dạ, bèn nói:
- Làm gì thế, chúng mày muốn đánh nhau à?
Đúng lúc nguy cấp, một cô gái đang mua đồ ở bên cạnh bước lại gần. Cô ta liếc nhìn thằng nhãi, hỏi:
- Cậu không trộm tiền của anh ấy?
Thằng nhãi đáp:
- Đương nhiên, ai nhìn thấy tôi trộm tiền nào?
Cô gái nói:
- Tôi nhìn thấy!
Thằng nhãi bắt đầu hoảng hốt, nói:
- Chị điên à, tôi trộm tiền của anh ta lúc nào?
Cô gái nói:
- Cậu dám lấy tiền trong người cậu ra không?
Lúc này, người vây lại xem mỗi lúc một đông, rất nhiều người cảm thấy bất bình, giục:
- Lấy thử ra xem nào?
Thằng nhãi nói: 
- Tại sao tôi lại phải lấy ra?
Cô gái hỏi Ngô Cương:
- Anh có bao nhiêu tiền?
Ngô Cương đáp:
- Sáu đô la Mỹ. Hôm nay vừa mới lĩnh lương, tôi còn chưa động đến một đồng.
Cô gái lại hỏi anh:
- Là tiền mới hay tiền cũ?
Ngô Cương nói:
- Đều là tiền mới. À, không đúng, có một tờ là tiền cũ. Tờ tiền cũ ở giữa, tôi cố tình đặt nó vào giữa, muốn kẹp phẳng cho nó trông mới hơn một chút.
Cô gái gật đầu, rồi hỏi thằng nhãi:
- Cậu có dám lấy tiền của cậu ra cho mọi người xem không?
Thằng nhãi nhìn vòng người xúm đông xúm đỏ, thấy hoảng, bèn móc tiền ra ném cho Ngô Cương, rồi chửi:
- Mày đợi đấy! - Sau đó quay đầu đi thẳng.
Ngô Cương đếm đếm tiền, vừa hay sáu tờ. Anh rút ra một tờ đưa cho cô gái, nói:
- Cảm ơn cô đã giúp đỡ.
Cô gái cười cười, nói:
- Việc nhỏ thôi mà, cái này là thế nào? Chẳng lẽ anh cho rằng tôi là đồng bọn với thằng trộm kia?
Mọi người phá lên cười, Ngô Cương cũng cười ngượng nghịu, cất tiền đi.
Có người nhận ra cô gái này, nói:
- Đây chẳng phải cháu gái của ông Vương chủ quán trà đấy sao?
Ngô Cương chào cô gái, mua bán xong xuôi, rồi quay về thăm ông nội.
Hơn mười ngày sau, Lý Đức Lượng lại chuẩn bị lên đường. Lần này, ông nhờ người mua bốn khẩu súng tiểu liên, bốn khẩu súng hỏa mai, hỏa lực mạnh mẽ hơn nhiều. Con đường này, Lý Đức Lượng đã đi hơn hai mươi năm, các đại vương sơn trại ở đây đều rất thân thiết với ông, phần lớn chỉ cần chào hỏi một cái là xong. Lý Đức Lượng cũng là người biết cư xử. Ông ta biết bọn họ đểu dựa vào con đường này để kiếm cơm, nên lần nào cũng chuẩn bị sẵn ít quà cáp cho họ, do đó rất hiếm khi có kẻ gây chuyện với ông. Thiên Địa Hội là một ngoại lệ. Mấy khẩu súng này, chính là chuẩn bị cho bọn chúng.
Mấy ngày đầu cũng rất thuận lợi.
Cho tới ngày thứ năm, khi đi đến một khe núi nhỏ, Ngô Cương phát hiện ra phía trước có vấn đề.
Trời rất trong xanh, cũng không có gió, nhưng anh phát hiện ra trong một vạt rừng nhỏ ở khe núi trước mặt có những cành cây đang lay động, lay động rất mạnh. Xem chừng, không phải là người, thì cũng là dã thú cỡ lớn.
Trong rừng rậm Miến Điện, việc gì cũng có thể xảy ra. Nửa năm trước, trên con đường này, một băng buôn bán ma túy tương đối nổi tiếng hơn chục người đã mất tích tập thể, hơn ba tháng trời vẫn bặt vô âm tín, khiến cho người nhà của các phu ngựa và đao thủ vô cùng nóng ruột, đã thuê một lực lượng đông đảo lùng sục suốt dọc con đường. Cuối cùng, họ đã tìm ra, trong một khu rừng rậm, đều đã trở thành xương khô, mười hai con người, không sót một ai, hàng hóa còn nguyên, ngựa cũng còn đó, không thiếu thứ gì, chỉ có thịt của cả người lẫn ngựa đều biến mất. Cũng không biết là do phân hủy, hay là bị thứ gì đó ăn mất.
Vụ việc này đã trở thành một nghi án không lời giải. Đoàn phu ngựa và đao thủ đó đều đã kiếm cơm trên con đường này hơn chục năm trời, cần phải nói rằng, họ có vốn kinh nghiệm sinh tồn trong rừng rậm vô cùng phong phú. Điều quái dị nhất là hơn chục con người lại chết một loạt cùng nhau, đúng là quá ư khủng khiếp. Trong mười hai người đó, còn có một vị tử thẩn Đạt Khang danh tiếng lẫy lừng. Đạt Khang là con lai, bố hắn ta là một quý tộc Nga lụn bại, sau đó đấm bốc thuê cho người Thái, sức khỏe phi thường. Đạt Khang từ nhỏ theo bố luyện võ nghệ, cộng thêm tư chất bẩm sinh cực tốt, lúc hơn mười tuổi đã tay không giết chết chó sói.
Mẹ của Đạt Khang là người dân tộc Ngõa, cha của bà là một thổ ty nhỏ, sau này bị một thổ ty lớn khác thôn tính. Mẹ Đạt Khang dẫn bố Đạt Khang đi tìm viên thổ ty đã thôn tính sản nghiệp của cha bà để báo thù. Bố của Đạt Khang chỉ dựa vào hai nắm đấm thép đã tống cổ viên thổ ty xui xẻo đó đi. Nghe nói, hơn hai mươi tay gia đinh của thổ ty chưa đầy nửa tiếng đổng hổ đã bị đánh thành tàn phế.
Từ đó, mẹ của Đạt Khang cùng chồng và con trai hưởng thụ sản nghiệp của người cha, sống cuộc sống giàu sang như một mệnh phụ phu nhân. Sau đó chồng bà ta đột ngột mất tích ở Nga, cuộc sống của gia đình Đạt Khang ngày càng sa sút. Mẹ không quản nổi con trai, Đạt Khang hai mươi tuổi đã nhập hội buôn ma túy, trở thành một đao thủ siêu cấp.
Cần phải nói thêm rằng, chỉ cần nghe nói chuyến hàng có Đạt Khang hộ tống, rất hiếm có đám thổ phỉ nào dám gây sự. Vì Đạt Khang sẽ liều mạng xới tung đến tận sào huyệt của thổ phỉ.
Thế nhưng, ngay cả một kẻ dũng mãnh phi thường như Đạt Khang cũng không thể may mắn thoát nạn, vẫn trở thành một trong mười hai con người kia.
Cho nên, khi Ngô Cương nhìn thấy thân cây nhỏ bên đường đột nhiên rung lắc mấy cái, đương nhiên cảm thấy vô cùng kinh hãi.
Anh cho đoàn ngựa dừng lại, rồi cùng Thiên Phúc từ hai bên đánh bọc sườn tới.
Vừa vạch lùm cây ra, họ đã khiếp vía tới mức giật lùi liền mấy bước.
Trong lùm cây, không phải là mãnh thú, mà là một con người. Một cô gái đang mở to đôi mắt đầy sợ hãi lên nhìn họ. Trong vùng rừng núi thâm u thế này, gặp phải con gái là việc không hề may mắn. Con gái thuộc âm, rất nhiều sự việc kỳ bí đều có liên quan tới họ. Ma núi trong truyền thuyết thường biến thành hình hài con gái, giữa ban ngày ban mặt đứng ở vệ đường bán đặc sản rừng. Những món đặc sản rừng đều là trùng độc do cô ta tạo ra, đàn ông ăn phải, sẽ bị cô ta hút kiệt tinh huyết, trong vòng nửa tháng sẽ mất mạng.
Vì thế, hai người mới hoảng hồn lùi tít về phía sau, đưa mắt nhìn nhau.
Thiên Phúc rút phi đao ra.
Lý Đức Lượng chạy tới, hỏi:
- Xảy ra chuyện gì?
Ngô Cương đáp:
- Chúng con nhìn thấy một ma nữ.
Lúc này, cô gái kia chầm chậm đứng lên, thấp thỏm nhìn cả đoàn người ngựa trước mặt với ánh mắt khiếp đảm.
Lý Đức Lượng thận trọng bước lại gần. Ngô Cương và Thiên Phúc sợ ông gặp điều bất trắc, theo sát sau lưng ông.
Cô gái có lẽ không phải là ma núi, cũng chẳng phải là thứ tà ma gì khác. Cô ta chậm rãi đi ra giữa con đường, rồi quỳ xuống trước mặt Lý Đức Lượng, nói:
- Ngài là người tốt, hãy cứu tôi với!
Ngô Cương cảm thấy giọng cô ta nghe quen quen, nhưng nhất thời không nhớ ra đã từng gặp ở đâu.
Lý Đức Lượng kinh ngạc nhìn cô gái, kêu lên:
- Chẳng phải cô là người nhà của ông Vương chủ quán trà đấy ư?
Ngô Cương lập tức sực nhớ ra, đây chính là cô gái hôm trước đã giúp anh lấy lại tiền từ tay tên trộm. Thế nhưng cô gái hôm ấy trông sạch sẽ xinh xắn, còn cô gái trước mắt anh bây giờ đầu tóc rối bù, quần áo tả tơi, khiến anh gần như không thể nhận ra.
Lý Đức Lượng rất thân thiết với ông Vương chủ quán, những lúc đi đi về về thường mang giúp ông chủ Vương không ít hàng hóa. Cô gái này ở nhà ông chủ Vương đã rất nhiều năm, phụ giúp ông trông coi công việc, nên Lý Đức Lượng nhận ra cô ta.
Cô gái cũng kinh ngạc nhìn Lý Đức Lượng, cuối cùng đã nhận ra ông, lập tức nước mặt ầng ậc tuôn trào, khóc như mưa gió. Ngô Cương trông thấy vậy thì lo thắt cả tim, chỉ sợ cô khóc nhiều quá khéo khô kiệt cả người đi mất.
Lý Đức Lượng vội kéo cô ta đứng lên, hỏi:
- Cháu gái, sao cháu lại ở đây?
Cô gái cứ nức nở mãi không nói nên lời. Lý Đức Lượng cho đoàn ngựa dừng lại nghỉ ngơi một lát, bảo Ngô Cương tìm chút nước cho cô gái uống. Cô gái uống một hơi hết quá nửa túi nước, tâm trạng mới bình tĩnh lại một chút. Lại ăn thêm chút đồ, cô gái mới kể cho họ nghe nguyên nhân mình lưu lạc tới đây.
Hơn mười ngày trước, cô cùng chú dượng (ông Vương chủ quán trà) tới vườn chè thu mua chè. Sau khi thu mua xong vài vườn chè khá lớn, họ vào sâu trong núi, tới vài vườn chè nhỏ tiếp tục thu mua, giữa đường gặp phải thổ phỉ. Cô cùng chú dượng trong lúc đột phá vòng vây đã lạc mất nhau. Cô bỏ chạy dọc theo con đường, bị mấy tên thổ phỉ bắt vào sơn trại, dâng cho tên đầu lĩnh Sa Ngõa. 
Sa Ngõa là một tên khốn nạn, ngay tối hôm đó đã định cưỡng hiếp La San (cô gái vốn người Quảng Tây, tên là La San), may mà có một tên thổ phỉ quen với chú dượng cô, thấy cô đáng thương, đã giúp cô chạy trốn ra ngoài. Sau đó, hắn đã bị đồng bọn quăng xuống vách núi.
Cô men theo con đường mà tên thổ phỉ cứu cô đã chỉ dẫn, chạy trốn tới ven con đường cái này, ẩn mình trong bụi cây, đợi chú dượng cô tới cứu. Ăn quả dại, uống nước sương chờ đợi suốt ba ngày, khó khăn lắm mới gặp được họ, liền chạy ra cầu cứu.
Lý Đức Lượng hỏi cô:
- Sa Ngõa có phải là tên đầu buộc khăn đỏ không?
La San gật đầu. Lý Đức Lượng hít ngược một hơi khí lạnh. Trong vài chục băng đảng thổ phỉ lớn nhỏ quanh đây, Sa Ngõa là bọn vô nhân tính nhất. Bọn chúng từng mổ bụng moi tim binh sĩ Miến Điện bắt được, nấu canh uống. Trên con đường này, Sa Ngõa là tên thổ phỉ mà Lý Đức Lượng chờn mặt nhất. Bởi vì bọn chúng không phải con người, việc gì âm hiểm nhất tàn độc nhất bọn chúng đều có thể làm ra.
Nghe đồn ông nội của Sa Ngõa là truyền nhân của thuật cổ độc, do bất cẩn mà bỏ trùng độc cho chính mình, vào một sáng ngày mát mẻ, tự dưng lột hết quần áo, chết vì nóng nực. Vì thế thuật cổ độc ở Miến Điện tới đời ông nội của Sa Ngõa đã thất truyền.
Sa Ngõa tuy không kế thừa được thuật cổ độc, nhưng lại di truyền được sự tàn độc của ông nội.
Lý Đức Lượng lo lắng đưa mắt nhìn con đường phía trước. Không xa trước mặt chính là địa bàn của Sa Ngõa. Muốn cứu La San, chắc chắn phải cho cô đi cùng với họ. Nếu bị Sa Ngõa phát hiện, biết làm thế nào?
Lý Đức Lượng hiểu rõ, giao chiến với Sa Ngõa, họ sẽ không có cơ thắng lợi.
La San nhận ra nỗi băn khoăn của Lý Đức Lượng, bèn nói:
- Bác ơi, cháu không muốn liên lụy tới mọi người, hay là cháu cứ ở lại đây chờ đợi tiếp vậy?
Ngô Cương nhìn ông lớn, nói:
- Sư phụ, chúng ta không thể bỏ mặc cô ấy.
Lý Đức Lượng thở dài sườn sượt, nói:
- Thấy chết không cứu thì không phải con người. Cô bé, hãy yên tâm, ta đã can dự vào rồi thì sẽ can dự cho tới cùng.
Lý Đức Lượng tìm một vài bộ quần áo vừa vặn cho La San thay ra, rồi kiếm lấy chiếc mũ cho cô đội, cải trang thành một phu ngựa. Lý Đức Lượng nghiêm túc dặn dò cô ta và mọi người một lượt, rồi đoàn người mới tiếp tục tiến lên phía trước.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Độc Chú (Hạ Long Hà)

Postby bevanng » 01 Oct 2016

4. SA NGÕA

Quả nhiên không ngoài dự liệu của Lý Đức Lượng, khi đoàn người của Lý Đức Lượng đi tới chân núi thuộc địa bàn của Sa Ngõa, Sa Ngõa đã bày sẵn trận thế, đang chờ bọn họ.
Thuộc hạ của Sa Ngõa, quả nhiên tên nào tên nấy hung hãn khác thường. Nghe nói, Sa Ngõa cứ cách một thời gian sẽ làm thịt vài tráng niên khỏe mạnh cho thuộc hạ ăn, vì thế, quân của Sa Ngõa ai nấy đều hung tợn, rất thích đánh giết. Trong đội biệt động tương tự như bộ đội đặc chủng đầu tiên của quân đội Miến Điện, rất nhiều người từng là thuộc hạ của Sa Ngõa.
Quân đội Miến Điện thời đó do vũ khí sơ sài, cứ nhìn thấy thủ hạ của Sa Ngõa là đi đường vòng né tránh.
Quan hệ giữa Lý Đức Lượng với chỗ Sa Ngõa luôn rất tốt đẹp. Có khi, do đoạn đường phía trước quá ư nguy hiểm, Lý Đức Lượng còn tới chỗ Sa Ngõa mượn mấy người dùng tạm. Sau khi trở về, ông đều biếu tặng hắn một khoản tiền đáng kể, nên Sa Ngõa cũng rất kính trọng Lý Đức Lượng.
Trận thế như hôm nay, Lý Đức Lượng mới lần đầu tiên nhìn thấy, người khác lại càng chẳng cần phải nói. Vũ khí mà thuộc hạ của Sa Ngõa dùng rất kỳ quặc, giống như gậy răng sói của Trung Quốc cổ xưa, nhưng dài và mảnh, với phần răng sói sắc nhọn. Thuộc hạ của Sa Ngõa đều trùm đầu bằng vải đỏ, như một biểu tượng của sơn trại, mấy chục người chia nhau đứng hai bên đường, bộ dạng hệt như hung thần ác sát.
Lý Đức Lượng đánh bạo lên tiếng chào hỏi Sa Ngõa:
- Xin chào đại đầu lĩnh!
Sa Ngõa nhếch mép cười, giọng như chuông vang:
- Xin chào Lý tiên sinh! Tiên sinh phát tài rồi!
Lý Đức Lượng bảo Thiên Phúc mang số thuốc lá và tiền đã chuẩn bị sẵn đưa lên, nói:
- Đại đầu lĩnh vất vả rồi, Lý tôi có chút lòng thành, xin vui lòng nhận cho.
Đây đều là quà biếu theo thông lệ, nên Sa Ngõa không tỏ ra mấy vui mừng, chỉ nói:
- Cảm tạ Lý tiên sinh. Sa Ngõa có việc muốn thỉnh giáo Lý tiên sinh, xin tiên sinh giúp đỡ.
Lý Đức Lượng nói:
- Đại đầu lĩnh chớ nên khách khí, có việc gì xin cứ sai bảo.
Sa Ngõa vẫy tay một cái, thuộc hạ liền bưng tới một vò rượu. Sa Ngõa rót một bát uống hết một nửa, sau đó đưa nửa còn lại cho Lý Đức Lượng, nói:
- Lý tiên sinh uống xong bát rượu này thì chính là anh em của sơn trại chúng ta, ta có một việc muốn nhờ Lý tiên sinh giúp đỡ.
Lý Đức Lượng liếc nhìn nửa bát rượu, trong lòng rờn rợn. Đúng là chưa từng thấy cái kiểu kết giao huynh đệ thế này bao giờ, thật là khiến người ta ghê tởm. Nhưng đi lại trên con đường này đã nhiều năm, ông ta biết đây đúng là phương thức kết giao của gia tộc Sa Ngõa, cũng có ý nghĩa tương tự như nghi thức uống máu ăn thề của người Trung Quốc.
Ông không tài nào hiểu nổi tại sao tên Sa Ngõa kia lại muốn kết giao huynh đệ với mình. Uống xong bát rượu, thuộc hạ của Sa Ngõa liền đưa cho ông một vuông vải đỏ. Nhìn dáng vẻ cung kính của tên thủ hạ, ông cảm thấy cái phương thức kết giao kiểu này không chừng lại có cấp bậc rất cao cũng nên.
Thấy Lý Đức Lượng đã buộc vuông vải đỏ lên đầu, Sa Ngõa hài lòng nhìn ông, sau đó khoát tay, thuộc hạ liền mang tới một chiếc hộp gỗ. Sa Ngõa mở hộp ra cho Lý Đức Lượng xem. Lý Đức Lượng nhìn thấy bên trong có mấy cục gì nhăn nheo đen trùi trũi. Sa Ngõa nói:
- Đại ca, xin hãy nhận lấy!
Lý Đức Lượng đón lấy, không biết đây là thứ gì, nhưng trông chừng có vẻ rất quý giá.
Sa Ngõa nói:
- Đại ca, những thứ này em đã góp nhặt suốt mấy năm nay, “của quý” của trai tơ vừa tròn mười sáu tuổi, là vật cực dương.
Lý Đức Lượng nghe vậy, suýt chút nữa thì nôn ọe. Gia tộc tên Sa Ngõa này thực là tà quái cực điểm, một thứ thế này mà lại coi là báu vật. Ghê gớm nhất là đó lại là “của quý” của trai tơ mười sáu, không biết vì những thứ đó, hắn đã giết chết bao nhiêu mạng người.
Lý Đức Lượng lòng run thon thót, nhưng ông biết, bây giờ không thể để lộ nỗi sợ hãi ra ngoài. Ồng nói:
- Đại đầu lĩnh quá khách khí rồi. Chúng ta là anh em, không cần thiết phải làm như thế, có việc gì xin cứ nói thẳng.
Sa Ngõa vòng tay nói:
- Đã là anh em, thì ta không khách khí nữa. Không giấu gì đại ca, Sa Ngõa mấy hôm trước nhờ phúc của các anh em, kiếm được một cô vợ, đáng tiếc cô ta chạy mất rồi. Cô ta bỏ chạy, chắc chắn chỉ ở ngay xung quanh con đường này, đợi các toán mã bang đi ngang qua giải cứu, nếu không, cô ta sẽ chẳng thể chạy thoát được. Ta xin đại ca nhất định hãy giúp ta để ý, nếu biết tin, nói với Sa Ngõa, Sa Ngõa còn có hậu lễ gửi tặng.
Lý Đức Lượng chỉ muốn mau chóng rời khỏi chốn thị phi này, bèn đáp:
- Xin người anh em hãy yên tâm, Lý Đức Lượng nhất định sẽ tận lực.
Sa Ngõa biết Mã bang dọc đường đi sắp xếp thời gian nghiêm cẩn, thì lập tức tránh sang một bên, nhường đường cho Mã bang.
Lý Đức Lượng ngỡ rằng hắn đã tránh đường, thì thuộc hạ của hắn cũng sẽ dạt ra, nhưng xem chừng hắn không hề có ý đó. Đoàn ngựa đành phải đi qua từng con một, để đám thổ phỉ của hắn tra xét.
Lý Đức Lượng không ngờ Sa Ngõa lại giảo hoạt đến vậy. Như thế, họ hoàn toàn không thể nào che chắn cho La San được. Trong lòng ông như có lửa đốt, song ngoài mặt vẫn phải vờ như bình thản.
Ông biết sự việc hôm nay nếu như bại lộ, kết quả sẽ là hủy diệt. Dựa vào sức của họ, gần như không thể chống chọi với bang thổ phỉ của Sa Ngõa.
Nhìn đoàn người ngựa lần lượt đi qua, tim ông càng lúc càng đập dữ dội. Những người đi đầu đã vượt qua bức tường người của bọn thổ phỉ, La San cũng đã đi đến đoạn giữa. Lý Đức Lượng đột nhiên phát hiện ra trên thắt lưng của một tên thổ phỉ có mang biểu tượng hình tam giác của hội Tam Hoàng, thì vô cùng choáng váng. Ông nhìn kỹ lại, thì thấy có ba tên thổ phỉ đểu mang biểu tượng của hội Tam Hoàng trên thắt lưng. Lại nhìn thêm lần nữa, mấy tên thổ phỉ này tuy ăn vận giống hệt những kẻ khác, nhưng sắc mặt và ánh mắt rõ ràng không giống.
Lý Đức Lượng than thầm trong dạ. Bang quy của hội Tam Hoàng là không được gia nhập bang thổ phỉ, giờ có nhiều người xuất hiện trong bang thổ phỉ thế này, chắc chắn là có mục đích khác. Nhớ tới ngày trước mình từng đại phá hội Tam Hoàng, ông đã biết sẽ gặp phải phiền phức như hôm nay.
Quả nhiên, ông nhìn thấy những tên thổ phỉ khác đều không có hành động gì, song ba tên của hội Tam Hoàng đều ngấm ngầm giương cây gậy lớn lên. Ông còn chưa kịp phản ứng, một tên trong bọn đã hô lớn:
- Đại đầu lĩnh, vợ của ngài ở đây!
Đầu Lý Đức Lượng như thể nổ tung, ông rút phắt đao ra, xông thẳng tới ba tên hội Tam Hoàng.
Song thuộc hạ của Sa Ngõa phản ứng còn nhanh hơn, lập tức ồ ạt xông tới, vây chặt lấy ông.
Lý Đức Lượng cậy vào đao pháp tuyệt diệu, một mình đánh lại cả đám thổ phỉ. Gậy của bọn chúng đòn hiểm thế mạnh, Lý Đức Lượng chốc lát đã đón đỡ khó khăn, trong lòng thầm than thở, xem chừng hôm nay cái mạng già này phải biếu không cho đám nhãi ranh kia rồi. Nhưng ông chợt thấy hai tên thổ phỉ đang giao đấu với ông bỗng nhiên ngã gục xuống đất. Sau đó, lại thấy Thiên Phúc xông tới, vai anh đã trúng một gậy, máu chảy đầm đìa.
Thiên Phúc múa tít đại đao, đẩy lùi bọn thổ phỉ, rồi kéo Lý Đức Lượng bỏ chạy. Ngoài mấy tên bị Thiên Phúc dùng phi đao giết chết, bọn thổ phỉ gần như chẳng tên nào bị thương, trong khi thuộc hạ của Lý Đức Lượng đã thương vong đến mười mấy người. Hai người chạy ra khỏi vòng vây, Ngô Cương chỉ huy mấy tay súng bắt đầu phản kích.
Lý Đức Lượng trong lòng mừng thầm, may mà còn có súng. Song bọn thổ phỉ dường như không sợ súng đạn, vẫn cứ hung hãn đâm chém. Có tên trúng đạn rồi còn hùng hục xông lên, vết thương trên người phọt máu, chúng lại càng hưng phấn, hét lên ông ổng, hăng tiết lao tới, vung gậy đập thẳng xuống những xạ thủ chưa kịp lắp đạn vào súng.
Súng trường bắn một phát rồi lại phải nhồi thuốc súng, may mà những khẩu súng này nhồi thuốc súng nhanh, nên mới miễn cưỡng duy trì được ưu thế. Sức sát thương của súng trường ghê gớm hơn súng hỏa mai, nhưng đám thuộc hạ của Sa Ngõa đúng là một lủ nửa người nửa quỷ, hai ba phát súng vẫn không giết chết nổi bọn chúng, chỉ có bắn nát óc, bọn chúng mới chịu gục ngã.
Kỹ thuật của các tay súng cũng không cừ khôi cho lắm, nên liên tục bắn trượt. May mà súng ống nhiều, họ vừa đánh vừa chạy, Sa Ngõa thấy thuộc hạ thương vong quá nhiều, bèn hạ lệnh thu quân, khi đó, đám thuộc hạ của hắn mới hậm hực rút lui.
Lý Đức Lượng hô hào mọi người đẩy nhanh tốc độ, đi một mạch hai ngày hai đêm, gần như không chợp mắt. Lý Đức Lượng đoán chừng Sa Ngõa không đuổi kịp nữa, mới cho thuộc hạ nghỉ ngơi.
Tối hôm đó, Lý Đức Lượng nhìn thấy đoàn người đã hao hụt quá nửa, gần như cả đêm không chợp mắt.
Giao hàng xong xuôi, họ bán ngựa, tìm tuyến đường khác, theo đường vòng quay trở về nhà.
Lý Đức Lượng bồi thường một khoản tiền lớn cho các anh em thiệt mạng. Chuyến làm ăn lần này không những không kiếm được tiền, mà ngược lại còn bù lỗ trầm trọng.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Độc Chú (Hạ Long Hà)

Postby bevanng » 01 Oct 2016

5. ĐINH QUỶ

Lý Đức Lượng và Ngô Cương cùng đưa La San tới quán trà của ông chủ Vương.
Ông chủ Vương là bạn lâu năm của Lý Đức Lượng, hai người tuy không thường xuyên qua lại, nhưng rất có duyên với nhau.
Do bị thổ phỉ truy sát trong rừng, ông chủ Vương và mọi người hoang mang cuống quýt, không kịp nhận đường, bỏ chạy vào trong núi sâu, lòng vòng trong núi hơn mười ngày trời mới thoát ra được. Lúc lên đường có gần hai mươi người, khi trở về chỉ còn có tám người, sau đó lác đác thêm vài người nữa tìm được về, vẫn còn bốn người mất tích.
Khi họ đưa La San tới bên giường của ông chủ Vương, ông chủ Vương vẫn đang dưỡng bệnh, ông nắm lấy tay cô cháu gái, dường như không dám tin vào mắt mình. Sức khỏe của ông Vương không tốt, Lý Đức Lượng và Ngô Cương ngồi một lát liền chào ra về.
Khi Lý Đức Lượng và Ngô Cương đi ra khỏi quán trà, Ngô Cương nhìn thấy có hai hòa thượng đang ngồi trong quán. Miến Điện là quốc gia Phật giáo, là một trong những cứ địa quan trọng của Phật giáo Thượng tọa bộ ở Đông Nam Á, sư sãi rất đông, nhưng những hòa thượng có thể bình tâm tĩnh khí ngồi thưởng trà thì lại không thấy nhiều.
Lý Đức Lượng liếc nhìn hai vị hòa thượng, đột nhiên mặt biến sắc, vội vã kéo Ngô Cương đi nhanh ra khỏi quán, rồi vừa đi vừa rẽ ngoặt hết trái lại phải khắp Mandalay, lòng vòng hồi lâu mới quay về nhà.
Về đến nhà, Lý Đức Lượng bắt đầu phát lệnh, bảo Thiên Phúc triệu tập tất cả các đao thủ, xạ thủ trong Mã bang tới, chia làm hai nhóm luân phiên canh gác tuần tra suốt hai mươi tư tiếng đồng hồ, nhà họ Lý được bao bọc chặt chẽ như một cái thùng sắt.
Ngô Cương hỏi Lý Đức Lượng:
- Sư phụ, người làm sao thế? Đang yên đang lành, cử nhiều người trực gác như thế làm gì?
Lý Đức Lượng đang mệt mỏi, sức khỏe rất kém, chỉ trả lời gọn lỏn:
- Hòa thượng là người của hội Tam Hoàng!
Ngô Cương kinh ngạc hỏi:
- Sư phụ, sao người biết?
Lý Đức Lượng đáp:
- Hội Tam Hoàng ở quán trà có cách liên lạc riêng, bọn họ dùng cách sắp xếp chén trà trên mặt bàn để tượng trưng cho thân phận của mình. Ta nhìn chén trà của bọn họ cho thấy bọn họ là người của hội Tam Hoàng, đang hiệu lệnh cho các hội viên ở nơi này lập tức tập hợp.
Ngô Cương hỏi Lý Đức Lượng:
- Sư phụ, hòa thượng mà cũng gia nhập hội Tam Hoàng ư?
Câu hỏi của anh khiến Lý Đức Lượng sững sờ. Đúng là ông đã không để ý tới chi tiết này. Quả thực là ông chưa bao giờ nghe nói có hòa thượng gia nhập hội Tam Hoàng. Lẽ nào bọn họ là hòa thượng giả, là người của hội Tam Hoàng ngụy trang?
Nghe nói hội Tam Hoàng có mấy tuyệt chiêu, thuật hóa trang là một trong những chiêu mà cao thủ của hội Tam Hoàng hay dùng nhất.
Tối hôm đó không xảy ra chuyện gì. Thế nhưng, ngày hôm sau, khi đầu bếp ra phố mua thức ăn đã xảy ra sự cố. Trước đây, hắn ta đi chợ chỉ một loáng là về ngay, không bao giờ để bữa trưa chậm trễ. Trưa hôm đó, có một người Đài Loan thu mua hàng lâm sản ở Mandalay dẫn theo mấy người tới chào hỏi Lý Đức Lượng. Lý Đức Lượng liền bảo Ngô Cương dặn đầu bếp làm mấy món ngon để khoản đãi khách khứa.
Ngô Cương xuống nhà bếp, phát hiện ra đầu bếp vẫn chưa về. Chỉ có hai người đàn bà đang vừa nói chuyện tào lao vừa rửa rau. Ngô Cương hỏi:
- Sư phụ đâu rổi?
Một người đàn bà đáp:
- Vẫn chưa về.
Ngô Cương thấy lạ, bèn quay lên nói với Lý Đức Lượng. Lý Đức Lượng cũng không mấy để tâm, chỉ nói:
- Ừ. Lát nữa hắn về, con bảo hắn sau cũng được.
Đợi một lúc lâu, đến tận khi sắp tới giờ cơm, đầu bếp vẫn chưa về. Lý Đức Lượng bảo Thiên Phúc đi tìm, còn mình dẫn khách ra quán.
Hai người đàn bà đành phải nấu bếp thay, chật vật mãi cũng nấu chín được cơm, mọi người cùng ăn.
Thiên Phúc tìm kiếm khắp chợ cũng chẳng thấy người đâu. Lại nghĩ, có lẽ hắn về nhà rồi cũng nên, bèn tìm tới nhà đầu bếp. Đầu bếp là một người độc thân, không có vợ, rất ít khi về nhà. Thiên Phúc tới nhà hắn, thấy nhà cửa vắng ngắt, chẳng thấy người đâu.
Lý Đức Lượng thấy sự tình nghiêm trọng, liền phái cả một đoàn người đi tìm, cứ mấy người một nhóm, lùng sục khắp cả thành phố, cũng chẳng thấy tăm hơi. Cho tới chập tối, có một phu kéo xe kéo theo chiếc xe nhỏ mà đầu bếp dùng để đi chợ, đưa đầu bếp về nhà.
Hóa ra đầu bếp nghe một người bán rau nói chỗ anh ta có một ít rau muốn thanh lý, liền theo anh ta về chỗ ở, mua được khá nhiều rau. Cứ ngỡ trước bữa trưa sẽ về kịp, không ngờ giữa đường do tránh một chiếc xe ngựa, ngã lăn xuống rãnh nước, trật cả cổ chân. Đợi mãi đợi mãi, mới tìm được người phu kéo xe này đưa về.
Tuy câu chuyện của đầu bếp nghe cũng hợp lý, nhưng Ngô Cương và Lý Đức Lượng vẫn cứ cảm thấy có gì gờn gợn. Nhưng nhìn thấy nguyên một xe rau, lại cộng thêm vết thương trên chân đầu bếp, họ cũng không thể không tin, bèn vội vàng đưa đầu bếp đi bó thuốc.
Buổi tối, mọi người vẫn ăn qua loa ít cơm cho xong bữa. May mà đầu bếp không sao, được thầy lang nắn bóp cho vài cái, đã có thể cà nhắc đi lại được.
Lý Đức Lượng nghiêm cấm mọi người ra ngoài, khi đầu bếp đi chợ cũng phái tâm phúc giám sát. Nhưng cho dù như vậy, chuyện quái lạ vẫn cứ liên tiếp xảy ra.
Ba con chó trong nhà đều lăn ra chết cùng một ngày. Chết rất thần bí, không kêu không sủa, cứ im lìm như không. Ngô Cương sáng dậy luyện võ mới phát hiện ra.
Quả là quái lạ, lũ chó đều do Ngô Cương cho ăn. Anh không thể nào đánh bả chúng được, vậy thì ai đã hạ độc?
Ngô Cương hỏi:
- Sư phụ, là mấy người Đài Loan kia?
Lý Đức Lượng lắc đầu. Bọn họ cũng đã quen biết Lý Đức Lượng nhiều năm, đều là những thương nhân thực thà, tự dưng đi giết mấy con chó làm gì? Vô lý!
Nhưng lũ chó tại sao lại chết? Chó nhà họ Lý đều là đã được huấn luyện cẩn thận, không bao giờ ăn thức ăn người lạ cho. Lý Đức Lượng cảm thấy sự việc bất thường, đến tối liền tăng thêm mấy chân mai phục canh gác khắp trong ngoài nhà.
Người mai phục cũng luân phiên thay ca, tới khi trời sáng thì tự động nghỉ gác.
Tiếp tục vài ngày không có sự cố gì. Thế nhưng một hôm, vào bữa sáng, Ngô Cương phát hiện ra hai người trực gác mai phục quãng nửa đêm về sáng đều không về ăn cơm.
Anh bèn bảo lại với Thiên Phúc, hai người bèn đi đến vị trí mai phục.
Vị trí thứ nhất là góc tây nam trong khu nhà. Chỗ đó có bụi nho, rất kín đáo, lại có thể quan sát rõ cổng chính và phần lớn các khu vực trong nhà.
Từ xa, Ngô Cương đã nhìn thấy người này vẫn đứng nguyên tại chỗ, không hề động đậy, trong lòng lập tức cảm thấy có chuyện chẳng lành.
Người trực gác đểu có súng, thân thủ lại cừ khôi, từng theo Lý Đức Lượng xông pha nguy hiểm, vào sinh ra tử đã quen.
Thế nhưng, người này tay vẫn giữ súng khư khư, không hề nhúc nhích, đứng chết cứng đơ. Ngô Cương không dám tin, quan sát tỉ mỉ một hồi, thấy trên người hắn không có máu, cũng không có dấu hiệu trúng độc, không có dấu vết bị thương. Thật quá ư kỳ quái.
Hai người vội vàng chạy tới vị trí mai phục còn lại, tình hình cũng y hệt như vậy. Đặt bọn họ xuống, trông cứ như đang ngủ, hoàn toàn không giống như đã chết.
Ngô Cương gọi Lý Đức Lượng tới.
Lý Đức Lượng quan sát cái thi thể không hề biến dạng, sắc mặt ông bỗng trở nên khủng khiếp. Ông sờ lên đỉnh đầu bọn họ, rổi bảo Ngô Cương và Thiên Phúc sờ thử.
Ngô Cương kinh ngạc khi sờ thấy mấy vật gì cứng cứng tròn tròn.
- Đinh! - Giọng Lý Đức Lượng khàn đặc.
Họ lại nhìn sang cái xác kia, giống hệt như vậy, trên đỉnh đầu cũng có bốn chiếc đinh.
Thế nhưng, ngay cả trên đầu họ cũng không có lấy một vệt máu.
Lý Đức Lượng ngửa mặt lên trời, thở dài sườn sượt rồi nói:
- Cuối cùng bọn họ cũng đã tới rổi.
Ngô Cương trông dáng vẻ của sư phụ cứ như sắp xảy ra đại nạn.
Anh dè dặt hỏi:
- Sư phụ, là ai mà tàn độc đến thế?
Lý Đức Lượng nói:
- Đinh Quỷ.
Nhìn bộ dạng như thể mất hổn của sư phụ, Ngô Cương hỏi tiếp:
- Đinh Quỷ là ai?
Thiên Phúc dường như đã biết sơ qua, bèn quan sát kỹ vị trí của những chiếc đinh, sắc mặt mỗi lúc càng thêm khó coi.
Lý Đức Lượng hỏi Thiên Phúc:
- Có phải Đinh Quỷ không?
Thiên Phúc gật đầu mà như run rẩy.
Đinh Quỷ là ai, chẳng ai biết, cũng chưa ai gặp được. Trên giang hồ chỉ nghe đồn đại, chứ chưa ai nhìn thấy.
Đó, có lẽ là một gia tộc, cũng có thể là một bang phái, có thể là một người, cũng có thể là vài người. Nghe nói bọn họ là những người chuyên đóng quan tài cho hoàng thất triều Minh, có thể đi lại trong âm giới.
Hoàng thất triều Minh có thể nhìn thấy tác phẩm của họ, cũng chính là quan tài. Sau khi nhà Minh diệt vong, họ đã biến mất một cách thần bí. Có người nói, họ đã bị hoàng đế Vĩnh Lịch mang tới cõi âm để đóng quan tài cho ông ta. Cũng có người nói, họ gia nhập vào đội quân của danh tướng Bạch Văn Tuyển, khi đi qua sông Miến Điện, đã chết dưới tay quân Miến.
Lời đồn mãi mãi chỉ là lời đồn, mỗi lần Đinh Quỷ xuất hiện đều sẽ cuốn theo một trận gió tanh mưa máu.
Đóng đinh vào đầu là phương pháp giết người riêng có của bọn họ. Nghe nói người bị giết theo cách này, linh hồn sẽ bị phong tỏa trong cơ thể, xuống tới cõi âm vẫn không thể quên được thân xác của mình, nếu không mau chóng thiêu hủy, khả năng biến xác (1) là cực lớn.
(1) Biến xác, chỉ người ta sau khi chết đi, xác chết lại sống dậy nhưng không còn ý thức, sát hại con người, hoặc bị người ta điều khiển.
Khi quân nhà Thanh truy sát quân của Lý Định Quốc ở Vân Nam, đã từng bị toán âm binh do Đinh Quỷ chỉ huy tấn công, thương vong vô số.
Đinh Quỷ khi làm quan tài, đều dùng tay không đóng đinh, chứ không dùng búa. Đây là quy định của Khâm Thiên giám (2) triều Minh trong việc làm quan tài cho hoàng thất.
(2) Cơ quan chịu trách nhiệm quan sát thiên văn và tính toán lịch pháp trong triều đình phong kiến.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Độc Chú (Hạ Long Hà)

Postby bevanng » 01 Oct 2016

6. ĐUỔI QUỶ

Đinh Quỷ cũng có điểm yếu. Bởi vì âm khí quá nặng, nếu ban ngày họ không bao giờ ra ngoài. Buổi tối đi đâu cũng rất thận trọng. Những loài có khả năng tương thông với âm khí như chó, mèo có thể cảm nhận được sự xuất hiện của Đinh Quỷ. Họ còn chưa tới nơi, chó đã quýnh quáng sủa lên ầm ĩ, mèo cũng sẽ trèo lên cao gừ gào.
Cho nên, sau khi nhìn thấy thi thể, Lý Đức Lượng lập tức liên tưởng tới cái chết của ba con chó trong nhà. Việc này chắc chắn là có người giở trò, nhưng không phải là Đinh Quỷ.
Có thể là ai đây?
Lý Đức Lượng suy xét một lượt về tất cả những người xung quanh, dường như người nào cũng rất khả nghi. Có thể tin tưởng được, chỉ có Ngô Cương và Thiên Phúc. Thiên Phúc võ công cao cường, kinh nghiệm phong phú, Lý Đức Lượng bảo anh chỉ huy một nhóm canh gác, tự ông chỉ huy một nhóm, Ngô Cương và một người cháu trong họ của Lý Đức Lượng trực một ca.
Lý Đức Lượng cho rằng Đinh Quỷ tuy nham hiểm, nhưng thực chất vẫn là con người, chẳng qua là hiểu chút huyền thuật, võ nghệ cao cường mà thôi. Cho nên hơn chỗ này thì lại kém chỗ kia, Đinh Quỷ cực âm, nên sẽ sợ dương. Lý Đức Lượng liền mua thêm mấy con chó, còn đặt một lò lửa to thù lù ở chính giữa sân, cứ tới nửa đêm là đốt lửa đùng đùng, sáng trưng cả nửa khu nhà.
Đúng là có hiệu quả thật, Đinh Quỷ nhiều ngày không thấy động tĩnh gì nữa. Lý Đức Lượng vốn đã mua căn nhà mới, dự định chuyển qua đó ở, thấy tình hình đã êm êm, lại không muốn chuyển đi nữa. Huống hồ với thế lực của hội Tam Hoàng, cho dù Lý Đức Lượng có chuyển tới nơi nào, bọn chúng vẫn sẽ tìm ra được.
Nhưng Đinh Quỷ suy cho cùng vẫn không phải hạng sát thủ bình thường. Lý Đức Lượng quyên một khoản tiền từ thiện cho nhà chùa, sau đó kể cho vị cao tăng đại đức trụ trì trong chùa nghe những tình tiết mà ông cho là quan trọng song không để lộ thông tin cá nhân.
Cao tăng nghe Lý Đức Lượng kể xong, nói:
- Người này ta đã từng nghe nói.
Lý Đức Lượng nghe vậy, vô cùng kinh ngạc:
- Miến Điện và Trung Quốc là hai nước khác nhau, tên Đinh Quỷ kia cũng không phải là người trong Phật môn, làm sao cao tăng lại biết hắn?
Cao tăng nói, tiên sư từng tháp tùng quốc vương Miến Điện đi sứ Đại Minh, ở lại Trung Quốc hơn một tháng. Trong một tháng đó, tiên sư đã đi thăm hỏi tất thảy các dị nhân ở kinh thành, rồi dâng tấu thư cho vua Miến Điện. Vua Miến sau đó đã bỏ ra một khoản tiền rất lớn mời họ tới Miến Điện, giúp rập nhà vua. Người nào mời mà không tới thì phái người hạ trùng độc giết chết. Đinh Quỷ đã không mời được, hơn nữa, người bỏ trùng độc còn bị hắn sát hại.
Vua Miến Điện trước khi chết, từng mơ thấy Đinh Quỷ, nói rằng nhà vua hây cho những người từng bị sát hại một lời giải thích, nếu không, họ sẽ đứng đợi nhà vua trên con đường xuống âm gian, khiến cho nhà vua không thể đến âm gian điểm danh, trở thành một cô hồn. Nếu vua Miến Điện cấp tiền tử tuất cho hậu duệ hoặc vợ con của những người bị giết, Đinh Quỷ có thể làm trái ý chỉ của hoàng đế triều Minh, làm một cỗ quan tài cho vua Miến Điện.
Vua Miến Điện khiếp sợ Đinh Quỷ, liền sai người mang rất nhiều vàng cho gia đình của những người bị giết chết. Đinh Quỷ quả nhiên giữ lời, đóng một cỗ quan tài cho vua Miến Điện.
Cỗ quan tài chẳng có chỗ nào kỳ lạ, nhưng vua Miến Điện sau khi nhìn thấy cỗ quan tài, liền cảm thấy âm dương điều hòa, sức khỏe tốt lên rất nhiều, ông ta biết Đinh Quỷ là nhân tài có một không hai, thì lại nảy lòng tham, định phái quốc sư đi bắt Đinh Quỷ về cho mình sử dụng.
Quốc sư hóa trang thành thương nhân buôn sơn, dẫn đệ tử tìm được Đinh Quỷ. Vào lúc Đinh Quỷ không đề phòng, đã bỏ trùng độc cho Đinh Quỷ, muốn khiến hắn khuất phục.
Không ngờ Đinh Quỷ không những không khuất phục, mà ngược lại còn dùng đinh bắt nhốt hổn phách của quốc sư, sau đó báo mộng cho vua Miến Điện, bảo nhà vua phải lập đạo tràng thủy lục bảy bảy bốn chín ngày trong hoàng cung cho quốc sư, nếu không, hắn sẽ cho quốc sư biến thành ác quỷ, quay về hoàng cung hoành hành. Vua Miến Điện không còn cách nào khác, đành phải lập đạo tràng thủy lục cho quốc sư. Vào ngày thứ bốn mươi chín, Đinh Quỷ độc phát mà chết.
Lý Đức Lượng nói:
- Hắn đã chết rồi, sao trên giang hồ vẫn còn Đinh Quỷ?
Cao tăng nói:
- Đinh Quỷ là kẻ ở bên ngoài tam giới. Cái chết đi chỉ là thân xác của hắn, hồn phách hắn ba trăm sáu mươi năm mới luân hồi một lần. Cũng có nghĩa là, trong vòng ba trăm sáu mươi năm, ai cũng không thể giết chết hắn. Nhưng vào thời điểm hắn sắp luân hồi, ai cũng có thể giết chết hắn. Song vấn đề là, vào thời điểm luân hổi, lại không ai biết hắn ở đâu. Lúc đó, hắn có thể là một con kiến, hoặc một con rắn.
Lý Đức Lượng nghe mà kinh hãi, bèn hỏi:
- Thế thì Đinh Quỷ sẽ không thể giết được ư?
Cao tăng nói:
- Vấn đề không phải là có giết được hay không, mà là căn bản không thể giết được hắn. Hắn rất được hoàng thất Đại Minh tin tưởng, có thể tập hợp được linh khí mấy trăm năm của Đại Minh. Muốn giết hắn, không phải là chuyện dễ dàng. Đừng nói là giết, mà loại người cực âm như hắn, chỉ cần gặp phải, đã đủ khiến người ta ốm nặng. Vì thế, họ ban ngày không thể ra khỏi nhà, không thể nhìn thấy mặt trời, chính là sự thương xót của Phật Tổ dành cho chúng sinh.
Lý Đức Lượng nghe mà trợn mắt há miệng, lại hỏi:
- Đại sư, tôi còn có một câu hỏi nữa. Tên Đinh Quỷ kia đã trúng độc chết rồi, vậy Đinh Quỷ bây giờ là hậu duệ của hắn phải không?
Cao tăng đáp:
- Những điều huyền bí bên ngoài tam giới không phải thứ mà con người có thể dò đoán được. Đinh Quỷ cứ ba trăm sáu mươi năm lại luân hồi một lần, nhưng sau ba trăm sáu mươi năm không phải là chết đi, mà là tái sinh. Chắc thí chủ đã từng nghe nói đến truyền thuyết phượng hoàng tự thiêu? Kỳ thực, tuổi thọ thân xác của họ trên nhân thế lại ngắn hơn người bình thường. Bởi vì âm khí trên cơ thể họ cực nặng, sẽ tổn hại tới ngũ tạng, nên thực ra họ chỉ có hai mươi năm dương thọ. Sau khi hết thọ qua đời, họ có thể đến địa ngục báo danh, sau đó tìm một thân xác khác để sống tiếp.
Lý Đức Lượng lại hỏi:
- Đại sư, nếu chẳng may đắc tội với Đinh Quỷ, phải làm thế nào?
Đại sư đáp:
- Con người không thể đắc tội với Đinh Quỷ được. Ta vừa nói rồi, con người chỉ cần nhìn thấy họ sẽ ốm đến thập tử nhất sinh. Thí chủ nói xem, làm gì có ai dám gây sự với họ? Nhưng họ lại có thể gây sự với con người. Có điều, nếu họ gây sự với con người cũng sẽ phải chịu trừng phạt, cho nên không phải việc hệ trọng, họ sẽ không ra mặt. Nếu đã ra mặt, thì không phải là chuyện nhỏ nữa.
Lý Đức Lượng thấy đại sư không giấu giếm điều gì, liền kể chuyện của mình cho đại sư nghe.
Đại sư nghe xong, nói:
- May mà thí chủ kịp thời hỏa thiêu hai người đó. Đinh Quỷ chính là muốn bắt giữ hổn phách của họ, rồi dùng họ để giết người.
Lý Đức Lượng hỏi:
- Tôi phải làm thế nào, xin đại sư chỉ giáo.
Cao tăng đáp:
- Hiện giờ, việc duy nhất có thể làm, không phải là đối đầu với Đinh Quỷ, mà là thuyết phục Đinh Quỷ, để cho hắn quay về.
Lý Đức Lượng hỏi:
- Nhưng phải thuyết phục hắn như thế nào? 
Cao tăng nói:
- Thế thì cần phải biết tại sao hắn tới.
Không còn cách nào khác, Lý Đức Lượng đành phải kể sự việc của hội Tam Hoàng cho cao tăng nghe.
Cao tăng ngẫm nghĩ rồi nói:
- Đinh Quỷ không quên chủ cũ, cũng coi là nhân nghĩa. Nhưng bây giờ không còn vương triều Đại Minh nữa, đã mấy trăm năm trôi qua, tà khí trên người Đinh Quỷ cũng không còn quá nặng nề, hậu duệ của hắn tuổi thọ cũng có lẽ càng ngày càng dài, nên Đinh Quỷ bây giờ không còn đáng sợ như ngày xưa nữa. Huống hồ Đinh Quỷ rất trọng nghĩa khí, chỉ cần chúng ta khiến cho hắn cảm động, để hắn tự động rút lui, mới có thể vĩnh viễn không lo hậu hoạn.
Lý Đức Lượng hỏi:
- Nhưng làm thế nào mới cảm động được hắn?
Cao tăng nghĩ ngợi một lát, rồi nói:
- Thế thì phải xem hắn nghe lời ai nhất.
Lý Đức Lượng buồn bã đáp lời:
- Hoàng đế triều Minh.
Cao tăng nói:
- Đáng tiếc triều Minh đã không còn hậu duệ. Ngoài họ ra, không còn ai có thể khiến hắn tình nguyện phục tùng nữa ư?
Lý Đức Lượng nói:
- Tôi nghe nói, sau này Đinh Quỷ tham gia đội quân của tướng quân Lý Định Quốc, rồi chết trên đường vượt sông.
Cao tăng nói:
- Việc Đinh Quỷ giúp sức cho tướng quân không phải là giả, chết trên đường vượt sông dường như cũng là có thật. Nhưng đêm hôm đó, Đinh Quỷ lại không hề chết. Sau khi rơi xuống nước, hắn đã băng qua sông, dẫn theo âm binh giết chết rất nhiều quân Miến Điện. Nếu không, chỉ dựa vào mấy ngàn người của Lý tướng quân, sao có thể đánh bại mười vạn quân Miến Điện?
Lý Đức Lượng nói:
- Tôi có thể tìm được hậu duệ của Lý tướng quân. Anh ta sống ở Kokang, chuyên thu mua hàng da cho một người Đài Loan.
Cao tăng chắp tay, nói:
- Thế là đủ rồi!
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Next

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 24 guests