by bevanng » 01 Feb 2016
ĐOM ĐÓM CỦA TÌNH YÊU
Luigi Pirandello Nhà văn Ý – Giải thưởng Nobel
…
Đã ba đêm, Neli Xơghembri ngủ ngoài trời, trên đống rơm còn lưu lại ngoài sân phơi sau buổi đập lúa, và ông chăn mấy con vật: một la cái với hai con lừa, chúng đang gặm cỏ ngay gần bên.
Rơm còn đầy hơi sương, hay như Neli vẫn bảo, còn đẫm nước mắt của muôn vì sao. Các chú dế mèn nỉ non ca hát xung quanh ông, tiếp sau tiếng nghiến chói tai đơn điệu của đàn ve sầu lúc ban ngày, thì tiếng vang rền êm dịu của bản hòa tấu này làm ấm hẳn lòng người.
Thế nhưng, ông lão, nằm ngửa nhìn trời, đang mang một tâm trạng ưu tư, ông ngắm các vì sao và thỉnh thoảng lại nhắm mắt, thở dài.
Ông cảm thấy số phận đã lừa dối ông: đời chẳng dành cho ông chút gì trong các điều ông hi vọng thực ở tuổi thanh xuân. Và bây giờ khi tuổi đã xế chiều, đời cũng chẳng cho ông được hưởng tí chút cái ông từng có, tuy lòng ông chẳng muốn có. Vả chăng, từ bốn năm nay, Neli lại mất cả bà vợ, người vợ mà ông còn đang thấy cần thiết cho đời ông. Và ông lấy làm xấu hổ vì đến cái tuổi tóc đã hoa râm, lưng đã còng, mà lại còn phải đi tìm kiếm tình cảm.
Trong khi ông còn đang thả hồn vào những suy nghĩ mông lung, thì bất chợt, dưới ánh sao dịu dàng, ẩm ướt, điểm sáng lập lòe của một con đom đóm đập vào mắt ông, nó vừa mới sà xuống đống rơm ngay bên cạnh ông.
Ông chợt tưởng như thấy một mảnh trời bé nhỏ rơi xuống ngay sát bên mình, tuy bầu trời vẫn còn ở tít mù xa. Ông bật ngồi dậy, rồi lại nằm xuống, như vừa sực tỉnh sau một cơn mơ. Nhưng vẫn chỉ là cảnh tượng những gì ở quanh ông, nhòa lẫn trong đêm tối, tất cả đã cho ông cảm giác như mơ: túp lều tranh rạn nứt và ám khói đen sì của ông, con la cái, hai con lừa giữa đám rơm rạ, và ở tít đằng xa cuối trời, những ánh đèn chấp chối của xóm làng Rapphađali bé nhỏ của ông.
Con đom đóm vẫn còn đấy, trên đống rơm cạnh ông. Neli bắt nó, rồi ngắm nó trong lòng bàn tay to lớn sần chai của mình; nó vẫn còn tỏa ra một làn ánh sáng xanh mờ mờ; ông nghĩ rằng: “Ngọn nến nhỏ của mục đồng” kia đã đến với ông từ những năm tháng đẹp đẽ xa xưa thời trai trẻ. Biết đâu, chính là con đom đóm ấy, một tối tháng sáu, bay chập chờn trên sân phơi như ở đây, bốn mươi lăm năm về trước, đã vương vào làn tóc huyền của Trisuzza Tumminia, khi nàng qua đêm trên cánh đồng với các cô mót lúa trẻ của Rapphađali để dự đêm kết thúc hội mùa và khiêu vũ dưới ánh trăng theo nhịp trống.
- Ôi tuổi trẻ!
Trisuzza Tumminia sợ rúm cả người vì con đom đóm nằm bẹp trong tóc nàng. Nàng có hiểu đâu đó chỉ là “ngọn nến nhỏ của mục đồng”. Neli đã đến bên nàng, và sau khi đã nhẹ nhàng khéo léo dùng mấy ngón tay lấy con đom đóm ra khỏi tóc nàng, giơ cho nàng xem, và đã nói với nàng, như ông sắp ứng khẩu một khúc nhạc tấu cho nàng nghe:
- Cô em có biết không? Nó lập lòe, nó vừa đến đặt một ngôi sao lên vầng trán cô em đấy. Vào cái thời mà thiên hạ đều khác hẳn thời nay, ông đã bắt đầu tán tỉnh Trisuzza Tumminia. Nhưng cha mẹ đôi bên, vì những mối hiềm thù gia đình cũ đã chống lại việc kết hôn. Sau đó, Trisuzza đã lấy một chàng trai khác, còn Neli cũng đã lấy vợ.
Đã hơn bốn mươi lăm năm trôi qua; nay ông đã góa vợ, còn nàng cũng đã thành quả phụ hơn mười năm rồi…
Tại sao con đom đóm ấy lại quay trở lại đây nhỉ? Tại sao nó lại chiếu sáng vào mắt ông, trong khi ông đang cảm thấy buồn bã và cô đơn buồn cả ruột gan? Và tại sao nó lại hạ xuống đây trên đám rơm tắm ánh sao đêm, ngay cạnh ông?
Neli rút từ trong túi ra một mẩu giấy, đem bọc con côn trùng thật cẩn thận vào đó. Suốt mấy canh dài trong đêm thâu, ông cứ suy đi nghĩ lại một mình rồi tủm tỉm cười thầm. Sáng hôm sau, nhìn thấy một bé gái đi trên con đường nhỏ từ ngoài đồng hương về làng Rapphađali, từ đằng sau bụi cây, ông cất tiếng gọi.
Cô bé này cũng thế, mắt nhấp nháy cười, miệng cũng muốn nở hoa. Ông lấy bàn tay che đôi môi râu đã cạo nhẵn, nói:
- Cháu này, cháu có biết bà Trisuzza Tumminia không?
- Cái thím có con lợn nái ý ạ?
Neli cau lông mày, vẻ bực mình. Như thế đấy? Ngày nay, cả làng Rapphađali gọi Trisuzza Tumminia là: “Cái thím có con lợn nái”! Họ mệnh danh cho bà như vậy, vì một con lợn nái mà bà đã nuôi bao năm nay, yêu thương nó như mẹ với con, vỗ cho nó béo ú à ú ịt đến không còn có thể đứng vững được nữa.
Trisuzza Tumminia, sau khi chồng mất, đã gây dựng cho các con ra ở riêng, và chỉ sống bầu bạn với con lợn nái. Nhưng hãy liệu hồn cho kẻ nào dám cả gan gạ bà làm thịt nó. Bà thường cúi xuống gãi gãi vào đầu con vật, cô lợn nái, da hồng hồng, pha mầu đất sét, lê cái bụng bự trên đống rơm, sung sướng ủn ỉn, khoan khoái, cảm thấy nhột nhột, nó vươn dài mình ra, nhếch cái mõm như muốn cười, phơi cả ức ra. Cái vẻ khoái trá vô lo của con vật ấy hầu như không thể giải thích được, và mọi người cảm thấy bực dọc. Họ không thể chấp nhận, một khi đã không định đưa nó đến lò mổ, thì cứ tiếp tục vỗ cho nó béo lăn ra làm gì.
- Thím Tresa, đúng, - Neli nói với nó, - cháu có biết thím ấy không?
- Cháu biết tỏng đi ấy chứ.
- Tốt, nghe đây: trong mẩu giấy này, có “ngọn nến nhỏ của mục đồng”, cẩn thận kẻo nó bay mất, cũng đừng bóp bẹp nó nhé. Hãy mang nó lại cho thím Tresa, và nói rằng đây là của ông Neli Xơghembri gửi đến. Cháu nói thêm với thím đây chính là ngọn nến từ ngày xửa ngày xưa đấy nhé! Chiều nay trở về, cháu cho ông biết thím đã trả lời thế nào, và ông sẽ làm quà cho cháu một bình bột đậu tằm. Thôi đi đi?
Kể ra thì ông đã sáu mươi ba tuổi, nhưng còn khỏe, thân hình chắc nịch như thân cây ô liu, cả thím Tresa cũng vậy, thím vẫn còn tươi tắn như quả đậu tằm trên cây, khỏe mạnh, hồng hào, mũm mĩm.
Chiều đến, con bé quay lại, mang theo câu trả lời:
- Thím Tresa bảo hồi này tóc tai đã bạc cả rồi, còn “ngọn nến nhỏ” cũng chẳng chiếu sáng nữa.
- Đúng thím đã nói với cháu thế?
- Y xì!
Hôm sau, râu cạo nhẵn như một chú rể trẻ, áo quần bảnh bao. Neli đến gặp Trisuzza Tumminia để bầy tỏ với bà rằng: Lửa của “ngọn nến mục đồng” ông vẫn còn giữ mãi trong lòng, nó vẫn sống động, xanh tươi như ông đã từng trông thấy nó lấp lánh trên trán bà, tựa một ngôi sao sáng.
- Chúng ta gây dựng với nhau, rồi thịt con lợn nái nhá!
Thím Tresa giơ cả hai tay đẩy phăng ông ra.
- Về đi cho rồi, cái ông lão ngớ ngẩn này!
Nhưng bà lại cười. Đừng có mà nghĩ đến giết con lợn nái. Còn về việc cưới xin… thì sao lại không nhỉ?
Đúng là số phận ông đã xui nên như thế. Trước kia thì ông bố bà mẹ, giờ thì lũ con ông và cả lũ con bà đều chống lại việc cưới xin này.
Nhưng lần này, cả hai ông bà già chẳng quan tâm gì đến cái cuộc công kích ấy. Họ bị xúc phạm vì các con đã phản đối lại họ. Nhưng trong thâm tâm, họ cảm thấy thú thú vì chính sự phản đối ấy đã gia thêm chút ý vị trẻ trung cho đám cưới của họ. Thật vui tai khi được nghe con cái của đôi bên nói đến nào là đức độ, nào là nghi lễ trong chuyện cưới xin.
Cuộc hôn nhân trước đã cho họ, mỗi bên bốn người con: Tresa Tumminia bốn trai, Neli Xơghembri, hai trai, hai gái. Con cái của Tresa thấy đều yên phận cả, và còn khá khẩm nữa, mỗi đứa đã được nhận phần thừa kế của bố chúng, bốn phần đều nhau, thật hợp lệ.
Về bên Neli, ông hãy còn một con gái sống với mình, cháu Narđa, đã đến tuổi lấy chồng.
Để bịt miệng họ hàng thân thuộc, trước khi cưới hai ông bà già đã nhờ công chứng viên làm giấy tờ cần thiết, nhằm bảo vệ quyền lợi các con bên này cũng như bên kia, một khi các cụ qua đời.
Bằng cách ấy, ông bà hy vọng đánh tan được sự hiềm khích hết sức dữ dội đối với họ, ngay từ thời gian đầu tiên. Nhưng vô ích. Quyết liệt nhất là mấy đứa con trẻ nhà Neli, mặc dầu chúng đã được hưởng lợi nhiều hơn, vì ông già tội nghiệp đã cho chúng không những phần di sản của bà vợ đã mất, mà còn cho tất cả những gì thuộc phần riêng ông, ông đã quyết định hễ còn đủ sức làm việc thì chỉ sống bằng đôi bàn tay lao động của chính mình, bằng lợi tức gia sản bà vợ kế, cũng như với thu nhập của cháu Narđa, cho đến ngày cháu đi lấy chồng.
Nhất là cô chị cả Siđôra, nay được gọi là Perônella sau khi lấy chồng, cứ tức tối. Chạy ngược lên về chuyện này. Nói với chồng, với các em dâu và hai em trai, Saru và Luzzu về cô em gái Narđa hiện đang ở với bà mẹ kế, cô bảo:
- Tôi mà nói sai thì xin cứ rụt ngay lưỡi lại: rồi cả nhà xem, dưới nanh vuốt của con mụ phù thủy già đó, cô Narđa sẽ mãi mãi chỉ là gái già cho coi. Con vua mà có đến hỏi em gái mình thì rồi mụ ấy cũng sẽ bảo rằng chưa 'phải môn đăng hộ đối!
Cô giữ giọng lưỡi ấy là bởi vì theo cô, cái mụ già Trisuzza Tumminia sẽ không bao giờ chấp nhận cho ông chồng thứ hai của mình được sống trên hoa lợi của món tài sản cộng đồng sau khi ông đã cho Narđa tất cả mọi thứ dành làm của hồi môn cho con gái.
Nghe các bà láng giềng kể về thái độ ân cần của bà Tresa đối với Narđa, mà bà chăm nom săn sóc còn tận tình hơn cả con gái của chính bà: hết quà này lại đến quà khác, nào khuyên tai vàng, nhẫn vàng, chuỗi hạt san hô đeo cổ, nào khăn quàng khăn vuông lụa, khăn lụa dài có viền tua rua dài đến bôn ngón tay, nào giày ban cao gót da bê non, mũi đánh vecni bóng loáng, những chuyện nói chung khó có thể tin được, Siđôra giận tím mặt, trả lời rằng:
- Ôi! Toàn những điều láo toét. Các bà không biết là mụ ấy làm thế để chiếm lấy em tôi à? Mụ ấy muốn vỗ béo nó để giữ chịt nó ở nhà mụ ấy, như giữ con lợn nái ấy!
Nhưng khi người ta đến báo tin Narđa chuẩn bị đi lấy chồng, thì chị ta choáng cả người. Mà là đám nào kia chứ! Loại thượng hảo hạng cơ đấy, lại do chính dì Tresa tìm ra: đó là Pitrinô Xanhcômani, mọi người biết cả đấy. Một chàng trai quý như vàng cốm, em vợ cậu cả nhà bà. Pitrinô Xanhcômani, cậu thanh niên đẹp trai đó, một nghiệp chủ có đất, có nhà, có gia súc vừa thồ hàng vừa làm đồng.
- Thật hả? Thế đấy, thế đấy? - Cô chị lên tiếng để che giấu nỗi bực mình của cô đối với tất cả các bà ngồi lê mách lẻo đang hoan hỉ về việc này. - Pitrinô Xanhcômani ư? A, tội nghiệp con bé Narđa, quả thật chuyện này làm tôi rất vui. Tôi rất mừng cho nó đấy!
Không hơn gì hai cậu em trai, cô chẳng bao giờ đến thăm em gái, đang ở nhà bà mẹ kế. Thế mà, trang trại của Saru, cậu em trai lớn, chỉ ở cách trại dì Tresa có một tầm súng. Đứng từ phía cơ ngơi bên này, nhìn qua các cậy vải và hạnh đào, ta có thể thấy rõ, không những mái nhà xinh xinh, mảnh sân của bà mẹ kế, máng ăn của đàn gia súc, mà có thể đếm được cả mấy con gà mái ghẹ đang tìm bới trên đám phân chuồng. Họ không còn muốn nghe nói đến em họ nữa, vì Narđa, bị cám dỗ bởi những thủ đoạn khéo léo, bởi bùa phép của mụ phù thủy, đã hoàn toàn ngả về mẹ kế và các con riêng của mụ, vốn không có em gái, nên đã tranh nhau quý hóa cô bé, và hết sức chiều chuộng cô.
Hôm trước ngày cưới, Neli Xơghembri, mặt mày rầu rĩ, tay gãi gãi chòm râu xồm xoàm trên cằm, bước tới trang trại của Saru. Ông nói với cậu con cả để cậu ta thuật lại chuyện cho các con khác. Mắt nhìn xuống, ông bắt đầu:
- Các con ạ, qua bao năm đói kém nên chúng ta đều nghèo cả. Có trời biết, bố sẽ mừng biết bao nhiêu nếu tất cả các con đều quây quần bên bố, nhân ngày vui của em Narđa. Nhưng mà các quả chuông làng Rapphađali nói gì nhỉ? Chúng bảo: “Với gì đây? Với gì đây? Với gì đây?” Bố đã chia chác đi tất tần tật và giờ thì bố nghèo như Chúa Giêsu bị đóng đinh trên cây thánh giá. Bố chẳng còn có thể làm gì được sất cả. Chỉ cái tối thiểu cần thiết, có thế thôi. Nếu các con là họ hàng thân cận của nhà gái mà đến dự đám cưới thì Pitrinô Xanhcômanỉ cũng sẽ đòi mời họ hàng nhà nó, họ đều là những người thân bên nhà dì Tresa, các con biết cả đấy, họ cũng sẽ đến dự. Nhưng giữa hai gia đình có sự bất hòa. Cho nên bọn ta đã quyết định, không mời ai cả, bên này không, mà bên ấy cũng không. Tất cả chỉ có bốn người thôi: Dì Tresa và bố đằng họ nhà gái, với bố mẹ chú rể. Chỉ cái cần thiết tối thiểu, không hơn.
Saru, mắt cũng nhìn xuống, tay nắn cằm, lắng nghe lời diễn giải của bố, bài nói tất nhiên đã được chuẩn bị kỹ từ trước rồi anh ta trả lời:
- Bố ạ, chúng ta phải coi chừng đó. Bố là người chủ trong gia đình, chúng con là máu mủ của bố và chúng con làm theo ý bố. Nhưng bố đừng đặt cái sự cấm đoán này riêng đối với chúng con thôi. Bố ạ, con xin báo trước để bố biết: Chuyện đó sẽ chẳng ra sao đâu!
Không ngước mắt lên, Neli còn ngồi yên một lúc, tay gãi má. Về phần bố, các con ạ, bố đã nhắn bảo với họ là đừng đến, như bố vừa nói với con.
- Thế nếu có kẻ nào cứ đến thì sao?
Người cha không trả lời. Sự yên lặng của ông có nghĩa là, trong trường hợp ấy, ông cũng chẳng biết đối xử ra sao nữa.
- Được thôi, bố ạ, - lúc bấy giờ Saru mới nói. - Bố cứ yên trí. Chúng con sẽ tự lo chuyện ấy.
Anh ta đưa mắt nhìn theo ông bố đang vừa đi vừa dùng hai tay kéo kéo cái dái tai bên trái. Trở về nhà, Saru lôi một con dao bầu ra, từ đáy một cái đẫy treo trên chiếc đinh. Anh ta lấy hòn đá mài, thấm ướt lưỡi dao, ngồi ngay ngưỡng cửa, mài đi mài lại xoèn xoẹt, hòn đá kẹp giữa hai đầu gồi.
Chị vợ sợ hết hồn, gọi chồng mấy lần, chẳng thấy nói năng gì. Hốt hoảng, hai tay vò đầu bứt tóc, mắt đẫm lệ, chị van xin:
- Lạy Đức Mẹ đồng trinh! Anh Saru ơi, anh định làm gì đấy?
Saru bật dậy như một con hổ, vung con dao lên.
- Lạy Chúa. Đừng có mở mồm, không thì tôi bắt đầu từ cô đấy!
Chị vợ tội nghiệp chạy trốn vào một góc nhà, hai tay ôm mặt. Saru tiếp tục mài con dao bầu, trước mắt ba đứa con trai, chúng ngồi xung quanh, im như thóc.
Từ sân nhà dì Tresa, con gà trống gáy vang, và con bên trại Saru cũng co một cẳng lên, lắc lắc cái mào, gân cổ đáp lại ngay lập tức.
Một… hai… ba… bốn năm sáu!
Thế là đã có sáu con la yên cương chỉnh tề, đứng trước máng ăn, dưới mái nhà nho nhỏ của trang trại trước mặt. Chúng nó kìa: cả sáu con rõ rành rành, con nọ cạnh con kia, dưới ánh trăng.
Đứng trước cửa nhà, Saru ghé nghiêng cái đầu, nhìn qua kẽ lá cây, đếm từng con và giận run lên.
- Đã sáu con rồi, nhiều con khác sẽ còn đến, chắc thế.
Sẽ là một đám cưới linh đình đây! Tất cả lũ con trai bà kế, bầu đoàn thê tử chúng nó đều đã được mời. Chỉ có họ, những người bà con thân nhất, các anh trai, chị gái ruột của cô dâu, là bị loại ra khỏi hội. Lúc này, có thể bọn kia đang yến tiệc đây, lúc nữa sẽ bắt đầu có âm nhạc và khiêu vũ. Saru cởi áo vét, vắt lên tay để che con dao bầu sắc bén. Vợ và ba con, từ trong nhà, chăm chú theo dõi anh, bụng sợ phát run lên.
Trước đó anh đã ra lệnh cho vợ nhóm lửa và đặt nước đun sôi trong một chiếc chảo lớn. Choáng váng và sợ chết khiếp, chị vợ đã vâng lời ngay lập tức, không hiểu vì sao chồng lại đòi làm như vậy.
- Lạy Đức Mẹ lòng lành, - giờ đây chị đang cầu khẩn. - Xin Người làm thế nào để có ai tới đây đi! Xin Người khiến chồng con tĩnh tâm lại!
Bên ngoài, dưới ánh trăng vằng vặc, lũ dế mèn cất tiếng kêu ra rả, giọng kim kéo dài nghe chói tai.
- Niluzzu, - bất ngờ Saru gọi, - chạy đến bác Siđôra ngay cạnh đấy, rồi đến chú Luzzu, bảo họ đến đây ngay lập tức: Vợ chồng, con cái, kéo nhau đến nhà ta tuốt tuột hiểu chưa? Phới mau?
Niluzzu, đáng nhẽ phải nhúc nhắc, thì lại đứng trân trân nhìn cha, kinh khiếp, một cánh tay giơ lên để che đầu, như chờ nhận một cái bợp tai.
- Bố ơi, con sợ, bố…
- Sợ à? Thằng ngốc - ông bố vừa quát, vừa lay con. Rồi nói với vợ: Cô cũng đi, đi kèm nó? Rồi tất cả cùng về cho nhanh!
Chị vợ đánh bạo hỏi chồng một lần nữa, cổ nghẹn lại:
- Nhưng anh muốn làm gì, anh Saru thân yêu? Xin anh hãy thương vợ, thương con!
Saru đặt ngón tay trỏ lên miệng, và rồi cũng với bàn tay ấy, làm hiệu ra lệnh cho vợ phải tuân theo.
Lúc sau, anh ta cũng thận trọng ra đi, hướng về phía trang trại trước mặt, núp mình để khỏi bị phát hiện, khi thì dưới gốc cây này, khi dưới bóng cây khác, trong lúc ánh trăng tỏa sáng rực rỡ.
Cuối cùng, anh tới sát được đến cây vải cuối hàng, ngay trước mảnh sân. Tim anh nhẩy thình thịch trong lồng ngực, thái dương rần rật. Con la, trước máng ăn gần sát ngay đó, tự nhiên thở phì phì làm Saru nẩy thót người lên. Anh đã ngửi thấy mùi nồng nồng, gây gây của phân chuồng. Anh ta nghe thấy tiếng cười nói râm ran, lẫn tiếng bát đĩa va lách cách của những người đang tiệc tùng trong nhà bà mẹ kế. Anh vươn đầu lên trên các cành cây vả, rình cơ hội. Trong sân chẳng có ai, trừ sáu con la vẫn còn đóng yên cương, và xa hơn một chút, gần cửa vào nhà, là con lợn nái kếch xù.
Con vật nằm ẹp bụng xuống đất, mõm vươn ra giữa hai chân trước, tai rủ xuống, mắt lim dim, như đang uể oải ngắm nhìn mê mải ánh sáng dịu dàng, mát mẻ của chị Hằng. Đôi lúc nó thở dài. Nó cảm thấy mãn nguyện trong cảnh cô tịch êm đềm và nhàn nhã của nó.
Saru cúi mình, tiến đến gần từ phía sau, rất nhẹ nhàng. Anh thò tay ra gãi nhẹ vào trán nó. Cảm thấy nhồn nhột, con vật vươn giãn mình, nhếch mõm lên như thể muốn cười, và phơi cái ức ra. Nhanh như chớp, Saru dùng tay kia đâm phập con dao vào giữa tim nó.
Vác con lợn kềnh nặng trĩu, Saru trở về nhà, gần như cùng lúc với chị vợ và cậu con trai, đám anh chị em họ hàng hốt hoảng theo sau.
- Im ngay, trời ạ. - Anh ta hạ lệnh cho mọi người, thở hổn hà hổn hển, mình vấy đầy vết máu, anh đặt phịch gánh nặng xuống.
Chúng ta cũng sẽ chè chén túy lúy một phen - anh thốt lên thở phào nhẹ nhõm, - Ở ngay đây, và còn thịnh soạn hơn bọn họ nữa kia! Chị với chú nó mỗi người một phần tư con; một nửa cho tôi, tôi xứng đáng được như vậy. Nhưng trước hết, hãy giúp tôi phanh con lợn ra đã. Luzzu đứng trấn ở chỗ này; chị Siđôra ở đây. Còn mày, Niluzzu, đi lấy đĩa to, cái tròn ấy ở trong hốc tủ tường. Lá gan, tôi muốn gửi nó cho con mụ già! Im cái mồm cả lũ! Lá gan là để cho mụ già.
Anh ta mổ phanh con lợn, kéo lá gan ra rửa ráy trong chậu nước; cỗ gan bóng loáng và óng ánh được xếp trên chiếc đĩa; anh đưa cho thằng con trai:
- Cầm lấy, Niluzzu, chạy sang nhà ông, thưa với ông đúng như tao bảo đây: “Bố Saru bảo cháu mang quà này đến cho bà Tresa, và bố cháu nhờ bà chào con lợn nái hộ bố cháu”.
Hoàng Hỏi - Lê Sơn dịch