24 Giờ Cô Độc Ở Cannes - Paulo Coelho (Hết)

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

24 Giờ Cô Độc Ở Cannes - Paulo Coelho (Hết)

Postby bevanng » 06 Mar 2016

Lời nói đầu

Một trong những chủ đề trở đi trở lại trong các cuốn sách của tôi là tầm quan trọng của việc trả giá cho những giấc mơ. Nhưng những giấc mơ của chúng ta có thể bị thao túng đến mức nào? Trong vài thập niên qua, chúng ta sống trong một nền văn hóa ban đặc ân cho danh vọng, tiền bạc, quyền lực - và hầu hết mọi người được dẫn dắt đến niềm tin rằng đó là những giá trị đích thực mà họ phải theo đuổi.
Điều chúng ta không biết là, đằng sau hậu trường, những kẻ thao túng thực sự vẫn ẩn danh. Họ hiểu rằng sức mạnh hiệu quả nhất là thứ không ai có thể nhận ra - cho đến khi quá muộn, và bạn bị mắc bẫy. 24 giờ cô độc ở Cannes nói về cái bẫy đó.
Trong cuốn sách, ba trong bốn nhân vật chính phải đối mặt với thử thách này:
Igor, một triệu phú người Nga, tin rằng hắn có thể giết người nếu hắn có một lý do hợp lý - chẳng hạn như tránh những nổi đau khổ của con người, hay giành lại sự quan tâm của người phụ nữ hắn yêu.
Hamid, một ông trùm thời trang, khởi đầu với những ý định tốt đẹp, cho đến khi ông mắc kẹt trong chính cái hệ thống mà ông đang cố lợi dụng.
Gabriela, như hầu hết mọi người ngày nay, tin rằng danh tiếng là một điều quan trọng, phần thường lớn nhất trong một thế giới tôn vinh sự nổi tiếng như thành tựu cao nhất trong đời.
Với những nhân vật này trong óc, tôi đã viết 24 giờ cô độc ở Cannes - không phải một cuốn truyện trinh thám, mà là một bức chân dung thô về nơi chúng ta đang sống.
Paulo Coelho


Image
Last edited by bevanng on 11 Mar 2016, edited 1 time in total.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Christiane

Re: 24 Giờ Cô Độc Ở Cannes - Paulo Coelho

Postby bevanng » 06 Mar 2016

3:17 sáng

Khẩu Beretta Px4 chỉ lớn hơn chiếc điện thoại di động một chút, nặng khoảng bảy trăm gam, và có thể bắn được mười phát. Nó nhỏ, nhẹ, vô hình khi được mang trong túi, và kích cỡ nhỏ bé của nó có một ưu điểm lớn: thay vì xuyên qua người nạn nhân, viên đạn găm trúng xương và phá tan mọi thứ trên đường nó đi.
Rõ ràng cơ may sống sót sau một cú bắn từ khẩu súng có kích cỡ như thế là khá cao, có hàng nghìn trường hợp trong đó không một động mạch quan trọng nào bị đứt và nạn nhân có thời gian để phản ứng lại và tước vũ khí của kẻ tấn công. Tuy nhiên, nếu kẻ bắn khẩu súng đó có đủ kinh nghiệm, hắn có thể chọn một cái chết nhanh gọn - nhắm vào điểm giữa hai mắt hay vào tim - hoặc một cái chết từ từ hơn - đặt nòng súng vào một góc nào đó gần xương sườn và siết cò. Người bị bắn phải mất một lúc mới nhận ra rằng mình đã bị thương rất nặng và cố gắng phản công, bỏ chạy hay kêu cứu. Ưu điểm lớn của cách này là nạn nhân có thời gian để nhìn thấy mặt của kẻ giết mình, trong khi sức lực anh ta đuối dần và anh ta ngã xuống đất, bên ngoài chỉ mất chút máu, vẫn chưa hiểu hết tại sao mình bị như thế.
Nó chẳng hề là thứ vũ khí lý tưởng cho các tay lão luyện. “Đẹp và nhẹ - trong túi xách của một quý cô. Nhưng lại không có lực hãm”, một người ở Cục Tình báo Anh đã nói với James Bond trong tập phim đầu tiên của loạt phim cùng tên, khi thu lại khẩu súng cũ của Bond và trao cho anh ta một mẫu mã mới. Tuy nhiên, lời khuyên đó chỉ áp dụng với những kẻ chuyên nghiệp, còn với những gì hắn đang có trong đầu, nó thật hoàn hảo.
Hắn đã mua khẩu Beretta ở chợ đen để không ai lần ra được dấu vết. Trong ổ đạn có năm viên, dù hắn chỉ định dùng một viên, đầu đạn đã được hắn đánh dấu chữ “X” bằng giũa móng tay. Bằng cách đó, khi được bắn ra và trúng vào thứ gì đó rắn chắc, nó sẽ vỡ thành bốn mảnh.
Hắn sẽ chỉ sử dụng khẩu Beretia như phương án cuối cùng. Còn có nhiều cách khác để tàn phá một thế giới, hủy diệt một vũ trụ, và có lẽ nàng sẽ hiểu được thông điệp ngay khi nạn nhân đầu tiên được tìm thấy. Nàng sẽ biết rằng hắn làm thế nhân danh tình yêu, hắn không thấy oán giận mà chỉ muốn mang nàng quay trở lại và sẽ không hỏi han gì về cuộc sống của nàng trong suốt hai năm qua.
Hắn hy vọng sáu năm chuẩn bị kỹ lưỡng sẽ có được kết quả, nhưng hắn sẽ chỉ biết chắc vào sáng mai. Kế hoạch của hắn là để các Nữ thần Báo Oán, những nhân vật cổ xưa trong thần thoại Hy Lạp, hạ những đôi cánh đen xuống khung cảnh biển xanh cát trắng đầy rẫy kim cương, Botox và những chiếc xe hơi tốc độ cao chẳng có ích cho ai vì chúng chỉ chở được hai người. Với những món tạo tác nhỏ bé hắn mang theo bên mình, tất cả những giấc mơ về quyền lực, thành công, danh vọng và tiền bạc kia có thể bị xẹp đi ngay lập tức.
Đáng lẽ hắn có thể lên phòng vì cảnh tượng hắn chờ chứng kiến đã xảy ra vào lúc 11 giờ 11 phút đêm, dù hắn sẵn sàng đợi lâu hơn. Người đàn ông và người nữ đồng hành xinh đẹp - cả hai đều mặc đồ dạ hội - đến tham dự thêm một trong những gala diễn ra mỗi đêm sau mỗi bữa tối quan trọng, vốn thu hút nhiều người hơn bất cứ buổi chiếu ra mắt nào tại Liên hoan phim.
Igor lờ đi người phụ nữ. Hắn giấu mặt sau một tờ báo Pháp (một tờ báo Nga sẽ dấy lên nghi ngờ) để nàng không thấy hắn. Một sự thận trọng không cần thiết: giống như tất cả những người phụ nữ tự coi mình là nữ hoàng của thế giới, nàng không bao giờ nhìn vào ai. Những người phụ nữ như nàng có mặt ở đó để tỏa sáng và luôn tránh nhìn vào những gì người khác đang mặc bởi vì, ngay cả khi váy áo và phụ kiện của họ tốn cả một gia tài, số lượng kim cương hay một bộ đồ độc đáo đặc biệt người khác mặc cũng có thể khiến họ cảm thấy buồn phiền, cáu kỉnh hay thua kém.
Người bạn đồng hành tóc bạc thanh lịch của nàng đi tới quầy bar và gọi sâm banh, thức uống khai vị cần thiết cho một đêm hứa hẹn những cuộc giao thiệp mới, những bản nhạc hay và khung cảnh mỹ lệ của bãi biển với những chiếc du thuyền neo trong cảng.
Hắn nhận thấy người đàn ông đó cực kỳ lịch sự, ông ta cảm ơn cô phục vụ khi cô ta mang đồ uống đến cho họ và cho cô ta một khoản tiền boa hậu hỉ.
Ba người họ biết nhau. Igor thấy trào dâng một cảm giác vui vẻ khi chất adrenaline bắt đầu hòa lẫn với máu của hắn. Ngày hôm sau hắn sẽ làm cho nàng biết được hắn có mặt ở đó và một lúc nào đây họ sẽ gặp nhau.
Chỉ có Chúa mới biết cuộc gặp gỡ sẽ ra sao. Igor, một tín đồ Thiên Chúa giáo chính thống, đã hứa và tuyên thệ trong một nhà thờ ở Moscow trước những thánh tích của thánh nữ Mary Magdalene (chúng có mặt ở thủ đô nước Nga trong một tuần để những tín đồ sùng đạo được thờ phụng chúng). Hắn đã xếp hàng gần năm tiếng đồng hồ và, khi cuối cùng cũng thấy được chúng, hắn chắc chắn rằng toàn bộ mọi chuyện là do các linh mục bịa đặt ra. Tuy nhiên hắn không muốn đánh liều phá vỡ lời thề, vì vậy hắn cầu xin sự che chở và giúp đỡ của thánh nữ để đạt được mục đích mà không phải hy sinh quá nhiều. Hắn cũng hứa rằng khi mọi chuyện kết thúc và hắn cuối cùng có thể quay trở về quê hương, hắn sẽ đặt mua một bức tượng thánh bằng vàng từ một nghệ sĩ nổi tiếng sống trong tu viện ở Novosibirsk.

Vào lúc 3 giờ sáng, quán bar của khách sạn Martinez ngập ngụa mùi khói thuốc và mồ hôi. Lúc đó, Jimmy (người luôn đi giày không cùng màu) đã ngừng chơi piano và cô hầu bàn đã mệt lả, nhưng những người ở đó vẫn chưa chịu ra về. Họ muốn ở lại trong cái sảnh đó ít nhất là một tiếng nữa hay thậm chí là cả đêm cho đến khi điều gì đó xảy ra!
Họ đã ở Liên hoan phim Cannes được bốn ngày mà vẫn chưa có gì xảy ra cả. Mỗi người khách ở mỗi bàn đều chỉ quan tâm tới một điều duy nhất: gặp gỡ người có quyền lực. Những phụ nữ xinh đẹp đang chờ đợi một nhà sản xuất phải lòng họ và cho họ một vai chính trong bộ phim sắp tới. Vài anh chàng diễn viên đang nói chuyện với nhau, cười cợt và vờ như toàn bộ chuyện đó hoàn toàn chẳng khiến họ bận tâm - nhưng họ luôn để mắt đến cánh cửa.
Ai đó sắp đến. Ai đó phải đến. Các đạo diễn trẻ, đầy ý tưởng với những bản CV liệt kê các băng video họ thực hiện ở trường đại học, và từng đọc mọi thứ viết về nhiếp ảnh và kịch bản phim, đang mong đợi một vận may, có lẽ gặp gỡ một người vừa trở về từ một bữa tiệc, đang tìm kiếm một cái bàn trống, nơi ông ta sẽ gọi cà phê và châm thuốc, một người mệt mỏi với việc lúc nào cũng đến những nơi quen thuộc và cảm thấy sẵn sàng cho một cuộc phiêu lưu mới.
Ngây thơ thật!
Nếu chuyện đó thực sự xảy ra, điều mà một người như thế không muốn nghe nhất là vài “quan điểm thực sự mới mẻ” về một chủ đề nhàm chán, nhưng sự tuyệt vọng có thể lừa dối những kẻ cùng quẫn. Những người có quyền lực thi thoảng bước vào và chỉ nhìn quanh, rồi lên thẳng phòng họ.
Họ không lo lắng. Họ chẳng có gì để sợ. Người Đẳng cấp không tha thứ cho sự phản bội và họ biết những giới hạn của họ - dù người ta đồn đại thế nào, họ không đạt được vị trí như ngày hôm nay bằng cách giẫm đạp lên những người khác. Mặt khác, nếu có khám phá quan trọng mới nào đó được thực hiện - dù trong giới điện ảnh, âm nhạc, hay thời trang - nó sẽ chỉ nảy ra sau nhiều nghiên cứu và không phải trong vài quán bar khách sạn.
Người Đẳng cấp hiện đang làm tình với cô gái đã cố lẻn vào bữa tiệc, kẻ dám làm bất cứ điều gì. Họ đang tẩy trang, xem xét những nếp nhăn trên mặt và nghĩ rằng đã đến lúc cần phẫu thuật thẩm mỹ thêm. Họ đang xem tin tức trên mạng để xem các phương tiện truyền thông đại chúng đã chộp lấy lời tuyên bố của họ lúc nãy chưa. Họ đang uống thứ thuốc ngủ quen thuộc và loại trà hứa hẹn giảm cân dễ dàng. Họ đang đánh dấu những ô trống trên thực đơn cho bữa sáng phục vụ tận phòng và treo nó trên tay nắm cửa cùng tấm biển “Đừng làm phiền”. Người Đẳng cấp đang nhắm mắt lại và nghĩ: “Mong rằng mình sẽ ngủ được ngay. Mười giờ sáng mai mình còn có cuộc họp”.

Tuy nhiên, mọi người đều biết rằng quán bar trong khách sạn Martinez là nơi những người Quyền lực thường lui tới, thế có nghĩa là sẽ luôn có cơ hội được gặp họ.
Thậm chí những con người triển vọng đó còn không nghĩ rằng người Quyền lực chỉ nói chuyện với người Quyền lực, rằng thi thoảng họ cần tụ họp để ăn trưa và ăn tối, cho những liên hoan phim lớn mượn ánh hào quang, nuôi dưỡng ảo mộng rằng thế giới sang trọng và quyến rũ này sẵn sàng đón nhận tất cả những ai có can đảm theo đuổi một ý tưởng, tránh bất cứ cuộc chiến tranh bất lợi nào và đẩy mạnh hiềm khích giữa các nước hay các công ty, nơi họ cảm thấy chuyện này có thể mang lại cho họ nhiều quyền lực và tiền bạc hơn, giả vờ rằng họ hạnh phúc, dù giờ đây họ đang phụ thuộc vào thành công của chính mình, tiếp tục nỗ lực gia tăng của cải và ảnh hưởng của họ, ngay cả khi chúng đều đã rất lớn, bởi thói phù phiếm của giới Đẳng cấp bao gồm cả việc cạnh tranh với chính nó để xem ai là người đỉnh nhất.
Trong một thế giới lý tưởng, người Quyền lực sẽ nói chuyện với các diễn viên, đạo diễn, nhà thiết kế và nhà văn hiện đang đờ đẫn vì mệt mỏi và đang nghĩ đến chuyện quay về những căn phòng trọ ở những thị trấn xa xôi, để ngày mai có thể bắt đầu lại cuộc đua marathon với việc đưa ra những thỉnh cầu, ấn định những cuộc hẹn có thể, và tỏ ra luôn sẵn sàng và rảnh rỗi.
Trong thế giới thực, người Quyền lực lúc này đang khóa mình trong phòng, kiểm tra thư điện tử, phàn nàn rằng những bữa tiệc ở Liên hoan phim muôn đời vẫn vậy, rằng bạn họ đeo viên đá quý to hơn họ, và băn khoăn không hiểu vì sao chiếc du thuyền một đối thủ vừa mua lại được trang hoàng độc đáo như thế?
Igor không có ai để cùng trò chuyện, hắn cũng không muốn nói chuyện. Kẻ chiến thắng thường cô độc.
Igor là ông chủ thành đạt và chủ tịch của một công ty điện thoại ở Nga. Một năm trước, hắn đã đặt căn phòng hạng sang tốt nhất ở Martinez (mọi người phải thanh toán trước ít nhất là mười hai đêm, bất kể họ sẽ ở đó bao lâu), hắn đến chiều nay bằng máy bay riêng, được chở đến khách sạn, nơi hắn tắm rửa rồi xuống gác với hy vọng được chứng kiến một cảnh tượng đặc biệt.
Ban đầu, hắn bị các nam nữ diễn viên và đạo diễn làm phiền cho đến khi hắn nghĩ ra câu trả lời thích hợp cho tất cả bọn họ:
“Xin đừng nói tiếng Anh. Tôi là người Ba Lan.”
Hay:
“Xin đừng nói tiếng Pháp. Tôi là người Mexico.”
Khi ai đó đánh bạo đưa ra vài lời tiếng Tây Ban Nha, Igor thử một mánh khóe khác. Hắn bắt đầu viết các con số trong một cuốn sổ tay để trông không giống một phóng viên (vì tất cả mọi người đều muốn gặp phóng viên) hay một nhân vật có thế lực trong ngành điện ảnh. Bên cạnh hắn có đặt một cuốn tạp chí kinh tế Nga (phần lớn mọi người không thể phân biệt được tiếng Nga với tiếng Ba Lan hay Tây Ban Nha) với bức ảnh của vài cán bộ cấp cao nhàm chán trên bìa.
Những cư dân ở quán bar, những con người tự hào vì hiểu biết sắc sảo của họ về nhân loại, để Igor yên, nghĩ rằng chắc hẳn hắn là một tay triệu phú đến Cannes để kiếm một cô bạn gái mới. Ít nhất thì đó là lời đồn lan truyền lúc người thứ năm vừa ngồi xuống bàn và gọi nước khoáng, tuyên bố rằng không còn chỗ trống nào nữa. Igor bị đẩy đúng lúc xuống hạng “nước hoa”.
“Nước hoa” là một từ lóng được các nữ diễn viên (hay “tiểu minh tinh”, như cách họ được gọi ở Liên hoan phim) sử dụng bởi vì, như với nước hoa, việc đổi nhãn thật dễ dàng, nhưng một trong số chúng hóa ra có thể là một phát hiện đáng giá. Các “nước hoa” được tìm kiếm trong suốt hai ngày cuối cùng của Liên hoan phim, nếu các nữ diễn viên nói trên chưa xoay xở vớ được bất cứ cái gì hay bất cứ ai quan trọng trong ngành công nghiệp điện ảnh. Vậy thì tạm thời người đàn ông xa lạ, rõ ràng giàu có này có thể đợi. Các nữ diễn viên biết rằng tốt nhất là rời Liên hoan phim với một người bạn trai mới (sau đó họ có thể biến anh ta thành một nhà sản xuất phim) hơn là tiếp tục tới sự kiện tiếp theo và trải qua thứ nghi thức cũ rích tương tự - uống rượu, mỉm cười (phải luôn tươi cười), và vờ như mình không nhìn ai, trong khi trái tim đập dữ dội, thời giờ vùn vụt trôi, và vẫn còn những đêm gala mình chưa được mời tới, nhưng các “nước hoa” thì đã được mời.
Họ biết các “nước hoa” sẽ nói gì vì họ luôn nói giống nhau, nhưng dù sao thì họ cũng giả vờ tin chúng.
(a) “Tôi có thể thay đổi cuộc đời em.”
(b) “Nhiều phụ nữ mong muốn có được địa vị như em.”
(c) “Bây giờ em còn trẻ, nhưng vài năm nữa em sẽ ra sao? Em cần nghĩ đến một sự đầu tư lâu dài hơn.”
(d) “Anh đã kết hôn, nhưng vợ anh…” (Câu nói bỏ ngỏ này có rất nhiều cái kết khác nhau: “… bị bệnh”, “… đã dọa tự tử nếu anh bỏ cô ta”, v.v…)
(e) “Em là một nàng công chúa và xứng đáng được đối xử như vậy. Cho đến giờ anh mới biết điều đó, nhưng anh vẫn đang đợi chờ em. Anh không tin vào sự trùng hợp ngẫu nhiên và anh thực sự nghĩ rằng chúng ta nên cho mối quan hệ này một cơ hội.”
Luôn là những bài diễn văn cũ rích như vậy. Thứ biến đổi duy nhất là số lượng món quà mà bạn nhận được (tốt nhất là đồ nữ trang, có thể bán được), số lượng lời mời đến các bữa tiệc trên du thuyền, số lượng danh thiếp bạn thu thập được, số lần bạn phải nghe những lời tán tỉnh giống nhau, và liệu bạn có thể xoay xở được một tấm vé đến Giải đua Formula 1, nơi bạn hòa mình với những người cùng tầng lớp và “cơ hội lớn” của bạn có thể ở đó chờ bạn hay không.
“Nước hoa” còn là từ được các nam diễn viên trẻ sử dụng để ám chỉ những nữ triệu phú lớn tuổi, trên người toàn chất dẻo và Botox, nhưng ít nhất cũng thông minh hơn các bản sao nam. Họ không bao giờ lãng phí chút thời gian nào: họ cũng đến vào những ngày cuối cùng của Liên hoan phim, biết rằng tiền bạc mang lại cho họ sức hấp dẫn duy nhất.
Các “nước hoa” nam tự lừa dối mình: họ nghĩ rằng nhũng nàng chân dài tươi trẻ thật sự mê mẩn họ và giờ có thể bị thao túng tùy ý. Những “nước hoa” nữ lại đặt trọn niềm tin vào sức mạnh từ nhũng viên kim cương của họ.

Igor chẳng biết gì về tất cả những chuyện này. Đây là lần đầu hắn đến Liên hoan phim. Và hắn vô cùng ngạc nhiên khi nhận ra rằng không ai ở đây có vẻ hứng thú với phim ảnh, trừ những người ở quán bar đó. Hắn giở qua vài tờ tạp chí, mở chiếc phong bì mà bạn bè hắn đã đặt trong đó các thiếp mời đến những bữa tiệc có thanh thế nhất, nhưng không có tầm vé mời đến một buổi chiếu thử phim nào. Trước khi đến Pháp, hắn đã cố tìm hiểu xem phim nào có cơ chiến thắng, nhưng gặp nhiều khó khăn trong việc thu thập thông tin này. Rồi một người bạn nói:
“Hãy quên phim phiết đi. Cannes chỉ là một cuộc trình diễn thời trang thôi.”

Thời trang. Người ta đang nghĩ gì vậy? Họ nghĩ rằng thời trang là thứ gì đó thay đổi theo mùa trong năm sao? Họ thực sự đến từ khắp nơi trên thế giới để khoe váy áo, trang sức và bộ sưu tập giày của họ? Họ không hiểu. “Thời trang” chỉ là một cách nói: “Tôi thuộc về thế giới của anh. Tôi đang mặc quân phục giống anh, vì thế đừng bắn”.
Từ khi các nhóm đàn ông, đàn bà bắt đầu sống chung trong hang động, thời trang đã trở thành thứ ngôn ngữ duy nhất mọi người có thể hiểu được, dù là những người hoàn toàn xa lạ. “Chúng ta ăn mặc giống nhau. Tôi cùng bộ lạc với anh. Hãy tập hợp những kẻ yếu đuối để tồn tại.”
Nhưng một số người lại tin rằng “thời trang” là tất cả. Cứ cách sáu tháng, họ lại chi cả một gia tài vào việc thay đổi vài chi tiết nhỏ để duy trì tư cách thành viên trong lớp người giàu có tột cùng đặc biệt. Nếu họ đến thăm thung lũng Silicon, nơi các nhà tỷ phú ngành công nghệ thông tin đeo những chiếc đồng hồ bằng nhựa và mặc những chiếc quần jean sờn rách, họ sẽ hiểu rằng thế giới đã thay đổi, mọi người giờ đây dường như đều thuộc về cùng một tầng lớp xã hội, không còn ai quan tâm đến kích cỡ của một viên kim cương hay kiểu dáng của một chiếc cà vạt hay một cái cặp tài liệu bằng da. Trên thực tế, cà vạt và cặp tài liệu bằng da thậm chí còn không tồn tại ở vùng đó của thế giới, gần đây, tuy nhiên, là Hollywood, một cỗ máy tương đối quyền lực hơn - dù đang suy tàn - vẫn xoay xở thuyết phục được bao kẻ ngây thơ tin vào những bộ váy thời trang cao cấp, những chiếc dây chuyền ngọc lục bảo và những chiếc xe limo dài. Và vì đây là thứ vẫn xuất hiện trong tất cả các tạp chí, ai dám phá hủy một nền công nghiệp hàng tỷ đô la liên quan đến việc quảng cáo, bán những vật vô dụng, phát minh những xu hướng mới hoàn toàn không cần thiết và sáng tạo ra các loại kem dưỡng da mặt giống hệt nhau nhưng mang nhãn hiệu khác nhau?
Kỳ cục làm sao! Igor không che giấu nổi nỗi ghê tởm đối với những kẻ có quyết định ảnh hưởng đến cuộc sống của hàng triệu đàn ông, đàn bà chăm chỉ, trung thực, sống một cuộc sống đáng quý và sung sướng vì có sức khỏe, mái ấm và tình cảm gia đình.
Vô lý thật! Ngay khi mọi thứ có vẻ ổn định và khi các gia đình tụ tập quanh bàn để ăn tôi, bóng ma của Đẳng cấp xuất hiện, thuyết phục mọi người tin vào những giấc mơ hão huyền: xa xỉ, nhan sắc, quyền lực. Và gia đình tan nát.
Người cha làm thêm giờ để có thể mua cho con trai đôi giày đế mềm mới nhất vì nếu con trai ông không có một đôi như thế, nó sẽ bị tẩy chay ở trường. Người vợ khóc thầm vì bạn bè có những bộ váy mang nhãn hiệu của các nhà thiết kế nổi tiếng còn bà thì không có tiền. Những đứa con đang tuổi trưởng thành của họ, thay vì học những giá trị đích thực của niềm tin và hy vọng, lại chỉ mơ mộng được trở thành ca sĩ hay ngôi sao điện ảnh. Các cô gái tỉnh lẻ tự huyễn hoặc bản thân và bắt đầu nghĩ đến việc tới thành phố lớn, sẵn sàng làm bất cứ điều gì, thực sự là bất cứ điều gì, để có được một món trang sức đặc biệt. Một thế giới nên hướng tới công bằng lại bắt đầu tập trung vào những thứ vật chất sẽ trở nên vô giá trị và cần được thay thế trong vòng sáu tháng, và đó là cách toàn bộ gánh xiếc này đảm bảo cho những kẻ đáng khinh tụ tập ở Cannes yên vị trên đỉnh cao nhất.
Igor không bị sức mạnh hủy diệt này động đến, vì hắn có một trong những công việc đáng thèm muốn nhất trên thế giới. Số tiền hắn kiếm được mỗi ngày tiếp tục nhiều hơn số tiền hắn có thể chi tiêu trong một năm, ngay cả khi hắn có tự chiều chuộng mình tất cả những thú vui tồn tại trên đời, hợp pháp và bất hợp pháp. Hắn chẳng gặp khó khăn gì trong việc tìm kiếm đàn bà, bất kể họ biết hắn có nhiều tiền hay không - hắn đã thử điều đó hơn một lần và chưa bao giờ thất bại. Hắn vừa bước sang tuổi tứ tuần, thể hình chuẩn và, theo kết quả kiểm tra tổng thể hằng năm, không có vấn đề gì về sức khỏe. Hắn cũng không nợ nần gì. Hắn không cần mặc một nhãn hiệu thiết kế đặc biệt, đến một nhà hàng đặc biệt, dành kỳ nghỉ ở một bãi biển nơi “mọi người” thường đến, hay mua một chiếc đồng hồ chỉ bởi vì vài vận động viên thể thao thành công đang quảng bá cho nó. Hắn có thể ký những hợp đồng quan trọng bằng một cái bút bi rẻ tiền, mặc những chiếc áo khoác thanh lịch, thoải mái do một thợ may ô hiệu may nhỏ cạnh văn phòng làm việc của hắn may và không mang nhãn hiệu nào cả. Hắn có thể làm những gì hắn thích và không cần phải chứng minh cho bất kỳ ai rằng hắn giàu, hắn có một công việc thú vị và hắn yêu thích những gì hắn làm.

Có lẽ đó là vấn đề: hắn vẫn yêu thích những gì hắn làm. Hắn chắc chắn đó là lý do vì sao người phụ nữ bước vào quán bar vài giờ trước không ngồi cùng bàn với hắn lúc này.
Hắn cố nghĩ lan man để giết thời gian. Hắn đề nghị Kristelle lấy cho hắn thêm đồ uống - hắn biết tên cô phục vụ vì một tiếng trước, khi quán bar vắng hơn (lúc mọi người đang ăn tối), hắn đã gọi một ly whisky, và cô nói rằng trông hắn thật buồn và hắn nên ăn thứ gì đó để lấy lại tinh thần. Hắn đã cảm ơn cô vì sự quan tâm, và thấy vui khi có người để ý đến tâm trạng của hắn.
Có lẽ hắn là người duy nhất biết tên cô phục vụ, những người khác chỉ muốn biết tên - và, nếu có thể, cả chức danh nghề nghiệp - của những người đang ngồi ở bàn và trong những chiếc ghế bành.
Hắn cố nghĩ lan man, nhưng đã quá 3 giờ sáng, và người phụ nữ xinh đẹp cùng bạn đồng hành lịch sự của nàng - tiện thể, trông giống hắn một cách lạ thường - vẫn chưa xuất hiện trở lại. Có lẽ họ đã lên thẳng phòng, nơi họ đang làm tình, hay có lẽ họ vẫn đang uống sâm banh trên một trong những chiếc du thuyền, chỗ các bữa tiệc chỉ bắt đầu khi những bữa tiệc khác đang đến hồi kết thúc. Có lẽ họ đang nằm trên giường, đọc tạp chí, chẳng đoái hoài đến nhau.
Chẳng hề gì. Igor đang cô đơn, mệt mỏi và cần đi ngủ.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: 24 Giờ Cô Độc Ở Cannes - Paulo Coelho

Postby bevanng » 06 Mar 2016

7:22 Sáng

Hắn thức dậy lúc 7 giờ 22 phút sáng, sớm hơn cơ thể hắn mong muốn, nhưng hắn vẫn chưa thích nghi với sự chênh lệch giờ giấc giữa Moscow và Paris. Nếu đi làm, giờ này hắn đã tổ chức được hai hay ba cuộc họp với cấp dưới và đang chuẩn bị ăn trưa với khách hàng mới nào đó.
Hắn có một nhiệm vụ khác cần hoàn thành ở đây: hắn phải tìm ai đó để hy sinh nhân danh tình yêu. Hắn cần một nạn nhân, để Ewa nhận được thông điệp của hắn ngay sáng hôm đó.
Hắn đi tắm, xuống gác uống cà phê trong một nhà hàng gần như vắng tanh, rồi khởi hành dọc theo đại lộ Croisette, nơi tọa lạc của hầu hết các khách sạn sang trọng nhất. Không có phương tiện giao thông nào vì một làn đường đã bị chặn và chỉ những chiếc ô tô được cấp phép chính thức mới được đi qua. Làn đường còn lại vắng tanh vì ngay cả những người sống trong thành phố cũng mới đang chuẩn bị đi làm.
Hắn không thấy oán giận. Hắn đã vượt qua một giai đoạn thực sự khó khăn, khi hắn không thể ngủ được vì trong lòng ngập tràn đau đớn và căm thù. Giờ đây hắn đã hiểu được những cảm giác của Ewa: xét cho cùng, hôn nhân một vợ một chồng là chuyện hoang đường mà người ta buộc phải thừa nhận quá lâu rồi. Hắn đã đọc rất nhiều về chủ đề này. Thiếu khả năng chung thủy không chỉ là vấn đề dư thừa hormone hay thói tự phụ, mà là, như tất cả các nghiên cứu đã chỉ ra, một cấu trúc gen được tìm thấy trong hầu hết tất cả các động vật.
Các xét nghiệm quan hệ cha con được thực hiện trên chim, khỉ, và cáo tiết lộ rằng chỉ vì những loài này phát triển một mối quan hệ xã hội rất giống với hôn nhân không có nghĩa là chúng chung thủy với nhau. Trong bảy mươi phần trăm trường hợp, con của chúng hóa ra lại không phải là con với bạn đời của chúng. Igor nhớ lại điều được David Barash, Giáo sư tâm lý của trường Đại học Washington ở Seattle, viết, trong đó ông nói rằng loài duy nhất trong tự nhiên không mắc phải tội ngoại tình và có vẻ một trăm phần trăm chung thủy là loài sán, Diplozoon paradoxum. Những con sán đực và cái gặp nhau khi đến tuổi trưởng thành, và cơ thể chúng thực sự dính lại với nhau.
Đây là lý do vì sao hắn không thể buộc tội Ewa vì bất cứ điều gì, nàng chỉ tuân theo những bản năng con người của nàng. Tuy nhiên, nàng đã được dạy dỗ để tin vào những tục lệ xã hội giả tạo và hẳn là cảm thấy tội lỗi, nghĩ rằng hắn không còn yêu nàng nữa và sẽ không bao giờ tha thứ cho nàng.
Trên thực tế hắn sẵn sàng làm bất cứ điều gì, thậm chí là gửi các thông điệp tỏ ý hắn đã hủy diệt thế giới của ai đó, để nàng biết hắn không chỉ sẵn sàng hoan nghênh nàng quay trở lại, mà còn vui lòng chôn vùi quá khứ và không hỏi han gì cả.

Hắn thấy một cô gái đang bày hàng trên vỉa hè - những món đồ thủ công và trang sức khác nhau trông khá tầm thường.
Phải, cô ta sẽ là vật hy sinh. Cô ta là thông điệp hắn phải gửi đi, một thông điệp sẽ được hiểu ngay khi nó đến được đích. Trước khi đi về phía cô gái, hắn thận trọng quan sát cô, trong một thoáng, cô không hề biết gì, nếu mọi chuyện suôn sẻ, linh hồn cô sẽ được lang thang trên những đám mây, mãi mãi thoát khỏi một công việc ngu ngốc không bao giờ đưa cô đến được nơi những giấc mơ của cô muốn đến.
“Bao nhiêu?” Hắn hỏi bằng thứ tiếng Pháp hoàn hảo.
“Ngài muốn món gì ạ?”
“Tất cả.”
Cô gái trẻ - cùng lắm là hai mươi tuổi - mỉm cười.
“Đây không phải lần đầu có người hỏi mua tất cả. Bước tiếp theo thường là: “Cô có muốn đi dạo không? Cô xinh đẹp đến thế thì tội gì phải ở đây bán những món đồ này. Tôi là…”.”
“Không, tôi không thế đâu. Tôi không làm trong ngành điện ảnh, tôi cũng sẽ không biến cô thành một diễn viên và thay đổi cuộc đời cô. Tôi cũng không quan tâm đến những món đồ cô bày bán. Tôi chỉ cần nói chuyện, và chúng ta có thể làm thế ngay tại đây.”
Cô gái đưa mắt nhìn đi chỗ khác.
“Bố mẹ tôi làm ra những thứ này, và tôi tự hào với việc mình đang làm. Một ngày nào đó, sẽ có người đến và nhận ra giá trị của chúng. Xin ông đi cho. Tôi chắc rằng ông có thể tìm thấy ai khác lắng nghe những gì ông cần nói.”
Igor lôi ra một nắm tiền giấy từ trong túi và nhẹ nhàng đặt xuống bên cạnh cô.
“Hãy thứ lỗi cho sự lỗ mãng của tôi. Tôi chỉ nói tôi không quan tâm tới việc mua bất cứ thứ gì để xem liệu cô có hạ giá không thôi. Tiện đây xin giới thiệu tên tôi là Igor Malev. Tôi bay từ Moscow đến đây hôm qua, và tôi vẫn còn hơi say máy bay.”
“Tôi là Olivia”, cô gái trẻ nói, vờ như tin vào lời nói dối của hắn.
Không cần xin phép, hắn ngồi xuống chiếc ghế băng bên cạnh cô gái. Cô dịch ra vài phân.
“Ông muốn nói chuyện gì?”
“Trước hết, hãy cầm lấy tiền đã.”
Olivia do dự, rồi nhìn quanh, nhận ra rằng cô không có lý do gì để sợ cả. Hiện giờ xe cộ đang chạy trên làn đường duy nhất được phép qua lại, đám thanh niên đang đi ra biển, và một cặp lớn tuổi đang tiến về phía họ trên vỉa hè. Cô nhét tiền vào túi, thậm chí không thèm đếm, cô có đủ vốn sống để biết chỗ đó là quá đủ.
“Cảm ơn vì đã chấp nhận lời đề nghị của tôi”, người Nga nói. “Cô hỏi tôi muốn nói chuyện gì à? Chà, cũng không có gì quan trọng lắm.”
“Chắc ông có mặt ở đây vì một lý do nào đó. Ồng cần một lý do để đến thăm Cannes vào thời điểm này trong năm khi thành phố quả thực khó chịu đối với cả dân địa phương lẫn du khách.”
Igor đang nhìn ra biển. Hắn châm một điếu thuốc.
“Hút thuốc không tốt cho sức khỏe của ông đâu”, cô nói.
Hắn lờ đi nhận xét này.
“Với cô, ý nghĩa của cuộc đời là gì?” Hắn hỏi.
“Tình yêu.”
Olivia mỉm cười. Đây quả là một cách tuyệt vời để bắt đầu một ngày, nói chuyện về những thứ sâu sắc hơn giá cả của mỗi món đồ thủ công hay quần áo người ta đang mặc.
“Còn với ông?”
“Phải, cũng là tình yêu. Nhưng với tôi, việc kiếm đủ tiền để cho bố mẹ tôi thấy tôi có thể thành công cũng rất quan trọng. Tôi đã làm được, và bây giờ họ tự hào về tôi. Tôi đã gặp một phụ nữ hoàn hảo, chúng tôi kết hôn, và tôi muốn có con, để tôn sùng và kính sợ Chúa. Nhưng những đứa con, Chúa ơi, chưa bao giờ xuất hiện.”
Olivia không muốn hỏi tại sao. Người đàn ông, khoảng bốn mươi tuổi, tiếp tục nói bằng thứ tiếng Pháp hoàn hảo:
“Chúng tôi đã nghĩ đến chuyện xin con nuôi. Thực ra thì, chúng tôi đã mất hai đến ba năm để nghĩ về điều đó, nhưng rồi cuộc sống bắt đầu trở nên quá bận bịu với những chuyện công tác và tiệc tùng, họp hành và thỏa thuận.”
“Khi ông ngồi xuống đây nói chuyện, tôi cứ ngỡ ông lại là một triệu phú lập dị đang tìm kiếm một cuộc phiêu lưu, nhưng tôi thích nói chuyện về những vấn đề này.”
“Cô có nghĩ về tương lai không?”
“Có chứ, và tôi nghĩ những ước mơ của tôi cũng rất giống với ông. Rõ ràng, tôi cũng thích có con…”
Cô ngừng lại. Cô không muốn làm tổn thương cảm giác của người bạn mới bất ngờ này.
“… dĩ nhiên là nếu tôi có thể. Đôi khi, Chúa lại có những kế hoạch khác.”
Hắn có vẻ không nghe câu trả lời của cô.
“Có phải chỉ có những nhà triệu phú mới đến Liên hoan phim không?”
“Triệu phú và những người nghĩ rằng họ là triệu phú hoặc muốn trở thành triệu phú. Khi Liên hoan phim diễn ra, vùng này của thành phố giống như một trại thương điên vậy. Mọi người cư xử như thể họ cực kỳ quan trọng, trừ những người thực sự quan trọng, họ lịch sự hơn, họ không cần chứng tỏ bất cứ điều gì với bất cứ ai. Không phải lúc nào họ cũng mua những gì tôi bán, nhưng ít nhất họ cũng mỉm cười, đưa ra vài nhận xét dễ chịu và tôn trọng tôi. Thế ông đang làm gì ở đây?”
“Chúa đã tạo ra thế giới trong sáu ngày, nhưng thế giới là gì? Đó là thứ mà tôi hay cô nhìn thấy. Mỗi khi có người chết đi, một phần của vũ trụ cũng chết theo. Mọi thứ mà người ta cảm thấy, trải nghiệm và trông thấy cũng chết theo họ, như những giọt nước mắt trong mưa.”
“’Như những giọt nước mắt trong mưa’… tôi từng xem một bộ phim có dùng câu này. Giờ thì tôi chẳng nhớ nó là phim gì nữa.”
“Tôi không đến đây để khóc lóc. Tôi đến để gửi những thông điệp cho người phụ nữ tôi yêu, và để làm được điều đó, tôi cần phải phá hủy vài vũ trụ hay thế giới.”
Thay vì cảm thấy cảnh giác với lời cuối cùng này, Olivia lại cười. Người đàn ông bảnh bao, điển trai, nói tiếng Pháp trôi chảy này không có vẻ gì là một kẻ điên cả. Cô đã chán ngấy việc lúc nào cũng phải nghe những lời giống nhau: em xinh quá, em có thể làm được nhiều điều tốt hơn cho bản thân mình, cái này bao nhiêu, cái kia bao nhiêu, gì mà đắt khủng khiếp thế, tôi sẽ đi và nghĩ về nó rồi sẽ quay lại sau (điều họ không bao giờ làm, dĩ nhiên), v.v… ít ra người Nga này cũng có khiếu hài hước.
“Tại sao ông lại cần phá hủy thể giới?”
“Để tôi có thể xây dựng lại thế giới của tôi.”
Olivia muốn thử an ủi ông ta, nhưng cô sợ phải nghe những lời sáo mòn: “Tôi nghĩ em có thể đem đến ý nghĩa cho cuộc đời tôi”, đến lúc đó cuộc trò chuyện sẽ đột ngột chấm dứt vì cô có nhũng kế hoạch khác cho tương lai. Thêm nữa, sẽ thật ngớ ngẩn khi cô cố dạy bảo một người lớn tuổi và thành đạt hơn mình cách vượt qua khó khăn.
Còn một cách là tìm hiểu thêm về cuộc sống của ông ta. Xét cho cùng, ông ta đã trả tiền cô - và trả rất hậu hĩnh - cho thời gian của cô.
“Ông định làm điều đó bằng cách nào?”
“Cô có biết gì về bọn ếch không?”
“Ếch?”
“Đúng, nhiều nghiên cứu về sinh học đã chỉ ra rằng nếu con ếch bị cho vào trong một cái hộp với nước lấy từ ao nó sống thì nó vẫn ở nguyên đó, hoàn toàn đứng im, khi nước được đun nóng dần dần. Con ếch không phản ứng với sự tăng lên từ từ của nhiệt độ, với những thay đổi của môi trường, và khi nước sôi, con ếch chết, mập mạp và hạnh phúc. Mặt khác, nếu con ếch bị ném vào một cái hộp chứa đầy nước đã đun sôi sẵn, nó sẽ nhảy ngay ra ngoài, bị bỏng, nhưng vẫn sống!”
Olivia không thấy chuyện này có liên quan gì đến việc phá hủy thế giới. Igor tiếp tục:
“Tôi giống như con ếch bị luộc đó. Tôi không nhận ra những thay đổi. Tôi nghĩ mọi chuyện ổn cả, những điều tồi tệ sẽ tan biến đi, đó chỉ là vấn đề thời gian. Tôi sẵn sàng chết vì mất đi thứ quan trọng nhất trong cuộc đời mình, nhưng, thay vì phản ứng, tôi lại ngồi đó, hờ hững nhấp nhô trong làn nước đang nóng lên từng phút.”
Olivia lấy hết can đảm để nói:
“Ông mất gì vậy?”
“Sự thực thì tôi chẳng mất gì cả. Đôi khi cuộc đời chia rẽ con người ta để họ nhận ra họ có ý nghĩa với nhau thế nào. Chẳng hạn, đêm qua, tôi đã trông thấy vợ tôi với một người đàn ông khác. Tôi biết nàng muốn quay lại với tôi, nàng vẫn yêu tôi, nhưng nàng không đủ can đảm để cất bước đi đầu tiên. Vài con ếch bị luộc vẫn nghĩ sự phục tùng của nó mới có giá trị, chứ không phải tài năng: những kẻ có khả năng, lãnh đạo, những kẻ có ý thức, phục tùng. Vậy chân lý trong toàn bộ chuyện này là gì? Nên thoát ra khỏi một tình huống khi mới bị bỏng, nhưng còn sống và sẵn sàng hành động. Và tôi nghĩ cô có thể giúp tôi việc đó.”
Olivia cố hình dung điều gì đang diễn ra trong tâm trí người đàn ông ngồi cạnh cô. Sao lại có kẻ rời bỏ một con người thú vị như thể này được nhỉ, người có thể nói chuyện về những điều thậm chí cô chưa bao giờ nghĩ tới? Tuy nhiên, trong tình yêu không có chỗ cho luận lý. Tuy còn trẻ, nhưng cô biết điều đó. Bạn trai cô, chẳng hạn, có thể khá cục súc và đôi khi vô cớ đánh đập cô, nhưng cô không thể chịu đựng được việc rời xa anh ta dù chỉ một ngày.

Chính xác thì họ đang nói chuyện gì? Về những con ếch và về việc cô giúp ông ta như thế nào. Dĩ nhiên, cô không thể giúp ông ta, vì thế cô nên thay đổi chủ đề.
“Thế ông định bắt đầu phá hủy thế giới bằng cách nào?”
Igor chỉ tay về phía làn đường duy nhất được phép lưu thông trên đại lộ Croisette.
“Ví dụ như tôi không muốn cô đến một bữa tiệc nào đó, nhưng tôi không dám nói thẳng ra. Nếu tôi đợi đến lúc giờ cao điểm bắt đầu và dừng ô tô lại giữa đường, thì trong vòng mười phút, cả đại lộ trước mặt bãi biển sẽ kẹt cứng. Các tay tài xế sẽ nghĩ: “Chắc là có tai nạn” và kiên nhẫn chờ đợi. Trong vòng mười lăm phút, cảnh sát sẽ đến cùng với một chiếc xe tải để kéo ô tô của tôi đi.”
“Điều đó luôn xảy ra mà.”
“À, ừ, nhưng tôi - rất cẩn thận và không để cho ai nhận ra - lúc đó đã ra khỏi xe và rải đinh cùng những vật sắc nhọn khác trên đường trước mặt nó. Và tôi đã cẩn thận sơn tất cả những vật đó thành màu đen, để chúng lẫn với nhựa đường. Khi chiếc xe tải kéo đến, lốp của nó sẽ bị đâm thủng. Giờ thì chúng ta có hai vấn đề, và hàng dài xe cộ sẽ nối đuôi nhau đến tận ngoại ô của cái thành phố nhỏ bé này, chính là vùng ngoại ô mà có lẽ cô đang sống đây.”
“Rõ ràng ông có một trí tưởng tượng rất phong phú, nhưng lúc đó ông vẫn sẽ chỉ trì hoãn tôi được khoảng một tiếng thôi.”
Đến lượt Igor mỉm cười.
“Ồ, tôi có thể nghĩ ra khối thứ để khiến tình huống đó tồi tệ hơn. Chẳng hạn, khi mọi người bắt đầu xúm lại giúp đỡ, tôi sẽ ném thứ gì đó như một quả bom khói nhỏ xuống gầm xe tải. Nó sẽ làm mọi người hoảng sợ. Tôi sẽ chui vào xe của tôi, vờ như tuyệt vọng, và khởi động xe. Tuy nhiên, cùng lúc, tôi sẽ đổ một chút gas bật lửa lên sàn xe, và nó sẽ bốc cháy. Tôi sẽ nhảy ra khỏi xe đúng lúc để quan sát cảnh tượng: chiếc xe dần dần bùng cháy, lửa lan đến bình xăng, vụ nổ ảnh hưởng đến chiếc xe đằng sau, và cứ thế theo phản ứng dây chuyền. Và tôi có thể làm được tất cả những điều đó với một chiếc ô tô, vài cái đinh, một quả bom khói cô có thể mua trong một cửa hàng, và một lượng nhỏ gas bật lửa…”
Igor lấy từ trong túi ra một cái bình dẹt nhỏ chứa một thứ chất lỏng.
“… nhiều khoảng chừng này. Đáng lẽ tôi nên làm thế khi tôi nhận ra Ewa sắp bỏ tôi, để nàng hoãn lại quyết định của nàng, suy nghĩ một chút và cân nhắc những hậu quả. Khi người ta bắt đầu suy nghĩ về những quyết định mà họ đang cố thực hiện, họ thường đổi ý - có những bước đi đòi hỏi thật nhiều can đảm. Nhưng tôi quá kiêu ngạo. Tôi đã nghĩ đó chỉ là một biện pháp tạm thời và nàng sẽ sớm nhận ra sai lầm của mình. Tôi chắc chắn nàng đang hối hận vì đã bỏ tôi và, như tôi đã nói, muốn quay lại. Nhưng để điều đó xảy ra tôi cần phải phá hủy một vài thế giới.”
Vẻ mặt hắn thay đổi, và Olivia không còn thấy thích thú trước câu chuyện nữa. Cô đứng dậy.
“Ôi, tôi cần phải làm vài việc.”
“Nhưng tôi đã trả tiền để cô lắng nghe tôi. Tôi đã trả đủ để bù cho cả ngày làm việc của cô.”
Cô cho tay vào túi để lấy tiền trả lại cho hắn, nhưng lúc đó, cô thấy một khẩu súng đang chĩa vào mặt mình.
“Ngồi xuống.”
Thôi thúc đầu tiên trong cô là bỏ chạy. Cặp đôi lớn tuổi vẫn đang từ từ tiến đến gần.
“Đừng chạy”, hắn nói, như thể đọc được những suy nghĩ của cô. “Tôi không hề có ý định nổ súng nếu cô lại ngồi xuống và nghe tôi nói. Nếu cô đừng cố làm gì và làm theo những gì tôi bảo, tôi thể rằng tôi sẽ không bắn.”
Một loạt lựa chọn băng nhanh qua đầu Olivia, lựa chọn đầu tiên là bỏ chạy theo hình chữ chi qua đường, nhưng cô nhận ra đôi chân cô đã mềm nhũn.
“Ngồi xuống”, người đàn ông nói lại lần nữa. “Tôi sẽ không bắn nếu cô làm theo những gì được bảo. Tôi hứa.”
Phải, ông ta quả là điên rồ nêu nổ súng trong một buổi sáng ngập nắng, với những chiếc ô tô băng ngang ngoài kia, mọi người đang ra biển, giao thông chậm chạp hơn từng phút, và thêm nhiều khách bộ hành đi dạo trên vỉa hè. Tốt nhất là làm theo những gì người đàn ông đó nói, ngay cả khi chỉ vì cô không có tâm trạng để làm điều gì khác, cô gần như lả đi.
Cô tuân theo. Giờ đây cô chỉ cần thuyết phục ông ta rằng cô không phải là một mối đe dọa, cô cần nghe những lời oán thán của một người chồng bị bỏ rơi, cần thề với ông ta rằng cô không trông thấy gì, và rồi, ngay khi cảnh sát xuất hiện, đi tuần như thường lệ, cô sẽ lăn xuống đất và kêu cứu.
“Tôi biết rõ những gì cô đang cảm thấy”, gã đàn ông nói, cố trấn tĩnh cô. “Những triệu chứng sợ hãi vẫn hệt như vậy ngay từ thuở sơ khai. Chúng vẫn như vậy khi đàn ông phải đối mặt với thú hoang và vẫn tiếp tục như thế đến tận ngày nay: máu rút khỏi mặt và biểu bì, bảo vệ cơ thể và tránh mất máu, đó là lý do người ta trở nên tái nhợt. Ruột giãn ra và thải hết mọi thứ, do đó sẽ không còn chất độc nào làm ô uế các cơ quan. Cơ thể ban đầu không chịu cử động, để không kích động con thú nói trên bằng bất cứ động tác bất ngờ nào.”
“Đây hoàn toàn là một giấc mơ”, Olivia nghĩ. Cô nhớ cha mẹ, đáng lẽ họ ở đây cùng cô sáng nay, nhưng họ đã thức suốt đêm để làm đồ trang sức vì hôm nay có vẻ là một ngày bận rộn. Vài giờ trước, cô đang làm tình với bạn trai, cô tin rằng đó là người đàn ông của cuộc đời cô, dù đôi lúc anh ta đánh cô, họ đã đạt đến cực khoái cùng lúc, một điều lâu lắm rồi không xảy ra. Sau bữa sáng, cô quyết định không tắm như mọi khi vì cô thấy thoải mái, tràn trề sinh lực và yêu đời.
Không, chuyện này không thể xảy ra. Cô phải cố tỏ ra bình tĩnh.
“Nói chuyện đi. Lý do ông mua hết hàng của tôi là để chúng ta có thể trò chuyện. Hơn nữa, tôi sẽ không đứng dậy để bỏ chạy đâu.”
Hắn ấn nhẹ nòng súng vào sườn cô gái. Cặp đôi lớn tuổi đi qua, liếc nhìn họ, và không nhận thấy có gì lạ. “Cô gái Bồ Đào Nha kia”, họ nghĩ, “như thường lệ, đang cố gây ấn tượng với gã đàn ông nào đó bằng đôi chân mày sẫm màu và nụ cười thơ ngây”. Đó không phải là lần đầu họ trông thấy cô với một người đàn ông lạ mặt, và người này, qua quần áo ông ta đang mặc, có nhiều tiền.
Olivia nhìn họ chằm chằm, như thể đang cố nói cho họ biết chuyện gì đang diễn ra qua ánh nhìn. Gã đàn ông bên cạnh cô rạng rỡ nói:
“Chào buổi sáng.”
Cặp đôi kia đi khỏi mà không nói một lời. Họ không có thói quen nói chuyện với người lạ hay chào hỏi những người bán hàng rong.
“Phải, nói chuyện đi”, người Nga nói, phá vỡ sự im lặng. “Thực ra tôi sẽ không cố gây trở ngại giao thông. Tôi chỉ lấy nó làm ví dụ thôi. Vợ tôi sẽ hiểu là tôi đang ở đây khi nàng bắt đầu nhận được những thông điệp. Tôi sẽ không chọn con đường hiển nhiên nhất là đến gặp nàng. Tôi cần nàng đến với tôi.”
Đây có thể là một lối thoát.
“Tôi có thể giao cho bà ấy những thông điệp đó, nếu ông muốn. Hãy nói cho tôi biết bà ấy đang ở khách sạn nào?”
Gã đàn ông cười.
“Cô bị nhiễm cái tật của đám thanh niên là cứ nghĩ rằng mình thông minh hơn bất cứ ai. Ngay khi rời khỏi đây, cô sẽ đi thẳng đến đồn cảnh sát.”
Máu trong người cô đông cứng lại. Họ sẽ ngồi hên cái ghế băng này cả ngày sao? Rốt cuộc thì hắn có bắn cô không, vì cô đã biết mặt hắn?
“Ông đã nói là ông sẽ không bắn.”
“Tôi hứa là tôi sẽ không bắn nếu cô cư xử người lớn hơn và dành sự tôn trọng thích đáng cho trí thông minh của tôi.”
Hắn nói phải. Điều người lớn cần làm là kể một chút về bản thân cô. Cô có thể đánh thức lòng trắc ẩn vốn luôn tồn tại trong tâm trí của một kẻ điên bằng cách giải thích rằng cô đang ở trong một tình huống giống như hắn, dù không phải vậy.
Một thằng nhóc chạy qua, tai đeo iPod. Nó thậm chí không thèm ngoảnh mặt nhìn họ.
“Tôi đang sống với một kẻ biến cuộc đời tôi thành địa ngục, nhưng tôi không thể bỏ hắn.”
Ánh mắt Igor thay đổi.
Olivia nghĩ cô đã tìm được cách thoát khỏi bẫy. “Thông minh lên nào. Đừng bỏ cuộc, hãy nghĩ về người phụ nữ đã kết hôn với gã đàn ông đang ngồi bên cạnh mày. Hãy thành thật.”
“Hắn chia cắt tôi với bạn bè. Hắn luôn ghen tuông dù hắn có thể có tất cả những người đàn bà mà hắn muốn. Hắn chỉ trích mọi điều tôi làm và nói tôi không có tham vọng gì cả. Hắn còn coi chút tiền ít ỏi tôi kiếm được là một bổn phận.”
Gã đàn ông không nói gì mà chỉ nhìn ra biển. Vỉa hè dần đông người thêm, chuyện gì sẽ xảy ra nêu cô đứng dậy và bỏ chạy? Hắn có bắn cô không? Đó có phải súng thật không?
Cô cảm thấy cô đã động đến một chủ đề có thể khiến hắn quan tâm. Tốt nhất là đừng làm điều gì ngốc nghếch, cô nghĩ, nhớ lại cách hắn nói và nhìn cô vài phút trước.
“Tuy nhiên, ông thấy đấy, tôi không thể khiến mình bỏ hắn ta được. Dù tôi có gặp được người đàn ông rộng lượng nhất, giàu có nhất, tốt bụng nhất trên thế gian này, tôi cũng sẽ không bỏ bạn trai mình vì bất cứ điều gì. Tôi không phải một kẻ khổ dâm, tôi không thích thú gì nỗi nhục nhã thường xuyên này, chỉ là tôi đã trót yêu hắn ta.”
Cô cảm thấy nòng súng lại ấn vào sườn mình. Cô đã nói sai.
“Tôi không vô lại như gã bạn trai của cô”, hắn nói, lúc này giọng hắn chứa đầy căm phẫn. “Tôi đã làm việc chăm chỉ để gây dựng nên những gì tôi đang có. Tôi đã làm việc rất lâu và chăm chỉ, và đã vượt qua nhiều thất bại. Tôi luôn luôn trung thực trong giao dịch dù dĩ nhiên có những lúc tôi phải cứng rắn và không khoan nhượng. Tôi luôn là một tín đồ Cơ Đốc ngoan đạo. Tôi có những người bạn có thế lực, và tôi luôn biết ơn họ. Nói tóm lại, tôi làm gì cũng đúng.
Tôi chưa bao giờ làm hại những ai ngáng trở tôi. Bất cứ khi nào có thể, tôi luôn khuyến khích vợ tôi làm những gì nàng muốn, và kết quả là: tôi còn lại đây, một mình. Phải, tôi đã giết người trong cái cuộc chiến tranh ngu ngốc mà tôi bị đưa đi để đánh nhau, nhưng tôi chưa bao giờ mất đi tính thực tế. Tôi không phải là tay cựu chiến binh bị chấn thương tâm lý đến một nhà hàng và xả súng vào mọi người. Tôi không phải một tên khủng bố. Dĩ nhiên, tôi có thể nói rằng cuộc đời đã đối xử bất công với tôi và đã lấy đi của tôi thứ quan trọng nhất: tình yêu. Nhưng vẫn còn có những người đàn bà khác, và nỗi đau tình yêu luôn trôi qua. Tôi cần phải hành động, tôi mệt mỏi với việc làm một con ếch từ từ bị luộc cho đến chết rồi.”
“Nếu ông biết vẫn còn có những người đàn bà khác và nỗi đau tình yêu sẽ trôi qua, tại sao ông còn đau khổ như thế?”
Phải, bây giờ cô đang cư xử như một người lớn, ngạc nhiên trước cái cách bình tĩnh mà cô đang cố áp dụng với kẻ điên bên cạnh cô.
Hắn có vẻ lung lay.
“Tôi thực sự không biết. Có lẽ vì tôi đã bị bỏ rơi quá thường xuyên. Có lẽ vì tôi cần chứng tỏ với bản thân rằng tôi có khả năng gì. Có lẽ vì tôi đã nói dối, và với tôi chỉ có duy nhất một người phụ nữ thôi. Tôi có một kế hoạch.”
“Kế hoạch gì?”
“Tôi đã nói với cô rồi. Tôi sẽ liên tục phá hủy những thế giới cho đến khi nàng nhận ra nàng quan trọng với tôi đến mức nào và tôi sẵn sàng làm bất cứ điều gì để mang nàng quay lại.”
Cảnh sát!
Họ đều nhận thấy một chiếc xe cảnh sát đang đến gần.
“Tôi xin lỗi”, gã đàn ông nói. “Tôi đã định trò chuyện thêm một lúc nữa. Cuộc đời cũng không đối xử công bằng với cô cho lắm.”
Olivia nhận ra đây là sự kết thúc. Và vì lúc này không còn gì để mất, cô lại cố đứng dậy. Rồi cô cảm thấy bàn tay của kẻ lạ kia trên vai phải cô, như thể hắn đang âu yếm ôm cô.
Samozashchita Bez Orujiya, hay Sambo, cái tên phổ biến hơn giữa những người Nga, là nghệ thuật giết người nhanh chóng bằng tay không, mà nạn nhân không hề hay biết chuyện gì đang diễn ra. Nó được phát triển qua nhiều thế kỷ, khi các dân tộc hay bộ lạc phải tay không đương đầu với những kẻ xâm lược. Nó đã được bộ máy nhà nước trước đây sử dụng rộng rãi để thủ tiêu người ta mà không để lại dấu vết. Họ đã cố giới thiệu nó như một môn võ thuật ở Thế vận hội Moscow 1980, nhưng bị từ chối vì nó quá nguy hiểm.
Hoàn hảo. Như thế, chỉ có một vài người thành thạo nó.
Ngón tay cái bên phải của Igor đang ấn vào tỉnh mạch chính của Olivia, và máu ngừng lưu thông lên não cô. Trong khi đó, tay kia của hắn đang ấn vào một điểm đặc biệt gần nách cô, làm cho các cơ bị nghẹt. Không có sự co bóp, chỉ còn phải chờ đợi hai phút.
Olivia dường như đã ngủ trong tay hắn. Chiếc xe cảnh sát đi qua sau lưng họ, sử dụng làn đường đang cấm các phương tiện giao thông khác. Họ thậm chí không để ý cặp đôi đang ôm nhau, họ có những vấn đề khác phải lo lắng sáng nay, chẳng hạn như cố hết sức để giữ cho giao thông được thông suốt - một nhiệm vụ bất khả thi nếu phải thực hiện triệt để. Cuộc gọi mới nhất qua radio bảo với họ rằng một triệu phú say xỉn nào đó vừa đâm xe cách đó khoảng một dặm.
Vẫn đỡ cô gái, Igor cúi xuống và dùng tay kia nhặt mảnh vải trải trước mặt ghế vốn định bày tất cả những món đồ vô vị kia. Hắn khéo léo gấp mảnh vải lại để tạo thành một cái gối ứng biến.
Khi thấy xung quanh không còn ai, hắn nhẹ nhàng đặt cơ thể bất động của cô gái lên ghế băng. Trông cô như đang ngủ, và trong mơ chắc hẳn cô đang nhớ đến một ngày đáng yêu đặc biệt nào đó hay đang gặp ác mộng về người bạn trai vũ phu.
Chỉ có cặp đôi lớn tuổi để ý thấy họ ngồi cạnh nhau. Và khi tội ác này bị phát hiện - điều Igor nghi ngờ, vì không có dấu hiệu rõ ràng nào - họ sẽ miêu tả hắn với cảnh sát như một kẻ trắng hơn hoặc đen hơn hoặc già hơn hoặc trẻ hơn bản thân hắn, chẳng việc gì phải lo lắng, người ta không bao giờ quá chú ý đến những gì xảy ra xung quanh họ.
Trước khi rời đi, hắn đặt một nụ hôn lên chân mày người đẹp say ngủ và thì thầm:
“Cô thấy đấy, tôi giữ lời đây chứ. Tôi đã không bắn.”

Hắn bước vài bước và đầu hắn bỗng đau dữ dội. Điều này hoàn toàn bình thường: máu đang tràn lên não, một phản ứng dễ hiểu ở một kẻ vừa trải qua căng thẳng tột độ.
Tuy đau đầu, hắn vẫn thấy vui. Phải, hắn đã thực hiện việc hắn định làm.
Hắn có thể làm được. Và hắn còn vui hơn vì đã giải phóng tâm hồn kia khỏi cơ thể mong manh đó, giải phóng một linh hồn không có khả năng bảo vệ bản thân trước một gã côn đồ đớn hèn. Nếu mối quan hệ giữa cô gái ấy và bạn trai tiếp tục, cô ta rốt cuộc sẽ phiền muộn, âu lo và chẳng còn tự trọng, thậm chí sẽ còn bị bạn trai khống chế thêm nữa.
Ewa sẽ không bao giờ như thế. Nàng luôn có khả năng tự quyết. Hắn đã ủng hộ nàng cả về vật chất lẫn tinh thần khi nàng quyết định mở một cửa hàng thời trang cao cấp, và nàng được tự do du lịch nhiều như nàng muốn. Hắn là một người chồng và người đàn ông mẫu mực. Tuy nhiên, nàng đã phạm sai lầm: nàng đã không hiểu được tình yêu hay sự vị tha của hắn. Dầu vậy, hắn hy vọng nàng sẽ nhận được những thông điệp này, xét cho cùng, hắn đã bảo nàng trong ngày nàng ra đi rằng hắn sẽ phá hủy cả thế giới để mang nàng quay trở lại.
Hắn cầm chiếc điện thoại di động dùng một lần mà hắn vừa mua và nạp một số tiền tối thiểu. Hắn gửi một tin nhắn.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: 24 Giờ Cô Độc Ở Cannes - Paulo Coelho

Postby bevanng » 06 Mar 2016

11:00 sáng

Mọi chuyện bắt đầu, họ nói, với một cô gái mười chín tuổi vô danh tạo dáng trong bộ bikini cho các nhiếp ảnh gia không có gì hay hơn để làm trong suốt Liên hoan phim Cannes 1953. Cô lập tức biến thành sao, và tên cô đã trở thành huyền thoại: Brigitte Bardot. Và giờ đây những người khác nghĩ rằng họ cũng làm được như vậy. Không ai hiểu được tầm quan trọng của việc làm một diễn viên, nhan sắc là điều duy nhất đáng quan tâm.
Đó là lý do những cô gái chân dài tóc nhuộm, những cô nàng tóc vàng hoe của thế giới này, di chuyển hàng trăm hay thậm chí hàng nghìn dặm đến Cannes, dù chỉ để dành cả ngày trên bãi biển, hy vọng được nhìn thấy, chụp ảnh, phát hiện. Họ muốn thoát khỏi cạm bẫy đang chờ đợi tất cả phụ nữ: trở thành một bà nội trợ, hằng ngày nấu bữa tối cho chồng, đưa con đi học và cố đào bới vài chuyện xâu xa trong cuộc sống đơn điệu của những người hàng xóm để có chuyện mà buôn với bạn bè. Thứ mà những người phụ nữ này muốn là danh tiếng, vinh quang và sự quyến rũ, để trở thành nỗi ghen tị cho những người sống trong thị trấn của họ và những chàng trai cô gái luôn coi họ là những con vịt xấu xí, không biết rằng một ngày nào đó họ sẽ trở thành một con thiên nga hay nở thành một bông hoa được mọi người thèm muốn. Họ muốn có sự nghiệp trong thế giới của những giấc mơ ngay cả khi họ phải vay tiền để bơm silicone vào ngực hay mua vài bộ đồ mới gợi cảm hơn. Trường kịch nghệ ư? Hãy quên nó đi, vẻ ngoài và những mối quan hệ đúng đắn là tất cả những gì bạn cần. Điện ảnh có thể tạo nên những điều kỳ diệu, nếu, dĩ nhiên, bạn có thể thâm nhập vào thế giới đó. Bất cứ điều gì để thoát khỏi cái nhà tù của thành phố tỉnh lẻ và chuỗi ngày dài đơn điệu, ảm đạm. Có hàng triệu người không bận tâm đến kiểu sống đó, và họ nên được tùy ý sống cuộc sống họ thấy phù hợp. Tuy nhiên, nếu bạn đến Liên hoan phim, bạn phải để nỗi sợ hãi lại nhà và sẵn sàng cho bất cứ điều gì: đưa ra những quyết định tức thì, nói dối nếu cần, vờ như trẻ hơn tuổi thực, mỉm cười với những người bạn căm ghét, giả vờ quan tâm đến những người làm bạn chán ngấy, nói rằng “Tôi yêu bạn” mà không nghĩ đến hậu quả, hay phản bội người từng giúp đỡ bạn nhưng nay lại trở thành một đối thủ không mong muốn. Đừng để cảm giác hối hận hay xấu hổ ngáng đường. Phần thưởng là đáng giá với bất cứ sự hy sinh nào.
Danh tiếng. Vinh quang. Quyến rũ.
Gabriela thấy những ý nghĩ này thật khó chịu. Nó hoàn toàn không phải là cách tốt nhất để bắt đầu một ngày mới. Tệ hơn nữa, cô còn bị váng đầu.
Ít nhất vẫn còn một điều an ủi. Cô đã không thức dậy trong một khách sạn năm sao cạnh một gã đàn ông bảo cô mặc quần áo vào và đi ngay vì gã còn phải giải quyết nhiều việc quan trọng, như mua hay bán những bộ phim.
Cô dậy và nhìn quanh xem có còn người bạn nào trong căn hộ không. Khỏi cần phải nói là họ không có ở đây. Họ đã đi từ lâu để đến đại lộ Croisette, đến các bể bơi, quán bar khách sạn, du thuyền, những cuộc hẹn ăn trưa có thể, và những cuộc gặp tình cờ trên bãi biển. Có năm cái đệm gấp trên sàn căn hộ thuê chung nhỏ bé có giá cắt cổ trong dịp này. Trên đệm vương vãi quần áo, giày dép bị vứt bỏ, và những chiếc mắc áo không ai chịu cất lại vào tủ.
“Quần áo ở đây còn tốn diện tích hơn là con người”, cô nghĩ.
Không phải ai trong số họ cũng mơ được mặc những bộ đồ do Elie Saab, Karl Lagerield, Versace hay Galliano* thiết kế, thế nhưng những gì họ có vẫn chiếm hầu hết diện tích căn hộ: bikini, váy ngắn, áo phông, giày đế bục và một đống đồ trang điểm.

*Tên của các nhà thiết kế thời trang nổi tiếng: Elie Saab (sinh năm 1964): nhà thiết kế thời trang người Lebanon. Karl Otto Lagerield (sinh năm 1933): nhà thiết kế thời trang, họa sĩ người Đức, ông chủ của hãng thời trang Ý Fendi. Gianni Versace (1946 - 1997): nhà thiết kế thời trang danh tiếng người Ý, người sáng lập nhãn hiệu thời trang Gianni Versace S.P.A. John Galliano (sinh năm 1960): nhà thiết kế thời trang người Anh.
“Có ngày mình sẽ được mặc những gì mình thích, nhưng lúc này, mình cần một cơ hội”, cô nghĩ.
Và tại sao cô lại muốn có cơ hội đó?
Khá đơn giản. Bởi vì cô biết cô là người giỏi nhất, bất chấp trải nghiệm của cô hồi còn đi học - khi cô đã làm bố mẹ rất thất vọng - và bất chấp những thử thách cô đã đối mặt suốt từ lúc đó để chứng minh với bản thân rằng cô có thể vượt qua mọi khó khăn, thất bại và thất vọng. Cô được sinh ra để chiến thắng và tỏa sáng, điều đó cô không hề nghi ngờ.
“Và khi có được những gì mình hằng mong muốn, mình biết mình sẽ phải tự vấn rằng: họ yêu và ngưỡng mộ mình vì chính bản thân mình hay vì mình nổi tiếng?”
Cô biết có những người trở thành ngôi sao trên sân khấu và, trái với những gì cô nghĩ, họ không được thanh thản, họ dễ nghiêng ngả, hay nghi ngại, rầu rĩ ngay khi họ bước ra đời thực. Họ muốn trở thành diễn viên để không phải là chính họ, và họ sống trong nỗi lo sợ rằng một bước đi sai lầm có thể kết thúc sự nghiệp của bản thân.
“Tuy nhiên, mình khác. Mình luôn là chính mình.”
Có thật không? Hay bất cứ ai ở vị trí của cô cũng đều nghĩ như thế?

Cô dậy và pha cho mình một chút cà phê. Căn bếp thật bừa bộn, và không người bạn nào của cô thèm bận tâm đến việc rửa bát. Cô không hiểu sao mình lại thức dậy trong tâm trạng tồi tệ và có quá nhiều ngờ vực như thế này. Cô hiểu công việc của mình, cô hết lòng tận tụy với nó, nhưng dường như người ta không chịu nhận ra tài năng của cô. Cô cũng hiểu con người là thể nào, đặc biệt là đàn ông - những đồng minh tương lai trong một cuộc chiến cô phải sớm giành chiến thắng, vì cô đã hai mươi lăm tuổi và hơi quá già cho nhà máy giấc mơ. Cô biết được ba điều:
(a) Đàn ông ít bội bạc hơn phụ nữ;
(b) Họ không bao giờ để ý phụ nữ mặc gì vì đầu óc họ luôn lột trần cô ta ra;
(c) Miễn là bạn có ngực, đùi, mông và bụng đâu ra đấy, bạn có thể chinh phục cả thế giới.
Vì ba điều trên, và vì cô biết rằng tất cả những người phụ nữ khác đang cạnh tranh cùng cô đều cố nhấn mạnh những thuộc tính của họ, nên cô chỉ chú ý đến mục (c) trong danh sách. Cô tập thể dục và cố gắng giữ vóc dáng, tránh ăn kiêng và, có vẻ không được hợp lý cho lắm, ăn mặc rất kín đáo. Điều này có tác dụng tốt cho tới nay, và cô thường được cho là trẻ hơn tuổi thật. Cô hy vọng rằng nó cũng sẽ mang lại hiệu quả ở Cannes.
Ngực, mông, đùi. Bây giờ họ có thể tập trung vào những thứ này nếu họ muốn, nhưng có ngày họ sẽ nhận ra cô thực sự có thể làm được những gì.
Cô uống cà phê và bắt đầu hiểu được tâm trạng tồi tệ của mình. Cô đang bị vây quanh giữa vài phụ nữ đẹp nhất hành tinh! Dĩ nhiên cô không cho mình là xấu, nhưng cô không đời nào bì kịp họ được. Cô cần quyết định phải làm gì. Cô đã nghĩ rất lâu và kỹ càng trước khi thực hiện chuyến đi này, tiền bạc thì eo hẹp, và cô không có nhiều thời gian để giành được một hợp đồng. Cô đã đến nhiều nơi trong hai ngày đầu tiên, đưa cho người ta CV và ảnh của cô, nhưng tất cả những gì cô thu được là lời mời đến bữa tiệc đêm hôm qua ở một nhà hàng rẻ tiền, với tiếng nhạc to hết cỡ, và ở đó cô không hề gặp được người Đẳng cấp nào. Để đỡ ức chế, cô đã uống quá chén và cuối cùng không còn biết mình đang ở đâu hay đang làm gì. Mọi thứ đều có vẻ xa lạ với cô - châu Âu, cách người ta ăn mặc, các ngôn ngữ khác nhau, sự vui vẻ giả tạo - khi sự thật là mọi người đang mong rằng họ có thể được mời đến một sự kiện nào đó quan họng hơn, thay vì ở trong cái nơi hoàn toàn tầm thường đó, lắng nghe những bản nhạc cũ rích, và phải gào lên trò chuyện về cuộc đời của những người khác và những bất công do kẻ quyền lực gây ra với kẻ bất lực.
Gabriela đã chán đề cập đến những thứ được gọi là bất công. Đời đơn giản là vậy đây. Họ chọn người họ muốn và không phải đích thân giải thích với bất kỳ ai, đó là lý do cô cần một kế hoạch. Nhiều cô gái khác có chung giấc mơ với cô (nhưng dĩ nhiên không tài năng bằng cô) sẽ đi khắp nơi khắp chốn mang theo CV và ảnh của họ, những nhà sản xuất đến Liên hoan phim ắt hẳn bị ngộp trong đám sách ảnh, DVD, danh thiếp.
Điều gì sẽ khiến cô nổi bật?
Cô cần suy nghĩ. Cô sẽ không có được cơ hội nào như thế này nữa, chủ yếu vì cô đã tiêu hết tiền tiết kiệm cho chuyến đi này. Và - đáng sợ nhất - cô đang già đi. Cô hai mươi lăm tuổi. Đây là cơ hội cuối cùng của cô.
Trong lúc uống cà phê, cô nhìn vào con phố cụt bên dưới qua ô cửa sổ nhỏ của căn bếp. Tất cả những gì cô có thể trông thấy là một quầy thuốc lá và một cô bé đang ăn sô-cô-la. Phải, đây là cơ hội cuối cùng của cô. Cô hy vọng nó sẽ có kết cục rất khác so với lần đầu tiên.
Cô hồi tưởng lại hồi cô mười một tuổi và đang biểu diễn trong vở kịch đầu tiên tại một trong những ngôi trường đắt đỏ nhất Chicago. Khát vọng thành công sau này của cô không sinh ra từ sự đồng lòng hoan nghênh mà cô nhận được từ khán giả, bao gồm các bậc cha mẹ, người thân và giáo viên. Khác hẳn thế. Lúc đó cô đang đóng vai Mad Hatter trong vở Alice ở xứ sở diệu kỳ. Cô được nhận vai đó - một trong những vai hay nhất của vở kịch - sau khi thử vai cùng với rất nhiều cô bé, cậu bé khác.
Câu thoại đầu tiên của cô là: “Tóc cô cần được cắt”. Rồi Alice sẽ đáp lại: “Ông nên học cách tránh đưa ra những nhận xét cá nhân, điều đó rất thô lỗ”.
Khi khoảnh khắc chờ đợi từ lâu đã đến, một khoảnh khắc cô đã dượt đi dượt lại, cô lo lắng quá mức đến nỗi nhầm lời thoại và nói thành: “Tóc cô cần được gội”. Dẫu sao cô bé đóng vai Alice vẫn nói lời thoại tiếp theo, và khán giả sẽ không bao giờ nhận ra có gì bất ổn nếu Gabriela, biết rằng mình vừa nhầm lẫn, không lập tức câm khẩu. Vì Mad Hatter là một nhân vật chủ chốt nếu phân cảnh đó tiếp tục, và vì trẻ con không giỏi ứng biến trên sân khấu (dù trong đời thực chúng ứng biến rất tài), không ai biết phải làm gì cả. Rồi, sau vài phút dài dằng dặc, khi các diễn viên chỉ biết nhìn nhau, giáo viên bắt đầu vỗ tay, công bố đã đến lúc giải lao, và yêu cầu mọi người rời sân khấu.
Gabriela không chỉ rời sân khấu, cô còn rời trường trong nước mắt. Ngày hôm sau, cô phát hiện phân cảnh với Mad Hatter đã bị cắt, và thay vào đó các diễn viên sẽ chuyển thẳng đến trận bóng vồ với Cơ Hậu. Giáo viên nói việc này chẳng hề gì vì dẫu sao câu chuyện Alice ở xứ sở diệu kỳ đã quá vô lý rồi, nhưng trong giờ ra chơi, những đứa con trai, con gái khác đã quây lấy Gabriela và bắt đầu đánh cô.
Điều này chẳng lạ gì cho cam - đây là chuyện xảy ra khá thường xuyên - và cô đã học cách tự vệ mạnh mẽ như khi, đến lượt cô, tấn công những đứa trẻ yếu hơn. Tuy nhiên, lần này cô chịu đòn mà không thốt ra một lời hay nhỏ một giọt nước mắt. Phản ứng của cô gây sửng sốt đến nỗi trận đòn chẳng kéo dài được mấy, các bạn học của cô ngỡ rằng cô sẽ la hét, và khi cô không làm vậy, chúng nhanh chóng mất hứng. Với mỗi cú đánh, Gabriela lại nghĩ:
“Một ngày kia tao sẽ là một diễn viên nổi tiếng và rồi chúng mày sẽ phải hối hận.”
Ai nói rằng trẻ con không thể quyết định chúng muốn làm gì trong đời?
Người lớn đây.
Và khi bản thân chúng ta trở thành người lớn, chúng ta tin rằng chúng ta thực sự là những kẻ khôn ngoan lúc nào cũng đúng. Nhiều đứa trẻ ắt hẳn từng trải qua kinh nghiệm tương tự như thể đóng vai Mad Hatter hay Người đẹp ngủ trong rừng hay Aladdin hay Alice, và lập tức quyết định từ bỏ ánh đèn sân khâu và tiếng vỗ tay. Tuy nhiên, trước đây Gabriela chưa bao giờ thua một trận nào, cô là học sinh duyên dáng và thông minh nhất ở trường, luôn đạt điểm cao nhất trên lớp, và bằng trực giác cô biết rằng nếu không trả đũa ngay tức khắc, cô sẽ bị thua.
Bị thua lũ bạn học là một chuyện - bởi vì cô có thể ăn miếng trả miếng - nhưng mang theo thất bại như thế suốt quãng đời còn lại thì lại là một chuyện khác. Như chúng ta đều biết, một lời thoại không thuộc trong vở kịch ở trường, khả năng nhảy kém hơn bất kỳ ai, hoặc những lời bình phẩm thô lỗ về cặp chân khẳng khiu hay cái đầu to tướng - điều mọi đứa trẻ phải chịu đựng - có thể có hai hệ quả hoàn toàn khác nhau.
Vài người chọn cách phục thù và cố tỏ ra thật giỏi giang trước bất cứ vấn đề gì mà những kẻ kia nghĩ chúng không làm được. “Có ngày chúng mày sẽ ghen tị với tao”, họ nghĩ.
Tuy nhiên, hầu hết mọi người lại chấp nhận những giới hạn của họ, và mọi chuyện có xu hướng ngày càng tệ hơn. Họ lớn lên, tự ti và phục tùng (dù họ mơ đến ngày được tự do làm những gì họ muốn), họ kết hôn để chứng tỏ rằng họ không xấu xí như lời những đứa trẻ kia nói (dù sâu thẳm trong tâm hồn họ vẫn tin như vậy), họ sinh con để không ai nói được rằng họ vô sinh (dù họ không hề muốn có con chút nào), họ ăn diện để không ai nói được rằng họ mặc xấu (dẫu họ biết dù gì thì người ta vẫn sẽ cứ nói thế).
Sang tuần tiếp theo, sự cố ở vở kịch đã được mọi người trong trường quên đi, nhưng Gabriela đã quyết định rằng, một ngày kia, khi cô trở thành nữ diễn viên nổi tiếng thế giới, luôn có các thư ký, vệ sĩ, cánh săn ảnh và đám đông người hâm mộ đi kèm, cô sẽ trở lại ngôi trường đó. Cô sẽ diễn vở Alice ở xứ sở diệu kỳ cho những đứa trẻ nghèo túng xem, cô sẽ gây tiếng vang, và đám bạn bè thời thơ ấu của cô sẽ nói:
“Tớ từng được đứng trên sân khấu cùng cô ấy đấy!”
Mẹ cô muốn cô học nghề kỹ sư hóa, và ngay sau khi cô học xong trung học, cha mẹ cô gửi cô đến Viện Công nghệ Illinois. Ban ngày, cô học về các mối liên kết protein và cấu trúc của benzene, nhưng ban tối cô dành thời gian với Ibsen, Coward và Shakespeare* khi tham gia một khóa học kịch nghệ trả bằng tiền bố mẹ cô gửi cho để mua quần áo và sách vở. Cô tập luyện với những người chuyên nghiệp nhất và có những giáo viên tuyệt vời nhất. Cô nhận được những đánh giá tốt và những lá thư giới thiệu, cô biểu diễn (mà bố mẹ cô không biết) với tư cách là ca sĩ hát bè cho một nhóm nhạc rock và vũ công múa bụng trong một vở kịch về Lawrence ở Arabia. Chấp nhận bất cứ vai diễn nào đến với mình luôn là một ý hay. Nhỡ đâu một nhân vật quan trọng nào đó lại có mặt trong hàng ghế khán giả, sẽ mời cô đến cuộc thử vai thực sự đầu tiên, và sau đó toàn bộ quãng thời gian thử thách này cùng tất cả những nỗ lực hòng kiếm được một vị trí nổi bật của cô sẽ kết thúc.
*Tên các nhà viết kịch nổi tiếng: Henrik Johan Isben (1828 - 1906): nhà soạn kịch người Na Uy, cha đẻ của kịch nói hiện đại. Noêl Peirce Coxvard (1899 - 1973): nhà viết kịch, nhạc sĩ, diễn viên, ca sĩ nổi tiếng người Anh. William Shakespeare (1564 - 1616); nhà thơ, nhà soạn kịch người Anh lừng danh thế giới.
Năm tháng qua đi. Gabriela đóng các quảng cáo trên truyền hình, quảng cáo kem đánh răng, làm người mẫu và thậm chí còn định chấp nhận lời mời từ một nhóm chuyên cung cấp người đi kèm cho các doanh nhân vì cô rất cần tiền cho việc hoàn thành một tập sách ảnh thích hợp để gửi đến tất cả các công ty quản lý người mẫu và diễn xuất chính ở nước Mỹ. May mắn thay, Chúa Trời - cô chưa bao giờ mất niềm tin vào Người - đã cứu vớt cô. Ngày hôm đó, cô được mời làm diễn viên phụ trong video của một ca sĩ Nhật Bản, sẽ được quay phim dưới cầu cạn của Chicago El. Cô được trả nhiều hơn mong đợi (chắc hẳn các nhà sản xuất đã yêu cầu khoản thù lao khổng lồ cho diễn viên nước ngoài), và với món tiền lớn đó, cô đã thực hiện được cuốn sách ảnh cần thiết (hoặc “sách” như nó được biết đến trong mọi ngôn ngữ trên thế giới), một thứ cũng tốn kém hơn cô tưởng nhiều.
Cô luôn tự nhủ với mình rằng cô chỉ mới bắt đầu sự nghiệp, dù ngày tháng đang vùn vụt trôi qua. Có thể cô từng được đóng vai Ophelia trong vở Hamlet hồi còn học diễn xuất, nhưng cuộc đời chủ yếu chỉ tạo cho cô cơ hội đóng quảng cáo chất khử mùi và kem dưỡng da. Mỗi lần cô đến một công ty quản lý nào đó để giới thiệu cuốn sách của mình kèm theo thư giới thiệu từ các giáo viên, bạn bè và đồng nghiệp, cô lại thấy trong phòng đợi đã rất đông các cô gái trông giống cô, ai cũng mỉm cười, ai cũng ganh ghét nhau, và đều làm tất cả những gì có thể để thu được thứ gì đó, bất cứ thứ gì, sẽ đem lại cho họ “sự nổi bật”, như các nhà chuyên nghiệp gọi nó.
Cô sẽ đợi hảng giờ để đến lượt, trong lúc đó đọc các cuốn sách về thiền định và suy nghĩ tích cực. Cuối cùng cô sẽ ngồi đối diện với một người - nam hay nữ - lờ đi những lá thư và đi thẳng vào những bức ảnh, nhưng không có nghĩa là họ sẽ bình luận gì về chúng. Họ sẽ ghi lại tên cô. Thi thoảng, cô được gọi đi thử vai, khoảng một phần mười trong số đó đem lại kết quả. Ở đó cô sẽ một lần nữa, với tất cả tài năng (hay cô nghĩ như vậy), đứng trước một cái máy ảnh và rất nhiều người bất lịch sự, những người luôn nói với cô rằng: “Thả lỏng, cười, quay phải, hạ cằm xuống một chút, liếm môi”. Và kết quả là: một bức ảnh cho nhãn hiệu cà phê mới.
Vậy điều gì xảy ra khi cô không được gọi? Cô cảm thấy bị hắt hủi, nhưng mau chóng học được cách chung sống với nó và coi nó như một kinh nghiệm cần thiết, một thử thách cho tính kiên nhẫn và niềm tin của cô. Cô không chịu thừa nhận sự thật rằng khóa học diễn xuất, những lá thư giới thiệu, bản CV liệt kê những vai phụ biểu diễn trên những sân khấu nhỏ, chẳng có tác dụng gì…
Điện thoại của cô reo.
… không một chút nào.
Nó tiếp tục reo.
Cô vẫn đang trong dòng hồi tưởng khi nhìn chằm chằm ra quầy thuốc lá và cô bé đang ăn sô-cô-la, cuối cùng cô bừng tỉnh, nhận ra chuyện gì đang xảy ra, và trả lời điện thoại.
Giọng nói ở đầu dây bên kia cho biết cô được gọi đi thử vai trong hai giờ tới.
Cô được đi thử vai!
Ở Cannes!
Thật bỏ công khi vượt đại dương đến một thành phố nơi các khách sạn đều kín phòng, chạm trán với những cô gái trẻ có vị thế giống hệt như cô (một người Ba Lan, hai người Nga, một người Brazil) ở sân bay và đi gõ cửa khắp nơi cho đến khi họ kiếm được căn hộ thuê chung có cái giá cắt cổ đó. Sau bao năm thử vận may ở Chicago và thi thoảng đến Los Angeles để tìm kiếm thêm các nhà quản lý, các quảng cáo, các lời từ chối, hóa ra tương lai của cô lại nằm ở châu Âu!
Trong hai giờ tới?
Cô không thể bắt xe buýt vì cô không biết lộ trình. Cô đang ở trên một ngọn đồi dốc và mới chỉ xuống đồi có hai lần - để đi phân phát các cuốn sách của cô và đến cái bữa tiệc ngớ ngẩn tối qua. Trong cả hai lần đó, khi xuống tới chân đồi, cô đã đi nhờ xe của những người hoàn toàn xa lạ, thường là những gã đàn ông đi một mình trong những chiếc xe mui trần hào nhoáng. Ai cũng biết Cannes là nơi an toàn, và phụ nữ nào cũng biết vẻ ngoài ưa nhìn giúp ích ra sao khi xin đi nhờ xe, nhưng lần này cô không thể phó mặc cho may rủi, cô phải tự mình giải quyết vấn đề. Các cuộc thử vai có giờ giấc rất nghiêm ngặt, đó là một trong những điều đầu tiên bạn học được ở bất cứ công ty quản lý diễn xuất nào. Ngày đầu tiên ở Cannes cô đã để ý thấy giao thông ở đây hầu như lúc nào cũng ùn tắc, vì vậy tất cả những gì cô có thể làm là thay đồ và đi ngay lập tức. Cô sẽ có mặt ở đó trong một tiếng rưỡi nữa, cô nhớ khách sạn nơi nhà sản xuất đó đang ở vì nó nằm trên “con đường hành hương” cô đã đi hôm qua, để kiếm vài cơ hội, vài dịp may.
Bây giờ vấn đề là nên mặc gì.
Cô nhào tới cái va li cô đã mang theo, chọn vài cái quần jean Armani hàng Trung Quốc mua ở chợ đen tại Chicago với giá chỉ bằng một phần năm giá thực. Chẳng ai nói chúng là hàng nhái được vì chúng đâu phải thế: ai chả biết các nhà sản xuất Trung Quốc gửi tám mươi phần trăm lượng hàng họ sản xuất đến các cửa hàng chính, hai mươi phần trăm còn lại được các nhân viên bán hạ giá không chính thức. Chúng là, nói thế nào được nhỉ, hàng thừa trong kho, dự trữ vượt quá nhu cầu.
Cô đang mặc một cái áo phông DKNY trắng, đắt hơn chiếc quẩn jean kia. Tuân thủ theo nguyên tắc của mình, cô biết rằng quần áo càng kín đáo càng tốt. Không váy ngắn, không áo trễ cổ, vì đó là thứ mà các cô gái khác sẽ mặc nếu họ được gọi đi thử vai.
Cô không chắc về phần trang điểm. Cuối cùng, cô quyết định đánh kem nền thật nhẹ và tô son thậm chí còn nhẹ hơn. Cô đã mất mười lăm phút quý báu.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: 24 Giờ Cô Độc Ở Cannes - Paulo Coelho

Postby bevanng » 06 Mar 2016

11:45 sáng

Con người không bao giờ thỏa mãn. Nếu họ có ít, họ muốn có nhiều. Nếu họ có nhiều, họ vẫn muốn nhiều hơn nữa. Khi có nhiều hơn rồi, họ ước rằng họ có thể hạnh phúc với cái có ít, nhưng không thể nỗ lực chút nào theo hướng đó.
Phải chăng họ không hiểu hạnh phúc đơn giản thế nào? Cô ta có thể muốn gì, cái cô gái mặc áo phông trắng và quẩn jean vừa chạy qua kia? Có việc gì vội vã đến mức khiến cô ta không có thời gian thưởng ngoạn một ngày nắng đẹp, biển xanh, những em bé ngồi trong xe đẩy, những cây cọ ven biển vậy nhỉ?
“Đừng chạy, cô bé! Cô sẽ không bao giờ thoát được hai bóng hình quan họng nhất trong cuộc đời của mỗi con người: Chúa Trời và cái chết. Chúa dõi theo từng bước đi của cô và sẽ phiền lòng vì Ngài thấy cô không để ý gì đến phép màu của cuộc sống. Hay đúng ra là cái chết. Cô vừa chạy qua một xác chết mà thậm chí chẳng hề nhận thấy đây thôi.”
Lúc này Igor đã bước qua hiện trường vụ án vài lẩn. Có lúc, hắn nhận thấy sự lảng vảng của hắn có thể gây nghi ngờ, vì thế hắn quyết định thận trọng đứng cách hiện trường hai trăm thước, dựa vào một hàng lan can nhìn ra chỗ ghế băng. Hắn đang đeo kính râm, thế nhưng chẳng có gì là đáng nghi cả, không chỉ vì hôm nay trời nắng, mà vì ở một thành phố toàn người nổi tiếng như Cannes, kính râm đồng nghĩa với địa vị.
Hắn ngạc nhiên thấy đã gần giữa trưa mà chưa có ai nhận ra một người đang nằm chết trên con đường chính của thành phố, ở thời điểm này trong năm nó đang là tâm điểm của mọi sự chú ý trên thế giới.
Một cặp đôi hiện đang đến gần ghế băng, cáu kỉnh thấy rõ. Họ bắt đầu quát tháo người đẹp say ngủ kia, họ là bố mẹ của cô, tức giận vì cô không làm việc. Người đàn ông lay mạnh cô gái. Rồi người phụ nữ cúi xuống, che khuất tầm nhìn của Igor.
Igor biết chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo.
Người mẹ thét lên. Người cha rút điện thoại trong túi ra và tránh sang bên, hẳn nhiên bối rối. Người mẹ đang lay thân thể bất động của cô con gái. Người qua đường dừng lại, giờ hắn có thể tháo kính râm và tham gia với họ như một người xem tò mò.
Người mẹ đang khóc, giữ chặt lấy con gái. Một thanh niên nhẹ nhàng đẩy bà ra và cố hô hấp nhân tạo, nhưng mau chóng bỏ cuộc, khuôn mặt Olivia đã hơi tím tái.
“Ai đó gọi xe cứu thương đi!”
Vài người bấm cùng một dãy số, tất cả đều cho rằng mình có ích, quan trọng, chu đáo. Hắn đã có thể nghe thấy tiếng còi hụ phía xa xa. Người mẹ gào khóc to hơn. Một thiếu phụ cố ôm lấy bà an ủi, nhưng bà hẩy cô ta ra. Có người cố gắng nâng thi thể cô gái ngồi dậy, người khác bảo họ đặt cô ấy xuống đi vì lúc này đã quá muộn rồi, chẳng còn làm được gì nữa.
“Có lẽ là dùng ma túy quá liều”, người đứng cạnh nói. “Giới trẻ ngày nay quả là vô tích sự.”
Những người nghe lời bình luận đó gật gù vẻ hiểu biết. Igor vẫn bình thản khi các nhân viên y tế mang đồ nghề từ trên xe cứu thương xuống, gây sốc điện tim cho Olivia, khi một bác sĩ giàu kinh nghiệm hơn đứng cạnh, không nói năng gì, vì dù biết sẽ chẳng làm được gì nữa, ông ta không muốn các đồng nghiệp bị buộc tội là cẩu thả. Họ đặt thi thể Olivia lên cáng và đưa vào xe cứu thương, bà mẹ vẫn bám chặt lấy con gái. Sau một thoáng bàn bạc, họ quyết định cho cả bà mẹ lên xe, và xe cứu thương rời đi.
Từ lúc ông bố bà mẹ phát hiện ra thi thể cô gái cho đến khi xe cứu thương rời đi mất không quá năm phút. Ông bố vẫn đứng đó, bàng hoàng, không biết phải đi đâu hay làm gì. Quên mất là đang nói chuyện với ai, cái kẻ cho là cô gái bị sốc thuốc bước tới chỗ ông bố và thuật lại sự việc theo cách hiểu của gã.
“Ông đừng lo. Ở đây chuyện này xảy ra hằng ngày ấy mà.”
Ông bố không phản ứng. Ông đang lặng người cầm điện thoại di động và nhìn chằm chằm vào khoảng không. Ông, hoặc là không hiểu lời nhận xét, hoặc không biết cái chuyện xảy ra hằng ngày đây là cái gì, hay có lẽ vì đang trong trạng thái sốc nên ông lập tức bị đẩy vào một chiều kích vô danh, nơi nỗi đau không tồn tại.
Đám đông tản ra nhanh chóng như lúc đến. Chỉ còn lại hai người: ông bố vẫn đang nắm chặt điện thoại và người đàn ông hiện đã bỏ kính râm và đang cầm nó trên tay.
“Ông quen cô gái à?” Igor hỏi.
Không có câu trả lời.
Tốt nhất là nên làm giống như mọi người, tiếp tục cất bước trên đại lộ Croisette và xem có chuyện gì khác xảy ra trong buổi sáng ngập nắng này ở Cannes không. Giống như ông bố của cô gái, hắn không biết chắc hắn đang cảm thấy gi: hắn vừa hủy hoại một thế giới hắn không bao giờ dựng lại được nữa, dù hắn có tất cả sức mạnh trên thế gian này. Ewa có xứng đáng với điều đó không? Từ trong tử cung của cô gái trẻ đó, Olivia - việc hắn biết tên cô làm hắn rất khó chịu vì điều đó có nghĩa rằng cô không còn chỉ là một khuôn mặt trong đám đông - có thể nảy sinh một thiên tài sẽ tiếp tục khám phá phương pháp chữa trị ung thư hay phác thảo một thỏa thuận đảm bảo hòa bình cho thế giới. Hắn hủy hoại không chỉ một con người, mà có thể cả thế hệ tương lai do cô sinh ra nữa. Hắn đã làm gì? Phải chăng tình yêu, dù lớn và mãnh liệt đến đâu, có đủ khả năng bào chữa cho điều đó?
Hắn đã lựa chọn sai nạn nhân đầu tiên. Cái chết của cô sẽ chẳng bao giờ gây xôn xao và Ewa sẽ không hiểu được thông điệp.
Đừng nghĩ đến nó nữa, chuyện đã xong rồi. Mày đã chuẩn bị tinh thần đi xa hơn thế này, vì thế hãy tiếp tục. Cô gái sẽ hiểu cái chết của cô ấy không vô ích, mà là sự hy sinh nhân danh một tình yêu vĩ đại. Nhìn quanh mày đi, xem chuyện gì đang xảy ra trong thành phố, hãy cư xử như một công dân bình thường. Mày đã chịu đủ phần đau khổ trong cuộc đời này rồi, giờ mày đáng được hưởng một chút bình yên và thoải mái.
Thưởng thức Liên hoan phim. Đây là điều mày đã chuẩn bị tính thần từ lâu.

Cho dù có mang theo đồ bơi, hắn vẫn sẽ thấy khó mà tiếp cận được bãi biển. Có vẻ như các khách sạn lớn đã độc chiếm những khoảnh đất lớn trên bãi biển, nơi họ choán chỗ bằng những cái ghế, logo, nhân viên phục vụ và vệ sĩ, cứ mỗi lần có ai đi vào, những người này lại yêu cầu chìa khóa phòng của khách hoặc các hình thức chứng minh khác. Các khu vực khác bị những căn lều trắng khổng lổ chiếm chỗ, nơi một công ty sản xuất, nhà máy bia, hay hãng mỹ phẩm nào đó đang khai trương sản phẩm mới nhất của họ tại cái được gọi là bữa trưa. Ở đây người ta ăn mặc bình thường, nếu “bình thường” có nghĩa là mũ bóng chày, áo sơ mi sáng màu và quần màu nhạt cho đàn ông và đồ trang sức, áo thụng, quần Bermuda và giày đế thấp cho phụ nữ.
Kính râm là thứ bắt buộc cho cả hai phái, và chẳng mấy ai khoe da khoe thịt vì các thành viên của giới Đẳng cấp giờ đều đã quá già cho việc đó, và bất cứ sự phô bày nào như thế đều bị coi là lố bịch hoặc, đúng hơn là, đáng khinh.
Igor nhận thấy một thứ khác nữa: điện thoại di động. Phụ kiện quan trọng nhất.
Nhận được một lô tin nhắn hay cuộc gọi, sẵn sàng ngắt ngang bất cứ cuộc trò chuyện nào để trả lời một cú điện thoại chẳng hề khẩn cấp, đứng bấm các ký tự vô tận qua đường SMS, là vô cùng cần thiết. Họ đã quên bẵng SMS* là gì và thay vào đó dùng các phím bấm như thể đó là một cái máy đánh chữ. Nó chậm chạp, vụng về, và có thể gây hại nghiêm trọng cho ngón cái, nhưng thế thì đã làm sao? Vào đúng lúc đó, không chỉ ở Cannes, mà trên toàn thế giới, không trung đang toàn ngập những thông điệp như: “Chào buổi sáng, em yêu, anh vừa thức dậy, nghĩ về em và thấy vui sướng khi có em trong đời”, “Anh sẽ về nhà trong mười phút nữa, hãy chuẩn bị bữa trưa cho anh và nhớ gửi quần áo của anh đến hiệu giặt đây”, hay “Bữa tiệc ở đây quả là chán ngắt, nhưng em chẳng biết đi đâu nữa cả, anh ở đâu thế?”. Những thứ mất năm phút để viết và chỉ mất mười giây để nói, nhưng thế giới này là vậy đấy. Igor biết tất cả những điều này vì hắn kiếm được hàng hăm triệu đô la nhờ vào thực tế là điện thoại không còn chỉ là một phương tiện giao tiếp với những người khác, nó còn là một sợi dây hy vọng, một cách để tin rằng bạn không cô đơn, một cách để chứng tỏ cho những người khác thấy bạn quan trọng thế nào.
*Viết tắt của Short Message Service: Dịch vụ nhắn tin nhanh.
Và nó đang dẫn thế giới vào một tình trạng điên rồ tuyệt đối. Chỉ với năm euro mỗi tháng, qua một hệ thống tài tình được thiết lập ở London, một trung tâm cuộc gọi cứ ba phút lại gửi cho bạn một tín nhắn chuẩn. Khi bạn biết bạn sắp nói chuyện với một người mà bạn muốn gây ấn tượng, bạn chỉ phải bấm một số đặc biệt để khởi động hệ thống. Điện thoại reo, bạn bắt máy, mở tin nhắn, đọc qua loa, và nói: “Ôi, để sau cũng được”, (dĩ nhiên là thế: nó được viết theo yêu cầu). Bằng cách này, người đang nói chuyện cùng bạn cảm thấy họ thật quan trọng, và mọi chuyện tiến triển nhanh hơn vì ông ta nhận ra ông ta đang ở trước mặt một người rất bận rộn. Ba phút sau, cuộc trò chuyện gián đoạn vì một tin nhắn khác, tính cấp bách tăng lên, và người sử dụng dịch vụ đó có thể quyết định nên tắt điện thoại trong mười lăm phút hay nói dối rằng anh ta thực sự phải nhận cuộc gọi này, và thế là anh ta dứt được một người bạn tẻ nhạt.
Chỉ có một trường hợp tất cả điện thoại đều phải tắt. Không phải ở các bữa tối trang trọng, giữa một vở kịch, trong khoảnh khắc chính yếu của một bộ phim, hay khi một ca sĩ opera đang cố gắng thực hiện phần khó nhất của các đoạn độc diễn, ở đó chúng ta đều nghe thấy điện thoại của ai đó reo inh ỏi. Không, thời điểm duy nhất người ta thực sự quan tâm đến chuyện điện thoại của họ có thể gây ra nguy hiểm là khi họ lên máy bay và nghe lời nói láo quen thuộc: “Tất cả điện thoại di động phải tắt trong chuyến bay vì chúng có thể gây ảnh hưởng đến những hệ thống trên máy bay”. Chúng ta đều tin điều này và làm theo lời các tiếp viên hàng không bảo.
Igor biết chuyện hoang đường này được tạo ra khi nào: hàng bao năm nay, các hãng hàng không vẫn cố hết sức thuyết phục hành khách sử dụng điện thoại gắn ở chỗ ngồi của họ. Chúng có phí là mười đô la một phút và dùng cùng hệ thống truyền dẫn như điện thoại di động. Chiến lược này không có hiệu quả, nhưng câu chuyện hoang đường đó thì vẫn nấn ná, chỉ đơn giản là họ đã quên bỏ lời cảnh báo kia ra khỏi danh sách những điều nên làm và không nên làm mà tiếp viên hàng không phải đọc lên trước khi máy bay cất cánh. Điều không ai biết là trên mỗi chuyến bay, luôn có ít nhất hai hoặc ba hành khách quên tắt điện thoại, thêm nữa, những chiếc máy tính xách tay truy cập Internet sử dụng chính hệ thống của điện thoại di động. Và vẫn chưa có cái máy bay nào trên thế giới bị rơi vì nguyên nhân đó.
Hiện nay họ đang cố sửa đổi lời cảnh báo mà không làm hành khách quá lo lắng và không làm sụt giá. Bạn có thể dùng điện thoại di động của bạn miễn là nó có chế độ trên máy bay. Những chiếc điện thoại đó có giá cao gấp bốn lần.
Chưa có ai giải thích “chế độ trên máy bay” là gì, nhưng nếu người ta chấp nhận bị lừa như thế, thì đó là vấn đề của họ.

Hắn tiếp tục bước. Hắn khó chịu vì ánh mắt cô gái nhìn hắn lần cuối trước khi cô chết, nhưng không muốn nghĩ về nó nữa.

Thêm nhiều vệ sĩ, nhiều kính râm, nhiều bikini trên bãi biển, nhiều bộ đồ sáng màu và đồ trang sức tới dự “các bữa trưa”, nhiều người vội vã đi lại như thể họ có chuyện rất quan trọng cần làm sáng hôm đó, nhiều tay săn ảnh ở mọi ngóc ngách đang cố thực hiện nhiệm vụ bất khả thi là chộp lấy một điều bất thường, nhiều tạp chí và báo tự do chuyên về những chuyện đang xảy ra ở Liên hoan phim, nhiều người đang phát tờ rơi cho những con người bình thường tội nghiệp chưa được mời đến ăn trưa tại một trong những căn lều trắng, các tờ rơi quảng cáo cho những nhà hàng trên đỉnh đồi, xa xôi hẻo lánh, nơi người ta chẳng mấy khi nghe đến những chuyện xảy ra ở đại lộ Croisette, trên đó là nơi các người mẫu thuê những căn hộ trong thời gian diễn ra Liên hoan phim, hy vọng rằng họ sẽ được gọi đến một cuộc thử vai làm thay đổi cuộc đời họ mãi mãi.
Tất cả đều chẳng mấy bất ngờ. Tất cả đều quá dễ đoán định. Nếu bây giờ hắn đi vào một trong những căn lều kia, sẽ không ai dám hỏi chứng minh thư của hắn vì hiện vẫn còn sớm và các nhà tổ chức sợ rằng sẽ không có ai đến. Tuy nhiên, trong nửa tiếng nữa, tùy theo tình hình, các tay bảo vệ sẽ nhận lệnh rõ ràng rằng chỉ cho các cô gái xinh đẹp không có người đi kèm vào thôi.
Sao lại không thử?
Hắn làm theo cơn bốc đồng của mình, xét cho cùng, hắn đang làm nhiệm vụ. Hắn bước xuống vài bậc, không phải dẫn đến bãi biển, mà dẫn đến một căn lều trắng lớn có cửa sổ bằng nhựa dẻo, điều hòa và những bộ bàn ghế màu trắng, phần lớn để trống. Một tay vệ sĩ hỏi hắn có giấy mời không, hắn nói có. Hắn vờ lục tìm các túi. Một cô lễ tân mặc đồ màu đỏ hỏi xem cô ta có giúp gì được cho hắn không.
Hắn đưa cho cô ta danh thiếp của hắn, có logo của công ty điện thoại và tên hắn, Igor Malev, Chủ tịch. Hắn cam đoan tên hắn có trong danh sách, nhưng chắc là hắn đã quên giấy mời ở khách sạn, hắn vừa dự một loạt cuộc họp và quên mang nó theo. Cô lễ tân chào hắn và mời hắn vào, cô đã học được cách đánh giá đàn ông và đàn bà qua lối ăn mặc của họ, và “Chủ tịch” ở bất cứ đâu cũng có nghĩa như thế. Thêm nữa, hắn là chủ tịch của một công ty ở Nga! Và ai cũng biết những người Nga giàu có thích khoe của đến mức nào. Không cần phải kiểm lại danh sách.
Igor bước vào, đi thẳng đến quầy bar - đó là một căn lều rất tiện nghi, thậm chí có cả sàn nhảy - và gọi một ly nước dứa vì nó thích hợp với không khí và, quan trọng hơn, vì thứ đồ uống đó, trang trí bằng một cái ô kiểu Nhật màu xanh dương bé xíu, được cắm thêm một ống hút màu đen.
Hắn ngồi xuống một trong nhiều cái bàn còn trống. Trong số vài người có mặt lúc này có một người đàn ông trạc năm mươi, với mái tóc nhuộm màu gụ, làn da nhuộm nâu, và một cơ thể được mài giũa tại một trong những phòng tập hứa hẹn tuổi xuân bất diệt. Ông ta mặc áo phông rách rưới và ngồi cùng hai người đàn ông khác, những người này đều mặc com lê hàng hiệu hoàn hảo không chê vào đâu được. Hai người đó quay mặt về phía Igor, hắn lập tức khẽ ngoảnh đi, nhưng vẫn tiếp tục quan sát họ đằng sau cặp kính râm. Mấy người mặc com lê cố tìm hiểu xem người mới đến này là ai, rồi chẳng quan tâm đến nữa.
Mối quan tâm của Igor, tuy nhiên, lại tăng lên.
Người đàn ông kia thậm chí không có điện thoại trên bàn, dù hai viên phụ tá liên tục nhận điện thoại.
Căn cứ vào việc con người ngạo mạn ăn mặc xuềnh xoàng này được vào trong lều, căn cứ vào việc ông ta tắt điện thoại, căn cứ vào việc gã bồi bàn cứ tiến đến chỗ ông ta và hỏi xem ông ta có cần gì không, căn cứ vào việc ông ta không thèm trả lời, chỉ phẩy tay xua gã đi, hiển nhiên ông ta là một người rất quan trọng.
Igor lấy một tờ năm mươi euro ra khỏi túi và đưa cho tay bồi bàn vừa mới bắt đầu bày bàn ăn.
“Quý ông trong chiếc áo phông màu xanh dương bạc phếch kia là ai?” Hắn hỏi, nhìn sang bàn khác.
“Javits Wild. Ông ấy là một người rất quan trọng.”
Tuyệt vời. Sau một người tầm thường như cô gái ở bãi biển, một nhân vật như Javits Wild sẽ là lý tưởng - không nổi tiếng, nhưng quan trọng. Một trong những người quyết định ai nên được chú ý và cảm thấy không cần quan tâm lắm đến ngoại hình của mình vì ông ta biết rõ mình là ai. Ông ta phụ trách việc giật dây, và những con rối cảm thấy họ là kẻ vinh dự và đáng ghen tị nhất trên hành tinh này, cho đến một ngày, vì bất cứ lý do gì, người điều khiển rối quyết định cắt dây, những con rối rơi xuống, vô tri và bất lực.
Rõ ràng ông ta là một trong những nhân vật Đẳng cấp, có nghĩa là ông ta có những người bạn giả dối và nhiều kẻ thù.
“Một câu hỏi nữa. Có thể chấp nhận việc phá hủy một vũ trụ nhân danh tình yêu vĩ đại không?”
Gã bổi bàn cười.
“Ông là Chúa hay dân đồng tính?”
“Cả hai đều không phải, nhưng dẫu sao cũng cảm ơn câu trả lời của anh.”
Hắn nhận ra đáng lẽ hắn không nên hỏi câu đó. Trước hết, vì hắn không cần sự ủng hộ của ai để bào chữa cho những gì hắn đang làm, hắn tin chắc ai rồi cũng sẽ phải chết, nên vài người phải chết nhân danh điều gì đó cao cả. Từ thuở sơ khai đã có chuyện như thế khi người ta hy sinh thân mình để nuôi sống bộ lạc của họ, khi các trinh nữ nộp mình cho các thầy tế để xoa dịu sự phẫn nộ của rồng rắn và thần linh. Lý do thứ hai là vì bây giờ hắn đã gây sự chú ý và tỏ ra quan tâm đến người đàn ông ở bàn bên cạnh.
Tay bồi bàn chắc sẽ quên thôi, nhưng không cần thiết phải liều lĩnh vô cớ như vậy. Hắn tự nhủ rằng ở một liên hoan phim như thế này, người ta muốn biết nhau cũng là chuyện thường, và thậm chí càng bình thường hơn nữa khi thông tin đó đem lại phần thưởng. Bản thân hắn đã làm điều tương tự hàng trăm lần ở các nhà hàng trên khắp thế giới, và những người khác chắc chắn cũng đã làm thế với anh ta. Bồi bàn không chỉ quen được cho tiền để cung cấp một cái tên hay một cái bàn tốt hơn hay để gửi một thông điệp bí mật, họ gần như còn mong đợi chuyện đó.
Không, tay bồi bàn này sẽ chẳng nhớ gì cả. Igor biết rằng nạn nhân tiếp theo của hắn đang ở trước mặt hắn kia. Nếu hắn thành công, và nếu tay bồi bàn bị thẩm vấn, anh ta sẽ nói rằng điều kỳ cục duy nhất xảy ra hôm đó là một người đàn ông đã hỏi anh ta liệu anh ta nghĩ việc phá hủy một vũ trụ nhân danh tình yêu vĩ đại có chấp nhận được không. Thậm chí có thể anh ta còn không nhớ rõ lắm. Cảnh sát sẽ hỏi: “Trông hắn thế nào?” và tay bồi bàn sẽ trả lời: “Thú thật, tôi không chú ý lắm, nhưng tôi biết ông ta nói ông ta không phải dân đồng tính”. Cảnh sát - đã quen với kiểu trí thức Pháp ngồi ở quầy bar và nảy ra những giả thuyết kỳ quặc và những phân tích phức tạp về, chẳng hạn, xã hội học của các liên hoan phim - sẽ lặng lẽ bỏ qua sự kiện đó.
Tuy nhiên vẫn còn có thứ làm Igor băn khoăn.
Tên hoặc những cái tên.
Hắn đã từng giết người - bằng vũ khí và phúc phận của đất nước hắn. Hắn không biết hắn đã giết bao nhiêu người, nhưng hắn hiếm khi nhìn mặt họ và chắc chắn chưa bao giờ hỏi tên họ. Biết tên người khác có nghĩa là biết người đó là một con người và không phải “kẻ thù”. Biết tên người khác là biến người đó thành một cá nhân duy nhất và đặc biệt, với một quá khứ và tương lai, với tổ tiên và có thể cả con cháu, một con người đã biết đến vinh quang và thất bại. Con người là những cái tên, họ tự hào về chúng, họ lặp lại chúng hàng nghìn lần trong đời họ và gắn liền với chúng. Đó là từ đầu tiên họ học được sau từ “Bố” và “Mẹ”.
Olivia. Javits. Igor. Ewa.
Linh hồn của con người, tuy nhiên, không có tên, nó là chân linh thuần khiết và cư ngụ trong một cơ thể riêng biệt trong một khoảng thời gian nhất định, và một ngày kia sẽ rời bỏ nó, và Chúa sẽ không buồn hỏi: “Tên ngươi là gì?” khi linh hồn ấy đến với phán quyết cuối cùng. Chúa sẽ chỉ hỏi: “Hồi còn sống ngươi có yêu không?”. Vì đó là điều cốt yếu của cuộc sống: khả năng yêu, không phải cái tên chúng ta mang trên hộ chiếu, danh thiếp và chứng minh thư. Những con người thần bí vĩ đại thay tên đổi họ, và đôi khi từ bỏ hẳn chúng. Khi Thánh John Tẩy Giả* được hỏi ngài là ai, ngài chỉ nói: “Ta là tiếng kêu trong hoang mạc”. Khi Chúa Jesus tìm thấy con người đáng tin cậy để xây dựng nhà thờ của mình, Ngài lờ đi việc người đàn ông nói trên cả đời đã mang cái tên Simon và gọi ông là Peter. Khi Moses hỏi tên Chúa, câu trả lời đáp lại: “Ta là ta”.
* Nguyên văn là “John the Baptist”.
Có lẽ hắn nên tìm kiếm nạn nhân khác, chỉ một nạn nhân có tên đã là đủ lắm rồi: Olivia. Tuy nhiên, vào đúng lúc này, hắn cảm thấy hắn không thể quay lại, nhưng hắn quyết định sẽ không hỏi tên của thế giới tiếp theo mà hắn phá hủy. Hắn không thể quay lại vì hắn muốn đối xử công bằng với cô gái nghèo yếu đuối trên ghế băng bên bãi biển - quả là một nạn nhân dễ thương, khờ khạo. Thử thách mới này - người đàn ông tóc nhuộm lực lưỡng, đầm đìa mồ hôi với vẻ mặt ơ thờ và rõ ràng là người rất quyền lực - khó hơn nhiều. Hai người đàn ông mặc com lê kia không chỉ là phụ tá, hắn nhận thấy thỉnh thoảng họ lại nhìn quanh lều, quan sát mọi chuyện đang diễn ra gần đó. Nếu hắn xứng đáng với Ewa và công bằng với Olivia, hắn phải can đảm.
Hắn để mặc ống hút trong ly nước dứa. Mọi người đang bắt đầu kéo đến. Hắn phải đợi cho nơi này đông nghịt người, nhưng không quá lâu. Hắn chưa tính đến chuyện phá hủy một thế giới lúc ban ngày ban mặt, giữa đại lộ ở Cannes, và hắn thực sự không biết phải thực thi kế hoạch tiếp theo này ra sao. Tuy nhiên, có thứ gì đó mách bảo rằng hắn đã chọn được một nơi thích hợp.
Những ý nghĩ của hắn không còn ở bên cô gái nghèo nơi bãi biển nữa, chất adrenaline đang dâng lên trong máu hắn, tim hắn đập nhanh hơn, hắn đang vui sướng và phấn khích.
Javits Wild sẽ không lãng phí thời gian của ông ta ở đây chỉ để có một bữa ăn miễn phí tại một trong hàng nghìn bữa tiệc mà ông ta ắt hẳn được mời đến hằng năm. Chắc ông ta có mặt ở đây vì một lý do đặc biệt hoặc để gặp gỡ một người nào đó. Lý do đó hoặc con người đó không nghi ngờ gì sẽ là chứng cứ ngoại phạm tốt nhất của Igor.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: 24 Giờ Cô Độc Ở Cannes - Paulo Coelho

Postby bevanng » 06 Mar 2016

12:26 chiều

Javits ngắm nhìn những người khách khác đang kéo đến. Nơi này đang đông dần, và ông nghĩ điều ông luôn nghĩ:
“Ta đang làm gì ở đây? Ta không cần thứ này. Thực sự thì, ta cần rất ít từ người khác - ta có tất cả những thứ ta muốn. Ta là một tên tuổi lớn trong ngành điện ảnh, ta có thể có bất cứ người đàn bà nào ta khao khát, dù ta ăn mặc luộm thuộm. Thực sự thì, ta cố tình ăn mặc luộm thuộm. Đã qua lâu rồi cái thời ta chỉ có độc một bộ com lê, và, trong những dịp hiếm hoi ta được giới Đẳng cấp mời (sau nhiều quỵ lụy, năn nỉ và hứa hẹn), ta chuẩn bị tinh thần cho một bữa trưa như thế này, như thể nó là dịp quan trọng nhất trong cuộc đời ta. Giờ ta biết rằng thứ duy nhất thay đổi là những thành phố nơi tổ chức các bữa trưa kiểu này, còn lại thì, tất cả đều hoàn toàn nhàm chán và có thể đoán trước được.
Mọi người sẽ tiến đến chỗ ta và bảo ta rằng họ ngưỡng mộ công việc của ta. Những người khác gọi ta là anh hùng và cảm ơn ta vì đã cho những kẻ làm phim độc lập một cơ hội. Những phụ nữ thông minh, xinh đẹp không bị ngoại hình lừa phỉnh sẽ để ý những người tụ tập quanh bàn ta và hỏi nhân viên phục vụ xem ta là ai và ngay lập tức tìm cách tiếp cận ta, tin chắc rằng điều duy nhất ta hứng thú là tình dục. Mỗi người bọn họ đều có điều muốn nhờ vả ta. Đó là lý do họ ca ngợi và tâng bốc ta và dâng cho ta thứ họ nghĩ là ta cần. Nhưng tất cả những gì ta muốn là được yên thân.
Ta đã đến hàng nghìn bữa tiệc như thế này, và ta không ở đây, trong cái lều này vì bất kỳ lý do đặc biệt nào cả, chỉ là ta không ngủ được, dù ta bay đến Pháp bằng phi cơ riêng, một công nghệ kỳ diệu có thể bay ở độ cao hơn ba mươi sáu nghìn feet từ California đến tận Cannes mà không cần phải dừng lại để tiếp nhiên liệu. Ta đã thay đổi hình dáng nguyên thủy của khoang máy bay. Nó có thể thoải mái chứa mười tám hành khách, nhưng ta đã giảm số chỗ ngồi xuống còn sáu và dành một buồng riêng cho phi hành đoàn bốn người. Chắc chắn luôn có người hỏi: “Tôi có thể đi cùng ông không?”. Và giờ ta có cái cớ hoàn hảo: “Xin lỗi, không còn chỗ”.”
Javits trang bị cho món đồ chơi mới của ông, tốn khoảng bốn mươi hiệu đô la, hai giường ngủ, một bàn họp, một buồng tắm có vòi sen, một giàn âm thanh Miranda (Bang & Olufsen có mẫu mã tuyệt vời và một chiến dịch PR tốt, nhưng giờ chúng đã lỗi thời), hai máy pha cà phê, một lò vi sóng cho đội bay và một bếp điện cho ông (vì ông ghét đồ ăn được hâm lại). Javits chỉ uống sâm banh, và bất cứ ai muốn thì cứ tự nhiên chia sẻ một chai Moet & Chandon 1961 với ông. Tuy nhiên, “hầm rượu” trên máy bay có đủ loại đồ uống mà bất cứ vị khách nào có thể đòi hỏi. Và còn có hai màn hình LCD 21 inch sẵn sàng chiếu những bộ phim mới nhất, dù chúng còn chưa ra rạp.
Chiếc phi cơ là một trong những thứ tối tân nhất trên thế giới (dù người Pháp khăng khăng rằng chiếc Dassault Falcon còn tốt hơn), nhưng bất kể có bao nhiêu tiền đi chăng nữa, ông không thể thay đổi giờ giấc ở châu Âu. Giờ là 3 giờ 43 phút sáng ở Los Angeles, và ông đang bắt đầu cảm thấy thực sự mệt mỏi. Ông đã thức cả đêm, dự hết bữa tiệc này đến bữa tiệc khác, trả lời đi trả lời lại hai câu hỏi ngớ ngẩn mở đầu cho bất cứ cuộc trò chuyện nào:
“Chuyến bay của ông thế nào?”
Với câu này Javits luôn đáp lại bằng một câu hỏi:
“Sao?”
Người ta không biết chắc phải nói gì vì thế họ cười lúng túng và chuyển tiếp sang câu hỏi thứ hai trong danh sách:
“Ông có định ở đây lâu không?”
Và Javits sẽ lại hỏi lại: “Sao?”. Rồi ông sẽ giả vờ phải trả lời điện thoại, xin lỗi, và tiếp tục đi, với hai người bạn mặc com lê theo sau không rời nửa bước.
Ông chẳng gặp ai thú vị cả. Nhưng một người đàn ông gần như có đủ mọi thứ mua được bằng tiền thì thấy ai là thú vị cơ chứ? Ông đã cố thay đổi bạn bè và gặp gỡ những người chẳng dính dáng gì đến ngành điện ảnh: triết gia, nhà văn, nghệ sĩ tung hứng, ủy viên ban quản trị của các công ty thực phẩm. Ban đầu, tất cả đều xuôi chèo mát mái, cho đến khi xuất hiện câu hỏi quen thuộc: “Ông có muốn đọc một kịch bản tôi vừa viết không?”. Hay câu hỏi quen thuộc thứ hai: “Tôi có một người bạn luôn ao ước trở thành diễn viên. Ông có thấy phiền nếu gặp anh ấy/cô ấy không?”.
Có, phiền chứ. Ông còn có những việc khác cần làm ngoài công việc. Ông thường bay đến Alaska mỗi tháng một lần, đi vào quán bar đầu tiên, uống thật say, ăn pizza, lang thang trong nơi hoang dã, và nói chuyện với những người sống ở những thị trấn nhỏ tại đó. Ông tập thể dục hai tiếng mỗi ngày ở phòng tập riêng, nhưng các bác sĩ đã cảnh báo rằng ông vẫn có thể gặp các vấn đề về tim mạch. Ông chẳng quan tâm lắm chuyện giữ gìn vóc dáng, điều ông thực sự mong muốn là trút bớt được chút căng thẳng liên miên dường như đè nặng ông từng giây trong ngày, là thiền định và hàn gắn vết thương trong tâm hồn. Khi ở nông thôn, ông luôn hỏi những người ông tình cờ gặp rằng “cuộc sống bình thường” là như thế nào, bởi vì ông đã quên. Các câu trả lời thật đa dạng, và ông dần dần nhận ra rằng, dù được bao người vây quanh, ông hoàn toàn đơn độc trên thế gian.
Ông quyết định thảo một danh sách những thứ tạo nên những thái độ và hành vi bình thường, dựa trên điều người ta làm hơn là điều người ta nói.
Javits nhìn quanh. Có một người đàn ông đeo kính râm đang uống một ly nước quả. Hắn dường như quên lãng xung quanh và đang chăm chú trông ra biển như thể hắn đang ở đâu đó ngoài kia. Hắn ăn mặc lịch sự và ưa nhìn, với mái tóc hoa râm. Hắn là một trong những kẻ đến đầu tiên và phải biết Javits là ai, thế nhưng hắn chẳng tỏ vẻ gì là muốn đến và làm quen. Hắn thật can đảm mới ngồi một mình ở đó như thế. Đơn độc ở Cannes là điều khủng khiếp, nó có nghĩa là không ai quan tâm đến bạn, rằng bạn không quan trọng hoặc không quen biết ai.
Ông ghen tị với gã đàn ông đó, hắn có vẻ không phù hợp với danh sách hành vi “bình thường” mà ông luôn cất trong túi. Hắn có vẻ độc lập và tự do, nếu không cảm thấy mệt mỏi, Javits thực sự muốn nói chuyện với hắn.
Ông quay sang một trong hai “người bạn” của mình.
“Là người bình thường có nghĩa là gì?”
“Lương tâm ngài đang quấy rầy ngài sao? Ngài vừa làm điều không nên làm à?”
Javits rõ ràng đã hỏi lầm câu, lầm người. Người bạn của ông có lẽ sẽ cho rằng ông đang hối hận về những việc ông đã làm trong đời và muốn bắt đầu lại, nhưng hoàn toàn không phải thế. Và nếu ông có hối tiếc thật, cũng đã quá muộn để bắt đầu lại, ông thừa biết luật chơi.
“Tôi hỏi anh làm người bình thường có nghĩa là gì?”
Một trong hai “người bạn” có vẻ bối rối. Người kia vẫn xem xét căn lều, quan sát người ra vào.
“Sống như một kẻ không có tham vọng”, cuối cùng “người bạn” thứ nhất nói.
Javits lấy tờ danh sách ra khỏi túi và đặt nó lên bàn.
“Tôi luôn mang cái này theo và lúc nào cũng viết thêm vào nó.
“Người bạn” nói rằng anh ta không thể xem nó bây giờ vì anh ta phải cảnh giác với những gì đang diễn ra quanh họ. Người kia, tuy nhiên, thoải mái và tự tin hơn, đọc to danh sách:
1. Bình thường là bất cứ thứ gì khiến chúng ta quên đi mình là ai và mình muốn gì, như thế chúng ta có thể làm việc để sản xuất, tái sản xuất và kiếm tiền.
2. Đặt ra các điều luật để tiến hành chiến tranh (Hiệp định Geneva).
3. Mài đũng quần ở trường đại học chỉ để cuối cùng thấy rằng mình thất nghiệp.
4. Làm một công việc chẳng hứng thú gì từ chín giờ sáng đến năm giờ chiều mỗi ngày chỉ để ba mươi năm sau có thể nghỉ hưu.
5. Nghỉ hưu và phát hiện ra mình không còn có đủ sinh lực để hưởng thụ cuộc sống và chết vài năm sau đó vì buồn chán cực độ.
6. Dùng Botox.
7. Tin rằng quyền lực quan trọng hơn hẳn tiền bạc và tiền bạc còn quan trọng hơn hẳn hạnh phúc.
8. Chế nhạo những ai kiếm tìm hạnh phúc hơn là tiền bạc và quy kết họ là “thiếu tham vọng”.
9. So sánh những đồ vật như xe hơi, nhà lầu, quần áo, và định nghĩa cuộc đời theo những so sánh đó, thay vì cố gắng khám phá lý do thực sự để sống.
10. Không bao giờ nói chuyện với người lạ. Nói xấu hàng xóm.
11. Tin rằng cha mẹ mình luôn đúng.
12. Kết hôn, sinh con, và vẫn ở bên nhau sau khi tất cả tình yêu đã chết, nói rằng đó là vì lợi ích của bọn trẻ (chúng, hiển nhiên, điếc tai trước những trận cãi vã liên tục).
12a. Chỉ trích những ai cố tỏ ra khác biệt.
14. Thức dậy mỗi sáng vì tiếng đồng hồ báo thức kêu inh ỏi trên cái bàn cạnh giường.
15. Tin tưởng tuyệt đối vào mọi thứ xuất hiện trên báo.
16. Đeo một mảnh vải có màu sắc quanh cổ, dù nó chẳng có ích lợi gì, ngoài việc được gọi là “cà vạt”.
17. Không bao giờ đặt một câu hỏi thẳng thắn, dù người kia có thể đoán bạn muốn biết điều gì.
18. Vẫn mỉm cười ngay cả khi sắp khóc. Thấy hổ thẹn cho những ai biểu lộ cảm xúc của họ.
19. Tin rằng nghệ thuật hoặc là rất giá trị hoặc là chẳng đáng một xu.
20. Coi thường những gì dễ dàng đạt được vì nếu nó không cần đến sự hy sinh, rõ ràng nó chẳng đáng có.
21. Theo đuổi các xu hướng thời trang, dù lố bịch hay bất tiện.
22. Tin rằng tất cả những người nổi tiếng đều dành dụm được cả núi tiền.
23. Đầu tư nhiều thời gian và tiền bạc vào vẻ bề ngoài và chẳng mấy bận tâm đến vẻ đẹp bên trong.
24. Sử dụng tất cả các phương tiện có thể để chứng tỏ rằng, dù bạn chỉ là một người bình thường, bạn hơn hẳn những người bình thường khác.
25. Không bao giờ nhìn vào mắt ai khi đi trên các phương tiện giao thông công cộng, phòng khi nó được hiểu là một dấu hiệu liếc mắt đưa tình.
26. Đứng đối diện cửa thang máy và vờ như bạn là người duy nhất ở trong đó, bất kể nó đông đến mức nào.
27. Không bao giờ cười quá to ở một nhà hàng dù câu chuyện cười có hay ho đến đâu.
28. Ở bán cầu Bắc, luôn ăn mặc theo mùa: áo cộc tay vào mùa xuân (dù trời lạnh) và áo khoác len vào mùa thu (dù trời nóng).
29. Ở bán cầu Nam, trang trí tuyết giả lên cây thông Noel dù mùa đông chẳng liên quan gì đến sự ra đời của Chúa Jesus.
30. Cho rằng, khi bạn lớn hơn, bạn là người bảo vệ lẽ phải của thế giới, dù kinh nghiệm sống chưa đủ để biết điều gì là phải, điều gì là trái.
31. Đến một bữa tiệc trà từ thiện và nghĩ rằng bạn đã góp phần chấm dứt bất công xã hội trên thế giới.
32. Một ngày ăn đủ ba bữa ngay cả khi bạn không đói.
33. Tin rằng những người khác luôn luôn hơn bạn - đẹp hơn, giỏi giang hơn, giàu có hơn, thông minh hơn - và bước ra ngoài những giới hạn của bạn thì thật nguy hiểm, thế nên tốt nhất là không làm gì.
34. Dùng xe hơi của mình làm vũ khí và lá chắn.
35. Chửi thề khi tắc đường.
36. Cho rằng tất cả những gì con bạn làm sai hoàn toàn do lỗi của bạn bè nó.
37. Cưới người đầu tiên cho bạn một vị trí tử tế trong xã hội. Tình yêu tính sau.
38. Luôn nói: “Mình đã cố gắng” trong khi bạn thực sự chẳng cố gắng chút nào.
39. Để dành những điều thực sự thú vị trong đời để làm sau, lúc bạn chẳng có hơi sức đâu mà làm nữa.
40. Giải khuây bằng việc hằng ngày ôm lấy cái ti vi.
41. Tin rằng bạn có thể chắc chắn về tất cả những gì bạn đã đạt được.
42. Cho rằng phụ nữ không thích bóng đá và đàn ông không thích trang trí nhà cửa và nấu nướng.
43. Đổ lỗi cho chính phủ về tất cả những chuyện tồi tệ xảy ra.
44. Nghĩ rằng làm một người tốt bụng, lịch thiệp, đứng đắn sẽ khiến người khác coi bạn là yếu đuối, nhu nhược, dễ bị điều khiển.
45. Cũng tin như thế rằng hung hăng và xấc xược đồng nghĩa với có “cá tính mạnh”.
46. Sợ bị nội soi (nếu là đàn ông) và sinh con (nếu là phụ nữ).
“Người bạn” cười.
“Ông nên làm phim về chủ đề này”, anh ta nói.
“Không phải lại thế chứ”, Javits nghĩ. “Chúng chẳng biết gì cả. Lúc nào chúng cũng ở cạnh ta, nhưng chúng vẫn không hiểu ta làm gì. Ta không làm phim.”
Tất cả các bộ phim bắt đầu trong óc của một người được gọi là nhà sản xuất. Ông ta vừa đọc một cuốn sách, chẳng hạn, hoặc có một ý tưởng xuất chúng khi đang lái xe trên các con đường cao tốc của Los Angeles (nó quả thực là một vùng ngoại ô rộng lớn đang tìm kiếm một thành phổ). Thật không may, ông ta chỉ có một mình, cả ở trong xe và trong khao khát muốn biến ý tưởng xuất chúng đó thành thứ gì đó có thể xem được trên màn ảnh.
Ông ta tìm hiểu xem quyền chuyển thể cuốn sách thành phim đã bị mua chưa. Nếu câu trả lời là tiêu cực, ông ta đi kiếm sản phẩm khác - xét cho cùng, chỉ riêng ở nước Mỹ đã có hơn sáu mươi nghìn cuốn sách được xuất bản mỗi năm. Nếu câu trả lời là tích cực, ông ta gọi điện cho tác giả và đưa ra giá thấp nhất có thể, thường là được chấp nhận vì không chỉ các diễn viên mới thích được cộng tác với cỗ máy giấc mơ. Mọi tác giả đều cảm thấy quan trọng hơn khi những câu chữ của ông ta hay bà ta được chuyển thể thành hình ảnh.
Họ sắp xếp một buổi ăn trưa. Nhà sản xuất nói cuốn sách là “một tác phẩm nghệ thuật mang tính điện ảnh cao” và nhà văn là “một thiên tài xứng đáng được công nhận”. Nhà văn giải thích đã dành năm năm để viết cuốn sách này và gợi ý được trợ giúp viết kịch bản. “Không, thực sự thì, ông không nên làm thế, đó là một môi trường hoàn toàn khác”, câu trả lời xuất hiện, “nhưng tôi biết kết quả sẽ làm ông hài lòng”. Rồi ông ta thêm: “Bộ phim sẽ hoàn toàn trung thành với nguyên tác”, điều đó, cả hai người họ đều biết, hoàn toàn là dối trá.
Nhà văn quyết định nên đồng ý với các điều kiện đó, tự hứa với mình rằng lần sau sẽ khác đi. Ông đồng ý. Nhà sản xuất bây giờ nói rằng họ phải thu hút sự chú ý từ một trong những hãng phim lớn vì họ cần hỗ trợ tài chính cho dự án. Ông ta nêu tên vài ngôi sao mà theo lời ông ta là đã xếp hàng cho các vai chính - một điều hoàn toàn dối trá khác, nhưng luôn được viện dẫn và có vai trò như một kỹ thuật cám dỗ. Ông ta mua cái được gọi là “quyền sử dụng tác phẩm”, có nghĩa là, ông ta trả khoảng mười nghìn đô la để có được bản quyền trong ba năm. Và rồi chuyện gì xảy ra? “Rồi chúng tôi sẽ trả gấp mười lần số tiền đó và ông sẽ được hưởng hai phần trăm lợi nhuận thuần.” Vấn đề tài chính của cuộc trò chuyện kết thúc ở đó, vì nhà văn tin chắc rằng ông sẽ kiếm được cả một gia tài từ phần chia lợi tức.
Nếu ông đi hỏi han khắp nơi, ông đã sớm nhận ra rằng các nhân viên kế toán Hollywood bằng cách này hay cách khác luôn xoay xở để không bộ phim nào thu được lợi nhuận cả.
Bữa trưa kết thúc với việc nhà sản xuất trao cho nhà văn một hợp đồng lớn và hỏi xem ông có thể ký nó ngay bây giờ không, để hãng phim biết rằng sản phẩm này hoàn toàn là của họ. Với đôi mắt gắn chặt vào tỷ lệ phần trăm (không tồn tại) đó và cơ hội thấy tên mình được tỏa sáng (một điều không xảy ra nốt, cùng lắm thì sẽ có một dòng chữ trong danh sách hiện lên cuối phim có đề: “Dựa theo cuốn sách của…”), nhà văn ký hợp đồng mà không lăn tăn gì nữa.
Phù phiếm của mọi phù phiếm, tất cả chỉ là phù phiếm, và điều đó chẳng có gì lạ, như lời Solomon nói hơn ba nghìn năm trước.
Nhà sản xuất bắt đầu gõ cửa vài hãng phim. Ông ta đã được biết đến trong ngành, vì thế một số cánh cửa mở ra, nhưng đề nghị của ông ta không phải lúc nào cũng được chấp thuận. Trong trường hợp đó, ông ta thậm chí còn không thèm gọi điện cho tác giả và mời đi ăn trưa lần nữa, mà chỉ viết cho tác giả một lá thư nói rằng dù ông ta nhiệt tình với dự án đó, nhưng ngành điện ảnh chưa sẵn sàng cho thể loại truyện này và ông ta sẽ trả lại hợp đồng (dĩ nhiên là ông ta chưa ký).
Nếu đề nghị được chấp thuận, nhà sản xuất tiếp tục đến với người ở vị trí thấp nhất và được trả thù lao ít nhất trong hệ thống cấp bậc: biên kịch viên, người sẽ dành hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng viết đi viết lại từ cái ý tưởng ban đầu hoặc tác phẩm được quyền phóng tác kia. Kịch bản phim được gửi đến nhà sản xuất (chứ không bao giờ đến tác giả), ông ta, theo thói quen, lập tức từ chối bản thảo đầu tiên, biết rằng biên kịch viên luôn làm được tốt hơn thế. Thêm nhiều tuần, nhiều tháng với cà phê và mất ngủ đối với tài năng trẻ sáng giá (hay kẻ viết thuê đứng tuổi - không có đối tượng nào ở giữa), viết lại từng phân cảnh, rồi lại bị nhà sản xuất từ chối hoặc sửa sang lại. (Và biên kịch viên nghĩ: “Nếu lão ta viết giỏi đến thế sao lão ta không viết cả đi?”. Rồi anh ta nhớ đến thù lao của mình và lặng lẽ quay về với cái máy vi tính.)
Cuối cùng, kịch bản gần như sẵn sàng. Lúc này, nhà sản xuất thảo ra một danh sách các yêu cầu: loại bỏ bất cứ ám chỉ liên quan đến chính trị nào có thể làm phật ý những khán giả bảo thủ, nhiều cảnh hôn hơn, vì phụ nữ thích thế một câu chuyện có đầu có đuôi, và một nhân vật chính làm người xem rơi lệ vì sự hy sinh và lòng tận tụy của mình, một nhân vật mất đi người yêu ngay ở đầu phim và lại tìm thấy anh ta hay cô ta lúc cuối phim. Thực tế thì, hầu hết các kịch bản phim có thể được tổng kết rất gọn như sau: Đàn ông yêu đàn bà. Đàn ông mất đàn bà. Đàn ông có lại đàn bà. Chín mươi phần trăm các bộ phim là biến thể của cùng một chủ đề đó.
Những bộ phim phá vỡ quy tắc này phải rất bạo lực để bù cho nó, hoặc có chứa nhiều hiệu ứng đặc biệt làm hài lòng số đông. Và vì công thức thử nghiệm này đã thành công mỹ mãn, tại sao lại phải liều lĩnh không cần thiết cơ chứ?

Trang bị với thứ được cho là một câu chuyện viết chắc tay, nhà sản xuất sẽ tìm ai kế tiếp? Hãng phim cấp vốn cho dự án này. Hãng phim, tuy nhiên, có một hàng dài các phim để bán cho số lượng ngày càng ít các rạp chiếu phim trên thế giới. Họ đề nghị ông ta chờ thêm một thời gian hoặc tìm một nhà phân phối độc lập, trước hết đảm bảo rằng nhà sản xuất ký một hợp đồng khổng lồ khác (thậm chí tính đến cả chuyện độc quyền “bên ngoài Trái Đất”), chịu hoàn toàn trách nhiệm với toàn bộ số tiền được chi ra.
“Và đó là nơi họ muốn ta bước vào!” Nhà phân phối độc lập có thể đi trên đường mà không bị nhận ra, dù tại các liên hoan truyền thông như thế này, ai cũng biết ông ta là ai. Ông ta là người không nảy ra ý tưởng, không viết kịch bản, và không đầu tư một xu nào.
Javits là người trung gian - nhà phân phối!
Ông tiếp nhà sản xuất trong một văn phòng nhỏ (chiếc máy bay lớn, căn nhà có bể bơi, những lời mời đến các bữa tiệc trên toàn thế giới chỉ hoàn toàn dành cho thú vui của ông - nhà sản xuất thậm chí không được hưởng một cốc nước lọc). Ông mang DVD về nhà. Ông xem năm phút đầu tiên. Nếu thích nó, ông xem đến hết, nhưng điều này chỉ xảy ra với tỷ lệ một phần trăm trong số các phim mới ông nhận được. Rồi ông mất mười xu gọi một cuộc điện thoại và bảo nhà sản xuất quay lại vào một ngày giờ cụ thể.
“Chúng ta sẽ ký”, ông nói, như thể đang ban ơn cho nhà sản xuất. “Tôi sẽ phân phối bộ phim này.”
Nhà sản xuất cố gắng thương lượng. Ông ta muốn biết bao nhiêu rạp chiếu phim ở bao nhiêu nước và với những điều khoản nào. Chúng, tuy nhiên, chỉ là những câu hỏi vô ích vì ông ta biết nhà phân phối sẽ nói: “Điều đó còn tùy vào phản ứng mà chúng ta thu được tại các buổi chiếu thử”. Sản phẩm được chiếu cho một bộ phận khán giả chọn lọc từ tất cả các tầng lớp xã hội, những người được các công ty nghiên cứu thị trường tuyển lựa riêng. Các kết quả được các chuyên gia phân tích. Nếu kết quả lạc quan, mười xu nữa được chi cho một cú điện thoại và ngày hôm sau, Javits trao cho nhà sản xuất ba bản sao của một hợp đồng lớn khác. Nhà sản xuất đề nghị cho luật sư của ông ta có thời gian để đọc nó. Javits nói ông không phản đối ông ta làm thế, nhưng ông cần hoàn thành chương trình của mùa chiếu này ngay và không thể đảm bảo rằng lúc nhà sản xuất quay lại, ông đã không chọn một phim khác.
Nhà sản xuất chỉ đọc điều khoản nói rằng ông ta sẽ kiếm được bao nhiêu tiền. Ông ta hài lòng với những gì mình nhìn thấy và thế là ông ta ký. Ông ta không muốn bỏ cơ hội này.
Hàng năm trời đã trôi qua từ khi ông ngồi với nhà văn để bàn về việc làm phim từ cuốn sách của ông ấy và ông đã hoàn toàn quên mất rằng hiện giờ ông đang ở trong tình huống giống hệt như vậy.
Phù phiếm của mọi phù phiếm, tất cả chỉ là phù phiếm, và điều đó chẳng có gì lạ, như lời Solomon nói hơn ba nghìn năm trước.

Javits quan sát căn lều đang đông nghịt khách và một lần nữa tự hỏi ông đang làm gì ở đó. Ông điều khiển hơn năm trăm rạp chiếu phim ở Mỹ và có hợp đồng độc quyền với năm nghìn rạp khác trên khắp thế giới, nơi các chủ rạp buộc phải mua mọi thứ ông đề nghị họ, cho dù các bộ phim không phải lúc nào cũng vừa ý. Họ biết rằng một bộ phim thành công về mặt doanh thu bù lại rất nhiều cho năm bộ phim khác không thu hút được công chúng. Họ phụ thuộc vào Javits, nhà phân phối độc lập vĩ đại, người hùng đã xoay xở phá vỡ được thế độc quyền của các hãng phim lớn và trở thành một huyền thoại trong ngành điện ảnh.
Chưa từng có ai thắc mắc sao ông làm được thế nhưng vì ông tiếp tục cho họ tỷ lệ một thành công lớn trên năm thất bại (trung bình ở các hãng phim lớn là một “bom tấn” trên chín “chìm nghỉm”), chuyện đó thực sự không quan trọng.
Javits, tuy nhiên, biết ông đã thành công như thế bằng cách nào, đó là lý do ông không bao giờ đi đâu mà không có hai “người bạn” kèm theo, những người này lúc đó đang bận trả lời điện thoại, sắp xếp các cuộc hẹn và nhận những lời mời. Họ đều có vóc người tầm thước, không như mấy tay đô con lực lưỡng ở cửa, nhưng họ có giá trị bằng cả một đội quân. Họ được huấn luyện ở Israel và từng phục vụ ở Uganda, Argentina và Panama. Một người nhận điện thoại còn người kia liên tục nhìn quanh, ghi nhớ từng người, từng động tác, từng cử chỉ. Họ thay phiên nhau làm những nhiệm vụ này vì, như các phiên dịch viên dịch song song và nhân viên kiểm soát không lưu, cứ sau mười lăm phút họ cần nghỉ ngơi một lần.
Ông đang làm gì ở “bữa trưa” này? Đáng lẽ ông có thể ở tại khách sạn, cố ngủ một chút. Ông chán ngấy việc được tâng bốc và ca ngợi, phải cười mỗi phút và nói với ai đó rằng thực sự họ chỉ phí công khi đưa ông danh thiếp vì ông sẽ làm mất nó. Khi họ cố nài, ông nhẹ nhàng bảo họ nói chuyện với một trong các thư ký của ông (lúc này đang trú tại một khách sạn sang trọng khác ở đại lộ Croisette, nơi họ không được phép ngủ, mà phải trả lời chiếc điện thoại không ngừng réo vang hoặc hồi đáp các thư điện tử ào ạt đổ về từ các rạp chiếu phim trên khắp thế giới, cùng với những hứa hẹn làm tăng kích cỡ dương vật hay nhân đôi khoái cảm đã xoay xở né được tất cả các phần mềm lọc thư rác). Tùy theo cách ông gật đầu, một trong hai phụ tá sẽ hoặc là cho người đó địa chỉ và số điện thoại của viên thư ký, hoặc là nói rằng thật không may họ đã hết mất danh thiếp.
Phải, ông đang làm gì ở “bữa trưa” này? Đáng lẽ giờ này ông đang ngủ ở Los Angeles, dù ông đi dự tiệc về khuya đến mức nào. Javits biết câu trả lời, nhưng ông không muốn chấp nhận nó: ông sợ cô đơn. Ông ghen tị với gã đàn ông đến sớm và ngồi uống nước quả kia, đang nhìn xa xăm, rõ ràng thoải mái và không bận tâm đến việc cố tỏ ra bận rộn hay quan trọng. Ông quyết định mời hắn đến uống với ông một ly, nhưng nhận ra hắn đã không còn ở đó nữa.
Ngay lúc đó, ông cảm thấy có thứ gì đó chích vào lưng mình.
“Muỗi! Thứ ta ghét ở các bữa tiệc trên bãi biển.”
Khi đưa tay gãi chỗ bị đốt, ông phát hiện thấy một cái kim nhỏ. Ắt hẳn là một trò đùa ngu ngốc. Ông nhìn lại đằng sau và, cách đó khoảng hai thước, được ngăn bởi vài vị khách khác, một gã da đen với những lọn tóc cuộn dài đang cười lớn, trong khi một nhóm phụ nữ nhìn gã với vẻ khâm phục pha lẫn khao khát.
Ông mệt mỏi đến nỗi chẳng buồn phản ứng với trò trêu chọc này. Tốt nhất cứ để cho gã làm trò hề ấy nếu đó là cách duy nhất giúp gã gây được ấn tượng với người khác.
“Thằng ngốc.”
Hai kẻ đồng hành với ông phản ứng trước sự thay đổi tư thế đột ngột của người đàn ông mà họ được trả bốn trăm ba mươi lăm đô la một ngày để bảo vệ. Một người đưa tay lên vai phải, nơi anh ta cất một khẩu súng lục tự động trong một bao súng hoàn toàn không trông thấy được dưới áo khoác. Người kia thận trọng đứng dậy (xét cho cùng, họ đang ở một bữa tiệc) và chắn giữa gã da đen và ông chủ của mình.
“Không có gì đâu”, Javits nói. “Chỉ là trò nghịch ngợm thôi.”
Ông cho họ xem cây kim.
Hai gã ngốc này luôn chuẩn bị tinh thần cho những vụ tấn công bằng súng và dao, những hành động gây hấn bạo lực hay mưu sát ông chủ họ. Họ luôn là người đầu tiên vào trong phòng khách sạn của ông, sẵn sàng bắn nếu cần. Họ có thể cảm nhận ai đó đang mang vũ khí (một việc phổ biến ở nhiều thành phố trên thế giới hiện nay), và không rời mắt khỏi người đó cho đến khi họ chắc chắn rằng anh ta vô hại. Khi Javits vào thang máy, ông đứng giữa họ, cơ thể hai người họ tạo thành một bức tường. Ông chưa bao giờ thấy họ rút súng bởi vì, nếu họ làm thế) họ sẽ dùng chúng. Họ thường giải quyết mọi vấn đề với một ánh nhìn hoặc vài từ kín đáo.
Vấn đề? Ông chưa bao giờ gặp bất cứ vấn đề gì từ khi có hai “người bạn” này, như thể chỉ riêng sự hiện diện của họ đã đủ để xua đi những linh hồn tội lỗi và những ý định xấu xa.
Họ dịu đi. Một trong hai người lại bắt đầu trả lời điện thoại, người kia nhìn chằm chằm vào gã Jamaica, kẻ táo tợn nhìn lại. Ở gã có gì kỳ quặc, nhưng chỉ cần một hành động ngu xuẩn từ gã thôi, gã sẽ phải đeo răng giả từ giờ phút này cho đến hết đời. Tất cả sẽ được thực hiện kín đáo nhất có thể, trên bãi biển, xa khỏi những con mắt tọc mạch, và chỉ do một trong hai người họ, trong khi người kia đứng đợi, ngón tay đặt trên cò súng. Tuy nhiên, thi thoảng, những hành động khiêu khích như thế là một mẹo để đánh lạc hướng vệ sĩ khỏi nạn nhân đã định. Họ thừa biết những mánh khóe đó.
“Ổn rồi…”
“Không, không ổn đâu. Gọi cứu thương đi. Tay tôi không cử động được.”
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: 24 Giờ Cô Độc Ở Cannes - Paulo Coelho

Postby bevanng » 06 Mar 2016

12:44 chiều

May mắn làm sao!
Điều cô không ngờ nhất sáng hôm đó là gặp được người đàn ông sẽ - cô chắc chắn - làm thay đổi cuộc đời cô. Nhưng ông ấy kia, ăn mặc cẩu thả như mọi khi, ngồi với hai người bạn, vì những người Quyền lực không cần tỏ ra họ quyền thế đến mức nào, họ thậm chí không cần vệ sĩ.
Maureen có một giả thuyết rằng những người ở Cannes có thể được chia thành hai loại:
(a) người rám nắng, ở ngoài trời cả ngày (họ đã là những kẻ chiến thắng) và có dấu hiệu cần thiết để vào được những nơi bị hạn chế nào đó của Liên hoan phim. Họ quay lại khách sạn để thấy vài thiếp mời đang chờ sẵn, hầu hết số đó sẽ bị quăng vào thùng rác.
(a) người xanh xao, chạy đôn chạy đáo từ văn phòng u ám này sang văn phòng u ám khác, xem các cuộc thử vai và xem vài bộ phim thực sự hay sẽ bị lạc trong mớ hỗn độn những thứ được bán hạ giá, hoặc phải chịu đựng vài thứ thật kinh dị có khi lại được đánh giá cao (giữa những người rám nắng) bởi vì những người làm ra chúng biết quan hệ đúng người.
Javits Wild, dĩ nhiên, hãnh diện với màu da rám nắng đáng ganh tị.

Liên hoan phim diễn ra ở thành phố nhỏ miền Nam nước Pháp trong mười hai ngày, đẩy giá cả lên, chỉ cho phép những xe được cấp phép lái qua các con đường, lấp kín sân bay với những chiếc phi cơ riêng và lấp kín các bãi biển với những người mẫu, không chỉ là một tấm thảm đỏ được cánh săn ảnh vây quanh, một tấm thảm dành cho các ngôi sao lớn bước đi trên đường vào Cung Hội nghị. Cannes không dành cho thời trang, nó dành cho điện ảnh!
Điều gây ấn tượng với bạn nhất là sự xa hoa và quyến rũ, nhưng tâm điểm thực sự của Liên hoan phim là thị trường song hành khổng lồ của ngành công nghiệp điện ảnh: kẻ mua người bán từ khắp nơi trên thế giới tụ hội về đây để giao dịch những bộ phim đã được thực hiện hoặc bàn chuyện đầu tư và ý tưởng. Vào một ngày bình thường, bốn trăm bộ phim được chiếu, chủ yếu là trong những căn hộ được thuê trong dịp này, với những người ngồi không được thoải mái trên giường, phàn nàn về cái nóng và yêu cầu mọi ý thích nhất thời của họ phải được đáp ứng, từ những chai nước khoáng trở đi, khiến những kẻ đang chiếu phim lo lắng và cười gượng gạo, vì cần thiết phải đồng ý mọi thứ, đáp ứng mọi yêu cầu, bởi điều quan trọng là có cơ hội trình chiếu một thứ có lẽ đã được ấp ủ hàng năm trời.
Tuy nhiên, trong khi bốn nghìn tám trăm sản phẩm mới này ganh đua quyết liệt để có cơ hội rời căn phòng khách sạn đó và được chiếu ở một rạp chiếu phim thích hợp, thế giới của những giấc mơ lại đang khởi hành theo một hướng khác: những công nghệ mới tiến bộ hơn, người ta không ra khỏi nhà nhiều nữa vì họ không thấy an toàn, hay vì họ phải làm việc quá nhiều, hay tại các kênh truyền hình cáp, nơi bạn thường có thể lựa chọn từ khoảng năm trăm phim mỗi ngày và hầu như chẳng phải trả xu nào.
Tệ hơn nữa, Internet đã biến bất cứ ai, bất cứ người nào thành một nhà làm phim. Các cổng thông tin chuyên biệt chiếu phim về những em bé lẩm chẩm bước đi, đàn ông, đàn bà bị chặt đầu trong những cuộc chiến, hay những phụ nữ phô bày thân thể chỉ vì khoái lạc được biết rằng người xem sẽ thích thú khoảnh khắc vui thú một mình của họ, phim về những con người “đông cứng” ở nhà ga Trung tâm Lớn, về các vụ tai nạn giao thông, các clip thể thao, các cuộc trình diễn thời trang, những bộ phim quay lén với ý định làm cho những con người ngây thơ tội nghiệp đi qua ống kính mắc cỡ.
Dĩ nhiên, người ta vẫn ra ngoài, nhưng họ thích tiêu tiền cho các bữa ăn trong nhà hàng và những bộ đồ hàng hiệu hơn vì họ có thể có mọi thứ khác trên màn hình ti vi với độ nét cao hay trên máy vi tính của họ.
Cái thời ai cũng biết người nào vừa giành giải Cành cọ vàng đã qua lâu rồi. Bây giờ, nếu bạn hỏi ai đoạt giải năm ngoái, ngay cả những người thực sự có mặt ở Liên hoan phim có thể cũng không nhớ. “Một người Romania nào đó thì phải?” Người này nói. “Tôi không chắc lắm, nhưng tôi nghĩ đó là một phim của Đức”, người kia nói. Họ sẽ len lén tra cứu trong catalogue và phát hiện ra đó là một người Ý, những bộ phim của người đó hóa ra chỉ được chiếu ở các rạp chiếu phim nghệ thuật.
Sau một thời kỳ cạnh tranh gay gắt với băng video cho thuê, các rạp chiếu phim lại bắt đầu phát đạt, nhưng bây giờ dường như chúng đang bước vào một thời kỳ thoái trào khác, phải cạnh tranh với các thuê bao Internet, với đĩa lậu và DVD của những bộ phim cũ tặng kèm theo các tờ báo. Điều này khiến cho phân phối trở thành một việc càng khó khăn hơn. Nếu một hãng phim lớn coi bộ phim mới phát hành nào đó là một sự đầu tư đặc biệt, họ sẽ cố gắng đảm bảo sao cho nó được chiếu cùng lúc ở càng nhiều rạp càng tốt, chỉ chừa ít chỗ cho bất cứ bộ phim mới nào cả gan tiến vào thị trường.
Và vài người liều lĩnh quyết định mạo hiểm - bất chấp tất cả những lý lẽ phản đối - phát hiện khi đã quá muộn rằng có một sản phẩm chất lượng thôi thì chưa đủ. Cái giá để đưa một bộ phim ra rạp tại các thủ đô lớn trên thế giới cao đến ngất ngưởng, với các bài quảng cáo nguyên trang trên báo chí, tiệc chiêu đãi, phát ngôn viên, tiệc quảng bá, các đội ngũ ngày càng đắt đỏ, thiết bị làm phim phức tạp, và nhân công ngày càng khan hiếm. Và vấn đề khó khăn nhất: tìm được nhà phân phối cho bộ phim.
Tuy thế hằng năm nó vẫn tiếp diễn, những bước chân lê lết từ nơi này đến nơi khác, những cuộc hẹn gặp, những nhân vật Đẳng cấp quan tâm tới mọi thứ trừ những gì đang chiếu trên màn ảnh, những công ty sẵn sàng trả một phần mười mức giá phải chăng để cho nhà làm phim nào đó cái “vinh hạnh” được chiếu tác phẩm của mình trên ti vi, những yêu cầu bộ phim phải được kiểm duyệt để không làm phật lòng các gia đình, những đòi hỏi bộ phim phải bị cắt cúp, những lời hứa (không phải lúc nào cũng giữ) rằng nếu kịch bản thay đổi hoàn toàn để tập trung vào một chủ đề đặc biệt, một bản hợp đồng sẽ được đưa ra vào năm sau.
Người ta nghe và chấp nhận vì họ không có lựa chọn. Người Đẳng cấp thống trị thế giới, lý luận của họ tinh tế giọng nói của họ nhẹ nhàng, nụ cười của họ kín đáo, nhưng quyết định của họ là dứt khoát. Họ biết. Họ chấp nhận hoặc từ chối. Họ có quyền lực. Và quyền lực không thương lượng với ai cả, chỉ với bản thân nó. Tuy nhiên, hy vọng chưa phải đã hết. Trong thế giới tưởng tượng và trong thế giới thực, luôn có một anh hùng.
Và Maureen hiện đang hãnh diện ngắm nhìn một người hùng như thế! Cuộc gặp lớn cuối cùng cũng sẽ diễn ra trong hai ngày tới sau gần ba năm làm việc, với những mơ ước, những cú điện thoại, những chuyến đi đến Los Angeles, quà cáp, sự giúp đỡ từ bạn bè trong Ngân hàng Ân huệ và thế lực của anh bạn trai cũ của cô, người đã học cùng cô ở trường điện ảnh rồi quyết định rằng làm việc cho một tạp chí điện ảnh có thế lực an toàn hơn nhiều so với nguy cơ mất cả đầu lẫn tiền bạc.
“Anh sẽ nói chuyện với Javits”, anh bạn trai cũ đã nói vậy. “Nhưng ông ấy không cần ai, ngay cả mấy tay nhà báo có thể quảng bá hay hủy hoại các sản phẩm của ông ấy. Ông ấy không phải hạng người đó. Bọn anh từng thử tổng hợp một bài báo để cố gắng tìm hiểu xem làm cách nào ông ấy khiến tất cả các chủ rạp quy thuận và phục tùng, nhưng không một ai làm việc cùng ông ấy sẵn sàng tiết lộ điều gì. Anh sẽ nói chuyện với ông ấy, nhưng anh không thể gây áp lực với ông ấy đâu.”
Anh ta đã nói chuyện với ông thật và khiến ông xem bộ phim Những bí mật trong căn hầm. Ngày hôm sau, cô nhận được một cuộc điện thoại nói rằng Javits sẽ gặp cô ở Cannes.
Lúc đó, Maureen thậm chí không dám nói cô chỉ còn cách văn phòng ông mười phút đi taxi, thay vào đó họ sắp xếp cuộc hẹn ở cái thành phố nước Pháp xa xôi này. Cô mua vé máy bay đi Paris, bắt một chuyên tàu đi mất cả ngày mới đến được Cannes, giơ biên lai ra cho gã quản lý cau có của một khách sạn rẻ tiền, nghỉ ngơi trong căn phòng đơn, nơi cô phải trèo qua đống hành lý để vào được phòng tắm, và (lại nhờ vào bạn trai cũ của cô) xoay được giấy mời đến một vài sự kiện xoàng xĩnh - quảng bá cho nhãn hiệu vodka mới hay khai trương dòng áo phông mới - nhưng đã quá muộn để xin xỏ được một tấm giấy thông hành cho phép cô vào trong Cung Liên hoan và Hội nghị.
Cô đã tiêu quá ngân quỹ, đi lại hơn hai mươi tiếng, nhưng ít nhất cô sẽ có mười phút của mình. Và cô chắc chắn sẽ có được một hợp đồng và một tương lai phía trước. Phải, ngành công nghiệp điện ảnh đang khủng hoảng, nhưng thế thì đã sao? Các bộ phim (tuy ít) vẫn đang hái ra tiền, đúng không? Các thành phố lớn dán đầy áp phích quảng cáo cho các bộ phim mới. Và trên các tạp chí nổi tiếng đang tràn ngập thứ gì nào? Tin tức lượm lặt về những ngôi sao điện ảnh! Maureen biết - hay, đúng hơn, tin rằng - cái chết của rạp chiếu phim trước đây đã được tuyên bố nhiều lần rồi, thế mà nó vẫn tồn tại. “Rạp chiếu phim chết” khi truyền hình xuất hiện. “Rạp chiếu phim chết” khi băng video xuất hiện. “Rạp chiếu phim chết” khi Internet bắt đầu cho phép truy cập vào những trang web vi phạm bản quyền. Nhưng rạp chiếu phim vẫn sống và sống tốt trên những đường phố của cái thành phố nhỏ bé ven bờ Địa Trung Hải này, nó, dĩ nhiên, nổi tiếng nhờ có Liên hoan phim.
Bây giờ chỉ còn phải tận dụng cái lộc trời cho này. Và chấp nhận hết, chấp nhận tất cả. Javits Wild ở đây. Ông đã xem phim của cô. Chủ đề của bộ phim rất chuẩn: lạm dụng tình dục, dù tự nguyện hay bắt buộc, đang thu hút nhiều chú ý của giới truyền thông sau một loạt vụ việc gây xôn xao khắp thế giới. Đây chính là thời điểm thích hợp cho Những bí mật trong căn hầm xuất hiện trên các tấm áp phích do chuỗi phân phối mà ông điều khiển dựng lên.
Javits Wild, kẻ nổi loạn chính đáng, người đàn ông đang cách mạng hóa phương thức đưa phim đến với đông đảo công chúng hơn. Mới chỉ có diễn viên Robert Redford* thử điều tương tự với Liên hoan phim Sundance dành cho các nhà làm phim độc lập, tuy nhiên, sau vài thập kỷ nỗ lực, Redford vẫn chưa tài nào vượt qua rào cản để tiến vào cái thế giới huy động được hàng trăm hiệu đô la ở Mỹ, châu Âu và Ấn Độ. Javits, dù vậy, là kẻ chiến thắng.
* Charles Robert Redford, Jr. (sinh năm 1936): diễn viên, đạo diễn phim, nhà sản xuất người Mỹ, người sáng lập ra Liên hoan phim Sundance.
Javits Wild, vị cứu tinh của các nhà làm phim, huyền thoại lớn, đồng minh của những cổ đông thiểu số, bạn của giới nghệ sĩ, người đỡ đầu mới, rõ ràng đã dùng một hệ thống rất thông minh (cô không biết nó là gì, nhưng cô biết nó có hiệu quả) để đến được với các rạp chiếu phim trên khắp thế giới.
Javits Wild đã sắp xếp một cuộc gặp mặt mười phút với cô trong hai ngày tới. Điều này chỉ có thể có một ý nghĩa duy nhất, ông đã chấp nhận dự án của cô và mọi thứ khác chỉ là tiểu tiết.
“Mình sẽ chấp nhận hết, chấp nhận tất cả”, cô lặp lại.
Rõ ràng, trong mười phút đó, Maureen sẽ không có cơ hội nói một lời về những gì cô đã trải qua trong bảy năm trời (phải, một phần tư cuộc đời cô) làm phim. Sẽ không ích gì khi kể với ông rằng cô đã học ở trường điện ảnh, là đạo diễn của vài mẩu quảng cáo, làm hai bộ phim ngắn được đón nhận nồng nhiệt trong vài rạp chiếu phim tỉnh lẻ hoặc trong các quán bar phá cách ở New York. Để gây được hàng triệu đô la cần thiết cho một sản phẩm chuyên nghiệp, cô đã thế chấp căn nhà cô được thừa kế từ cha mẹ. Đây là cơ hội duy nhất của cô vì cô không còn căn nhà nào khác để đem ra thế chấp.
Cô đã thấy các bạn đồng môn của cô, sau nhiều vất vả, lựa chọn ngành quảng cáo an nhàn - đang ngày càng phát triển - hoặc một công việc an toàn nhưng vô danh nào đó ở một trong nhiều công ty sản xuất phim truyền hình. Sau sự đón nhận nồng nhiệt dành cho mấy bộ phim ngắn của cô, cô bắt đầu mơ đến những thứ cao xa hơn và rồi không có gì ngăn cản được cô nữa.
Cô tin rằng cô có một sứ mệnh: biến thế giới thành một nơi tốt đẹp hơn cho thế hệ tương lai, bằng cách tập hợp với những người có chung quan điểm để chỉ ra nghệ thuật không chỉ là một phương thức giải trí hay tiêu khiển cho một xã hội lầm lạc, vạch trần tật xấu của những nhà lãnh đạo thế giới, cứu những đứa trẻ hiện đang chết đói đâu đó ở châu Phi, nêu lên ý kiến của mình về những vấn đề môi trường, và đặt dấu chấm hết cho những bất công xã hội.
Đây, dĩ nhiên, là một dự án tham vọng, nhưng cô chắc chắn sẽ đạt được nó nếu hết sức kiên trì. Để làm được điều này cô cần thanh lọc tâm hồn mình, vì thế cô quay lại với bốn lực lượng đã luôn dẫn đường cho cô: tình yêu, cái chết, quyền lực và thời gian. Chúng ta phải yêu vì chúng ta được Chúa yêu thương. Chúng ta phải ý thức về cái chết nếu chúng ta có hiểu biết đúng đắn về cuộc đời. chúng ta phải đấu tranh để phát hiện, mà không để bị rơi vào cái bẫy quyền lực chúng ta đạt được qua cuộc vật lộn đó, vì chúng ta biết quyền lực đó là vô giá trị. Cuối cùng, chúng ta phải chấp nhận rằng tâm hồn bất diệt của chúng ta, lúc này, đang bị mắc vào mạng lưới thời gian với tất cả những cơ hội và giới hạn của nó.
Có thể cô bị mắc vào một mạng lưới thời gian, nhưng cô vẫn được làm việc với thứ cho cô niềm vui và đong đầy cho cô lòng nhiệt tình. Và qua những bộ phim của mình, cô có thể đóng góp cho một thế giới dường như đang tan rã xung quanh cô, cố gắng thay đổi thực tại và biến đổi con người.

Lúc cha cô mất, sau cả cuộc đời phàn nàn rằng ông chưa bao giờ có cơ hội làm điều ông hằng mơ ước, cô nhận ra một điều hệ trọng: sự biến đổi luôn xảy ra trong thời điểm khủng hoảng.
Cô không muốn kết thúc cuộc đời như cha cô. Cô không muốn phải nói với con gái mình rằng: “Có một điều mẹ vẫn muốn làm và thậm chí đã có lúc mẹ có thể làm được, nhưng mẹ không có can đảm để liều lĩnh”. Khi nhận tài sản thừa kế, cô biết nó được trao cho cô chỉ với một lý do duy nhất: cho phép cô hoàn thành vận mệnh của mình.
Cô chấp nhận thử thách. Không như những cô thiếu nữ khác luôn mơ mộng trở thành diễn viên nổi tiếng, giấc mơ của cô là kể những câu chuyện để thế hệ sau có thể xem, cười và mơ về chúng. Tấm gương lớn nhất của cô là Công dân Kane. Bộ phim đầu tay của một nhà sản xuất truyền thanh muốn tiết lộ về một ông trùm báo chí Mỹ quyền lực đó đã trở thành kinh điển không chỉ vì câu chuyện của nó mà còn vì nó đã giải quyết những vấn đề đạo đức và chuyên môn thời bây giờ bằng một phương thức sáng tạo và mới mẻ. Chỉ cần một bộ phim để có được tiếng tăm bất hủ.
“Bộ phim đầu tay của ông.”
Hoàn toàn có thể thành công ngay từ lần đầu. Dù cho đạo diễn của nó, Orson Welles* không bao giờ làm được bộ phim nào hay như thế nữa. Tuy ông đã qua đời và hiện giờ chỉ được nghiên cứu trong các khóa học về điện ảnh, chắc chắn sớm hay muộn sẽ có người “tái khám phá” ra thiên tư của ông. Công dân Kane không phải là di sản duy nhất của Welles, ông đã chứng minh cho mọi người thấy nếu bước đi đầu tiên của bạn đủ tốt, sau này bạn sẽ không bao giờ thiếu nhũng lời mời. Và cô sẽ tóm lấy những lời mời đó. Cô đã tự hứa với mình sẽ không bao giờ quên những khó khăn cô đã trải qua và cuộc đời cô sẽ góp phần vào việc đề cao cuộc sống của con người.
* George Orson Welles (1915 - 1985): đạo diễn, nhà biên kịch, diễn viên, nhà sản xuất phim từng đoạt giải Oscar người Mỹ.
Và vì chỉ có thể có một bộ phim đầu tay, cô đã đổ tất cả công sức, khấn nguyện và tinh thần vào một dự án. Không như bạn bè cô, những người luôn mau chóng nảy ra nào kịch bản, đề xuất, ý tưởng, chỉ để cuối cùng làm mấy thứ cùng một lúc mà chẳng ra đâu vào đâu, Maureen cống hiến cả tinh thần và thể xác cho Những bí mật trong căn hầm, câu chuyện về năm nữ tu bị một kẻ cuồng dâm viếng thăm. Thay vì cố cải đạo Cơ Đốc cho hắn, họ nhận ra cách duy nhất để giao tiếp với hắn là chấp nhận những quy tắc trong cái thế giới lầm lạc của hắn, họ quyết định dâng hiến thân thể mình cho hắn để hắn có thể hiểu vinh quang của Chúa thông qua tình yêu.
Kế hoạch của cô thật đơn giản. Các nữ diễn viên Holly wood, dù nổi tiếng thế nào, thường biến mất khỏi các bảng phân vai khi đến tuổi ba mươi lăm. Họ vẫn tiếp tục xuất hiện trong những trang tạp chí về người nổi tiếng, được trông thấy ở các buổi đấu giá từ thiện và các bữa tiệc lớn, họ nắm lấy những động cơ nhân đạo, và khi nhận ra họ thực sự sắp biến mất hoàn toàn khỏi sự chú ý của công chúng, họ bắt đầu kết hôn hoặc có những vụ ly dị lộn xộn và gây ra các vụ tai tiếng - và tất cả vì vài tháng, vài tuần, vài ngày vinh quang. Trong thời kỳ giữa thất nghiệp và hoàn toàn chìm nghỉm đó, tiền bạc không quan trọng. Họ sẽ nhận bất cứ vai diễn nào nếu nó cho họ cơ hội xuất hiện trên màn ảnh.
Maureen tiếp cận những nữ diễn viên từng ở trên đỉnh cao chưa đầy một thập niên trước, nhưng nay cảm thấy mặt đất đang bắt đầu chao đảo dưới chân họ và khao khát muốn trở lại như xưa. Đó là một kịch bản tốt, cô gửi nó cho người quản lý của họ, những người yêu cầu một mức lương vô lý và nhận được câu trả lời không thẳng thừng. Bước tiếp theo của cô là tiếp cận trực tiếp từng nữ diễn viên. Cô nói với họ rằng cô có tiền cho dự án, và cuối cùng họ đều chấp nhận với điều kiện sẽ không ai được biết họ đang làm việc mà hầu như chẳng được gì.
Trong một ngành như điện ảnh, chẳng tội gì phải khúm núm. Đôi khi, bóng ma của Orson Welles xuất hiện trước cô trong những giấc mơ: “Hãy thử cái bất khả. Đừng xuất phát từ chỗ thấp vì đó hiện đang là vị trí của cô. Hãy leo lên thật nhanh trước khi họ lấy thang đi. Nếu cô sợ, hãy cầu nguyện, nhưng cứ tiếp tục”. Cô có một kịch bản tuyệt vời, một dàn diễn viên hàng đầu, và biết rằng cô phải làm ra thứ gì đó được các hãng phim lớn và các nhà phân phối chấp nhận, nhưng không được hy sinh chất lượng. Nghệ thuật và thương mại đi đôi với nhau là điều khả dĩ và, thực sự thì, bắt buộc. Về phần còn lại, chà, phần còn lại bao gồm nhiều thứ khác nhau: mấy tay phê bình say mê thủ dâm tinh thần và yêu thích những bộ phim chẳng ai hiểu, những hệ thống rạp chiếu phim ngoài luồng nhỏ, nơi nửa tá người như thế đi ra từ các buổi chiếu và dành khoảng thời gian nửa đêm về sáng ở các quán bar, hút thuốc và thảo luận về một cảnh đặc biệt (ý nghĩa của cảnh đó, rất có thể, khác hẳn so với dự định ban đầu khi làm phim), các đạo diễn rao giảng để giải thích những điều là hiển nhiên với khán giả, các cuộc họp công đoàn kêu gọi thêm nhiều viện trợ của nhà nước cho điện ảnh nội địa, tuyên ngôn trong các tạp chí tri thức - kết quả của những cuộc họp vô tận, tại đó đưa ra những lời phàn nàn cũ rích về sự thiếu quan tâm của chính phủ trong việc hỗ trợ nghệ thuật, bức thư ngỏ thỉnh thoảng được đăng trên các báo nghiêm túc và thường chỉ được những người có liên quan hoặc gia đình của những người có liên quan đọc.
Ai làm thay đổi thế giới? Người Đẳng cấp. Chính họ. Những người thay đổi thói quen, trái tim và trí óc của số đông công chúng.
Đó là lý do cô cần Javits, một giải Oscar và Cannes.
Và vì cô không thể có được những thứ đó “một cách dân chủ” - những người khác rất sẵn lòng đưa ra lời khuyên, nhưng không bao giờ gánh vác một rủi ro nào - cô chỉ đơn giản đánh cuộc mọi thứ. Cô thuê bất cứ ai có thể, dành hàng tháng viết lại kịch bản, thuyết phục những đạo diễn nghệ thuật, chuyên viên thiết kế và nam diễn viên phụ - ưu tú nhưng vô danh - tham gia, hầu như không hứa hẹn gì với họ về tiền bạc, chỉ tăng thêm sự nổi bật trong tương lai. Họ đều ấn tượng trước tên tuổi của năm nữ diễn viên chính (“Ngân quỹ chắc là lớn lắm!”), và lúc đầu đòi hỏi mức thù lao cao, nhưng cuối cùng bị thuyết phục rằng tham gia vào một dự án như thế sẽ rất có ích cho CV của họ. Maureen say mê ý tưởng này đến nỗi sự nhiệt tình của cô dường như mở được mọi cánh cửa.
Giờ đến bước cuối cùng, nó sẽ làm nên mọi sự khác biệt. Với một nhà văn hay nhạc sĩ, tạo ra thứ gì đó chất lượng thôi thì chưa đủ, họ phải đảm bảo sao cho tác phẩm của họ rốt cuộc không bị bám bụi trên ngăn kệ hay trong ngăn kéo.
Sự nổi bật là điều cần thiết!
Cô gửi bản sao của bộ phim đến duy nhất một người: Javits Wild. Cô tận dụng hết các mối quan hệ. Cô bị từ chối, mà vẫn tiếp tục. Cô bị phớt lờ, song chẳng nhụt chí. Cô bị ngược đãi, giễu cợt, tống cổ, nhưng vẫn tin điều đó là khả thi vì cô đã dốc hết tâm huyết vào thứ cô làm. Rồi bạn trai cũ của cô xuất hiện, và Javits Wild đồng ý xem bộ phim và gặp cô.
Cô vẫn để mắt đến Javits suốt bữa trưa, nhấm nháp trước cái khoảnh khắc họ sẽ gặp nhau trong hai ngày tới. Đột nhiên, cô nhận thấy ông cứng đờ, đôi mắt chẳng nhìn vào đâu cả. Một trong hai người bạn ngồi cùng ông liếc ra sau và sang bên cạnh, đưa một tay vào bên trong áo khoác. Người kia bắt đầu bấm loạn một dãy số trên điện thoại.
Chuyện gì xảy ra hay sao? Chắc chắn là không. Những người gần ông nhất vẫn đang nói chuyện, ăn uống, thưởng thức thêm một ngày của Liên hoan phim, các bữa tiệc, mặt trời, và những cơ thể hấp dẫn.
Một trong hai người cố gắng giúp Javits đứng dậy và dìu ông đi, nhưng ông tỏ ra không thể cử động. Chắc chẳng có gì nghiêm trọng lắm đâu. Có lẽ uống say quá. Mệt mỏi. Stress. Không, chắc chẳng có gì nghiêm họng lắm. Cô đã tới được đây, ở gần đến thế và…
Cô có thể nghe tiếng còi hụ phía xa xa. Chắc là cảnh sát, đang dẹp đường mở lối giữa dòng lưu thông liên tục tắc nghẽn để đến với một người quan trọng.
Một trong hai người khoác tay Javits lên vai anh ta và gắng gỏi đưa ông ra cửa. Tiếng còi hụ gần hơn. Người kia, tay vẫn để bên trong áo khoác, cứ nhìn tứ phía. Có lúc, mắt họ gặp nhau.
Javits được một trong hai người bạn đưa lên dốc, và Maureen băn khoăn không hiểu sao một người nhẹ cân như thế lại có thể dìu một người nặng nề nhường vậy mà chẳng tỏ ra mất mấy công sức.
Tiếng còi hụ dừng lại ngay bên ngoài lều. Javits lúc này đã biến mất với một trong hai người bạn, nhưng người thứ hai đang đi về phía cô, một tay vẫn bên trong áo khoác.
“Có chuyện gì vậy?” Cô hỏi, hoảng sợ, vì kinh nghiệm chỉ đạo các diễn viên nhiều năm đã dạy cô rằng khuôn mặt người đàn ông này là của một sát thủ chuyên nghiệp, một khuôn mặt trông như được tạc từ đá.
“Cô biết chuyện gì mà”, người đàn ông nói bằng thứ thổ âm cô không thể nhận ra.
“Tôi thấy ông ấy bắt đầu yếu đi, nhưng chuyện gì đã xảy ra?”
Người đàn ông kia vẫn để tay trong áo khoác, và lúc đó, Maureen chợt nghĩ đây có thể là cơ hội để biến một sự kiện nhỏ thành một triển vọng lớn.
“Tôi có thể giúp không? Tôi đi với ông ấy được chứ?”
Bàn tay bên trong áo khoác dường như buông lỏng một chút, nhưng đôi mắt dõi theo từng cử động của cô.
“Tôi sẽ đi với anh. Tôi biết Javits Wild. Tôi là bạn của ông ấy.”
Sau một tích tắc dường như bất tận, người đàn ông quay đi và bước nhanh về phía đại lộ, không nói một lời.
Trí óc Maureen hoạt động mau lẹ. Tại sao anh ta nói cô biết chuyện gì đã xảy ra? Và tại sao anh ta đột nhiên chẳng để ý gì đến cô nữa?
Những người khách khác vẫn chưa nhận ra điều gì, ngoài tiếng còi hụ, có lẽ họ cho đó là chuyện đang diễn ra ngoài đường. Còi hụ chẳng liên quan gì đến niềm vui, ánh nắng mặt trời, đồ uống, giao thiệp, phụ nữ xinh đẹp, đàn ông điển trai, đến người xanh xao và người rám nắng. Còi hụ thuộc về một thế giới khác, thế giới của trụy tim, bệnh tật và tội ác. Còi hụ chẳng khiến mọi người ở đây quan tâm.
Đầu óc Maureen bắt đầu quay cuồng. Chuyện gì đó đã xảy ra với Javits, và đây có thể là một món quà trời cho. Cô chạy đến cửa và thấy một chiếc xe cứu thương đang lao đi, còi hụ om sòm, trên làn đường bị chặn của đại lộ.
“Đó là bạn tôi”, cô nói với một tay vệ sĩ ở cửa. “Họ đưa ông ấy đi đâu thế?”
Anh ta cho cô cái tên của một bệnh viện. Không dừng lại suy nghĩ, Maureen bắt đầu chạy đi tìm taxi. Mười phút sau, cô nhận ra không có taxi trong thành phố này, chỉ có những cái được các tay gác cổng khách sạn gọi đến, bị cám dỗ với viễn cảnh có những món tiền boa rộng rãi. Vì không có đồng nào trong túi, cô đến một tiệm pizza, giơ tấm bản đồ của mình cho một người làm việc ở đó, và nhận ra cô phải chạy ít nhất nửa tiếng để đến được mục tiêu của mình.
Cô vẫn chạy suốt cả cuộc đời, vì vậy nửa tiếng cũng sê chẳng tạo nên nhiều khác biệt.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: 24 Giờ Cô Độc Ở Cannes - Paulo Coelho

Postby bevanng » 06 Mar 2016

12:53 chiều

“Chào buổi sáng.”
“Cô muốn nói “Chào buổi chiều” đúng không?” Một trong những cô gái kia đáp. “Chiều rồi.”
Mọi thứ hệt như cô đã tưởng tượng. Năm cô gái khác đang đợi đều khá giống cô, ít nhất là về vóc dáng. Họ, tuy nhiên, trang điểm đậm, mặc váy ngắn và áo trễ cổ, đều đang mải miết với điện thoại di động và những dòng tin nhắn.
Không ai nói gì vì họ biết họ là những tri kỷ từng trải qua những khó khăn và nhẫn nhục, đối mặt với những thách thức tương tự nhau và chấp nhận mỗi cú vấp ngã. Họ đều đang nỗ lực tin rằng những giấc mơ là không có giới hạn, rằng cuộc đời có thể thay đổi từng giây, rằng ở đâu đó khoảnh khắc thích hợp đang chờ đợi họ, và rằng đây chỉ là một bài kiểm tra sức mạnh ý chí của họ.
Họ có lẽ đều đã tranh cãi với gia đình, những người tin rằng con gái họ rốt cuộc sẽ thành gái điếm.
Họ đều đã lên sân khấu và trải qua nỗi hồi hộp cùng niềm phấn khích khi nhìn thấy khán giả và biết rằng mọi con mắt đang đổ dồn vào họ, họ đã cảm thấy sự cuồng nhiệt trong không khí và nghe tiếng vỗ tay vào lúc hạ màn. Họ đã tưởng tượng hàng trăm lần rằng có ngày một thành viên của giới Đẳng cấp sẽ có mặt trong đám khán giả và ghé thăm họ tại phòng phục trang sau buổi diễn với lời đề nghị về một điều gì đó lớn lao hơn là mời ăn tối, hỏi xin số điện thoại hay khen ngợi vì đã hoàn thành tốt công việc.
Để bắt đầu, họ chấp nhận một số lời mời, nhưng nơi duy nhất họ hướng đến là cái giường của một người đàn ông lớn tuổi, quyền lực nào đó - thường đã có gia đình, như tất cả những người đàn ông “thú vị” khác - chỉ quan tâm đến việc chinh phục thêm được một đối tượng.
Họ đều có bạn trai trạc tuổi họ, nhưng khi có ai hỏi họ đã kết hôn hay còn độc thân, họ luôn trả lời: “Tự do và không ràng buộc”. Họ nghĩ họ đang kiểm soát được tình hình. Họ đều được bảo - giờ đã hàng trăm lần - rằng họ thực sự có tài và chỉ cần cơ hội thích hợp, và người ở trước mặt họ là người có thể làm thay đổi cuộc đời họ. Thi thoảng họ cũng tin thế. Họ rơi vào cái bẫy tự tin thái quá và nghĩ họ quyền uy, cho đến ngày hôm sau, khi số điện thoại người đó đưa cho họ chuyển họ đến số máy nhánh của một thư ký cục cằn không có ý định để họ nói chuyện với ông chủ của cô ta.
Họ đe dọa bán câu chuyện cho những tờ báo khổ nhỏ, nói rằng họ đã bị lừa, dù chưa có ai trong số họ thực sự làm thế vì họ vẫn đang có cái suy nghĩ là: “Mình không được làm hỏng những cơ hội của mình trong ngành diễn xuất”.
Có khi một hay hai người còn có cái kinh nghiệm Alice ở xứ sở diệu kỳ giống như Gabriela, và bây giờ muốn chứng tỏ cho gia đình thấy họ có khả năng hơn mọi người nghĩ nhiều. Gia đình họ, dĩ nhiên, đến giờ đều đã thấy con gái mình trong các quảng cáo thương mại, trên các áp phích và bảng quảng cáo rải rác quanh thành phố, và, sau vài tranh cãi ban đầu, tin rằng những cô con gái ấy đang chuẩn bị bước vào một thế giới “rực rỡ và quyến rũ”.
Tất cả các cô gái đó đều tin giấc mơ của họ là khả thi, một ngày kia tài năng của họ sẽ được nhận ra, cho đến khi họ hiểu ra vấn đề: chỉ có một từ ma thuật - “các mối quan hệ”. Họ đã phân phát các tập sách của họ ngay khi đến Cannes, và giờ liên tục để mắt đến điện thoại, sau khi đã được mời đến bất cứ buổi khai trương và sự kiện nào họ có thể và cố gắng hết sức để vào được những nơi họ không thể, luôn luôn mơ tưởng ai đó sẽ mời họ đến một trong những bữa tiệc tối hoặc, giấc mộng lớn nhất, thưởng cho họ món quà lớn nhất, lời mời đi trên thảm đỏ ở Cung Hội nghị. Đó, tuy nhiên, có lẽ là giấc mơ khó thực hiện nhất, đến mức họ thực sự không cho phép mình nghĩ về nó, phòng khi cảm giác bị từ chối và tức giận hủy hoại khả năng đeo vẻ mặt hạnh phúc họ phải mang suốt ngày, ngay cả khi họ chẳng vui chút nào.
Các mối quan hệ.
Sau nhiều lẩn nhận dạng lầm lẫn, thi thoảng họ tìm thấy một đối tác có ích, đó là lý do họ có mặt ở đây. Một cuộc gặp gỡ như thế đã dẫn đến việc một nhà sản xuất New Zealand gọi cho họ. Chẳng ai hỏi là để làm gì, họ chỉ biết họ phải đúng giờ vì không ai có dư thời gian mà lãng phí, đặc biệt là những người trong ngành điện ảnh. Những người duy nhất thừa thời gian là năm cô gái trẻ trong phòng đợi, mải miết với điện thoại di động và tạp chí, buộc phải gửi các tin nhắn để xem liệu lát nữa họ có được mời đến thứ gì đó không, cố gắng nói chuyện với bạn bè, và luôn cố tình nói họ không rảnh để nói chuyện bây giờ vì họ có cuộc hẹn quan trọng với một nhà sản xuất phim.

Gabriela là người thứ tư được gọi. Cô đã cố diễn giải ánh mắt của ba ứng cử viên đầu tiên, những người bước ra khỏi phòng mà không nói năng gì, cơ mà, dĩ nhiên, họ đều là diễn viên, có khả năng giấu giếm bất kỳ cảm xúc nào, dù là vui hay buồn. Cả ba người đều quả quyết sải bước đến cửa và chúc những người còn lại một lời “Chúc may mắn” đầy tự tin, như để nói: “Khỏi cần lo lắng, các cô chẳng có gì để mất cả. Vai diễn là của tôi”.

Một bức tường trong căn hộ được căng vải đen. Sàn nhà bừa bãi đủ loại cáp điện và bóng đèn phủ lưới kim loại, và có một cái ô với tấm vải trắng trải trước nó, cũng như thiết bị âm thanh, màn hình và một máy quay video. Ở các góc dựng mấy chai nước khoáng, va li kim loại, giá ba chân, mấy mảnh báo, và một máy vi tính. Ngồi trên sàn, một phụ nữ đeo kính trạc ba mươi tuổi đang giở qua cuốn sách của Gabriela.
“Khủng khiếp”, cô ta nói, không ngẩng lên nhìn cô. “Dễ sợ.”
Gabriela không biết phải làm gì. Có lẽ cô nên giả vờ như không nghe thấy và đi tới chỗ nhóm kỹ thuật viên hút thuốc liên tục đang tán gẫu rôm rả ở một góc hoặc có lẽ cô nên đơn giản ở nguyên tại chỗ.
“Thứ này khiếp quá”, người phụ nữ lại nói.
“Đó là tôi.”
Cô không thể kiềm chế được. Cô đã chạy nửa vòng thành phố để đến đó, chờ đợi gần hai tiếng đồng hồ, tưởng tượng một lần nữa rằng cuộc đời cô sắp sửa thay đổi mãi mãi (dù giờ đây cô càng lúc càng ít ngả về những ảo mộng đó và sẽ không cho phép bản thân được phấn khích như cô đã từng), và cô chắc chắn không cần thêm lý do để thất vọng.
“Tôi biết”, người phụ nữ nói, đôi mắt vẫn gắn chặt vào mấy tấm ảnh. “Chúng chắc hẳn đã tiêu tốn của cô rất nhiều tiền. Người ta làm nên sự nghiệp nhờ làm sách ảnh, viết CV, điều hành các khóa học diễn xuất, và thường kiếm tiền nhờ sự hão huyền của mấy người như cô.”
“Nếu chị nghĩ tôi khủng khiếp đến thế sao chị còn gọi tôi?”
“Vì chúng tôi cần người khủng khiếp.”
Gabriela cười. Người phụ nữ cuối cùng ngẩng lên và nhìn đi nhìn lại cô.
“Tôi thích bộ đồ của cô. Tôi ghét những người tầm thường.”
Giấc mơ của Gabriela đang quay trở lại. Tim cô đập nhanh hơn.
Người phụ nữ đưa cho cô một tờ giấy.
“Lại chỗ đánh dấu đằng kia.”
Rồi cô ta quay lại đội của mình.
“Dập thuốc đi và đóng cửa lại. Tôi không muốn bị lẫn tạp âm.”
“Chỗ đánh dấu” là một hình chữ thập bằng băng dính màu vàng dán trên sàn. Điều này có nghĩa là diễn viên nam đang tự động đứng đúng chỗ trước ánh sáng và máy quay.
“Trong này nóng quá, tôi bị ra mồ hôi. Tôi có thể ít nhất là vào phòng tắm và thoa chút kem nền lên không, trang điểm một chút?”
“Dĩ nhiên là cô có thể, nhưng khi cô trở lại, sẽ không đủ thời gian để quay. Chứng tôi phải bàn giao việc này vào chiều nay.”
Tất cả những cô gái khác vào đây chắc cũng đã hỏi câu hỏi này và nhận được câu trả lời tương tự. Tốt nhất là không lãng phí thời gian. Cô lấy một chiếc khăn giấy ra khỏi túi và chấm chấm lên mặt khi cô tiến đến chỗ đánh dấu.
Một trợ lý đứng vào chỗ máy quay, trong khi Gabriela chiến đấu với thời gian, cố đọc qua hết những gì được viết trên nửa mảnh giấy đó.
“Bài kiểm tra hai mươi lăm, Gabriela Sherry, Công ty quản lý Thompson.”
“Hai mươi lăm?!” Gabriela nghĩ.
“Và diễn”, người phụ nữ đeo kính nói.
Im lặng đổ xuống.

“Không, tôi không tin nổi những gì anh nói. Chẳng ai có thể vô cớ giết người.”
“Làm lại. Cô đang nói chuyện với bạn trai đấy.”
“Không, em không tin nổi những gì anh nói. Chẳng ai có thể vô cớ giết người như thế.”
“Từ “như thế” không có trong kịch bản. Cô có thực sự nghĩ rằng biên kịch viên, thực hiện công việc này hàng tháng trời, không cân nhắc tới việc đưa những từ đó vào, mà quyết định bỏ đi vì họ thấy chúng là vô ích, nông cạn, thừa thãi không?”
Gabriela hít một hơi thật sâu. Cô không có gì để mất ngoài sự kiên nhẫn. Giờ thì cô sẽ làm hết sức, rồi rời đi, ra biển, hoặc quay về ngủ một lát. Cô cần nghỉ ngơi để lấy sức cho một loạt các bữa tiệc cocktail vào buổi tối.
Một sự bình tĩnh dễ chịu kỳ lạ đến với cô. Đột nhiên, cô cảm thấy được che chở, yêu thương, yêu đời. Không ai ép uổng cô đến đó, chịu đựng thêm một nỗi nhục khác. Lần đầu tiên trong bao năm qua, cô nhận thức được sức mạnh của mình, một sức mạnh cô chưa bao giờ nghĩ là nó tồn tại.
“Không, em không tin nổi những gì anh nói. Không ai có thể vô cớ giết người.”
“Câu thoại tiếp theo.”
Cô ta không cần nói thế. Dẩu sao Gabriela vẫn sẽ tiếp tục.
“Chúng ta nên đến bác sĩ. Em nghĩ anh cần giúp đỡ.”
“Không”, người phụ nữ đeo kính nói, cô ta đang đóng vai anh bạn trai.
“Được, vậy không đến bác sĩ nữa. Đi dạo chút nhé, và anh có thể kể em nghe chính xác chuyện gì đang xảy ra. Em yêu anh, anh biết đây, và dù cho trên đời này không có ai quan tâm đến anh, thì vẫn còn em.”
Không còn lời thoại nào nữa. Lại một sự im lặng. Một năng lượng kỳ lạ tràn ngập căn phòng.
“Hãy bảo cô gái còn lại ngoài kia là cô ấy có thể đi”, người phụ nữ đeo kính nói với một trong những người khác có mặt.
Có phải như Gabriela nghĩ không?
“Hãy đến bên du thuyền cuối đại lộ Croisette, đối diện Allée des Palmiers. Một chiếc xuồng sẽ đợi ở đó lúc 1:15 để lập tức đưa cô đến gặp ngài Gibson. Chúng tôi sẽ gửi băng video cho ông ấy ngay bây giò, nhưng ông ấy luôn muốn gặp những người ông ấy có thể làm việc cùng.”
Một nụ cười hiện lên trên khuôn mặt Gabriela.
“Tôi nói “có thể”, tôi không nói “sẽ làm việc cùng”.”
Nụ cười vẫn trên môi. Ngài Gibson!
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: 24 Giờ Cô Độc Ở Cannes - Paulo Coelho

Postby bevanng » 06 Mar 2016

1:19 chiều

Nằm trên cái bàn inox giữa thanh tra Savoy và nhà nghiên cứu bệnh học là một cô gái trẻ xinh đẹp khoảng hai mươi tuổi, hoàn toàn khỏa thân. Và đã chết.
“Ông có chắc không?”
Nhà nghiên cứu bệnh học đi đến bên bồn rửa inox, tháo đôi găng tay cao su, ném chúng vào thùng rác, và mở vòi nước.
“Chắc chắn. Không có dấu vết của ma túy.”
“Vậy thì chuyện gì đã xảy ra? Một cô gái trẻ như thế lẽ nào bị trụy tim?”
Tiếng động duy nhất trong phòng là tiếng nước chảy. Nhà nghiên cứu bệnh học nghĩ:
“Họ luôn nghĩ đến điều hiển nhiên: ma túy, trụy tin…”
Ông rửa tay lâu hơn mức cần thiết - nỗi căng thẳng bao giờ cũng đến đúng lúc. Ông bôi chất tẩy uế lên hai cánh tay và ném những thứ dùng một lần được sử dụng trong giải phẫu đi. Rồi ông quay lại và đề nghị viên thanh tra quan sát thi thể.
“Không, thực sự, hãy nhìn kỹ đi. Đừng ngại ngùng. Để ý chi tiết là một phần công việc của anh, không đúng sao?”
Savoy quan sát kỹ thi thể. Có lúc, anh giơ tay ra để nhấc một cánh tay của cô gái lên, nhưng nhà bệnh học ngăn anh lại.
“Không cần chạm vào.”
Savoy đưa mắt nhìn khắp thân thể lõa lồ của cô gái. Giờ anh biết khá nhiều về cô - Olivia Martins, con gái của một cặp vợ chồng người Bồ Đào Nha, hiện đang đi lại với một thanh niên không có nghề nghiệp ổn định, hắn ta nghiện nặng cuộc sống về đêm ở Cannes và, lúc đó, đang bị thẩm vấn tại một đồn cảnh sát cách đó khá xa. Tòa án phát lệnh khám xét căn hộ của anh ta và họ tìm thấy vài chai bẹt đựng THC*. Họ cũng tìm thấy sáu bao, mỗi bao chứa một gam cocaine, và vài vết máu trên một tấm khăn trải giường hiện đang trên đường đến phòng thí nghiệm để kiểm tra. Có lẽ anh ta, cùng lắm, là một tay bán lẻ cò con. cảnh sát biết anh ta, anh ta từng vào tù đôi lần, nhưng chưa bao giờ vì tội bạo hành.
* Tetrahydrocannabinol, nguyên tố gây ảo giác chính trong cần sa, có thể hòa tan trong dầu vừng, không để lại mùi và có tác động mạnh hơn nhiều lần so với hấp thụ qua khói.
Olivia thật đáng yêu, dù đã chết. Đôi chân mày sẫm màu, diện mạo trẻ thơ, bộ ngực… “Không”, anh nghĩ, “mình không được nhìn đến đó. Mình là một người chuyên nghiệp”.
“Tôi không thấy gì cả”, anh nói.
Nhà bệnh học mỉm cười, và Savoy thấy cái tính tự mãn của ông ta hơi khó chịu. Vị chuyên gia chỉ một vết nhỏ, đỏ tía, gần như không thể nhận thấy giữa vai trái và họng cô gái. Rồi ông chỉ cho anh một vết tương tự khác trên sườn phải của thân mình cô, giữa hai rẻ xương sườn.
“Tôi có thể bắt đầu bằng cách chỉ cho anh các chi tiết kỹ thuật. Nguyên nhân cái chết là do tắc nghẽn tĩnh mạch cảnh và động mạch cảnh khi, đồng thời, áp lực tương tự đè vào một bó dây thần kinh đặc biệt, nhưng chính xác đến mức gây ra tê liệt hoàn toàn cho phần trên của cơ thể…”
Savoy không nói gì. Nhà bệnh học nhận ra đây không phải lúc để khoe kiến thức hay đùa cợt. Ông thấy khá hổ thẹn. Ông làm việc với cái chết hằng ngày và ngày nào cũng bị quây giữa các tử thi và những người đối mặt với cái chết. Con ông chưa bao giờ nói với ai cha chúng làm nghề gì, và ông chẳng có gì để nói tại các bữa tiệc tối vì người ta ghét bàn luận về những chủ đề họ cho là rùng rợn. Đôi khi ông tự hỏi liệu có phải, ông đã chọn lầm nghề không.
“… tóm lại, cô ấy bị siết chết.”
Savoy vẫn không nói gì. Não anh đang làm việc rất mau lẹ: Làm thế nào mà lại có người bị siết chết trên đại lộ Croisette giữa ban ngày ban mặt được? Bố mẹ cô ấy đã được phỏng vấn, và họ nói con gái họ rời nhà vào buổi sáng cùng với hàng hóa như thường lệ - hàng hóa bất hợp pháp, cần phải nói thế vì những người bán hàng rong không trả thuế và do đó bị cấm buôn bán. “Dù bây giờ điều đó chẳng mấy liên quan”, anh nghĩ.
“Điều đáng tò mò về trường hợp đặc biệt này”, nhà bệnh học nói, “là trong một trường hợp bóp cổ thông thường, có dấu vết ở cả hai bên vai, nghĩa là, trong trường hợp điển hình, kẻ tấn công túm quanh họng nạn nhân và nạn nhân vùng vẫy thoát ra. Trong trường hợp này, chỉ một bàn tay, hay, đúng hơn là, một ngón tay ngăn máu lên não, trong khi ngón tay kia làm tê liệt cơ thể, khiến cho cô ấy không thể phản công. Điều này đòi hỏi một kỹ thuật rất tinh vi và một kiến thức cặn kẽ về cơ thể người”.
“Cô ấy có thể nào bị giết ở đâu đó và được mang đến chiếc ghế băng nơi chúng ta thấy cô ấy không?”
“Nếu thế sẽ có những dấu vết khác trên thân thể cô ấy. Đó là thứ đầu tiên tôi tìm kiếm, giả sử cô ấy chỉ do một người giết. Khi tôi không tìm thấy dấu vết gì, tôi tìm kiếm bất cứ dấu hiệu nào chứng tỏ cô ấy bị tóm vào khuỷu tay hay cổ chân, nếu, nghĩa là, chúng ta đang đối phó với hơn một sát thủ. Nhưng thực sự chẳng có gì chỉ ra điều này mà không đòi hỏi đi sâu thêm vào chi tiết kỹ thuật, có những điều xảy ra lúc chết mà để lại dấu vết trong cơ thể. Nước tiểu, chẳng hạn, và…”
“Ý ông là gì?”
“Cô ấy bị giết ở nơi cô ấy được tìm thấy và, căn cứ vào những dấu tay trên cơ thể cô ấy, chỉ một người duy nhất có liên quan, vì không ai thấy cô ấy cố gắng chạy đi, rõ ràng cô ấy quen biết với tên sát nhân, kẻ ngồi bên trái cô, kẻ giết cô phải là một tay cực kỳ lão luyện và có kiến thức rộng về võ thuật.”
Savoy gật đầu cảm ơn và vội bước về phía lối ra. Trên đường đi, anh gọi cho đồn cảnh sát, nơi bạn trai cô gái đang bị thẩm vấn.
“Quên ma túy đi”, anh nói. “Chúng ta có một vụ giết người. Cố tìm hiểu xem anh bạn trai đó biết gì về võ thuật. Tôi sẽ đến ngay.”
“Không”, giọng ở đầu dây bên kia nói. “Đến thẳng bệnh viện đi. Tôi nghĩ chúng ta có một vấn đề khác.” 
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: 24 Giờ Cô Độc Ở Cannes - Paulo Coelho

Postby bevanng » 06 Mar 2016

1:28 chiều

Một con hải âu đang bay trên bờ biển thì thấy một con chuột. Nó sà xuống và hỏi con chuột:
“Cánh của cậu đâu?”
Mỗi loài vật nói một ngôn ngữ khác nhau, vì thế con chuột không hiểu câu hỏi, chỉ nhìn chằm chằm vào hai vật to lớn lạ lùng gắn trên cơ thể sinh vật kia.
“Chắc là bệnh tật chi đây”, con chuột nghĩ.
Chim hải âu nhận thấy con chuột đang nhìn chằm chằm vào cánh của nó và nghĩ:
“Tội nghiệp. Chắc nó bị bọn quái vật tấn công đến nỗi bị điếc và mất cả cánh rồi.”
Cảm thấy thương thay cho con chuột, hải âu dùng mỏ quắp lấy nó và đưa nó đi một chuyến trên trời. “Có lẽ nó nhớ nhà”, hải âu nghĩ trong khi chúng đang bay. Rồi, rất cẩn thận, nó lại đặt con chuột xuống mặt đất.
Suốt vài tháng sau, con chuột ngập chìm trong ủ ê buồn bã, nó đã biết độ cao và thấy một thế giới rộng lớn, tươi đẹp. Tuy nhiên, chẳng bao lâu, nó lại quen với việc là một con chuột và bắt đầu tin rằng điều kỳ diệu từng xảy ra trong cuộc đời nó chẳng là gì ngoài một giấc mơ.

Đây là một câu chuyện từ thời thơ ấu của nàng, nhưng ngay lúc này, nàng đang ở trên bầu trời: nàng có thể thấy biển cả xanh như ngọc, đám du thuyền xa hoa, bao con người nhỏ xíu như kiến bên dưới, những căn lều trên bãi biển, những ngọn đồi, chân trời bên tay trái, phía bên kia nó là châu Phi và tất cả những vấn đề của nó.
Mặt đất đang vun vút tiến lại. “Tốt nhất là ngắm nhân loại từ trên cao”, nàng nghĩ. “Chỉ khi đó chúng ta mới có thể thấy chúng ta nhỏ bé thế nào.”
Ewa có vẻ buồn bực, hoặc là thế hoặc là lo lắng. Hamid không bao giờ thực sự biết được điều gì đang diễn ra trong đầu vợ ông, dù đến giờ họ đã ở bên nhau hơn hai năm. Cannes, quả thực, là một thử thách cho những ai có liên quan, nhưng ông không thể rời Liên hoan phim sớm hơn dự kiến. Thêm nữa, nàng phải quen với tất cả những điều này vì cuộc sống của chồng cũ nàng hồi trước không khác là bao, với những bữa tiệc tối cần tham dự, những sự kiện cần tổ chức, và phải liên tục thay đổi đất nước, lục địa và ngôn ngữ.
“Nàng luôn như thế này hay nàng không yêu mình nhiều như lúc đầu?”
Một ý nghĩ cấm kỵ. Làm ơn tập trung vào những điều khác đi.
Tiếng ồn của động cơ không cho phép trò chuyện, trừ phi bạn dùng tai nghe có gắn micro. Ewa thậm chí chưa nhấc nó lên từ cái móc bên cạnh chỗ ngồi của nàng. Không phải ông có ý bảo nàng đeo nó lên để ông có thể nói với nàng lần thứ một nghìn rằng nàng là người phụ nữ quan trọng nhất trong cuộc đời ông và ông sẽ cố hết sức để đảm bảo sao cho nàng ưa thích tuần lễ tại đây, Liên hoan phim Cannes đầu tiên của nàng. Hệ thống âm thanh trên máy bay đang mở, do đó mọi cuộc trò chuyện có thể bị viên phi công nghe thấy, và Ewa ghét phô trương tình cảm nơi công cộng.
Họ ở đó, trong cái lồng kính kia, sắp hạ cánh. Ông có thể thấy chiếc Maybach, một chiếc xe hơi khổng lồ màu trắng, chiếc xe đắt nhất và sành điệu nhất trên thế giới. Còn độc đáo hơn cả Rolls-Royce. Họ sẽ sớm ngồi trong đó, nghe chút âm nhạc thư giãn, và uống sâm banh ướp lạnh hoặc nước khoáng.
Ông nhìn vào chiếc đồng hồ đeo tay bạch kim, phiên bản chính thức của một trong những mẫu mã đầu tiên sản xuất trong một xưởng nhỏ ở thị trấn Schaffhausen. Phụ nữ có thể chi cả một gia tài vào kim cương mà không bị điều tiếng gì, nhưng đồng hồ đeo tay là món trang sức duy nhất dành cho một người đàn ông có khiếu thẩm mỹ, và chỉ những người sành sỏi mới biết tầm quan trọng của chiếc đồng hồ đó, nó hiếm khi được quảng cáo trên các tạp chí hào nhoáng.
Đó có thể là một định nghĩa về sự sành điệu đích thực: biết chỗ tìm thấy thứ tốt nhất dù người khác chưa bao giờ nghe tới nó, và tạo ra được thứ tốt nhất nữa, bất kể người ta nói gì.
Đã gần 2 giờ chiều, và ông cần nói chuyện với tay môi giới cổ phiếu của ông ở New York trước khi giao dịch mở cửa trên thị trường chứng khoán. Khi ông tới nơi, ông sẽ gọi điện thoại - chỉ một cuộc - với những chỉ thị của ông trong ngày hôm đó. Kiếm tiền ở “sòng bạc”, như cách ông gọi các quỹ đầu tư của mình, không phải là trò ưa thích của ông, tuy nhiên, ông phải giả vờ để mắt đến những gì mấy tay quản lý và kỹ sư tài chính của ông đang làm. Ông có thể trông cậy vào sự bảo trợ, ủng hộ và thận trọng của tộc trưởng, tuy nhiên ông phải chứng minh rằng ông luôn cập nhật những gì đang diễn ra.
Ông có thể, rốt cuộc, phải gọi hai cuộc điện thoại, nhưng không có chỉ thị cụ thể nào về việc mua hay bán gì. Năng lượng của ông tập trung vào thứ khác: chiều hôm đó, ít nhất hai nữ diễn viên - một nổi tiếng và một vô danh - sẽ mặc những bộ váy của ông khi bước trên thảm đỏ. Hiển nhiên, ông có những phụ tá lo liệu được mọi thứ, nhưng ông thích đích thân nhúng tay vào, dù chỉ để nhắc nhở bản thân rằng mọi chi tiết là quan trọng và rằng ông không bỏ quên cái nền tảng trên đó ông đã xây dựng nên đế chế của mình. Ngoài ra, ông muốn cố gắng tận hưởng trọn vẹn phần thời gian còn lại ở Pháp bên Ewa, giới thiệu nàng với những người thú vị, đi dạo trên bãi biển, ăn trưa cùng nhau ở một nhà hàng nhỏ trong một thị trấn gần đó, hoặc tản bộ, tay trong tay, qua những vườn nho ông có thể trông thấy nơi chân trời.
Trước kia ông luôn cảm thấy mình không thể yêu gì hơn công việc, dù danh sách những lần chinh phục của ông có cả một chuỗi những mối quan hệ đáng thèm muốn với một vài phụ nữ thậm chí còn đáng thèm muốn hơn. Tuy nhiên, khoảnh khắc Ewa xuất hiện, ông đã là một con người khác. Họ đã ở bên nhau được hai năm và tình yêu của ông mạnh mẽ, mãnh liệt hơn bao giờ hết. Yêu. Ông, Hamid Hussein, một trong những nhà thiết kế nổi tiếng nhất trên hành tinh, khuôn mặt nổi bật của một tập đoàn quốc tế khổng lồ bán sự xa xỉ và quyến rũ. Người đàn ông đã chiến đấu với mọi thứ và mọi người, đã thách thức tất cả những tư tưởng định kiến của phương Tây về những người đến từ Trung Đông và tôn giáo của họ, đã vận dụng kiến thức của bộ tộc do tổ tiên truyền lại để tồn tại, học hỏi và lên đến đỉnh cao. Trái với đồn đại, ông không xuất thân từ một gia đình dầu mỏ giàu có. Cha ông là một người bán vải, một ngày kia bỗng được lòng tộc trưởng chỉ vì ông cụ không chịu làm theo điều được bảo.
Mỗi khi Hamid do dự không biết quyết định thế nào, ông thường nhớ tới ví dụ ông đã học được khi còn niên thiếu: nói không với những người quyền lực, ngay cả khi làm thế có nghĩa là nắm giữ một rủi ro rất lớn. Hầu như lúc nào nó cũng có hiệu quả. Và trong vài trường hợp nó không có tác dụng, những hậu quả không đến nỗi nghiêm trọng như ông đã tưởng tượng.
Tiếc thay, cha ông không còn sống để trông thấy thành công của con trai mình. Khi tộc trưởng bắt đầu mua hết tất cả đất đai có giá trị ở khu vực đó của sa mạc để xây dựng một trong những thành phố hiện đại nhất thế giới, cha ông đã cả gan nói với một trong những phái viên của tộc trưởng:
“Tôi sẽ không bán. Gia đình tôi đã ở đây hàng thế kỷ. Chúng tôi chôn những người đã khuất ở đây. Chúng tôi đã học cách vượt qua những cơn bão và những kẻ xâm lược. Chúng tôi không thể bán nơi Chúa đã giao trọng trách cho chúng tôi chăm sóc.”
Các phái viên trả giá cao hơn. Khi ông vẫn từ chối, họ trở nên giận dữ và đe dọa làm bất cứ việc gì cần thiết để đuổi ông. Tộc trưởng cũng bắt đầu mất kiên nhẫn. Ông ta muốn tiến hành dự án ngay vì ông ta có những kế hoạch lớn. Giá dầu đã tăng trên thị trường thế giới, và tiền bạc cần được chi tiêu trước khi các giếng dầu dự trữ cạn kiệt và khả năng xây dựng cơ sở hạ tầng để thu hút đầu tư nước ngoài biến mất.
Tuy nhiên ông lão Hussein vẫn không chịu bán đất đai của mình, dù với giá bao nhiêu. Rồi tộc trưởng quyết định đến nói chuyện trực tiếp với ông cụ.
“Ta có thể cho ông bất cứ thứ gì ông mong muốn”, ông ta nói.
“Vậy hãy cho con trai tôi ăn học tử tế. Giờ nó mười sáu tuổi, và ở đây nó sẽ không có triển vọng gì cả.”
“Chỉ khi ông bán nhà cho ta.”
Im lặng một lúc lâu, rồi cha ông, nhìn thẳng vào tộc trưởng, nói một điều mà người kia chưa bao giờ ngờ đến.
“Thưa ngài, ngài có trách nhiệm giáo dục cho thần dân của ngài, và tôi không thể đánh đổi tương lai của gia đình tôi với cái quá khứ này.”
Hamid nhớ đến vẻ buồn bã tột độ trong mắt cha ông khi ông lão tiếp tục:
“Nhưng nếu ngài có thể ít nhất cho con trai tôi một cơ hội trong đời, thì tôi sẽ chấp nhận lời đề nghị.”
Tộc trưởng ra về mà không nói gì thêm. Ngày hôm sau, ông ta bảo cha của Hamid cử con trai đến chỗ ông ta để họ có thể nói chuyện. Sau khi đi trên những con đường ngổn ngang, qua những cần trục khổng lồ, những nhân công làm việc không mệt mỏi, và tất cả những khu vực đang trong quá trình bị phá dỡ, Hamid rốt cuộc đến được cung điện xây bên hải cảng cũ.
Tộc trưởng đi thẳng vào vấn đề.
“Cậu biết ta muốn mua nhà của cha cậu. Đất nước chúng ta chỉ còn rất ít dầu, và chúng ta phải ngừng phụ thuộc vào dầu và tìm những con đường khác trước khi các giếng dầu cạn khô. Chúng ta sẽ chứng tỏ với thế giới rằng chúng ta có thể bán không chỉ dầu mà còn cả dịch vụ nữa. Trong khi đó, để thực hiện những bước đầu tiên ấy, chúng ta cần làm vài cải cách quan trọng, chẳng hạn như xây dựng một sân bay tử tế. Chúng ta cần đất để những người nước ngoài có thể xây dựng trên đó. Giấc mơ của ta là chính đáng và những ý định của ta là tốt đẹp. Một điều chúng ta sẽ cần là thêm nhiều chuyên gia trong lĩnh vực tài chính. Giờ thì, cậu đã nghe cuộc đối thoại giữa ta và cha cậu…”
Hamid cố giấu nỗi sợ hãi, vì có hơn một tá người đang nghe cuộc trò chuyện của họ. Tuy nhiên, trong lòng cậu đã có sẵn một câu trả lời cho từng câu cậu được hỏi.
“… vậy hãy nói với ta, cậu muốn làm gì?” Tộc trưởng hỏi.
“Cháu muốn học về thời trang cao cấp.”
Những người khác có mặt ở đó nhìn nhau. Có khi họ còn không biết ý cậu là gì.
“Bố cháu bán phần lớn số vải ông mua cho người nước ngoài, sau đó họ biến vải của ông thành những bộ đồ hàng hiệu và kiếm được hơn ông gấp một trăm lần từ chúng. Cháu chắc chắn chúng ta có thể làm được như thế ở đây. Cháu tin rằng thời trang có thể là một cách phá vỡ những định kiến mà phần còn lại của thế giới có về chúng ta. Nếu chúng ta làm cho họ thấy được chúng ta không ăn mặc như những kẻ man di, họ sẽ dễ dàng chấp nhận chúng ta hơn.”
Lần này, cậu nghe thấy tiếng lao xao trong cung điện. Cậu ta đang nói về quần áo ư? Đó là thứ dành cho bọn phương Tây, những kẻ quan tâm đến vẻ ngoài hơn là nội tâm con người.
“Mặt khác, cái giá cha cháu đang trả cao quá. Cháu muốn giữ ngôi nhà của chúng cháu hơn. Cháu sẽ làm việc với vải vóc ông ấy có, và nếu Chúa Nhân từ mong muốn, cháu sẽ thực hiện được giấc mơ của cháu. Cháu, cũng như ngài vậy, biết cháu muốn gì.”
Cả cung điện sửng sốt lắng nghe cậu bé không chỉ đang thách thức người đứng đầu vĩ đại của vùng đất này, mà còn từ chối chấp nhận những mong muốn của cha cậu. Tuy nhiên, tộc trưởng mỉm cười.
“Thế người ta học thời trang cao cấp ở đâu?”
“Ở Pháp hoặc Ý, thực hành với những bậc thầy tài giỏi. Người ta có thể học ở trường đại học, nhưng không gì thay thế được kinh nghiệm. Sẽ không dễ dàng, nhưng nếu Chúa Nhân từ mong muốn, cháu sẽ thành công.”
Tộc trưởng bảo cậu quay lại vào chiều hôm đó. Hamid lang thang dọc bên cảng và ghé vào khu chợ, nơi cậu kinh ngạc trước màu sắc, vải vóc và đồ thêu. Cậu thích ghé qua chợ và thấy buồn khi nghĩ đến cảnh nó sắp bị phá bỏ bởi vì một phần của quá khứ và truyền thống sẽ bị mất đi. Liệu có thể ngừng phát triển không? Liệu có khôn ngoan không khi cố ngăn chặn sự đi lên của một quốc gia? Cậu nhớ nhiều đêm thức khuya vẽ vời bên ánh nến, sao chép những bộ quần áo của người Bedouin, lo sợ rằng trang phục bộ tộc một ngày kia cũng sẽ bị các cần trục và đầu tư nước ngoài hủy hoại.
Đến giờ hẹn, cậu quay trở lại cung điện. Bên tộc trưởng bây giờ thậm chí còn có nhiều người hơn.
“Ta đã ra hai quyết định”, tộc trưởng nói. “Thứ nhất, ta sẽ trang trải chi phí cho cậu trong một năm. Chúng ta có đủ các chàng trai thích làm trong lĩnh vực tài chính rồi, nhưng cậu là người đầu tiên bày tỏ ước mơ học về may mặc. Điều đó có vẻ cực kỳ điên rồ, cơ mà mọi người đều bảo những giấc mơ của ta cũng điên chẳng kém, tuy nhiên hãy xem chúng đã đưa ta đến đâu. Ta không thể đi ngược lại tấm gương của chính ta.
Mặt khác, chẳng có tay phụ tá nào của ta có quan hệ với những người cậu đề cập, vì thế ta sẽ cho cậu một khoản trợ cấp nho nhỏ hằng tháng để cậu không phải ăn xin trên đường phố. Cậu sẽ trở về với tư cách một kẻ chiến thắng, cậu sẽ đại diện cho đất nước chúng ta, và quan trọng là những quốc gia khác phải học cách tôn trọng nền văn hóa của chúng ta. Trước khi đi, cậu sẽ phải học tiếng của những nước cậu sẽ đến. Đó là những tiếng nào?”
“Tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Ý. Cháu vô cùng biết ơn vì sự rộng lượng của ngài, nhưng còn về cha cháu…”
Tộc trưởng ra dấu cho cậu im lặng.
“Quyết định thứ hai của ta như sau. Căn nhà của cha cậu sẽ vẫn ở nguyên chỗ cũ. Trong những giấc mơ của ta nó sẽ bị những tòa nhà chọc trời vây quanh, không ánh mặt trời nào có thể chiếu qua cửa sổ, và rốt cuộc ông ấy sẽ phải chuyển đi. Tuy nhiên, ngôi nhà sẽ mãi mãi ở đó. Trong tương lai, người ta sẽ nhớ ta và nói: “Ông ấy là con người vĩ đại bởi ông ấy đã làm thay đổi đất nước. Và ông ấy công bằng vì ông ấy tôn trọng quyền lợi của một người bán vải”.”
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: 24 Giờ Cô Độc Ở Cannes - Paulo Coelho

Postby bevanng » 06 Mar 2016


Chiếc trực thăng hạ cánh ở phía cuối cầu cảng, và ông gạt những ký ức qua một bên. Ông bước ra trước và đưa tay giúp Ewa. Ông chạm vào da nàng và tự hào nhìn người phụ nữ tóc vàng này, mặc toàn màu trắng, quần áo lấp lánh trong ánh nắng, tay kia bám vào chiếc mũ màu be kín đáo đáng yêu nàng đang đội. Họ đi qua dãy du thuyền neo ở cả hai bên, hướng về phía chiếc xe đang đợi họ và người tài xế đang đứng với cánh cửa mở sẵn.
Ông nắm tay vợ và thì thầm vào tai nàng:
“Anh hy vọng em thích bữa ăn trưa. Họ là những nhà sưu tầm nghệ thuật lớn, và họ thật hào phóng khi cử máy bay trực thăng đón chúng ta.”
“Vâng, em thích lắm.”
Song ý Ewa thực sự là: “Không, em ghét nó. Tệ hơn nữa, em đang cảm thấy rất sợ. Em vừa nhận được một tin nhắn trên điện thoại di động và em biết ai đã gửi nó, dù em không thể nhận ra số điện thoại”.
Họ vào trong chiếc ô tô lớn chỉ dành cho hai người, phần còn lại là khoảng không gian trống. Điều hòa ở nhiệt độ lý tưởng, âm nhạc hoàn toàn thích hợp với khoảnh khắc này, và không tiếng động bên ngoài nào lọt được vào sự biệt lập tuyệt đối của họ. Ông ngồi xuống chỗ ngồi bọc da dễ chịu, mở tủ lạnh mini trước mặt, và hỏi Ewa có muốn uống sâm banh không. Không, nàng nói, em muốn nước khoáng.
“Hôm qua anh thấy chồng cũ của em ở quầy bar khách sạn, trước khi chúng ta đi ăn tối.”
“Không thể nào. Anh ta chẳng có việc gì ở Cannes cả.”
Nàng muốn nói: “Có lẽ anh đúng đây. Em vừa nhận được một tin nhắn. Chúng ta nên đáp chuyến máy bay tới để rời khỏi đây”.
“Ồ, anh chắc chắn đó là anh ta.”
Hamid nhận thấy vợ ông không muốn nói chuyện. Ông đã được dạy bảo phải tôn trọng sự riêng tư của những người ông yêu thương, vì thế ông buộc mình nghĩ đến chuyện khác.
Sau khi xin phép Ewa, ông gọi cú điện thoại bắt buộc đến tay môi giới chứng khoán ở New York. Ông kiên nhẫn lắng nghe hai, ba câu, rồi lịch thiệp ngắt ngang bất cứ tin tức nào thêm về các xu hướng thị trường. Toàn bộ cuộc gọi không quá hai phút.
Ông gọi một cú khác cho vị đạo diễn ông đã chọn cho bộ phim đầu tiên của ông. Vị đạo diễn đang trên đường đến con tàu để gặp Ngôi Sao, và phải, một nữ diễn viên trẻ đã được tuyển và sẽ sớm gia nhập với họ.
Ông lại quay sang Ewa, nhưng nàng vẫn có vẻ không thích nói chuyện, ánh mắt nàng thờ thẫn, thả ánh nhìn vô định vào hư không qua cửa sổ của chiếc limousine. Có lẽ nàng lo lắng vì nàng sẽ có rất ít thời gian ở khách sạn. Nàng sẽ phải thay đồ ngay lập tức và đi thẳng đến một show diễn thời trang khá tầm thường của một nhà thiết kế người Bỉ, nơi Hamid muốn tận mắt thấy cô người mẫu trẻ gốc Phi, Jasmine, người theo lời các phụ tá sẽ là gương mặt lý tưởng cho bộ sưu tập tiếp theo của ông.
Ông muốn biết cô gái sẽ vượt qua được áp lực của một sự kiện ở Cannes như thế nào. Nếu mọi việc theo đúng kế hoạch, cô sẽ là một trong những người mẫu sáng giá của ông ở Tuần lễ thời trang Paris vào tháng Mười tới.

Ewa vẫn gắn chặt mắt lên cửa sổ, không phải vì nàng hứng thú với những gì đang diễn ra bên ngoài. Nàng biết người đàn ông bảnh bao, quyết đoán, sáng tạo, lịch thiệp bên nàng quá rõ. Nàng biết ông khao khát nàng không như bất cứ người đàn ông nào khao khát một phụ nữ, ngoại trừ người đàn ông nàng đã bỏ. Nàng có thể tin tưởng ông, dù ông sống trong vòng vây của một vài phụ nữ đẹp nhất thế giới. Ông là một người đàn ông chăm chỉ, trung thực, đã gặp và trải qua nhiều thử thách để được chở đi trong chiếc limo đó và có thể mời nàng một ly sâm banh hay thứ nước khoáng nàng ưa thích. Ông có quyền lực và có thể bảo vệ nàng khỏi bất cứ nguy hiểm nào, trừ một điều, điều tệ nhất. Chồng cũ của nàng.
Giờ nàng không muốn khuấy động ngờ vực bằng việc nhấc điện thoại lên lần nữa để đọc lại tin nhắn, nàng đã thuộc lòng nó.
“Anh đã phá hủy một thế giới vì em, Katyusha.”
Nàng không biết mấy lời này có ý nghĩa gì, nhưng không ai khác gọi nàng bằng cái tên này.
Nàng đã tự dạy mình yêu Hamid, dù nàng ghét cuộc sống của ông, những bữa tiệc họ đến và bạn bè ông. Nàng không biết nàng đã thành công trong việc buộc mình yêu ông chưa, có những lúc nàng thấy gần như muốn tự tử vì tuyệt vọng. Nàng chỉ biết ông là vị cứu tinh của nàng ở thời điểm nàng nghĩ nàng đã mãi mãi chìm trong cơn mụ mỵ, không thể thoát khỏi cái bẫy hôn nhân của chính mình.

Nhiều năm trước, nàng đã yêu một thiên thần có tuổi thơ bất hạnh, người từng bị gọi vào quân đội để chiến đấu trong một cuộc chiến vô lý ở Afghanistan chỉ để quay trở về một đất nước đang bên bờ sụp đổ. Dầu vậy, hắn đã vượt qua mọi khó khăn để thành công. Hắn bắt đầu làm việc rất chăm chỉ, vay nợ từ vài kẻ vô cùng ám muội, rồi thao thức cả đêm, lo lắng về rủi ro hắn đang nắm giữ và băn khoăn không biết phải trả nợ bằng cách nào. Hắn nhẫn nhục chịu đựng nạn tham nhũng địa phương, chấp nhận đút lót cho công chức chính phủ mỗi lần cần giấy phép mới cho một sản phẩm sẽ cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân nước hắn. Hắn duy tâm và trìu mến. Ban ngày, khả năng lãnh đạo của hắn không còn gì phải bàn cãi vì cuộc đời đã dạy hắn cách lãnh đạo, và thời gian phục vụ trong quân ngũ đã giúp hắn hiểu rõ hệ thống cấp bậc có hiệu lực ra sao. Ban đêm, hắn sẽ giữ chặt lấy nàng và bảo nàng che chở và khuyên răn hắn, cầu nguyện cho mọi chuyện diễn ra suôn sẻ và cho hắn tránh được nhiều cạm bẫy nằm trên lối đi của hắn hằng ngày.
Ewa sẽ vuốt tóc hắn và trấn an hắn rằng mọi chuyện đều ổn cả, hắn là một người tốt và Chúa luôn luôn tưởng thưởng cho những người xứng đáng.
Dần dần, những khó khăn nhường lối cho các cơ hội. Công ty nhỏ hắn thành lập - sau khi gần như năn ni người ta ký hợp đồng - bắt đầu phát triển vì hắn là một trong số ít người đầu tư vào thứ không ai tin là sẽ có hiệu quả ở một đất nước vẫn còn khó khăn vì mạng lưới thông tin liên lạc gần như lạc hậu. Chính quyền thay đổi và tham nhũng giảm bớt. Tiền bạc bắt đầu thu về, ban đầu từ từ, rồi với số lượng lớn. Tuy nhiên, họ không bao giờ quên khoảng thời gian khó khăn đã qua và không bao giờ lãng phí một xu. Họ đóng góp cho các tổ chức từ thiện và các hiệp hội của cựu quân nhân, họ sống giản dị, mơ về một ngày có thể bỏ lại tất cả đằng sau và đến sống trong một căn nhà tách biệt với thế giới. Khi điều đó xảy ra, họ sẽ quên rằng họ đã từng buộc phải giao dịch với những kẻ vô luân và vô lại. Họ dành phần lớn thời gian ở các sân bay, máy bay và khách sạn, họ làm việc mười tám tiếng một ngày, và trong nhiều năm chưa bao giờ xoay xở được một chuyến đi nghỉ một tháng cùng nhau.
Họ cùng ấp ủ một giấc mơ: sẽ đến lúc nhịp sống hối hả ấy chỉ còn là ký ức xa vời. Những vết sẹo từ thời kỳ đó sẽ giống như những huân chương giành được trong một cuộc chiến nhân danh niềm tin và những giấc mơ. Xét cho cùng, mỗi con người - hoặc lúc đó nàng tin thế - được sinh ra là để yêu và sống với người họ yêu thương.
Toàn bộ quá trình tìm kiếm công việc đột nhiên đảo lộn. Thay vì họ phải săn lùng hợp đồng, chúng bắt đầu tự xuất hiện. Chồng nàng được lên trang bìa của một tạp chí kinh doanh quan trọng, và những nhân vật tai to mặt lớn địa phương bắt đầu mời họ tới dự các bữa tiệc và sự kiện. Họ bắt đầu được đối xử như những ông hoàng bà chúa, và những khoản tiền lớn hơn bao giờ hết tới tấp tràn đến.
Họ phải thích nghi với hoàn cảnh thay đổi này: họ mua một ngôi nhà xinh đẹp ở Moscow, một ngôi nhà với mọi tiện nghi khả dĩ. Vì những lý do nàng không biết và không muốn biết, những người cộng tác với chồng nàng trước đây rốt cuộc đều vào tù. (Đây là những người cho họ vay những khoản nợ ban đầu kia, bất chấp lãi suất cao quá đáng, Igor đã trả lại hết không thiếu một xu.) Từ đó, Igor đi đâu cũng kèm theo vệ sĩ, ban đầu chỉ có hai người - các bạn bè, đồng chí từ cuộc chiến Afghanistan - nhưng sau đó thêm nhiều người gia nhập khi công ty nhỏ biến thành một công ty đa quốc gia khổng lồ với các chi nhánh ở vài nước trên bảy múi giờ khác nhau, kiếm thêm ngày càng nhiều những khoản đầu tư đa dạng.
Ewa dành cả ngày ở các trung tâm mua sắm hay uống trà với bạn bè, những người luôn nói chuyện về những điều giống nhau. Igor, dĩ nhiên, muốn đi xa hơn… và xa hơn nữa. Xét cho cùng, hắn có được ngày hôm nay cũng nhờ tham vọng và chăm chỉ. Mỗi khi nàng hỏi chẳng phải họ đã đi quá xa so với những gì họ dự định và đã đến lúc họ thực hiện giấc mơ sống chỉ bằng tình yêu họ dành cho nhau sao, hắn luôn luôn xin thêm một chút thời gian nữa. Và hắn bắt đầu uống nhiều hơn. Một đêm, hắn về nhà sau bữa tối lê thê với bạn bè, uống nhiều rượu vang và vodka, và nàng không thể kiềm chế những cảm xúc của mình nữa. Nàng nói nàng không thể chịu đựng cảnh sống vô vị nàng đang có, nếu nàng không làm gì đó ngay, nàng sẽ phát điên. Igor hỏi chẳng lẽ nàng không thỏa mãn với những gì nàng có sao.
“Phải, em thỏa mãn, nhưng vấn đề là anh thì không, và sẽ không bao giờ. Anh do dự, lo sợ mất mọi thứ anh đã đạt được, anh không biết làm cách nào từ bỏ một khi anh đang tiến xa. Rốt cuộc anh sẽ tự hủy hoại chính mình. Anh đang giết chết cuộc hôn nhân của chúng ta và tình yêu của em.”
Đây không phải lần đầu nàng nói thế với chồng, họ đã luôn thành thật với nhau, nhưng nàng cảm thấy nàng đang chạm đến một giới hạn. Nàng đã có quá đủ những chuyến mua sắm, những bữa tiệc trà và những chương trình truyền hình khủng khiếp nàng xem trong khi chờ đợi hắn đi làm về.
“Đừng nói thế, đừng nói anh đang giết chết tình yêu của bọn mình. Anh hứa bọn mình sẽ sớm gạt bỏ tất cả những thứ này lại đằng sau, chỉ cần kiên nhẫn. Có lẽ em nên khởi sự vài kế hoạch của riêng em vì cuộc sống của em lúc này chắc là rất khủng khiếp.”
Ít nhất hắn đã nhận ra điều đó.
“Em muốn làm gì nào?” Hắn hỏi.
Phải, nàng nghĩ, có lẽ đó sẽ là một lối thoát.
“Em muốn làm về thời trang. Đó luôn là giấc mơ của em.”
Chồng nàng lập tức chấp thuận mong muốn của nàng. Tuần tiếp theo, hắn xuất hiện với chùm chìa khóa của một cửa hàng tại một trong những trung tâm mua sắm tốt nhất ở Moscow. Ewa mừng rỡ. Cuộc sống của nàng có thêm ý nghĩa mới, những ngày đêm lê thê chờ đợi sẽ chấm dứt mãi mãi. Nàng vay tiền, và Igor đầu tư đủ vốn cho cửa hàng để nàng có khả năng thành công.
Những bữa tối và tiệc tùng - nơi nàng đã luôn cảm thấy như một kẻ ngoại cuộc - bắt đầu khiến nàng hứng thú. Chỉ trong hai năm, nhờ các mối giao thiệp tại những sự kiện xã hội như thế nàng đã điều hành cửa hàng thời hang cao cấp thành công nhất ở Moscow. Dù có một tài khoản chung với chồng, và hắn không bao giờ hỏi nàng đã tiêu bao nhiêu, nàng vẫn cố ý trả lại khoản tiền hắn đã cho nàng vay. Nàng bắt đầu đi công tác một mình, tìm kiếm các mẫu thiết kế mới và các nhãn hiệu độc quyền. Nàng thuê người làm, giải quyết sổ sách kế toán, và trở thành - trước sự ngạc nhiên của chính nàng - một nữ doanh nhân xuất sắc.
Igor đã dạy nàng mọi thứ. Hắn là một con người kiểu mẫu, một tấm gương để noi theo. Và ngay khi mọi thứ đang diễn ra tốt đẹp và cuộc đời nàng có thêm ý nghĩa mới, Thiên thần Ánh sáng thắp lối cho nàng bắt đầu nao núng.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: 24 Giờ Cô Độc Ở Cannes - Paulo Coelho

Postby bevanng » 06 Mar 2016


Họ đang ở trong một nhà hàng tại Irkutsk, sau khi dành ngày nghỉ cuối tuần tại một làng chài bên bờ hồ Baikal. Lúc đó, công ty họ đã sở hữu hai máy bay và một trực thăng, vì thế họ có thể đi du lịch xa đến đâu tùy thích và quay lại vào thứ Hai để bắt đầu lại từ đầu. Không ai phàn nàn gì việc dành quá ít thời gian bên nhau, nhưng rõ ràng nhiều năm phấn đấu đang bắt đầu gây ảnh hưởng. Song, họ biết tình yêu giữa họ mạnh mẽ hơn bất cứ thứ gì, và chừng nào họ ở bên nhau, chừng đó họ sẽ yên ổn.
Nửa chừng bữa tối thắp nên, một gã hành khất say xỉn vào nhà hàng, tiến lại bàn họ, ngồi xuống và bắt đầu lảm nhảm, ngắt ngang khoảnh khắc quý giá được ở riêng bên nhau, xa khỏi mọi xô bồ, hối hả ở Moscow của họ. Một phút sau, chủ nhà hàng tỏ ý tống cổ gã hành khất ra, nhưng Igor nói hắn sẽ lo liệu việc đó. Gã hành khất trở nên sôi nổi, cầm chai vodka lên uống, rồi bắt đầu hỏi linh tinh (“Ông bà là ai? Làm sao ông bà có nhiều tiền đến thế, khi tất cả chúng tôi ở đây sống trong cảnh cơ cực?”) và kêu ca về cuộc sống và chính phủ. Igor chịu đựng thêm vài phút.
Rồi hắn đứng dậy, túm lấy tay gã hành khất, dẫn gã ra ngoài (nhà hàng nằm trên một con phố không có vỉa hè). Hai gã vệ sĩ của hắn đang đợi hắn. Qua cửa sổ, Ewa thấy chồng nàng hầu như không nói gì với họ, ngoài việc phát ra một lệnh đại loại như: “Hãy để mắt đến vợ tôi” và đi về phía một con phố ngang nhỏ. Vài phút sau hắn quay lại, tươi cười.
“Chà, gã đó sẽ không làm phiền ai được nữa”, hắn nói.
Ewa nhận thấy mắt hắn lóe lên một tia khác thường, dường như chúng lấp lánh một niềm vui khôn tả, hơn bất cứ niềm vui nào hắn từng biểu lộ trong kỳ nghỉ cuối tuần của họ.
“Anh làm gì rồi?”
Igor không đáp, chỉ đơn giản gọi thêm vodka. Họ đều điềm tĩnh uống đến đêm - hắn vui vẻ và tươi tỉnh và nàng quyết định chỉ hiểu những gì nàng muốn hiểu. Hắn vẫn luôn hào phóng với những ai kém may mắn hơn hắn, thế nên có lẽ hắn đã cho gã hành khất kia tiền để gã bớt cực khổ.
Khi họ quay lại khách sạn, hắn nói:
“Đó là điều anh học được trong thời trai trẻ, khi anh đang chiến đấu trong một cuộc chiến bất công vì một lý tưởng anh không hề tin theo. Luôn có một cách chấm dứt cái nghèo.”

Không, Igor không thể ở Cannes. Chắc Hamid đã nhầm. Hai người họ mới gặp nhau đúng một lần, trong tiền sảnh của tòa nhà nơi họ sống tại London, khi Igor tìm ra địa chỉ của họ và đến đó để năn nỉ Ewa quay lại. Hamid đã nói chuyện với hắn, nhưng không cho hắn vào, dọa gọi cảnh sát. Trong cả tuần đó, nàng không chịu rời căn hộ, kêu rằng mình đau đầu, nhưng biết rằng Thiên thần Ánh sáng đã biến thành Ác quỷ.
Nàng nhìn vào điện thoại lần nữa và đọc lại tin nhắn.
Katyusha. Chỉ có một người gọi nàng bằng cái tên ấy. Cái kẻ sống trong quá khứ của nàng và sẽ đe dọa hiện tại của nàng trong suốt phần đời còn lại, dù nàng cảm thấy được che chở thế nào, dù nàng sống cách xa hắn bao nhiêu, và thậm chí dù nàng cư ngụ trong một thế giới hắn không có đường vào. Con người đó, trên đường họ từ Irkutsk quay về - như thể đã trút được một gánh nặng khổng lồ - bắt đầu thoải mái nói về những bóng ma sống trong tâm hồn hắn.
“Không ai, hoàn toàn không một ai, có thể đe dọa sự riêng tư của chúng ta. Chúng ta đã mất bao lâu để tạo ra một xã hội nhân văn, công bằng hơn. Kẻ nào không tôn trọng những khoảnh khắc tự do của chúng ta phải bị xóa sổ theo cái cách không còn đường quay lại.”
Ewa e sợ không dám hỏi “cái cách” đó có nghĩa là gì. Nàng cứ ngỡ nàng hiểu chồng mình, nhưng chỉ trong chớp mắt, dường như một núi lửa dưới mặt biển đã bắt đầu gầm gừ và những làn sóng xung kích đang dần mạnh lên. Nàng nhớ lại vài mẩu chuyện trò ban khuya với hắn hổi hắn còn là một chàng trai trẻ và cách hắn đã kể với nàng rằng, trong cuộc chiến ở Afghanistan, đôi khi hắn buộc phải giết người để tự vệ. Nàng chưa bao giờ trông thấy sự ăn năn hay hối hận trong mắt hắn.
“Anh sống sót, và đó là điều quan trọng. Cuộc đời anh đã có thể chấm dứt vào một buổi chiều ngập nắng, hay một buổi bình minh trong vùng núi tuyết phủ, hay một đêm khi bọn anh đang chơi bài trong lều, chủ quan cho rằng tình hình vẫn trong tầm kiểm soát. Và nếu anh chết lúc ấy, thế giới chẳng có gì thay đổi. Anh sẽ chỉ là một con số thống kê nữa cho quân đội và một tấm huân chương nữa cho gia đình. Nhưng Chúa Jesus đã giúp anh, và anh được ban cho những phản ứng mau lẹ. Vì anh đã vượt qua những thử thách khó khăn nhất mà một con người có thể đối mặt, định mệnh đã ban tặng anh hai thứ quan trọng nhất trong cuộc đời: thành công trong công việc và người phụ nữ anh yêu.”
Giết người để cứu mạng sống của chính mình là một chuyện, nhưng “xóa sổ mãi mãi” một gã say nghèo khổ làm gián đoạn bữa tối của họ và có thể dễ dàng bị chủ nhà hàng đuổi ra lại là một chuyện khác. Nàng không thể gạt ý nghĩ đó ra khỏi đầu. Nàng bắt đầu đến cửa hàng từ rất sớm và khi về nhà, nàng ngồi trước máy vi tính cho đến khuya. Nàng muốn tránh một câu hỏi. Nàng xoay xở tiếp tục như thế trong vài tháng, làm theo những thói quen thường lệ: công tác, tiệc tùng, ăn tối, hội họp, đấu giá từ thiện. Nàng thậm chí còn tự hỏi phải chăng nàng đã hiểu lầm những gì chồng nàng nói ở Irkutsk và tự trách mình đã vội vàng phán xét như thế.
Thời gian trôi qua, và câu hỏi đó trở nên ít quan trọng hơn, cho đến cái đêm họ tham dự một buổi đấu giá từ thiện cũng là bữa tiệc tối tại một trong những nhà hàng đắt đỏ nhất Milan. Họ đến đó vì những lý do khác nhau: Igor đến để củng cố những chi tiết của một hợp đồng với một hãng Ý, còn Ewa đến tham dự Tuần lễ thời trang, nơi nàng định tậu vài thứ cho cửa hàng ở Moscow của mình.
Và điều đã xảy ra giữa Siberia được lặp lại ở một trong những thành phố sành điệu nhất trên thế giới. Lần này, một người bạn của họ, khá bí ti, tự tiện ngồi xuống bàn họ, bắt đầu đùa bỡn và đưa ra những lời nhận xét không thích hợp. Ewa thấy bàn tay Igor siết chặt chuôi dao hơn. Khéo léo và lịch thiệp hết mức, nàng đề nghị người bạn đi chỗ khác. Lúc đó, nàng đã uống vài ly Asti Spumante, cái tên người Ý đặt cho thứ từng được gọi là sâm banh vì cách dùng từ “sâm banh” đã bị cấm do cái gọi là Bảo hộ tên gọi xuất xứ. Sâm banh chỉ đơn giản là một loại rượu vang trắng được tạo ra bằng cách dùng một vi khuẩn đặc biệt, khi được kiểm soát chặt chẽ, nó bắt đầu sinh ra khí gas vào giai đoạn rượu được ủ trong một khoảng thời gian ít nhất là mười lăm tháng. Cái tên đó được đặt theo tên của vùng đã sản xuất ra nó. Spumante là thứ giống hệt như thế nhưng luật pháp châu Âu không cho phép nó mang cái tên Pháp kia, vì các vườn nho là ở Ý chứ không phải ở vùng Champagne của Pháp.
Họ bắt đầu nói chuyện về sâm banh và những luật lệ chi phối những cái tên, trong khi nàng cố xua khỏi đầu câu hỏi nàng đã cố kìm nén và hiện đang mạnh mẽ quay trở lại. Trong khi họ trò chuyện, nàng cứ uống, cho đến lúc không kiềm chế nổi nữa.
“Nếu có người hơi say xỉn và đến nói chuyện với chúng ta thì có gì là ghê gớm nào?”
Khi Igor trả lời, giọng hắn đã thay đổi.
“Vì chúng ta hiếm khi đi du lịch cùng nhau. Thêm nữa, em biết anh nghĩ gì về thế giới chúng ta đang sống: chúng ta chết ngộp trong những lời nói dối, được khuyến khích đặt niềm tin vào khoa học hơn là những giá trị tinh thần và nuôi dưỡng tâm hồn bằng những thứ xã hội bảo chúng ta là quan trọng, trong khi, trên thực tế chúng ta đang dần dần chết đi vì chúng ta biết chuyện gì đang diễn ra quanh chúng ta, chúng ta buộc phải làm những điều chúng ta chưa bao giờ định làm, tuy nhiên, lại không thể từ bỏ tất cả và cống hiến ngày đêm cho hạnh phúc đích thực, gia đình, thiên nhiên, tình yêu. Và tại sao lại thế? Vì chúng ta cảm thấy buộc lòng phải hoàn tất thứ chúng ta đã bắt đầu, do đó chúng ta có thể đạt được sự ổn định tài chính cần thiết để dành phần còn lại của cuộc đời dâng hiến bản thân cho nhau bởi chúng ta là những người có trách nhiệm. Anh biết đôi khi em nghĩ anh làm việc quá nhiều, nhưng không đúng thế đâu. Anh đang xây dựng tương lai cho chúng mình và chúng mình sẽ sớm tự do mơ ước và hoàn thành những giấc mơ đó.”
Ổn định tài chính khó có thể là thứ họ thiếu. Họ không mắc khoản nợ nào và có thể nhổm dậy khỏi cái bàn đó ngay lúc ấy chỉ với thẻ tín dụng, bỏ lại sau lưng cái thế giới Igor rõ ràng căm ghét và bắt đầu lại tất cả mà không bao giờ phải lo lắng về tiền bạc. Nàng vẫn thường nói với hắn điều này, và Igor luôn chỉ nói một câu: “Không còn lâu nữa đâu”. Thêm nữa, đây không phải thời điểm để bàn bạc về tương lai của họ với tư cách một cặp vợ chồng.
“Chúa suy ngẫm về mọi thứ”, hắn tiếp tục. “Chúng ta ở bên nhau vì Ngài đã quyết định thế. Em có thể không hoàn toàn hiểu hết tầm quan trọng của em trong đời anh, nhưng không có em, anh sẽ không bao giờ có được như ngày hôm nay. Ngài đã để chúng ta bên nhau và cho anh mượn sức mạnh của Ngài để bảo vệ em khi cần. Ngài đã dạy anh rằng mọi thứ là một phần của một kế hoạch, và anh phải hoàn toàn tôn trọng kế hoạch đó. Nếu không làm thế anh hoặc là đã chết ở Kabul hoặc là đang sống trong cảnh bần hàn ở Moscow.”
Và đúng lúc đó Spumante hay sâm banh tỏ ra nó có thể làm được những gì, bất kể được gọi bằng cái tên nào.
“Chuyện gì đã xảy ra với gã hành khất ở Siberia?” Nàng hỏi.
Igor ban đầu không biết nàng đang nói về chuyện gì. Ewa nhắc hắn nhớ lại chuyện đã xảy ra ở nhà hàng đó.
“Em muốn biết anh đã làm gì?”
“Anh đã cứu gã.”
Nàng thở phào nhẹ nhõm.
“Anh đã cứu gã khỏi một cuộc đời bẩn thỉu, vô vọng trong những mùa đông băng giá như thế với cơ thể gã đang dần dần bị những cơn say túy lúy hủy hoại. Anh để linh hồn gã khởi hành về phía ánh sáng vì khoảnh khắc gã vào nhà hàng đó để phá hoại hạnh phúc của chúng ta, anh biết linh hồn gã đã bị Quỷ sứ trú ngụ.”
Ewa cảm thấy tim mình bắt đầu đập thình thịch. Nàng không cần hắn nói thẳng: “Anh đã giết gã”. Rõ ràng hắn đã làm thế.
“Không có em, anh không tồn tại. Bất cứ thứ gì và bất cứ ai cố gắng chia rẽ chúng ta hay phá hoại khoảng thời gian ít ỏi chúng ta ở bên nhau tại thời điểm đặc biệt này trong cuộc đời chúng ta đều nhận được sự đối xử xứng đáng.”
Phải chăng điều đó có nghĩa họ đáng bị giết? Lẽ nào một điều như thế đã từng xảy ra mà nàng không hề hay biết? Nàng cứ uống thêm mãi, và Igor lại bắt đầu dịu đi. Vì hắn không bao giờ mở lòng với bất cứ ai khác, hắn yêu những cuộc trò chuyện giữa họ.
“Chúng ta có tiếng nói chung”, hắn tiếp tục. “Chúng ta nhìn thế giới theo cùng một cách. Chúng ta hoàn thiện lẫn nhau với một sự hoàn hảo chỉ được chấp nhận bởi những người đặt tình yêu lên trên hết. Như anh đã nói, không có em anh không tồn tại. Hãy nhìn những người Đẳng cấp quanh chúng ta. Họ nghĩ họ quá quan trọng, quá có ý thức xã hội, vì họ sẵn sàng trả cả núi tiền để lấy vài món đồ vô dụng ở một cuộc đấu giá từ thiện hoặc tham dự một bữa tối được tổ chức để gây quỹ giúp đỡ những người vô gia cư ở Rwanda hay cứu những con gấu trúc ở Trung Quốc. Gấu trúc và người vô gia cư đối với họ đều là một. Họ cảm thấy đặc biệt, ưu việt hơn những người bình thường, vì họ đang làm điều có ích. Họ đã bao giờ đánh nhau trong một cuộc chiến tranh chưa? Chưa. Họ tạo ra chiến tranh, nhưng họ không chiến đấu trong đó. Nếu cuộc chiến kết thúc tốt đẹp, họ nhận mọi lời tán dương. Ngược lại, họ đổ lỗi cho những người khác. Họ yêu chính bản thân mình.”
“Anh yêu, em muốn hỏi anh một điều nữa…”
Đúng lúc đó, một người dẫn chương trình leo lên sân khấu và cảm ơn mọi người vì đã có mặt. Số tiền quyên góp sẽ được dành để mua thuốc men cho các trại tị nạn ở châu Phi.
“Điều ông ta không nói”, Igor tiếp tục, như thể hắn không nghe thấy câu hỏi của nàng, “là chỉ mười phần trăm tổng số tiền quyên góp sẽ đến đúng địa chỉ. Phần còn lại được dùng để chi trả cho sự kiện này, cho chi phí của bữa tối này, cho việc quảng bá và các nhà tổ chức, nói tóm lại, cho những người nảy ra cái “ý tưởng xuất sắc” này ngay từ đầu, tất cả đều có giá cắt cổ. Họ dùng người nghèo như một phương tiện để giàu hơn nữa”.
“Vậy sao chúng ta lại ở đây?”
“Bởi vì chúng ta cần làm như vậy. Đó là một phần công việc của anh. Anh không có ý định cứu Rwanda hay gửi thuốc men đến những người tị nạn, nhưng ít nhất anh biết anh không có ý định đó. Những người khách khác ở đây tối nay đang dùng tiền để gột rửa tội lỗi khỏi lương tâm và linh hồn họ. Khi tội ác diệt chủng đang diễn ra ở Rwanda, anh đã tài trợ cho một đội quân nhỏ gồm những người bạn của anh, những người đã ngăn chặn hơn hai nghìn cái chết. Em có biết không?”
“Không, anh chưa bao giờ kể cho em.”
“Anh không cần phải kể. Em biết rằng anh quan tâm đến những người khác.”
Cuộc đấu giá bắt đầu với một cái túi du lịch nhỏ hiệu Louis Vuitton. Nó được bán với giá gấp mười lần giá bán lẻ. Igor dửng dưng quan sát cuộc đấu giá, trong khi nàng uống thêm ly Spumante nữa và tự hỏi nàng có nên hỏi câu hỏi đó hay không.
Một họa sĩ vừa nhảy theo điệu nhạc phim của Marilyn Monroe vừa vẽ một bức tranh. Giá của tác phẩm hội họa đó khi hoàn thành cao ngất ngưởng - bằng giá một căn hộ nhỏ ở Moscow.
Một ly rượu nữa. Một món đồ nữa được bán. Với một cái giá vô lý như thế.
Đêm đó nàng uống nhiều đến mức Igor phải bế nàng về khách sạn. Trước khi hắn đặt nàng lên giường và trước khi nàng ngủ thiếp đi, rốt cuộc nàng lấy được can đảm để hỏi:
“Thế nếu em bỏ anh thì sao?”
“Lần sau uống ít thôi nhé.”
“Trả lời em đi.”
“Điều đó không bao giờ xảy ra được. Cuộc hôn nhân của chúng ta là hoàn hảo.”
Lý trí quay lại, nhưng nàng biết giờ nàng có một cái cớ vì thế giả vờ say hơn thực tế.
“Vâng, nhưng nếu em làm thế thật thì sao?”
“Anh sẽ khiến em quay trở lại, và anh rất giỏi trong việc có được những gì anh muốn, dù có phải phá hủy toàn bộ thế giới.”
“Thế nhỡ em gặp người đàn ông khác?”
Hắn nhìn nàng không chút ác ý, gần như nhân từ.
“Dù cho em ngủ với tất cả đàn ông trên trái đất này, tình yêu của anh vẫn sẽ tồn tại.”
Và từ đó, thứ dường như từng là hạnh phúc bắt đầu biến thành ác mộng. Nàng đã lấy một con quái vật, một kẻ sát nhân. Tài trợ cho một đội quân tay sai can thiệp vào một cuộc chiến bộ lạc là chuyện gì vậy? Hắn đã giết bao nhiêu người khác để ngăn họ khỏi quấy nhiễu sự yên ổn trong cuộc hôn nhân của họ? Nàng có thể đổ lỗi cho chiến tranh, cho những tổn thương hắn phải chịu đựng, cho những khoảng thời gian khó khăn hắn đã trải qua, nhưng biết bao người cũng từng chịu đụng những trải nghiệm như thế mà trong họ đâu nảy ra niềm tin rằng họ là công cụ của Công lý Thần thánh, đang thực hiện một Kế hoạch Vĩ đại.
“Anh không ghen”, Igor thường nói thế mỗi khi hắn hay nàng lên đường đi công tác, “vì em biết anh yêu em nhiều như thế nào, và anh biết em yêu anh ra sao. Sẽ không thể xảy ra chuyện gì làm xáo trộn cuộc hôn nhân của chúng ta được”.
Nàng càng tin chắc hơn bao giờ hết rằng đây không phải là tình yêu. Nó là thứ gì đó bệnh hoạn và không lành mạnh, nó khiến nàng hoặc phải chấp nhận và sống phần đời còn lại như một tù nhân của nỗi sợ hãi, hoặc tự giải thoát cho mình càng sớm càng tốt, ngay khi có cơ hội đầu tiên.
Vài cơ hội đến, nhưng dai dẳng nhất, bền bỉ nhất chính là người đàn ông cuối cùng mà với ông, nàng sẽ nghĩ đến việc xây dựng một mối quan hệ thật sự: nhà thiết kế thời trang cao cấp đang làm giới thời trang sững sờ, đang ngày một nổi tiếng hơn và nhận được lượng tiền khổng lồ từ đất nước của ông để thế giới hiểu rằng các bộ lạc du mục có những giá trị tinh thần vững chắc hoàn toàn tương phản với triều đại khủng bố do một thiểu số tôn giáo lạm dụng. Ông là người dần dần có cả thế giới dưới chân mình.
Bất cứ khi nào họ gặp nhau ở các buổi trình diễn thời trang, ông sẽ bỏ qua tất cả các cuộc hẹn khác, hủy các bữa ăn trưa và ăn tối, chỉ để họ có thể dành chút thời gian yên tĩnh bên nhau, khóa trái mình trong một căn phòng khách sạn, nhiều khi còn không làm tình. Họ sẽ xem ti vi, ăn, uống (dù ông không bao giờ đụng đến một giọt rượu), đi dạo trong công viên, ghé các hiệu sách, trò chuyện với những người lạ, nhắc rất ít đến quá khứ, chẳng bao giờ đề cập chuyện tương lai, và nói rất nhiều về hiện tại.
Nàng cưỡng lại lâu hết mức và, dù nàng chưa bao giờ yêu ông, khi ông đề nghị nàng từ bỏ tất cả và chuyển đến London, nàng đồng ý ngay lập tức. Đó là cách khả dĩ duy nhất để thoát khỏi địa ngục riêng tư của nàng.
Một tin nhắn khác xuất hiện trên điện thoại. Không thể nào, hai năm rồi họ không còn liên lạc gì nữa.
“Anh vừa phá hủy một thế giới khác vì em, Katyusha.”
“Ai gửi thế?”
“Em không biết. Nó không hiện số.”
Điều nàng thực sự muốn nói là nàng sợ.
“Chúng ta gần đến đó rồi. Hãy nhớ là chúng ta không có nhiều thời gian đâu.”
Chiếc limousine phải hết sức khéo léo để tiến đến lối vào của khách sạn Martinez. Ở hai bên, đằng sau các rào chắn kim loại được cảnh sát dựng lên, những con người đủ mọi lứa tuổi dành cả ngày hy vọng được nhìn thật gần một nhân vật nổi tiếng nào đó. Họ chụp ảnh bằng máy ảnh kỹ thuật số, kể cho bạn bè họ đã nhìn thấy những ai, và gửi tin nhắn qua Internet đến các cộng đồng ảo mà họ là một thành viên. Họ sẽ cảm thấy sự chờ đợi mòn mỏi quả là xứng đáng với khoảnh khắc vinh quang: thoáng nhìn thấy một nữ diễn viên, nam diễn viên, hay thậm chí một người dẫn chương trình truyền hình!
Mặc dù chỉ nhờ có họ mà ngành công nghiệp giải trí mới liên tục phát triển, họ bị giữ ở một khoảng cách an toàn, các vệ sĩ được cắt đặt ở những vị trí chiến lược yêu cầu bất cứ ai đi vào khách sạn xuất trình bằng chứng cho thấy họ đang ở đó hoặc gặp ai đó. Rồi bạn hoặc phải lấy ra tấm thẻ từ được dùng làm chìa khóa phòng hoặc bị tống cổ trước mặt bao người. Nếu bạn có một cuộc hẹn gặp vì công việc hay được mời uống rượu ở quầy bar, họ nêu tên bạn với các nhân viên an ninh và, dưới ánh mắt quan sát của mọi người, đợi xem điều bạn nói là thật hay giả. Tay vệ sĩ dùng bộ đàm gọi cho lễ tân, và bạn đợi ở đó trong khoảng thời gian dường như bất tận, và rồi, cuối cùng, sau nỗi xấu hổ chốn công cộng đó, bạn được phép vào. Những người đến bằng xe limousine, dĩ nhiên, được đối xử khác hẳn.
Hai cánh cửa của chiếc Maybach được mở ra, một do tài xế và một do người gác cổng khách sạn. Những chiếc máy ảnh hướng về Ewa và bắt đầu chụp, dù không ai biết nàng là ai, nhưng nếu nàng đang ở khách sạn Martinez và đến bằng một chiếc xe sang trọng, nàng hẳn phải quan trọng. Có lẽ nàng là tình nhân của người đàn ông nàng đang đi cùng, và nếu đó là sự thực và ông ta đang ngoại tình, luôn có khả năng họ có thể gửi những bức ảnh đó đến vài tờ báo lá cải. Hoặc có lẽ người phụ nữ tóc vàng xinh đẹp đó là một nhân vật tuy vô danh ở Pháp nhưng lại nổi tiếng ở nước ngoài. Sau này, họ sẽ thấy tên nàng trong những thứ được gọi là tạp chí về người nổi tiếng và mừng vì họ từng chỉ cách nàng có bốn hay năm thước.
Hamid nhìn đám đông nhỏ xúm xít tì vào những rào chắn kim loại. Ông chưa bao giờ hiểu hiện tượng này, vì ông lớn lên ở một nơi hoàn toàn không có những điều như thế. Có lần ông hỏi một người bạn tại sao người ta quan tâm đến những người nổi tiếng nhiều đến vậy.
“Đừng cho rằng họ đều là người hâm mộ”, bạn ông nói. “Từ ngàn xưa, con người đã tin rằng ở gần một thứ khó với hay bí ẩn có thể mang lại may mắn. Đó là lý do người ta hành hương đến thăm các vị lãnh tụ tinh thần và những nơi linh thiêng.”
“Nhưng Cannes?!”
“Ở bất cứ nơi đâu họ cũng có thể trông thấy từ xa một nhân vật nổi tiếng hiếm gặp nào đó. Với đám đông hâm mộ, một cái vẫy tay từ người nổi tiếng cũng giống như được rắc bụi phấn hoa hay lộc trời ban.
Đâu cũng vậy thôi. Chẳng hạn, hãy xem các đại hội nhạc pop hoành tráng có vẻ giống những cuộc họp mặt tôn giáo, hay cách mọi người sẵn sàng chờ đợi bên ngoài một buổi biểu diễn đã bán hết vé tại rạp hát chỉ để thấy người Đẳng cấp đi vào đi ra. Hãy xem những đám đông đến các sân vận động bóng đá để xem một lũ đàn ông đuổi theo một quả bóng. Những người nổi tiếng là thần tượng, biểu tượng nếu ông thích, xét cho cùng, họ giống những bức tranh ông thấy trong nhà thờ và có thể trở thành những hình ảnh phổ biến trong phòng ngủ của các thanh thiếu niên hay các bà nội trợ, thậm chí trong văn phòng của những ông trùm công nghiệp, những người, dù của cải có lớn đến đâu, vẫn ghen tị với sự nổi tiếng của họ.
Chỉ có một khác biệt: trong trường hợp này, công chúng là thẩm phán tối cao, và dù hôm nay họ có thể ca ngợi, ngày mai họ sẽ vui vẻ khi đọc được một vụ phát giác tai tiếng nào đó về thần tượng của mình trên tạp chí lá cải. Rồi họ có thể nói: “Tội nghiệp. May là mình không giống anh ta”. Hôm nay, họ có thể ngưỡng mộ thần tượng của họ, nhưng ngày mai họ sẽ ném đá và đóng đinh anh ta mà lương tâm không chút cắn rứt.”
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: 24 Giờ Cô Độc Ở Cannes - Paulo Coelho

Postby bevanng » 06 Mar 2016

1:37 chiều

Không như những cô gái đến làm việc sáng nay hiện đang dùng IPod và điện thoại di động để giết thì giờ cho qua năm tiếng đồng hồ trang điểm và làm tóc cho buổi trình diễn thời trang sắp sửa diễn ra, Jasmine đang đọc sách, một cuốn thơ:
Con đường rẽ làm đôi trong một khu rừng vàng*,
Tiếc thay tôi không thể đi trên cả hai con đường đó
Và chỉ là một lữ khách, tôi đứng lại thật lâu
Dõi theo một con đường ngút xa tầm mắt
Đến nơi nó rẽ ngoặt dưới tầng cây thấp;
Rồi chọn con đường kia, cũng chẳng khác là bao,
Và có lẽ nó đáng để đi hơn,
Vì nó ngập đầy cỏ và mời gọi bước chân;
Dù gót giày của bao kẻ lại qua
Đã thực sự khiến chúng mòn gần như ngang ngửa,
Cả hai con đường sáng hôm đó đều được phủ
Trong đám lá chưa bước chân nào giẫm nát.
Thôi đành dành con đường đầu tiên cho một ngày khác!
Dù biết hết đường này lại dẫn đến đường kia,
Nào dám chắc có bao giờ quay lại.
Tôi sẽ kể chuyện này với một tiếng thở dài**
Một lúc nào đó rất lâu sau này:
Con đường rẽ làm đôi trong một khu rừng và tôi…
Tôi chọn con đường ít người đi hơn,
Và điều đó tạo nên mọi khác biệt.

* Đây là bài thơ nổi tiếng The road not taken của Robert Frost (1874 - 1963), nhà thơ người Mỹ, bốn lần đoạt giải Pulitzer.
** Nguyên văn là “I shall be telling this with a sigh”: Đây là câu thơ còn mang nhiều tranh cãi. Từ “sigh” có thể hiểu là “thở dài” nhưng cũng có thể hiểu là “thở phào”. Ở đây người dịch tạm dịch theo cảm nhận của mình là “thở dài”.
Cô đã chọn con đường ít người qua lại hơn, và dù chuyện đó khiến cô phải trả giá đắt, nó cũng bỏ công. Mọi thứ đến đúng lúc. Tình yêu đã xuất hiện khi cô cần nó nhất và bây giờ vẫn ở lại với cô. Cô làm công việc của cô với, vì, và nhờ tình yêu, hay đúng hơn là nhờ tình yêu với một người đặc biệt.
Tên thật của Jasmine là Cristina. CV của cô nói rằng cô được Anna Dieter phát hiện trong một chuyến đi đến Kenya, nhưng có rất ít chi tiền về chuyện này, để ngỏ khả năng có một tuổi thơ khốn khổ và đói khát, bị mắc kẹt giữa một cuộc nội chiến. Thực ra, dù mang làn da đen, cô được sinh ra ngay tại thành phố Antwerp truyền thông của Bỉ, con gái của một cặp vợ chồng đã chạy trốn khỏi những xung đột vĩnh viễn giữa người Hutu và Tutsi ở Rwanda.
Một ngày cuối tuần, lúc mười sáu tuổi, khi cô đang giúp mẹ lau dọn, một công việc bất tận của bà, một người đàn ông tiến về phía họ và tự giới thiệu, nói rằng ông ta là một nhiếp ảnh gia.
“Con gái bà đẹp lạ thường”, ông ta nói. “Tôi muốn cô bé làm việc cho tôi với tư cách người mẫu.”
“Ông thấy cái túi tôi đang mang đây không? Nó đầy đồ nghề lau dọn vệ sinh. Tôi làm việc cả ngày lẫn đêm để nó có thể học ở trường tốt và một ngày kia có bằng đại học. Nó mới mười sáu tuổi.”
“Đó là độ tuổi lý tưởng”, nhiếp ảnh gia nói, đưa danh thiếp của ông ta cho Cristina. “Nếu cô đổi ý, hãy cho tôi biết.”
Họ tiếp tục bước đi, nhưng mẹ cô nhận thấy con gái bà đã giữ tấm danh thiếp.
“Đừng để bị lừa. Đó không phải thế giới của con. Chúng chỉ muốn đưa con lên giường thôi.”
Cristina không cần mẹ dạy điều này. Dù tất cả lũ con gái trong lớp ghen tị với cô và lũ con trai đều muốn đưa cô đến các bữa tiệc, cô nhận thức rõ nguồn gốc và những giới hạn của mình.
Cô vẫn không tin khi điều tương tự lại xảy ra. Cô vừa đi vào một quán kem thì một phụ nữ lớn tuổi thốt lên trước vẻ đẹp của cô và nói bà là một nhiếp ảnh gia thời trang. Cristina cảm ơn bà, nhận tấm danh thiếp của bà, và hứa sẽ gọi cho bà, dù cô không có ý định làm thế và dù trở thành người mẫu là ước mơ của mọi cô gái ở lứa tuổi của cô.
Vì mọi chuyện không bao giờ chỉ xảy ra hai lẩn, ba tháng sau, cô đang nhìn vào cửa kính của một cửa hàng bán quần áo cực kỳ đắt tiền thì chủ cửa hàng bước ra nói chuyện với cô.
“Cô làm nghề gì?”
“Thực ra ông nên hỏi tôi sẽ làm gì. Tôi sẽ học để trở thành bác sĩ thú y.”
“Ôi, cô đang đi lầm đường đây. Cô có muốn làm việc với chúng tôi không?”
“Tôi không có thời gian để bán quần áo. Bất cứ khi nào có thể, tôi lại giúp mẹ tôi.”
“Tôi không đề nghị cô bán gì hết. Tôi muốn cô chụp vài bức ảnh đang mặc những mẫu thiết kế của chúng tôi.”
Và nếu không có một sự kiện xảy ra vài ngày sau, những cuộc gặp gỡ này sẽ chẳng là gì ngoài những ký ức thú vị để nhìn lại khi cô đã lấy chồng sinh con, được gia đình yêu thương và có sự nghiệp như ý.
Cô đang ở trong một hộp đêm cùng với vài người bạn, nhảy nhót và vui vẻ, khi một nhóm mười gã trai xộc vào, quát tháo. Chín đứa trong số chúng mang theo những cái dùi cui có gắn lưỡi dao lam và ra lệnh cho mọi người ra ngoài. Nỗi kinh hoảng lan ra, mọi người bỏ chạy. Cristina không biết làm gì, dù bản năng bảo cô ở yên vị trí và nhìn đi chỗ khác.
Tuy nhiên, trước khi cô có thể làm gì, cô thấy gã thứ mười rút từ trong túi ra một con dao, tiến đến một người bạn của cô, túm lấy cậu ta từ đằng sau và cắt họng cậu ta. Lũ đó biến đi cũng nhanh như lúc đến, trong khi những người có mặt hoặc đang la hét, cố gắng chạy thoát thân, hoặc đang ngồi trên sàn, khóc lóc. Vài người đến chỗ nạn nhân để xem họ có giúp gì được không, và biết rằng đã quá muộn. Những người khác, giống như Cristina, chỉ đơn giản nhìn chằm chằm cảnh tượng đó trong nỗi bàng hoàng. Cô biết cậu chàng bị giết và cả tên sát nhân, thậm chí còn biết động cơ của tội ác này (một vụ cãi cọ ở quầy bar ngay trước khi họ đến hộp đêm), nhưng cô dường như đang lơ lửng đâu đó giữa chín tầng mây, như thể tất cả chỉ là một giấc mơ và cô sẽ sớm tỉnh lại, ướt sũng mồ hôi, nhẹ nhõm khi biết tất cả ác mộng đã kết thúc.
Chuyện này, tuy nhiên, không phải là mơ.
Phải mất vài phút cô mới sực tỉnh, hét lên để ai đó làm gì, hét lên để ai đó không làm gì, hét lên chẳng vì lý do gì cả, và những tiếng thét của cô dường như càng làm cho mọi người sợ hãi hơn. Rồi cảnh sát đến, mang theo súng, theo sau là các nhân viên y tế và tiếp đó là các thám tử, họ sắp xếp tất cả thanh niên thành một hàng dựa vào tường và bắt đầu thẩm vấn họ, đòi kiểm tra giấy tờ, điện thoại di động, địa chỉ của họ. Ai đã giết cậu chàng đó và tại sao? Cristina không thể nói gì. Thi thể kia, phủ một tấm vải, được mang đi. Một y tá ép cô uống thuốc và bảo cô dù bất cứ lý do gì cũng không được lái xe về nhà, mà phải bắt taxi hay đi phương tiện công cộng.
Sáng sớm hôm sau, điện thoại reo. Mẹ cô đã quyết định dành ngày hôm đó ở nhà với con gái, cô có vẻ phần nào thu mình lại. Cảnh sát nhất định đòi nói chuyện trực tiếp với Cristina, bảo rằng đến trưa cô phải có mặt ở đồn cảnh sát và hỏi gặp một viên thanh tra nào đó. Mẹ cô từ chối. Cảnh sát đe dọa bà, và cuối cùng, Cristina cùng mẹ không còn sự lựa chọn nào khác.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: 24 Giờ Cô Độc Ở Cannes - Paulo Coelho

Postby bevanng » 06 Mar 2016


Họ đến vào giờ đã định. Viên thanh tra hỏi Cristina có biết tên giết người không.
Lời mẹ dặn cứ vang vọng trong đầu óc cô: “Đừng nói gì. Chúng ta là dân nhập cư, họ là người Bỉ. Chúng ta đen, họ trắng. Khi chúng ra tù, chúng sẽ lần theo dấu vết của con”. Vì thế cô nói:
“Tôi không biết cậu ta là ai. Trước đây tôi chưa bao giờ trông thấy cậu ta.”
Cô biết rằng khi nói vậy, cô có nguy cơ đánh mất tình yêu cuộc sống.
“Dĩ nhiên cô biết hắn là ai”, viên cảnh sát vặn lại. “Nghe này, đừng lo lắng, sẽ không có chuyện gì xảy ra với cô đâu. Chúng tôi đã bắt giữ gần như cả nhóm, và chúng tôi chỉ cần nhân chứng cho phiên tòa.”
“Tôi không biết gì hết. Tôi không đứng gần đó. Tôi không thấy ai đã làm thế.”
Viên thanh tra lắc đầu tuyệt vọng.
“Cô sẽ phải lặp lại điều đó ở phiên tòa”, ông ta nói, “biết rằng cô đang mắc tội khai man, nghĩa là, nói dối quan tòa, một tội có thể khiến cô phải ngồi tù lâu như chính những kẻ giết người đây”.
Mấy tháng sau, cô được gọi đến làm nhân chứng. Mấy gã thanh niên kia đều có luật sư và có vẻ gần như thích thú tình huống này. Một trong những cô gái khác có mặt ở hộp đêm hôm đó nhận dạng tên sát nhân trước tòa.
Rồi đến lượt Cristina. Luật sư bên nguyên đề nghị cô nhận dạng kẻ đã cắt cổ họng bạn cô.
“Tôi không biết ai đã làm thế“, cô nói.
Cô là người da đen và là con gái của những người nhập cư. Cô được học bổng từ chính phủ. Tất cả những gì cô muốn là phục hồi lại ý chí sống, và cảm nhận một lần nữa rằng mình có một tương lai. Cô đã dành hàng tuần nhìn chằm chằm lên trần phòng ngủ, không muốn học hay làm bất cứ điều gì. Cái thế giới nơi cô đã sống cho đến lúc đó không còn thuộc về cô nữa. Mười sáu tuổi, cô đã học được bằng cách khó khăn nhất rằng cô không có khả năng đấu tranh cho sự an toàn của mình. Cô cần rời khỏi Antwerp, để chu du thế giới, để lấy lại niềm vui và sức mạnh.
Mấy gã thanh niên kia được thả ra vì thiếu chứng cứ, việc truy tố cần hai nhân chứng để chứng thực cho việc buộc tội và đảm bảo bị cáo trả giá cho tội ác của chúng. Sau khi rời tòa án, Cristina gọi đến mấy số điện thoại trên những tấm danh thiếp mà hai nhiếp ảnh gia đưa cho cô và hẹn gặp họ. Rồi cô trở lại cửa hàng thời trang, nơi người chủ đã ra ngoài chỉ để nói chuyện với cô và đề nghị cô mặc mẫu những bộ trang phục trong cửa hàng của ông ta. Tuy nhiên, cô nhân viên bán hàng nói rằng ông chủ có cửa hàng ở khắp châu Âu và là người rất bận rộn, và không, họ không thể cho cô số điện thoại của ông ta.
May thay, mấy nhiếp ảnh gia có trí nhớ tốt hơn, cả hai ngay lập tức nhận ra tên cô và sắp xếp một cuộc gặp.
Cristina về nhà và kể với mẹ điều cô đã quyết định làm. Cô không xin lời khuyên từ bà hay cố thuyết phục bà, cô chỉ đơn giản nói muốn rời Antwerp mãi mãi, và cơ hội duy nhất của cô là làm người mẫu.

Jasmine lại nhìn quanh mình, vẫn còn ba tiếng nữa mới đến buổi trình diễn, và những cô người mẫu khác đang ăn salad, uống trà và nói chuyện về việc họ sẽ đi đâu tiếp theo. Họ đến từ các nước khác nhau, tầm tuổi cô - mười chín - và có lẽ chỉ có hai thứ trong đầu óc họ: kiếm được hợp đồng mới tối hôm đó và tìm được một ông chồng giàu.
Cô biết thói quen làm đẹp của họ. Trước khi ngủ, họ bôi kem hỗn hợp để làm sạch lỗ chân lông và giữ ẩm cho làn da, do đó, ngay từ rất sớm, cơ thể họ đã phụ thuộc vào các chất nhân tạo để duy trì sự cân bằng lý tưởng. Buổi sáng, họ bôi thêm nhiều kem và chất dưỡng ẩm hơn. Họ uống một tách cà phê đen không đường, ăn chút hoa quả và chất xơ, như thế bất cứ thứ thức ăn nào khác họ ăn trong ngày sẽ nhanh chóng tiêu hóa. Tiếp theo họ tập vài động tác vươn mình trước khi lên đường tìm kiếm công việc. Họ còn quá trẻ để bắt đầu tập thể dục ở phòng tập và thêm nữa, cơ thể họ có thể bắt đầu mang đường nét đàn ông. Họ leo lên bàn cân ba, bốn lần một ngày, trên thực tế hầu hết bọn họ luôn có những cái cân của riêng mình để phòng xa, vì đôi khi họ ở trong nhà trọ chứ không phải khách sạn. Họ chán nản mỗi khi kim bàn cân chỉ cho họ thấy họ đã tăng thêm một ounce*.
* 1 ounce = 28,35 gam.
Hầu hết người mẫu mới chỉ mười bảy, mười tám tuổi vì thế mẹ họ đi cùng họ bất cứ khi nào có thể. Các cô gái chưa bao giờ thừa nhận họ yêu ai - dù hầu hết bọn họ đều đang yêu - vì tình yêu khiến chuyến đi dường như dài hơn và khó chịu hơn, khuấy động trong bạn trai họ cái cảm giác kỳ lạ rằng họ đang mất người đàn bà (hay cô gái) họ yêu. Phải, các cô gái nghĩ về tiền và kiếm được trung bình bốn trăm euro một ngày - mức lương đáng phải ghen tị đối với một người vẫn còn quá trẻ chưa đủ tuổi có bằng lái xe và được phép lái xe. Tuy nhiên, mơ ước của họ đi xa hơn việc làm người mẫu, họ biết rằng họ sẽ sớm bị những gương mặt mới, những xu hướng mới vượt qua vì thế họ cần mau chóng chứng tỏ rằng họ có thể làm được nhiều hơn việc sải bước trên sàn catwalk. Họ luôn mè nheo các công ty quản lý của mình kiếm cho họ một cuộc thử vai, để họ có thể chứng tỏ họ có khả năng trở thành diễn viên - giấc mơ lớn của họ.
Các công ty quản lý, dĩ nhiên, đồng ý làm thế, nhưng khuyên họ chờ thêm một chút nữa, xét cho cùng, sự nghiệp của họ chỉ mới bắt đầu. Sự thật là hầu hết các công ty quản lý người mẫu không có nhiều mối quan hệ bên ngoài thế giới thời trang, họ kiếm được khoản phần trăm hoa hồng kha khá, cạnh tranh với các công ty quản lý khác, mà thị trường thì không lớn đến thế. Tốt nhất nên thu về những gì có thể ngay bây giờ, trước khi thời gian trôi đi và người mẫu bước qua rào chắn nguy hiểm của tuổi hai mươi, lúc da dẻ cô ta xấu đi vì quá nhiều chất dưỡng ẩm, cơ thể bị hủy hoại vì quá nhiều thức ăn có hàm lượng ca-lo thấp, trí óc bị ảnh hưởng vì những phương thuốc mà cô ta áp dụng để kiềm chế sự thèm ăn và rốt cuộc khiến đôi mắt và đầu óc hoàn toàn trống rỗng.
Trái ngược với những gì hầu hết mọi người nghĩ, người mẫu tự lo hết chi phí - vé máy bay, khách sạn và những món salad quen thuộc. Họ được trợ lý của một nhà thiết kế mời đến làm cái việc gọi là “casting”, cụ thể là, lựa chọn ai sẽ xuất hiện trên sàn catwalk hay trong các bức ảnh. Tại những dịp này, họ phải đối mặt với nhũng con người cau có sử dụng chút quyền lực của mình để trút bớt những cơn thịnh nộ hằng ngày và không bao giờ nói một lời tử tế hay khuyến khích. “Dễ sợ” hay “khủng khiếp” là những từ thường được nghe thấy nhất. Các cô gái rời buổi xét tuyển đó và tiếp tục đến buổi xét tuyển khác, cố sống cố chết bám chặt lấy điện thoại di động, như thể chúng sắp đưa ra một tiết lộ tuyệt diệu hay ít nhất đặt họ vào mối quan hệ với Tầng lớp Trên, nơi họ luôn mơ được trèo lên và từ đó có thể lên mặt với tất cả những khuôn mặt xính đẹp kia và sẽ biến thành sao.
Cha mẹ họ tự hào rằng con gái họ đã có một khởi đầu tốt đẹp và hối hận về sự phản đối ban đầu của họ trước thứ nghề này, xét cho cùng, con gái họ đang kiếm tiền và giúp đỡ gia đình. Bạn trai họ khó chịu, nhưng kiềm chế cảm xúc vì hãnh diện biết bao khi được trông thấy đi chơi với một người mẫu chuyên nghiệp. Những tay quản lý người mẫu làm việc với hàng tá các cô gái cùng độ tuổi và cùng ảo tưởng, luôn có sẵn những câu trả lời thích hợp cho những câu mà tất cả các cô đều hỏi: “Em không thể tham gia Tuần lễ thời trang Paris sao?”, “Anh nghĩ em có đủ khả năng bước vào ngành điện ảnh không?”. Bạn bè của các cô gái ghen tị với họ - hoặc ngấm ngầm hoặc công khai.
Những cô người mẫu trẻ này đến bất cứ bữa tiệc nào họ được mời đến. Họ cư xử như thể họ quan trọng hơn nhiều giá trị thật của họ, biết rằng, từ trong sâu thẳm, họ sẽ yêu ai đó để phá vỡ cái rào chắn lạnh lùng họ tự tạo ra quanh mình. Họ nhìn những người đàn ông lớn tuổi vừa đáng sợ vừa cuốn hút, họ biết những người đàn ông đó có đủ tiền để giúp họ thực hiện cú nhảy vọt, nhưng, đồng thời, không muốn trở thành gái điếm của giới thượng lưu. Họ luôn được trông thấy với một ly sâm banh trong tay, nhưng đó chỉ là phần hình ảnh họ muốn phô bày. Họ biết rượu có thể ảnh hưởng đến cân nặng của họ vì thế thức uống ưa thích của họ là nước khoáng không có gas vì tuy nước có gas không ảnh hưởng đến cân nặng, nhưng nó có những hậu quả tức thì lên tình trạng của dạ dày. Họ có lý tưởng, mơ ước, phẩm giá, nhưng tất cả những thứ này sẽ biến mất một ngày nào đó, khi họ không còn che giấu được sự tấn công ban đầu của lớp mỡ tích tụ dưới da.
Họ ngấm ngầm thỏa hiệp với bản thân không bao giờ nghĩ đến tương lai. Họ tiêu phần lớn số tiền kiếm được vào những sản phẩm chăm sóc sắc đẹp hứa hẹn tuổi xuân bất diệt. Họ thích giày dép, nhưng chúng quá đắt, tuy nhiên, đôi khi họ nuông chiều bản thân và mua một đôi tốt nhất. Họ kiếm được quần áo từ bạn bè trong giới thời trang với giá chỉ bằng một nửa giá thường. Họ sống trong một căn hộ nhỏ với cha mẹ, một người anh trai học đại học và một người chị gái lựa chọn trở thành thủ thư hay nhà khoa học. Mọi người cho rằng các cô gái đó chắc phải kiếm được cả núi tiền và thường vay tiền họ, các cô gái đồng ý vì họ muốn ra vẻ quan trọng, giàu có, hào phóng và khác với những người bình thường khác. Tuy nhiên, khi họ đến ngân hàng, tài khoản của họ luôn bị thâm hụt và họ đã vượt quá giới hạn tín dụng của mình.
Họ kiếm được hàng trăm tấm danh thiếp, gặp gỡ những người đàn ông bảnh bao đưa ra những lời đề nghị về công việc họ biết là giả trá, nhưng thi thoảng họ gọi điện cho những người đó để giữ liên lạc, nhận thức rằng họ có thể cần giúp đỡ một ngày nào đó, dù sự giúp đỡ ấy có cái giá của nó. Họ đều rơi vào những cái bẫy giống nhau. Họ đều mơ về sự thành công dễ dàng, chỉ để nhận ra nó không tồn tại. Ở tuổi mười bảy, họ đều đã trải qua vô số thất vọng, phản bội, nhục nhã, tuy nhiên họ vẫn tin.
Họ khó ngủ vì những loại thuốc khác nhau họ uống. Họ nghe những câu chuyện về chứng biếng ăn - loại bệnh thông thường nhất trong thế giới của họ, một loại rối loạn tinh thần do nỗi ám ảnh về cân nặng và ngoại hình gây ra, và nó lên đến cực điểm khi cơ thể từ chối tất cả các loại đồ ăn. Họ nói chuyện đó sẽ không đời nào xảy ra với họ, nhưng chẳng bao giờ để ý khi những triệu chứng đầu tiên xuất hiện.
Họ bước thẳng từ tuổi thơ đến một thế giới hào nhoáng và quyến rũ, không trải qua thời kỳ chuyển tiếp. Khi được hỏi về những dự tính tương lai, họ luôn có câu trả lời chực sẵn trên chót lưỡi: “Tôi sẽ học triết học. Tôi chỉ đang làm việc để kiếm tiền học”.
Họ biết điều này không đúng. Hay đúng hơn thì, họ biết thứ gì đó trong những lời này có vẻ không đúng, nhưng họ không thể xác định rõ đó là gì. Họ thực sự muốn một tấm bằng? Họ thực sự cần số tiền đó để học tập? Họ không có thời gian học đại học vì luôn có một buổi casting vào buổi sáng, một buổi chụp hình vào buổi chiều, một bữa tiệc cocktail trước khi trời tối, rồi một bữa tiệc khác họ phải đến để được nhìn thấy, ngưỡng mộ và khao khát.
Trong mắt những người khác, họ dường như có một cuộc sống thần tiên. Và, trong một thời gian, chính họ cũng tin rằng đây là ý nghĩa thực sự của cuộc sống, xét cho cùng, họ có hầu hết mọi thứ họ từng ghen tị với những cô gái xuất hiện trên các tạp chí và quảng cáo mỹ phẩm. Với một chút kỷ luật, họ thậm chí có thể tiết kiệm được ít tiền, cho đến khi, sau một lần kiểm tra kỹ lưỡng làn da theo thói quen hằng ngày, họ phát hiện dấu vết đầu tiên của tuổi tác. Sau đó, họ biết chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi một nhà thiết kế hay nhiếp ảnh gia nhận thấy điều tương tự. Họ sắp bị thất sủng.
Tôi chọn con đường ít người đi hơn,
Và điều đó tạo nên mọi khác biệt.

Thay vì quay trở lại với cuốn sách, Jasmine đứng dậy, rót đầy sâm banh vào cốc (nó luôn ở đó, nhưng hiếm khi được uống), cầm một cái bánh mì kẹp xúc xích lên, và bước đến cửa sổ. Cô đứng đó trong im lặng, nhìn ra ngoài biển. Câu chuyện của cô lại khác.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: 24 Giờ Cô Độc Ở Cannes - Paulo Coelho

Postby bevanng » 06 Mar 2016

1:46 chiều

Hắn thức dậy, tắm mình trong mồ hôi. Khi nhìn vào chiếc đồng hồ trên cái bàn cạnh giường, hắn nhận ra hắn mới ngủ có bốn mươi phút. Hắn kiệt sức, sợ hãi, hốt hoảng. Hắn vốn luôn nghĩ mình không có khả năng làm hại ai, song sáng nay hắn đã giết hai người vô tội. Đây không phải lần đầu tiên hắn phá hủy một thế giới, nhưng trước đây, hắn luôn có lý do chính đáng để làm vậy.
Hắn mơ thấy cô gái trên ghế băng gần bãi biển đến gặp hắn và thay vì kết tội hắn, cô lại chúc phúc cho hắn. Hắn nằm trong lòng cô, khóc lóc và năn nỉ xin cô tha thứ, nhưng dường như cô chẳng đoái hoài đến chuyện đó, chỉ đơn giản vuốt tóc hắn và bảo hắn đừng tự làm khổ mình. Olivia, hình ảnh của sự rộng lượng và khoan dung. Hắn tự hỏi giờ đây tình yêu của hắn dành cho Ewa có xứng đáng với những gì hắn đang làm không.
Hắn muốn tin là có. Thực tế Olivia ở bên cạnh hắn, hắn gặp gỡ cô ở một tầm cao gần như thiêng liêng, và mọi thứ dễ dàng hơn rất nhiều so với hắn đã tưởng tượng, tất cả điều này chỉ ra rằng phải có một lý do đằng sau những gì đang xảy ra.

Không khó để lẩn tránh đôi mắt cảnh giác của mấy người bạn của Javits. Hắn biết rằng những người đàn ông đó, cũng như khả năng sẵn sàng phản ứng nhanh nhạy và chính xác, được huấn luyện để ghi nhớ từng khuôn mặt, theo dõi từng cử động, phán đoán bất cứ nguy hiểm nào. Có lẽ họ biết hắn có vũ khí, đó là lý do họ quan sát hắn một lúc, nhưng lơi đi khi họ nhận ra hắn không phải là một mối đe dọa. Họ thậm chí có thể nghĩ rằng hắn cũng làm công việc giống họ và đến căn lều để kiểm tra xem nơi đó có an toàn cho ông chủ của hắn không.
Hắn chẳng có ông chủ nào cả. Và hắn là một mối đe dọa. Khoảnh khắc hắn vào trong căn lều và quyết định ai sẽ là nạn nhân tiếp theo, hắn không có đường lui, hoặc chỉ có nguy cơ đánh mất hết lòng tự trọng. Hắn thấy đoạn dốc dẫn vào lều được canh gác, nhưng lẻn ra bãi biển lại vô cùng dễ dàng. Hắn rời đi mười phút sau khi đến, hy vọng những người bạn của Javits sẽ nhận ra hắn đã đi. Rồi hắn bước quanh lều và quay trở lên con dốc dành cho khách ở khách sạn Martinez (hắn phải trình thẻ từ) và vào khu vực “ăn trưa”. Đi giày trên cát không phải là điều dễ chịu gì trên đời này, và Igor nhận ra hắn vẫn cảm thấy mệt mỏi từ chuyến bay, từ nỗi sợ kế hoạch của hắn có thể không khi nào hoàn thành được, và từ nỗi căng thẳng sau khi hắn phá hủy vũ trụ và những thế hệ tương lai của cô gái trẻ bán đồ thủ công ven đường tội nghiệp nọ. Tuy nhiên, hắn phải tiếp tục.

Trước khi quay lại lều, hắn lấy từ trong túi ra chiếc ống hút hắn đã cố ý giữ lại. Hắn mở cái bình thủy tinh dẹt nhỏ hắn đã cho Olivia xem. Nó không chứa gas như lời hắn nói với cô mà là một thứ khá tầm thường: một cây kim và một mẩu nút bần. Dùng một lưỡi kim loại mỏng, hắn tạo một cái lỗ trong nút bần có đường kính bằng ống hút.

Rồi hắn trở lại bữa tiệc, lúc đó đang đông nghịt khách đi loanh quanh, ôm hôn nhau, thốt lên những tiếng kêu nho nhỏ khi nhận ra nhau, giữ chặt những ly cocktail đủ màu sắc chỉ vì có thứ gì đó để làm với đôi bàn tay và kìm lại sự lo lắng của họ, khi họ chờ tiệc buffet bắt đầu. Lúc đó họ có thể ăn, một cách điều độ, dĩ nhiên, vì họ cần nghĩ đến chế độ ăn kiêng cũng như phẫu thuật thẩm mỹ và cả những bữa tiệc tối vào cuối ngày, nơi họ phải ăn dù không đói vì phép xã giao đòi hỏi như thế.
Hầu hết khách khứa là những người đứng tuổi, có nghĩa đây là một sự kiện cho những người chuyên nghiệp. Tuổi tác của các vị khách ủng hộ kế hoạch của hắn hơn, vì hầu hết bọn họ sẽ cẩn kính. Chẳng cần phải nói, không ai đeo kính cả vì “mắt kém” là một dấu hiệu của tuổi tác. Ở đó, mọi người phải ăn mặc, cư xử như những người đang ở độ tuổi thanh xuân, “trẻ trung trong tâm hồn” và có sức khỏe “tuyệt vời”, giả vờ rằng họ thờ ơ với những gì đang diễn ra quanh họ vì họ còn bận tâm đến những thứ khác, khi sự thực là họ không thể nhìn thấy gì. Những đôi kính áp tròng của họ chỉ giúp họ nhận dạng một người cách họ vài thước và thêm nữa, kịp phát hiện mình đang nói chuyện với ai.
Chỉ có hai người khách để ý mọi chuyện và mọi người - hai “người bạn” của Javits. Tuy nhiên, lần này, họ là người bị quan sát.
Igor đặt cây kim vào trong ống hút, và vờ đặt nó lại vào trong đồ uống của mình.
Một nhóm các cô gái xinh đẹp đứng gần bàn Javits tỏ ra đang lắng nghe, mê mẩn trước những câu chuyện đặc biệt do một người đàn ông Jamaica kể. Thực sự thì, mỗi cô đều đang mưu tính cách loại bỏ đối thủ và mang anh ta lên giường vì người Jamaica có tiếng là làm tình giỏi.
Igor lại gần Javits hơn, lấy ống hút từ ly ra, và thổi nó, phóng cây kim bên trong về phía nạn nhân của hắn. Hắn chỉ nán lại để thấy Javits đưa tay ra sau lưng. Rồi hắn rời đi và về thẳng khách sạn để cố ngủ một chút.

Nhựa độc curare, thoạt tiên được thổ dân da đỏ Nam Mỹ dùng khi đi săn bằng lao, cũng có thể được tìm thấy ở các bệnh viện châu Âu vì, trong tầm kiểm soát, nó có thể được sử dụng để gây tê, do đó thuận lợi cho công tác phẫu thuật. Một liều chí mạng - như trên đầu mũi kim hắn đã bắn vào lưng Javits - có thể giết chết một con chim trong vòng hai phút. Lợn lòi đực thì mất mười lăm phút mới chết, và những loài động vật có * lớn - chẳng hạn, con người - mất hai mươi phút.
Ngay khi nó hòa vào dòng máu, những sợi thần kinh của cơ thể chùng đi rồi ngưng hoạt động hoàn toàn, gây ra trạng thái ngộp thở dần dần. Điều kỳ lạ nhất - hay tệ nhất, có người nói vậy - là nạn nhân vẫn tỉnh táo từ đầu đến cuối, nhưng không thể cử động để kêu cứu hay ngăn lại quá trình tê liệt đang từ từ choán lấy cơ thể.
Nếu ai đó đứt tay vì mũi lao hay mũi tên tẩm độc trong một chuyến đi săn trong rừng, người da đỏ biết chính xác phải làm gì. Họ dùng phương pháp hô hấp nhân tạo và một loại thảo mộc giải độc mà họ luôn mang theo vì những tai nạn như thế là phổ biến. Ở thành phố, các nhân viên y tế không thể làm được gì vì họ nghĩ họ đang đối phó với một ca trụy tim.
Igor không nhìn lại khi hắn đi về khách sạn. Hắn biết ngay sau đó một trong hai “người bạn” sẽ điên cuồng lùng sục thủ phạm, trong khi người kia gọi xe cứu thương, nó sẽ đến rất nhanh chóng, nhưng nhóm nhân viên y tế sẽ chẳng biết gì mấy về chuyện đang diễn ra. Họ sẽ mặc đồng phục sặc sỡ và áo khoác phản quang, mang theo một cái máy khử rung tim - để gây một loạt cú sốc điện cho tim - và một điện tâm đồ di động. Trong trường hợp nhựa độc curare, quả tim có vẻ là phần cơ cuối cùng bị ảnh hưởng và tiếp tục đập thậm chí sau khi não đã chết.
Các nhân viên y tế sẽ nhận thấy nhịp tim ông không có gì lạ, vì thế sẽ cắm ống truyền cho ông, cho rằng ông bị một dạng trụy tim hay ngộ độc thức ăn nào đó, dù họ vẫn sẽ thực hiện tất cả các biện pháp thông thường, thậm chí dùng đến cả mặt nạ oxy. Lúc đó, hai mươi phút sẽ hết, và dù cơ thể có thể vẫn sống, giờ nó sẽ ở trong trạng thái thực vật.
Phải, hắn đã lên kế hoạch mọi chuyện. Hắn đã sử dụng phi cơ riêng để có thể đến Pháp với một khẩu súng không đăng ký và những chất độc khác nhau hắn có được thông qua các mối quan hệ với nhóm mafia Chechen hoạt động ở Moscow. Mỗi bước, mỗi động tác đã được nghiên cứu và tập dượt cẩn thận, như thể hắn đang lên kế hoạch cho một cuộc họp kinh doanh. Hắn đã lập danh sách các nạn nhân trong đầu. Ngoài người hắn đã gặp và nói chuyện cùng, những người khác đều ở các tầng lớp, độ tuổi và quốc tịch khác nhau. Hắn đã dành hàng tháng phân tích cuộc đời của những tên sát nhân hàng loạt, sử dụng một chương trình máy tính rất phổ biến với bọn khủng bố, không lưu lại bất cứ tìm kiếm nào mà bạn thực hiện. Hắn đã làm tất cả các bước cần thiết để trốn thoát không ai hay biết một khi hắn thực thi sứ mệnh của hắn.
Hắn đang toát mồ hôi. Không, đó không phải là ăn năn - có lẽ Ewa thực sự xứng đáng với sự hy sinh như thế - mà là ý nghĩ về khả năng vô ích của kế hoạch. Hắn cần người phụ nữ hắn yêu nhất biết hắn có thể làm bất cứ thứ gì vì nàng, kể cả việc phá hủy các vũ trụ, nhưng có thực sự đáng không? Hay đôi khi cần phải chấp nhận định mệnh, cho phép mọi thứ tự phát triển và đơn giản chờ đợi người ta tự mình thức tỉnh?
Hắn mệt mỏi. Hắn không thể nghĩ ngợi thông suốt được nữa và, biết đâu, có lẽ chịu sự đọa đày còn tốt hơn là giết người, tự nộp mình và vì thế tạo ra một sự hy sinh lớn hơn, dâng tặng chính cuộc đời hắn cho tình yêu. Chúa Jesus là tấm gương tốt nhất cho điều đó. Khi kẻ thù của Chúa thấy Chúa thất bại và bị treo trên cây thập tự, chúng nghĩ mọi chuyện đã hoàn toàn kết thúc. Chúng thấy tự hào về những gì chúng, những kẻ chiến thắng, đã làm, tin rằng chúng đã chấm dứt được vấn đề một lần dứt khoát.
Igor bối rối. Ý định của hắn là phá hủy các vũ trụ, không phải từ bỏ tự do của hắn vì tình yêu. Trong mơ, cô gái có đôi chân mày sẫm màu giống với Đức mẹ Sầu bi, người mẹ bế đứa con trai trên tay, vừa kiêu hãnh vừa nhẫn nại.
Hắn vào phòng tắm, để đầu dưới vòi hoa sen và mở nước lạnh. Có lẽ là vì thiếu ngủ, ở một nơi xa lạ, trên một múi giờ khác biệt, hay thực tế là hắn đang thật sự làm điều hắn đã lên kế hoạch, nhưng chưa bao giờ nghĩ sẽ làm. Hắn nhớ những lời hứa hắn đưa ra trước các di vật của thánh nữ Mary Magdalene ở Moscow. Nhưng hắn có làm đúng không? Hắn cần một dấu hiệu.
Hy sinh. Phải, đáng lẽ hắn nên nghĩ tới điều đó, nhưng có lẽ hắn cần kinh nghiệm phá hủy hai thế giới sáng nay để có thể thấy rõ hơn chuyện gì đang diễn ra. Cứu chuộc tình yêu qua sự nhượng bộ tuyệt đối. Cơ thể hắn sẽ được giao vào tay những đao phủ chỉ phán xét cử chỉ của người ta và quên mất những ý định và lý do nằm sau bất cứ hành động nào xã hội cho là “điên rồ”. Chúa Jesus (người hiểu rằng tình yêu xứng đáng với bất kỳ lượng hy sinh nào) sẽ đón nhận linh hồn hắn, và Ewa sẽ có tâm hồn hắn. Nàng sẽ biết hắn có khả năng gì: nhượng bộ, hy sinh và tất cả vì một người. Hắn sẽ không bị xử tội chết vì máy chém đã bị bãi bỏ ở Pháp từ hàng thế kỷ trước, nhưng hắn có thể ngồi tù nhiều năm. Ewa sẽ ăn năn vì tội lỗi của nàng. Nàng sẽ đến gặp hắn, mang đồ ăn cho hắn, họ sẽ có thời gian để trò chuyện, suy ngẫm, yêu đương và dù cơ thể họ không chạm vào nhau, tâm hồn họ sẽ gần gũi hơn bao giờ hết. Ngay cả khi họ phải chờ đợi nhiều năm trước khi có thể sống trong một ngôi nhà hắn dự định xây trên bờ hồ Baikal, thời gian chờ đợi đó sẽ thanh tẩy và ban phúc cho họ.
Phải, hy sinh. Hắn đóng vòi hoa sen, nhìn khuôn mặt hắn trong gương một lát, và trông thấy không phải bản thân hắn mà là Chúa Chiên Lành sắp bị hành hình lần nữa. Hắn mặc lại bộ quần áo mặc dở sáng nay, ra phố hướng đến chỗ cô gái bán rong bé nhỏ ấy thường ngồi, và bước tới viên sĩ quan đầu tiên hắn gặp.
“Tôi đã giết cô gái thường bán hàng ở đây.”
Viên cảnh sát nhìn hắn và thấy một người đàn ông ăn vận bảnh bao với mái tóc rối bời và hai mắt thâm quầng.
“Cô gái thường bán đồ thủ công?”
Igor gật đầu.
Viên cảnh sát không chú ý nhiều đến hắn. Y chào một cặp đôi đi ngang qua, đang khệ nệ xách những món đồ mua sắm.
“Hai vị nên kiếm một cô tớ gái!”
“Nếu ông trả lương cho cô ta”, người phụ nữ đáp trả, mỉm cười. “Ông không thể kiếm được người giúp việc vào thời buổi này!”
“Ôi, thôi nào, tiền không thế là lý do. Mỗi tuần bà lại có một viên kim cương khác trên ngón tay đây thôi.”
Igor không hiểu nổi chuyện gì đang diễn ra. Hắn vừa mới thú nhận giết người.
“Ông có nghe tôi nói gì không?”
“Này ông, trời rất nóng. Hãy đi nghỉ một chút. Cannes có nhiều thứ để chào mời du khách lắm đấy.”
“Nhưng cô gái đó thì sao?”
“Ông có biết cô ấy không?”
“Trước đây tôi chưa bao giờ gặp cô ấy. Cô ấy ở đây sáng nay. Tôi…”
“… Ông thấy xe cứu thương đến và ai đó bị đưa đi và kết luận cô ấy bị giết. Tôi không biết ông từ đâu đến, thưa ông, tôi không biết ông có con không, nhưng hãy cảnh giác với ma túy. Người ta nói chúng không tệ đến thế đâu, nhưng hãy xem chuyện gì đã xảy ra với cô gái tội nghiệp đó.”
Và viên cảnh sát rời đi mà không đợi câu trả lời.
Igor có nên khăng khăng, cung cấp thêm chi tiết? Rồi viên cảnh sát có cho là hắn nghiêm túc? Nhưng, dĩ nhiên, việc giết người giữa ban ngày ban mặt trên con phố chính ở Cannes là điều bất khả thi. Hắn thậm chí còn định thú nhận đã phá hủy một thế giới khác tại một bữa tiệc đông nghẹt người.
Nhưng cái người đại diện cho pháp luật, trật tự và văn minh lịch sự ấy đã không muốn nghe hắn. Hắn đang sống trong cái thế giới nào vậy? Hắn có cần rút súng ra và bắn loạn xạ để họ tin hắn không? Hắn có cần cư xử như một tên man rợ giết người vô cớ để họ rốt cuộc nghe hắn?
Igor dõi theo viên cảnh sát băng qua đường và vào một quán bar nhỏ có phục vụ đồ ăn nhẹ. Hắn quyết định chờ một lát, phòng khi ông ta đổi ý, lấy thêm thông tin từ đồn cảnh sát và quay lại hỏi hắn thêm nhiều chi tiết về vụ án mạng.
Tuy nhiên, hắn khá chắc chắn điều đó sẽ không xảy ra. Hắn nhớ lại lời nhận xét của viên cảnh sát với người phụ nữ nọ về viên kim cương trên ngón tay bà ta. Ông ta có biết nó xuất xứ từ đâu không? Dĩ nhiên là không, nếu ông ta biết, ông ta sẽ dẫn bà ta đến thẳng đồn cảnh sát và kết tội bà ta là mua bán tài sản phạm pháp. 
Về phần người phụ nữ nọ, viên kim cương đã xuất hiện một cách quyến rũ trong một cửa hàng cao cấp nào đó, sau khi đã được - như các nhân viên bán hàng luôn nói - những thợ đá quý Hà Lan hay Bỉ cắt gọt. Nó sẽ được phân loại theo cách cắt gọt, màu sắc, độ trong và trọng lượng carat. Giá cả có thể dao động từ vài trăm euro đến một mức mà hầu hết những người bình thường sẽ coi là thực sự thái quá.
Một viên kim cương, hay hột xoàn nếu gọi nó bằng cái tên khác, chỉ là, như mọi người biết, một mẩu than đá được thời gian và nhiệt độ tác động. Vì nó không chứa chất hữu cơ, không thể biết mất bao lâu cấu trúc của nó mới thay đổi, dù các nhà địa chất học ước lượng khoảng ba trăm triệu đến một tỷ năm. Kim cương thường hình thành cách lớp vỏ toái đất chín mươi dặm và dần dần nổi lên bề mặt, nơi chúng có thể được đào.
Kim cương là vật chất thiên nhiên cứng nhất và bền nhất, và chỉ có kim cương mới cắt nổi kim cương. Các mảnh nhỏ sinh ra trong quá trình này được sử dụng trong những cỗ máy dùng để đánh bóng và cắt gọt. Tầm quan trọng thực sự của kim cương nằm trong công dụng làm đồ trang sức của chúng. Một viên kim cương là sự thể hiện tối cao cho thói phù phiếm của con người.
Vài thập niên trước, trong một thế giới dường như sắp quay lại với những thứ thiết thực hơn và bình đẳng xã hội lớn hơn, kim cương bắt đầu biến mất khỏi thị trường. Rồi công ty khai thác mỏ lớn nhất trên thế giới, với tổng hành  dinh ở Nam Phi, quyết định đưa vào hoạt động một trong những đại lý quảng cáo tốt nhất thế giới. Người Đẳng cấp gặp gỡ người Đẳng cấp, nghiên cứu được tiến hành, và kết quả là một cụm từ năm chữ: “Kim cương là vĩnh cửu”.
Vấn đề được giải quyết. Các thợ đá quý áp dụng khẩu hiệu trên, và ngành công nghiệp này bắt đầu hưng thịnh trở lại. Nêu kim cương là vĩnh cửu, còn cách nào tốt hơn để thể hiện tình yêu của con người, một thứ, ít nhất là trên lý thuyết, cũng phải là bất diệt? Còn cách nào tốt hơn để phân biệt người Đẳng cấp với hàng tỷ thường dân khác tạo nên phần đáy của hình kim tự tháp? Nhu cầu về loại đá này tăng lên và giá của nó cũng bắt đầu tăng. Chỉ trong vòng vài năm, công ty Nam Phi đó, đến lúc ấy đã đặt ra các quy tắc cho thị trường nước ngoài, đã thấy bản thân nó bị vây quanh giữa những tử thi.
Igor biết hắn đang nói gì. Khi hắn trợ giúp việc thành lập một đội quân tham gia trong một cuộc xung đột bộ tộc ở châu Phi, nó đã là một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn. Không phải hắn hối hận vì, dù ít người biết đến kế hoạch đó, hắn đã xoay xở để cứu được nhiều mạng người. Hắn từng một lần đề cập đến chuyện này với Ewa trong một bữa tối mà giờ hắn đã quên, nhưng quyết định không nói gì thêm. Khi hắn thực hiện một hoạt động từ thiện, hắn muốn tay phải của hắn không biết tay trái đang làm gì. Kim cương đã giúp hắn cứu nhiều mạng người, dù sự việc đó sẽ không bao giờ xuất hiện trong tiểu sử của hắn. 
Viên cảnh sát, kẻ không để ý gì khi một tên tội phạm tự thú mà khen ngợi viên đá quý trên ngón tay của một phụ nữ xách những túi hàng đầy giấy vệ sinh và chất tẩy rửa, đơn giản không phù hợp với công việc này. Y không biết rằng ngành công nghiệp vô nghĩa đó tạo ra khoảng năm mươi tỷ đô la một năm, thuê một đội quân lớn gồm những kẻ đào mỏ, vận chuyển, các công ty an ninh tư nhân, các nhà máy kim cương, các công ty bảo hiểm, các tay bán buôn và các cửa hàng thời trang sang trọng. Y không nhận ra nó bắt đầu trong bùn và phải băng qua những dòng sông máu trước khi đến được một ô kính bày hàng ở các cửa hiệu.
Bùn là nơi thợ mỏ dành cả cuộc đời tìm kiếm loại đá rốt cuộc sẽ mang lại cho anh ta sự giàu có anh ta hằng ao ước. Anh ta tìm thấy một ít và bán mỗi viên đá với giá trung bình hai mươi đô la, một viên đá cuối cùng sẽ có giá mười nghìn đô la khi đến tay người tiêu thụ. Nhưng anh ta hài lòng vì ở nơi anh ta sống, người ta kiếm được chưa đến năm mươi đô la một năm, và năm viên đá là đủ để anh ta hưởng thụ một cuộc đời ngắn ngủi nhưng hạnh phúc, làm công việc anh ta đang làm trong những điều kiện tệ hại nhất.

Những viên đá được những kẻ không rõ danh tính mua và lập tức chuyển sang những đội quân không chính quy ở Liberia, Congo và Angola. Ở các nước này, một người đàn ông, xung quanh là đám vệ sĩ vũ trang đến tận răng, được chỉ định đi đến một đường băng nơi máy bay có thể hạ cánh bất hợp pháp. Một chiếc máy bay hạ cánh đúng giờ, một người đàn ông mặc com lê bước ra, thường kèm theo một người đàn ông khác mặc sơ mi trần, xách chiếc va li nhỏ. Chào hỏi qua loa. Người đàn ông có vệ sĩ đi theo giao một vài gói hàng nhỏ, có lẽ là do mê tín, các gói hàng luôn được làm từ những chiếc quần chẽn cũ.
Người đàn ông mặc sơ mi trần lấy từ trong túi ra một thấu kính đặc biệt của thợ đá quý, đưa lên mắt trái, và bắt đầu kiểm tra từng mẩu, lần lượt. Sau khoảng một tiếng rưỡi, anh ta nắm bắt rõ về thứ anh ta đang giao dịch, sau đó anh ta lấy từ va li ra một cái cân tiểu ly điện tử nhỏ và đổ những thứ chứa trong gói hàng lên bàn cân. Anh ta làm vài phép tính trên một tờ giấy. Những vật trên được cất vào trong va li cùng với cái cân, người đàn ông vận com lê ra hiệu cho mấy vệ sĩ có vũ trang, và năm hay sáu người bọn họ lên máy bay. Họ bắt đầu khiêng xuống những cái thùng thưa lớn, chất chúng thành đống bên cạnh đường băng cho đến khi máy bay lại rời đi. Toàn bộ quá trình chiếm gần hết cả ngày.
Những chiếc thùng thưa lớn được mở ra. Chúng chứa súng ngắm, mìn sát thương và những viên đạn nổ khi có va chạm, bắn ra hàng tá viên kim loại nhỏ gây chết người. Số vũ khí này được trao cho binh lính và những tên lính đánh thuê, và đất nước đó mau chóng thấy mình đối mặt với một cuộc đảo chính tàn khốc khác. Toàn bộ lạc bị giết, chân tay trẻ con bị nổ văng đi vì bom bi, phụ nữ bị cưỡng hiếp. Trong khi đó, ở rất xa - thường là Antwerp hay Amsterdam - những người đàn ông đứng đắn đang làm việc say mê và tận tụy, cần cù cắt gọt những viên đá, phấn khởi trước kỹ năng của họ, mê mẩn trước những tia sáng bắt đầu lóe lên từ mỗi một mặt mới của mẩu than đá có cấu trúc bị biến đổi nhờ thời gian kia. Kim cương cắt kim cương.
Một mặt, bao phụ nữ gào thét tuyệt vọng bên dưới bầu trời phủ khói. Mặt khác, những tòa nhà cổ xinh đẹp được nhìn thấy qua ô cửa sổ của những căn phòng sáng ánh đèn.
Năm 2002, Liên Hiệp Quốc thông qua một nghị quyết, Quy trình Kimberley, cố gắng lần theo nguồn gốc của kim cương và cấm các thợ đá quý không được mua bất cứ thứ gì từ những vùng chiến. Trong một thời gian, những thợ cắt kim cương người Âu đứng đắn quay lại mua đá ở cơ sở độc quyền tại Nam Phi. Tuy nhiên, người ta đã tìm ra các cách “hợp thức hóa” kim cương, và nghị quyết kia trở thành một tấm bình phong cho phép các chính trị gia tuyên bố rằng họ đang làm điều gì đó để chấm dứt nạn “kim cương máu”, khi chúng trở nên quen thuộc.
Năm năm trước, Igor đã đổi kim cương lấy vũ khí và thành lập một nhóm nhỏ để chấm dứt một cuộc xung đột đẫm máu ở bắc Liberia, và hắn đã thành công - chỉ những kẻ giết người bị giết. Hòa bình trở lại với những ngôi làng nhỏ, và kim cương được bán cho những thợ kim hoàn người Mỹ, không hỏi han rầy rà.
Khi xã hội không hành động để ngăn chặn tội ác, người ta có quyền làm bất cứ chuyện gì họ nghĩ là đúng đắn. 
Điều tương tự xảy ra một vài phút trước trên bãi biển. Ngay khi cả hai vụ án mạng được phát hiện, có người sẽ quay sang công chúng và nói câu muôn thuở:
“Chúng tôi đang làm hết sức để nhận dạng kẻ sát nhân.”
Vậy đây. Một lần nữa, định mệnh luôn luôn hào phóng đã chỉ ra con đường phía trước. Hy sinh là không đủ. Thêm nữa, khi hắn nghĩ về nó, Ewa sẽ không thể chịu đựng sự vắng mặt của hắn, không có ai nói chuyện cùng trong những đêm dài và những ngày bất tận trong khi nàng chờ hắn được thả ra. Nàng sẽ khóc mỗi khi nghĩ về hắn trong ngục tù lạnh lẽo, nhìn chằm chằm vào bôn bức tường phòng giam trơ trụi. Và cuối cùng khi thời điểm họ đến sống ở căn nhà bên bờ hồ Baikal tới, có thể lúc đó họ đã quá già, không còn hơi sức để trải nghiệm những cuộc phiêu lưu họ đã lên kế hoạch cùng nhau nữa.
Viên cảnh sát ra khỏi quán bar có phục vụ đồ ăn nhẹ và đến chỗ hắn trên vỉa hè.
“Này ông, ông vẫn ở đây à? Ông bị lạc đường sao? Ông cần giúp đỡ không?”
“Không, cảm ơn.”
“Như tôi đã nói, hãy về nghỉ ngơi đi. Mặt trời có thể rất nguy hiểm vào thời điềm này trong ngày.”
Hắn quay lại khách sạn và đi tắm. Hắn bảo nhân viên lễ tân đánh thức hắn lúc bốn giờ, như thế hắn sẽ được nghỉ ngơi, đủ để khôi phục lại sự minh mẫn cần thiết, không làm thêm bất cứ chuyện ngu ngốc nào nữa. Hắn suýt nữa đã làm hỏng toàn bộ kế hoạch.
Hắn gọi điện cho nhân viên giao tế và đặt một bàn ở sân thượng khách sạn cho thời điểm hắn thức dậy, hắn muốn uống trà ở đó mà không bị làm phiền. Rồi hắn nằm xuống, nhìn chằm chằm lên trần và đợi giấc ngủ đến.
Kim cương xuất xứ từ đâu thì có gì quan trọng, miễn là chúng lấp lánh?
Trong thế giới này, chỉ có tình yêu hoàn toàn xứng đáng với mọi thứ. Những thứ khác chẳng có nghĩa lý gì.
Như nhiều lần trước đây trong đời, Igor thấy một cảm giác hoàn toàn tự do. Sự băn khoăn trong đầu hắn đang dần dần biến mất và sự minh mẫn đang quay trở lại.
Hắn đã đặt định mệnh của mình vào tay Chúa Jesus, và Chúa đã quyết định rằng hắn nên tiếp tục với sứ mệnh này.
Hắn ngủ thiếp đi mà không còn bất cứ cảm giác tội lỗi nào nữa.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Next

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 45 guests