Gái Hai Chồng (Tuyển Tập Truyện Ngắn Giải Nobel)

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Gái Hai Chồng (Tuyển Tập Truyện Ngắn Giải Nobel)

Postby bevanng » 01 Feb 2016

Nhiều Tác Giả
Gái Hai Chồng (Tuyển Tập Truyện Ngắn giải Nobel)
Nxb Văn Học
Mục Lục

Tình yêu
Amy Boom - Nhà văn Mỹ - Giải thưởng O’ Henry Nguyễn Thị Hiền Thảo dịch

Trong công viên
Cao Hành Kiện - Nhà văn Trung Quốc - Giải thưởng Nobel
Nguyễn Hồi Thủ dịch

Phải lòng
Andre Dubus - Nhà văn Mỹ - Giải thưởng Pen/Malamud
Tô Đức Huy dịch

Đom đóm của tình yêu
Luigi Pirandello - Nhà văn Ý - Giải thưởng Nobel
Hoàng Hải - Lê Sơn dịch

Con quỷ già
Pearl Buck - Nhà văn Mỹ - Giải thưởng Nobel
Dương Tường dịch

Tuyết bỗng nhiên rơi
Sihabaki Yoshiko - Nhà văn Nhật Bản - Giải thưởng quốc gia
Phan Thu Hiền dịch

Những ngày tươi sáng ở phía trước
Catherie Young - Nhà văn Mỹ - Giải thưởng khu vực
Trần Nhật Lệ dịch

Ngôi nhà có ma
Virglnla Woolf - Nhà văn Anh - Giải thưởng khu vực
Lê Huy Bắc dịch

Thằng bé ngã từ độ cao 12 mét
Ellzebeth Graver - Nhà văn Mỹ - Giải thưởng O’Henry
Nguyễn Thị Hiền Thảo dịch

Tuyệt vọng
Judith Ortiz Cofer - Nhà văn Mỹ - Giải thưởng O’ Henry
Nguyễn Thị Hiền Thảo dịch

Lời tiên tri
Elizabeth Oness - Nhà văn Mỹ - Giải thưởng O’ Henry
Nguyễn Thị Hiền Thảo dịch

Gái hai chổng
Milkhail Sholokhov - Nhà văn Nga - Giải thưởng Nobel
Hà Ngọc dịch

Những cuộc đời sau khi chết
Tim O’brien - Nhà văn Mỹ - Giải thưởng sách quốc gia Mỹ
Phan Thu Hiền dịch

Cái chết của Lôhengrin
Heinrich Boll - Nhà văn Đức - Giải thưởng Nobel
Quang Chiến dịch

Chuột rút
Cao Hành Kiện - Nhà văn Trung Quốc - Giải thưởng Nobel
Nguyễn Hồi Thủ dịch

Đá đói
Rabindranath Tagore - Nhà văn ấn Độ - Giải thưởng Nobel
Hoàng Cường dịch

Dòng máu
N. Đumabatze - Nhà văn Gruzia — Giải thưởng Lê Nin
Đào Minh Hiệp dịch

Cái chết không bình đẳng,
Katia Toure Cote d’Ivoire - Nhà văn Cote d’Ivoire - Giải thưởng lớn lần thứ VI (Cuộc thi truyện ngắn hay nhất viết bằng tiếng Pháp)
Trần Việt dịch

Dàn hỏa thiêu
Rabindranath Tagoe - Nhà văn Ấn Độ - Giải thưởng Nobel
Hoàng Cường dịch

Gửi của
Rabindranath Tagoe - Nhà văn Ấn Độ - Giải thưởng Nobel
Hoàng Cường dịch

Quạ Cáp Nhĩ Tân
A Thành - Nhà văn Trung Quốc - Giải thưởng văn học Lỗ Tấn
Võ Toán dịch

Viên phấn thần kỳ
Kobo Abe - Nhà văn Nhật Bản - Giải thưởng Akutawa
Nhật Chiêu dịch

“Đấy, nước Mỹ đấy!”
John Updike - Nhà văn Mỹ - Giải thưởng O’Henry
Nguyễn Chiến dịch

Vật thí nghiệm
Henri Troyat - Nhà văn Pháp - Giải thưởng Goncourt
Nguyễn Chiến dịch

Sấm rền
Ray Bradbry - Nhà văn Mỹ - Giải thưởng Franklin/ O’ Henry
Trần Đức Tài dịch

Cô gái ưa màu trắng
Asaddulla Habib - Nhà văn Afghanistan - Giải thưởng truyện ngắn hay nhất báo Anix
Đăng Bảy dịch
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Christiane, anbuu

Re: Gái Hai Chồng (Tuyển Tập Truyện Ngắn Giải Nobel)

Postby bevanng » 01 Feb 2016

TÌNH YÊU
Amy Boom
Nhà văn Mỹ - Giải thưởng O’ Henry
Tôi thường đi mua sắm vào ban đêm. Cứ đến thứ năm mỗi tuần, tôi lại vẫy tay tạm biệt bà * và lái xe đi, giả vờ lưỡng lự. Khu phố mới có ba cửa hàng bách hóa tổng hợp, một rạp hát và hàng trăm cửa hiệu nhỏ, tôi đã vào tất cả các cửa hàng, trừ Compleat Sportsman. Nghe có vẻ vô lý nhưng tôi không thể ngồi xem hết một bộ phim khi biết rằng còn phải đi mua bán. Tôi thường ăn lạc rang bơ nóng và đi loanh quanh gần hai giờ đồng hồ, ngó qua các băng nhạc Jazz của cửa hàng đĩa hát, xem lướt các đĩa hát bán chạy nhất. Lúc chín giờ ba mươi, khi khu mua bán chuẩn bị đóng cửa thì chỉ còn tôi, một lão già lang thang và những người gác trẻ tuổi, tôi đi mua vài thứ lặt vặt.
Cửa hàng tạp hóa mở cửa suốt đêm dường như là một vị cứu tinh, là nơi thường lui tới của những người đàn bà ăn mặc lòe loẹt, đẩy chiếc xe chở đứa bé đang ngủ, giống như món hàng mua thêm của người đàn ông, đàn bà trung niên độc thân quá khỏe mạnh và quá cô đơn nên không thể ngủ được vào lúc mười giờ, và những người như tôi, sợ hãi phải về nhà. Tôi nghĩ và đôi khi ước mong chồng tôi chết trong khi tôi đi ra khỏi nhà vào một trong những buổi tối thứ năm.
Tôi và Max sống với nhau đã được mười năm, từ khi tôi mười tám và ông năm mươi tuổi. Cuộc hôn nhân của chúng tôi không còn là một xì căng đan, hay một thảm kịch nữa. Bạn bè của vợ ông và những người chứng kiến khác đã chuyển đi xa, im lặng hoặc trở thành bạn bè với chúng tôi, ở cái thị trấn nhỏ này thì chỉ có cách lựa chọn đó. Những người đàn bà định hoặc đã khạc nhổ vào món súp của tôi trong bữa tiệc lặng lẽ đau đớn mười năm trước đây, bây giờ thường mang rau tươi đến cho Max. Tôi đã trở thành một người vợ, chẳng bao lâu nữa sẽ là người góa phụ. Sau mười năm lấy chồng, tôi cảm thấy mình yếu đuối và ngốc nghếch hơn chính tôi lúc mười tám tuổi, chuyển đến căn hộ của Max, mang theo hai chiếc áo phông, một hộp đĩa bát và không có giày. Trong lần xuất hiện đầu tiên, Max giới thiệu tôi với trưởng ban của ông, và mua cho tôi đôi giày thể thao.
Ông không ra khỏi giường đã ba tuần nay rồi, và không nói gì từ hôm đó. Tôi thường tưởng tượng mình thành một góa phụ kiểu Audrey Hepburn, cổ cao, xanh xao, mặc bộ đồ đen chật. Nhưng không, tôi sẽ ngập mình trong dòng người, sẽ mặc những chiếc quần vải bông và áo sơmi của Max. Những buổi tối thứ năm, tôi mặc áo sơmi vải bông rộng thùng thình, quần bó đen nhún nhảy trong đôi giày ủng cao gót màu đen dài tới đầu gối. Tôi chưa bao giờ mặc như vậy trong đời và tôi sẽ rất vui sướng được mặc lại quần gin và giày thể thao như trước khi tôi tới nhà này.
Ray, ở Deli Counter là người tôi vẫn tìm kiếm. Đầu tiên hắn ngưỡng mộ đôi giày của tôi. Sau đó toàn bộ trang phục của tôi và sau ba ngày thứ năm cãi nhau, tôi cảm thấy phải mua một chiếc áo để hắn ngắm nghía và hắn vươn người qua quầy để nói với tôi rằng hắn rất thích và nháy mắt khi quay vào làm việc. Ray không hơn hai mươi hai tuổi và tôi dám chắc rằng hắn là một kẻ mới cai nghiện, bởi vì hiện nay hắn có vẻ khá sung sức và lại hay nói những lời giống anh trai tôi, một con nghiện không cai được, vẫn thường nói khi chúc tôi khỏe hoặc vay tiền. Tôi nghĩ rằng Ray là một người tình khá, chúng tôi không tranh luận về thơ ca, chủ nghĩa tượng trưng hay cách chữa bệnh hoặc quá khứ. Tôi uống một cốc bia còn anh ta thì không. Tôi sẽ đặt tay lên bắp đùi khỏe khoắn của anh ta cho tới khi cảm thấy làn vải căng lên dưới những ngón tay. Khi đã mệt nhoài tôi bò ra khỏi xe tải, phòng ngủ hay nhà của mẹ anh ta, rồi cảm ơn anh ta bằng lời lẽ từ tận đáy lòng và đi về nhà với Max.
Tôi đi về nhà để nhìn thấy bà * cúi người bên Max, vuốt lại chăn gối cho ông, bộ ngực khổng lồ khẽ lắc lư và che khuất mặt ông. Ông mỉm cười và tôi thấy rằng ông không nhận ra sự có mặt của tôi và bà * cũng vậy.
- Những viên ngọc, - bà ta vẫn tiếp tục câu chuyện, cực kỳ quý giá và tuân theo ý muốn của con người, chị gái tôi và tôi đều nghĩ rằng: số ngọc ấy phải thuộc về chúng tôi. Số ngọc của mẹ chúng tôi phải thuộc về chúng tôi, bởi vì nó đã là của chúng tôi rồi.
Tôi không thể hiểu được bà ta đang nói gì, nhưng có vẻ bóng gió đáng ngại. Có lẽ những viên ngọc ấy là ám chỉ sức khỏe của Max, hoặc cuộc hôn nhân đầu tiên của ông, hay lời thề của chúng tôi sẽ gắn bó với nhau. Mọi thứ vẫn trôi đi, không chống lại nổi. Tôi muốn bà ta câm miệng lại, để khỏi làm chúng tôi đau khổ, nhưng Max lại mĩm cười và một thoáng thanh thản trên khuôn mặt xanh xám, xương xẩu, thậm chí tôi cũng thấy rằng ông chẳng hề đau khổ. Tôi gõ vào khung cửa và biết rằng Max vẫn như mọi khi, rất ngây thơ, còn bà * quá chú ý đến bản thân nên không thấy ý mỉa mai trong tiếng gõ cửa của tôi. Tôi vẫn cứ biểu diễn mà không có khán giả, được một lúc. Nếu người ta cảm thấy thương hại bản thân, thì vẫn có thể gọi đó là tấm thảm kịch chứ? Hay sẽ chịu nhún nhường làm nhân vật phụ kém hấp dẫn, tương phản để tôn lên các nhân vật chính, mù lòa và xinh đẹp, dũng cảm đánh bóng bức tượng đồng trong khi nước lạnh buốt ngập đến mắt cá chân? Hình như tôi cảm thấy rằng tôi đã hoàn toàn biến mất và không cảm thấy thương hại bản thân về chuyện này.
- Em yêu, - ông nói và bà * cau mày.
- Ông ấy vẫn hỏi bà đấy, - bà ta nói và tôi tha thứ cho thói dâm đãng của bà ta bởi vì bà ta có vẻ quan tâm tới ông ấy và phật lòng khi ông ấy nhớ tôi. Những người * khác thì chỉ quan tâm tới bệnh tật và sức khỏe của ông chủ, còn cảm xúc thì chỉ là triệu chứng bệnh tật chứ không hơn. Một lát, tôi thấy yêu quý bà ấy vì tình yêu đối với ông; ông đã làm tôi yêu những người mà tôi sẽ căm ghét nếu ông còn sống.
- Mẹ của Dawn vừa mới mất, bà ấy đang kể với anh, - rung động vì tình yêu và xúc động trước cố gắng của ông nhằm gắn bó chúng tôi với nhau và giữ chúng tôi là của ông, tôi mỉm cười với Dawn.
- Tôi rất lấy làm tiếc, - tôi nói và cố tỏ ra tốt bụng.
- Tôi cũng vừa mất mẹ năm ngoái và tôi cũng có chị gái. Thế đấy. Tôi không thể nghĩ ra, sự trùng hợp nào đáng kinh ngạc hơn để gắn bó chúng tôi lại.
- Chị gái tôi là người bạn thân thiết nhất của tôi, - Dawn nói, bà ta ngồi trong chiếc ghế bành cạnh giường, cứ như bà ta chỉ ghé qua thăm Max.
- Chị tôi cũng thế, lạ nhỉ. Chị tôi, Irene là bạn thân của tôi. Trong khi cha tôi khóc lóc và mẹ tôi lẩm bẩm chúc mừng, thì chị gái lôi tôi lên gác, trước kia là phòng của chị ấy, để tranh cãi với tôi về việc lấy Max.
- Mày có thể lấy bất cứ ai, mày có biết không. Kể cả sau tất cả chuyện này. Mày có thể chuyển tới học ở một trường nào đó ở California và không ai biết được. Mày sẽ không phải lấy ông ấy.
- Em yêu ông ấy, Ren. Em muốn lấy ông ấy.
- Được, được. Tao sẽ đến. Để xem lão ta có bỏ mày để lấy một con bé trẻ hơn không. Có ra tòa không hay chỉ qua loa thôi?
- Có, Thứ tư.
- Thôi được. Thế còn trang phục thì sao? Trang phục lụa và hoa cài tóc? Mày đến cửa hàng mỹ phẩm thì cũng không ai giết đâu mà sợ.
Và chị gái tôi lau chùi đôi chân tôi, rửa sạch các lỗ chân lông, vẽ lông mày trong chưa đầy tám tiếng đồng hồ. Trong ảnh trông tôi lộng lẫy hơi quá trẻ so với bộ đồ lụa mà Irene tìm thấy và lột ra khỏi một người manơcanh, và chưa đầy bốn, năm phút thì thanh toán xong. Tôi cài những bông hồng bằng ngà lên mái tóc đen buông xõa còn Max thì lộn cười phá lên trước camera do một ông bạn già nhất của ông quay. Chị gái tôi trông như mẹ cô dâu kiệt sức và cảnh giác, có vẻ hài lòng. Cha mẹ tôi thì không có mặt ở đó bởi vì tôi không mời, bất chấp lời cầu xin của Max.
Dawn quay đi và tôi thấy rằng bà ta không yêu Max; ông chỉ tốt hơn người bình thường một chút, và tồi tệ hơn một số người khác. Tôi được thoải mái căm ghét bà ta, tôi tiễn chân bà ta ra tận cửa, lẳng lặng mở cánh cửa, một kiểu thô lỗ văn minh mà tôi học được ở mẹ tôi.
- Nằm xuống đây, - Max nói, nhưng tôi không thể nằm ở giường đó.
- Em sẽ nằm ở võng, - khi chúng tôi ở bệnh viện về, một bà bảnh bao và cau có ở nhóm hộ lý dặn tôi phải kiếm một cái võng và bà ta thậm chí không giả vờ lắng nghe khi tôi nói rằng: chúng tôi sẽ tiếp tục ngủ chung. - Cởi quần áo từ từ thôi, em yêu. Anh vẫn có thể nhịn được mà. Trong những cuốn sách mà tôi vẫn giấu, những lời khuyên khi đau khổ, những cuốn sách hướng dẫn cho các góa phụ vào giai đoạn trước đó, người viết nêu thẳng ra rằng người vợ còn sống thường chịu cảm giác đau đớn, giận dữ vì thiếu đi phần tình dục của người đã chết. Điều này có vẻ không giống với trường hợp của Max.
Tôi cởi bộ quần áo ngoài và nằm xuống võng, như một hướng đạo sinh, vẫn mặc áo phông, quần vải bông và tất. Tôi nghe có âm thanh ẩm ướt và sủi bọt, giờ đây ông vẫn cười như thế.
Max đặt bàn tay lạnh lẽo và mỏng manh lên bụng tôi.
- Ngoài siêu thị thế nào?
- Bình thường thôi. Em mua vài món hàng lặt vặt.
- Còn khu phố.
- Vẫn vui. Em mua mấy đôi tất.
Ông véo hai đầu ngón tay khô vào bụng tôi, và tôi cảm thấy mỗi đầu ngón tay vẫn còn thịt. Tôi muốn hất đi và tôi muốn khóc.
- Em có gặp ai không?
- Ai? -Tôi hỏi. Cho dù có chuyện gì, tôi không bao giờ nghĩ Max là người hay ghen, phần lớn chúng tôi chỉ hiểu nhầm nhau. Mỗi lần, chúng tôi lái xe về nhà, ông thường nhắc tôi rằng ông thích ngưỡng mộ những người phụ nữ trẻ, vì thế người ta không nghĩ rằng tôi là một phần sự tôn thờ đó của ông, rằng tôi kém độc đáo. Ông nói rằng tôi nợ ông sự chăm sóc tương tự, và tôi cần phải bỏ tính hấp tấp đi, rất ít người nghĩ rằng đám cưới của tôi với ông cũng chỉ là sự nôn nóng của người lớn và giới tính thúc đẩy. Chúng tôi đã nhiều lần đồng ý rằng ông không ghen và không bồng bột, không có thói sở hữu và chúng tôi chắc chắn đã nói về chuyện tán tĩnh hàng trăm lần trong mười năm chung sống.
Max khẽ véo tôi:
- Anh không biết là ai cả. Một chàng trai trẻ nào đó?
- Không, chẳng có ai cả, - tôi quay người sang một bên, tránh khỏi tầm với của ông.
- Thôi được, đừng giận dữ. Dawn đã đưa thuốc cho anh rồi. Chúc ngủ ngon, em yêu.
- Chúc ngủ ngon, ông là lão già ác tâm chó chết.
Tôi nằm xuống võng, lắng nghe hơi thở ngắn, không đều tới khi ông lăn ra ngủ và đi xuống nhà dưới để thanh toán hóa đơn. Phòng ông ta, phòng của chúng tôi ban đêm đầy ắp không khí ẩm ướt và những cơn đau rình rập vô hình. Đó là một thứ mà tôi không nói.
Ngày thứ năm tiếp theo, tôi mạnh dạn mỉm cười với Ray, anh ta rất bận rộn với đám đông đi mua sắm, cả hai chúng tôi đứng sau một cậu đen thui, đen tới mức cơ thể màu nâu của cậu dường như dìm xuống than. Toàn bộ cơ thể là những đường tròn má cao đầy đặn, mắt to tròn, tay và vai tròn, phía trước và phía sau quần cũng tròn. Sự đầy đặn đã bắt đầu nhỏ lại và chìm mất dần đi, cơ bắp mỗi năm mất đi một chút. Tôi muốn bổ cậu ta ra như quả dưa và ăn từng miếng, từng miếng một. Tôi có thể nói với Max rằng giờ đây tôi hiểu ông rõ hơn mười năm trước đây. Nhưng ông sẽ phải sợ vì tôi nghĩ rằng thói dâm đãng cộng với bực tức là cái gì đó giống tình yêu của ông dành cho tôi. Còn tôi thì chỉ kinh sợ bản thân tôi, điều tôi muốn làm với cậu bé này chực sẽ không bao giờ có giữa Max và tôi.
Ray và tôi trao đổi ánh mắt đắm đuối, cuồng nhiệt, nghe có vẻ kỳ dị, nhưng điều chúng tôi muốn duy nhất là làm tình với nhau một cách rồ dại và trở về nhà trước khi bị bắt. Thái độ của tôi là không tốt.
Tôi trở về nhà với Max và Dawn. Bà ta đang ở trong bếp của tôi, nhấm nháp nước trà đựng trong cái ca hình nàng tiên cá của tôi, món quà Max tặng sau một tuần mưa khủng khiếp trên đảo Block. Chiếc đuôi màu xanh của nàng tiên dùng làm tay cầm và những ngón tay mềm mại của Dawn đang đặt ở đó.
Sau khi bà ta đi khỏi, Max lại hỏi tôi.
- Em không gặp ai cả, lạy Chúa. Em còn gặp ai được nữa? Em không còn là một cô gái. Em đã hai tám tuổi và có lẽ trông như bà lão chín mươi. Em còn gặp ai cơ chứ?
- Em có thể gặp bất cứ ai. Nhìn anh đây này, anh sáu mươi, sắp chết vì bệnh ung thư, mà anh đã gặp Dawn đấy.
- Hay lắm. Em hy vọng là hai người hạnh phúc với nhau, - tôi tắt đèn để ông không thể trông thấy tôi thay quần áo và tự hỏi không biết ông có bảo Dawn cởi quần áo cho ông ta xem vào thứ năm hàng tuần không.
- Thật đấy, - ông nói, xung quanh ông toàn gối để ông không nằm xuống và bị nghẹt thở. - Hãy nói đi. Tại sao em không gặp ai đó?
Tôi cố nhìn ông trong bóng tối, lúc trước mọi thứ rộng rãi và xương xẩu, bây giờ trong suốt ở mé ngoài và hơi lõm lại ở giữa.
- Em gặp ai?
- Một chàng trai trẻ đẹp ở khu phố chẳng hạn. Không phải là một người bán hàng, em không bao giờ thích người bán hàng. Họ đã cố rất nhiều phải không?
- Vâng, - tôi muốn bảo ông nghỉ đi, nhưng không định nói chuyện đó cho ông.
- Cao lớn và đen. Tính tình ngọt ngào, không thông minh lắm. Tất nhiên không ngu ngốc, nhưng không thông thái. Không phải một viện sĩ. Anh muốn tránh cho em phải nghe một bài giảng dài lê thê trong khi em chỉ có vài tiếng đồng hồ.
- Một ý hay. Em có bao nhiêu lâu?
- Phải, em biết kế hoạch của em rõ hơn anh. Hai giờ trong khu phố, một giờ rưỡi ở siêu thị. Chúng ta có thể bỏ qua aerobic. Anh không thể hình dung em đi với một người đàn ông tập aerobic.
- Ông nói đúng. Tôi thích đàn ông to khỏe và lực lưỡng hoặc mảnh khảnh, mềm mại nhưng tôi không thể chịu được một gã có thân hình thể thao do tập luyện, những kẻ luôn đo mạch, cơ bắp và mức độ cholesterol.
- Nói đi, em yêu. Hãy kể về người đàn ông mà em gặp trong siêu thị ấy.
- Chứ không phải trong khu phố à?
- Đừng đùa giỡn. Hãy kể xem chuyện gì đã xảy ra.
- Anh ta tóc đen nhưng đẹp. Một người Ireland da đen lực lưỡng, không cao, nhưng to con. Vững chãi như bức tường, - tôi thấy mình đang tả Max, hình ảnh mà tôi chỉ thấy trong các bức ảnh, một cậu thanh niên to khỏe, chất phác, ngạo mạn đặt chân lên chiếc xe Jeep quân đội; vừa mới học xong Harvard vài năm trước, cười nhăn nhở như một tên tướng cướp gió thổi tung hai đầu khăn ra phía sau.
- Tiếp đi, - Max nói, dường như tôi đang kể về ai khác.
Em gặp anh ta trong siêu thị. Em thay quần áo để đi tới đó, - tôi đã kể sự thật với Max về chuyện áo và ông nói: “Ổ” khi tôi kể đến đôi giày ủng đen đến mắt cá chân. Chúng tôi đang đùa cợt ở trong căn phòng khủng khiếp này.
- Em mặc áo lót chứ?
- Thôi nào Max, tất nhiên là em có mặc áo lót.
- Hãy chậm thôi nào. Thôi được, ít ra thì đó cũng là một trong những chiếc áo đáng yêu của em, hy vọng là không phải những chiếc Ace như bó bột. Thế còn chiếc áo màu đen lẫn đỏ với các hình cắt nhỏ xíu? —Max thích chiếc áo lót “trò ú tim” bằng lụa và tôi mua nó, nhưng hàng ngày thì tôi không mặc chiếc áo lót khâu tay trị giá tới bẩy mươi đô la ấy. Chủ yếu là tôi mặc đồ vải lông rẻ tiền mà ông rất ghét.
- Em mặc chiếc áo đen đỏ đó.
- Còn quần lót?
- Không quần lót.
- Tuyệt quá! Lần đầu tiên anh đặt vào chỗ đó để trần của em, anh tưởng mình đã lên thiên đàng rồi. Và sau đó anh sợ rằng điều đó không phải dành cho anh, chỉ là do em không bao giờ mặc đồ lót mà thôi.
- Max, anh bảo em không mặc mà, nhớ chưa? Em thì bao giờ cũng mặc đồ lót, - tôi vài lần, hơi quá nhiều lần làm tình vói bọn con trai trước khi tôi gặp Max, nhưng tôi chưa bao giờ có người tình. Mọi thứ quan trọng mà tôi được biết, văn học, con người và cơ thể của riêng tôi, tôi đều biết được từ chính con người này và ông đang bỏ tôi theo cái cách mà cả hai chúng tôi đều nghĩ là tôi sẽ bỏ ông, yêu thương, hối tiếc và không thể tránh khỏi.
- Hãy kể cho anh nghe về gã khổng lồ đó đi.
Gã Khổng Lồ, - đó là tên mà tôi vẫn thường gọi Max. Người đàn ông đã từng cưới một người phụ nữ coi mình là “anh yêu quý” và sau đó lại được những cô gái trẻ trung, có học thức đeo đuổi, gọi ông là giáo sư Boyle và nghĩ ông là Chúa trời, nhưng ông lại thấy cái tên “gã khổng lồ” và “kẻ hung hăng” là tên gọi yêu thương thân mật.
- Anh ta là quản đốc ca đêm, - tôi thăng chức cho Ray. Tôi biết chắc rằng sẽ có lúc những người có vẻ đẹp đẽ, phong thái dễ chịu như anh ta sẽ được làm quản đốc, và kết bạn tình với Ray, một gã bán thịt bò nướng thì có vẻ hạ phẩm giá của cả hai chúng tôi.
- Hay quá. Vậy em làm chuyện đó ở đâu?
- Lạy Chúa, Max, anh làm sao thế?
- Em cần phải hỏi ư? Nào, nào đừng lồng lên thế. Em làm chuyện đó ở đâu? - Giọng thúc giục giận dữ ấy đã từng làm tôi sợ chết khiếp và tôi không thể chịu được rằng nó không còn làm tôi sợ chút nào nữa.
- Bọn em đến công viên Wadsworth, - tôi và Max đã từng đến đó khi tôi vẫn còn sống với cha mẹ tôi và ông vẫn sống với vợ cũ. Mới đây thôi, khi ngồi phân loại thuốc và cạo râu cho bộ mặt méo mó của ông, tôi nghĩ, vợ là thế này đây. Chúng tôi giờ đây không còn thấy người khác nhìn mình với đôi mắt tò mò, thích thú nữa. Sự khác biệt ngày một phai nhạt đi. Chúng tôi chỉ còn là một người - người đàn ông đang chết và người đàn bà không chết.
- Một chiếc xe nhỏ à?
- Không, không tồi lắm, - tôi tránh không nhầm lẫn, sợ rằng không kể đúng câu chuyện.
- Nhưng em có cái chăn nhỏ mà không chú ý tới lũ rệp.
- Max, anh muốn gì đây?
- Anh muốn em kể chuyện gì đã xảy ra khi em đi vào rừng. Em dẫn anh ta đi vào bãi đá to, bên dòng suối à?
Cây cối rậm rạp ở hai bên bờ nước, che khuất cả hai phiến đá hoa cương. Khi chúng tôi tới đây, Max thường đẩy tôi về phía sau, khiến tóc tôi vờn dưới nước lạnh, nhặt những chiếc lá nhỏ và đặt nằm dưới người ông.
- Thôi được. Bọn em đi đến bãi đá và làm tình. Sau đó em thay quần áo và lại về nhà.
- Đừng có kể với anh như thế, - ông nói và bắt đầu ho, toàn bộ cơ thể ông nảy lên trên chiếc chiếu ni lông. Ông ngủ và vẫn ho, còn tôi đi xuống cầu thang chẳng làm gì cả.
Đến hết tuần đó ông bồng bềnh trôi giữa những cuộc nói chuyện và những giấc ngủ giả tạo. Ngày thứ năm, tôi mặc quần áo đi mua sắm, Max nhìn và mỉm cười vẻ lanh lợi. Dawn đang đọc báo và đợi tôi đi khỏi.
- Đêm nay à? - Ông hỏi, cố sức đẩy từng từ bật ra khỏi đôi môi. Tôi không trả lời, chỉ buộc lại đôi giày và ngồi xuống chải tóc.
- Em có biết Dawn khiến anh nhớ đến em không?
- Không mặn mà nhưng chắc chắn? Eren Goknar đấy, nhớ chưa?
Tôi nhớ và vẫn tiếp tục chải tóc.
- Không biết giờ cô ấy ở đâu.
- Em không biết, - tôi nói. - Có lẽ cô ta về Thổ Nhĩ Kỳ rồi.
- Anh không nghĩ thế. Cô ấy viết thư cho anh từ California, nói rằng đang dạy học ở Berkeley. Một cô gái kỳ diệu, - ông nói, vật lộn với từng từ một. Tôi bước ra khỏi phòng.
Tôi mang lên một ít nước nóng cho tôi và Dawn, rồi quay lại nhìn Max, tôi sợ rằng ông sẽ chết khi tôi giận dữ với ông.
- Xong rồi à?
- Vâng. Vài tiếng nữa em sẽ về.
- Anh đã ngủ với Eren, - ông nói và thở dài.
- Em biết, - tôi nói, mặc dù cho tới lúc đó tôi mới biết. Và tôi cần biết rằng ông đang cố đẩy tôi đi, cáu kỉnh, cứ như là tôi sẽ ít nhớ ông vì ông đã quan hệ với Eren Goknar. Ông không mất tôi mà tôi lại đánh mất bản thân mình, chúng tôi giống như chùm chìa khóa biết kêu bịp khi nghe thấy giọng chủ. Tôi hôn gió sát mặt Max và quay về phía Dawn, bà ta đã pha xong trà.
Chúng tôi tán dóc hai giờ, giữa những lần bà ta chạy lên gác, bà ấy cũng không hỏi tại sao tôi lại không đi nữa. Tôi cho bà ấy về nhà lúc mười một giờ.
Max mở mắt khi tôi bật đèn ngủ để cởi quần áo. Ông khẽ nhấc một tay lên và tôi đi về phía ông, vẫn mặc đồ lót.
- Cười đi, - ông thì thầm. Ông quay đi và ho, âm thanh nặng nhọc, khò khè như phát ra từ một cọng rơm trong chiếc cốc gần rỗng.
Tôi cởi bỏ hết mọi thứ và leo lên giường, cố gắng để không đè lên ông, lúc này chỉ những tấm vải cũng có thể làm ông đau.
- Em đã làm thế à?
Tôi trườn vào gần hơn tới khi mặt chúng tôi kề sát nhau và tôi hôn lên đôi môi khô của ông và chạm vào những vết sưng, vết nứt nhỏ quanh miệng.
- Vâng, em đã tìm anh ấy, người mà em vẫn kể với anh. Gã cao lớn, khi nào em đến là anh ấy nghỉ làm sớm. Em không bao giờ phải đợi.
Max nhắm mắt lại và đặt tay lên chân tôi.
- Trời tối quá, nên bọn em không đến công viên. Bọn em vào một khách sạn. Ở đó giấy dán tường màu đỏ và giường hình trái tim lớn trải nhung đỏ.
- Đường 68, - Ông nói.
- Đúng cái đó. Anh nhớ cái giường ấy chứ? Đầu giường có những chiếc hộp nhỏ và tay cầm?
Tôi cầm tay ông xoa dọc đùi tôi thật nhẹ.
Anh ấy cởi quần áo cho em, Max. Anh ấy quỳ xuống và tháo giày của em, sau đó anh ấy đặt em nằm xuống giường và cởi quần áo cho em. Anh ấy vẫn mặc complê.
- Complê à? - Max thì thầm.
- Bộ quần áo làm việc của anh ấy, em định nói thế. Không phải complê. Anh ấy vẫn để đèn sáng và bắt đầu hôn khắp người em, nhưng mỗi lần em định ôm anh ấy thì anh ấy lại ngăn. Sau đó khá lâu anh ấy mới để em chạm vào.
Max cựa khe khẽ để gật đầu và tôi nâng những chiếc gối cao hơn.
- Anh ấy hôn vào giữa hai đùi, rồi phía sau chân, rồi lưng em rất lâu và khi anh ấy xoay em lại thì anh khoảng nửa mét, rồi cả hai cùng lăn xuống giường, thế rồi anh ấy đi vào trong em, vào mãi, vào mãi tới khi em bắt đầu kêu lên, thế rồi cả hai chui vào chăn cùng kêu lên, và cùng lăn ra ngủ.
Tôi áp khuôn mặt ướt đầm vào mặt Max và lắng nghe ông thở.
Đó là điều tuyệt diệu nhất, Max ạ. Trong cuộc đời em không bao giờ có điều gì được như thế. Anh có nghe thấy em nói không? Không bao giờ có điều gì tuyệt diệu như thế.
Nguyễn Thị Hiền Thảo dịch
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Christiane

Re: Gái Hai Chồng (Tuyển Tập Truyện Ngắn Giải Nobel)

Postby bevanng » 01 Feb 2016

TRONG CÔNG VIÊN
Cao Hành Kiện Nhà vãn Trung Quốc - Giải thưởng Nobel

- Đã lâu lắm rồi mình không còn đi dạo công viên. Không lúc nào có thì giờ rỗi mà cũng chẳng còn thấy thú vị gì với chuyện ấy nữa…
- Mọi người ai cũng thế cả, hễ xong công việc là chạy thẳng về nhà, bao giờ cũng vội vã.
- Mình nhớ thuở bé cứ thích đến cái công viên này để nhào lộn trên cỏ.
- Bố mẹ dẫn đến đấy chứ.
- Dĩ nhiên rồi.
- Nhất là khi có đằng ấy ở đó.
- Mình còn nhớ chứ.
- Thuở đó đằng ấy còn có hai cái bím tóc.
- Còn đằng ấy thì mặc một cái quần yếm, trông ra vẻ lắm.
- Còn đằng ấy thì lại quá cao xa, trông rất kiêu.
- Thế à?
- Chứ sao, chả ai dám đến gần.
- Thế mà mình không nhớ đấy, ấy thế mà mình lại rất thích chơi với đằng ấy mới lạ chứ, và ngay cả đá bóng.
- Đùa, đằng ấy mà đá bóng à! Đi giày trắng nõn, lúc nào cũng sợ bẩn giày.
- Đúng đấy, hồi bé lúc nào mình cũng thích đi giày thể thao trắng.
- Trông cứ như là một nàng công chúa.
- Sao lại không, một nàng công chúa đi giày thể thao.
- Sau đó đằng ấy dọn đi nơi khác.
- Ừ nhỉ.
- Lúc đầu, chủ nhật đằng ấy còn hay đến nhà mình chơi, sau đó thưa dần.
- Lúc đó mình lớn rồi.
- Mẹ mình quý đằng ấy lắm.
- Mình biết chứ.
- Trong gia đình không có con gái mà.
- Mọi người đều bảo chúng mình giống nhau, trông như hai chị em.
- Này đằng ấy đừng quên là mình sinh cùng một năm mà tớ còn hơn đằng ấy những hai tháng đấy.
- Nhưng trông tớ lại lớn hơn đằng ấy, lúc nào cũng cao hơn một gang tay, ai cũng bảo tớ là chị.
- Ở tuổi đó con gái bao giờ cũng lớn nhanh hơn con trai. Mà thôi, mình nói chuyện khác được không?
- Nói chuyện gì bây giờ?
Dưới hai hàng cây bên lối đi là một rặng bách cắt gọn ghẽ; trên con dốc phía bên kia hàng bách, một cô gái mặc váy hồng cầm xắc tay đỏ đang ngồi trên một chiếc ghế đá dài.
- Mình cũng ngồi xuống đây một lát đã.
- Được.
- Mặt trời sắp lặn.
- Ừ đẹp nhỉ.
- Tớ không thích cái kiểu đẹp giữa cảnh giả tạo này.
- Đằng ấy chẳng bảo vẫn thích đi công viên mà.
- Đó là lúc mình còn bé. Sau đó mình lên sống ở miền núi, làm nghề đốn củi trong rừng hoang bảy năm liền.
- Gian khổ thế mà cũng chịu được.
- Đúng là đời sống trong rừng không phải là dễ.
Người con gái mặc váy đứng lên khỏi ghế, ngóng về cuối lối đi, qua hàng rào cắt thẳng tắp, vài người từ phía này đi lại, trong số ấy có một thanh niên tóc dài xuống mang tai. Phía bên trên vòm cây và đầu tường, các tia nắng sắp tắt ngập trời một màu đỏ rực, ngả sang màu tím rồi vươn lên rẽ quạt theo hình thù khúc khuỷu những đám mây.
Đã lâu lắm rồi tớ chưa nhìn thấy một buổi hoàng hôn đẹp như thế này, cả bầu trời rực lửa.
- Như một đám cháy.
- Như một đám cháy rừng.
- Nói đi, nói tiếp đi mà.
- Khi có đám cháy rừng, trời cũng y như thế này, lửa lan nhanh một cách mãnh liệt đến độ không ai có thì giờ đốn cây nữa. cảnh tượng rất kinh hoàng, tất cả củi đốn rồi đều bay tung lên trời, chẳng khác nào những tàn rơm bay loạn trong bếp lửa. Lúc đó những con báo bắt đầu chạy trốn như điên khùng, nhảy cả xuống sông và bơi về phía người…
- Báo không tấn công người à?
- Chúng còn thiết gì đến việc ấy nữa.
- Các anh không bắn chúng à?
- Bọn này cũng thế, sợ xanh mặt, đứng tất cả trên bờ, giương mắt nhìn như chôn chân tại chỗ.
- Thế không có cách nào chạy à?
Cả cái khe núi cũng không là chướng ngại gì đối với lửa, những thân cây bên kia sông đều nạm đen, nổ “lốp bốp” rồi bắt đầu cháy trong một tiếng vang “ào…” lớn. Trong vòng mấy cây số chung quanh, khói, lửa tràn ngập tất cả, không khí ngột ngạt khó thở chỉ còn cách chờ cho lửa đổi chiều hoặc cháy đến bờ sông mới yếu đi mà lụi dần.
Cô gái mặc váy lại ngồi xuống ghế đá, đặt cái xắc tay bên cạnh người.
- Này, đằng ấy hãy kể về những năm tháng ấy đi.
- Có gì mà kể.
- Làm sao mà không có gì, tất cả những điều vừa kể chẳng là thú vị?
- Không đâu, những thứ ấy có gì là hay ho. Thôi, nói về chuyện của đằng ấy đi.
- Về mình à?
- Ừ về đằng ấy.
- Tớ có một đứa con gái.
- Nó mấy tuổi?
- Sáu tuổi.
- Nó giống đằng ấy nhiều không?
- Giống, mọi người ai cũng bảo thế.
- Có giống đằng ấy lúc còn bé không, trắng à? Nó cũng đi giày thể thao
- Không, nó chỉ thích đi giày da thường, bố nó mua cho nó hàng lô.
- Đằng ấy sống có hạnh phúc không? Ông chồng thế nào?
- Anh ấy đối với mình tốt lắm, nhưng bảo là có hạnh phúc không thì mình cũng chẳng biết thế nào mà nói.
- Hiện giờ công việc làm ăn ra sao? Có gì thú vị không?
- Cũng được, nếu so sánh với những người cùng tuổi mình thì cũng khỏe: Ngồi văn phòng, trực điện thoại, bàn giao hồ sơ lên ban giám đốc.
- Thư ký à?
- Thủ thư.
- Đó là một công việc đòi hỏi sự tin cẩn, như thế là được tin dùng đấy.
- Khá hơn làm công nhân một tý, còn đằng ấy, không tìm cách mà đổi đời đi chứ.
- Có đấy cũng cố gắng lắm nên giờ có khá hơn.
Trên bầu trời, ánh chiều đã yếu ớt, ngả sang màu đỏ sẫm, chỉ còn phía chân trời xa, dưới một viền mây đen kịt, là còn một vệt ánh sáng vàng nhạt chiếu lờ mờ lên các ngọn cây. Trên con dốc, mấy bụi cây đã trở thành các bóng đen. Người con gái vẫn ngồi đó, đầu cúi xuống trên ghế đá, cô ta làm một động tác như đang nhìn đồng hồ, rồi đứng lên, cầm xắc tay, xong lại đặt xuống ghế, ngong ngóng về phía lối đi bên kia hàng bách; rõ ràng là cô đã nhìn thấy mặt trăng vừa ló dạng từ mấy đám mây, cô quay người lại, bắt đầu đi từng bước chậm rãi, đầu cúi thấp.
- Cô này đang chờ ai đó.
- Không gì mệt bằng chờ đợi, thời buổi này mấy thằng con trai toàn cho con gái ăn thịt thỏ.
- Ở đây trong thành phố, con gái nhiều hơn con trai à?
- Thật ra con trai cũng không ít, nhưng con nhà đàng hoàng thì hiếm lắm.
- Trông cô bé này xinh ra phết.
- Con gái mà đi bước đầu thì đứa nào cũng khổ cả.
- Không biết thằng bồ rồi có đến không?
- Ai biết được, lo làm gì cho mệt đầu.
- May mà chúng mình cũng đã qua cái thời ấy rồi. Đằng ấy đã bao giờ đợi ai thế chưa?
- Chỉ có cái ông nhà mình là lúc nào cũng phải đợi thôi. Còn đằng ấy có hay bắt người ta đợi không?
- Tớ chưa bao giờ lỗi một cuộc hẹn nào cả.
- Đằng ấy hiện đang có cô nào phải không?
- Ừ cũng nhì nhằng.
- Thế sao không lấy nhau đi?
- Có lẽ rồi cũng phải thế.
- Đằng ấy có vẻ không thích cô ta mấy thì phải?
- Tớ chỉ thấy thương hại.
- Thương hại không phải là tình yêu. Nếu đã không yêu người ta thì đừng nói dối người ta làm gì.
- Tớ chỉ tự dối mình thì có.
- Nhưng thành ra cũng dối cả người ta nữa.
- Thôi bỏ chuyện ấy qua một bên đi.
- Ừ thì thôi.
Người con gái đã ngồi xuống. Bỗng nhiên, cô ta đứng bật dậy nhìn ra lối đi đã nhá nhem, chỉ còn lờ mờ một vệt đỏ nhợt nhạt cuối cùng ở phía chân trời. Cô lại ngồi xuống, như thể biết mọi người đang nhìn mình, cô cúi xuống, hình như đang sửa lại váy nơi đầu gối.
- Không biết anh chàng rồi có đến không?
- Chịu.
- Đáng lẽ anh ta không nên làm như thế.
- Có biết bao nhiêu thứ đáng lẽ người ta không nên làm.
- Cô bạn đằng ấy có xinh không.
- Trông chán mớ đời.
- Ai lại nói như vậy. Nếu không yêu người ta thì cũng đừng nói dối. Sao không tìm lấy một người mà mình yêu thích thật sự một cô nào trẻ, đẹp đấy?
- Một cô gái đẹp mà thích tớ làm gì có trên đời này.
- Tại sao?
- Bố tố có quyền cao chức trọng gì đâu.
- Đừng nói thế, tớ không muốn nghe ai nói như vậy cả.
- Thế thì đừng nghe nữa, chúng mình phải đi thôi.
- Đằng ấy đến nhà tớ đi.
- Tớ phải tìm một món quà gì cho con gái đằng ấy, để mừng chứ.
- Đừng nói thế.
- Có gì là xấu đâu?
- Chỉ giỏi. Châm chọc.
- Tớ có ý ấy đâu.
- Tổ chỉ muốn đằng ấy được hạnh phúc.
- Tớ không muốn nghe nói đến hai chữ đó nữa.
- Đằng ấy không hạnh phúc à?
- Tớ không muốn nói về chuyện đó nữa. Trong tất cả những năm tháng ấy, gặp nhau đâu có dễ gì. Nói làm gì những lời ác độc thế.
- Được rồi, chúng ta nói chuyện khác.
- Đột nhiên người con gái đứng dậy. Ở cuối lối đi một bóng đen đang đến gần, đi rất nhanh.
- Cuối cùng anh chàng cũng đã đến.
Đó là một thanh niên, đeo trên vai cái cặp vải. Nhưng người này tiến thẳng, không dừng chân, đi ngang qua chỗ cô gái rồi xa dần. Cô gái ngoảnh mặt đi.
Vẫn không phải người cô ta đang đợi. Trong cuộc đời thường như vậy, thế có lạ không?
- Cô gái khóc.
- Ai?
Cô gái ngồi, úp mặt vào hai bàn tay như muốn trốn. Lùm cây bên dốc mờ tối đến độ không còn rõ hình thù. Chỉ còn nghe thấy tiếng chim sẻ ríu rít.
- Vẫn còn chim à?
- Cứ phải ở trong rừng mới có chim đấy.
- Vẫn còn chim sẻ à?
- Này, đừng có khinh bạc như thế.
- Tớ lúc nào cũng thế thôi. Nếu không giữ được cái khinh bạc đó thì ngày hôm nay tớ đã không còn ở đây.
- Đằng ấy không nên quá hận đời. Đâu phải chỉ có mỗi đằng ấy là phải chịu khổ đâu. Tất cả mọi người đều phải rời thành phố. Đằng ấy phải hiểu: một người con gái trẻ mà phải về miền quê, không gia đình, không quen biết còn gặp khó khăn nhiều gấp mấy đám con trai. Nếu tớ đã phải lấy chồng, ấy là vì không còn cách nào khác tốt hơn. Chính bố mẹ anh ấy đã xoay xở cho tớ về lại thành phố.
- Tớ có trách đằng ấy đâu.
- Đằng ấy cũng chẳng có quyền làm điều đó.
- Có ai có quyền được trách ai đâu.
Đèn đường đã sáng, luồng ánh sáng vàng xuyên qua vòm lá cây xanh. Bên trên thành phố, trong ánh sáng lò mò của khung trời đêm, ngay cả ánh những vì sao cũng bị che phủ, nhạt mờ. Trong khi đó những cột đèn giữa các bụi cây lại trở thành rực rỡ.
- Có lẽ mình nên đi đi thôi.
- Đúng rồi, mà đáng lẽ mình cũng chẳng nên đến đây làm gì.
- Người ta lại nghĩ mình là những kẻ yêu nhau. Nhỡ chồng đằng ấy biết được, ông ấy lại có thể hiểu lầm, đúng không?
- Anh ấy không thế đâu.
- Nếu thế thì cũng là người khá đấy.
- Đằng ấy có thể đến nhà tụi này chơi.
- Nếu ông ấy mời tớ.
- Nếu mình mời đằng ấy thì có khác gì nào?
- Nhưng đáng tiếc là tớ không biết địa chỉ nhà đằng ấy ở đâu, nên mới phải đến cơ quan tìm. Nếu không tớ đã đi thẳng đến nhà đằng ấy rồi.
- Bỏ cái kiểu lý sự ấy đi.
- Thôi, cãi nhau làm gì.
- Chính đằng ấy chọc tức người ta đấy chứ.
- Được rồi, tớ xin lỗi, tớ có cố ý đâu.
- Bây giờ ta nói chuyện khác đi.
- Ờ.
Cái lùm cây đã hoàn toàn chìm vào màn đêm, cả bóng người con gái cũng không còn rõ ràng nữa. Tuy nhiên ánh sáng đèn làm vòm lá cây dương xanh màu ngọc thạch như có ánh lân tinh. Một cơn gió nhẹ lướt qua làm rung động bề mặt lá óng ánh mịn màng.
- Hình như cô ta vẫn chưa đi về.
- Chưa, cô ta đang đứng tựa vào cây.
- Cách cái ghế khoảng mười thước là một thân cây lớn, đúng là trên đó có lờ mờ một bóng người dựa vào.
- Cô ta đang làm sao thế?
- Đang khóc.
- Đáng gì mà khóc.
- Tại sao?
- Khóc cho một người như thế thì chả bõ. Cô ta có thể tìm được một người con trai khác yêu cô mà được cô yêu. Cô ta nên đi về thì hơn.
- Cô ta vẫn còn hy vọng.
- Thật ra rồi giữa đường đời rộng lớn, thế nào mà cô ấy lại không tìm được con đường của mình.
- Đừng có tưởng cái gì mình cũng biết. Đằng ấy không hiểu một tí gì về đàn bà cả. Nếu muốn xúc phạm đến họ thì cũng dễ thôi. Đó là những sinh vật yếu đuổi.
- Nếu họ biết là mình yếu, sao không phấn đấu cho mạnh lên.
- Nói thì lúc nào nghe cũng hay lắm.
- Cần gì cứ phải tự làm khổ mình. Đau khổ trong cuộc sống cũng quá đủ rồi. Phải biết sáng suốt chứ.
- Có biết bao nhiêu điều phải thế này, phải thế kia.
- Tớ muốn nói con người đáng lẽ phải làm những điều phải làm.
- Đằng ấy nói toàn những câu vô nghĩa.
- Cứ thế đấy, đáng lẽ tớ chẳng nên đến gặp đằng ấy làm gì.
- Nói thế cũng lại là vô nghĩa.
- Được rồi chúng ta nên đi thôi, tớ mời đằng ấy đi ăn cơm.
- Tớ chẳng thích ăn gì cả. Có lẽ mình có thể nói chuyện gì khác.
- Nói về gì bây giờ?
- Về đằng ấy.
- Nói về thế hệ sau đi, con gái đằng ấy tên gì?
- Thật ra là tớ mong có một đứa con trai.
- Nhưng một đứa con gái thì cũng thế.
- Không, lớn lên con trai không phải chịu khổ nhiều như con gái.
- Trong tương lai, bọn trẻ sẽ đở khổ hơn vì chúng ta đã trả nợ cho chúng rồi.
- Cô ta khóc.
Chỉ có tiếng lá xạc xào trong gió; tuy nhiên, trong tiếng lay động của lá người ta vẫn có thể phân biệt được tiếng thổn thức từ sau cái ghế và thân cây.
- Phải an ủi cô ta.
- Không được đâu.
- Cứ phải thử.
- Đi đi!
- Một phụ nữ mà làm chuyện này thì tốt hơn.
- Cô ta có cần đâu cái loại an ủi đó.
- Tớ không hiểu đằng ấy muốn nói gì.
- Đằng ấy chả hiểu gì cả.
- Thà không hiểu còn hơn.
- Hiểu nhiều quá lại càng nặng nợ.
- Nếu như thế, cần gì an ủi cô ta? Đằng ấy tự an ủi lấy mình còn hơn.
- Nói thế là nghĩa gì?
- Đằng ấy chẳng hiểu gì tình cảm con người cả. Nếu tình cảm chỉ là gánh nặng thì cũng chẳng cần hiểu làm gì!
- Thế thì chúng mình đi đi.
- Mình đi về nhà tớ?
- Chẳng để làm gì.
- Thế thì chúng ta chia tay như thế này à?
- Tớ đã mời đằng ấy đến nhà ăn cơm ngày mai rồi mà. Anh ấy sẽ có mặt.
- Tớ cho là tớ không nên tới làm gì, đằng ấy thấy thế nào?
- Thế nào cũng được.
- Trong bóng đêm, tiếng thổn thức bị dồn nén càng trở nên rõ ràng. Nó nổi trôi, quyện vào trong tiếng lá xạc xào trong gió tối.
- Tớ sẽ gửi thư cho đằng ấy khi tớ lấy vợ.
- Tốt hơn là đừng gửi gì cả.
- Mai kia nếu tớ đi ngang đây, có lẽ tớ sẽ ghé thăm đằng ấy.
- Tốt hơn là đừng bao giờ đến.
- Đúng rồi, đó là một sai lầm.
- Sai lầm gì?
- Đáng lẽ tớ không bao giờ nên quay lại gặp đằng ấy.
- Không, đằng ấy làm điều đó là đúng.
- Đằng ấy và tớ, chúng ta chẳng có tội tình gì. Đó là lỗi lầm của thời đại. Tất cả cũng trở thành quá khứ rồi. Phải cố mà quên đi thôi.
- Riêng tớ, khó mà quên tất cả được.
- Có lẽ với thời gian…
- Thôi bây giờ đằng ấy đi đi.
- Đằng ấy không muốn tớ đưa đến xe buýt à?
- Hai người đứng dậy. Tiếng thổn thức bị dồn nén không kìm hãm nổi vang lên từ chiếc ghế đá trống giờ đã khó phân biệt được, ở đằng kia, sau vệt thân cây đen, cái bóng người cũng nhòe nhoẹt trong bóng đêm.
- Có lẽ chúng mình nên khuyên cô ấy đi về nhà đi nhỉ?
Trong vùng ánh sáng đèn đường, những cây dương rung nhẹ tàn lá xanh non óng ả mịn màng.
Nguyễn Hồi Thủ dịch
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Christiane

Re: Gái Hai Chồng (Tuyển Tập Truyện Ngắn Giải Nobel)

Postby bevanng » 01 Feb 2016

PHẢI LÒNG
Andre Dubus
Nhà văn Mỹ - Giải thưởng Pen/Malamud
Ted Briggs trở về bảy năm trước khi cuộc chiến kết thúc. Hai năm sau cuộc chiến đó, vào một buổi tối chủ nhật mùa xuân, anh gặp Susan Dorsey trong bữa tiệc ăn mừng cảnh cuối cùng của một vở kịch được hoàn thành, tổ chức ở thị trấn nhỏ phía bắc Boston. Anh không muốn đi xem vở kịch cũng như dự buổi tiệc mà ngồi uống với Nick. Lúc bắt đầu buổi chiều chủ nhật muộn đó bên quầy rượu, trong một quán bán thịt rán, họ nhìn thấy một người đàn bà hiện lên trong tấm gương dài của quầy rượu, Nick nói: “Hãy đi với tôi. Em tôi giống cô ta lắm”.
- Chị ấy đang đạo diễn vở kịch. Chị ấy khó chìu lắm.
- Vở kịch tên gì?
- Tôi quên rồi. Về một người Pháp nào đấy. Anh sẽ biết thôi.
Ted nhìn vào anh. “Có vẻ như một từ khác. Cái đó không phải là vấn đề. Bữa tiệc mới là vấn đề. Ở những nhà hát này: Người xem không cần đến cuộc cải cách tình dục”.
- Tôi không cần phải xem vở kịch mới ăn nằm với ai đó.
- Việc gì anh phải bực bội như vậy? Anh hành động mông muội quá. Anh luôn luôn đọc cái gì đấy; anh đi xem kịch đi”. Nick ra hiệu cho người đứng quầy. Rồi vẫy tay về phía cô phục vụ đang đứng gần cửa ra vào. Khi cô nhìn về phía bọn anh, Nick ra hiệu bằng ngón tay trỏ và ngón giữa xòe hình chữ V, rồi chỉ về phía những chiếc bàn sau họ. Ted nhìn các ngón tay anh ta và nói: “Như thế à?”
Nick hạ tay xuống thành quầy hỏi lại: “Như thế nào?”
- Cử chỉ hòa bình. Tôi đã từng dự tiệc với các nghệ sĩ. Mọi người cứ hỏi về cái chân của tôi. Tôi kể cho họ nghe. Bọn họ rất lịch sự.
- Lịch sự!
- Đó là một cố gắng.
- Vì họ.
- Đúng vậy.
- Này, chúng ta là luật sư, họ sẽ ghét cả hai. Ted nhìn vào gương mặt hau háu và tối sầm của Nick nói: “Chúng ta không thể để công việc giữ chân ở nhà chứ?”
- Mọi người thích chúng ta.
- Mọi người yêu chúng ta.
Ted Briggs là một người đàn ông cao to, ngực nở với đôi cánh tay rắn chắc và hàng ria nâu rậm. Susan Dorsey thấy mến gương mặt anh ngay khi anh vừa bước vào phòng tiệc, một phòng khách rộng, chật cứng người. Cô cũng vừa từ nhà hát về và đã làm việc rất hiệu quả để bây giờ đứng đây uống rượu gin và nước khoáng quinin, cô cảm thấy mình còn lớn hơn cả căn phòng rộng này. Cô không biểu lộ cảm xúc ấy cho ai. Cô cư xử nhã nhặn, phải phép. Cô mới hai mươi hai tuổi và say mê với nghề được bảy năm; cô biết rằng chỉ có thể bộc lộ niềm hân hoan, vui sướng với người nào thân thiện. Với bất cứ ai khác, đó chỉ biểu hiện ra ngoài như là lòng can đảm. Công việc của cô vô cùng nguy hiểm, trong suốt quá trình dàn dựng vở kịch cô đã hóa thân vào Lucile với tất cả khả năng, và cô biết rằng những gì cô cảm thấy lúc này là lòng biết ơn chứ không phải sự tự hào. Cô cũng biết sự vẹn đầy có lúc sẽ xa rời cô, có lẽ chỉ trong ba ngày, để sau đó, vào một khoảnh khắc nào đấy, cô sẽ thấy mất mát và vô vị. Nhưng hiện tại cô uống, len giữa đám người về phía một người đàn ông với cốc rượu trên tay trái, tay phải buông thõng tựa nhẹ vào cây gậy, đôi bắp tay to nở làm căng phồng cánh tay ngắn của chiếc sơmi xanh. Đứng cạnh anh ta là một người thấp và già hơn. Người này da ngăm đen, trên trán có vài múi tóc quăn. Cô dừng lại trước hai người đàn ông và chủ động giới thiệu tên mình. Lúc đó cô nhận ra ánh mắt họ đều nói lên rằng họ chưa xem vai diễn của cô trong vở kịch. Tên họ là Nick và Kakonis. Ted bỏ cây gậy tựa vào chân rồi bắt tay với cô. Cô nhìn thẳng vào mắt anh, hỏi: “Anh thích vở kịch chứ?”
- Chúng tôi vừa mới tới, - Nick phân bua, và Ted liền cướp lời: Là gì vậy?
- Cuộc diễn tập, của Jean Anouilh.
- Tên người đàn ông Pháp đấy Ted, - Nick nói.
- Tôi thích kịch của ông ta, - Ted nói…
- Cô cũng có vai trong đó à?
- Tôi là Lucile.
- Chúng tôi lỡ mất rồi, - Ted nói có vẻ tiếc nuối.
Họ đã lỡ vì vodka rượu vang với thịt rán, và cả cognac; sau đó Nick đánh xe ra ngoại ô thành phố về phía Bắc. Một lần họ phải đi tiểu và Nick lái xe ra khỏi đường quốc lộ dừng hên một con đường nhánh thưa người. Họ đứng bên cạnh xe và tiểu tiện xuống bãi cỏ dưới chân. Nick đánh xe trở lại đường cao tốc; họ nói về đàn bà và công việc, thời gian chả còn quan trọng. Vãn chuyện, họ rời thành phố đến bữa tiệc. Nếu vở kịch bắt đầu đúng giờ thì lúc chiếc màn sân khấu kéo lên cũng là lúc họ đang lái xe ra khỏi Boston. Lúc tối thị trấn và tìm được nhà hát, vở kịch đã mở màn một giờ năm phút trước đó, họ tạt vào quán ngồi uống cà phê. Qua cửa sổ, cả hai quan sát cửa ra vào Nhà hát phía bên kia con đường lát gạch. Khi mọi người đi ra Ted và Nick cũng đứng dậy bước về phía đó, và trong hành lang nhà hát, giữa đám người ra về. Nick gặp em gái, một người đàn bà cao to vận váy đen. Cô ta có khuôn mặt to và đẹp, cô thốt lên với Nick: “Ái chà”.
Cô ôm chặt lấy Nick và bắt tay Ted. Cô tên là Cindy. Họ cùng rảo bước trên hè phố lát gạch tới căn phòng của ông giám đốc sân khấu, người giảng dạy kịch nghệ tại một trường đại học. Không khí trong lành đến nỗi Ted có thể ngửi thấy mùi biển; anh không cảm thấy say và biết đúng là vậy. Bên ngoài căn hộ, một ngôi nhà hai tầng cũ kĩ, anh nghe thấy giọng người nói và tiếng saxophone đơn độc. Ba người lên gác hai. Cindy giới thiệu họ với mọi người đứng cạnh cửa rồi để mặc họ. Ted và Nick bước tới chiếc bàn dài bày rượu và khay đá, tự rót cho mỗi người một ít Scotch vào trong chiếc cốc nhựa. Cả hai đứng tựa lưng vào cửa sổ. Ted ngắm nhìn người đàn bà tóc đỏ trong chiếc váy màu be đang bước lại gần anh, nhìn vào mắt anh và mĩm cười. Anh thở hắt ra và trong thoáng chốc không còn hít vào được nữa.
Cô ta lại gần, nhìn anh lặng lẽ; đôi mắt cô màu xanh, cô nhìn anh nói: “Susan Dorsey,” và chìa tay ra. Ted dựa cây gậy bên hông và bắt tay cô. Từ đó đến hết buổi tiệc anh chỉ ở bên cạnh cô, trừ những lúc đi vào phòng vệ sinh. Anh đến bên bàn rót rượu, khuấy đều cốc rượu của cô bằng con dao vừa dùng cắt lát chanh; tiến về phía Nick và nói: “Xin lỗi” tỏ ý xin phép với người đàn bà ngồi cạnh Nick; hay kéo Nick ra một góc hỏi thầm: “Thị trấn này có ga tàu chứ?”
- Nick vòng tay ôm chặt lấy Ted.
- Anh không cần ga tàu gì hết, - anh ta nói. — Cô ấy sống ở Boston.
- Sao anh biết?
- Cindy nói với tôi thế. Tôi phải đi về hướng Bắc một quãng có việc. Nhìn tôi thế nào?
- Anh trông khá lắm.
Vào lúc một giờ Susan mới dùng hết cốc rượu gin và nước khoáng quinin. Lúc Ted cầm lấy chiếc cốc định rót thêm thì cô nói: “Tôi dùng coca”.
Cô sợ bị chết trẻ. Cô thông minh và mọi việc còn ở phía trước nên cô sợ lúc nào đó chúng sẽ biến mất. Nỗi sợ đến với cô bằng hình ảnh về cái chết trong ô tô hay trên máy bay. Nhạc không còn chơi nữa, mọi người đều nói chuyện lặng lẽ, từ đâu đó khoảng mười một giờ, khi vị giám đốc nhà hát nhắc nhở mọi người hãy giữ ý với hàng xóm của ông. Cô ngắm Ted khi anh đi về phía cô, trên tay trái là cốc của cô. Một quả đạn súng cối bắn tới, nổ tung và hất anh lên khỏi mặt đất. Anh rơi xuống mà vẫn sống. Cô muốn khỏa thân, ôm lấy anh lúc đó cũng trần truồng. Cô nhận cốc coca và nói: “Tôi cần một giờ. Tôi không muốn lái xe trong tình trạng say rượu”.
- Cô say rồi sao?
- Chưa hẳn vậy, sau khi làm cái gì đấy.
Ôtô của cô nhỏ, và khi họ lên xe, anh phải ngả chiếc ghế ra sau để lấy khoảng trống đặt chân. Cô cũng ngả ghế ra sau, quay về phía anh, ôm lấy anh rồi cả hai cứ thế hôn nhau trong xe. Cô thấy thú vị với sức mạnh toát ra từ đôi cánh tay anh lúc hai người ôm nhau. Cô khởi động máy và ngồi thế lái chiếc xe; chỉ có phần đầu bàn chân đặt lên cần ga. Cô lái xe ra khỏi thị trấn. Băng qua rừng nhỏ về phía đường quốc lộ. Một lúc sau cô nhận xét: Anh có đôi mắt buồn.
- Không phải lúc này.
- Ngay cả khi chúng long lanh. Anh muốn mình là một người nhái.
- Không hẳn như em nghĩ. Anh vào hải quân để đạt mục đích đó, trên một con tàu. Trước khi qua được đợt huấn luyện trên cạn, anh cảm thấy nó giống như một hành động né tránh. Sau đó anh đòi hỏi được là người nhái và gia nhập thủy quân. Một thời gian dài ở Khe Sanh, anh hy vọng mình chỉ gia nhập thủy quân thôi.
- Để anh có thể trở về?
* * *
- Gần như vậy. Em đóng khá chứ, trong vở kịch ấy?
Cô định trả lời vâng, nhưng đã không hé miệng. Cô với chiếc ví trên sàn xe, một tay ấn lên chân anh. Sau đó cô trở lại tay lái, nhìn con đường tràn ngập bóng tối của cây và nói: Em quên không mua thuốc lá.
- Một điếu Con sóc?
Anh đốt một điếu Lucky Strike rồi đưa cho cô. Cô đưa nó lên miệng, rít một hơi và cầm luôn điếu thuốc, nhưng thuốc cũng không chạm tới được điều chất chứa trong lòng. Cô phả khói thuốc ra qua cửa xe và trả lời: Em rất thành công trong vở kịch.
Sau khi anh trở về từ cuộc chiến, việc làm tình đã trở nên dễ dàng. Anh gia nhập hải quân sau năm thứ nhất ở đại học Boston bởi vì trí óc anh không thể tiếp tục nhồi nhét thêm vào những cãi vã, tranh luận anh từng tham gia với bè bạn, đa số chúng chỉ là những đứa trẻ, và với chính bản thân anh từ khi mười sáu tuổi. Một buổi sáng anh thức giấc với tàn tích của một cơn say bí tỉ tối hôm trước và theo bản năng anh dẫn xác tới phòng đăng ký tuyển mộ hải quân. Từ chiến trường trở về vả sau tám tháng nằm trong bệnh viện hải quân ở Philadelphia, anh bị giữ ở đó do nhiễm trùng, anh trở lại đại học Boston và sống trong một kí túc xá. Anh đã yêu hồi còn ở trung học rồi ở đại học trước chiến tranh và lần đầu tiên với mỗi cô gái đều khiến anh ngạc nhiên, có cảm giác lạ lẫm. Sau chiến tranh mọi thứ chả còn lạ lẫm với anh. Anh còn hiểu được rằng nếu một cô gái đến phòng anh, hay mời anh sang phòng cô, hay hẹn anh một dịp nào đó, ngoài trường đại học, thả bộ trên đường phố Boston, cô ta sẽ làm tình. Có một vài cô chả cần biết đến bản thân anh bởi anh đã tham gia chiến tranh và chiếc gậy anh dùng chả khác mấy bộ quân phục. Rất ít trong số đó nói điều gì nhưng anh nhìn ra trong ánh mắt họ. Anh cảm thấy đau và tức giận nhưng chỉ giữ im lặng.
Bọn trẻ cũng vậy, và cả một số người lớn như thầy giáo của anh, những người anh chỉ muốn cho một trận. Trong phòng riêng, anh đấm vào các túi nhựa cỡ trung bình và tập các bài tập để giữ trọng lượng. Vài lần say khướt trên giường với một cô gái, anh hỏi về điều này cho tới ứa nước mắt. Chả cô gái nào an ủi được bởi vì nguyên nhân khiến anh khóc không phải do chính anh. Anh khóc cho người đàn ông, người bạn anh biết trong chiến tranh, người anh đã băng bó, đã bảo vệ nhưng rốt cuộc lại không bảo vệ được; và cho người đàn ông ở nơi đó mười ba tháng mà không hề bị dính đạn, đạn súng cối, đạn pháo. “Những điều đó không phải trừu tượng quá đối với người khác”, anh nói vậy với một cô gái một đêm nọ; và ghì chặt lấy cô ta, anh hét tướng lên tên một vài người; với anh rõ ràng những người này ở trong căn phòng tối tăm; nhưng không phải với cô gái. Sau đó nhìn vào mắt cô, anh thấy hình ảnh mình trong chiến tranh, cứu thương lại cứu thương và lại cứu thương, và bỗng khóc nức nở. Anh nói: khốn nạn làm sao nếu bạn cần được người khác căm ghét, bởi vì bạn đã làm một việc tốt mà không bị giết? Cô gái đã an ủi anh khi cô nói rằng cô ta thích giết một ai đó.
Lúc đó anh hai mươi tám tuổi và việc ấy vẫn còn dễ dàng; và có thể tin chắc được điều đó; anh chỉ cần mời một cô nào đấy đi uống hay đi ăn tối. Cô ta sẽ đồng ý tức thì và thường thì anh có thể thấy điều đó qua mắt họ ngay những phút đầu. Nếu cả hai cùng ước ao và đồng ý, họ sẽ làm tình. Susan là người như vậy. Mọi việc xảy ra nhanh chóng khi họ uống, nói chuyện hay liếc bản thực đơn. Nó kéo dài vài tháng, vài tuần hay đôi lần chỉ vài ngày. Anh vuốt nhẹ má Susan và nói: “Có lẽ anh nên theo đuổi tán tỉnh em. Mang hoa tặng em. Nắm tay em khi chúng ta ngồi xem trong rạp hát. Đưa em đi ăn hàng hay đi nghỉ dã ngoại. Hôn tạm biệt em ngoài cửa”.
- Thế anh có đến hai mươi phút còn gì. Mà có lẽ hai mươi lăm phút ấy.
Nằm bên cạnh anh, gạt tàn vào chiếc gạt tàn anh để trên ngực, cô muốn cảm nhận được điều cô đang cảm thấy, điều cô trông chờ lâu rồi, sự trào dâng dồn dập của tình yêu đã kéo cô trở lại căn hộ nhỏ của mình, vào trong phòng tắm lấy chiếc bao tử cung cô đã dùng nhiều lần trong năm nay với vài người đàn ông. Nhưng lúc này cô thấy mãn nguyện, bởi vì điều đó đã không xảy ra hơn một năm qua và cô cũng không dám chắc đấy là tình yêu đang dâng trào trong cô hay là vai diễn Lucile thành công và sau đó thỏa mãn với người đàn ông cường tráng nhưng yếu đầu gối, có đôi mắt đượm buồn này. Trong anh ta là cả một dòng lịch sử cô có thể cảm nhận được qua từng cái hôn. Khi họ làm tình cô còn thấy được cả mùi vị chiến tranh trong đó, thấy được anh đang đi lên từ những gì anh chứng kiến và những gì anh làm từ những lần bị hất tung lên vì pháo. Trái tim cô mách bảo cô đang yêu. Cô nói: Em rất thích anh.
- Nhưng sao cơ?
- Không gì cả. Nhưng em sẽ gặp lại anh chứ?
- Việc đó vừa xảy ra với em còn gì?
- Tất nhiên là vừa xảy ra. Em quá dễ dãi. Anh cũng vậy.
- Em sẽ còn gặp anh nhiều. Chúng ta đi ăn tối thôi. Thức ăn Pháp - Vì vở kịch.
- Vở kịch đã lỡ.
- Bọn anh không lỡ gì cả. Cả hai uống quá nhiều và nói cũng quá nhiều.
- Và cả hai đều gặp may.
- Anh nghĩ đã được nhận cái gì đó còn hơn là điều may mắn.
- Anh đã được vậy. Em hy vọng anh đã xem em.
- Anh cũng vậy. Anh sẽ xem vào dịp tới, hàng tối.
- Ở rạp hát Charles. Bọn em sẽ bắt đầu diễn tập hai tuần tới: Anh đặt chiếc gạt tàn lên chiếc bàn bên cạnh. Cô đặt tay lên ngực anh và nhìn sâu vào trong mắt anh - Sau đó em sẽ đi New York. Tháng trước em đã môi giới được với một người đại diện.
- Tốt quá. Đó là nơi em sẽ tới.
- Vâng. Em yêu nó, điện ảnh cũng vậy.
- New York như một con thoi.
- Em hy vọng không chỉ một mà còn nhiều hơn thế.
Cô hôn và ôm chặt lấy anh.
Anh ăn trưa với Nick. Họ đều mặc complê, đeo cravát. Anh đã tranh thủ ngủ hai giờ, thức giấc lúc bảy giờ sáng nhờ tiếng đài phát thanh của Susan. Anh tắt nó đi trước khi Susan kịp tỉnh giấc. Anh gọi xe và chờ bên lề đường. Anh về nhà tắm rửa, cạo râu, thay quần áo và sau đó cuốc bộ đến cơ quan. Chín giờ anh đã ngồi bên bàn làm việc. Bốn mươi phút sau Nick tới. Đứng lại bên cửa phòng Ted mỉm cười. Nhún vai và nói: “Ăn trưa?”
Bữa trưa Nick lại gọi một cốc Bloody May. Anh nói:
- Tôi ghét trận say hôm thứ hai quá. Cậu không uống gì à?
Ted chỉ dùng trà ướp lạnh.
- Không. Tôi say ngất ngưởng lúc chúng ta về. Nhưng tôi không uống gì nữa và tỉnh táo đến tận năm giờ sáng. Từ lúc đó trở đi tôi hoàn toàn tỉnh táo.
- Chúng ta đã uống.
- Tôi thì chả bao giờ uống đến say. Tôi trị nó bằng cách luyện tập. Susan chuẩn bị đi New York.
- Lâu dài?
- Không có gì lâu dài. Cô ấy là diễn viên.
- New York cũng chả xa là bao.
- Nhưng Hollywood thì xa đấy.
- Làm sao anh biết được cô ta giỏi đến vậy?
- Linh cảm.
- Đã xảy ra chuyện gì?
- Tôi ở với cô ấy cả đêm qua.
- Nhưng điều gì đã xảy ra? Mới hai tuần trước anh nói cần một cô gái anh gặp cuối tuần. Thậm chí nếu cô ta đến được Hollywood, người ta sẽ gạt cô ta ra khỏi hàng nghìn cô gái trẻ đẹp khác. Điều đó như là một ngày nghỉ cuối tuần đối với tôi:
- Tôi muốn cô ấy vào được Hollywood. Tôi muốn cô ấy có chỗ đứng ở Broadway. Và tôi muốn cả bản thân cô ấy.
Anh ở với cô hàng tối trước khi đợt diễn tập của cô bắt đầu họ cùng ăn trưa và uống rượu. Vì việc đó anh thường phải rời cơ quan hai giờ. Cuối tuần, anh và cô dã ngoại và lái xe ra bãi biển. Nước biển lạnh nhưng nắng mặt trời thì ấm nên họ mặc đồ lót và ngồi trên bờ. Tối họ ăn ở nhà hàng, làm tình ở nhà anh hay nhà cô. Đến lúc phải đi diễn tập, cô không còn thì giờ cho bữa trưa. Anh làm việc ở cơ quan cả ngày và luôn chờ đợi để được gặp cô. “Em là người dễ dãi”, cô đã nói vậy và khi anh mường tượng cuộc sống của cô ở New York, đóng vai một cô hầu, tập tành với bọn đàn ông, anh không chịu nổi. Anh biết cô yêu anh và tin cô muốn trung thực với anh, nhưng cô quá xinh đẹp, lại là người theo chủ nghĩa khoái lạc. Bởi thế nên có một gã nào đấy theo đuổi, tìm cánh làm tình với cô là điều khó tránh khỏi. Khi đó trong cô chắc hẳn cũng có ý nghĩ gì đấy về người đó. Không hề lên tiếng, anh lẳng lặng để cô được tự do làm theo ý mình. Mặt khác anh cố hình dung ra một tình huống để bản thân có thể chấp nhận được, như kiểu: nếu một đêm ở New York khi cô đã say và việc ấy chỉ xảy ra vào đúng đêm đó.
Nhưng việc đó chẳng phải là một đêm với một người đàn ông. Tới lúc này anh đã thấy cô trong vở kịch mới. Cô đóng vai người em gái út, Beth, trong một đại gia đình tập họp lại tại căn nhà của bà mẹ khi bà mất. Beth là người con đã không rời bỏ bà đi xa. Cô ở lại trong thị trấn nhỏ và sống cạnh bà mẹ già, trông nom bà lúc ốm đau, cũng như cô đã chăm sóc người cha. Những người con khác đều ở xa, công việc bận bịu và thường say sưa bù khú. Beth hai mươi chín tuổi, bởi vậy Ted cứ đoán chắc là người viết kịch bản đã sáng tạo vai diễn đó cho cô và việc cô không có lấy một người tình còn quan trọng hơn việc họ có xứng đáng hay không. Mặc dầu cô đã đóng vai Laura trong Bầy thú thủy tinh, nhưng Susan đã diễn xuất vai Beth đầy gợi tình, tuy đơn độc và dũng cảm. Bạn hẳn nghĩ Susan sẽ có một người tình đúng lúc, khi cô đã sẵn sàng chọn lựa. Ted biết việc này sẽ xảy ra, trừ phi Susan là người không may mắn, cô sẽ làm việc ở New York và Hollywood. Bởi vậy không chỉ có một đêm say rượu với một người đàn ông; Susan sẽ tiếp bước trên con đường đó trong cả phần đời còn lại của cô.
Trong phòng mình cô có một chiếc bàn chải đánh răng, một chiếc váy dạ hội, một áo ngủ, một cuốn tiểu thuyết đang đọc dở. Hai tuần trước khi vở kịch kết thúc, cô có một vụ mua bán. Cô bán nhà và chuyển tạm đến chỗ anh. Căn hộ của anh rộng rãi và từ phòng khách có thể chiêm ngưỡng dòng sông Charles. Đến khi vở kịch hoàn tất, niềm đau trong anh bắt đầu. Nhưng anh cũng đã phấn khích bởi những đêm trong suốt một tuần, những ngày nghỉ cuối tuần ở New York và cả việc Susan đang đóng kịch ở đây. Anh nuôi niềm tin rằng trong cô có cả một sự vĩ đại và anh muốn được chiêm ngưỡng nó. Một buổi hoàng hôn chiều thứ sáu, hai người đứng bên cửa sổ, ngắm nhìn con sông và khu Cambridge. Cô nói: “Em phải làm việc gì đó trước khi đi New York. Em đã mang thai được sáu tuần”. Anh nhìn vào mắt cô, và hiểu rằng những gì đang quặn đau trong anh sẽ không quặn đau nữa cho tới khi nó vỡ tan ra. Anh thốt lên: “Không”
- Không cái gì? Em không mang thai? Phải chăng anh nghĩ anh chưa làm được cái gì sao?
- Không, đừng làm vậy.
- Em mới hai mươi tuổi, em đang chuẩn bị đi New York, và anh lại muốn em nuôi dưỡng đứa bé chết tiệt ấy sao?
Vật đang rơi trong anh vụt rơi xuống và vỡ tan. Anh run rẩy nói: “Sao lại một đứa bé chết tiệt. Đứa bé của chúng ta, Susan. Con của chúng ta”.
Anh phải quay mặt nhìn đi chỗ khác, tránh điều chết chóc đang ánh lên trong mắt cô.
Cô nhìn ra con sông. Từ lúc chiều đi gặp bác sĩ đến giờ, cô cảm thấy cuộc đời mình sao lại gặp toàn vận rủi và buồn hơn bao giờ hết. Đến lúc này Ted nài xin cô tổ chức đám cưới. Từ trước đến nay chưa ai làm vậy với cô, chả có lời cầu hôn nào, thậm chí còn chưa ai có ý định đề cập đến việc đó. Chỉ có Ted là người duy nhất đòi hỏi. Cuối cùng cũng đến lúc cô nhìn thẳng vào anh, nói: “Cưới xin không để làm gì được. Thậm chí em còn chưa nghĩ tới việc đó. Em không muốn có con. Sao anh không hiểu điều đó nhĩ?”
- Vậy hãy làm việc đó đi. Hãy ban cho anh một đứa con.
- Làm việc đó? Anh làm việc đó?
- Bảy tháng rưỡi thôi. Tất cả những gì anh cần ở em.
- Anh nghĩ nó là số học? Thứ lịch chết tiệt? Anh lại muốn em trải qua tất cả việc đó để rồi anh có được đứa bé? Hãy đi tìm người khác mà sinh con với anh.
- Anh đã tìm được em. Vậy mà bây giờ em lại định giết nó.
- Em chả muốn giết ai cả, bất kể thứ gì. Không phải bụng mang dạ chửa là điều duy nhất em muốn. Thêm nữa, ước gì em đã không làm tình với anh.
- Nhưng em đã làm. Lúc này cần một sự hy sinh. Được chứ? Có lẽ là một vết thương. Và có gì mới mẻ đâu nào. Chỉ có bảy tháng rưỡi. Cuộc sống của em với nó cũng khá quan trọng đấy chứ.
- Cô giơ tay định tát vào mặt anh, chặn đứng cái nhìn giọng nói của anh, nhưng lại thôi. Tất cả những rủi ro và buồn bã cô đã chịu đựng tới khi thông báo với anh việc thầm kín giữa hai người, và khuôn mặt anh tỏ rõ mọi điều, cô cảm thấy mình sao cô đơn đến vậy, cô đơn một cách lạ lùng. Cô chả còn thiết sống nữa. Cô bật khóc, đưa tay lên bưng mắt. Anh nắm lấy hai bàn tay cô, nhưng cô giật lùi vài bước, gạt nước mắt và mở mắt ra.
- Anh chả biết gì cả, - cô nói. - Anh nghĩ rằng có thể có con nhưng không yêu nó. Anh mà lại ngu đần vậy sao? Em không thể yêu trẻ con, ít nhất là bây giờ. Em nghĩ em có thể yêu anh. Thế là đủ.
- Em chả yêu ai cả.
- Đúng vậy, em không yêu ai. Và em cũng không có ý định nói rằng em ước gì không bao giờ làm tình với anh. Nhưng cũng sẽ không tiếp tục làm vậy. Anh dừng cuộc chiến với cây gậy trên tay. Sự hi sinh. Sự đau đớn. Đừng bao giờ nghĩ là em không biết những cái đó. Đừng bao giờ nghĩ rằng anh là người duy nhất phải đau khổ. Hãy làm cái gì đó vì em. Hãy tránh ra. Em sẽ đến chỗ Cindy. Em không muốn anh ở đây khi em gói đồ, luẩn quẩn, khóc lóc và yêu cầu em thay đổi cuộc sống của mình. Được chứ? Chỉ cần đi cho khuất mắt. Đi uống đâu đấy. Anh thạo việc đó lắm mà.
Cô muốn cái gì đó khác trước. Cô cũng không thể hình dung nó là cái gì? Một sự thay đổi nào đấy, của Ted, của cô, của thời gian. Anh nói: “Em đuổi người giỏi đấy”.
Anh bước ra ngoài và cô nhấc máy gọi Cindy. Cô chỉ kịp nói: “Cindy?” rồi bật khóc nức nở. Ít lâu sau, cô đã ở New York nhưng sự trống vắng thì ăn sâu trong cô một thời gian dài. Nó như một sa mạc bao la, khô cằn và chả có gì trên đó cả. Một ngày nào đấy cô sẽ đi đặt vòng tránh thai, nhưng không phải bây giờ, có lẽ đến cuối hè, hay sang xuân. Việc trước mắt là cô cần phải làm để vun tưới cho cái sa mạc khô cằn đó.
Một buổi tối mùa hè, Ted và Nick cùng đi ăn tối. Sau đó, cả hai tới công viên Fenway xem ban nhạc Red Sox chơi bài “Những con chim hoàng oanh”. Buổi biểu diễn tuyệt vời diễn xuất điêu luyện và đầy xúc cảm và tới khi ban Red Sox đắm chìm trong quãng chín, với âm thứ đi vào nhịp ba và âm trưởng đi vào nhịp hai, thì nỗi đau của Ted càng trở nên sâu sắc; và chỉ là một trò tiêu khiển suồng sã giống như đầu gối anh, cái đầu gối đẩy chân anh ra giữa lối đi. Anh đã uống rượu mạnh với Nick trước bữa tối. Trong bữa ăn họ lại dùng rượu vang và suốt buổi biểu diễn họ uống bia. Sau đó Nick rảo bộ cùng Ted về căn hộ của anh, họ đi thang máy lên tầng trên. Ted rót cognac, tay trái kẹp hai cốc rượu, tay phải khoác vai Nick sang phòng khách. Nick đứng lại gần cửa sổ, đưa mắt nhìn ra ngoài. Ted nói: “Lần cuối cùng tôi được ngắm cô ấy là ở chỗ đó. Chúng tôi đứng nhìn xuống dòng sông”.
Anh thấy cảm giác, đầu gối chốc chốc như chực muốn khụy xuống và anh biết lúc này đã say rồi. Khi uống nhiều, anh cứ đứng thế mà uống. Đầu gối vô dụng của anh chỉ còn chức năng như một dấu hiệu, nhưng đầu gối còn lại thì đang cảnh báo. Tiếng động cơ ôtô từ dưới phố, tiếng người lao xao yếu ớt vang lên. Nick lên tiếng: “Nó đã làm gì. Một tháng rồi ư?”
- Đến tối nay là năm tuần.
Ted đặt cốc rượu lên ngang mặt, hít sâu một hơi cay xè rượu cognac, nhấm nháp mùi vị đó trước khi uống một ngụm. Anh uống. Anh quan sát Nick qua lớp thủy tinh trên miệng cốc và lại uống. Nhìn xuống làn ánh sáng mờ đục phản lên mặt sông, anh nói: “Sau đó cô ấy đến một lò mổ. Những người đàn ông đứng tuổi đều chết hết. Bọn trẻ còn lại thì ậm à ậm ừ… Đứa bé bị lạnh cóng cho đến chết”. Anh biết Nick đang theo dõi anh. Nhưng anh không thể cảm nhận được việc đó. Anh cũng cảm nhận ra sự minh bạch và sự hùng biện của nỗi sầu khổ tuôn trào hết ra khi uống. “Tôi cần có thời gian để tìm kiếm những đứa trẻ của tôi và xem là tôi có thể tìm được bao nhiêu. Cố nhiên cũng không loại trừ là tôi sẽ tìm ra chúng trong số đã chết… Tôi mệt mỏi quá rồi. Trái tim tôi đang buồn đau khắc khoải. Từ nơi mặt trời không còn tỏa sáng tôi sẽ không bao giờ thèm tranh đấu thêm nữa”.
Nhắm mắt lại, anh thấy khuôn mặt Susan hiện ra. Anh đã nghĩ nếu mình có đột ngột mở mắt ra, nhưng chỉ vào lúc đúng nhất trong cả suốt buổi đêm, Susan sẽ ở ngay trước mắt anh; cô sẽ đứng ở ngay đây, vị trí này. Nick nói: “Điều đó là tốt, sếp Joseph ạ”.
Ted mở mắt ra nói lại: “Tôi đã từng biết tường tận điều đó”. Anh rời mắt khỏi dòng sông, quay sang Nick và gào tướng lên: “Anh biết điều tôi nói chứ, Nick? Từ nơi mặt trời không còn tỏa sáng nữa, tôi sẽ không bao giờ thèm thuồng một người đàn bà, để rồi người đó lại giết đi đứa con chung của hai người”. Anh nói vậy rồi lại lải nhải lặp lại lần sau càng to hơn lần trước, giải tỏa hết nỗi đau khổ dằn vặt, như là một điều anh có thể nhìn thấy, sờ thấy, trong khoảng không ngay trước mặt. Bây giờ anh cảm thấy mình nổi cơn thịnh nộ, thấy sức mạnh và sự kết án nó mang theo. Nó thấm nhuần trong cơ thể anh, đôi cánh tay, cốc cognac và chiếc gậy vung lên cao. Miệng anh há ra khóc đầy đau khổ. Anh nhìn thấy Nick đang đứng cạnh cửa sổ, nhưng không nhìn thấy gì khác. Một lúc sau cơn thịnh nộ qua đi, nhanh chóng và gọn sắc như ngọn lửa nến bị thổi tắt. Và hơi thở nhẹ nhàng xua tan nó đi là hơi thở của một người đàn bà. Cô ấy là nhiều người đàn bà khác nữa. Cô là bất cứ người nào đấy mà mắt người đó, cái vuốt ve, giọng nói, đôi môi sẽ còn moi móc tâm hồn anh lần nữa. Anh khép miệng lại, hạ tay xuống và đầu không còn nghển cao như trước. Anh nhìn kẻ ăn không ngồi rồi Nick, và điều duy nhất trong suy nghĩ anh lúc đó là sự bất lực anh thấy thật đáng xấu hổ khi nhận ra một người đàn bà có thể kích động được mình. Cô ta kích động được anh bởi vì chính anh muốn vậy, Anh thấy tay Nick đặt lên sau gáy, bóp mạnh. Nick an ủi: “Anh phải tìm cách bắt đầu lại từ đầu. Lần này với người nào thì phải dùng thuốc thôi”.
Ted nhìn thẳng vào anh ta, ném chiếc gậy lên ghế trường kỉ, ôm lấy đôi cánh tay Nick. Anh nói:
- Viên thuốc không phải là thứ triết lý. Tôi cần một triết lý để hòa nhập vào xã hội như thế. Anh hiểu không? Tôi không thể hòa nhập vào cái xã hội đó như một con gà trống với một trái tim. Có thể tôi cần một người vợ.
- Vợ là tốt. Tôi cũng muốn có vợ. Tôi đã hơn bốn mươi rồi. Anh có biết đến đầu thế kỷ tới, ở Hoa Kỳ một người đàn ông trung bình chỉ sống tới bốn mươi bảy tuổi? Với người đàn bà đó là bốn mươi sáu. Có lẽ đúng là anh cần một người vợ.
- Tôi cần sự nghỉ ngơi.
- Anh mới ở với một người năm tuần còn gì.
- Không phải với đàn bà. Với đàn bà, đúng vậy. Tôi có ý nói hai tuần ở một nơi nào đấy. Mexico. Chỉ một mình thôi. Tôi không nói tiếng Tây Ban Nha. Tôi có thể gọi bữa ăn. Nhưng ngoài những thứ đó tôi chẳng hiểu gì hết. Tôi sẽ ở một mình. Tôi cần suy nghĩ thêm Nick ạ. Tất cả những gì tôi đã, đang và sẽ làm là cảm giác. Tôi sẽ tìm đến một ngôi làng gần sân bay; sẽ làm gì đó ở trên núi; sẽ mang theo vài quyển sách; chỉ một cốc trước bữa tối và có thể uống bia khi ăn, tất nhiên chỉ một thôi, ẩn náu và dạo chơi; giữ im lặng. Tỉnh táo để đối phó với con ma men.
Nick xoa cổ anh và chêm vào:
- Hãy uống nước đóng chai. Gọt vỏ hoa quả trước khi ăn. Đừng tự hủy hoại mình bằng những việc tạp nham.
- Nếu có vậy thì anh cũng chỉ nhìn thấy nước trong cốc của tôi thôi.
- Hãy dừng lại. Đó chỉ là điều mới xảy ra. Hãy bỏ con ma men lại đây. Anh nhìn ra vấn đề là được rồi.
- Không. Tôi chưa nhìn vào vấn đề. Tôi chỉ mới chửi rủa nó. Giờ đây tôi phải nhìn vào nó, tranh đấu với nó.
Nắm chặt lấy cánh tay Nick, anh nhắm mắt lại, ấn mạnh gáy mình vào đó.
Tô Đức Huy dịch
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Christiane

Re: Gái Hai Chồng (Tuyển Tập Truyện Ngắn Giải Nobel)

Postby bevanng » 01 Feb 2016

ĐOM ĐÓM CỦA TÌNH YÊU
Luigi Pirandello Nhà văn Ý – Giải thưởng Nobel

Đã ba đêm, Neli Xơghembri ngủ ngoài trời, trên đống rơm còn lưu lại ngoài sân phơi sau buổi đập lúa, và ông chăn mấy con vật: một la cái với hai con lừa, chúng đang gặm cỏ ngay gần bên.
Rơm còn đầy hơi sương, hay như Neli vẫn bảo, còn đẫm nước mắt của muôn vì sao. Các chú dế mèn nỉ non ca hát xung quanh ông, tiếp sau tiếng nghiến chói tai đơn điệu của đàn ve sầu lúc ban ngày, thì tiếng vang rền êm dịu của bản hòa tấu này làm ấm hẳn lòng người.
Thế nhưng, ông lão, nằm ngửa nhìn trời, đang mang một tâm trạng ưu tư, ông ngắm các vì sao và thỉnh thoảng lại nhắm mắt, thở dài.
Ông cảm thấy số phận đã lừa dối ông: đời chẳng dành cho ông chút gì trong các điều ông hi vọng thực ở tuổi thanh xuân. Và bây giờ khi tuổi đã xế chiều, đời cũng chẳng cho ông được hưởng tí chút cái ông từng có, tuy lòng ông chẳng muốn có. Vả chăng, từ bốn năm nay, Neli lại mất cả bà vợ, người vợ mà ông còn đang thấy cần thiết cho đời ông. Và ông lấy làm xấu hổ vì đến cái tuổi tóc đã hoa râm, lưng đã còng, mà lại còn phải đi tìm kiếm tình cảm.
Trong khi ông còn đang thả hồn vào những suy nghĩ mông lung, thì bất chợt, dưới ánh sao dịu dàng, ẩm ướt, điểm sáng lập lòe của một con đom đóm đập vào mắt ông, nó vừa mới sà xuống đống rơm ngay bên cạnh ông.
Ông chợt tưởng như thấy một mảnh trời bé nhỏ rơi xuống ngay sát bên mình, tuy bầu trời vẫn còn ở tít mù xa. Ông bật ngồi dậy, rồi lại nằm xuống, như vừa sực tỉnh sau một cơn mơ. Nhưng vẫn chỉ là cảnh tượng những gì ở quanh ông, nhòa lẫn trong đêm tối, tất cả đã cho ông cảm giác như mơ: túp lều tranh rạn nứt và ám khói đen sì của ông, con la cái, hai con lừa giữa đám rơm rạ, và ở tít đằng xa cuối trời, những ánh đèn chấp chối của xóm làng Rapphađali bé nhỏ của ông.
Con đom đóm vẫn còn đấy, trên đống rơm cạnh ông. Neli bắt nó, rồi ngắm nó trong lòng bàn tay to lớn sần chai của mình; nó vẫn còn tỏa ra một làn ánh sáng xanh mờ mờ; ông nghĩ rằng: “Ngọn nến nhỏ của mục đồng” kia đã đến với ông từ những năm tháng đẹp đẽ xa xưa thời trai trẻ. Biết đâu, chính là con đom đóm ấy, một tối tháng sáu, bay chập chờn trên sân phơi như ở đây, bốn mươi lăm năm về trước, đã vương vào làn tóc huyền của Trisuzza Tumminia, khi nàng qua đêm trên cánh đồng với các cô mót lúa trẻ của Rapphađali để dự đêm kết thúc hội mùa và khiêu vũ dưới ánh trăng theo nhịp trống.
- Ôi tuổi trẻ!
Trisuzza Tumminia sợ rúm cả người vì con đom đóm nằm bẹp trong tóc nàng. Nàng có hiểu đâu đó chỉ là “ngọn nến nhỏ của mục đồng”. Neli đã đến bên nàng, và sau khi đã nhẹ nhàng khéo léo dùng mấy ngón tay lấy con đom đóm ra khỏi tóc nàng, giơ cho nàng xem, và đã nói với nàng, như ông sắp ứng khẩu một khúc nhạc tấu cho nàng nghe:
- Cô em có biết không? Nó lập lòe, nó vừa đến đặt một ngôi sao lên vầng trán cô em đấy. Vào cái thời mà thiên hạ đều khác hẳn thời nay, ông đã bắt đầu tán tỉnh Trisuzza Tumminia. Nhưng cha mẹ đôi bên, vì những mối hiềm thù gia đình cũ đã chống lại việc kết hôn. Sau đó, Trisuzza đã lấy một chàng trai khác, còn Neli cũng đã lấy vợ.
Đã hơn bốn mươi lăm năm trôi qua; nay ông đã góa vợ, còn nàng cũng đã thành quả phụ hơn mười năm rồi…
Tại sao con đom đóm ấy lại quay trở lại đây nhỉ? Tại sao nó lại chiếu sáng vào mắt ông, trong khi ông đang cảm thấy buồn bã và cô đơn buồn cả ruột gan? Và tại sao nó lại hạ xuống đây trên đám rơm tắm ánh sao đêm, ngay cạnh ông?
Neli rút từ trong túi ra một mẩu giấy, đem bọc con côn trùng thật cẩn thận vào đó. Suốt mấy canh dài trong đêm thâu, ông cứ suy đi nghĩ lại một mình rồi tủm tỉm cười thầm. Sáng hôm sau, nhìn thấy một bé gái đi trên con đường nhỏ từ ngoài đồng hương về làng Rapphađali, từ đằng sau bụi cây, ông cất tiếng gọi.
Cô bé này cũng thế, mắt nhấp nháy cười, miệng cũng muốn nở hoa. Ông lấy bàn tay che đôi môi râu đã cạo nhẵn, nói:
- Cháu này, cháu có biết bà Trisuzza Tumminia không?
- Cái thím có con lợn nái ý ạ?
Neli cau lông mày, vẻ bực mình. Như thế đấy? Ngày nay, cả làng Rapphađali gọi Trisuzza Tumminia là: “Cái thím có con lợn nái”! Họ mệnh danh cho bà như vậy, vì một con lợn nái mà bà đã nuôi bao năm nay, yêu thương nó như mẹ với con, vỗ cho nó béo ú à ú ịt đến không còn có thể đứng vững được nữa.
Trisuzza Tumminia, sau khi chồng mất, đã gây dựng cho các con ra ở riêng, và chỉ sống bầu bạn với con lợn nái. Nhưng hãy liệu hồn cho kẻ nào dám cả gan gạ bà làm thịt nó. Bà thường cúi xuống gãi gãi vào đầu con vật, cô lợn nái, da hồng hồng, pha mầu đất sét, lê cái bụng bự trên đống rơm, sung sướng ủn ỉn, khoan khoái, cảm thấy nhột nhột, nó vươn dài mình ra, nhếch cái mõm như muốn cười, phơi cả ức ra. Cái vẻ khoái trá vô lo của con vật ấy hầu như không thể giải thích được, và mọi người cảm thấy bực dọc. Họ không thể chấp nhận, một khi đã không định đưa nó đến lò mổ, thì cứ tiếp tục vỗ cho nó béo lăn ra làm gì.
- Thím Tresa, đúng, - Neli nói với nó, - cháu có biết thím ấy không?
- Cháu biết tỏng đi ấy chứ.
- Tốt, nghe đây: trong mẩu giấy này, có “ngọn nến nhỏ của mục đồng”, cẩn thận kẻo nó bay mất, cũng đừng bóp bẹp nó nhé. Hãy mang nó lại cho thím Tresa, và nói rằng đây là của ông Neli Xơghembri gửi đến. Cháu nói thêm với thím đây chính là ngọn nến từ ngày xửa ngày xưa đấy nhé! Chiều nay trở về, cháu cho ông biết thím đã trả lời thế nào, và ông sẽ làm quà cho cháu một bình bột đậu tằm. Thôi đi đi?
Kể ra thì ông đã sáu mươi ba tuổi, nhưng còn khỏe, thân hình chắc nịch như thân cây ô liu, cả thím Tresa cũng vậy, thím vẫn còn tươi tắn như quả đậu tằm trên cây, khỏe mạnh, hồng hào, mũm mĩm.
Chiều đến, con bé quay lại, mang theo câu trả lời:
- Thím Tresa bảo hồi này tóc tai đã bạc cả rồi, còn “ngọn nến nhỏ” cũng chẳng chiếu sáng nữa.
- Đúng thím đã nói với cháu thế?
- Y xì!
Hôm sau, râu cạo nhẵn như một chú rể trẻ, áo quần bảnh bao. Neli đến gặp Trisuzza Tumminia để bầy tỏ với bà rằng: Lửa của “ngọn nến mục đồng” ông vẫn còn giữ mãi trong lòng, nó vẫn sống động, xanh tươi như ông đã từng trông thấy nó lấp lánh trên trán bà, tựa một ngôi sao sáng.
- Chúng ta gây dựng với nhau, rồi thịt con lợn nái nhá!
Thím Tresa giơ cả hai tay đẩy phăng ông ra.
- Về đi cho rồi, cái ông lão ngớ ngẩn này!
Nhưng bà lại cười. Đừng có mà nghĩ đến giết con lợn nái. Còn về việc cưới xin… thì sao lại không nhỉ?
Đúng là số phận ông đã xui nên như thế. Trước kia thì ông bố bà mẹ, giờ thì lũ con ông và cả lũ con bà đều chống lại việc cưới xin này.
Nhưng lần này, cả hai ông bà già chẳng quan tâm gì đến cái cuộc công kích ấy. Họ bị xúc phạm vì các con đã phản đối lại họ. Nhưng trong thâm tâm, họ cảm thấy thú thú vì chính sự phản đối ấy đã gia thêm chút ý vị trẻ trung cho đám cưới của họ. Thật vui tai khi được nghe con cái của đôi bên nói đến nào là đức độ, nào là nghi lễ trong chuyện cưới xin.
Cuộc hôn nhân trước đã cho họ, mỗi bên bốn người con: Tresa Tumminia bốn trai, Neli Xơghembri, hai trai, hai gái. Con cái của Tresa thấy đều yên phận cả, và còn khá khẩm nữa, mỗi đứa đã được nhận phần thừa kế của bố chúng, bốn phần đều nhau, thật hợp lệ.
Về bên Neli, ông hãy còn một con gái sống với mình, cháu Narđa, đã đến tuổi lấy chồng.
Để bịt miệng họ hàng thân thuộc, trước khi cưới hai ông bà già đã nhờ công chứng viên làm giấy tờ cần thiết, nhằm bảo vệ quyền lợi các con bên này cũng như bên kia, một khi các cụ qua đời.
Bằng cách ấy, ông bà hy vọng đánh tan được sự hiềm khích hết sức dữ dội đối với họ, ngay từ thời gian đầu tiên. Nhưng vô ích. Quyết liệt nhất là mấy đứa con trẻ nhà Neli, mặc dầu chúng đã được hưởng lợi nhiều hơn, vì ông già tội nghiệp đã cho chúng không những phần di sản của bà vợ đã mất, mà còn cho tất cả những gì thuộc phần riêng ông, ông đã quyết định hễ còn đủ sức làm việc thì chỉ sống bằng đôi bàn tay lao động của chính mình, bằng lợi tức gia sản bà vợ kế, cũng như với thu nhập của cháu Narđa, cho đến ngày cháu đi lấy chồng.
Nhất là cô chị cả Siđôra, nay được gọi là Perônella sau khi lấy chồng, cứ tức tối. Chạy ngược lên về chuyện này. Nói với chồng, với các em dâu và hai em trai, Saru và Luzzu về cô em gái Narđa hiện đang ở với bà mẹ kế, cô bảo:
- Tôi mà nói sai thì xin cứ rụt ngay lưỡi lại: rồi cả nhà xem, dưới nanh vuốt của con mụ phù thủy già đó, cô Narđa sẽ mãi mãi chỉ là gái già cho coi. Con vua mà có đến hỏi em gái mình thì rồi mụ ấy cũng sẽ bảo rằng chưa 'phải môn đăng hộ đối!
Cô giữ giọng lưỡi ấy là bởi vì theo cô, cái mụ già Trisuzza Tumminia sẽ không bao giờ chấp nhận cho ông chồng thứ hai của mình được sống trên hoa lợi của món tài sản cộng đồng sau khi ông đã cho Narđa tất cả mọi thứ dành làm của hồi môn cho con gái.
Nghe các bà láng giềng kể về thái độ ân cần của bà Tresa đối với Narđa, mà bà chăm nom săn sóc còn tận tình hơn cả con gái của chính bà: hết quà này lại đến quà khác, nào khuyên tai vàng, nhẫn vàng, chuỗi hạt san hô đeo cổ, nào khăn quàng khăn vuông lụa, khăn lụa dài có viền tua rua dài đến bôn ngón tay, nào giày ban cao gót da bê non, mũi đánh vecni bóng loáng, những chuyện nói chung khó có thể tin được, Siđôra giận tím mặt, trả lời rằng:
- Ôi! Toàn những điều láo toét. Các bà không biết là mụ ấy làm thế để chiếm lấy em tôi à? Mụ ấy muốn vỗ béo nó để giữ chịt nó ở nhà mụ ấy, như giữ con lợn nái ấy!
Nhưng khi người ta đến báo tin Narđa chuẩn bị đi lấy chồng, thì chị ta choáng cả người. Mà là đám nào kia chứ! Loại thượng hảo hạng cơ đấy, lại do chính dì Tresa tìm ra: đó là Pitrinô Xanhcômani, mọi người biết cả đấy. Một chàng trai quý như vàng cốm, em vợ cậu cả nhà bà. Pitrinô Xanhcômani, cậu thanh niên đẹp trai đó, một nghiệp chủ có đất, có nhà, có gia súc vừa thồ hàng vừa làm đồng.
- Thật hả? Thế đấy, thế đấy? - Cô chị lên tiếng để che giấu nỗi bực mình của cô đối với tất cả các bà ngồi lê mách lẻo đang hoan hỉ về việc này. - Pitrinô Xanhcômani ư? A, tội nghiệp con bé Narđa, quả thật chuyện này làm tôi rất vui. Tôi rất mừng cho nó đấy!
Không hơn gì hai cậu em trai, cô chẳng bao giờ đến thăm em gái, đang ở nhà bà mẹ kế. Thế mà, trang trại của Saru, cậu em trai lớn, chỉ ở cách trại dì Tresa có một tầm súng. Đứng từ phía cơ ngơi bên này, nhìn qua các cậy vải và hạnh đào, ta có thể thấy rõ, không những mái nhà xinh xinh, mảnh sân của bà mẹ kế, máng ăn của đàn gia súc, mà có thể đếm được cả mấy con gà mái ghẹ đang tìm bới trên đám phân chuồng. Họ không còn muốn nghe nói đến em họ nữa, vì Narđa, bị cám dỗ bởi những thủ đoạn khéo léo, bởi bùa phép của mụ phù thủy, đã hoàn toàn ngả về mẹ kế và các con riêng của mụ, vốn không có em gái, nên đã tranh nhau quý hóa cô bé, và hết sức chiều chuộng cô.
Hôm trước ngày cưới, Neli Xơghembri, mặt mày rầu rĩ, tay gãi gãi chòm râu xồm xoàm trên cằm, bước tới trang trại của Saru. Ông nói với cậu con cả để cậu ta thuật lại chuyện cho các con khác. Mắt nhìn xuống, ông bắt đầu:
- Các con ạ, qua bao năm đói kém nên chúng ta đều nghèo cả. Có trời biết, bố sẽ mừng biết bao nhiêu nếu tất cả các con đều quây quần bên bố, nhân ngày vui của em Narđa. Nhưng mà các quả chuông làng Rapphađali nói gì nhỉ? Chúng bảo: “Với gì đây? Với gì đây? Với gì đây?” Bố đã chia chác đi tất tần tật và giờ thì bố nghèo như Chúa Giêsu bị đóng đinh trên cây thánh giá. Bố chẳng còn có thể làm gì được sất cả. Chỉ cái tối thiểu cần thiết, có thế thôi. Nếu các con là họ hàng thân cận của nhà gái mà đến dự đám cưới thì Pitrinô Xanhcômanỉ cũng sẽ đòi mời họ hàng nhà nó, họ đều là những người thân bên nhà dì Tresa, các con biết cả đấy, họ cũng sẽ đến dự. Nhưng giữa hai gia đình có sự bất hòa. Cho nên bọn ta đã quyết định, không mời ai cả, bên này không, mà bên ấy cũng không. Tất cả chỉ có bốn người thôi: Dì Tresa và bố đằng họ nhà gái, với bố mẹ chú rể. Chỉ cái cần thiết tối thiểu, không hơn.
Saru, mắt cũng nhìn xuống, tay nắn cằm, lắng nghe lời diễn giải của bố, bài nói tất nhiên đã được chuẩn bị kỹ từ trước rồi anh ta trả lời:
- Bố ạ, chúng ta phải coi chừng đó. Bố là người chủ trong gia đình, chúng con là máu mủ của bố và chúng con làm theo ý bố. Nhưng bố đừng đặt cái sự cấm đoán này riêng đối với chúng con thôi. Bố ạ, con xin báo trước để bố biết: Chuyện đó sẽ chẳng ra sao đâu!
Không ngước mắt lên, Neli còn ngồi yên một lúc, tay gãi má. Về phần bố, các con ạ, bố đã nhắn bảo với họ là đừng đến, như bố vừa nói với con.
- Thế nếu có kẻ nào cứ đến thì sao?
Người cha không trả lời. Sự yên lặng của ông có nghĩa là, trong trường hợp ấy, ông cũng chẳng biết đối xử ra sao nữa.
- Được thôi, bố ạ, - lúc bấy giờ Saru mới nói. - Bố cứ yên trí. Chúng con sẽ tự lo chuyện ấy.
Anh ta đưa mắt nhìn theo ông bố đang vừa đi vừa dùng hai tay kéo kéo cái dái tai bên trái. Trở về nhà, Saru lôi một con dao bầu ra, từ đáy một cái đẫy treo trên chiếc đinh. Anh ta lấy hòn đá mài, thấm ướt lưỡi dao, ngồi ngay ngưỡng cửa, mài đi mài lại xoèn xoẹt, hòn đá kẹp giữa hai đầu gồi.
Chị vợ sợ hết hồn, gọi chồng mấy lần, chẳng thấy nói năng gì. Hốt hoảng, hai tay vò đầu bứt tóc, mắt đẫm lệ, chị van xin:
- Lạy Đức Mẹ đồng trinh! Anh Saru ơi, anh định làm gì đấy?
Saru bật dậy như một con hổ, vung con dao lên.
- Lạy Chúa. Đừng có mở mồm, không thì tôi bắt đầu từ cô đấy!
Chị vợ tội nghiệp chạy trốn vào một góc nhà, hai tay ôm mặt. Saru tiếp tục mài con dao bầu, trước mắt ba đứa con trai, chúng ngồi xung quanh, im như thóc.
Từ sân nhà dì Tresa, con gà trống gáy vang, và con bên trại Saru cũng co một cẳng lên, lắc lắc cái mào, gân cổ đáp lại ngay lập tức.
Một… hai… ba… bốn năm sáu!
Thế là đã có sáu con la yên cương chỉnh tề, đứng trước máng ăn, dưới mái nhà nho nhỏ của trang trại trước mặt. Chúng nó kìa: cả sáu con rõ rành rành, con nọ cạnh con kia, dưới ánh trăng.
Đứng trước cửa nhà, Saru ghé nghiêng cái đầu, nhìn qua kẽ lá cây, đếm từng con và giận run lên.
- Đã sáu con rồi, nhiều con khác sẽ còn đến, chắc thế.
Sẽ là một đám cưới linh đình đây! Tất cả lũ con trai bà kế, bầu đoàn thê tử chúng nó đều đã được mời. Chỉ có họ, những người bà con thân nhất, các anh trai, chị gái ruột của cô dâu, là bị loại ra khỏi hội. Lúc này, có thể bọn kia đang yến tiệc đây, lúc nữa sẽ bắt đầu có âm nhạc và khiêu vũ. Saru cởi áo vét, vắt lên tay để che con dao bầu sắc bén. Vợ và ba con, từ trong nhà, chăm chú theo dõi anh, bụng sợ phát run lên.
Trước đó anh đã ra lệnh cho vợ nhóm lửa và đặt nước đun sôi trong một chiếc chảo lớn. Choáng váng và sợ chết khiếp, chị vợ đã vâng lời ngay lập tức, không hiểu vì sao chồng lại đòi làm như vậy.
- Lạy Đức Mẹ lòng lành, - giờ đây chị đang cầu khẩn. - Xin Người làm thế nào để có ai tới đây đi! Xin Người khiến chồng con tĩnh tâm lại!
Bên ngoài, dưới ánh trăng vằng vặc, lũ dế mèn cất tiếng kêu ra rả, giọng kim kéo dài nghe chói tai.
- Niluzzu, - bất ngờ Saru gọi, - chạy đến bác Siđôra ngay cạnh đấy, rồi đến chú Luzzu, bảo họ đến đây ngay lập tức: Vợ chồng, con cái, kéo nhau đến nhà ta tuốt tuột hiểu chưa? Phới mau?
Niluzzu, đáng nhẽ phải nhúc nhắc, thì lại đứng trân trân nhìn cha, kinh khiếp, một cánh tay giơ lên để che đầu, như chờ nhận một cái bợp tai.
- Bố ơi, con sợ, bố…
- Sợ à? Thằng ngốc - ông bố vừa quát, vừa lay con. Rồi nói với vợ: Cô cũng đi, đi kèm nó? Rồi tất cả cùng về cho nhanh!
Chị vợ đánh bạo hỏi chồng một lần nữa, cổ nghẹn lại:
- Nhưng anh muốn làm gì, anh Saru thân yêu? Xin anh hãy thương vợ, thương con!
Saru đặt ngón tay trỏ lên miệng, và rồi cũng với bàn tay ấy, làm hiệu ra lệnh cho vợ phải tuân theo.
Lúc sau, anh ta cũng thận trọng ra đi, hướng về phía trang trại trước mặt, núp mình để khỏi bị phát hiện, khi thì dưới gốc cây này, khi dưới bóng cây khác, trong lúc ánh trăng tỏa sáng rực rỡ.
Cuối cùng, anh tới sát được đến cây vải cuối hàng, ngay trước mảnh sân. Tim anh nhẩy thình thịch trong lồng ngực, thái dương rần rật. Con la, trước máng ăn gần sát ngay đó, tự nhiên thở phì phì làm Saru nẩy thót người lên. Anh đã ngửi thấy mùi nồng nồng, gây gây của phân chuồng. Anh ta nghe thấy tiếng cười nói râm ran, lẫn tiếng bát đĩa va lách cách của những người đang tiệc tùng trong nhà bà mẹ kế. Anh vươn đầu lên trên các cành cây vả, rình cơ hội. Trong sân chẳng có ai, trừ sáu con la vẫn còn đóng yên cương, và xa hơn một chút, gần cửa vào nhà, là con lợn nái kếch xù.
Con vật nằm ẹp bụng xuống đất, mõm vươn ra giữa hai chân trước, tai rủ xuống, mắt lim dim, như đang uể oải ngắm nhìn mê mải ánh sáng dịu dàng, mát mẻ của chị Hằng. Đôi lúc nó thở dài. Nó cảm thấy mãn nguyện trong cảnh cô tịch êm đềm và nhàn nhã của nó.
Saru cúi mình, tiến đến gần từ phía sau, rất nhẹ nhàng. Anh thò tay ra gãi nhẹ vào trán nó. Cảm thấy nhồn nhột, con vật vươn giãn mình, nhếch mõm lên như thể muốn cười, và phơi cái ức ra. Nhanh như chớp, Saru dùng tay kia đâm phập con dao vào giữa tim nó.
Vác con lợn kềnh nặng trĩu, Saru trở về nhà, gần như cùng lúc với chị vợ và cậu con trai, đám anh chị em họ hàng hốt hoảng theo sau.
- Im ngay, trời ạ. - Anh ta hạ lệnh cho mọi người, thở hổn hà hổn hển, mình vấy đầy vết máu, anh đặt phịch gánh nặng xuống.
Chúng ta cũng sẽ chè chén túy lúy một phen - anh thốt lên thở phào nhẹ nhõm, - Ở ngay đây, và còn thịnh soạn hơn bọn họ nữa kia! Chị với chú nó mỗi người một phần tư con; một nửa cho tôi, tôi xứng đáng được như vậy. Nhưng trước hết, hãy giúp tôi phanh con lợn ra đã. Luzzu đứng trấn ở chỗ này; chị Siđôra ở đây. Còn mày, Niluzzu, đi lấy đĩa to, cái tròn ấy ở trong hốc tủ tường. Lá gan, tôi muốn gửi nó cho con mụ già! Im cái mồm cả lũ! Lá gan là để cho mụ già.
Anh ta mổ phanh con lợn, kéo lá gan ra rửa ráy trong chậu nước; cỗ gan bóng loáng và óng ánh được xếp trên chiếc đĩa; anh đưa cho thằng con trai:
- Cầm lấy, Niluzzu, chạy sang nhà ông, thưa với ông đúng như tao bảo đây: “Bố Saru bảo cháu mang quà này đến cho bà Tresa, và bố cháu nhờ bà chào con lợn nái hộ bố cháu”.
Hoàng Hỏi - Lê Sơn dịch
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Christiane

Re: Gái Hai Chồng (Tuyển Tập Truyện Ngắn Giải Nobel)

Postby bevanng » 01 Feb 2016

CON QUỶ GIÀ
Pearl Buck
Nhà văn Mỹ - Giải thưởng Nobel

Cố nhiên bà lão Vương biết có chiến tranh. Từ lâu, mọi người đều đã biết chiến tranh tiếp diễn và bọn Nhật đang giết người Trung Hoa. Tuy nhiên, điều đó không hiện thực và chẳng hơn gì lời đồn đại vì không có ai trong dòng họ Vương bị giết cả. Làng Vương Tam Lý trên bờ sông Hoàng Hà, vốn là làng của bộ tộc bà lão Vương, chưa hề trông thấy một tên Nhật nào hết. Thành thử họ có bàn bạc gì về bọn Nhật thì cũng chỉ nói có thế thôi.
Đó là một buổi chiều đầu mùa hạ, và sau bữa ăn chiều, bà cụ Vương leo các bậc lên đê, như mọi ngày, để xem mực nước sông đã dâng đến đâu. Bà sợ con sông này hơn bọn Nhật. Bà biết con sông có thể làm gì. Và lần lượt, dân làng theo bà lên đê và giờ đây, họ đứng đăm đăm nhìn dòng sông nước vàng đục tinh quái cuộn mình như một bầy rắn nghiến ngấu cắn vào bờ đê cao.
- Ta chưa bao giờ thấy nó lên cao thế vào cỡ này, bà Vương nói. Bà ngồi xuống một cái ghế tre do gã cháu nội Tiểu Trư mang tới cho bà và nhổ xuống nước.
Cái con sông quỷ già này còn tệ hơn bọn Nhật, Tiểu Trư nói bạt mạng.
- Đồ ngu dại? Bà Vương vội mắng. Khéo Hà Bá nghe thấy đó. Nói chuyện gì khác đi.
Thế là họ bàn tán về bọn Nhật… chẳng hạn, anh Vương chủ lò bánh, cháu gọi bà cụ Vương bằng bà bác, hỏi: làm sao nhận ra được bọn Nhật khi thấy chúng? Đến đây, bà cụ Vương quả quyết:
- Các cháu sẽ nhận ra được bọn chúng. Bà đã có lần trông thấy một người nước ngoài. Y còn cao hơn mái chùa nhà bà, tóc màu bùn và mắt màu mắt cá. Kẻ nào trông không giống chúng ta - đó là một tên Nhật.
Mọi người lắng nghe vì bà là người già nhất trong làng và bất kỳ điều gì bà nói ra đều giải quyết một vấn đề gì đó. Thế rồi Tiểu Trư lên tiếng theo cái lối đâm ngang của gã:
- Bà không nhìn thấy chúng được đâu, bà ạ, chúng nó nấp ở trên trời, trong những chiếc máy bay.
Bà Vương không trả lời ngay. Giá như trước đây, ắt bà đã quả quyết: “Bao giờ ta trông thấy máy bay thì ta mới tin là có nó”. Song le, đã có biết bao điều bà không tin mà vẫn có thực - chẳng hạn, Hoàng hậu mà bà không tin là có thể chết, thì lại chết thật.
Lại nữa, như nền Cộng hòa, mà bà cũng chả tin vì bà không biết nó là cái gì. Bà không biết, nhưng bây giờ bà chỉ lặng lẽ nhìn quanh con đê, nơi tất cả đang ngồi quây lấy bà. Trời rất dễ chịu và mát rượi, bà thấy chẳng việc gì cả nếu nước sông không dâng to đến mức thành lụt lội.
- Ta chả tin là có bọn Nhật, bà nói dứt khoát.
Mọi người cười bà một chút, nhưng không ai nói gì. Có người châm ống điếu cho bà - đó là vợ Tiểu Trư, cháu dâu cưng của bà - Và bà hút.
- Hát đi, Tiểu Trư! - Một người nào đó đề nghị. Thế là Tiểu Trư hát một bài hát cổ bằng một giọng cao, run run. Bà lão Vương nghe và quên hẳn bọn Nhật. Buổi chiều thật đẹp, trời quang tĩnh đến nỗi rặng liễu rủ trên đê soi bóng xuống cả dòng nước ngấu bùn. Mọi vật đều yên bình. Hơn ba mươi nóc nhà họp thành làng tãi ra rải rác mé dưới. Không gì có thể phá vỡ sự yên bình này. Nói cho cùng, bọn Nhật cũng là người.
- Bà vẫn nghi ngờ những cái máy bay ấy, bà nhẹ nhàng nói với Tiểu Trư khi anh ngừng hát.
Nhưng không trả lời bà, anh lại tiếp sang bài khác.
Năm này sang năm khác, bà đã qua những buổi tối mùa hè như thế này trên mặt đê. Lần đầu tiên vào lúc bà mười bảy tuổi, vừa mới cưới, chồng bà kêu to gọi bà ra khỏi nhà để lên đê và bà tới náu trong đám phụ nữ, mặt đỏ bừng bừng và hai tay xoăn vào nhau vặn vẹo, trong khi cánh nam giới hò la và bỡn cợt bà. Mặc dù thế, họ đều mến bà: “Cậu vớ được miếng thịt bỏ bát thật ngon lành”, họ nói với chồng bà như vậy: “Chân khí to”, chồng bà đáp, vẻ không tán thành, nhưng bà có thể thấy là ông vừa ý, thế là bà dần dần hết nhút nhát bẽn lẽn.
Tội nghiệp, ông đã bị chết đuối trong một vụ lũ lụt từ hồi còn trẻ. Và bà đã mất bao nhiêu năm chạy thầy chùa cầu xin cho ông thoát khỏi ngục tĩnh tội.
Cuối cùng, bà đâm mỏi mệt, một phần cũng vì phải lo toan gánh vác tất cả, nào con nhỏ, nào ruộng vườn cho nên khi thiền sư ngon ngọt dỗ: “Mười quan tiền bạc nữa là anh ấy sẽ thoát khỏi hoàn toàn”, bà liền hỏi: “Vậy anh ấy còn mắc cái gì trong đó?”
- Chỉ còn bàn tay phải nữa thôi, nhà sư đáp.
Ấy thế là bà hết kiên nhẫn. Mười quan tiền bạc.
Chừng ấy đủ nuôi cả nhà bà đến hết mùa đông. Vả lại bà còn phải thuê lao động để đóng góp phần mình vào việc sửa chữa đê cho khỏi bị lụt nữa.
Nếu chỉ còn một bàn tay thì anh ấy có thể tự lực rút ra được bà rắn rỏi nói.
Bà vẫn thường tự hỏi: Tội nghiệp con người khờ khạo, chả biết anh ấy đã rút ra được chưa. Cũng như, ban đêm bà thường buồn bã nghĩ rằng ông ấy vẫn nằm đó, đợi bà làm một cái gì để cứu ông ấy, ông là loại người như thế đó. Thôi được có lẽ để khi nào vợ Tiểu Trư đẻ đứa con đầu lòng yên ổn trót lọt và bà dư dật thêm một chút, thì bà sẽ trở lại lo nốt việc cứu ông ra khỏi ngục tĩnh tội. Dù sao thì cũng chả thật vội lắm…
- Bà ơi, bà phải về đi thôi, giọng vợ Tiểu Trư nhẹ nhàng nói. Bây giờ, mặt trời đã lặn rồi, đang có sương mù dâng lên từ mặt sông.
Ồ chắc ta phải về thôi, bà lão Vương tán thành. Bà đăm đăm nhìn dòng sông một lúc. Cái con sông này, nó chứa đầy cả cái tốt lẫn cái xấu. Khi nào ngăn chặn cẩn thận, nó tưới nước cho ruộng đồng, nhưng hễ thả lỏng một vài phân là nó xô vỡ bờ như một con rồng gầm thét.
Chính chồng bà đã bị cuốn đi như thế - ông đã không trông nom cẩn thận đoạn đê của mình. Ông luôn luôn đi vá đê, luôn luôn đắp thêm đất lên mặt đê, thế rồi, trong một đêm, nước dâng cao và bục qua. Ông chạy ra khỏi nhà và bà bế đứa con trèo lên mái, nhờ đó hai mẹ con sống sót trong khi ông thì chết đuối. Thế rồi họ lại đẩy con sông trở về sau những thân đê và lần này, nó đã ở lại đấy. Ngày ngày, bà đích thân đi tới đi lui, xem xét đoạn đê được giao cho làng phụ trách. Cánh nam giới cười nói với nhau: “Nếu đê có làm sao thì có bà nội báo cho chúng ta biết”.
Chẳng bao giờ có ai trong số họ nảy ra ý nghĩ chuyển làng cách xa dòng sông. Họ Vương đã sống ở đây bao đời, một số thế hệ luôn luôn thoát khỏi nạn lụt và càng chiến đấu với con sông dữ dằn hơn bao giờ hết.
Đột nhiên, Tiểu Trư ngưng hát.
- Trăng đang lên kìa! Anh kêu lên. Thế là không tốt đâu, máy bay thường đi vào những đêm sáng trăng.
- Mày học ở đâu những điều đó về máy bay vậy? Bà lão Vương thốt lên. Tao thấy phát ớn, bà nói thêm, giọng nghiêm nghị đến nỗi không ai dám lên tiếng. Trong sự im lặng đó, bà vịn vào cánh tay vợ Tiểu Trư, chậm rãi bước xuống những bậc đất dẫn vào làng, tay kia dùng chiếc ống điếu làm gậy chống.
Đằng sau bà, dân làng từng người một lục đục theo xuống đi ngủ. Không ai dám ra về trước bà, nhưng cũng không ai ở lại lâu sau khi bà đã về.
Và cuối cùng, trong chiếc giường của mình đằng sau những rèm vải bông xanh ngăn muỗi mà vợ Tiểu Trư cài ghép thật kín, bà thiếp đi trong giấc ngủ bình yên. Trước đó, bà đã nằm thao thức một lúc, nghĩ về bọn Nhật và thắc mắc tại sao chúng lại muốn đánh nhau. Chỉ có những kẻ rất thô lỗ mới muốn chiến tranh. Bà hình dung trong óc những người to lớn thô lỗ. Nếu họ đến, ta phải dỗ ngọt họ, bà nghĩ, mời họ uống trà và giảng giải cho họ hiểu phải trái - có điều, tại sao họ lại phải đến một cái làng nông nghiệp thanh bình? Cho nên, bà hoàn toàn không chờ đợi vợ Tiểu Trư thét lên bảo bà là bọn Nhật đã đến, bà ngồi dậy trên giường, miệng lẩm bẩm: “Các chén trà đố trà…”
- Bà, không có thì giờ đâu! Vợ Tiểu Trư la. Chúng đến đây rồi… Chúng đến đây rồi.
- Đâu? Bà lão Vương hỏi to, lúc này đã tỉnh hẳn.
- Ở trên trời? Vợ Tiểu Trư rền rĩ.
Thế là họ chạy cả ra, trong tang tảng bình minh và ngước nhìn lên. Trên kia, như đàn ngỗng trời bay trong mùa thu, có những hình chim to đùng.
- Cơ mà chúng là cái gì vậy? Bà lão Vương kêu lên.
Thế rồi, như một quả trứng bạch rơi, một cái gì trôi thẳng xuống và rớt vào một cánh đồng ở đầu đằng kia làng. Một cột đất phụt lên và tất cả chạy tới xem. Thấy một cái hố đường kính khoảng gần mười mét, to như cái ao. Họ sửng sốt không thốt nên lời, thế rồi, chưa ai kịp nói gì thì một quả trứng nữa và một quả nữa đã lại bắt đầu rơi và tất cả mọi người đều chạy, chạy…
Tất cả mọi người có nghĩa là trừ bà cụ Vương.
Khi vợ Tiểu Trư nắm tay bà để lôi đi, bà cụ Vương giật ra và ngồi xuống, dựa vào bờ đê.
- Bà không thể chạy được, bà nói. Bảy mươi năm nay, bà không chạy, vì trước đó bà đã bó chân. Cháu đi đi! Tiểu Trư đâu rồi? Bà nhìn quanh. Tiểu Trư đã biến mất rồi.
Y như ông nội nó, bà nhận xét, bao giờ cũng chạy trước tiên.
Nhưng vợ Tiểu Trư không muốn để bà lại, có nghĩa là chỉ chịu rời khi bà nhắc rằng đó là bổn phận của cô.
- Nếu Tiểu Trư chết, bà nói, thì điều cần thiết là con trai nó phải được sinh ra trót lọt. - Và khi cô gái vẫn còn chần chừ, bà lấy chiếc ống điếu gõ nhẹ vào cô “Đi đi, đi đi” bà kêu lên.
Thế là, một cách miễn cưỡng, bởi lúc này, hai bà cháu gần như không nghe thấy nhau vì tiếng gầm rú của những chiếc máy bay bổ nhào, vợ Tiểu Trư đành chạy đi cùng những người khác.
Lúc này, mặc dù mới có mấy phút trôi qua, làng đã tan tành và những mái rạ cùng rui mè gỗ đang cháy đùng đùng. Tất cả mọi người đều bỏ chạy. Qua chỗ bà cụ Vương, họ la bà đi theo và bà vui vẻ đáp lại:
- Ta đi đây… ta đi đây?
Nhưng bà không đi. Bà ngồi lại một mình: giờ đây, bà đang theo dõi một cảnh tượng phi thường.
Vì chẳng mấy chốc đã có mấy chiếc máy bay khác đến, bà chẳng biết là từ đâu, nhưng chúng đánh những chiếc lúc đầu. Mặt trời chiếu xuống những cánh đồng lúa đang chín và trong không khí mùa hè trong veo, đám máy bay phăng phăng lao vun vút và khạc vào nhau. Khi nào kết thúc cuộc này, bà nghĩ bụng, bà sẽ quay về làng xem có sót lại gì không. Đó đây một bức tường vẫn còn đứng vững chống đỡ cho một cái mái, từ đây, bà không nhìn thấy nhà mình được. Nhưng bà không phải không quen với chiến tranh. Có lần, bọn đạo tặc đã đến cướp phá làng và hồi đó, nhà cửa cũng bị đốt. Ờ bây giờ chuyện đó lại xảy ra. Đốt nhà thì có thể là chuyện thường thấy, nhưng cái trò giao tranh loang loáng ánh bạc, lao vun vút trong không trung này thì chưa hề. Bà chẳng hiểu mô tê gì cả, những vật đó là gì? Làm sao chúng trụ lại được ở trên trời, thật không biết đằng nào mà lần. Bà đành chỉ ngồi nhìn, mỗi lúc một đói.
“Mình những muốn nhìn một chiếc ngay gần kề” bà nói to ý nghĩ của mình. Và giữa lúc đó, như đáp lại nguyện ước của bà, một chiếc trong đám đột nhiên chúc xuống và lão đảo xoay lộn như bị thương, nó đâm xuống một cánh đồng mà Tiểu Trư vừa mới cày vỡ hôm qua để gieo đậu tương. Và phút chốc bầu trời lại trống không và trên mặt đất chỉ còn cái vật bị thương này cùng bản thân bà.
Bà thận trọng nhấc mình lên khỏi mặt đất, ở tuổi này, bà chẳng cần phải sợ cái gì. Bà quyết định là mình có thể lại gần xem nó là cái gì. Thế là, chống chiếc ống điếu bằng tre, bà chậm rãi đi qua cánh đồng. Đằng sau bà, trong sự yên tĩnh đột ngột, vài ba con chó làng xuất hiện và đi theo, len lén trườn mình bám sát bà. Khi đến gần chiếc máy bay rơi, chúng sủa như điên. Rồi bà lấy chiếc ống điếu đánh chúng:
- Im, bà mắng, vừa mới đây cũng đủ ầm ĩ để vỡ tai tao rồi còn gì.
Bà gõ gõ vào chiếc máy bay.
Kim loại, bà bảo lũ chó. Chắc chắn là bạc đây, bà nói thêm. Đem nấu chảy ra, cả làng sẽ giàu to.
Bà đi quanh, xem xét thật kỹ. Cái gì làm cho nó bay được nhỉ? Nom nó như chết rồi. Không có gì động đậy hoặc phát ra tiếng gì bên trong nó. Rồi đi sang mé nó lật nghiêng, bà trông thấy một gã trai trẻ trong đó, rụm xuống thành một đống trong chiếc ghế nhỏ. Lũ chó gầm gừ, nhưng bà lại đánh và chúng lùi lại.
- Cậu chết rồi? Bà lễ phép hỏi.
Gã trai trẻ, nghe tiếng bà, gã cử động nhưng không nói gì. Bà tiến lại gần hơn và ngó vào cái hốc chỗ gã ngồi. Mạn sườn gã chảy máu.
- Bị thương! Bà kêu lên. Bà nắm lấy cổ tay gã.
Cổ tay ấm nhưng cứng đơ, và khi buông ra, nó rơi bịch vào thành cái hốc. Bà nhìn gã chòng chọc. Tóc gã đen, da ngăm ngăm như người Trung Hoa.
“Chắc cậu ta là người phương Nam”, bà nghĩ thầm. Chà, điều chủ yếu là gã còn sống.
- Cậu nên chui ra thì hơn. Già sẽ đắp cỏ thuốc vào mạn sườn cho cậu.
Gã thanh niên lý nhí điều gì nghe không rõ.
- Cậu bảo gì? Bà hỏi. Song gã không nhắc lại.
‘Ta hãy còn khỏe chán”, bà cả quyết như vậy sau một lát. Thế là bà vươn tay vào, ôm lấy ngang lưng gã vừa từ từ kéo gã ra, thở hổn hà hổn hển. May sao, gã là người nhỏ con và rất nhẹ. Khi bà đưa được gã xuống đất, gã có vẻ như tìm thấy lại được chân mình; gã đứng run rẩy, bám lấy bà và bà xốc gã lên. - Bây giờ, nếu cậu đi được về nhà già, bà nói. Già sẽ xem xét có cỏ thuốc ở đấy không?
Rồi gã nói một câu gì rất rành rõ. Bà lắng nghe và không hiểu một tiếng nào. Bà lùi ra khỏi gã và nhìn chằm chằm.
- Cái gì thế? Bà hỏi.
Gã chỉ lũ chó. Chúng đang đứng gầm gừ, lông cố dựng đứng. Rồi gã lại nói, đang nói thì gục xuống đất. Lũ chó xô đến, thành thử bà phải vung hai tay đánh đuổi chúng.
- Cút đi! Bà quát. Ai bảo chúng mày định giết cậu ấy.
Thế rồi, sau khi chúng lùi lại, bà xoay xở cách nào đó vực được gã lên lưng mình, và run rẩy, nửa cõng nửa kéo lê, bà tha gã về một ngôi làng bị tàn phá và đặt gã trên đường để đi tìm nhà, dắt cả lũ chó theo sau.
Nhà bà đi tong rồi. Bà tìm thấy chỗ đó khá dễ dàng: Nó đối diện với cửa cống ăn vào đê. Trước đây, chính bà vẫn thường ngắm nhìn cái cửa cống ấy.
Thần tình làm sao, giờ đây nó không hề bị hư hại, con đê cũng không vỡ. Dựng lại nhà thì cũng khá dễ thôi. Có điều hiện tại, nó đi tong rồi.
Cho nên bà quay trở lại chỗ gã thanh niên. Gã nằm y nguyên trong tư thế bà đã đặt gã, dựa vào bờ đê, thở hổn hển và tái xanh tái xám. Gã đã mở phanh áo ngoài và cầm một cái túi nhỏ, lấy ra những băng vải, cùng một lọ đựng thứ gì đó. Và gã lại nói, và bà không hiểu mô tê gì. Gã bèn ra hiệu và bà thấy là gã cần nước, cho nên bà nhặt một chiếc bình vỡ trong đám vô số bình lọ vung vãi trên đường và lên đê múc đầy nước sông, mang xuống, rửa vết thương cho gã, và bà xé những dải gã rút ra từ những cuộn băng. Gã biết cách đắp vải lên. Vết thương hoác miệng và gã ra dấu cho bà theo đó mà làm. Suốt thời gian đó, gã cố nói cho bà điều gì, song bà chẳng hiểu gì sất.
- Chắc là cậu ở phương Nam đến, bà nói. Cũng dễ thấy là gã có học vấn. Nom gã rất thông minh.
- Già nghe cậu nói tiếng khác với tiếng vùng này.
Bà khẽ cười một chút để khiến gã yên tâm thoải mái, song gã chỉ lầm lầm nhìn bà bằng cặp mắt lờ đờ. Cho nên bà tươi tỉnh nói:
- Giờ mà già này kiếm được cái gì cho hai ta ăn thì hay quá.
Gã không trả lời. Thực tế, gã nằm ngất ra sau, thở dốc nặng nề hơn và trân trân nhìn vào khoảng không như thể bà chẳng nói gì.
- Có cái ăn, cậu sẽ đỡ hơn, bà nói tiếp. Già cũng thế, bà nói thêm. Bà bắt đầu cảm thấy đói không sao chịu nổi.
Bà chợt nghĩ ra là ở cửa hàng anh Vương, có thể có chút bánh mì. Cho dù có lấm bụi vì vữa đổ thì vẫn cứ là bánh mỳ. Bà sẽ tới xem. Nhưng trước khi đi, bà dịch gã lính đi một tý cho gã nằm vào mép bóng râm của một cây liễu mọc trên bờ đê. Rồi bà đến cửa hàng bánh. Lũ chó đã đi khỏi rồi.
Như mọi thứ khác, cửa hàng bánh cũng tan hoang, không có ai ở đó. Thoạt đầu, bà không trông thấy gì ngoài đống vách sập đổ. Nhưng rồi bà nhớ ra rằng lò ở ngay bên trong cửa ra vào, mà khung cửa thì còn đứng thẳng, đỡ một đầu hồi mái. Bà đứng giữa khung cửa ấy, và đưa tay lần lần dưới lốp mái đổ bên trong, bà sờ thấy cái vung gỗ của cái chảo sắt. Bên dưới vung, có thể có bánh mỳ hấp. Bà nhẹ nhàng, thận trọng luồn cánh tay vào. Mất một lúc lâu, nhưng ngay cả nhẹ tay thế mà vôi, bụi cũng bốc mù lên khiến bà nghẹn thở. Tuy nhiên, bà đã đoán đúng. Bà lách bàn tay dưới vung chảo và sờ thấy lớp cùi mịn chắc của những ổ bánh mỳ hấp và lần lượt lôi ra bốn ổ.
Khó mà chết nổi đồ cóc già như ta đây, bà vui vẻ nhận xét chẳng với ai cả trên đường về, bà bắt đầu ăn một ổ. Giá có một mẩu tỏi và một chén trà… song thời buổi này, người ta không thể có đủ mọi thứ được.
Chính lúc ấy, bà nghe thấy có những tiếng người.
Khi đến quãng có thể thấy gã lính, bà trông thấy một đám lính khác chẳng biết từ đâu đến vây quanh gã. Họ đứng nhìn xuống gã thương binh lúc này đang nhắm nghiền mắt.
- Mẹ già ơi, mẹ vớ đâu được tên Nhật này vậy? Họ la hỏi bà.
- Tên Nhật nào? Bà bước đến chỗ họ, hỏi.
- Tên này! Họ nói lớn.
- Cậu ta là một tên Nhật à? Bà kêu lên, kinh ngạc hết sức. Cơ mà nom cậu ấy giống như chúng ta… mắt cậu đen… da cậu…
- Nhật đấy! Một người trong bọn họ hét lên với bà.
- Ờ bà điềm tĩnh nói, cậu ta từ trên trời rơi xuống.
- Cho tôi mấy ổ bánh mỳ ấy! Một người khác thét!
- Lấy đi, bà nói, trừ ổ này để cho cậu ấy.
- Để cho một con khỉ Nhật ăn bánh mỳ thơm ngon à? Người lính nọ quát.
- Ta đồ rằng cậu ấy cũng đói chứ, bà lão Vương đáp. Bà bắt đầu ghét bọn này. Song le, xưa nay bao giờ bà cũng vẫn ghét bọn lính tráng.
- Ta muốn các người đi khỏi đi, bà nói. Các người làm gì ở đây? Làng ta xưa nay vẫn yên bình.
- Quả thật là giờ đây làng mẹ nom rất yên bình đấy, một gã trong bọn nhe răng cười nói, yên bình như một nấm mồ vậy.
- Ta đồ là thế, bà tán thành. Rồi bà hỏi: Tại sao nhỉ? Đấy là điều ta không hiểu.
- Tại sao ư? Vì chúng muốn chiếm đất đai của ta, thật thế đấy.
- Đất đai của ta! Bà lặp lại. Chà? Chúng không thể lấy đất đai của ta được.
- Không bao giờ? Họ hét lớn.
- Nhưng suốt thời gian đó, trong khi họ vừa nói chuyện vừa nhai bánh mỳ đã chia cho nhau, họ luôn quan sát chân trời phía đông.
- Tại sao các người cứ nhìn hoài về hướng đông thế. Bà lão Vương hỏi.
- Bọn Nhật từ phía đó tới, gã lấy bánh mỳ trả lời.
- Các người chạy trốn bọn chúng à? Bà ngạc nhiên, hỏi.
- Bọn tôi chỉ có một dúm người, gã phân trần.
- Bọn tôi được để lại bảo vệ một làng - làng Bảo An thuộc hạt.
- Ta biết làng ấy, bà cụ Vương ngắt lời. Cậu không cần phải nói dài dòng. Hồi con gái, ta đã ở đấy. Ông lão Bảo chủ tiệm trà ở phố chính ra sao rồi? Đó là anh trai ta đấy.
- Mọi người ở đó đều chết cả rồi, gã kia đáp. Bọn Nhật đã chiếm làng - một đạo quân lớn đã đến cùng với súng ống ngoại quốc và xe tăng, vậy bọn tôi làm gì được?
- Cố nhiên chỉ còn cách tẩu thoát mà thôi bà tán thành.
Tuy nhiên, bà cảm thấy choáng váng, sây sẩm. Vậy là ông anh trai duy nhất còn lại của bà đã chết! Giờ đây bà là người cuối cùng của gia đình cụ thân sinh ra bà.
Nhưng bọn lính lại tản đi, để bà lại một mình.
- Chúng sẽ đến đây, cái bọn lùn đen trụi ấy, họ nói. Tốt hơn hết là chúng ta đi tiếp thôi.
Tuy nhiên, một người - anh chàng xin bánh mỳ - nán lại một lúc đăm đăm nhìn gã thanh niên bị thương từ nãy nằm không nhúc nhích, mắt nhắm nghiền.
- Nó chết chưa? Anh ta hỏi. Rồi, bà Vương chưa kịp trả lời anh ta đã rút từ thắt lưng ra một con dao ngắn. - Chết hay không, tôi cũng phải cho nó một vài nhát dao này…
Nhưng bà lão Vương đã đẩy anh ta ra.
- Cậu không được thế, - bà hách dịch nói. - Nếu nó chết rồi thì hà chi phải để nó mang cái xác nát bươm xuống ngục tĩnh tội. Chính ta đây cũng là một phật tử tin thành.
Anh chàng cả cười: “À, thì thôi, nó chết rồi”, anh ta đáp; rồi thấy đồng đội đã cách xa, anh bèn chạy theo.
Đây là một tên Nhật ư? Còn lại một mình với cái thân hình bất động, bà thử nhìn kỹ nó. Lúc này, mắt gã nhắm nghiền, bà có thể thấy gã thật trẻ măng. Bàn tay mềm oặt trong cơn bất tĩnh, nom như tay trẻ con, chưa định hình và còn đang phát triển. Bà sờ nắn cổ tay gã, nhưng không thấy tí mạch nào. Bà cúi xuống, gí vào môi gã nửa ố bánh mỳ bà chưa ăn tới.
- Ăn đi, bà nói rất to và rất rành rọt, bánh mỳ đấy!
Nhưng không hề thấy trả lời. Rành là gã chết rồi. Chắc là gã chết trong khi bà đang moi bánh trong lò ra.
Vậy chả còn gì khác để làm ngoài việc tự bà ăn nốt ổ bánh mỳ. Và ăn xong, bà tự hỏi chẳng biết mình còn cần phải đi theo vợ chồng Tiểu Trư và toàn thể dân làng hay không? Mặt trời đang lên và mỗi lúc một nóng. Nếu phải đi thì đi luôn cho được việc. Nhưng trước hết bà phải leo lên đê để xem hướng đã. Họ đã đi thẳng về hướng tây và mạn này là một dải đồng bằng lớn trải đến tận cuối tầm mắt. Thậm chí bà có thể nhìn thấy một đám đông cách hàng dặm. Dù sao di nữa, bà cũng có thể nhìn thấy làng bên và có lẽ họ đang ở đó.
Thế là bà chậm rãi leo lên đê, người nóng ran. Tới mặt đê, có một ngọn gió hây hẩy, thật dễ chịu. Bà choáng người thấy nước sông mấp mé ngọn đê. Chà, nó vừa mới lên trong giờ qua.
- Đồ quỷ già. Bà nghiêm nghị nói. Mặc cho Hà Bá nghe thấy nếu ông ấy muốn.
- Ông ấy thật là ác, thế đấy - giữa lúc có bao chuyện rối ren thế này, lại còn dọa lụt nữa.
Bà cúi xuống, vã nước vào má và cổ tay. Nước mát lạnh, hình như ở nơi nào đó vừa mới mưa. Rồi bà đứng dậy nhìn quanh. Phía tây không có gì ngoài tốp lính vẫn nửa đi nửa chạy ở tận xa và đằng trước họ là làng bên in mờ mờ trên một gò đất dài. Tối mai là bà đến làng ấy. Chắc hẳn vợ chồng Tiểu Trư đang chờ bà ở đó.
Bà vừa toan xuống khỏi mặt đê và khởi hành thì trông thấy một cái gì đó trên đường chân trời phía đông. Thoạt đầu chỉ là một đám mây bụi rất lớn. Nhưng khi bà nhìn kỹ lại nó rất nhanh chóng trở thành một lô những chấm đen và những vật lấp lánh. Rồi bà thấy ra đó là cái gì. Đó là một đám người một đạo quân. Bà lập tức biết đó là đạo quân nào.
“Đó là bọn Nhật”, bà nghĩ bụng. Phải, bên trên chúng là những máy bay cánh bạc vè vè. Chúng lượn vòng như đang tìm kiếm ai.
“Ta chẳng biết chúng bay đang tìm ai”, bà lẩm bẩm, “Trừ phi là ta và vợ Tiểu Trư. Cả họ chỉ còn mấy bà cháu ta. Chúng bay đã giết ông anh Bảo của ta rồi”.
Bà đã gần như quên là ông Bảo đã chết. Giờ thì bà nhớ lại rất rõ nét. Ông có cái tiệm thật tuyệt. - Lúc nào cũng sạch tươm, trà ngon và bánh bao nhân thịt, giá lúc nào cũng thế. Ông Bảo là người tốt. Ngoài ra, còn bà vợ và bảy đứa con ông thì làm sao? Chắc họ cũng đã bị giết cả rồi. Bây giờ, những tên Nhật ấy đang tìm bà. Bà chợt nghĩ ra là chúng có thể dễ dàng nhìn thấy bà ở trên đê. Thế là bà lật đật bò xuống.
Xuống đến nửa chừng, bà bỗng nghĩ đến cái cửa cống. Cái con sông già cốc đế này, từ thuở ban sơ, chỉ độc gieo tai họa cho người. Tại sao bây giờ nó không thể bù đắp lại chút ít mọi thứ độc ác nó đã làm nhỉ? Nó lại đang mưu toan điều độc ác định lén trào qua bờ. Ờ, tại sao lại không nhỉ? Bà phân vân một lúc. Cố nhiên, thật đáng tiếc là cậu thanh nhiên Nhật vừa chết sẽ bị cuốn vào dòng nước lụt. Cậu ta nom thật xinh trai và bà đã cứu cậu ta khỏi bị đâm nát người. Cố nhiên, chả bằng cứu sống cậu ta, song kể ra cũng gần gần như thế. Nếu cậu ta còn sống thì chắc hẳn sẽ được cứu thoát. Bà đến gần gã kéo lên đến bờ đê. Rồi bà lại đi xuống.
Bà thừa biết cách mở cống. Bất kỳ đứa trẻ con nào cũng biết mở cửa kênh dẫn thủy nhập điền.
Nhưng bà còn biết cách mở toang cánh cửa cống lớn nữa kia. Vấn đề là liệu bà có thể mở đủ nhanh để né tránh kịp không? “Ta chỉ là một mụ già mà thôi”, bà lẩm bẩm. Bà lưỡng lự thêm một giây nữa.
Ờ kể ra cũng tiếc là không được thấy đứa bé vợ Tiểu Trư đã sinh ra, thế nhưng con người ta không thể thấy hết được mọi thứ. Bà đã thấy ối sự việc trên đời này. Dù sao đi nữa cũng phải có lúc kết thúc những điều mình thấy.
Bà lại liếc về phía đông. Bọn Nhật đang đi qua dải đồng bằng. Một tuyến đen dài, điểm hàng nghìn chấm lấp lánh. Nếu bà mở cái cửa cống này, dòng nước hung dữ sẽ ầm ầm đổ về phía chúng. Ào vào cánh đồng, cuộn sóng thành một con hồ rộng nhấn chìm chúng cũng nên.
Chắc chắn chúng sẽ không thể tiếp tục tiến lại gần bà, gần vợ chồng Tiểu Trư đang chờ bà ở đằng kia. Ờ, hai vợ chồng Tiểu Trư… chúng sẽ thắc mắc về bà - Nhưng chúng sẽ không bao giờ ngờ rằng sự việc lại như thế này. Thành một câu chuyện hay đấy - già bà có thể kể được cho ai nghe thì khoái biết mấy.
Bà quả quyết quay về phía cửa cống, ờ, có người chiến đấu bằng máy bay, có người bằng súng ống, nhưng người ta cũng có thế chiến đấu bằng một con sông nếu như nó dữ dằn như con sông này. Bà vặn mạnh một cái chốt gỗ to tướng giật ra. Nó đầy rêu xanh bạc, trơn tuột. Nước vọt ra thành một tia mạnh. Khi nào bà giật thêm một chốt nữa, những cái còn lại sẽ tự khắc bật ra thôi. Bà bắt đầu kéo và cảm thấy nó tuột ra khỏi lỗ một chút.
“Làm thế này, mình có thể thoát được tình tội”, bà nghĩ, “và biết đâu họ chả để cho mình đem theo ông xã luôn thể. Một bàn tay của ông ấy so với cái này thì nghĩa lý gì? Thế rồi chúng mình sẽ…”.
Cái chốt đột ngột tuột hẳn ra và cánh cửa bung mạnh, đập vào người bà, làm bà không thở được.
Bà chỉ còn kịp há mồm bảo con sông:
- Làm tới đi, con quỷ già!
Rồi bà cảm thấy nó túm lấy bà, tung lên trời. Nó ở bên dưới bà và xung quanh bà. Nó vui vẻ lăn bà ra chỗ này chỗ kia và rồi, bao bọc và ôm chặt lấy bà, nó ào ào lao tới quân thù.
Dương Tường dịch.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Christiane

Re: Gái Hai Chồng (Tuyển Tập Truyện Ngắn Giải Nobel)

Postby bevanng » 01 Feb 2016

TUYẾT BỖNG NHIÊN RƠI
Sihabaki Yoshiko Nhà văn Nhạt Bản - Giải thưởng quốc gia

Chuyến tàu tới ga Shibuya đã gần tối. Kanako nhìn xuống những đường phố phía dưới qua cửa sổ toa tàu. Tín hiệu giao thông trên đường tới Dogenzaka hẳn là đã chuyển sang màu xanh, vì những đoàn người tràn lên, lấp kín cả con đường. Kanako cảm thấy thực ra họ chỉ là những sinh vật bị xô đẩy, cuốn đi trên đường một cách vô nghĩa. Con tàu từ từ dừng lại trên sân ga.
Kanako xuống tàu, vào sân ga, hòa nhập trong đám đông rộng lớn. Đường phố về đêm giống một dòng sông ảm đạm, tối tăm: không chịu trôi nổi theo dòng, con người bị cuốn đi và sau đó, bị nhấn chìm. Có quá nhiều linh hồn lang thang phiêu bồng vô mục đích trong thành phố này. Những người giống như cô, không nhà cửa, không gia đình, bước vẩn vơ đây đó. Kanako không coi những căn hộ như những cái hộp trong các tòa nhà bằng gỗ và xi măng là những mái ấm. Cô cũng không nghĩ rằng chỉ cần sống với nhau đủ khiến cho một người đàn ông và một người đàn bà làm thành một gia đình. Vì như thế chăng mà đến giờ cô vẫn chưa tìm được điều có thể an ủi cô?
Cô nhằm hướng Dogenzaka cho đến khi tới một tòa nhà nằm bên phải đường, trèo lên một cầu thang dẫn tới một quán ăn nhỏ trên lầu hai. Đây là nơi cô và Horie Nobutaka gặp nhau để ăn tối mỗi tháng một lần. Có lẽ vì vẫn còn sớm, một chỗ ngồi cạnh cửa sổ còn trống, chừng nào còn có thể ngắm nhìn dòng suối người qua lại trên vỉa hè, cô không lo bị muộn. Người này theo sau người kia, đám người dường như là một tồn tại vật chất nhưng rồi họ lại biến mất vào trong bóng đêm trống rỗng. Hôm nay, khi Kanako rời phòng thiết kế Shima sau giờ làm việc, Shima gọi cô lại. Hôm nay là ngày phát lương và không ai làm thêm giờ vào ngày phát lương trong phòng thiết kế vốn thường xuyên bận rộn này. Tất nhiên, cái phòng thiết kế chỉ chiếm một phòng trong một tòa nhà công sở nhỏ bé ấy, kể cả chỉ có năm nhân viên. Kanako là người phụ nữ duy nhất trong phòng, vì vậy nhiệm vụ chính của cô là pha trà, nhưng sau một năm làm việc, cô đã theo học hai năm ở một lớp ban đêm tại một viện thiết kế nên giờ đây cô được giao một số việc thiết kế thực sự.
“Mọi người sẽ đến đón Noel ở nhà tôi đấy nhé. Seki sẽ đi với một người khách nữa. Tôi sẽ giới thiệu ông ta với cô. Cái đầu dài của Shima lúc lắc khi ông nói. Seki là một người bạn thường đến phòng thiết kế thăm Shima. Kanako ngẩng lên, mỉm cười. Mỗi năm, vào dịp Noel, cả phòng lại được mời đến nhà Shima và được vợ ông, Yoshiko, một người đàn bà hoạt bát nấu ăn rất khéo, đón tiếp hết sức nồng nhiệt. Mặc dù Kanako, trong những công việc xã hội, luôn cảm thấy bị gạt ra ngoài nhưng, cuộc sống bình thường thì đôi lúc, rõ ràng có lôi cuốn sự chú ý của cô.
Thực khách bắt đầu ngồi xuống những bàn khác trong quán ăn, nhưng vẫn chưa thấy bóng dáng Nobutaka đâu cả. Điều đó khiến Kanako nghĩ rằng anh có thể sẽ không đến. Anh luôn luôn đến muộn, và lúc ngồi đợi, Kanako không khi nào gạt bỏ được ý nghĩ có thể anh sẽ không đến. Căn hộ của anh rất gần căn hộ của cô, ở cùng một ga xe lửa, có thể đi bộ đến, nhưng Kanako luôn cảm thấy một ngày nào đó, Nobutaka bỗng dưng biến mất khỏi căn hộ của anh. Mặc dầu anh chỉ là một tác giả kịch bản loại hai, Kanako có thể tìm được anh nếu cô muốn làm. Nhưng cô quyết định không làm như vậy. Cô không biết gì hơn. Đơn giản là cô chỉ sống với cảm nghĩ thoáng qua rằng anh sẽ biến mất. Những căn hộ của họ chỉ là những cái hộp nhỏ, và vì thế, nếu ai trong số họ chuyển đến ở cùng trong nhà người kia thì cũng chỉ có chút ít thay đổi. Nhưng Nobutaka không đề nghị cô đến ở với anh - còn Kanako không bao giờ tự xúc tiến được chuyện đó. Qua chuyện trò, cô lò mò biết về quê anh và công việc của những người thân của anh, nhưng cô không chủ tâm để biết nhiều thông tin hơn nếu anh không muốn kể cho cô biết. Như với Kanako, thì cô chẳng có gì đặc biệt để có thể kể cho anh nghe về mình cả. Họ, cả hai, có lẽ giống như những thực vật thủy sinh, không gốc rễ, trôi dạt trong thành phố hoặc để mặc mình bồng bềnh nổi trên dòng sông ấy - đại loại như vậy - Và là những thành viên vô nghĩa của xã hội. Kanako thấu cảm sự trống rỗng của tình trạng tồn tại mà không có lấy một mái nhà, một nơi chốn để quay về cũng như sự cô độc của kẻ sớm mồ côi cha mẹ, chẳng có ai thân thích mà thăm viếng. Đôi khi cô mơ ước đến một mái nhà, một mảnh đất cô có thể nói đến như nơi chôn rau cắt rốn của mình.
Có lần, Kanako đã kể cho Nobutaka về cha cô, một công chức xoàng suốt đời di chuyển từ nơi này đến nơi khác theo những công việc được giao. Kanako đã đổi trường tiểu học bốn lần, và rõ nét hơn quê hương Chiba của mình, cô nhớ một ngôi nhà mà cha cô đã thuê ở vùng ngoại ô một thị xã gần một đại lộ cũ ở Gumma. Ngôi nhà có một vườn nhỏ, ở góc vườn có một cây bào đồng rất to. Ngôi nhà đó rộng hơn tất cả những ngôi nhà Kanako đã ở trước đó và từ mái hiên đầy nắng của nó, cô đã lần đầu tiên nhìn thấy những đóa hoa đỏ thẩm trổ bông trên cây bào đồng. Có một Ketatsu* lớn và sâu trong phòng khách, nơi Kanako từng ngồi ăn tối cùng cha mẹ và em trai cô những buổi tối mùa đông. Đó là lần cuối cùng cô được trải nghiệm sự ấm cúng, gắn bó của cuộc sống gia đình. Sau đó, Kanako chỉ còn nhớ những ngôi nhà xiêu vẹo trong gió. Cha mất năm cô tốt nghiệp phổ thông trung học, một năm sau, em cô cũng tốt nghiệp, nó rời nhà đến học trường đại học ở Hokkaido. Kanako tới Tokyo, làm việc cho một công ty xây dựng. Ba năm sau, cô thôi việc ở nơi đó, đến làm ở phòng thiết kế Shima. Cô đã đến dự phỏng vấn sau khi đọc rao vặt trên báo, chỉ băn khoăn không biết có được trả một món lương đều đặn hàng tháng không. Sau đó, cô nghe nói rằng có một sinh viên đại học dự phỏng vấn đã trả lời cô ta định dùng món thu nhập ở phòng thiết kế chỉ như một khoản tiền tiêu vặt.
*Chiếc bàn thấp có gắn thiết bị sưởi ấm, để sưởi chân.
Phòng thiết kế Shima thoạt đầu chỉ có ba nhân viên mà công việc chính là những thiết kế cho các nhà sản xuất hàng dân dụng. Nhờ các mối việc nhận được từ các nhà sản xuất, công việc của họ được ổn định và giờ đây họ đã có năm nhân viên. Biên chế khiêm tốn đó có nghĩa tất cả đều rất bận và hay phải làm thêm giờ. Công việc chồng chất cần thiết cho sự tồn tại của họ. Kanako phải đến học các lớp buổi tối ở viện thiết kế chính vì mong muốn đỡ được việc cho phòng trong khả năng mà cô có thể có.
Nobutaka hiện ra trên cầu thang của quán ăn. Dáng mảnh khảnh, gầy gò khiến anh có vẻ cao khều, khuôn mặt hốc hác, trông già hơn tuổi, nhưng ở anh không có nét gì mất thiện cảm. Mặc dù anh dễ nổi cáu, Kanako cảm thấy bị anh lôi cuốn mỗi khi anh thanh thản lại và mỉm cười hiền hậu, dễ thương. Khi anh bước lại gần, Kanako tự nhủ vậy là cuối cùng anh đã đến, vậy là cô vẫn cảm thấy anh một lần nữa hôm nay, nhưng với anh cô không nói gì cả. Họ ngồi đối diện nhau qua cái bàn, cả hai trước gió.
- Vì sao em lại nhìn anh như thế?
Câu hỏi của Nobutaka như chấm dứt dòng suy nghĩ của cô.
- Không có gì đâu.
Kanako nhìn qua cửa sổ xuống vỉa hè phía dưới. Đường phố chìm trong ánh sáng rực rỡ, diện mạo của những ngày cuối năm.
- Có nhiều người qua lại chen chúc quá nhỉ - Vì hôm nay là thứ bảy, em cho là thế. Harajuku chắc hẳn còn tệ hơn. Mọi người chen vai thích cánh bên nhau. Anh có ghét phải đụng chạm, xô đẩy với người khác không?
- Em đang nghĩ gì thế?
Anh nhìn xuống đường phố đông chật thanh niên, nhưng rồi anh nhanh chóng quay lại cầm tờ thực đơn lên. Tuy không bao giờ chọn món gì cầu kì, đặc biệt nhưng anh rất cẩn thận khi chọn món. Kanako sẽ ăn bất cứ món gì anh gọi. Anh ngồi trước mặt cô, thế là đầy đủ rồi. Cô cảm thấy bên anh, cô thôi không còn là một sinh vật phiêu dạt, lênh đênh.
Vì định vẽ một con bướm phát quang trong đồ án tốt nghiệp ở viện thiết kế, Kanako muốn có một loài bướm thật làm nguyên mẫu. Có người đã mách cho cô một hiệu bán các loài bướm trên phố Tekeshita, gần Omotesando ở Harajuku. Cô đã tìm đến đó vào một ngày chủ nhật. Phố Tekeshita, một thánh địa đối với giới trẻ Tokyo, thậm chí còn đông hơn cả Omotesando. Bày đầy các bộ quần áo và các loại trang phục đi kèm mốt nhất, những cửa hiệu ở cả hai bên đường buôn bán hết sức hối hả, sầm uất. Những chàng trai và cô gái, tay trong tay, vừa thả bước vừa mút những cái kem hình con ốc. Hiệu bán bướm ở lầu hai của một tòa nhà nằm trên con hẻm dẫn xuống phố. Tên trên cửa đề “Tropicana” (Vùng nhiệt đới). Một căn hộ nhỏ, được sửa sang thành cửa hiệu với hàng dãy những tủ đựng bướm. Sau khi cởi giày và chào người chủ trẻ, khách xem những con bướm đã được phân loại và xếp vào từng ngăn tủ. Đối với những giống bướm thường gặp, cứ chừng hai chục con được xếp đặt bên nhau một cách công phu, tỉ mỉ, đẹp như một mẫu họa tiết kimono. Những loài lớn hoặc hiếm được xếp riêng, một hoặc ba con vào một ngăn. Chưa bao giờ trong đời, Kanako được thấy thế giới đa dạng, phong phú đến như vậy của loài bướm. Người khách hàng đến trước cô đang trò chuyện với chủ hiệu. Người chủ nói rằng hè nào anh ta cũng đến Nam Hải bắt bướm và năm nay anh ta định đi Celebes. Người chủ hiệu đang ngồi trong khu vực làm việc chật hẹp nơi một cái bàn trên đó đặt một con bướm - đuôi - én, đôi cánh giăng rộng dưới những chiếc kim găm.
- Anh có thể bắt đủ số bướm ở Nam Hải để duy trì công việc kinh doanh không? - Người khách hàng hỏi, anh ta già hơn người chủ một chút.
- Có lần gặp may, tôi bắt được một con Graphium androcỉes, nhưng nó đẹp đến mức tôi không thể bán nó. Giống bướm này dùng đôi cánh trước để bay, kéo theo những đuôi dài, màu trắng. Tuyệt đẹp.
Bộc lộ vẻ phấn khích, người chủ lim dim đôi mắt một cách thích thú.
- Những nhà sưu tập bảo ông đi à?
- Những nhà tài trợ cho tiền, nhưng đối với một số loại bướm, ngay cả trả 300.000 yên tôi cũng không chịu rời ra.
Chủ hiệu vẫn tiếp tục câu chuyện với người khách hàng trong lúc anh ta lấy ra một con Papilio ulysses đưa cho Kanako. Người khách kia nhìn chằm chằm vào những con bướm trắng Kanako đang cầm.
Anthocharis, cardamỉnes ngón chân màu cam. Chúng giống hệt những bông hoa tuyết khi chúng bay? Anh ta lẩm bẩm. Những con bướm nhỏ, đẹp sắc sảo, tinh tế, trên cánh trắng điểm những đốm màu son. Kanako cũng hỏi mua một con bán với giá chỉ vài trăm yên, số khác, hàng chục ngàn yên, và có những con, tới hàng trăm ngàn yên. Kanako mua hai con trong một ngăn nhỏ rồi rời cửa hàng. Có một quán café ngay góc phố. Khi ngồi vào trong quán, Kanako mở những con bướm ra, cảm thấy chúng làm cô được an ủi đôi chút. Ngay cả sau khi chết hình dáng bất động và đôi cánh giang rộng của chúng vẫn cứ đẹp. Nơi loài bướm, con người đã hình tượng hóa niềm vui tái sinh và bay lượn một lần nữa trên những tầng trời. Ý tưởng về một mẫu thiết kế đã hình thành trong hình dung của Kanako. Một người đàn ông bước và quán, ngồi xuống chiếc ghế còn trông duy nhất, cạnh ghế của cô. Đó chính là người khách hàng cô đã gặp trong hiệu bướm Tropicana. Con người có thể thể hiện sự độc lập, tự chủ của mình bằng nhiều phương thức, nhưng đôi điều thì họ hoàn toàn quy phục sự sắp xếp của ngẫu nhiên hoặc định mệnh. Chính Kanako đã gặp Horie Nobutaka theo sự sắp xếp đó.
Ở bàn bên cạnh, một nhóm nam nữ sinh viên phổ thông trung học đang tán gẫu. Đề tài là về một cô giáo và họ có vẻ chẳng quan tâm đến trên dưới gì cả:
- Bà ấy đã là một bà già hai mươi sáu tuổi, cậu biết đấy, và bà ấy vẫn còn nghĩ về sex chứ. - Kanako giật mình quay đi.
Theo logic đó, chính cô đã ở vào tuổi mấp mé đến cái kết thúc buồn chán của cuộc sống. Một nụ cười hóm hỉnh, thoáng qua cũng xuất hiện trên miệng Nobutaka. Những giọng khàn khàn vỡ tiếng của các chàng sinh viên khiến họ rời khỏi quán café. Những người trẻ luôn rất ít trong số họ có thể được gọi là đàn bà và đàn ông, đang dạo bước trên phố xá Harajuku như những chủ nhân thực sự của nó. Còn Nobutaka và Kanako thì cả hai lại không sao thoát khỏi cảm giác ngượng ngập lúng túng đối với nơi này. Cảm giác ấy dường như cuốn họ đến gần nhau hơn. Ở ga Harajuku họ nhận ra rằng cả hai đều về tuyến Tokyo.
- Anh có thích bướm không? - Kanako hỏi.
- Tôi đã từng bẫy rất nhiều bướm khi tôi còn học ở trường cấp II.
- Anh có một bộ sưu tập không?
- Có một bộ sưu tập nhỏ ở quê, nhưng ở đây, trong căn hộ của tôi thì chỉ có chừng mười hộp. Chúng đều thuộc giống bướm Hairstreak.
- Hairstreak là loại bướm gì?
- Chỉ là những con bướm nhỏ, bình thường, không thú vị lắm.
- Xếp thành nhóm chừng ba bốn mươi con, ngay cả bướm nhỏ cũng đẹp.
- Tôi từng có một cô em gái yêu những con bướm chân màu cam vì vẻ dễ thương của chúng.
Hình như anh phát hiện ra điều mà anh đang động chạm tới và đột nhiên im lặng. Kanako nghĩ, có lẽ em gái anh đã mất lúc còn rất trẻ. Vì cô đã mua hai con bướm đẹp, Kanako bảo rằng, tới đây cô muốn có thêm một con bướm hairstreak.
- Tôi sẽ cho em những con bướm của tôi. Tôi chẳng cần chúng, chúng chỉ làm chật nhà. - Nobutaka nói.
- Có lẽ họ đã ngẫu nhiên trôi dạt bên nhau như hai chiếc lá ngập ngừng trong dòng nước lặng lờ của một khúc sông cạn. Sự ngẫu nhiên đã kết hợp họ với nhau, hai con người vốn không chủ động kết bạn với nhau cũng không đặc biệt khao khát kết bạn với những người khác. Tình thân đến với họ như do một sự đưa đẩy. Thời gian đó, Nobutaka đang ngồi viết những kịch bản truyền hình trong căn hộ của anh, xa hơn căn hộ của Kanako một ga tàu điện. Một nửa thời gian, anh làm cho một hãng sản xuất nhỏ, nửa thời gian còn lại, thực chất là anh thất nghiệp. Nobutaka hay đến căn hộ của cô vào buổi tối sau khi viết lách và quay về căn hộ của anh vào sáng hôm sau. Đôi khi suốt một tuần anh không tới. Kanako đợi và tự nhủ rằng câu chuyện đang đi đến hồi kết cuộc như vậy đấy. Cô sẽ không thể trách móc anh nếu anh không xuất hiện ở phòng cô nữa. Từ khởi đầu, chưa bao giờ có những lời hẹn hứa về tương lai, họ chỉ đơn giản có với nhau một quan hệ bản năng tự nhiên ở cái lứa tuổi mà ngôn từ trở nên không cần thiết. Vài ngày sau, Nobutaka có thể lại đến gõ cửa và Kanako sẽ thầm kêu lên một tiếng kêu khe khẽ, hoặc nhắm mắt lại trong chốc lát. Căn hộ của cô quá nhỏ. Nó chẳng phải một mái nhà, mà chỉ là một cái hộp. Thời gian cô và Nobutaka ở bên nhau là một thoáng nghỉ ngơi ngắn ngủi nơi sông nước lặng. Và chưa ai trong số họ khi nào thổ lộ niềm khao khát hay chờ đợi điều gì xa hơn, lớn hơn nữa.
Họ bắt đầu gặp gỡ nhau trong thành phố mỗi tháng một lần vào ngày trả lương của Kanako. Nó dường như là một cách thức khiêm nhường để thỏa mãn những thèm muốn của họ. Họ tránh những nơi những đôi trẻ trung hơn thường lui tới, họ thích đến một nơi nào đó người lớn hơn một chút ở Dogenzaka. Nobutaka có tài chọn những quán dễ chịu, biết gọi những đồ ăn ngon và phong cách bên bàn ăn của anh thật là tuyệt. Khi Kanako nói điều đó với anh, Nobutaka chỉ trả lời một cách giễu nhạo rằng anh là dân nhà quê.
Đêm nay, anh gọi món lưỡi hầm. Kanako không ưng lắm và cô đã hưởng ứng món ăn đó không mấy nhiệt tình.
- Nó ngon lắm. Sao em không ăn nữa?
Nobutaka dùng muỗng vét sạch món hầm của anh. Với Kanako thế là đủ cho cô hài lòng. Một năm sắp trôi qua, chỉ vài ngày nữa. Cô không biết năm tới sẽ mang đến điều gì: một năm nữa trên dòng chảy vô đích. Việc của Nobutaka sẽ chẳng đi đến đâu. Dưới cửa sổ, những người đi bộ biến vào trong bóng tối âm u.
- Anh nhận được thư của mẹ anh.
Anh có vẻ không biết phải tiếp tục ra sao. Kanako im lặng. Anh không bị buộc nói bất cứ điều gì nếu anh không muốn thổ lộ.
- Anh đã bao giờ kể với em về anh trai anh ở Mỹ chưa nhỉ? Vợ anh ấy sắp sinh cháu bé nữa, vì vậy anh ấy nhờ mẹ đến giúp đỡ. Bà viết thư báo rằng bà sắp đi. Sau khi anh đã khuyên là bà đã quá già đối với những công việc loại đó.
Kanako gật đầu. Cô biết mọi năm Nobutaka luôn về nhà đón Tết với mẹ anh.
- Tết năm nay ngôi nhà sẽ không có người ở đấy vì vậy mẹ muốn anh về trông nom nó.
- Vâng, một ngôi nhà trống thì không an toàn.
- Chẳng có gì đáng lấy đâu. Tất cả đều cũ kĩ lắm rồi?
Mặc dù Nobutaka nói vậy, cô vẫn khuyên anh chuẩn bị về nhà. Cô cảm thấy cực kì ghen tị với ai đó có một ngôi nhà để trở về. Ngôi nhà Nobutaka lưu giữ tất cả kỉ niệm của đời anh. Anh đã từng nói rằng quê anh là một làng ở Shiga, phía đông hồ Bitra. - Kanako không có nhà để về. Cô nghĩ tới những nơi cô từng ở khi cha cô di chuyển công tác, nhưng chẳng có chỗ nào trong số những nơi đó cô có thể trở về. Em trai Kanako đã tới sống ở Asahikawa ở Hokkaido và chị em cô mất liên lạc từ đó.
Khi em nghĩ tới một mái ấm gia đình, em nhớ tới ngôi nhà ở Gumma, có cây bào đồng to lớn. Mẹ em thường lột vỏ những trái hồng để đem phơi khô trên hiên nhà đầy nắng. Em nghĩ, thật tuyệt nếu có một mái nhà, dù nó có hư nát. Em thường tự hỏi con người có bản năng về nhà cửa, gia đình hay chăng. Nơi để họ có thể trở về một ngày nào đó. Nơi họ có thể chết ở đó.
Nobutaka không trả lời. Một lát sau, anh nói giọng lạnh lùng:
- Nó cũng chẳng đưa em đến đâu với sự khỏi đầu của một cuộc đời tầm thường vô nghĩa.
- Anh muốn nói rằng anh có thể tự tách rời khỏi những gốc rễ của mình để trở thành một mảnh đồ vô dụng nơi đô thị chăng? Nhưng em biết thực sự thì anh không thấy thế đâu.
Kanako đã mồ côi cha mẹ, thậm chí không thể nhớ quê quán mẹ cha. Họ đã từ bỏ thị xã quê hương trước cô. Nơi cư ngụ duy nhất mà cô coi là một cái hộp, đôi khi cô có anh ở bên. Anh sẽ ở bên cô bao lâu là điều cô không biết.
Về chứ em? - Nobutaka hỏi. Anh đứng lên trước, một kiểu chia tay mà tính đa cảm của cô không khỏi cảm thấy thương tổn.
Phố phường ban đêm, lúc năm hết Tết đến, hoạt động hối hả. Một làn gió thổi qua, Kanako dựng cổ áo khoác lên. Dòng suối người qua lại trông có vẻ tối tăm và lạnh lẽo.
Nhà Shima ở Setagaya. Lý do khiến mọi người trong phòng thiết kế tụ tập ở đây rất đơn giản: họ quen kết hợp tiệc cuối năm của phòng vào một dịp với tiệc mừng Noel luôn. Nhà của Shima đem lại mối liên hệ duy nhất của Kanako với một mái ấm gia đình, nhưng họ đều sống trong cái mà Kanako gọi là những cái cái hộp. Chỉ mình Shima có một mái nhà. Cô chưa tới cửa đã thấy vợ Shima chào đón và mời cô vào. Yoshiko mặc một chiếc tạp dề bên ngoài cái váy đỏ, rất đậm hương vị của một mái ấm. Gia đình Shima có hai con gái đang học tiểu học.
Thức ăn và đồ uống đã được bày trên những chiếc bàn trong phòng khách và nối liền với phòng ăn. Ngoài bốn người ở phòng thiết kế, còn hai người khách đàn ông nữa. Kanako sà vào giúp đỡ việc chuẩn bị đồ ăn, nhưng hai đứa bé nhà Shima làm thay chỗ cô, còn cô bị kéo ra đivăng.
Hôm nay cô là khách của chúng tôi - Yoshiko sốt sắng, rót đầy bia vào li của Kanako. Khi người phụ nữ dồn tâm sức chăm lo công việc nội trợ, Kanako nghĩ, bà ta trở thành chỗ dựa cho chồng. Những đứa trẻ rất có giáo dục nhà Shima đã ăn tiệc từ chiều và nhanh chóng rút lui.
Mặc dù trong công việc, Shima bộc lộ một cá tính riêng nhưng ở nhà ông trở về là một người chồng bình dân, luôn mồm gọi vợ “Mẹ nó, mẹ nó”. Kanako không cảm thấy ông có chút gì nổi trội thu hút về phương diện cuộc sống thường ngày trong gia đình.
Khi bữa tiệc trở nên có không khí dưới ảnh hưởng của rượu, Kanako bắt đầu quan sát gương mặt của hai người khách đàn ông. Người mà Seki, bạn của Shima đưa đến, làm công sở với Seki. Kanako ngả lưng trên ghế. Liếc nhìn khuôn mặt ông ta một lần nữa. Ông ta người tầm thước, chiều cao trung bình và có một phong thái hào hoa, lịch sự. Gia đình Shima nghe nói ông ta định kết hôn lần nữa và có lẽ đã nghĩ tới Kanako. Nếu họ định tạo cơ hội để cô có thể gặp gỡ, kết bạn tự nhiên với một người khác giới thì đây là cơ hội đầu tiên đối với cô. Cô thậm chí cảm thấy ngạc nhiên về việc cô được người khác tạo cho một cơ hội. Cô nghe nói ông ta đã có một đứa con đang ở với mẹ nó. Trước đó một chút, khi Yoshiko nhắc đến chuyện ông ta li dị, Kanako đã không hỏi lại lý do. Sự chú ý của cô đến ông ta tăng dần chỉ do vận động của chính các sự kiện, chứ không phải do vị trí của một “đối tác” tương lai mà người ta đã nhắm cho cô.
Đồ ăn ở gia đình Shima có vị ngon của thứ đồ ăn nấu trong gia đình. Yoshiko nghe Kanako nói như vậy thì rất vui và để khen lại, bà nói rằng bà đã không có được tài năng thiết kế của cô.
- Tài năng thiết kế của em ấy à? - Kanako cười phá lên - Cô chủ yếu chỉ thực hiện những phần việc thô cho thiết kế của Shima mà thôi.
- Kanako thiết kế một tách cà phê vĩ đại đấy, - Một trong những bạn đồng nghiệp nói.
- Điểm mạnh nhất trong tài năng là tính cách cô ấy. Cô ấy không bao giờ để mình bị kích động, bực tức cả.
Kanako lần lượt nhìn từng người trong số các bạn cô.
- Mặt khác, cũng chẳng điều gì các anh làm tôi hạnh phúc quá cả. Đó chính là điều mà anh sắp nói đến, phải không nào?
- Chắc chắn là cô phải tự hiểu rõ về mình chứ.
Tất cả cùng cười vui vẻ. Người khách đàn ông nhìn cô. Shima gọi tên ông ta - Ông Okabe.
- Tôi nghĩ, công việc ngành cơ khí của ông khiến ông khá là bận rộn, thưa ông Okabe.
- Trong lĩnh vực chuyên môn tôi làm được nhiều hơn sự đòi hỏi của phận sự, nhưng tôi e rằng trong lĩnh vực cuộc sống riêng tư, tôi không thành công lắm.
- Tất cả chúng ta ai cũng cảm thấy như thế hết. - Một trong những người đàn ông ở phòng thiết kế đồng tình. Kanako bị thuyết phục mạnh bởi sự thẳng thắn chân thành của Okabe và lần đầu tiên cô nhìn ông ta với nhiều thiện cảm. Giá mà cuộc sống riêng tư của ông thành công mỹ mãn, điều ấy sẽ chỉ khiến cô cảm thấy thiếu an toàn. Không nghi ngờ gì rằng hình thức bên ngoài của một gia đình có thể đạt đến được một cách dễ dàng khi đứa con đầu lòng ra đời và cả người chồng lẫn người vợ lấy nó làm trung tâm cuộc sống của họ, Kanako, không có nhà cửa cũng không có gia đình, không thể không cảm động bởi dịp may hiếm hoi đang đến với cô. Chia tay với vợ vì một lý do nào đó Okabe dường như đã trải qua một nỗi buồn sâu sắc và một cảm nghiệm rất đỗi riêng tư khiến cho ngay cả khi say, ông vẫn không có chút vẻ gì của một con người hồn nhiên, vô tư lự. Những người đàn ông từ phòng thiết kế thì trông rất hoan hỉ, tươi vui.
- Cô chẳng ăn gì cả. - Yoshiko nói, mắt nhìn vào đĩa của Kanako.
- Có em đang ăn. Ngon lắm.
Từ một tuần nay, Kanako chán ăn, nhưng không khí bữa tiệc quả là vui vẻ. Cuối buổi, Shima bảo mọi người rút những tấm thiệp Noel và mở những gói quà. Kanako rút tấm thiệp có dòng chữ Kòfuku no Tani và nhận được một đôi chim bằng kẹo gắn trên đôi đũa. Cô xem nó như một điềm lành và mỉm cười. Thiếp của Okabe ghi Sự lạ đời của thần Venus, và quà của ông là một chiếc đĩa sứ màu trắng hình con sò, ở rìa có một bức tượng nhỏ. Ông có vẻ thực sự sung sướng và nhắc đi nhắc lai mãi:
- Thật tuyệt quá.
Mọi người vỗ tay mỗi khi một món quà được mở ra. A, một người đàn ông trung niên, làm kế toán ở phòng thiết kế, rút được cái thiệp Hattoshin no Bijò. Ông nhận được món quà là chiếc thắt lưng phụ nữ đẹp. Mọi người cười vang khi ông mở ra và thấy chiếc thắt lưng và làm như vung tay vứt nó đi.
Tiệc Noel vui vẻ đã đến hồi kết thúc. Chào tạm biệt, các anh bạn đồng nghiệp còn ngồi lại để uống tiếp, Kanako ra về với hai người khách đàn ông. Seki nhanh chóng lên một chiếc taxi còn Okabe đi cùng Kanako trong chiếc taxi sau.
- Một đêm Noel thật tuyệt vời. Tôi không thường xuyên đón mừng Noel nhưng đây là lần tôi thực sự vui thú. Phòng thiết kế Shima hẳn là một nơi làm việc rất dễ chịu. Okabe bảo.
- Nó ấm cúng, hơi giống một mái lều.
Trả lời ông Okabe xong, Kanako chợt nhận ra rằng chính sự thô cứng của công việc ở xưởng khiến cho một niềm vui hiếm hoi như thế này trở nên dễ chịu đến vậy. Đối với những kẻ khát khao tình người, sự vui vẻ ở gia đình Shima sưởi ấm trái tim họ. Kanako và Okabe chìm trong làn ánh sáng dịu dàng sau lúc hoàng hôn. Kanako bảo người lái xe taxi cho cô xuống ở một góc phố trên con đường dẫn tới căn hộ của cô.
- Rất cảm ơn ông.
- Tôi hi vọng được gặp lại cô. - Okabe nói, và taxi chuyển bánh.
Nếu đó là một cơ hội để cô có thể chạm được tới bến bờ, đây là cơ hội đầu tiên đối với cô. Bước dọc con phố tối, sau khi xuống taxi, cô nhận ra rằng cô thích Okabe. Ngay cả nghĩ đến việc cưới một người đàn ông như Okabe hình như, đối với cô, cũng là một chuyện xa xỉ, một thái độ hơi xấc xược.
Ngày hôm trước, Kanako đến bệnh viện để soi vùng bụng. Sau khi khám, ông bác sĩ thông báo:
- Tôi có thể nói rằng cô đã có mang. Cô cần đến khám bác sĩ phụ khoa sau dịp Tết.
Điều ấy có vẻ khó mà có khả năng xảy ra, và một phức hợp những tình cảm xúc động, ngạc nhiên, bối rối, thẹn thùng, khiến cô không thể thốt nên lời. Kanako, lúc đó và ở đó, không thể quyết định được rằng cô có nên sinh con hay không? Nobutaka sẽ nghĩ gì không quan trọng, điều quan trọng hơn, cô muốn hiểu rõ tình cảm của chính mình và tự quyết định phải làm gì. Một kẻ lang thang trong thành phố biết làm gì đây với một đứa bé? Đứa bé thuộc về nơi nào? Nếu điều đó có nghĩa sự tăng số lượng những kẻ lang thang vô gia cư, có thêm một đứa bé phải chăng là một việc sai lầm? Tuy nhiên, đối với cô, nâng đở, nuôi dưỡng một đứa con có lẽ là đặc quyền duy nhất người phụ nữ có được. Đêm nay, gặp Okabe trong tâm trạng băn khoăn, lưỡng lự như vậy, cô cảm thấy, sau tất cả mọi điều, cô có thể mong muốn có một đứa con. Cô đã chán chường sự tồn tại không gốc rễ của cô. Một ngày nào đó, có thể bỗng dưng cô thấy Nobutaka bỏ rơi cô. Anh, cũng vậy, giống một nhánh cỏ dại, không gốc rễ.
Có ánh đèn trong căn hộ của cô. Kanako ngừng bước. Có thể là anh chăng? Anh đã biết đêm nay có tiệc ở nhà Shima mà. Khi mở cửa, cô thấy Nobutaka trong căn phòng phía trong, cạnh cái phòng nhỏ vừa là phòng ăn vừa là bếp. Dựa vào bàn, anh quay lại nhìn cô. Anh đang ở đây. Hạnh phúc của cô đã đến chăng, vì anh, là bến bờ mà dường như cô luôn luôn bơi về đó?
- Em mệt mỏi khủng khiếp. Em cảm thấy đơn độc khi hưởng niềm vui thú đến thế.
Kanako bước vào phòng, chào Nobutaka và ngồi xuống trước mặt anh.
- Vui lại làm em cảm thấy đơn độc sao? - Anh hỏi, hàng ria in bóng trên khuôn mặt. Kanako trả lời một cách nghiêm trang.
- Đối với người Nhật chúng ta, tất cả những tiệc tùng Noel và tiệc tùng cuối năm đều giống nhau. Và ngoài ra, chúng ta không quen hưởng niềm vui nên chúng ta mệt mỏi khi làm điều gì đó khác thường.
- Đó không phải một cá tính có ích gì lắm đâu.
Gượng cười, Nobutaka hỏi xin uống trà. Anh không bao giờ muốn tự pha trà khi anh ở nhà cô. Kanako mang đến tách trà vừa pha xong, anh liền uống cạn.
- Em về bằng taxi chứ, phải không em?
Một câu hỏi như thường lệ.
- Một ông khách của Shima tiễn em. Ngay việc nhỏ mọn như vậy cũng tạo ra một kiểu ràng buộc giữa con người. Lần sau gặp lại em sẽ cảm ơn ông ta, rồi… Em ghét những mối ràng buộc con người lại với nhau theo kiểu đó.
- Vì sao? - anh hỏi cô.
- Em đang tự hỏi. Vì nó khiến ta nghĩ rằng ta có thể bám víu vào những sợi dây ràng buộc đó. Chúng nặng nề, khó chịu biết bao. Thanh thản hơn nhiều là cứ đi con đường riêng của mình, ngay cả dù chẳng có nơi nào để đến.
- Đúng vậy.
Mặc dù Nobutaka cảm nhận được những xúc cảm đang diễn ra trong lòng Kanako, nhưng anh không nói gì thêm, giang chân phía trước lò sưởi ga, Nobutaka bảo mẹ anh đã đi Mỹ, vì vậy anh sẽ trở về nhà trước Tết. Trong tưởng tượng của Kanako, ngôi nhà trống ở quê Nobutaka hiện ra trong hình ảnh ngôi nhà ở Gumma với cây bào đồng. Cô cảm thấy ý muốn về thăm ngôi nhà ấy khi chủ nó đi vắng là tội lỗi, cố nén nỗi xúc động, căng thẳng, cô hỏi:
- Nếu em đến ở nhà anh có được không? Nếu quá phiền phức thì em sẽ chỉ đứng từ xa mà ngắm nó rồi sẽ trở lại ngay.
- Làm thế thì được cái gì?
- Em không biết. Riêng ngôi nhà nơi anh đã sinh ra dường như đủ khiến anh trở nên thực hơn và được ràng buộc em hơn. Nếu anh vẽ, viết bất cứ cái gì trên cột nhà, tường nhà thì em muốn xem những hình vẽ ấy.
Nobutaka im lặng một lát rồi sau đó đồng ý một cách bất ngờ lời đề nghị của cô.
- Chúng ta sẽ về xem. Ai biết được khi nào ngôi nhà có thể sẽ không còn ở nữa.
Kanako nhìn anh chăm chú. Trong người đàn ông đã tặng cô cơ hội trở về một ngôi nhà này, e không hề không thấy sự sâu sắc về một mái ấm.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Christiane

Re: Gái Hai Chồng (Tuyển Tập Truyện Ngắn Giải Nobel)

Postby bevanng » 01 Feb 2016

* *
Chưa bao giờ Kanako hình dung rằng cô được đón mừng năm mới trong căn nhà của gia đình Nobutaka. Dù họ biết nhau đã hơn hai năm. Nobutaka ít khi nói về quê quán cùng những người thân thiết. Anh thường nhắc đến một làng gần hồ Biwa, có thể thực, nhưng Kanako chưa bao giờ sống ở gần đó và đây là lần đầu tiên cô tới huyện Ômi.
Sáng 31 tháng 12, họ rời Tokyo đi Ômi - Yahata ở quận Shiga. Từ đấy, họ đi taxi, qua dọc những phố xá buôn bán tấp nập phía trước nhà ga và đến những cánh đồng bao quanh. Trái tim Kanako dâng đầy phấn khích. Qua cây cầu trên một khúc suối nông, cô hỏi Nobutaka khi còn bé có hay ra đây chơi không.
- Ô, với bạn bè và với em gái anh. Bọn anh thường bắt tôm, - anh trả lời nhìn qua cửa xe taxi xuống dòng sông.
Anh bảo lái xe dừng lại ở một con đường được đánh dấu bởi một hàng cây nhỏ. Kanako xuống xe trước và nhìn quanh. Giữa những rặng cây, có một đám những ngôi nhà cũ kĩ, tĩnh lặng. Đối diện với bụi cây là một cánh đồng nhỏ và xa hơn nữa là một ngôi nhà cổ, rất đẹp, bao quanh là hàng rào gỗ màu đen. Chim chóc đậu trên mái nhà. Có một mái nhà tranh hai lầu tách biệt khỏi căn nhà đó, và đằng sau căn nhà chính hiện ra có lẽ mái của một cái nhà kho. Chắc đó là nơi cư ngụ của người chủ vùng này. Taxi đi tiếp và Nobutaka bắt đầu đi bộ. Theo một con đường qua cánh đồng, anh rẽ vào cánh cổng có vòm của căn nhà với hàng rào gỗ màu đen. Thoạt tiên, Kanako nghĩ là anh định đến để tỏ lòng kính trọng với người chủ ở địa phương. Nobutaka vòng tay quanh trụ cửa để mở cái cửa lưới sắt. Kanako nhận ra biển trên trụ cửa đề “Horie”. Dòng chữ ấy đánh gục cô. Lát sau cô hỏi:
- Đây là nhà của anh sao?
- Vì thế mà anh đang vào nhà đây.
Cửa mở, Nobutaka bước lên những bậc đá. Tòa nhà chính có một tầng lửng; những con chim trên mái là các họa tiết trang trí. Lối vào mang phong cách nhà của võ sĩ Samurai: hai cánh cửa gỗ mở về phía bên trái và bên phải dẫn tới lối vào. Đằng sau chúng sẽ còn những tấm cửa trượt nữa. Kanako nhìn lên cấu trúc của ngôi nhà, cố bao quát, ghi nhớ tất cả. Nobutaka dùng chìa khóa mở cánh cửa bên phải và đi vào. Tiếp theo tiền sảnh là phòng khách và một bên là nhà bếp nền đất rộng rãi, những cột nhà to dày, lò bếp cổ, bồn rửa chén - tất cả khiến cô hình dung tới những người từng ở đây trong những năm tháng đã qua. Cô để ý tới phòng dành cho những người giúp việc và sâu hơn vào bên trong là một khu vực nhà kho rộng lớn.
Trong phòng khách có một Kotatsu, mẹ của Nobutaka đã cẩn thận cuốn lên mép của tấm mền đắp chân. Nobutaka dắt cô vào nhà. Ở đây hẳn phải có người túc trực bảo vệ, vì những cửa mưa dọc hành lang phía trước được mở ra và tất cả mọi thứ đều rất sạch sẽ. Qua một phòng khách hết sức đúng quy cách, nghi thức và một phòng ngủ, họ bước đến một tủ kính trang trí cầu kì, Nobutaka mở ra để lộ một bàn thờ Phật của gia đình. Theo thói quen, Nobutaka ngồi xuống và gõ chuông trên điện thờ, đầu cúi thấp. Kanako làm theo anh. Bức ảnh cha Nobutaka cho thấy một người đàn ông chừng bốn mươi, trong bộ đồ âu phục, phong cách nghiêm trang và đẹp trai hơn con trai của ông.
Vậy là cô đang ở đây, trong một ngôi nhà trống, ngồi thẩn thờ trước bàn thờ gia đình trên tấm chiếu không có chút ấm áp từ lò sưởi trong phòng. Cô không thể nhận ra mảy may gì khoe khoang trong mọi câu chuyện giữa cô và Nobutaka có thể khiến cô mường tượng được một ngôi nhà như thế này. Anh không để lộ chút dấu hiệu nào, dù nhỏ nhất, về việc anh đã sinh trưởng trong một gia đình sang trọng như thế này. Tại sao vậy? Điều đó xuất phát từ sự không tin tưởng đối với một người nghèo hèn như cô chăng?
Anh nhận thấy gương mặt cô nhợt nhạt đi.
- Có gì thế? Em lạnh ư?
Cô lắc đầu nhưng cô đang run lên. Nobutaka tính xem mẹ anh sẽ đi bao nhiêu ngày.
- Một ngôi nhà cổ, bỏ hoang không được hiếu khách lắm nhỉ. Nó không có vẻ kì quái, cổ lỗ quá chứ em? Mọi khi nó sáng sủa và ấm ấp hơn thế này.
Anh nhìn qua những cửa trượt ra vườn. Trong khu vườn được chăm sóc cẩn thận, có một cây tùng đỏ, một lồng đèn bằng đá tuyệt đẹp và những phiến đá cảnh được giữ gìn, tất cả toát lên vẻ phong nhã, sang trọng của ngôi nhà.
- Ngôi nhà này được xây dựng từ hơn một trăm năm trước. Nó vẫn còn hình dáng đẹp như thế này, anh nghĩ là do mẹ anh đã chăm sóc nó rất cẩn thận.
Gỗ ánh màu bóng láng còn kính thì sạch lau, không một vết gợn. Nobutaka giải thích rằng trong cải cách ruộng đất sau chiến tranh, gia đình anh đã nhường bỏ rất nhiều đất đai thuộc sở hữu nhưng những người làm mướn trước đây vẫn thường lui tới giúp việc cho bà chủ cũ của họ.
- Đây thực đúng là gia đình mà anh đã sinh ra. Vậy sao anh giấu em? Vì sao chưa bao giờ anh kể cho em biết?
- Cái gì chứ, một chàng quý tử của một gia đình gia giáo đã bị thổi đi phiêu bạt để trở thành một tay viết kịch bản truyền hình loại xoàng chăng. Nào, hãy tiếp tục đi - Anh trả lời chua chát. Rồi anh nhìn lên những hốc tường và những cây xà ngang.
- Rất nhiều thương gia thành đạt đã xuất thân từ vùng quê này. Rất ít người trong số họ lãnh đạo những công ty lớn của Nhật Bản. Ngôi nhà này thuộc về mẹ anh, còn ba anh - người anh họ của mẹ - mang tên mẹ sau khi họ cưới nhau. Cha anh làm nghề ngành dệt nhưng ông mất khi anh trai anh mới học trường phổ thông cấp II. Giá mà ông sống thêm mươi năm nữa, mọi điều có lẽ đã khác.
- Anh hẳn là có nhiều kỉ niệm về ông?
- Anh mới học tiểu học và cha anh thì quá bận không còn thì giờ để ở nhà. Anh luôn tự hỏi không hiểu ông có thực sự quan tâm đến gia đình không. Ngôi nhà này được dựng lên do ông cố nhà anh vào lúc cuối đời cụ.
- Ồng cố nhà anh.
Kanako cảm thấy lẫn lộn vừa ghen tị, vừa hằn học, oán ghét người đàn ông có cội rễ gia đình sâu bền mà cô xưa nay vẫn tin không khác gì bản thân cô.
- Anh có một cây gia hệ vĩ đại quá nhỉ! Dòng họ Horie có một nhà và một gia sản, thậm chí cả một người mẹ để xác nhận cả những cái đó nữa. Chắc chắn anh cảm thấy ý nghĩ phiền muộn rằng anh chỉ là một người viết kịch bản tầm thường chẳng có ý nghĩa gì, phải không? Chỉ là một ý nghĩa làm dáng, điệu bộ, kiểu cách thôi, phải không?
Kanako cảm thấy tuyệt vọng về sự thấp kém của mình. Nobutaka hiểu ra cơn sốt mà cô đang trải qua.
- Anh quyết định cho em thấy ngôi nhà vì nó sẽ sớm biến mất, em ạ.
- Ngôi nhà sẽ mất? - Cô lặp lại như một tiếng vọng.
Khuôn mặt Nobutaka trở nên khắc khổ - Anh trai của anh đã qua Mỹ, thử sức trong buôn bán, nhưng đã gặp khó khăn. Trong bước đường cùng anh đã đề nghị mẹ bán ngôi nhà này. Nhờ mẹ đến giúp trông cháu bé mới sinh có lẽ chỉ là cái cớ để anh có dịp thuyết phục bà thôi. Mẹ anh, tất nhiên, hoàn toàn hiểu điều đó. Và vì vậy mà bà đã vượt đại dương, lần đầu tiên trong đời, ở tuổi sáu mươi.
- Bà đúng là một người phụ nữ thực thụ.
Hình ảnh một người đàn bà có tuổi, thánh thiện hiện ra trong tâm trí Kanako.
Mẹ anh đã sống trong căn nhà này từ khi bà chào đời. Bà không bao giờ biết đến bất cứ một nơi chốn nào khác. Bà sống ở đây với linh hồn của cả ngôi nhà - nếu rời khỏi nó, bà mất đi cái đem lại ý nghĩa cho cuộc đời bà. Ngay cả những khi mẹ đến thăm dì anh ở Kyoto, bà cũng luôn trở về nhà trong vòng chưa đến ba ngày.
- Thế còn chỗ của một người con trai của bà ở Tokyo?
- Bà không thể rời bỏ Ômi để đến sống ở Tokyo.
Bây giờ đây, khi đã quen với nguy cơ ngôi nhà có thể bị bán đi thực, Kanako không thể không cảm thấy gắn bó quyến luyến. Cô băn khoăn không hiểu Nobutaka sẽ làm gì.
- Anh sẽ để mẹ làm điều mẹ muốn. Anh còn biết làm gì khác nữa, phải không nào?
Anh đứng dậy, mời cô cùng anh vào cái nhà tranh tách biệt khỏi tòa nhà chính. Được xây sau ngôi nhà chính, nó có một vẻ ngoài đẹp xinh, tinh tế. Từ phía cuối hành lang ngôi nhà chính. Kanako nhìn thấy nhà kho, cách nhà chính một cái vườn nhỏ. Nobutaka bước theo những lối đi bằng đá trong vườn, con đường hình như dẫn đến cuối vườn. Kanako tìm kiếm những liên hệ giữa ngôi nhà cổ, đẹp, quá mức mơ ước này với quãng đời Nobutaka từ thuở lọt lòng rồi lớn lên. Ở đây, Nobutaka kể với Kanako rằng hai anh em thường dùng súng phun lửa bắn theo những con chim qua cái cửa sổ lồi ra ngoài của căn phòng. Khi câu chuyện đưa anh về quá khứ, khuôn mặt anh trông nhẹ nhõm hơn. Cô gái trong bức ảnh trên chiếc bàn nhỏ trong phòng chính chắc là em của anh, Yuri. Theo Nobutaka, cô đã mất vì bệnh bạch huyết khi cô mới hai mươi hai tuổi. Cô bệnh hơn hai năm, Nobutaka và mẹ anh đã chăm sóc cô. Nobutaka phải bỏ việc ở Tokyo và quay về Ômi để chăm em. Suốt thời gian bệnh tình thuyên giảm, ba mẹ con đã tham quan quanh vùng hồ Biwa. Càng đi xa về phía bắc, nước hồ càng xanh trong sâu thẳm. Họ tối tận mũi Sugaura. Yuri e thẹn thổ lộ cô muốn mặc một chiếc kimono màu xanh hồ thủy như vậy, vái chiếc khăn choàng màu trắng trong ngày cưới. Cho tới khi lên tám, Yuri vẫn luôn nói rằng cô sẽ cưới Nobutaka khi cô lớn lên. Nobutaka, lớn hơn năm tuổi, cười và bảo rằng cô sẽ sớm thay đổi ý kiến. Sau chuyến thăm hồ Biwa, Yuri lại vào viện và chỉ ra viện khi cô mất. Phòng chính của ngôi nhà tranh là phòng dưỡng bệnh của cô.
Ngôi nhà cổ này đã ghi dấu nhiều cái chết khác nhau. Linh hồn những người đã khuất luôn mong mỏi sự trở lại của Nobutaka. Kanako không sao xua đuổi được ý nghĩ đó. Cô cảm thấy bất kỳ lúc nào, cánh cửa nhà kho sẽ đột nhiên mở và hiện ra người cha đã mất quá sớm. Rời bỏ những linh hồn thân yêu đã khuất này quay lại Tokyo, Nobutaka sẽ cảm thấy ra sao nhỉ?
Một người khách cất tiếng gọi từ xa. Nobutaka bước ra, và Kanako, không dám ở lại một mình, cũng theo sau anh. Một ông lão nông thôn đang đứng trên nền đất trong ánh trăng khuyết. Ông ta và Nobutaka chào hỏi nhau thân thiết, sau đó ông cụ đặt một cái gói xuống bậc cửa, rõ ràng, ông làm theo lời dặn của mẹ Nobutaka. Kanako rụt rè đứng đợi trong bóng tối hành lang.
- Anh sẽ ở lại bao lâu? - Ông già hỏi.
- Cháu định ở đây quãng một tuần.
- Nếu anh cần gì, cứ bảo tôi, đừng ngại.
Ông cụ lịch sự xin phép và lui gót. Ông ta là người được giao việc trông nom ngôi nhà. Cái gói chứa những cái đĩa quà năm mới buộc với những hộp sơn mài, bánh gạo hồng khô và sushi. Kanako thấy ngượng vì cô đã không có thì giờ để mang theo bất cứ cái gì từ Tokyo chuẩn bị cho năm mới. Cô vẫn còn lo lắng về khả năng được đón năm mới trong một ngôi nhà rộng lớn thế này. Bất cứ lúc nào Nobutaka rời đi đâu, cô lại cảm thấy không an tâm. Tầng lửng của ngôi nhà có thể nhìn sang bụi cây bên Lăng mộ Shinoda cạnh đó và Kanako tò mò muốn xem. Nobutaka dường như bước vào một cuộc sống khác khi anh trèo lên thang trước cô.
Mai chúng ta sẽ làm một chuyến viếng thăm đầu năm Lăng mộ này nhé? Vị thần ở đây rất linh thiêng do các lễ hội lửa của thần. Có lần, khi em gái anh đang bệnh, nó bạo, nó muốn xem lễ lửa, và anh đã bế nó lên đấy. Trong đêm, những ngọn đuốc tùng nổ lốp bốp, hắt sáng lên trời cao, hai anh em thấy rộn ràng, vui thú lắm.
Nobutaka trở nên nói nhiều hơn bao giờ hết. Anh kể cho Kanako nghe những hồi ức khác nhau về ngôi nhà và mọi người trong gia đình.
- Tối nay chúng mình sẽ ngủ ở đâu?
- Phòng nào tốt nhất nhỉ? Phòng nào mà em thích ấy!
Thế thì ngủ ở phòng bên. Đừng nằm riêng vì em chưa bao giờ ở trong một tòa nhà lớn đến thế này và em sợ lắm. Anh làm thế nào để em không sợ nhỉ?
- Vớ vẩn. Đây là nhà anh mà!
Anh cố cười thật to.
- Căn hộ của anh ở Tokyo có vẻ bé nhỏ kinh khủng.
- Đúng là anh luôn luôn có ngôi nhà này để về. Ý nghĩ nó có thể bị bán một khiến anh lấy làm vui rằng anh vẫn còn một nơi khác để cư trú ở Tokyo. Bây giờ đây, ngôi nhà ở Tokyo là tất cả những gì anh có.
Kanako nhận ra rằng cả cô và Nobutaka đều cảm thấy bị cuốn đi như những vật rác rến vô giá trị nơi dòng sông thành phố.
Đêm đó họ ngủ bên nhau trên tấm nệm trải trong căn phòng dành cho khách ngủ lại. Kanako nghĩ đây có lẽ là lần duy nhất trong đời cô được ngủ trong phòng lớn thế ở một tòa nhà không phải là nhà trọ. Cô gối trên chiếc gối kê gần điện thờ gia đình có lẽ điều đó đã xui nên giấc mơ của cô. Bình minh hình như đang rạng và trong ánh sáng nhạt nhòa của vườn cây, sát bên đèn bằng đá lớn, một người đàn bà mặc áo choàng đen đang đứng đó. Kanako biết đó là mẹ của Nobutaka. Người đàn bà đứng im lặng, như quở trách Kanako đã xấc xược đến ngôi nhà khi người chủ đi vắng. Kanako căng thẳng sợ hãi, cô xin lỗi bà:
- Cháu xin lỗi. Hãy tha thứ cho cháu… cháu sẽ đi khỏi ngay bây giờ. Cháu hứa không dám quấy rầy sự tĩnh mịch của ngôi nhà và trật tự, ngăn nắp này.
Lát sau, Kanako tỉnh giấc, nhưng trong mơ cô không nhớ rõ người đàn bà mặc áo choàng đen đã bỏ đi. Kanako dùng tay massage thân mình, bắt đầu từ ngực rồi chuyển dần xuống. Quả là xấc xược chăng một người hèn kém như cô mà muốn đến gần ngôi nhà ông cố Nobutaka đã xây? Cụ sẽ nói gì nếu biết điều đó? Kanako kiên nhẫn đợi những tia sáng yếu ớt buổi mai rạng dần lên, và cảm thấy phục hồi dần dần sức mạnh.
Nobutaka cựa mình rồi mở mắt. Anh hỏi Kanako đã dậy rồi sao, sau đó, với lấy những điếu thuốc bên gối, anh châm lửa một điếu và rít một hơi.
- Em cũng nằm mơ đấy.
- Thật khó ngủ dưới một mái nhà to lớn thế này.
Nobutaka kể, anh mơ cõng em gái anh lên tầng lửng.
Có lẽ việc kể lại chuyện xưa cho Kanako nghe đã là nguyên nhân của giấc mơ. Lâu lắm rồi trước đây, anh tiếp, anh đọc một câu chuyện kể một biệt thự trên cao nguyên, nơi người ta thường đến nghỉ hè, nhưng dần dà nó bị bỏ hoang, cũ nát. Người chủ mất đi, ngôi biệt thự được đem bán và một số công nhân đến để phá bỏ. Ở tầng lửng, nơi họ mang chiếc thang đi chỗ khác, họ tìm thấy một xác chết khô.
- Chuyện thật ghê sợ. Anh quên rồi, nhưng hẳn là nó đã được chôn sâu trong ký ức anh. Anh đoán các tiểu thuyết ở lại trong tâm trí người ta cũng bằng cách đó.
Kanako đoán rằng có lẽ anh bị ám ảnh cái ý tưởng đã để em gái anh chết khô trên tầng lửng và cô cảm thấy gần gũi anh hơn bao giờ hết.
Ở trong một ngôi nhà cổ, người ta có cảm giác có những con ma ẩn náu đâu đó trong bóng tối, trong rầm thượng sát mái nhà, đâu đấy quanh lò bếp. Anh muốn chuyện trò với chúng nếu có thể được.
- Anh quá hãi sợ đấy thôi.
Nhưng Nobutaka không nghĩ rằng cô đang nói dối:
- Em sung sướng là anh đã đưa em đến đây. Em sẽ không bao giờ quên ngôi nhà này.
Kanako nhắm mắt lại. Nobutaka cảm thấy lạnh vai, rùng mình và cuộn người lại dưới tấm chăn. Họ đã tỉnh giấc nhưng không có gì để làm cả. Nằm yên trên giường có vẻ là một cách thức thú vị để đón mừng năm mới.
Họ ngủ lại, chỉ thức dậy khi mặt trời đã lên cao. Kanako đứng dậy và bắt đầu mặc quần áo. Nobutaka, giữ ấm dưới chăn, và nói:
- Ngày đầu năm, chúng mình sẽ đến hồ Biwa nhé.
- Có sao không nếu bất chợt họ gặp người quen anh?
Kanako bước tới mở những bức rèm che căn phòng.
Đêm qua họ đi ngủ mà quên không đóng những cánh cửa mưa to nặng. Ánh mặt trời tràn qua cửa sổ, nhưng khi Kanako mở cửa sổ và nhìn xuống vườn trong ánh sáng buổi ban mai cô nín thở vì ngạc nhiên. Mặc dù nền trời rất xanh trong, những bông hoa tuyết đang múa lượn nhẹ nhàng trong gió. Cứ như thể một đàn bướm nhỏ, trắng muốt đang bay lượn.
- Tuyết bắt đầu rơi. Thật đẹp quá. Lại đây mà xem anh.
Giọng cô khiến Nobutaka trở dậy, đến bên mái hiên. Những bông tuyết nhỏ, tinh xảo trở thành một họa tiết trang trí nhuốm vào cảnh vật chung quanh.
- Tuyết rơi kìa. Nhìn xem, anh sẽ hiếm khi được nhìn thấy tuyết rơi giữa một ngày quang đãng, sáng sủa như thế này ở Tokyo.
Những bông hoa tuyết bay lượn trong ánh nắng ban mai thêm một nét mỏng manh, quyết rũ vào cảnh sắc của khu vườn giữa một tòa nhà cổ. Ngắm nhìn tuyết rơi, Kanako ôm trọn cả buổi sáng Ômi vào trái tim cô.
Phan Thu Hiền dịch
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Christiane

Re: Gái Hai Chồng (Tuyển Tập Truyện Ngắn Giải Nobel)

Postby bevanng » 01 Feb 2016

NHỮNG NGÀY TƯƠI SÁNG Ở PHÍA TRƯỚC
Catherie Young Nhà văn Mỹ - Giải thưởng khu vực

Andrea đứng trong bóng tối của tiền sảnh vừa xoay xoay tách cà phê trong tay, nàng vừa lặng lẽ quan sát những đồ vật đang nằm xung quanh một cách chán nản, ủ rũ: những vali áo quần, đồ đạc, hộp giấy nằm lộn xộn, bừa bãi trông thật ảm đạm, chúng sắp sửa được đem đi khỏi đời nàng cùng với chủ của chúng.
“Mọi thứ xem ra đã xong xuôi cả rồi nhỉ?” David nói vọng ra từ nhà bếp, giọng vô cùng thoải mái. “Anh sẽ rời đây trong một vài phút nữa!”
“Một vài phút! Thật quá ngắn ngủi!” Andrea nuốt nghẹn giọng, người nàng cố căng lên để ghìm những giọt nước mắt. Họ đã đồng ý, sau tất cả mọi chuyện, rằng sẽ không có thời gian để chia tay một cách yếu đuối, ủy mỵ. Không cả khi mọi thứ đã sắp xếp xong và 18 tháng chung sống ngọt ngào.
“Tốt? Thế là xong!” David đã mặc xong áo jacket. “Anh sẽ liên lạc với em khi nào anh thu xếp xong chỗ ở mới”.
“À vâng”. Thích hợp thật là thích hợp. Andrea nghĩ với một cái mỉm cười gượng. Sau tất cả chuyện đó, chính tính bướng bỉnh tôn thờ chủ nghĩa độc thân của David là nguyên nhân của mọi đổ võ.
“Anh sẽ nhớ em nhiều đấy, Andrea ạ!” David nói một cách nhẹ nhàng rồi ngập ngừng rời ô cửa.
“Anh muốn nói là mối quan hệ bạn bè của chúng ta sẽ không bao giờ mất!”
“Và anh cũng nói rằng anh không sẵn sàng thực hiện lời hứa”. Andrea thở dài, nhớ lại những cuộc tranh cãi đã từng ngấm ngầm chia cắt họ:
“Phải chăng chính những mong muốn viển vông của nàng về cái gì đó cao hơn, sâu sắc hơn là đơn giản cùng nhau chung sống. Có thể David cũng đã từng nghĩ như vậy”.
“Anh để lại một vài vật lỉnh kỉnh không cần thiết” David nói ra vẻ bất cần khi chỉ tay về một hộp carton trên bàn. “Em có thể giữ lại hoặc bán chúng đi bất cứ lúc nào em muốn”…
Khuôn mặt của anh ta thoáng chút luyến tiếc một cách hời hợt, giả tạo khi cúi xuống hôn tạm biệt Andrea “Chúng ta vẫn sẽ là bạn chứ?”
Andrea gật đầu như một cái máy “Vâng, dĩ nhiên rồi!”
“Tất cả thật kinh khủng”. Andrea nghĩ một cách cay đắng khi nàng dõi theo David lái xe mất hút trong màn đêm. Không nước mắt, không la hét, xáo động, chỉ đơn giản là một cuộc chia tay nhẹ nhàng, lịch sự - nhưng ít nhất đã để lại một nỗi buồn, trống rỗng, lạnh lẽo trong lòng nàng.
Rã rời, nàng mở nắp hộp carton mà David để lại. Hỗn độn bên trong là một mớ những vật trang hoàng, những bức tranh, và cục chặn giấy cùng những vật linh tinh vô giá trị khác mà từ lâu David đã không dùng đến.
“Giống như mình”. Nàng nghĩ một cách chán chường rồi vội vã đóng nắp hộp lại. Đó chỉ là một đam mê vô nghĩa, việc đầu tiên của ngày mai là nàng sẽ tống khứ tất cả đi, rồi bằng cách nào đó bắt đầu lại từ đầu.
“Bygones” (Những kỷ niệm đã qua) Andrea mỉm cười âu sầu nhìn tấm bảng hiệu trên cửa sổ một cửa hàng bán đồ cũ. Thật là thích hợp. Trời vẫn còn tối lò mò. Những quầy hàng được đánh số lẻ với những đồ vật lạ lẫm không liên quan nhau! Những hình nhân bằng sứ, những cốc uống trà lớn, đồng hồ cổ và cả đồ nữ trang rẻ tiền. Andrea nhìn lướt qua các bảng hiệu rồi giật nẩy mình khi một chàng trai trẻ dong dỏng cao với những lọn tóc xoăn xuất hiện từ căn phòng sau:
“Liệu những vật này có ích cho ngài chăng?”
Nàng nhẹ nhàng hỏi, rồi đặt cái hộp lên quầy hàng. Chàng trai rẻ nhìn nàng một cách thích thú.
“Ồ là những gì vậy?”
“À chỉ là một vài đồ vật nhỏ mà người bạn… ừm… cùng phòng tôi để lại.”
Nàng không đủ can đảm để dùng từ “người bạn trai cũ”. Không!
“Hay đấy, để tôi xem nào!”
Chàng trai bắt đầu mở hộp và bới chọn ra ngoài một vài mẩu tin và đọc nó một cách thân thiện.
Theo bản năng Andrea ngoảnh mặt đi, nàng cảm thấy bị xúc phạm trước cảnh tượng đồ đạc của David bị lục lọi như vậy.
“Những vật dụng này nói lên gì chăng?”. Đột nhiên anh ta hỏi. Andrea cau mày “gì cơ?”.
“À không có gì”. Anh ta đáp một cách tử tế. “Tôi có thể thấy việc này gây đau khổ cho tâm hồn cô. Hình như người đàn ông này có ý nghĩa hơn là một người bạn cùng phòng, đúng không?”
Andrea đanh mặt lại đáp trả: “Thật nực cười. Ngài ở đây là để phục vụ khách hàng hay để điều tra tâm lý”.
“Ai nói là tôi không thể kiêm cả hai cơ chứ” Anh ta mỉm cười “Đây là nơi lý tường để quan sát mọi người. Ngôn ngữ của thể xác cũng có thể tiết lộ rất nhiều điều đấy, thưa quý bà!”
Sau khi đóng nắp hộp lại, anh ta chợt kết thúc với một giọng hồi lỗi “Xin lỗi, tôi chỉ có thể đưa cô 20 đôla”. “Thế là đủ”.
Andrea ngập ngừng, chú ý đến một cái hộp đựng tiền quyên góp từ thiện trên quầy hàng. “Cho tất cả vào cái hộp kia”. Nàng chợt bốc đồng nói.
“Cảm ơn. Tính hào phóng đó liệu có cho phép cô dùng với tôi một tách cà phê hảo hạng không?”. Anh ta mỉm cười và hoàn toàn tự nhiên với tay đựng bình cà phê “và một cái bánh ngọt nữa nhé”. “Tôi hứa sẽ không hỏi bất cứ điều gì khi cô đang uống đâu”.
“Ồ, không, cảm ơn. Tôi còn nhiều việc phải làm”. Chùm chuông cửa reo lên lanh lảnh một cách nhạo báng, giễu cợt khi Andrea bước xuống đường.
“Nhiều việc phải làm”. Thật là nực cười! Bóng chiều trải rộng trên đầu nàng, cũng trơ trọi, u buồn và trống trải như chính tâm hồn nàng.
… Đêm đó, Andrea nằm thức trắng, nhìn chằm chằm vào bóng tối và nhớ lại vòng tay ấm áp của David.
… Những tình cảm nồng nhiệt giữa họ không thể hàn gắn tất cả những rạn nứt bắt đầu xuất hiện trong mối quan hệ của họ. Nàng nhận thấy nó chỉ là cái mặt nạ, tạm thời đánh lừa hạnh phúc và che giấu những đổ vỡ. Sớm muộn những rạn nứt đó cũng sẽ sâu hơn và ngày càng khó lòng giải quyết. Andrea biết điều đó quá rõ.
Nhưng tối nay, nàng lại nhớ đến David.
Gần một tuần sau, Andrea lại đi bộ qua cửa hàng Bygones. Dù là trong ý nghĩ, nàng cũng ít khi nhìn thoáng qua, cho đến khi nàng nghe tiếng chuông cửa và một giọng nói cất lên:
“Chờ tôi đã nào!”
Andrea nhìn quanh. Chủ hiệu Bygones đang hối hả chạy về phía nàng.
“Tôi có thể nói nhanh với cô một vài điều được không?” Anh ta hỏi một cách dễ chịu, nắm lấy tay nàng và dẫn vào quầy hàng. “Tôi là Tom”.
“Lại một lời thỉnh cầu quen thuộc” nhưng Andrea không nói gì. Nàng có cảm giác lại bắt đầu một trò tán tỉnh mới.
Nhưng nàng không phải lo lắng nhiều.
“Đó là chuyện kinh doanh”. Tom giải thích như thể đọc được ý nghĩ của nàng. “Là thế này, một trong những cái giá cắm nến trong hộp carton hôm nọ đã trở nên có giá trị”.
Andrea nhướn mày: “Ồ!”
“Đừng quá ngạc nhiên thế. Tôi không nói là tiền triệu đâu, tôi xin lỗi” Anh ta nhanh chóng bổ sung. “Nhưng chắc chắn khoảng bốn… không… có thể là năm trăm đô la. Tôi có một khách hàng rất thích nó, một người sưu tầm đến từ thị trấn”.
Andrea im lặng một lúc lâu. Sau đó, nàng vui mừng nói: “Anh thật là tốt bụng, Tom ạ. Lẽ ra anh có thể im lặng và dễ dàng bỏ túi riêng”.
Tom nhún vai: “Tôi chỉ muốn tâm hồn thanh thản mà ngủ ngon mỗi tối thôi. Hơn nữa, tôi đoán là cô đang buồn và điều đó không thể che giấu những người như tôi”.
Andrea ra vẻ nhăn mặt “Lại ngôn ngữ của thể xác hả?”
“Cả những cái khác nữa kia”. Tom với lấy ấm đun nước, đưa tay lên trước khi nàng kịp từ chối. “Nào, tôi nghĩ là cả hai chúng ta đều xứng đáng được thưởng thức cả phê đấy. Trong khi uống, tôi sẽ im lặng”.
Andrea trầm ngâm im lặng khi Tom lấy hai cốc uống cà phê bằng gốm từ tủ chén bát.
“Tôi luôn trông có vẻ âu sầu à?” Cuối cùng nàng hỏi.
“Ồ, cô luôn che giấu điều đó rất tài tình”. Tom láu lỉnh đáp lại. “Nhưng tôi làm việc ở đây đã rất lâu đủ để hiểu những biểu hiện đó khi cô đi đến đây với cái hộp đầy những kỉ vật kia. Tôi biết là cô đang cố gắng xóa bỏ mọi dấu tích cuối cùng của người đàn ông vừa đi khỏi cuộc đời cô.
Andrea không nói gì.
“Cô biết là cô cảm thấy dễ chịu hơn khi không có anh ta”. Đột nhiên Tom nói.
Andrea nhìn thẳng vào mặt Tom, má nàng bừng đỏ tức giận khi nghe những lời nhận xét trắng trợn của Tom.
“Làm sao anh có thể nói như vậy trong khi anh không biết tí ti về anh ta, về tôi?”.
“Xin lỗi, xin lỗi” Tom giơ tay lên như thể đầu hàng. “Điều đó thật nằm ngoài mong đợi”.
“Dù sao đi nữa, anh cũng thật sai lầm”. Andrea nói một cách đắc thắng. ‘Tôi không xóa bỏ mọi kỉ vật của David ra khỏi đời tôi. Chúng tôi đã đồng ý giữ mãi tình bạn”.
“Ừm… hừm”. Tom nhìn nàng một cách nghi ngờ, giễu cợt. “Nếu cô hỏi tôi thì tôi cho rằng một cuộc chia tay trong sáng vẫn hay hơn cả. Cô biết đấy, thật sai lầm trầm trọng khi chúng ta cứ cố níu kéo quá khứ’.
“Điều đó thật kì khôi”. Andrea phản lại. “Khi được khuyên bởi ông chủ hiệu cái cửa hàng Bygones này”. Tom cười nhạo “À”, ra vậy đấy. Nhưng, đây vẫn là nơi được mọi người quan tâm nhất đấy. Tôi vẫn là một người hoàn toàn tin cậy. Gặp tôi vẫn là cách duy nhất để rũ bỏ những kỉ vật”.
“Nếu đơn giản chỉ là thể”. Andrea thở dài. “Rũ bỏ quá khứ, bằng lòng với hiện tại,… và không một quá khứ đau buồn nào có thể giữ anh nhìn lại”.
“Trông cô dễ chịu hơn rồi đấy?”
Tom mĩm cười, chạm cốc cà phê với nàng. “Nào, bây giờ tôi muốn đề nghị nâng cốc chúc cho những ngày tươi sáng ở phía trước”.
“Những ngày tươi sáng ở phía trước”. Andrea thì thầm, mong ước sao đó là sự thật. Sau đó đột ngột nàng quay ngoắt sang việc buôn bán mà Tom đề nghị trước đó, cảm thấy bực bội vì mình đã để câu chuyện đi quá xa.
“Thế này nhé, về cái chân nến ấy”. Nàng nói nhanh. “Tôi sẽ gọi điện cho David và nói cho anh ấy biết giá trị của nó. Nếu anh ấy đồng ý bán, tôi sẽ gọi lại cho anh”.
“Tại sao không để tôi gọi cho anh ta nhĩ?” Tom đề nghị. “Trong trường hợp này, điều đó có thể bất lợi cho cô”
Andrea lại nhìn thẳng vào mắt anh ta, ngạc nhiên bởi sự lo lắng tràn đầy trong đó. “Không cần đâu, tôi đã bảo mà, chúng tôi vẫn là bạn”.
“À đây là số điện thoại của tôi”. Tom viết ra một mẩu giấy, sau đó đưa cây bút cho nàng. “Tôi có thể có số điện thoại của cô không? Có lẽ tôi cần nó để liên lạc lại với khách hàng”.
Andrea ngập ngừng, cuối cùng nàng cũng viết tên và số điện thoại của mình.
“Cẩn thận nhé” đột nhiên Tom nói khi nàng chuẩn bị ra về. Nàng quay lại “Gì cơ?”
“À, không, không có gì. Chúc may mắn!”
Andrea tiến đến gần điện thoại, tay run run quay số. Mặc dù ban đầu cố tỏ ra bạo dạn nhưng ý nghĩ phải liên hệ với David cứ luẩn quẩn trong đầu nàng với bao nỗi sợ hãi lo âu:
“David sẽ chào đón mình như thế nào đây? Lạnh nhạt hay vẫn bực bội khó chịu?”.
Nhưng cuối cùng nàng cũng tập trung đủ nghị lực để gọi cho David. Và, thật bất ngờ, David trả lời nàng hoàn toàn với giọng ngạc nhiên, vui vẻ:
“Ôi, Andrea! Thật là tuyệt khi lại được nghe giọng em”.
“Nghe em nói đây, David”. Nàng đánh liều. “Anh có thể ghé vào đây một lúc nào đó không? Chúng ta cần bàn luận với nhau một số vấn đề”
“Tại sao anh lại không đến chỗ em ngay bây giờ nhỉ?”
David nói.
Andrea ngập ngừng. Nàng không hề trông đợi điều này. “ừm, em đang nấu dở một số món ăn”.
“Ồ anh hiểu”.
Andrea có thể nghe thấy giọng David kéo dài. “Có lẽ cả tuần nay anh ấy chỉ dùng thức ăn mua sẵn”. Nàng nghĩ, và một ý nghĩ liều lĩnh chợt vụt qua trong đầu nàng.
“Ồ không, đừng làm điều đó”. Một giọng nói vang lên răn đe, nhưng sức cám dỗ của sự liều lĩnh lại quá mạnh mẽ.
“Em nấu đủ cả cho hai người đấy. Nếu muốn, anh có thể dùng bữa tối với em”. Nàng ngạc nhiên nghe mình nói.
“Tại sao lại không nhĩ?” Nàng cố tìm lý do thuyết phục mình khi David đã đồng ý nhiệt tình như vậy chứ. Có gì là sai trái khi hai người bạn cùng nhau dùng bữa tối chứ?
Khi nàng đặt ống nghe xuống, một làn sóng với bao ước ao tuyệt diệu chợt lướt nhanh qua. David nhớ nàng, điều đó thật quá rõ ràng và bây giờ họ lại sắp cùng nhau dùng một bữa tối thân mật chỉ có họ.
Một cách đầy chủ ý, nàng vội chạy lên lầu trang điểm. Khi nàng mặc vội vào chiếc váy bó sát màu đen tuyệt đẹp và xức khắp người loại nước hoa đầy quyến rũ, nàng biết đích xác chuyện gì sẽ xảy ra.
Tối nay, họ sẽ lại đoàn tụ. Chưa bao giờ trong đòi nàng, nàng cảm thấy chắc chắn như vậy.
David đã trải qua một tuần sống hoàn toàn đơn độc và có lẽ như vậy đủ cho anh ấy nhận ra quyết định sai lầm của mình. Và bây giờ, lời hứa đó của David thật hấp dẫn…
Chuông điện thoại đột nhiên reo lên, cắt ngang ý nghĩ của nàng “Ôi, lạy Chúa, David xin đừng hủy bỏ cuộc hẹn”.
“Xin chào Tom đây! Từ cửa hiệu Bygones” Andrea thở hắt ra, cảm thấy đỡ chóng mặt hơn. “Tôi chỉ muốn báo cho cô biết là khách hàng của tôi ngày mai sẽ tới đây”. Tom đột nhiên hăm hở, “vì vậy cô cố gắng thông báo câu trả lời của David vào sáng mai cho tôi nhé”.
“Vâng, được rồi”. Andrea hứa, rồi vừa kẹp điện thoại vào cằm nàng vừa đeo bông tai. “Tối nay David sẽ đến đây ăn tối, chúng tôi sẽ nói về chuyện đó”.
“Anh ta sắp đến đấy à?” Tom lo lắng thốt lên. “Nhưng cô không phải… Tôi muốn nói là cô có thể thảo luận chuyện ấy qua điện thoại cơ mà!”
Andrea cố tảng lờ một cách khó khăn, nàng không thể tin được những gì mình đang nghe. Người đàn ông lạ lẫm này hầu như đang cố gắng can thiệp vào cuộc sống riêng tư của cô. Có thể anh ta ghen tị với David nhưng dù sao, anh ta cũng đã đi quá trớn.
“Tôi sẽ gọi lại cho anh vào ngày mai”. Nàng lạnh lùng nói. “Và thông báo cho anh biết anh ấy muốn gì. Tạm biệt!”
Thật là một người đàn ông táo tợn - nàng phẫn uất nghĩ rồi treo máy.
“Ôi!”, David đứng trên bậc tam cấp, nhìn Andrea không chớp mắt với vẻ thán phục thực sự. “Trông em thật là xinh đẹp!”
“Cảm ơn anh, David!”
“Cảm giác này giống hệt như ngày đầu gặp gỡ”. Nàng nghĩ, mặt ửng hồng vì e thẹn.
“Anh mang đến một ít rượu vang”, David nói rồi đưa cho nàng. “Thứ mà chúng ta thích nhất đây”. Tim Andrea đập rộn lên mừng rỡ “thứ mà chúng ta yêu thích nhất” David nói cứ như thể họ vẫn còn là một đôi tình nhân.
Tất cả sau đó đều diễn ra như những gì trong quá khứ khi họ cùng nhau nói chuyện, đùa giỡn và thưởng thức bữa tối tuyệt vời mà Andrea đã chuẩn bị. Andrea có cảm giác như giữa họ chưa từng có một rạn nứt nào.
“Tình yêu giữa mình và David vẫn mãnh liệt như xưa”. Nàng thích thú nghĩ khi tay David vô tình chạm phải người nàng và cứ để như vậy mãi. “Tại sao không thể quay lại với nhau chứ khi mà tình cảm giữa mình và David vẫn còn quá sâu sắc”.
“Anh nhớ em nhiều lắm!” David thì thầm, khẽ vuốt má nàng.
“Ôi David!” - Andrea nhắm mắt lại, đợi chờ.
Nhưng thật là kinh khủng. Nàng nghe chuông cửa reo, phá vỡ cái khoảnh khắc êm ái đó. Theo bản năng họ cùng giật mình. Mạch đập của Andrea vẫn đang đập rộn ràng khi nàng ra mở cửa. Khi nhìn thấy đó là ai, nàng không thể thốt nên lời. Tom đang đứng trên bậc tam cấp.
“Tôi không thể tin được”. Nàng giận dữ nhìn Tom, hốt hoảng khi nghe bước chân của David ở phía sau.
“Xem kìa, Tom…” Nàng bắt đầu một cách sống sượng “Đã quá khuya để…”
“A! Xin chào! Chắc hẳn anh là David”. Tom bắt tay David một cách thân thiện. “Andrea báo cho tôi biết là tối nay anh ghé sang đây. Vì vậy, tôi nghĩ mình nên đến đây để bàn với anh về chuyện cái giá cắm nến đó, giữa hai người đàn ông với nhau”. Anh ta mỉm cười. “Nếu em đồng ý, Andrea…”
“Ừm…, à, vâng!” Andrea thở dài. Làm sao một người lại có thể quá vô tâm như vậy chứ? Chắc chắn anh ta biết mình đang nhúng mũi vào chuyện gì? Nhưng, giờ đây anh ta đang lững thững bước vào phòng khách tán chuyện thân mật với David.
“Em sẽ pha một ít cà phê cho chúng ta”. Nàng nói một cách khó chịu, cầu mong tống khứ Tom càng sớm càng tốt. Nàng chỉ hi vọng David đừng hiểu lầm và mọi việc suôn sẻ…
Vài phút sau, khi nàng bước vào phòng khách, David và Tom đang bắt tay nhau. “Mọi việc như vậy là xong”. Tom nói. “Đó thật sự là một vụ làm ăn dễ chịu cho em đấy”.
“Cảm ơn!”
Đột nhiên, David tiến lại phía Andrea “Bây giờ anh thật sự phải về rồi”. Anh ta nói, tất cả vẻ lãng mạn nơi gương mặt lúc nãy đã biến mất. “Cảm ơn em về bữa tối thật tuyệt”.
“Sao cơ?” Andrea hoang mang vội vã tiến về phía David, “Ồ”, David. Đó không phải là như anh nghĩ đâu. Tom chỉ là…”
“Anh phải đi, Andrea ạ?”
David lịch sự hôn lên má nàng và bước nhanh ra cửa. Andrea đứng bất động một lát, câm lặng. Sau đó, giận dữ nàng quay sang Tom. “Sao anh có thể làm tiêu tan buổi tối của tôi như vậy chứ?”. Giọng của nàng run rẩy, uất nghẹn. Nàng ghìm mình lại để khỏi phải bật khóc. “Anh không thấy những gì đang diễn ra giữa hai chúng tôi ư? Chúng tôi có thể quay trở lại với nhau nếu anh không đến và làm hỏng tất cả”.
“Tôi xin lỗi”. Tom lúng túng.
“Anh đi đi, đi ngay khỏi đây”. Nàng giận dữ chỉ ra cửa. Đột nhiên, ngưng bặt, nàng nhìn thấy một bì thư trên tấm thảm.
“Gì đây nhỉ?”. Nàng thầm thì, khẽ nhặt lên. “Chắc hẳn nó rơi ra từ túi của David khi anh ấy…”
“Vứt nó đi”. Tom nhảy lại chỗ nàng và cố gắng giật lấy bức thư. “Đó là của tôi!”
“Không. Địa chỉ của David”. Andrea cau mày nhìn Tom”.
“Chuyện gì xảy ra vậy? Tại sao anh muốn giấu tôi?”. Tò mò, nàng mở phong bì để rồi sững sờ rớt phịch xuống ghế. “Đó là thư của Melanỉe Philips, bạn gái cũ của David”. Nàng thở dài nhận ra nét chữ viết tay. “Cách đây hai tháng”. Nàng không thể đọc tiếp được nữa, chỉ một, hai dòng đầu đã quá đủ. “David thân yêu! Cảm ơn anh về ngày nghỉ cuối tuần tuyệt diệu đó. Bao lâu nữa thì bọn mình lại trốn đi chơi?…”
“Tôi tìm thấy nó được giấu trong ngăn đáy của cái hộp vào ngày em mang nó đến cửa hàng”. Tom giải thích một cách nghiêm nghị. “Chắc hẳn David để nó lẫn lộn giữa đống đồ vật vô giá trị”.
“Và bây giờ anh đến đây để trả lại cho David”
Tom gật đầu. “Tôi đoán đó là lý do tại sao anh ta nhanh chóng bỏ đi. Có thể anh ta nghĩ tôi đã kể với em bí mật này”.
“Nhưng anh đã không”, Andrea trầm ngâm. “Anh đã giấu nó để không làm tổn thương em”. Nàng ngừng lại, lắc đầu hoài nghi. “Vì vậy, anh đã cố gắng ngăn cản em quay trở lại với David bởi anh biết rằng David đã lừa dối em, phải không?”
Tom gật đầu nghiêm nghị. “Ngay cả em khi nói rằng David sẽ đến đây tôi nay, anh đã quyết định là mình phải làm một điều gì đó để ngăn cản mặc dù anh biết em sẽ căm ghét anh vì điều đó”.
“Anh biết đấy, em không thể mang ý nghĩ là anh… à… có thể tha thứ cho em được, Tom ạ!”
“Tha thứ”, Andrea ngập ngừng. Thật là một từ đau khổ nhưng lại thích hợp một cách kinh khủng. “David và mình luôn có những ý thích trái ngược nhau”. Nàng bình thản nghĩ. “Và những gì xảy ra tối nay là điều tất yếu”. Làm sao nàng có thể quá trẻ thơ mơ đến một giấc mơ hồng về một kết thúc có hậu trong ngày cưới. Đáng lẽ nàng phải nhận ra điều đó từ lâu để kế hoạch của David tối nay kết thúc sớm hơn nhiều. Những kí ức, những tình cảm nồng cháy mãnh liệt nhanh chóng ùa đến, hòi hợt ác độc xây dựng bao ước ao trên hi vọng của nàng, rồi bỏ đi, để lại nàng với một trái tim tan võ.
Và Tom đã cứu vớt nàng lên từ đó…
Andrea nhắm mắt lại, chờ đợi nỗi đau đến với nàng - Nhưng, nàng chỉ cảm thấy một cảm giác lạ lẫm, nhẹ nhàng như một sự khuây khỏa. Mọi xích xiềng trói buộc nặng nề như thể đã bị cắt đứt, tung nàng lên bay bổng, bay ra khỏi những giấc mơ hão huyền ràng buộc nàng với ý nghĩ quay trở lại với David. Tự do. Có lẽ cuộc đời nàng sẽ lại bắt đầu…
“Ôi Tom!” nàng nhẹ nhàng thầm thì. “Bức thư có lẽ là vật tốt nhất để xóa đi mọi huyễn hoặc trong em. Anh đã đúng. Một cuộc chia tay trong sáng vẫn tốt hơn nhiều không níu kéo kí ức…”
Nàng chợt ngừng, đột nhiên cảm thấy bẽn lẽn.
“Điều đó nghe có vẻ không hoàn chỉnh lắm” Tom nói đầy ý nghĩa, tiến lại gần và nắm chặt tay nàng trong tay mình. “Có lẽ chúng ta nên làm lại nửa kia của cuộc đời bên nhau”.
“Vâng…” Andrea mỉm cười với Tom, một làn sóng hạnh phúc đang dâng trào trong lòng khi nàng cảm thấy quá khứ đã phai mờ trong kí ức.
Cuộc đời vẫn quá mới mẻ, và nàng vẫn còn một quãng đời dài để sống. Nhưng, những tia nắng ấm áp trong mắt Tom đang bảo với nàng rằng những ngày tươi sáng đang ở phía trước và rất gần đây.
Trần Nhật Lệ dịch
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Christiane

Re: Gái Hai Chồng (Tuyển Tập Truyện Ngắn Giải Nobel)

Postby bevanng » 01 Feb 2016

NGÔI NHÀ CÓ MA
Virginia Woolf Nhà văn Anh - Giải thưởng khu vực

Dẫu bạn thức giấc vào bất kì giờ khắc nào thì cánh cửa vẫn đang khép lại. Họ đi từ phòng này sang phòng kia, tay trong tay, nhấc cái này, mở cái kia, chắc chắn… một đôi vợ chồng mà.
“Ta để nó ở đây,” vợ bảo. Và chồng tiếp lời, “Ồ, nhưng đồ nghề ở đây”. “Ở trên gác,” vợ thì thầm. “Và trong vườn,” chồng khẽ nói. “Yên nào,” họ nói, “Nếu không ta sẽ làm mọi người thức giấc.”
Nhưng đấy không phải là nguyên nhân bạn làm chúng tôi thức giấc. Ồ, không.
“Họ đang tìm nó; họ đang kéo rèm,” một người có thể nói, và thế là tiếp tục đọc một, hai trang. “Bây giờ họ đã tìm thấy nó,” một người hẳn sẽ khẳng định, đang dừng bút chì trên mép giấy. Và rồi, mệt mỏi do đọc, một người có lẽ đứng dậy, nhìn ngắm một mình, ngôi nhà trống rỗng, những cánh cửa đang mở, chỉ có đám chim câu rừng đang nhặng lên và tiếng o o của máy đập lúa từ nông trại vọng đến. “Mình đến đây làm gì? Mình muốn tìm kiếm cái gì?” Tay tôi trống rỗng. “Vậy thì chắc nó ở trên gác?” Táo để ở trên gác. Rồi lại trở xuống, khu vườn vẫn tĩnh lặng như mọi khi chỉ có cuốn sách trượt nằm trên cỏ.
Nhưng họ đã tìm thấy nó trong phòng khách. Chẳng ai có thể nhìn thấy họ. Kính cửa sổ phản hình mấy quả táo, bông hồng; lá cây xanh rờn trong kính. Nếu họ vào phòng khách thì táo sẽ chuyển sang phía màu vàng của nó. Nhưng nếu lát sau, cửa mở ra, quét trên sàn, tựa vào tường, đèn chùm trên trần… thì gì nhỉ? Tay tôi trống không. Bóng của con sơn ca vút qua thảm; Từ dưới những cái giếng lặng câm sâu nhất chú bồ câu rừng cất lên lời. “Bình yên, bình yên, bình yên” mạch của ngôi nhà khẽ đập. “Tài sản đã chôn; căn phòng…” mạch dừng lại một lát. Ồ, đấy là tài sản được chôn sao?
Lát sau ánh sáng phai dần. Vậy thì ở ngoài vườn chăng. Nhưng vườn cây đã quây một giọt nắng lang thang trong bóng tối. Rất tuyệt, rất hiếm, cái lạnh chìm bên dưới bề mặt bóng nắng tôi thấy luôn bốc cháy sau tấm kính. Cái chết là tấm kính; cái chết ở giữa chúng tôi, đến với phụ nữ trước tiên, hàng trăm năm trước, rời bỏ ngôi nhà, niêm phong tất cả cửa sổ; những căn phòng tối đen. Hắn rời bỏ nó, rời bỏ nàng, đi lên phương Bắc, đi về phương Đông, thấy những ngôi sao đổi hướng trên bầu trời miền Nam; tìm kiếm ngôi nhà, tìm thấy nó rơi xuống vùng đồi đá vôi. “Bình yên, bình yên, bình yên,” mạch của ngôi nhà đập vui vẻ. “Gia tài của bạn.”
Gió rộ trên đại lộ. Cây cối rạp xuống ngả nghiêng. Ánh trăng lấp lánh nhảy nhót hoang dại trong mưa. Nhưng ánh đèn vẫn cứ từ cửa sổ chiếu thẳng ra. Ngọn nến bình thản cháy. Lang thang qua ngôi nhà, mở cửa sổ, thì thào để không làm chúng tôi thức giấc, đôi vợ chồng ma đang tìm kiếm trò vui.
“Chúng mình đã ngủ nơi đây,” vợ nói. Và chồng tiếp lời. “Hôn nhiều đến không đếm xuể.” “Đi dạo buổi sáng…” “Bạc ở giữa vườn cây…” “Trên gác…” “Trong vườn…” “Khi mùa hè đến…” “Trong mùa đông tuyết rơi…” “Những cánh cửa đang đóng đằng xa kia, nhẹ nhàng gõ hết nhịp tim.” Họ đến gần hơn, dừng trước những cửa. Gió đổ, mưa quăng ánh bạc lên kính. Mắt chúng tôi tối đen chúng tôi không còn nghe tiếng bước chân bên cạnh, chúng tôi không nhìn thấy phu nhân vung chiếc áo choàng ma quái của nàng. Tay chàng che ngọn đèn lồng. “Nhìn kìa.” Chàng thì thầm. “Tiếng ngủ. Tình yêu đọng trên môi.”
Cúi xuống, đưa ngọn đèn bạc lên chúng tôi, họ nhìn thật kĩ và thật lâu. Họ dừng lại lâu. Gió thổi mạnh; ngọn đèn khẽ chao. Ánh trăng dài chiếu qua sân và tường, và gặp, nhuộm những khuôn mặt đang cúi xuống, những khuôn mặt trầm ngâm; những khuôn mặt quan sát những người ngủ và tìm kiếm trò chơi đang ẩn nấp của mình.
“Bình yên, bình yên, bình yên,” trái tim của ngôi nhà đập tự hào. “Nhiều năm…” chồng thở dài. “em lại tìm thấy ta.” “Ở đây,” vợ thì thầm, “đang ngủ đang đọc trong vườn; cười vang, lăn táo vào trong nhà. Nơi đấy chúng mình đã để lại gia tài…” Cúi mình, ánh sáng của họ nhắc sự thiển cận trên mắt tôi. “Bình yên? Bình yên! Bình yên?” mạch của ngôi nhà đập nhanh. Thức giấc, tôi kêu lên “Ôi, đây là tài sản được chôn giấu của mày ư? Ánh sáng trong tim.”
Lê Huy Bắc dịch
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Christiane

Re: Gái Hai Chồng (Tuyển Tập Truyện Ngắn Giải Nobel)

Postby bevanng » 02 Feb 2016

THẰNG BÉ NGÃ TỪ ĐỘ CAO 12 MÉT
Elizabeth Graver Nhà vãn Mỹ - Giải thưởng O’ Henry

Cô bé mà nó yêu nhanh nhẹn và rụt rè, nhỏ bé nhất lớp. Thường thì cô bé chẳng nói gì, nhưng một hôm cô đã mở miệng và rông lên khi thầy giáo - lúc đó đang là giờ học tiếng Pháp - hỏi cô làm gì vậy và cô liền đáp bằng tiếng Pháp: Thưa thầy em là con sư tử. Và thế là nó muốn ngửi mùi hơi thở của cô bé và đặt tay lên cổ họng gầm gừ của cô.
Thằng bé mà nó yêu học ở lớp phía trên và từ đất nước Á Rập xa xôi đến đây, tên nó là Rachid. Khi những đứa khác mặc màu xanh nước biển, thì Rachid mặc màu đỏ. Khi những đứa khác cắt tóc ngắn, thì Rachid để mớ tóc quăn của mình dài quá tai. Khi những đứa khác túm tụm trước một trận đá bóng, quàng tay lên vai nhau và gào lên thì thằng bé Á Rập đứng một mình và nhắm mắt lại, và có nó thì bao giờ chúng cũng thắng.
Thằng bé không hiểu tại sao ai cũng có thể chạy nhanh như thế, Rachid khuấy động cả sân bãi. Nó không biết tại sao người ta có thể bám sát quả bóng và lia nó bay theo một đường cong, nhẹ nhàng vào lưới như thế. Cuối cùng thì điều đó không quan trọng bởi vì niềm hạnh phúc suýt làm nó ngạt thở khi nó lao ra và biết rằng chẳng còn gì phá được bàn thắng của nó nữa. Nó hít lấy mùi chua đan quyện của cỏ và bùn, nó nhảy cẫng lên cùng những thằng bé khác. Sau đó, lúc ngồi trong phòng kín so sánh các vết thương, chúng cùng hát với nhau, bài hát ở trường, hoặc thứ gì đó tục tĩu, hoặc bản Thánh ca nhuốm màu châm chọc. Đối với thằng bé chỉ có vài thứ so được với điều đó: thử chân vào đôi giày mới, vặn mẩu vỏ cam cho tới khi nó phọt nước ra, ngủ quên trong xe hơi và mùi xăng. Có quá nhiều chuyện để nghĩ tới và cũng có quá nhiều cách để tẩy nó ra khỏi đầu, - nó nghĩ. Bác nó vẫn hay nói với mẹ nó như thế này: “Hãy đi xem phim, đi cắt tóc, làm thứ gì đó để đẩy nó ra khỏi đầu”. Và nó hình dung đầu mẹ nó giống như cái khay đựng bữa sáng, võng lại ở giữa vì sử dụng quá tải. Ở nhà một mình trong phòng, nó thường đặt tay lên đỉnh đầu, xoa dọc xuống mặt, qua bộ ngực lép, xuống đầu gối và xuống chân. Đôi khi nó nằm xuống sàn và cố co chân vắt ra sau cổ như kiểu Người Vặn. Nó có khá nhiều thời gian để làm việc này và chắc chắn rằng cuối cùng sẽ thành công.
Mẹ nó có một việc làm có thể kiếm tiền cho gia đình. Nhưng, mẹ nó nói, công việc thư ký buộc bà phải suy nghĩ đôi chút tới son môi, tất và kiểu tóc. Bà có cái máy vi sóng, nhanh và đơn giản, một ít nhựa thông đắng để đun nước nóng cho bồn tắm - phương thuốc duy nhất để chữa đau cơ và tẩy bụi bậm của thành phố. Thường thường họ lên giường ngủ cùng một lúc, sau đó mẹ nó thường nằm trong phòng để xem một bộ phim tâm lý hoặc phim phương tây cũ nào đó trên ti vi. Một lúc sau các giọng nói làm nó tỉnh giấc và ngơ ngác không biết ai nói chuyện trong nhà nó thế nhỉ. Ở trường, thầy cô giáo thấy nó dễ thương và dễ sai bảo, thường họ nhờ nó mở cửa sổ, đóng rèm, hoặc xóa bảng. Nó làm mọi việc đó với nụ cười gượng ép và đầu nó nghĩ tới cô bé sư tử hoặc thằng bé Ả Rập hoặc việc gì khác. Cứ mỗi lần biết hoàn cảnh của nó các thầy cô giáo lại tìm cách nói chuyện với nó ở ngoài lớp học, nhưng mắt nó thường lơ đãng nhìn cửa sổ hoặc cửa ra vào và nó trả lời: “Em khỏe, bà cũng khỏe, ông ấy khỏe, chúng em khỏe cả”, cứ như đang chia động từ. Mẹ nó thường để lại mẩu giấy “Chào con. Trở về nhà lúc chín giờ, có phim đặc biệt trên ti vi vào lúc 8 giờ” hoặc “Đừng trả lời điện thoại vì có thể đó là người của công ty bảo hiểm”. Đôi khi bà mang từ nơi làm việc về cho nó cây bút. Khi từ bệnh viện về đến nhà, bà bước vào và nói chúc ngủ ngon và tỏ thái độ cảm kích vì nó quả đã trưởng thành, giỏi chịu đựng bởi vì theo lời bà nói thì thêm bất cứ chuyện trục trặc gì xảy ra, bà sẽ vỡ tung ra mất, nó không thể tưởng tượng ra điều đó.
Khi bà mang nó theo, điều này không thường xuyên lắm, nó mua kẹo trong cửa hàng và lê đôi giày qua các sàn nhà bóng loáng. Một hôm cô hộ lý đưa cho nó cái găng tay phẫu thuật bằng cao su, nó thổi phồng lên như cái * bò. Một người phụ nữ ngồi trên xe đẩy vẫy nó xuống và đề nghị kể chuyện Bessie Bò. Thằng bé nói rằng nó không biết, nó cảm thấy lúng, túng và ngượng ngập, tuy nhiên, nó vẫn đứng như hóa đá với chiếc găng tay phồng. Nó cực kỳ tò mò muốn biết kia có phải là chân bà ta không, hay là một cái gì đó vô hình? Người đàn bà mỉm cười, đầu không động đậy. Bà ta hỏi tên nó, và nói những từ rời rạc. Nó muốn hất tung tấm vải phủ trong lòng bà ta, nhưng mẹ nó đã tới và xin lỗi người đàn bà, quở trách nó sao không đọc truyện vui ngoài ghế đá. Đó là lý do tại sao mà trẻ con chỉ thỉnh thoảng mới được đến thăm nơi đây thôi. Nhân viên ở đây sợ rằng chúng sờ mó thứ gì đó hoặc làm ồn.
Đến khi vào ban đêm thằng bé cuộn tròn ôm lấy chiếc gối, đôi khi nó chơi đố chữ và lẩm bẩm một mình: “Ông già mình đang đá xô, bố mình sẽ đi xa, cha mình sẽ chết sớm”. Ở trường chỉ có mỗi mình nó là như thế, nó nghĩ, mặc dù không chắc chắn lắm. Nó thường tưởng tượng rằng nó sống một mình và gần như đúng sự thật. Xưa nay nó vẫn luôn sống một mình. Một lần nó đọc chuyện về những người da đỏ Maya đang đợi ngày tận thế, nó nhận ra rằng cuộc sống của nó đã trở nên lạnh lùng và căng thẳng như quả bóng bay. Đó là vì nó đã lên tám tuổi cách đây vài năm. Cơ thể nó đã bắt đầu khiến nó tỉnh giấc vào ban đêm, và các cơ thể của bố nó bắt đầu gậm nhấm từ bên trong ra, từ đó trở đi nó bắt đầu lặng lẽ chờ đợi mọi thứ chấm dứt và bắt đầu.
Ra khỏi trường, nó đưa mắt tìm hai người. Cố tách riêng ra một mình, mặc áo mưa kể cả trong những ngày nắng nhất, Rachid đứng tựa vào bức tường gạch và đợi các bạn, hét toáng lên khi họ xuất hiện, ầm ỹ như xe hơi trong đường ngầm và ra về, không thèm nhìn lại phía sau. Thằng bé nghĩ, nhà nó chắc phải đầy người tới mức đi vào chỗ nào cũng không thể không đâm sầm vào ai đó, có lẽ tất cả bọn trẻ con ngủ trên một chiếc giường lớn. Cô bé sư tử thì có một anh trai học cao đẳng, một lần ở lớp cô ta đã nói thế. Nếu cô ta mà ăn nhiều đường quá, thì sẽ có chuyện xấu xảy ra với máu của cô, cô ta sẽ xanh xao, tay sẽ mọc lên mặt và mặt sẽ mọc ở đầu gối. Nó biết nói thứ cô ta mặc, màu các quyển vở, và số khóa của cô bé là: S417. Nó hầu như thành thạo cách liếc nhìn con bé, nhưng khi bị cô ta bắt được thì nó lại ước giá gì mình không nhìn và vướng víu như người ngậm đầu bút chì trong miệng.
Bố nó nói rằng thứ thuốc người ta đưa cho nó sẽ khiến nó cảm thấy nhẹ nhõm và thay đổi cảm giác trên da nó. Vì thế nó băn khoăn không biết nó có mọc lông tơ như quả đào hay không. Trước đây ông ta đã từng là giám đốc của cửa hàng thể thao và bây giờ, thường những lúc không ngủ được, ông nói với cậu con trai rằng ông đang nhẩm trong đầu bảng kiểm kê. Thằng bé tưởng tượng ra một dây quần áo thể thao, vợt ten nít, đệm hốc cây để bảo vệ các vận động viên va vào nhau.
Xem nó mừng như thế nào khi nó được gặp anh, mẹ nó nói khi chồng bà nhắm mắt lại. - Nó sẽ có một ngày thực sự vui vẻ.
- Con phải đi tắm đây, - thằng bé thì thầm.
- Hãy tạm biệt bố đi.
- Con phải đi, - nó nói và mẹ nó dắt nó ra.
Phần lớn các buổi chiều nó về nhà để đọc các tờ nhắn hàng ngày của mẹ và biết chắc không có gì thay đổi, sau đó nó đội chiếc mũ chơi bóng chày màu vàng bẩn thỉu lên đầu. Người ta không cho nó đội chiếc mũ này ở trường, nó vươn vai và đi lang thang hay rình mò. Mẹ nó gọi là đi lang thang, “lang thang vớ vẩn”, nhưng thằng bé thì thích từ rình mò hơn, giống như một con thú, nghe có vẻ bí mật, cuối cùng sẽ tóm được cái gì đó. Có lẽ nó biết về hàng xóm láng giềng ở đây ít nhất cũng bằng bác đưa thư, hoặc bằng bọn lang thang, hay lũ chó lạc nhìn quanh các ngóc ngách rồi mới tới.
Một buổi trưa tháng Năm, khi mẹ đi làm, thằng bé ngồi vắt vẻo lên thùng thư, xem xét đế chiếc giày thể thao, nó làm cho lòng bàn chân bên trong mỏng hơn những chỗ khác.
Phải làm gì đó, nó tự nhủ, thế là nó nhảy từ thùng thư xuống, đi vào một cái ngõ và đá chiếc thùng rác, cho tới khi mũi bàn chân tê đi và nó đã làm cho chiếc thùng bẹp một miếng nhỏ.
Gì nữa nhỉ, nó nói một mình. Đi xuống dọc bờ sông, chỗ đó có nhiều chuột. Thế là nó đi qua cửa hàng Trung Quốc, qua các vỉa hè mà ở đó nó trông thấy một ông đang nôn mửa vào bàn tay, qua sân bóng rổ, ở đó đã có lần bố chơi với nó dưới ánh mặt trời nóng. Lúc thằng bé cũng không biết nó có vui sướng với quả bóng màu da cam mới, với buổi chiều dành cả cho thể thao hay không, hay là bối rối trước cái bụng hơi phệ của bố, và việc nó hò hét quá to, bảo bọn trẻ bên sân bên kia rằng quả bóng của họ có thể bay sang đấy nhé.
Thằng bé thọc tay vào túi quần và nghĩ sẽ có một ngày nào đó chỗ này sẽ không còn sân bóng nữa, không còn bóng rổ và tất cả những thằng bé kia sẽ biến hết đi. Nó sẽ cố gắng biến thành phố này giống như trước kia, chỉ có không khí, một hoặc hai con chó gầy trơ xương và rác.
Nó nhìn thấy một đồng xu trên nắp cống và nhặt lên. Khi nó đi qua chỗ một người đàn bà đang làm kem ốc quế, nó dừng lại xem. Nó nhìn thấy giàn giáo và những người đàn ông đội mũ nặng trịch và mặc áo da, nó vòng lại chỗ người ta không làm nữa và leo lên. Ớ tầng thứ nhất, nó tìm thấy một túi giấy đựng bữa trưa của ai bỏ lại. Ở tầng hai nó thấy một đống đinh ốc vít, bèn thả vào túi một ít. Việc leo trèo nhắc nó nhớ đến cơ thể nó, đôi cánh tay đang kéo nó lên, bàn tay vòng qua những ống sắt ấm ánh mặt trời, hai ống quần bó chặt lấy chân. Nó vượt qua các cửa sổ như một cái bóng và ước lượng độ cao khi nó lên đến tầng năm, sau đó lên tầng sáu, rồi tầng thượng. Tới tầng thượng nó nằm áp xuống những tấm gỗ ram ráp, và ghé mắt nhìn qua các kẽ nứt. Bên dưới nó hình dung ra mọi người đứng thành một vòng tròn - mẹ nó, bố nó, thằng bé Ả Rập và cô bé Sư Tử. Bố nó quàng tay giữa mẹ và Rachid, cô bé nhỏ xíu đứng tách riêng.
Bốn gương mặt chụm lại về phía nó như những hành tinh to nhỏ khác nhau, chỉ nằm thu hẹp trong lỗ nứt. Họ tụ tập ở đây để nhìn lên nó, chăm sóc nó. Họ tới đây để thán phục từ xa. Thằng bé lại nhìn xuống dưới và thấy một chiếc taxi, một chiếc xe tải đang đi, một người đàn ông với chiếc xe đẩy mua hàng, một thằng bé đẩy đít một thằng bá khỏe leo lên tường. Nó dúi đầu xuống tấm gỗ để ngửi mùi cô bé, nhưng nó chỉ ngửi thấy mùi nhựa thông. Nó lại ép người xuống sàn lần nữa và cảm thấy trái tim va vào xương sườn nhọn của nó.
Cuối đường hẻm là con sông, gần con sông là khu công trường. Ở đó, nó thường tìm chuột rìa công trường, một chiếc cần cẩu vàng vươn cổ qua lối đi tạm thời và một cái hố. Một người phụ nữ đang đi dọc lối. Có một chuyện chưa từng có và có lẽ không bao giờ có nữa đã xảy ra. Chiếc cần cẩu hạ xuống để nhấc khối kim loại lên, nhưng mất thăng bằng và nhào về phía trước như con chim sắt khổng lồ ba mươi lăm tấn. Tất cả chỉ trong giây lát: vỉa hè nứt toác, khối kim loại nặng nề lao đi, khi bộ cần cẩu xô vào tấm gỗ xuống lưng chừng hố. Đất nứt tung tóe. Sau đó nghe có tiếng kẽo kẹt, yên lặng trở lại, bộ cần cẩu dựa chênh vênh vào thanh gỗ bị đẩy rời khỏi chỗ, đè lên đùi người phụ nữ nằm dưới đất.
Từ trên giàn giáo, thằng bé nhìn thấy ánh đèn vàng và nghe có tiếng đào bới rồi nó nghe thấy tiếng còi rúc và bắt đầu trèo xuống. Lúc nó chạy hết dọc con hẻm tới công trường thì người phụ nữ mở mắt nhìn khối sắt ép lên chân, khiến các giác quan trôi tuột khỏi bà, chúng hoạt động một cách ngu ngốc, đau tới mức bà thấy mình đã bị mang sang thê giới khác.
- Có một bà ở dưới này, - một cậu thiếu niên nói với thằng bé. Và hai đứa cùng những người khác đứng quanh khu vực đã được chăng dây. Vài người đóng đỉnh, vài người cầu nguyện, người ta đã dẫn tới một linh mục.
Có lẽ, thằng bé nghĩ, họ cần ai đó nhỏ bé và cẩn thận để mang thứ gì đó xuống cho bà ta. Cảnh sát và bác sĩ đã liên lạc được với người đàn bà. Bà ta đã giật sợi dây mà người ta thả xuống hai lần để nói “không, tôi không thể nhấc nổi chân”, giật một lần để nói “vâng, tôi vẫn ổn cả”, giật một lần để nói “vâng linh mục”.
Họ biết là bà ấy còn sống nhưng không biết làm thế nào để chuyển cần cẩu đi. Cậu thiếu niên nói và chúng nhòm ngó chiếc máy dựa vào một bên thành hố, tạo thành một góc nguy hiểm, dường như chỉ chực lăn thêm xuống nữa.
- Làm không đúng là bà ấy đi đời, hả?
Thằng bé gật đầu và lui ra, luồn lách qua đám đông tới mép khu căng dây, nghển cổ ra nhìn.
Mình nhỏ người, nó nghĩ. Mình có thể chui vừa xuống hố mà không có gì khó khăn. Sau đó giúp bà ấy ra. Nhưng khi nó đang ngó xuống hố, thì một cảnh sát đã lôi nó lên, như lôi một con chó dại và bảo nó về nhà.
Thằng bé đứng như pho tượng, như thể nó không nghe thấy gì, viên cảnh sát vẫy tay trước mặt nó.
- Hù, hù, nhóc, ta đang nói với cậu đấy. Trẻ con không được vào chỗ này. Biến đi không ta sẽ cho mi vào đồn.
Thế là thằng bé rời khỏi chỗ người đàn bà và chiếc cần cẩu rồi quay lại chỗ giàn giáo nhưng lại đang có người làm việc ở chỗ vừa rồi của nó. Nó đi dọc xuống một con hẻm khác, gần về tới nhà, nó đá vào một cái thùng rác rỗng nằm nghiêng khiến nó lăn đi. Sau đó nó nhảy lên trên, mất thăng bằng, ngã, rồi đứng dậy, lại nhảy lên, thăng bằng và ngã xuống con hẻm như một chiếc máy sắp hỏng, tới khi quần áo nó lấm đầy bùn đất các vết sứt sẹo khắp trên má và cánh tay khi tới cuối con hẻm, nó rẽ sang đường khác và quay lại. Lần này nó nói thầm: “Được rồi! Được rồi” và nắm chặt chặt hai bàn tay, nó đã tìm được cách.
Vấn đề là di chuyển chân sao cho cùng tốc độ với thùng rác, à không, di chuyển hơi chậm hơn một chút, bởi vì chân đẩy thùng rác về phía trước và khiến nó chuyển động. Vấn đề là phải ngả người ra phía sau vừa đủ để khỏi nhào qua mé trước, nhưng không nhiều quá để khỏi bị tụt về phía sau. Nhảy và thăng bằng, nó nghĩ, thăng bằng và nhảy. Nó nhớ lại các vận động viên thể dục vẫn đến cửa hiệu của bố nó, kiểu cách dè dặt khi họ nói về các môn thể thao. Nó thấy đã đi được ba mét, bốn mét, sáu mét một lần, cánh tay vẫy vẫy như một người điên. Nó là người duy nhất trong con hẻm lúc đó, và nó chẳng nghe thấy thứ âm thanh gì khác ngoài tiếng bùng bùng của thùng rác, tiếng chân đập thình thịch và hơi thở nặng nề của nó. Nó chẳng cảm nhận được gì ngoài chính cơ thể của mình, cho tới khi một cánh tay giật mạnh người nó khỏi cái thùng rác đang lăn, làm nó ngã khuỵu gối về phía trước.
- Mày lúc nào cũng xoáy của người ta thế à? Một giọng nói vang lên khi thằng bé nhỏm dậy, một cánh tay đặt lên vai nó và lắc mạnh. Nó nhăn nhó vì chỗ đau ở mắt cá và nhắm mắt lại như lúc mẹ nó quát mắng. Nó nghe thấy:
- Mày ở đâu đến đây? Mày tưởng thành phố này là sân phơi chó chết của mày chắc? Mày không có việc gì hay ho hơn để làm à?
Sau đó cái giọng ấy dừng lại, thằng bé mở mắt ra và thấy một người đàn ông thô kệch mặc áo phông đỏ, dắt một cô bé nhỏ xíu bên cạnh.
- Mày không có gì để nói ư? - Người đàn ông nói.
- Bố chết rồi, - thằng bé nói, lời nói chơi vơi trong con hẻm như tiếng chuông lơ lửng, nó biết điều đó là đúng sự thật.
- Chó thật, - người đàn ông nói, và giơ tay lên xoa đầu cô gái. — Hôm nay à? - Ông ta hỏi, và thằng bé gật đầu rồi nhìn đôi giày thể thao của nó, lúc này đôi giày được phủ một lớp bụi đất khá dày.
- Chó thật, - người đàn ông nói. — Mày nên về nhà đi. Ở nhà có mẹ chứ?
Thằng bé há miệng định nói không và kể với người đàn ông rằng nó sống một mình, nó luôn luôn sống một mình, nhưng thay vào đó nó gật đầu, và người đàn ông nói:
- Được, tốt lẳm, - ông ta ôm cổ cô gái. - Mày nên về nhà đi, - ông ta nhắc lại, thằng bé nói “vâng” và quay đi.
Trên đường về nhà, nó lẩm bẩm: “Bố chết, mẹ chết, không có ai chú ý, vì đây là một thành phố.” Khập khiễng vì trẹo chân, cường điệu cơn đau lên một chút, nó thử hình dung ra bố nó cũng bị đau như thế, cơn đau ghê gớm nhất. Nó nung nóng người ta lên như hòn than tới khi cơ thể biến thành màu trắng, rồi màu xám và biến mất. Trước đây, thằng bé chưa bao giờ được biết mùi bệnh viện, về những cái giường nâng lên, hạ xuống như ghế của nhạc sĩ, bệnh nhân ăn uống qua ông cao su.
Bố mình, nó nghĩ thế, là một kẻ thật thà chết tiệt. Mẹ nó đã nói thế qua điện thoại với bà chị gái: “Em biết nói với lão ấy thế nào về những gì bác sĩ nói đây? Chị phải tới bảo trực tiếp lão ta là kẻ thật thà chết tiệt”. Bố nó cao có lông ở lỗ mũi và trên lưng, có kiểu lắc đầu như ngựa. Đó là tất cả những gì mình biết. Tất cả những gì mình còn nhớ, bởi vì những thứ khác sau này mới xảy ra. Nó ngồi lên cái bệ gần nhà và cúi đầu xuống gối.
Mày là thằng người rởm, nó nói một mình. Mày là thằng đầu rỗng - nó đứng dậy và cố nghĩ ra thứ gì đó để làm, nhưng nó quá mệt mỏi, dường như có ai đó hút hết máu ở người nó. Nó cố nặn ra thứ gì đó nó thích, nhưng đầu óc nó trống rỗng, và thế là nó nghĩ ra thứ gì nó ghét và nhớ lại: một lần, bố nó vả vào một bên má nó, vì đã nhét bút chì vào đèn báo trong bếp. Đấy không phải là cái tát nhẹ nhàng để răn đe. Cái tát làm sái cổ nó, hằn lên một vết đỏ trên mặt. Sau đó nó dùng cái bút đó để châm những cái lỗ nhỏ li ti trên đệm xe hơi của bố.
- Chó thật, chó thật, - thằng bé thì thầm vào hai tay, bởi vì nó rất nhớ bố nó.
Khi nó về tới nhà, mẹ nó vẫn chưa về, nó kéo màn che và bò vào giường. Một lúc sau, mẹ nó về, ngó vào phòng nó và nói: “Ngủ rồi à? Mới chín giờ, nó quay đi để lộ ra vết sứt sẹo. Mẹ nó mặc áo bó màu da cam và váy in hình hoa oải hương - bà bao giờ cũng chỉ mặc những màu sáng nhất. Khi nhìn nó, bà thở dài và nói, “Ồ không, không đánh nhau đấy chứ?” và bật ngọn đèn ở cạnh giường.
- Có phải lại đánh nhau không? - Bà nói và cởi khuy chiếc áo ngủ để xem nó đau chỗ nào. Nó lắc đầu trả lời, và sau đó lần đầu tiên, ít nhất là trong năm nay, nó khóc trước mặt mẹ nó.
- Thế đấy. Những thằng con hoang ấy, - bà nói, và ngồi ghé xuống giường nó - Những thằng ranh ở cái thị trấn nhỏ khốn kiếp. Mẹ sẽ phải chuyển con tới trường khác. - Mẹ nó giơ tay ra để vuốt lại chăn trên người nó và hít một hơi như đang lấy nghị lực. - Kể mẹ nghe xem nào.
Thế là nó kể cho mẹ nó nghe chuyện nó đã đi xuống bờ sông như thế nào, ở đó có chiếc cần cẩu thật to.
- Mẹ biết không, chỗ đó người ta đang xây chung cư - Và khi con đang đi loanh quanh tìm chuột, bỗng nhiên đất dưới chân sụt xuống.
- Không, - mẹ nó nói. - Mẹ đã nghe chuyện đó rồi? Người ta kể đi kể lại chuyện đó ở bệnh viện.
- Vâng, và con rơi xuống sáu mét, có lẽ phải chín mét, hay mười hai mét, - nó kể, và mẹ nó xích vào ngồi gần nó hơn, rồi cầm lấy tay nó.
Khủng khiếp quá. Ơn Chúa, con không bị thương nặng lắm. Lẽ ra người ta phải mang con vào bệnh viện.
- Con biết, - thằng bé nói và úp mặt vào chiếc áo ngủ. - Chẳng có ai nhìn thấy con, còn có một bà bị vùi dưới cần cẩu. Người ta để một cái thang ở mé bên kia, và con tự trèo ra.
- Thật à? - Mẹ nó nói. - Thật con làm được điều đó ư? Hoàn toàn một mình à?
- Vâng, - nó nói và biết rằng mẹ nó chẳng tin một lời nào.
Bà đang cầm tay nó, sau đó bà nói gì đó, nhưng nó không thốt ra được tiếng nào.
- Gì cơ? - Nó nói, nhưng bà lắc đầu.
- Ông ấy thích bức vẽ của con, mẹ nghĩ thế, - mẹ nó nói và một lúc sau nó không thể nhớ ra được bức vẽ nào. Sau đó nó hiểu ra, đó là bức vẽ bằng mực tàu, gương mặt của ai đó mà nó đã nghĩ ra, à một cô gái.
- Lại đây, - mẹ nó nói, lần đầu tiên từ rất lâu rồi, bà ôm nó như thể nó vẫn còn là một đứa bé, nó hít lấy hơi ấm ở ngực bà, tới khi bà buông ra và bảo rằng bà mệt và phải chuẩn bị đi ngủ.
- Mọi chuyện sẽ ổn thôi, - bà nói, khi đã quay đi, nó lấy ngón tay bịt tai và chui vào chăn, nhưng nó vẫn cảm thấy mẹ nó lảng vảng trong phòng, sau một lát, nó mở chăn ra và hạ tay xuống. - Mẹ rất tiếc, - bà nói từ cửa, chân trong chân ngoài.
- Mẹ rất tiếc về chuyện đó, -giọng bà trầm xuống, sau đó lại cất cao. - Nghỉ ngơi mới là quan trọng phải không? Ngủ ngon nhé, bí ngô?
Bà không biết một điều: nó không thể ngủ được một tiếng, hai tiếng sau khi mẹ nó đi, có lẽ là cả đêm. Nó đập ngón tay vào tường theo nhịp bài hát. Nó cầm cây đàn nhỏ làm bằng vỏ hộp sữa bên cạnh giường và xem xét các góc phòng. Nó đứng dậy và lướt các ngón tay trên các quyển sách và xe ô tô trên giá, sau đó lại quay vào giường, cầm theo cây đèn nháy và một quyển truyện thần thoại, nhưng chữ in quá nhỏ khiến nó căng mắt ra. Mình phải đến, nó tự nhủ, thế là nó tắt đèn và nó nghĩ tới ba mươi đôi ván trượt và tám mươi cây vợt bóng chày, nhưng những con số cứ kéo dài vô tận và làm nó thao thức hơn. Những chỗ ngã ở chân đau nhức nhối.
Mẹ đang ngủ, nó nghĩ, và nó biết rõ trông mẹ lúc này như thế nào, chỗ bụng bằng phẳng dưới làn áo ngủ màu xanh vùi trong cánh tay. Bên cạnh giường là ngọn đèn hình người lính cầm đuốc, dưới gầm giường là đôi dép mềm màu hồng, và ở trên bàn ngủ có những chiếc nhẫn vàng và chiếc đồng hồ được nhà băng tặng, đồng hồ báo thức để 6 giờ 50 phút. Mẹ đang thở nhẹ rồi sâu hơn, miệng trễ, những ngón tay duỗi ra, mẹ đang ngủ.
Bố, nó nghĩ, - nhưng người ta đã đem bố vào một phòng bệnh cũ kỹ vắng vẻ, chẳng có gì đặc biệt và thằng bé chẳng còn biết nghĩ tới điều gì nữa.
Nguyễn Thị Hiền Thảo dịch
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Christiane

Re: Gái Hai Chồng (Tuyển Tập Truyện Ngắn Giải Nobel)

Postby bevanng » 02 Feb 2016

TUYỆT VỌNG

Judith Ortiz Cofer Nhà văn Mỹ - Giải thưởng O’ Henry

Ngay sau khi Dona Ernestina nhận được điện báo tin con trai bà đã chết ở Việt Nam bà bắt đầu phân phát tài sản của mình. Thoạt đầu, chúng tôi không nhận thấy việc làm này của bà. Khi chúng tôi biết được thì đã quá muộn rồi. Người của Quân đội an ủi Dona Ernestina bằng cái tin: “hài cốt” của con trai bà sẽ được “thu nhặt” và chuyển về New Jersey muộn vài ngày, bởi vì còn có những “người” khác thiệt mạng vào ngày hôm ấy. Nói cách khác là bà ta phải đợi xác của Tony được “xử lý”.
“Xử lý” Dona Ernestina nói như nguyền rủa khi kể với chúng tôi. Tất cả chúng tôi cùng đang ở El Basement - đó là tên chúng tôi gọi tầng hầm của tòa nhà: không có cửa sổ chiếu sáng, nồi hơi kêu ầm ĩ tới mức nếu có gào lên kêu cứu vì một vụ giết người thì cũng không ai nghe thấy. Một vài người bắt đầu tụ tập ở đây vào các buổi sáng thứ bảy - những câu chuyện để nói cũng nhiều như quần áo để giặt vậy - nhiều năm qua đi nó trở thành một thứ câu lạc bộ của đám đàn bà. Và chúng tôi gặp nhau ở đây để tán gẫu về chuyện xảy ra suốt một tuần vừa qua. Tuy nhiên thứ bảy này tôi ngại bước xuống bậc cầu thang xi măng ấy. Tất cả chúng tôi vừa nghe tin về Tony.
Phút bà xuất hiện trong bộ đồ tang, tôi hiểu rằng có cái gì đó tan vỡ trong Dona Ernestina. Bà mặc toàn đồ đen, từ đầu tới chân kể cả tấm khăn trùm đầu. Ngược lại, cả Lydia và Isabelita đều quấn lô và mặc áo choàng tắm: đồng phục của chúng tôi trong những lần gặp gỡ vào thứ bảy - cũng có thể là một cách để nói: “Đàn ông không được vào”. Khi tôi tới gần, Lydia liếc nhìn tôi với ánh rụt rè sợ hãi trong mắt.
Dona Ernestina chỉ đợi tôi tới cùng hai người kia cúi xuống bên chiếc máy giặt rồi lại tiếp tục kể chuyện những gì đã xảy ra khi tin tức về Tony được mang đến nhà bà ngày hôm trước. Bà nói giọng lạnh lùng, vẻ mặt khinh miệt, trong bộ đồ đen tuyệt đẹp này trông bà giống như một quý phu nhân bị xúc phạm. Bà xanh xao nhợt nhạt, nhưng mắt bà ánh lên hoang dại. Viên sĩ quan nói với bà rằng đến lúc đó họ sẽ chôn cất Tony với những nghi thức quân đội trang nghiêm; còn bây giờ họ gửi cho bà huy chương và một lá cờ. Nhưng bà nói: “Không, lạy Chúa” trước cái đám tang như thế, bà đã gửi trả lại lá cờ và huy chương có đánh dấu: “Không còn sống ở đây nữa”. Hãy nói với Tổng thống Hoa Kỳ câu tôi nói: “Không, lạy Chúa”.
Sau đó bà đợi phản ứng của chúng tôi.
Lydia lắc đầu, tỏ ý rằng cô ta là người ít nói. Còn Elentina nhìn xoáy vào tôi, buộc tôi trở thành người thay mặt cho tất cả nói lời cảm thông, để khẳng định với Dona Ernestina rằng bà đã làm đúng như mọi người chúng tôi sẽ làm nếu ở địa vị của bà: Vâng, chúng tôi sẽ nói “Không, lạy Chúa” với bất cứ vị tổng thống nào có nhã ý trả cho cuộc đời của con trai tôi bằng vài thứ rẻ tiền và lá cờ nhàu nát.
Dona Ernestina nghiêm túc gật đầu. Sau đó bà nhấc chồng quần áo đàn ông gấp gọn gàng ở ghế sô pha lên (chúng tôi nhặt được chiếc ghế ở bên lề đường) và bà đàng hoàng bước ra khỏi El Basement.
Lydia học phổ thông trung học cùng với Tony òa khóc ngay khi Dona Ernestina vừa đi khuất. Tôi và Elentỉna ấn cô ta ngồi vào giữa hai chúng tôi trên ghế sô pha, ôm lấy cô ta cho tối khi cô ta gần nín khóc hẳn. Lydia vẫn còn trẻ - một người phụ nữ chưa gặp nhiều thăng trầm của cuộc đời. Người chồng mới cưới được sáu tháng của cô vừa nhận được giấy gọi nhập ngũ và họ đã cố gắng để có con - cố gắng rất nhiều. Bốn bức tường của tòa nhà này quá mỏng nên điều đó đã biến thành trò cười ngấm ngầm (trừ Lydia và Roberto) rằng anh ta có nhiều khả năng trốn được quân dịch vì kiệt sức hơn là được làm cha.
- Dona Ernestina không cảm thấy gì sao? - Lydia hỏi giữa những tiếng nức nở. - Bác có thấy bà ấy không, ăn mặc như diễn viên điện ảnh, không một giọt nước mắt khóc con trai?
- Mỗi người chúng ta có một cách thương tiếc khác nhau, - tôi nói, mặc dù tôi không thể không nghĩ Lydia nói đúng rằng người đàn bà này có vẻ như đang đóng kịch. - Bác nghĩ rằng chúng ta cần phải chờ xem bà ấy sẽ làm gì.
- Có lẽ thế, - Elentina nói. - Hôm qua bác có được El Padre thăm hỏi không?
Chúng tôi gật đầu, không ngạc nhiên khi biết rằng tất cả chúng tôi đều được Padre Alvaro, vị linh mục rụt rè của chúng tôi gọi điện tới, sau khi Dona Ernestina khiến ông ta sợ hãi bỏ chạy. Rõ ràng El Padre đã tới căn hộ của bà ngay sau khi nghe tin về Tony, với hy vọng được an ủi bà như khi Don Antonio chết đột ngột hồi năm ngoái. Thái độ của bà lúc đó có thể hiểu được, bà đã chôn cất chồng và vùi theo cả ước mơ của mình.
Cũng như những người phụ nữ cùng tuổi khác, bà mong ước được trở về Island sau khi về hưu, mua một ngôi nhà, được chôn cất trên mảnh đất quê hương bên cạnh người thân. Ở tuổi tôi, những người sinh ra và lớn lên ở đây đã được cha mẹ khắc hình ảnh ấy vào trí não suốt cả cuộc đời. Vì thế khi Don Antonio gục đầu xuống bàn đominô, làm vung vãi các mảnh đồ chơi ưa thích làm bằng ngà và khi người ta đặt ông ta trong bộ complê đẹp nhất ở Nhà Tang Lễ Ramirez, tất cả chúng tôi đều biết phải nói như thế nào vớ người góa phụ đang khóc thương.
Đó là lần cuối cùng chúng tôi thấy cả hai người đàn ông của cuộc đời bà. Tony có mặt - được nghỉ hai ngày trong khóa huấn luyện cơ bản - nó khóc như một thằng nhóc bên gương mặt đẹp của cha và gọi: Ba ơi, ba ơi. Dona Ernestina đã hoàn thành nghĩa vụ của người mẹ, chăm sóc cậu bé hiếu động. Đó cũng là chuyện bình thường, người mạnh chăm sóc kẻ yếu.
Chúng tôi mai táng Don Antonio ở Vườn Tưởng Niệm Quốc Gia, ở đấy có lẽ còn nhiều người Puerto Rico hơn cả Island. Padre Alvaro đọc bài thuyết giáo bằng giọng thầm thì run rẩy hầu như không nghe thấy gì trước tiếng khóc của cậu bé. Một bên cậu ta được nghe mẹ mình, người nổi bật về sự mạnh mẽ và đức hạnh nâng đõ, còn bên kia là Cheo - chủ quán Bodega nơi Don Antonio vẫn chơi đôminô với những người đàn ông cùng tuổi khác trong suốt hơn hai mươi năm qua.
Gần như tất cả mọi người trong tòa nhà dự đám tang này, và nó được tổ chức rất tốt. Dona Ernestina đã cho con trai ra đi chiến đấu vì nước Mỹ và bắt đầu nhận được tiền tuất của chồng. Vài người trong chúng tôi hỏi Dona Iris (bà ta biết bói bài tây) về tương lai của Dona Ernestina và Dona Iris nói: “Có một chuyến đi xa trong năm”. Điều này phù hợp với suy nghĩ của chúng tôi rằng Dona Ernestina sẽ trở về Island và cùng với họ hàng đợi Tony từ chiến trường trở về. Một vài người đàn bà nhiều tuổi trở về nhà khi họ bắt đầu nhận được sự bảo trợ xã hội hoặc lương hưu, nhưng rất hiếm. Tôi thấy hình như thường thì người ta phải chết trước khi giấc mơ trở về Island thành sự thật như trường hợp của Dona Ernestina. Giữa bạn bè, chúng tôi bàn về chuyện nghỉ ngơi ở vùng biển Caribê. Nhưng chúng tôi biết rằng nếu cuộc sống khó khăn với chúng tôi ở đấy thì sẽ còn tồi tệ hơn khi về làng, nơi mà không ai biết chúng tôi (có lẽ họ chỉ nghe nói về cha mẹ chúng tôi trước khi các cụ tới Hoa Kỳ, nơi phần lớn chúng tôi sống thời thơ ấu).
Khi Padre Alvaro khẽ gõ vào cánh cửa, tôi kéo giật nó ra vì nghĩ rằng đó là ông chồng cũ của tôi về cầu xin một cơ hội nữa để làm lại (giống như Miguel gõ cửa xin lỗi vì đã bỏ tôi - khoảng một tuần một lần - khi lão ta muốn vay tiền). Vì thế khi đẩy cánh cửa tôi vác bộ mặt hầm hầm, và vị linh mục đáng thương suýt nữa thì ngất. Tôi thấy ông ta hít sâu vài hơi rồi mới chậm rãi hỏi tôi - ông ta cố giấu tật nói lắp bằng cách kéo dài các từ - xem tôi có biết là Dona Ernestina bị ốm hay không. Khi tôi bảo: “Không, tôi không biết thì Padre Alvaro chỉ đứng trông rất tội nghiệp cho tới khi tôi hỏi ông có muốn vào nhà không. Tôi đã ngủ trên ghế sô pha và xem ti vi suốt cả buổi chiều hôm đó, và tôi không muốn ông ta trông thấy nhà cửa lộn xộn, nhưng chẳng có gì để tôi phải sợ cả. Người đàn ông đáng thương lùi lại một bước mỗi khi tôi mời. Không, ông ta đang vội, ông ta còn vài nhà giáo dân phải tới thăm v.v… Thời buổi này thật khó khăn, ông ta nói, nhiều… nhiều thanh niên sa đà vào nghiện ngập hoặc chết trong chiến… chiến tranh. Tôi hỏi có phải ông ta nghĩ là Dona Ernestina bị ốm không, nhưng ông ta lắc đầu. Người đàn ông đứng ở cửa nhà tôi như đứa trẻ mồ côi với đôi mắt nâu buồn bã. Ông ta khẩn khoản với vẻ quen thuộc: chiếc mũi dài gần chạm tới cằm mỗi khi cười, hàm răng cong to tướng khiến tim tôi như vỡ ra.
- Bà ấy không muốn nói chuyện với tôi, - Padre Alvaro vừa nói vừa mân mê cây thánh giá lớn bằng bạc treo trên sợi dây mỏng quanh cổ. Dường như ông ta còng xuống vì sức nặng của nó, gầy gò và gù lưng.
Tôi cảm thấy rất muốn đãi ông ta một chút súp gà đặt trên bếp, vẫn còn ấm, còn lại sau bữa ăn tối của tôi. Ngược với điều Lydia vẫn nói sau lưng, tôi thích tự nuôi sống mình. Tôi đã không còn gì hạnh phúc hơn khi được trả cái gã Miguel con cưng trở về chỗ của gã bên bà mẹ luôn nghĩ rằng gã vẫn còn là đứa trẻ. Nhưng cái vật thể xộc xệch bên cửa nhà tôi cần được nấu nướng cho ăn hoặc thậm chí một thứ gì đó hơn đĩa thức ăn nóng để sưởi ấm cho cuộc đời ông ta. (Tôi thầm cầu Chúa tha tội vì đã suy nghĩ như vậy về một linh mục của người AyBendino, nhưng ai cũng là xương thịt cả).
- Có lẽ bà ấy cần có thêm chút thời gian nữa, ông Padre ạ, - tôi nói, giọng cảm thông nhất mà tôi có thể. Khác với những người đàn bà khác trong khu nhà này, tôi không tin rằng thực sự cần thiết - thậm chí có ích - phải có linh mục trong lúc khó khăn.
- Con gái, có lẽ con đúng, - ông buồn bã thốt lên, ông ta gọi tôi là “con gái” mặc dù tôi biết chắc mình hơn ông ta năm, sáu tuổi. Tôi hứa với ông ta là sẽ để ý tới Dona Ernestina. Không nói một lời nào nữa ông ta làm dấu thánh và quay đi. Khi tôi nghe thấy tiếng chân bước chậm rãi xuống chiếc cầu thang kẽo kẹt tôi tự hỏi: Linh mục thường mơ thấy gì nhĩ?
Khi tên của El Padre được nhắc đến trong ngày thứ bảy tuần đó, tôi hỏi các bà bạn xem họ nghĩ các linh mục mơ về cái gì. Đó quả là một đề tài phong phú tới mức cả thời gian giặt giũ còn lại chúng tôi dành để tưởng tượng. Trước khi chiếc máy sấy cuối cùng dừng lại tất cả chúng tôi nhất trí rằng chúng tôi sẽ không được dự lễ ban thánh thể trong ngày lễ thánh Misa nếu buổi trưa hôm đó không đi xưng tội và kể cho một linh mục khác, chứ không phải Alvaro nghe những suy nghĩ không trong sạch của mình.
Trước tình trạng của Dona Ernestina, chúng tôi thống nhất là sẽ giúp đỡ bà ấy khi bà ấy gọi, nhưng việc trước mắt phải làm là để bà ta một mình. Lydia cứ nhắc đi nhắc lại một cách ngây thơ rằng “có chuyện gì đó không hay với người đàn bà này”, nhưng cô ta không xung phong đi xem cái gì khiến Dona Ernestina hành động kỳ lạ thế. Thay vì việc đó, cô ta lại nhắc đi nhắc lại rằng cô ta và Roberto nghe thấy tiếng xoong chảo rơi và tiếng xê dịch đồ vật đêm hôm qua - họ hầu như không thể ngủ được. Isabelita nháy mắt với tôi sau lưng Lydia. Lydia và Roberto vẫn không hay biết gì: nếu họ có thể nghe thấy chuyện gì đang xảy ra ở số nhà 4D thì bọn tôi còn nghe rõ tiếng trong nhà số 4A. Họ như những đứa trẻ, cứ tưởng chính mình đã phát hiện ra chuyện gối chăn. Tôi tin rằng có thể viết một thiên tiểu thuyết từ các câu chuyện trong khu nhà này.
Ngày chủ nhật, Dona Ernestina không đi dự Misa, tôi tránh mặt Padre Alvaro để ông ta khỏi hỏi về bà. Nhưng tôi lại lo. Dona Ernestina là một con chiên sùng đạo, cũng như nhiều người trong chúng tôi bà ta không làm như linh mục và cha ra lệnh, nhưng lại biết kính Chúa. Chỉ có bệnh nặng hay chuyện bi thảm gì xảy ra mới khiến bà ta không dự buổi lễ Misa. Vì thế sau đó tôi đi thẳng tới gõ cửa căn hộ của bà. Không có tiếng trả lời mặc dù tôi nghe có tiếng kéo lê, như có người đang chuyển đồ đạc. Ít nhất là bà ấy cũng đang đứng và đi lại. Có lẽ việc nhà là thứ bà ấy cần để thoát khỏi cơn choáng váng.
Tôi quyết định hôm sau thử đến một lần nữa.
Khi tôi đi ngang qua phòng Lydia, cô ta mở cửa - tôi biết cô ta đã theo dõi tôi qua lỗ cửa - bảo với tôi rằng đêm hôm qua lại có nhiều tiếng động hơn. Lydia mặc bộ áo ngủ trông như búp bê. Mặc dù cô ta chỉ thò mũi ra, nhưng tôi vẫn thấy Roberto mặc bộ đồ lót làm cái gì đó trong bếp. Tôi không thề không nghĩ đến Miguel và tôi trong lần đầu tiên ở bên nhau. Chúng tôi như một khối thuốc nổ. Sau một đêm cuồng nhiệt tôi vừa đi quanh nhà vừa nghĩ: không được châm thuốc cạnh tôi, không đốt lửa. Có mang vật liệu rất dễ cháy. Nhưng khi bà mẹ xuất hiện ở cửa, người đàn ông bốc lửa hóa thành đống tro dưới chân bà ta.
- Hãy đợi và xem chuyện gì đang xảy ra. - Tôi nói với Lydia.
Chúng tôi không phải chờ đợi lâu. Thứ hai Dona Ernestina gọi điện mời chúng tôi tới gọi hồn cho Tony, một buổi cầu lễ cầu hồn, trong căn hộ của bà. Tin đó lan nhanh. Mọi người đều muốn làm gì đó cho bà. Cheo góp thịt gà và các sản phẩm đủ loại của đảo. Vài người góp chung nhau làm món bánh phết mứt để tráng miệng. Dona Iris làm hai tá bánh nướng nhân thịt và gói vào lá chuối, thứ mà bà vẫn cất trong tủ lạnh để dành cho bữa tiệc Giáng Sinh nổi tiếng của mình. Đám phụ nữ chúng tôi mang tới những đĩa thức ăn bốc khói, còn đàn ông mang rượu rum Palo Viejo cho họ và rượu Manischewitz cho phụ nữ. Chúng tôi đã chuẩn bị để nói lời chia buồn và cầu nguyện cho linh hồn của Tony.
Dona Ernestina ra đón chúng tôi ở cửa và dẫn vào phòng khách, đèn đã tắt hết. Bức ảnh Tony và ảnh của người chồng quá cố Don Antonio đặt trên mặt bàn, bao quanh là hơn một tá nến. Cảnh ma quái này khiến cho mấy phụ nữ đứng tuổi phải làm dấu thánh. Dona Ernestina đã xếp ghế gấp bên cạnh bàn và mời chúng tôi ngồi xuống. Bà không bảo chúng tôi mang thức ăn và đồ uống vào bếp. Bà nhìn chúng tôi lần lượt từng người một như đang đứng trước lớp học, sau đó nói:
- Tôi mời các ông bà tới đây để tạm biệt chồng tôi là Antonio và con trai tôi Tony. Các ông bà đã là bạn, là hàng xóm - của tôi suốt hai mươi năm, nhưng họ là cả cuộc đời tôi. Thế mà họ đã đi rồi. Tôi thật là tuyệt vọng, tuyệt vọng, tuyệt vọng.
Từ ấy như một dòng nước xoáy hút mọi thứ xuống đáy. Nghe bà nói đi nói lại từ này mãi khiến tôi cảm thấy như bị ném xuống một cái hang tăm tối. Những người khác cũng lo lắng lắm nhưng ở đây còn có cả một người đàn bà đắm chìm trong đau khổ. Chúng tôi phải để cho bà ấy tự do. Bà nhìn quanh phòng rồi bước ra không nói thêm một lời nào nữa.
Chúng tôi ngồi trong im lặng, liếc trộm nhau và bắt đầu nghe thấy tiếng đồ vật trong một phòng khác. Một người phụ nữ đứng tuổi chủ trì, và rượu được rót, thức ăn được bày ra - đồng thời những tiếng động lạ vẫn vọng đến từ các phòng khác trong căn hộ. Không ai nói nhiều trừ một lần khi chúng tôi nghe thấy tiếng gì đó như bát đĩa rơi vỡ. Dona Iris chỉ tay vào tai mình rồi vẽ hai vòng tròn - thế là hết lo lắng, tôi đoán, một số người cười khúc khích như học trò.
Rất lâu sau Dona Ernestina bước ra với chúng tôi. Lúc đó chúng tôi đang thu dọn bát đĩa và kết luận là đã đến lúc phải quay về. Mỗi tay cầm một cái túi đi chợ lớn, Dona Ernestina đứng ngay trước cửa. Vài phụ nữ chùn lại xem chuyện gì. Nhưng Tito đã ăn no và cố vượt qua bà. Bà ta cầm tay anh ta, đặt vào đó một con chó xù nhỏ bằng sứ đeo sợi dây xích vàng ở cổ, Tito nhìn con chó với ánh mắt cười cợt liếc nhìn Dona Ernestina dường như sợ hãi rồi vội vã mang con chó đi.
Chúng tôi được ra từng người một sau khi bà đã ấn vào tay một món tài sản của bà. Bà ta lấy vật gì đó mà không rời mắt khỏi chiếc túi. Cho hết cả những phần thưởng quý giá, những thứ đồ lặt vặt mà một người đàn bà cả đời thu nhặt. Cho hết các đồ vật gốm sứ đủ loại, kể cả lọ hoa lẫn gạt tàn. Cho hết cả xoong chảo bát đĩa, thìa, dĩa, dao. Cho hết cả quyển lịch cũ và những đồ vật nhỏ mà hàng ngày bà vẫn chạm vào và nó vẫn chạm vào bà suốt hai mươi năm qua. Cho hết cả chiếc giày trẻ con bằng đồng - tôi nhận được thứ đó. Khi rời khỏi căn hộ, Dona Iris nói “Này” với tất cả mọi người và chúng tôi theo bà ta xuống cuối hành lang. - Dona Ernestina lúc này không được minh mẫn, - bà ta nói giọng nghiêm trọng. - Đó là cú choáng sau cái chết của con.
Chúng tôi cùng nói “Phải” và gật đầu.
- Nhưng chúng ta làm được gì? - Lydia nói, giọng khe khẽ. - Tôi phải làm gì với cái này đây? - Cô ta đang cầm một chiếc cúp bóng rổ của Tony trong tay: 1968, cầu thủ xuất sắc nhất.
Dona Iris nói:
- Chúng ta hãy giữ gìn những vật này cho tới khi bà ấy hồi phục lại. Và hãy để cho bà ấy lặng lẽ khóc thương. Việc này cũng mất nhiều thời gian đấy. Nếu bà ấy cần thì sẽ gọi.
Dona Iris nhún vai:
- Cuộc sống là như thế đấy.
Khi tôi vượt qua Tito ở cầu thang, ông ta vừa lắc đầu vừa nhìn lên cửa nhà Dona Ernestina.
- Bà ấy cần có bác sĩ tâm thần. Ai đó phải đi gọi nhân viên bảo trợ xã hội - ông ta không nhìn tôi khi lẩm bẩm những từ này. “Ai đó” ở đây ông ta định ám chỉ một trong số đám phụ nữ. Ông ta không muốn có rắc rối trong khu nhà và trông chờ chúng tôi giải quyết. Tôi lờ ông ta đi.
Lên giường ngủ, tôi lại cầu xin Đức Mẹ đem lại bình yên cho tâm hồn đau đớn của bà Dona Ernestina nhưng mọi việc ngày càng tồi tệ hơn. Suốt cả tuần, qua khe cửa nhà, Lydia thấy toàn việc lạ. Mỗi lần có người tới thăm căn hộ của Dona Ernestina - để mang hoa hoặc điện từ Island hay có việc gì khác - người đàn bà ấy lại ấn một cái gì đó vào tay họ. Bà ta nài nỉ họ lấy vật này hoặc vật khác; nếu họ lưỡng lự thì bà ấy ra lệnh bằng ánh mắt đau đớn để họ chấp nhận một kỷ niệm gì đó về cuộc đời bà.
Và thế là họ đi ra khỏi nhà mang theo nào đệm, nào đèn, quần áo, giày dép, ô, thùng rác, sách giáo khoa vở: những vật có giá trị và không có chút giá trị nào với bất cứ ai kể cả những người đã có rồi. Thậm chí những kẻ nghiện và những người qua đường cũng biết tin này, họ xếp hàng dưới cầu thang, bên ngoài cửa. Không có ai phải ra về tay không. Lydia sợ không dám bước ra khỏi phòng vì những bộ mặt gớm guốc thập thò ngoài cửa. Còn cái mùi nữa! Bước vào khu nhà giống như vào một quán bar rẻ tiền lẫn với nhà đi tiểu công cộng.
Isabelita sống độc thân cùng hai đứa con nhỏ, lo sợ cho sự an toàn của chúng, cuối cùng đã kêu gọi các hộ họp lại. Chỉ có đám phụ nữ tham gia còn đàn ông thực sự sợ Dona Ernestina. Không có gì lạ thường khi một người đàn ông sợ hãi lúc nhìn thấy một người đàn bà điên. Nếu họ không phải là lý do khiến người đàn bà điên loạn thì họ làm như chẳng hiểu gì và thường bỏ chúng ta lại giải quyết cái “vấn đề đàn bà” của mình. Thế càng tốt.
Có thể tôi cay đắng về chuyện Miguel - tôi biết người ta nói gì sau lưng tôi. Nhưng sự thật là: khi phụ nữ gặp rắc rối, đàn ông gọi mẹ, chị em gái hay bạn bè cô ta đến, rồi lánh mặt đi tới khi mọi việc xong xuôi. Điều ấy vẫn luôn xảy ra. Bao nhiêu lần tôi phải gọi bác sĩ, chăm sóc con cái, nấu nướng cho chồng bạn tôi ăn. Không phải là đàn ông không biết làm việc này mà chỉ vì họ biết phụ nữ giúp nhau được nhiều hơn. Có lẽ đàn ông còn nghĩ chúng tôi hiểu nhau rõ hơn họ hiểu chính vợ mình. Như tôi đã nói, khi có rắc rối, họ để chúng tôi tự do thì càng tốt. Nó khiến mọi chuyện đơn giản hơn.
Trong cuộc họp, Isabelita nói thẳng rằng chúng tôi phải lên căn hộ 4D và giải thích với Dona Ernestina. Có lẽ chúng tôi sẽ bảo được bà ấy đưa cho địa chỉ của người họ hàng ở Puerto Rico - phụ nữ bao giờ cũng phải có người chăm sóc. Việc bà ấy đang làm khiến chúng tôi lâm vào tình trạng hết sức khó khăn. Không có ai phản đối. Chúng tôi bầu ra một nhóm để sáng hôm sau lên nói chuyện với Dona Ernestina.
Nhưng đêm hôm đó, chúng tôi bị đánh thức vì tiếng va đập dưới phố. Trong ánh trăng rằm, tôi thấy từ trên cao các thứ đồ dùng rơi ào xuống như ma: ghế đẩu, ti vi nhỏ, mẩu khung giường. Tất cả vỡ tan tành khi rơi xuống vỉa hè. Mọi người chạy đi tìm chỗ trú và gào lên chửi khu nhà của chúng tôi. Tôi lập tức hiểu, đó là căn hộ số 4D.
Mặc vội áo choàng, tôi bước ra hành lang. Lydia và Roberto đang lao xuống cầu thang, nhưng tới chiếu nghỉ tôi gặp Dona lris và Isabelita đang đi lên phía căn hộ 4D. Chúng tôi đứng ở hành lang tầng bốn, nghe tiếng còi cảnh sát đang tiến tới phía trước khu nhà. Chúng tôi nghe thấy tiếng cửa xe sập mạnh, tiếng hò hét - cả bằng tiếng Tây Ban Nha và tiếng Anh. Sau đó chúng tôi thử đẩy cửa, nó không khóa.
Chúng tôi bước vào căn hộ rỗng không. Thậm chí cả những bức tranh cũng được tháo xuống khỏi tường; tất cả những gì còn lại chỉ là những chiếc lỗ đóng đinh và những mảng sáng trên tường vôi, nơi các bức ảnh đóng khung đã được treo suốt nhiều năm. Vài giây sau chúng tôi tìm thấy Dona Ernestina: bà ta trần truồng nằm co cuộn tròn trong góc xa nhất của phòng khách. - Como Salio a e ste mundo, - Dona lris nói và làm dấu thánh.
Y nguyên như khi bà ấy bước vào thế giới này: không quần áo, không có thứ gì xung quanh ngoài một căn phòng trống rỗng, sạch sẽ. Bà ấy không để lại gì - trừ những lọ thuốc bác sĩ cho để giảm đau, để làm ta bất động, để làm ta không cảm thấy gì hết khi người khác chết.
Số chai lọ đó cũng rỗng không, cảnh sát lấy nó đi. Nhưng chúng tôi không để cho họ mang Dona Ernestina đi trước khi mỗi chúng tôi mang tới vài thứ quần áo đẹp nhất để mặc cho bà ấy tươm tất như trước kia. Tươm tất, không có gỉ thay đổi được, kể cả đau khổ. Cuộc sống là như thế đấy.
Nguyễn Thị Hiền Thảo dịch
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Christiane

Re: Gái Hai Chồng (Tuyển Tập Truyện Ngắn Giải Nobel)

Postby bevanng » 02 Feb 2016

LỜI TIÊN TRI
Elizabeth Oness Nhà văn Mỹ - Giải thưởng O’ Henry

Sau vài giờ, tôi đã từ trường đại học về đến nhà. Tôi còn chưa tháo đồ ra khỏi xe thì mẹ tôi đã kể với tôi rằng bà đã gặp được một người. Ông ấy là nha sĩ, bà nói, ông ấy vừa được cứu thoát.
- Thoát khỏi cái gì vậy? - Tôi mở tủ lạnh để lục lọi các thứ trong đó. Cứ lần nào từ trường trở về, chiếc tủ lạnh trống không của mẹ tôi lại khiến tôi ngạc nhiên. Ở trường, các ngăn tủ lạnh của chúng tôi bao giờ cũng có sốt cà chua, mù tạt và bia.
- Được cứu à? - Tôi nhắc.
- Philip, đừng có tò mò, - mẹ tôi bảo.
- Không ạ, ông ấy theo dòng đạo Cơ đốc nào?
- Ồ, mẹ biết chuyện đó không quan trọng đối với con. Nhưng ông ấy đã kể với mẹ từ lần đầu tiên rồi, ông ấy kể mọi thứ đã thay đổi như thế nào với ông ấy, ông ấy đã giải quyết như thế nào với người vợ cũ và ông ấy cảm thấy như thế nào khi được giúp đỡ mọi người, không chỉ đơn giản là nhổ răng người ta, - bà khẽ mỉm cười khi nhắc lại niềm hạnh phúc của ông ta.
Tôi chú ý đến sự đổi khác ở mẹ tôi, nhưng tôi nghĩ đó là sự vui mừng vì tôi đã học xong đại học không có trục trặc gì. Dường như mẹ tôi thoải mái và bớt gò bó hơn. Mẹ tôi không còn nâng đồ vật gì đó lên sắp xếp khi nói chuyện nữa. Đó là thói quen, có lẽ chỉ có tôi để ý thấy, mẹ tôi đã mắc phải khi cha tôi chết. Sau những tháng đầu để tang, tôi hy vọng mẹ tôi sẽ phá vỡ lớp vỏ bọc để bớt căng thẳng hơn, nhưng mẹ tôi vẫn cứ tiếp tục như thế mãi. Mẹ tôi là người phụ nữ duyên dáng, hàm vuông nhỏ, mái tóc nâu dài mới chớm bạc. Năm nào mẹ tôi cũng hỏi có nên cắt tóc không và năm nào tôi cũng nói không.
- Mẹ à, con nghĩ là mẹ đang yêu, - tôi nói.
- Ổ không đâu, - mẹ tôi mỉm cười, sau đó đặt cái đĩa đang cầm vào máy rửa bát.
- Con không biết mẹ đang xếp đĩa vào hay dỡ ra nữa, - tôi lấy chiếc đĩa sạch ra khỏi giá. - Ông ta ly dị rồi. Thế ông ta có con không?
- Ông ấy có một đứa con gái mười bổn tuổi, mới quay lại sống với ông ấy, - mẹ tôi nói. -Ngày mai ông ấy có tiệc ông ấy hỏi con có về không ông ấy muôn gặp con đấy.
Cứ khi nào lúng túng mẹ tôi lại xem xét một vật vô nghĩa nào đó, cứ như là sự có mặt của nó khiến mẹ tôi bình tâm lại. Mẹ tôi đang ngắm nghía cuốn lịch trên tường bếp dường như nó mới xuất hiện vậy. Tôi bước tới, ôm choàng lấy mẹ; mẹ tôi gầy đi lồng ngực như chiếc lẵng dễ vỡ. Tôi siết nhẹ tay rồi buông mẹ tôi ra. Mẹ tôi ngẩng lên nhìn tôi, tin tưởng và mỉm cười.
Đêm hôm sau, trên đường tới nhà ông ta tôi cố nài mẹ tôi tả Hal. Mẹ tôi đỏ mặt và nói tôi sẽ tự mình gặp. Trông mẹ tôi bồn chồn về một người đàn ông thật buồn cười. Theo tôi biết, trong suốt nhiều năm kể từ khi cha tôi chết, mẹ tôi chưa ra ngoài gặp gỡ ai. Tất nhiên bạn bè khuyến khích mẹ tôi ra ngoài nhiều hơn, gặp gỡ ai đó, nhưng mẹ tôi bao giờ cũng từ chối. Sự trung thành với những kỷ niệm về cha tôi thật cổ hủ, có lẽ là sai lầm nhưng mẹ tôi bao giờ cũng bướng bỉnh ngấm ngầm. Mẹ tôi giữ thái độ xã giao khiến người ta không dám ép nữa. Chúng tôi lái xe qua đoạn đường rừng mới mở ngoằn ngoèo dẫn xuống con đường trải nhựa bằng phẳng mang những cái tên ẻo lả đến kỳ quặc: Natalie, Caroline. Cuối cùng chúng tôi dừng lại trước một ngôi nhà lớn, hiện đại. Chùm chuông treo trên cây gỗ thích Nhật Bản ở trong sân. Chiếc cửa sổ hẹp chia đôi ngôi nhà, bắt đầu từ cửa trước, kéo lên tận tầng hai. Ông Hal mở cửa khi mẹ tôi chưa kịp gõ.
- Chào Deirdre, - Ông ta hôn vào má mẹ tôi và quay sang tôi.
- Philip. Thật là mừng. Bác đã nghe nói về cháu, - ông ta bắt tay tôi thật mạnh. Ngoài trời ẩm ướt nhưng ông Hal sạch bong như vừa từ nhà tắm bước ra. Mái tóc sáng cắt cao, viền xám, đôi mắt xanh. Một lỗ hổng lớn ngăn giữa hai chiếc răng cửa. Chẳng có gì lạ, vì ông ấy là nha sĩ.
Chúng tôi đi qua nhà, xuống bếp. Ngôi nhà sáng lên vì nền nhà gỗ đánh bóng loáng và đồ đạc hiện đại. Bức tường sau của gian bếp hầu như hoàn toàn bằng kính, nhìn ra khu vườn sau tươi tốt, sum suê. Ông Hal dẫn mẹ tôi qua căn phòng, đặt bàn tay lên tấm lưng nhỏ nhắn của bà. Ngón tay ông ta to và ngắn. Tay nông dân, bố tôi thường nói thế. Ông ta đưa chúng tôi xuống chỗ một nhóm nhỏ đang vây quanh bếp nướng thịt, thì một cô gái, ăn vận toàn đồ đen bước tới.
- Philip, đây là Megan, con gái bác, - ông Hal giới thiệu.
Không có vẻ là cô ta mới mười bốn tuổi. Tôi nghi ngờ đôi mắt mình: tôi cố chỉ nhìn mặt cô ta.
Cô ta khẽ mỉm cười và vuốt mái tóc xòa xuống má. Một mớ vòng tay nhựa đen và chuỗi dây bạc như gần vuột xuống cổ tay.
- Philip mới tốt nghiệp Đại Học Tổng Hợp Virginia, - ông Hal nói.
- Oai nhỉ? - Cô ta chun mũi với tôi.
Trông ông ta không thoải mái lắm.
- Bác Deirdre, trông bác thật dễ thương? - Megan hôn gió cạnh má mẹ tôi. Môi cô ta chúm lại, rồi giãn ra đầy đặn như cũ. Đó không phải là cử chỉ bình thường của một cô gái mười bốn tuổi. Sau đó tôi bắt đầu liên tưởng cái hôn gió ấy với những cô gái tôi quen ở trường đại học và tình cờ gặp lại sau nhiều năm. Những cô mà tôi chưa bao giờ âu yếm thường chào tôi bằng cách bóp vào cánh tay và khẽ chạm vào tai.
- Mọi người uống gì ạ? - Megan hỏi.
- Cho tôi một cốc bia, - tôi nói.
Megan đi vào bếp, mẹ tôi và ông Hal hòa vào đám người bên bếp. Cô ta quay lại mang theo hai cốc bia cao cổ và hất đầu về phía bố cô ta và mẹ tôi.
- Anh nghĩ thế nào? - Cô ta hỏi.
- Về cái gì?
- Hai người, - cô ta nhìn tôi, không chớp. Cô ta có đôi mắt sáng màu xám, sẫm hơn đôi mắt học trò. Hình như cô ta đang xem tôi có giả điếc hay không. - Thực lòng quý mến nhau, - cô nói. - Bố tôi cứ luôn có ý là hai người sẽ cưới nhau.
- Tôi mới về ngày hôm qua, - tôi cố ý định giữ sự ngốc nghếch của mình - tôi cố tìm hiểu - sau đó tôi rụt rè nói:
- Mẹ tôi bảo là cha cô vừa được cứu thoát.
Cô ta khịt mũi, nhìn qua bãi cỏ về phía ông Hal, ông ta đang nói chuyện với bạn bè, một tay ra hiệu, một tay quàng qua vai mẹ tôi. Megan uống một ngụm bia. Tôi lấy làm lạ rằng có phải ông ấy cho phép cô ta uống hay cô ta chỉ ra vẻ thế thôi.
- Phải, bố tôi được cứu thoát, - cô ta nói.
- Thế còn cô, cũng được cứu thoát chứ?
- Không. - Megan phá lên cười.
- Cô tin vào cái gì?
- Ổ, tôi không biết nữa, - cô ta cong môi lên, lúng búng trong miệng. Sự do dự khiến cô gần với tuổi của mình hơn.
- Thế còn anh tin vào cái gì? - Cô hỏi.
- Elliot, - tôi nói.
- Cái gì?
- Nước táo của Elliot. Có một đoạn trích ngắn bên trong nút chai.
Cô lắc đầu.
- Mỗi buổi sáng tôi trầm ngâm suy nghĩ suốt một giờ trước khi chọn chai đầu tiên, - tôi cúi xuống gần hơn và hạ giọng. - Tôi tin vào câu trích mà tôi đã chọn. Mỗi ngày tôi sống theo sự thông thái ghi bên trong nút chai - trừ khi tôi uống hai chai, thì tôi lại phải thay toàn bộ triết lý của mình vào buổi trưa.
- Cô ta cười rồi nhìn sang tôi để khẳng định là tôi đang nói đùa.
- Đó cũng là một thứ đáng để tin, tôi nghĩ thế, - cô ta nhìn ra sân. Cô là một trong những cô gái cố làm mình xấu đi nhưng không thành công. Tóc cô cắt ngắn quá tai một chút, một kiểu mũ đặc sắc bằng tóc đen khoe chiếc cổ dài. Cô ta làm ra vẻ một tay ăn chơi bụi đời, nhưng gương mặt lại khiến cô khác hẳn. Hai má hơi tròn, mặt lác đác tàn hương. Megan. Thật không thể thô lỗ với cái tên đó được. Chiếc áo phông đen cắt rộng, lòm xờm quanh cổ, buông xuống quá ngực vài inxơ và cứ để thả như thế. Tôi muốn luồn bàn tay vào dưới chiếc áo ấy.
- Tôi phải gọi điện, - cô ta đột ngột quay đi, bước về phía ngôi nhà.
Mẹ tôi giới thiệu tôi với những vị khách khác. Chúng tôi lắng nghe một bà cao lổn vung vẩy tay kể câu chuyện phức tạp mà cuối cùng lại hóa ra là nội dung một bộ phim. Một ông vận đồ ngụy trang nói với ông Hal về mục tiêu huấn luyện và mua một khẩu súng trường mối. Tôi ăn đồ ăn người ta mang tới. Tôi nhận thấy mủi than củi, đôi vai trần của Megan, mùi của bóng đêm và ánh sáng quyện vào nhau trong buổi tối trong xanh ấy. Ông Hal đi vòng tới chỗ mẹ tôi và tôi.
- Cháu đã có dịp nói chuyện với Megan chưa? - Ông ta hỏi.
- Rồi ạ, - tôi nói. - Cô ấy lớn quá.
Ông Hal nhìn tôi chằm chằm, cố đoán xem tôi có ý gì.
- Bác nghe nói ở trường cháu học hành khá lắm. Có lẽ cháu sẽ khuyến khích Megan. Nó thông minh nhưng không cố gắng gì.
Tôi gật đầu và cố tỏ ra hiểu vần đề. ông ta khiến tôi nhớ đến sự trẻ trung của cô ấy. Tôi sợ rằng bất cứ cái gì mình nói đều sai hết.
Sau đó, khi mẹ tôi chuẩn bị về, tôi thấy ông Hal kéo bà về phía mình, vòng tay qua eo để đi chào tạm biệt bạn bè của ông ta.
- Anh vui vẻ chứ? - Câu hỏi của Megan khiến tôi giật mình.
- Không đúng như kiểu liên hoan của bọn tôi, - tôi nói.
- Kiểu liên hoan của anh thế nào cơ? - Giọng cô ta nhỏ nhẹ, lẳng lơ.
- Tôi không biết, - tôi nói vội, sợ bố cô ta nghe thấy giọng nói hay từng lời nói của cô ta.
- Vâng, tôi nghĩ là chúng ta sẽ còn gặp nhau nữa, - cô ta nhìn tôi, mắt mở rộng bên dưới mái tóc.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Christiane

Re: Gái Hai Chồng (Tuyển Tập Truyện Ngắn Giải Nobel)

Postby bevanng » 02 Feb 2016


Vào mùa hè, Washington là một thành phố nhiệt đới. Suốt ngày bầu trời nặng trĩu sắp mưa và cuối cùng thì mưa như trút nước xuống nhưng bầu không khí vẫn nặng và nóng. Mùa hè năm ấy tôi tiếp tục công việc còn bỏ dở, nghiên cứu số giấy tờ đã được phân loại, gặp gỡ các sinh viên làm việc cho các công ty tôi quan tâm. Tôi cảm thấy như mình đang bước đi trong một đám mây vô tận. Tôi uống nước táo, hy vọng tìm thấy lời đoán cho tương lai. Một hôm, trong nút chai viết:
“Chỉ có một thành công duy nhất, đó là sống cuộc đời mình theo cách của mình”.
(Christopher Morley)
Tôi không biết cách sống của tôi là gì. Ban đêm tôi đi chơi cùng đám bạn cũng đang mù mờ sau khi ra trường nhà tôi. Mỗi buổi sáng tôi đọc hết tờ Bưu Điện Washington như thể một ngày nào đó tôi sẽ tìm thấy trong trang báo đúng điều tôi phải làm. Gần như lúc nào tôi cũng nghĩ tới Megan. Tôi cố không nghĩ nữa. Tôi nhớ về cô khi tôi tỉnh dậy sớm trong cái nóng của mùa hè, cùng với những hình ảnh lờ mờ của giấc mơ. Ban đêm tôi cũng nghĩ tới Megan: cái miệng cô và cái cách cô ghé chai lên miệng. Tôi hình dung mình sống chung cùng một nhà với cô. Tôi tưởng tượng cô bước ra khỏi buồng tắm, bước qua phòng tôi, người choàng khăn tắm, ẩm ướt.
Thỉnh thoảng mẹ tôi hỏi tôi về các bạn gái tôi đã đi chơi ở trường đại học, nhưng những câu hỏi đó chỉ tình cờ thôi, mẹ tôi hỏi về giáo sư, về một kỳ thi khó. Tôi chắc là mẹ tôi chẳng muốn biết gì quá đặc biệt, cậu trả lời của tôi có thể làm mẹ tôi lúng túng. Mẹ tôi vừa là quần áo cho tôi vừa hỏi về những cuộc phỏng vấn mà thực ra chẳng phải là phỏng vấn gì hết, chỉ là vài câu chuyện với mấy người có địa vị trong xã hội. Tôi mong đến ngày nghỉ cuối tuần, lúc đó tôi không phải trả lời câu hỏi của mẹ tôi; nhưng khi tĩnh dậy một mình, ánh nắng tràn vào phòng, bên dưới nhà im ắng, tôi thấy như ông Hal có mọi thứ trong ngôi nhà kính cách đây vài dặm: ông ta cùng mẹ tôi ăn sáng trong bếp; trên gác Megan ngủ dậy muộn. Tôi hình dung mặt cô ta ửng đỏ vì ngủ, nhăn nhăn trên gối, mái tóc mượt xộc xệch. Tôi muốn cô ta không mang cái vẻ muốn làm người lớn. Tôi tưởng tượng cánh tay cô quàng lên cổ tôi cặp giò dài quấn lấy chân tôi. Tôi cố nghĩ xem trông cô ta như thế nào trong bộ đồ mỏng và tôi nằm trên giường hàng giờ, tự hỏi xem cô có còn trinh hay không. Tôi cứ tưởng tượng tới lúc kiệt sức. Sau đó tôi lại ngủ và khi tỉnh dậy tôi cố nghĩ cách làm thế nào để quên chuyện đó đi.
Một buổi sáng thứ bảy, mẹ tôi gọi từ nhà ông Hal và bảo tôi đến ăn tối. Tôi vừa mới ngủ dậy và đứng trong bếp vừa nghe mẹ tôi nói qua điện thoại vừa đợi cà phê chảy hết. Thật là lạ khi được mẹ mình mời tới ăn tối ở nhà người đàn ông khác. Đêm hôm đó, vừa lái xe tôi vừa nghĩ tới ông Hal, nhận xét của tôi về ông ta hơi thay đổi một chút sau mỗi lần gặp. Đêm nay hình như ông ta tự tin, thỏa mãn, nhưng lại có sự khác lạ giữa ông ta và mẹ tôi, như thể họ là chiếc trái và chiếc phải của một đôi giày. Ông Hal khăng khăng đòi nấu nướng và bê đồ ăn lên, dường như bếp nhà ông ta vẫn chưa phải chỗ của mẹ tôi vậy. Ông ta đi lại quanh bàn phục vụ chúng tôi, tôi nhìn bóng ông ta trong chiếc cửa sổ lớn. Ông ta có dáng người vạm vỡ, vuông vức - chiếc áo cao cổ nào của ông ta cũng chật ngực - nhưng ông ta như một cái bóng xanh xao chồng lên hình ảnh của cha tôi, một bóng người tối sẫm trong suốt, bằng không khí.
Megan vội vã đi vào bếp, chộp một quả táo ở trên giá. Cô ta mặc chiếc váy ngắn màu đen, giày cao cổ áo phông thụng.
- Con đi đâu vội thế? -Ông Hal hỏi:
- Con nói rồi, con sẽ đi xem phim với Jill.
Ông Hal dừng lại một lát, tay cầm chiếc thìa giơ lên chảo.
- Con đã nói với bố tuần trước rồi. Phim Cuốn theo chiều gió, - giọng Megan rất đĩnh đạc, nghe cứ như cô đang nói với một đứa bé. - Chúng ta còn nói rằng bộ phim đó rất dài, bố nhớ không?
Ông Hal mỉm cười, nhưng căng thẳng.
- Thế còn bữa tối thì sao?
- Hừm, món mì hấp. Để phần con một ít. Đừng để Philip ăn hết, - Megan cười nhăn nhở với tôi và vội vã đi ra cửa.
Đêm hôm đó, về nhà tôi ngồi trước ti vi, lướt qua tất cả các kênh hai lần rồi tắt đi. Tôi cố tự nhắc mình nhớ những gì đã học được về đàn bà mấy năm vừa rồi.
Tôi thấy rằng những cô ăn mặc bụi bặm và tin tưởng ở bề ngoài của mình thì thường thích nói hơn là lên giường. Tất nhiên bạn không bao giờ biết chắc chắn nhưng có những cô nàng thẳng thắn, cài khuy kín từ đầu đến chân, hơi vụng về, thậm chí còn xấu hổ nữa, những cô này thường có bao tránh thai trong túi.
- Ông Hal nghĩ gì về con rồi?
Tôi và mẹ tôi ngồi trong bếp. Tôi đã nấu xong bữa tối, mì ống với sò, bởi vì hình như mẹ tôi mệt mỏi và tôi lại vừa thêm một tuần nữa không làm được gì. Mẹ tôi điều hành một xưởng in ở Betheda, in quảng cáo dán và quảng cáo phát tay. Đó không phải là một việc tồi, mà đôi khi còn rất sôi nổi. Người chủ ở đó vẫn nói rằng ông ta sẽ về hưu để mẹ tôi lên thay.
Tôi mua một chai rượu cho bữa tối, mặc dù mẹ tôi không hay uống. Tôi rót mỗi người một cốc và mẹ tôi ra hiệu dừng lại khi mới rót được một ít, nhưng tôi cứ rót tiếp. Tôi nhớ những giờ như thế này ở trường, ngồi bên ngọn nến với vài cốc bia, tán phét về các giáo sư, kể chuyện, nói dốc và ngắm mặt trời lặn qua dãy núi Blue Ridge.
- Mẹ phải có bộ quần áo mới để đi nhà thờ vào chủ nhật, - mẹ tôi nói.
- Mẹ đi nhà thờ à?
- Mẹ đã đi được vài tuần rồi, mẹ tôi xúc mì vào thìa và ăn một miếng to.
- Nó như thế nào?
- Nó đẹp lắm.
- Nhà thờ tất nhiên là đẹp rồi. Nhưng như thế nào? Ừ đó là một buổi lễ bình thường, nhưng mọi người rất thành kính. Nó hơi lạ. Khi họ cầu nguyện, họ giơ tay lên trời, - mẹ tôi giơ lần lượt từng tay lên cho tôi xem, lòng bàn tay xòe ra như cầu xin. - Đôi khi, - mẹ tôi cười khúc khích, - họ giơ một tay như ở lớp học.
- Ông Hal có làm như thế không?
- Không, - mẹ tôi đáp. — Nhưng lạ lắm. Đôi khi mẹ tự hỏi hay là có gì không ổn. Mẹ chẳng cảm thấy gì cả.
Mẹ tôi khẽ mỉm cười, tươi hẳn lên vì lời thừa nhận đó và rót thêm rượu ra. Mẹ tôi vừa có hai cử chỉ khác thường, giơ bàn tay lên, rót thêm rượu ra cốc. Cử chỉ lạ thường ấy khiến bà trẻ ra, tự tin hơn.
- Việc này, - mẹ tôi ngần ngại nói, quan trọng đối với ông Hal, ông ấy, muốn mẹ quan tâm hơn. Mẹ không ngại, nhưng… - giọng mẹ tôi trượt đi.
- Nhưng sao?
- Mẹ nghĩ nếu mẹ quan tâm quá thì ông ấy nghĩ đã nắm chắc được mẹ rồi. Tất nhiên ông ấy không bao giờ nói thế, nhưng…
Tôi nhìn ra cửa sổ. Bầu trời xanh xao qua các tán lá cây.
- Nếu ông ấy thực lòng yêu mẹ, thì thế nào ông ấy cũng muốn có mẹ, - tôi nói.
- Mẹ nghĩ thế, - mẹ tôi thở dài và nhấc đĩa lên.
Sáng hôm sau mẹ tôi nói sẽ cùng Megan đi mua đồ.
- Mẹ và Megan à?
- Ông Hal nói ông ấy sẽ mua cho Megan vài thứ quần áo nếu nó chịu mặc cái gì đó không phải màu đen.
Khi xe của ông Hal rẽ vào con đường nhỏ, tôi nhấc tờ báo lên như thể mình không đợi ai. Mẹ tôi mở cửa và tôi nghe thấy mẹ tôi và ông Hal bàn bạc kế hoạch. Đôi giày của Megan gõ lộp cộp qua sàn bếp. Tôi nghe thấy cô ta mở chạn và lấy thứ gì đó để uống. Khi mẹ tôi đi lấy ví, Megan bước vào và ngồi cạnh tôi trên ghế sôpha.
- Cô và mẹ tôi đi mua sắm à? - Tôi đặt tờ báo xuống.
- Bố tôi xếp đặt đấy, ông ấy muốn chúng tôi kết bạn, - cô ta nói như tuyên bố. Khi cô ta nhìn quanh phòng, tôi thấy nhà mình mới nhỏ làm sao. Cô ta ngả người và duỗi chân ra, nhìn lên trần nhà. Tôi muốn vuốt ngón tay dọc theo bắp chân cô.
- Nhưng tôi thích mẹ anh, bà ấy là người tốt và ngây thơ.
- Ngây thơ à?
- Bà ấy bao giờ cũng tin tưởng con người là tốt đẹp lắm.
Quan sát của cô ta khiến tôi ngạc nhiên. Điều đó đúng. Mẹ tôi bao giờ cũng có cách giải thích cho hành vi xấu xa của con người. Giết người, hiếp dâm, trộm cướp, mẹ tôi tin rằng có đủ thời gian thì cái thiện sẽ được bộc lộ hết ra ngoài. Tôi không biết nên gọi đó là sự lạc quan hay ngu ngốc.
Khi họ đi, ngôi nhà vắng hẳn. Tôi cầm cuốn tiểu thuyết lên rồi lại đặt xuống. Chiếc đồng hồ gỗ sồi kêu tích tắc to hơn, nhanh hơn dường như nó làm cho đồ sứ trong tủ bên dưới kêu lách cách…
Mẹ tôi trở về đem theo cả một bộ đồ - Váy và áo sơ mi bằng vải xanh nâu với các đường chỉ màu. Một chiếc áo vét rộng thùng thình khoác ra ngoài.
- Nó đẹp tuyệt vời với bác đấy, - Megan cười nhăn nhở khi ướm bộ quần áo lên người mẹ tôi.
- Cháu có nghĩ là bố cháu sẽ thích không? - Mẹ tôi sờ ngón tay vào chúng.
- Bố cháu thích tất cả những gì bác mặc, - giọng Megan khuyến khích. Cô ta cầm chiếc thắt lưng mềm mại và nghịch ngợm quấn vào đầu mẹ tôi.
- Thế còn cô? - Tôi hỏi.
- Bố tôi bảo sẽ cho tiền mua bất cứ cái gì tôi muốn với điều kiện nó không đen và không hở rốn. - Megan lôi ra một chiếc áo xanh nhợt nhạt bằng vải bông bóng mịn. - Bông gạo đấy. Nó làm bằng hạt, trông nó treo mới khiếp chứ - Cô ta nhìn tôi, thách thức tôi tưởng tượng cô ta trong bộ quần áo này, sau đó cô ta giơ nó lên và quay một vòng. - Không đen. Trông thật vĩ đại.
Sau đó, xong chuyện với tôi, cô ta ôm lấy mẹ tôi, cảm ơn bà vì sự tiếp đón ngọt ngào và đã dẫn cô ta đi chợ.
Vài ngày sau, mẹ tôi bảo tôi đi ăn tối với bà và ông Hal. Mẹ tôi nói rất thận trọng với hàm ý là nó sẽ quan trọng lắm.
- Megan cũng đến chứ, mẹ?
- Mẹ không nghĩ thế, - mẹ tôi nói.
- Cô ấy thích mẹ, - tôi nhớ lại lúc cô ta ôm hôn mẹ tôi.
- Chuyện li dị rất nặng nề với nó, ông Hal nói đã phải phiền toái vì nó, nhưng hình 'như họ sắp giải quyết xong rồi. Quả là một bước dài để nó trở về với ông ấy.
- Có chuyện gì phiền toái? - Tôi hỏi.
- Ô, đó không phải là chuyện để mẹ kể ra đâu.
- Mẹ, mẹ đã bắt đầu thì hãy kể nốt đi.
- Mẹ chỉ nói là hơi khó khăn thôi.
Mẹ tôi cứ chính xác đến bực mình. Bà không phải là kẻ ngồi lê đôi mách. Megan đã làm gì? Nghiện hút? Có thể. Có thai? Quá trẻ. Tôi cứ luẩn quẩn trong đầu. Tưởng tượng ra những khả năng ấy khiến tôi phát ghen.
Khi ông Hal đến đón chúng tôi đi ăn tối, không có Megan đi cùng. Ông ta mở cửa xe cho mẹ tôi, khẽ chạm vào tay khi bà ngồi xuống. Tôi buông mình xuống ghế sau, quan sát các dãy cửa hàng, cửa hiệu san sát khi ông Hal khéo léo điều khiển xe xuống Rock ville Pike, cẩn thận lách qua xe cộ. Vài chiếc xe nóng lòng bóp còi phía sau. Khi chúng tôi bước ra khỏi xe, cái nóng từ mặt đường bốc lên gặp cái nóng trong đầu tôi. Bên trong nhà hàng, lưới đánh cá và đồ đi biển giả treo trên tường. Mùi cá và bơ khiến tôi thấy đói. Ông Hal hỏi tôi về chuyện tìm việc làm. Tôi đọc cho ông ta nghe danh sách ngày càng dài các thất bại.
- Ừ thật khó mà biết được cháu muốn làm gì. Bác cũng không định làm nha sĩ ngay từ khi ra trường đâu.
- Bác đã làm gì khi tốt nghiệp? - Tôi hỏi.
- Bác đến California, lướt ván một thời gian, sau đó thì bác đi Alaska. Bác có một bài viết lãng mạn lắm về công việc ở đấy, nhưng rồi sự hoang vắng khiến bác phát điên lên, vì thế bác trở về và vào quân đội. Bác biết là họ sẽ trả tiền để đào tạo bác.
- Tại sao bác chọn nghề nha sĩ? - Tôi hỏi.
- Bác khéo tay. Bác biết cách nói chuyện với mọi người, và bác nói với cháu là nếu cháu phải làm việc thì đồng thời cũng phải kiếm ra tiền nữa.
Tôi thích sự thẳng thắn hay là lời giải thích của ông ta. Suốt bữa ăn chúng tôi nói về việc làm, về trường học. Ông ta có nói đến săn bắn và tôi hỏi vài câu về việc săn mòng mòng. Dường như chúng tôi đã nói chuyện đó hàng tuần rồi. Cuối cùng ông Hal uống một ngụm nước và xếp đặt lại bộ đồ ăn bằng bạc bên cạnh đĩa.
- Bác muốn nói với cháu là bác yêu mẹ cháu nhiều lắm. Bà ấy quả là người phụ nữ hiếm có. Bác cũng muốn nói là mấy năm vừa rồi bác có theo đạo. Chúa là tâm linh của cuộc đời bác. Bác biết mỗi người đến với Chúa một cách khác nhau và bác không bao giờ muốn cháu cảm thấy bác ép buộc cháu khi nói ra những suy nghĩ này về Người.
Tôi không thể nhìn mẹ tôi. Sự trung thực của ông ấy thật đau đớn. Tôi thấy mình đỏ mặt.
- Vâng, cháu rất tôn trọng những gì bác đã nói với cháu, - tôi nói.
Bác còn muốn cháu biết rằng cháu bao giờ cũng được đón tiếp nồng nhiệt ở nhà bác. Đừng có lo lắng khi phải mất nhiều thời gian mới tìm được việc làm cháu thích. Bác biết cháu là người tự lập thực sự. Hãy chu đáo với công việc đầu tiên này của cháu, - ông ta cầm tay mẹ tôi và siết chặt.
- Cảm ơn bác.
Tôi với tay lấy cốc rượu. Nó đến hết, tôi cầm nó lên, và cảm thấy phải có ý kiến gì đó về lời nói của ông Hal, nhưng tôi lại không có gì để nói nữa. Tôi cảm thấy sự im lặng khi buông tay xuống. Chỉ còn lại một cốc rượu và tôi không muốn rót cho mình. Ông Hal đã làm việc đó cho tôi.
- Còn Megan, nó quý cháu. Đừng ngại nếu nó xử sự láu cá. Nó cần phải lớn lên chút nữa.
- Cô ấy là cô gái đáng mến, - tôi nói và cảm thấy mình đỏ mặt.
Cô chiêu đãi viên đem cà phê quay lại và cuộc nói chuyện của chúng tôi trở lại bình thường.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Christiane

Re: Gái Hai Chồng (Tuyển Tập Truyện Ngắn Giải Nobel)

Postby bevanng » 02 Feb 2016


Tôi tĩnh dậy buổi sáng hôm sau, tôi hiểu rằng Megan không còn quan trọng nữa. Tôi phải chấm dứt nghĩ về cô ta. Tìm được việc làm để đủ thuê căn hộ riêng là lối thoát duy nhất. Vào lúc mười một giờ, tôi có cuộc hẹn ở Ngân hàng Thế giới với cha một người bạn cùng phòng. Chuẩn bị đi, tôi nhìn vào gương và thấy sảng khoái hơn. Tôi sẽ có việc làm và chỗ ở riêng. Tôi mua nước táo và bước ra khỏi tàu điện ngầm, và chiếc nút chai lần nữa khẳng định lại ý tưởng của tôi:
Với người không chú tâm vào việc gì cả thì không bao giờ có cuộc sống bình yên.
(Bhagavad Gita)
Người ta chỉ cho tôi một văn phòng trông giống như thư viện riêng. Trên tường đầy các giá sách, tranh sơn dầu và ảnh cha của Paul bắt tay các yếu nhân. Một bộ gậy chơi gôn để trong góc. Cha Paul ra hiệu bảo tôi ngồi xuống ghế bành. Cô thư ký xuất hiện ở cửa hỏi tôi có muốn uống cà phê không. Khi cô ta đóng cánh cửa lại, căn phòng có điều hòa nhiệt độ bịt kín chúng tôi. Sau khi nhìn lại bản tóm tắt của tôi và hỏi vài câu. Ông ta nói với tôi rằng hồ sơ của tôi cũng hạng thường thôi, rằng trên thực tế, học tiếng Pháp không có ý nghĩa gì hết. Lẽ ra tôi phải học tiếng Tây Ban Nha, tiếng Đức, Nhật hay tiếng Nga - những thứ tiếng quan trọng. Tôi nghe lời khuyên lịch sự của ông ta và xin cáo từ càng nhanh càng tốt.
Đi xuống đường, tôi nhìn dòng người qua lại vội vã tôi lấy làm lạ tại sao tất cả bọn họ lại kiếm được cái gì đó cần thiết để làm. Một người đi xe đạp len lỏi đi qua dòng xe cộ đông đúc; những người đi bộ tránh anh ta và nhìn theo tức giận. Tôi tháo cà vạt, áo complê của tôi ướt đẫm lưng. Ở cổng tàu điện ngầm, một người đàn ông què cả hai chân tựa vào chiếc ghế vuông. Ông ta chìa cái cốc giấy ra, tôi tức giận nhìn ông ta và bước lên cầu thang máy.
Khi bước vào nhà, ngôi nhà như bé hơn. Tôi nhìn bức ảnh của tôi, mẹ và cha. Họ vừa quen thuộc vừa giống nhau. Ngôi nhà im ắng. Tôi đi tắm, đi tẩy rửa cái buổi sáng hôm nay và khi bước ra thì điện thoại reo.
- Chào Philip. Mẹ anh có đấy không? - Đó là Megan.
- Bà ấy đi làm. Cô muốn tôi nhắn lại không? - Tôi không muốn cô ta bỏ điện thoại vội.
- Không, - cô ta im lặng một lát rồi giọng nói lại vang lên. - Thôi được, tôi đoán hôm qua anh vừa có cuộc nói chuyện về Chúa đúng không?
- Phải, đó không phải là toàn bộ câu chuyện.
Megan cười khúc khích:
- Này, anh có muốn đi vào thành phố, chỉ đi loanh quanh thôi? Tôi đang muốn đi khỏi nhà.
- Có chứ, - tôi nói không cần suy nghĩ.
- Hay lắm. Đến đây khoảng nửa giờ nữa, được không?
Tôi quấn khăn tắm quanh bụng và đi mặc quần áo.
- Đêm qua ông ấy đã nói gì?
Chúng tôi lái xe về phía quận Columbia không có mục đích gì cụ thể. Tôi cảm nhận được việc mình ngồi với cô ta trong một khoảng không gian chật hẹp. Cô tựa vào cửa xe, chân nghiêng về phía tôi.
- Nói đi, ông ấy nói gì? - cô ta hỏi lại.
- Ông ấy bảo là rất yêu mẹ tôi, và nhà thờ quan trọng như thế nào, chỉ có thế thôi - tôi quá lúng túng nên không thể nhắc lại lượng từ ông ta nói.
- Chỉ thế thôi à? - Cô ta hỏi.
Megan chỉ đường khi chúng tôi tới gần thành phố: Quẹo chỗ này, rẽ trái chỗ kia. Cô ta ra lệnh cho tôi đi lòng vòng thật là nực cười. Chúng tôi đỗ lại ở Dam Morgan, chung cư của người Tây Ban Nha, giờ đây sang trọng hẳn lên vì các nhà hàng, cửa hiệu bán băng và quầy rượu.
- Tôi đói quá, - Megan nói - Tôi biết có quán của người Mêhicô rẻ lắm.
Cô ta dẫn tôi xuống một phố thương mại ở khu nghèo xơ xác của thành phố. Một người đàn bà mắt đảo điên nốc chung chai rượu với hai người đàn ông. Ở góc phố quầy đổi tiền đông người. Nhà hàng không có khách, trừ gia đình người Mêhicô ngồi trong góc. Sự yên lặng mờ ảo ở đây thật dễ chịu: chúng tôi lánh mình khỏi thế giới đời thường. Megan kể cô ta đã tìm thấy nhà hàng này như thế nào, nhưng tôi không chú ý tới lời cô ta nói. Tôi ngắm nhìn miệng cô, những ngón tay dài, mười móng tay đỏ thâm hoàn hảo. Trái chanh ướp lạnh và muối tan trong miệng và ấm nóng lên trong dạ dày. Megan ăn chậm, nhẩn nha từng miếng cà chua.
- Em rất sốt ruột được đi học đại học, - cô ta nói. - Không có ai xung quanh theo dõi xem ta làm gì.
- Sống với bố cô tốt hơn chứ?
- Bố kỳ quặc, mẹ kỳ quái, đó là một kiểu thỏa hiệp, - cô ta khuấy ly nước, làm rớt muối xuống tạo thành một vết bẩn.
- Tại sao cha anh chết? - Cô ta hỏi.
Câu này khiến tôi ngạc nhiên.
- Ông ấy bị ung thư. Một căn bệnh khó sống sót.
- Lúc đó anh bao nhiêu tuổi?
- Mười ba.
- Tuổi đó quá non để chịu đựng chuyện ấy, cô ta nói.
Tôi cười phá lên. Nét mặt cô ta chuyển từ quan tâm sang giận dữ.
- Cái gì? - Cô ta hỏi như ra lệnh.
- Tuổi non, giọng cô nghe từng trải quá.
- Không phải đến cái tuổi nhất định nào đó mới biết được mọi thứ, - cô ta lừ mắt nhìn tôi rồi ngồi lại xuống ghế. Sau đó, cô ta nhìn sang bức tranh treo trên tường. Chiếc cằm hơi tròn run lên.
- Tôi xin lỗi.
Cô ta khoanh tay lại và nhìn ra xa.
- Không sao, - cô ta nói. - Có lẽ chúng ta nên đi.
- Tôi thực lòng xin lỗi.
- Vậy thì trả tiền đi, - cô cúi xuống bàn và đẩy hóa đơn về phía tôi.
Chúng tôi rời khỏi đó và bước ra ngoài ánh nắng chiều muộn. Tôi muốn chạm vào cô, muốn quàng tay lên cổ cô. Chúng tôi đi bộ dọc xuống các dãy phố buôn bán, và khi dừng lại để xem vài gian hàng, tôi cảm thấy nỗi tức giận của cô đã nguôi đi.
Trên đường Columbia, chúng tôi rẽ sang phía tây và ngồi xuống gần một sân chơi trên đỉnh đồi.
- Em có nghĩ là việc được cứu sống đã làm ông ấy thay đổi? -Tôi cảm thấy mình triết lý, rượu đôi khi làm ta nghĩ về Chúa.
Chúng tôi nhìn qua sân chơi. Bầu trời màu hồng và màu da cam phía sau những ngôi nhà cao tầng vây quanh công viên. Hai thằng bé mũm mĩm bắt đầu nghịch chiếc máy kéo bằng nhựa.
- Ông ấy đã thay đổi, nhưng buộc phải thế. Ông ấy đã bị bắt quả tang. Và ông ấy biết lỗi, - giọng Megan chua chát.
- Ông ấy bị bắt?
Cô dừng lại và cân nhắc điều gì đó.
- Ông ấy cần phải làm được gì đó từ tất cả những chuyện đã xảy ra. Ông ấy không thể để mọi chuyện om sòm và cứ sống theo cách của mình. Ông ấy phải làm gì đó tử tế, - cô hắt hơi khi nói từ “tử tế”.
- Tử tế à?
- Phải, - cô đạp chân lên tường. - Một lần em nhận được sổ học tập rất tốt, toàn loại A, chỉ một loại B. Trước đây, em luôn là một học trò đứng đầu lớp, và em vui mừng đến mức vừa tan học là đến thẳng văn phòng của ông ấy ngay, xưa nay chưa bao giờ em làm thế. Phòng đợi chẳng có ai. Văn phòng của ông ấy đóng cửa, nhưng em nghe thấy có tiếng động bên trong, em bước tối định gõ cửa, rồi nghe thấy giọng đàn bà, những âm thanh khe khẽ, rồi không khẽ lắm. Âm thanh nhanh dần lên, to dần lên, và em cứ đứng đó, lắng nghe. Cuối cùng, tiếng động dừng lại và em nghe thấy giọng cha em và một người đàn bà cười khúc khích, em quay đi và rời khỏi đó.
- Lúc đó em bao nhiêu tuổi?
- Mười một, mười hai, em đoán thế.
- Em không nói với ai à?
- Không, mẹ em cũng biết chuyện bằng cách khác.
Bụng tôi dội lên như vừa bất ngờ đâm phải ổ gà giữa đường. Tôi nghĩ về mẹ tôi, không biết ông ta có làm điều đó với bà không?
- Thế khi toàn bộ câu chuyện vỡ lở là lúc cha em được cứu thoát à?
Megan gật đầu.
Cô vòng tay qua lưng tôi. Sau đó cô ngả người vào tôi và tôi trượt tay theo tay cô, vuốt mái tóc cô.
- Anh rất tiếc.
- Anh không liên quan gì tới chuyện đó, - giọng cô lạc đi như sắp khóc.
- Anh chỉ muốn nói rằng anh rất tiếc vì chuyện đó đã xảy ra.
- Phải, mọi chuyện vẫn luôn xảy ra. Em vẫn cho rằng cha em là một kẻ khốn nạn. Và em căm ghét tất cả cái chuyện xấu xa này. Em biết nguyên nhân của nó.
- Nhưng em nghĩ rằng ông ấy thực sự thay đổi.
- Em nghĩ như vậy. Đó cũng là lý do tại sao em tức giận, bởi vì bây giờ ông ấy đã cảm thấy hoàn toàn vui vẻ còn em thì vẫn thấy mình là một nhóc đứng ngoài cửa với quyển sổ học tập ngu ngốc, nghe ông ấy bậy bạ với y tá.
Tay chúng tôi vẫn quàng lên nhau và tôi bỗng nhớ đến chân tay mình, cứ như đang hát trước đám đông và không biết phải để vào đâu. Tôi khẽ ôm cô, không biết phải nói gì. Hai cô bé mang túi đi chợ sặc sỡ đi qua, và tôi tưởng tượng Megan lúc mười hai tuổi - đứng ngoài cửa, mặt xanh xao và lấm tấm tàn nhang, nghe những âm thanh của cha và y tá. Tôi vuốt ve tay cô, nhưng cô làm ngơ và nhìn qua sân chơi. Tôi cúi xuống hôn lên vai, cô quay lại và ngắm nghía tôi, sau đó cô vòng tay qua cổ tôi và hôn tôi, đầu tiên hơi ngượng ngùng, sau đó thì không hề ngượng chút nào. Chúng tôi cứ ngồi như thế rất lâu, nói chuyện và hôn nhau tới khi trời tối.
Khi tôi về nhà, mẹ tôi đang xem ti vi, đèn tắt. Thường thì bà đọc sách, cuộn tròn trong chiếc ghế. Ánh sáng xanh làm hằn sâu những nếp nhăn trên mặt bà. Một tiếng cười bật ra từ ti vi. Mẹ tôi hỏi cuộc phỏng vấn của tôi thế nào, thoạt đầu tôi không nhớ bà đang nói về chuyện gì. Sau đó tôi nhớ lại buổi sáng hôm nay và bắt đầu giải thích tại sao lại thất bại. Thậm chí trong bóng tối tôi cũng không thấy bà nghe, vì thế tôi nói dối trơn tru rằng tôi đã cùng một người bạn đi ăn tối.
- Mẹ khỏe chứ? - Tôi hỏi.
- Ừ, giọng bà khe khẽ.
- Mẹ và ông Hal cãi nhau à?
- Mẹ không cho rằng đó là cãi nhau, - bà nói. - Mẹ không muốn nói về chuyện đó bây giờ.
Mẹ tôi cố mỉm cười. Tôi muốn an ủi bà, nhưng lúc đó trong tôi đầy những suy nghĩ về hình ảnh của Megan. Khi tôi hôn lên tóc mẹ và chúc ngủ ngon, bà không hề động đậy.
- Mẹ có muốn con tắt tivi không? - Tôi đề nghị.
- Không, - mẹ tôi nói:
Tôi chạm vào tay bà và để bà ngồi một mình trước tivi những âm thanh khe khẽ. Tôi nghĩ xem ông Hal đã nói gì với mẹ tôi. Tôi sẽ phải nói gì đó với bà, nhưng tôi sợ.
Ngày hôm sau tôi lo rằng Megan sẽ lại rút lui vào cái vỏ bọc gai góc của cô. Nhưng khi tôi gọi điện cho cô thì cô gợi ý rằng chúng tôi sẽ gặp nhau. Chúng tôi chưa kịp sắp xếp thì chắc là ông Hal bước vào phòng, bởi vì giọng cô thay đổi hẳn và cô đặt máy.
Cả tuần đó là hàng loạt những cú điện thoại bị ngắt quãng và kế hoạch bị hủy bỏ. Tôi không thể đón cô, bởi vì văn phòng của ông Hal kề ngay nhà và người ta có thể nhận ra xe của tôi. Xung quanh đó lại không có tuyến xe buýt nào. Tôi bắt đầu căm ghét vùng ngoại ô.
Tôi tự nhủ rằng sẽ nói chuyện 'với mẹ tôi sau khi gặp lại Megan lần nữa. Tôi loại bỏ ý định ấy đi, bởi vì tôi không nghĩ ra cách nào để kể những điều tôi biết. Cuối cùng, vào một buổi tối thứ năm, mẹ tôi đi ăn tối với ông Hal về sớm. Bà vào bếp, ngồi xuống và tháo giày ra.
- Mẹ, có phải ông Hal đã kể với mẹ về cuộc hôn nhân của ông ấy, chuyện ly dị và mọi thứ khác không? - Tôi cố làm ra vẻ hỏi tình cờ.
- Phải, ông ấy đã kể, - mẹ tôi đang phân loại thư từ, đặt nó vào từng ngăn nhỏ trên bàn. Câu trả lời xác nhận của bà khiến tôi ngạc nhiên.
- Ông ấy đã nói gì?
- Đó là chuyện của mẹ và ông ấy, đúng không?
Tôi đứng bên cạnh bàn giấy, rút ra rút vào chiếc đinh nhựa lớn, tạo thành một vòng tròn các lỗ đen nhỏ xíu.
- Vâng, nhưng trông mẹ có vẻ lo lắng. Con nghĩ con có thể làm gì được.
Bà ngẩng lên nhìn tôi vẻ ngạc nhiên.
- Cuộc hôn nhân đầu tiên của ông ấy thì không thể làm gì được nữa. Ông ấy bây giờ đã khác nhiều lắm.
Lời của bà khiến tôi giật mình, bây giờ đã khác nhiều lắm.
- Con có thể giúp gì được không? - Tôi chẳng biết nói gì khác.
- Không, Philip, - bà mỉm cười mệt mỏi. - Đó chỉ là chuyện giữa mẹ và ông ấy.
Tôi nhét chiếc đinh vào cái khuôn nhựa và quyết định lái xe đi một vòng.
Đêm hôm sau, Megan gọi điện cho tôi sau khi đi ăn tối cùng bạn bè về. Giọng cô nghe như thể cô vừa khóc.
- Có chuyện gì vậy?
- Barry, bạn em vừa bị tai nạn xe hơi.
- Còn sống chứ?
- Cậu ấy đang hôn mê.
- Em có muốn anh đến đó không?
- Vâng.
- Bố em ở đâu? - Tôi hỏi.
- Đi chơi với mẹ anh.
Trên đường tới nhà cô, tôi nảy ra ý nghĩ rằng có thể Barry là bạn trai cũ của cô. Tôi tắt radio và hạ cửa xuống. Không khí ban đêm mát mẻ khi tôi lái xe xuyên qua rừng cây rậm rạp. Cửa trước không khóa, và tôi bước vào. Megan đang nói chuyện điện thoại với một người bạn của Barry.
Khi rời khỏi máy, trông cô có vẻ bình thản, dường như vừa dàn xếp xong một chuyện gì đó. Không nói gì, cô bước tới bên tủ lạnh và rót hai cốc rượu lớn. Cô mặc chiếc áo không phải màu đen đã mua cùng với mẹ tôi: vải áo được bó vào một vòng khít làm nổi bật đường cong của eo, những nét nhấp nhô của sống lưng, tất cả dồn xuống nơi thon nhất. Cô đi xuống phòng khách, và tôi bước theo đôi chân dài của cô. Chúng tôi nằm xuống giường của cô và tôi cứ để cô kể về chuyện đã xảy ra, cho tới khi cô lại bắt đầu khóc. Tim tôi đập nhanh, lạc điệu với nỗi buồn rầu của cô. Tôi luồn tay vào dưới chiếc áo của cô và vuốt ve thật nhẹ nhàng, thật chậm. Khi cô cởi khuy áo của tôi và chạm vào quần của tôi, thì tôi hiểu mọi việc thế là ổn, chỗ quần áo còn lại của chúng tôi cũng biến khỏi người nhanh chóng và khó hiểu.
Tôi nhìn xuống mặt cô, đôi vai của cô, bộ ngực phẳng của cô xanh xao trong ánh sáng nửa tối nửa sáng. Miệng cô há ra nhưng không có âm thanh gì. Cô cũng hòa đồng cùng với tôi, nhưng mọi cử động như một tấm gương của tôi chứ không phải của riêng cô. Cơ thể cô cũng thèm muốn, nhưng dường như cô đang ở đâu đó xa xôi, ở chốn của riêng mình. Tôi chờ đợi thật lâu rồi mới tiếp tục.
Sau đó tôi lơ mơ ngủ, mọi thứ trong cơ thể đã ổn định lại. Tôi nghe thấy có tiếng người nói ở trong phòng khách. Mẹ tôi và ông Hal. Tôi vụt tỉnh dậy, toát mồ hôi, căng tai ra nghe xem họ nói gì. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu họ thấy tôi ở đây? Lúc đó tôi nhớ ra chiếc xe của mình vẫn ở trong con đường rẽ. Họ đã biết cả rồi. Tôi cảm thấy dạ dày mình đang bị một bàn tay lạnh ngắt bóp nghẹt lấy. Tôi nghe thấy tiếng ông Hal nói to và giận dữ trong phòng khách, tôi nhìn đồng hồ cạnh giường của Megan - một giờ ba nhăm. Megan ngẩng đầu lên khỏi gối và nghe họ nói. Cô khẽ nguyền rủa.
Chúng tôi nằm yên một lúc, rồi cô tung chăn ra và ra khỏi giường.
- Em định…
Cô nhấc chiếc ghế bên hòm và đặt dưới quả đấm cửa.
- Em không muốn ông ấy xộc vào đây, - cô nói.
Đầu óc tôi ong lên. Tôi nghĩ về lời ông Hal nói về việc thực tập; tôi tự hỏi xem ông có súng hay không.
- Ông ấy giết anh chết mất, - tôi nói.
- Không, ông ấy không giết đâu. Ngoài ra đây không phải là cái việc mà ông ấy chưa từng làm.
Tôi không thể nhìn thấy mắt cô trong bóng tối, nhưng giọng nói thì cay đắng và lạnh lùng.
Chúng tôi nằm yên. Ông Hal vẫn đang quát tháo trong phòng khách, sau đó mẹ tôi cũng to tiếng nói lại, những lời mà nhiều năm rồi, tôi không còn nghe thấy nữa. Cửa trước nhà sập mạnh. Tôi nghĩ xem bà có lấy xe không. Mạch máu rần rật bên tai tôi. Nếu bà lấy xe và bỏ tôi lại đây thì ông Hal giết tôi mất. Tôi biết chắc thế. Tôi sờ vào chiếc quần bò vứt dưới sàn và lục lọi các túi. Tôi đang cầm chìa khóa.
Sau đó lại giọng mẹ tôi:
- Đưa tôi về nhà.
- Hãy đi xe của con cô mà về.
Giọng mẹ tôi hạ xuống. Chắc hẳn bà đang giải thích rằng không có chìa khóa xe.
Cuối cùng, họ đi khỏi. Chúng tôi nằm im, nghe ngóng, và biết chắc là họ đã đi rồi. Ngôi nhà cót két.
Bên ngoài, tiếng gáy của con dế, tiếng chim líu lo vang to hẳn lên.
- Ông ấy sẽ làm gì em? - Tôi hỏi.
Ông ấy sẽ giận dữ, nhưng sẽ không làm gì cả, - giọng của cô thản nhiên và bướng bỉnh. - Em sẽ bảo với ông ấy rằng em vẫn chưa được cứu thoát.
- Em không sợ phải ở nhà một mình chứ?
- Không, nhưng anh nên đi đi.
Tôi cố mặc quần áo thật nhanh trong bóng tối, nhưng ngón tay tôi dường như cứng nhắc và không tuân theo ý muôn.
Megan không mặc quần áo. Cô đứng dậy cùng với tôi và nhấc chiếc ghế ra khỏi nắm cửa. Chúng tôi đứng cạnh cửa, tôi vuốt tay xuống sau lưng cô, và muốn cảm nhận điều mà một giờ trước tôi đã có, nhưng tôi quá lo lắng và run rẩy nên không thể cảm thấy làn da mịn màng của cô dưới tay mình.
- Anh sẽ gọi điện cho em sáng mai.
- Được, anh nên đi đi, - cô nói.
Tôi vội vã lao ra xe, chìa khóa cầm trong tay. Lần thứ nhất xe không nổ, tim tôi lại đập thình thịch, nhưng lần thứ hai thì khởi động được, tôi lao ra khỏi con đường nhỏ.
Khi tôi về tới nhà, mẹ tôi đang đợi. Bà đứng cạnh bàn bếp; một bên tóc bà cong lên, mắt sáng.
Con cần phải làm thế à? - Bà quát.
- Mẹ, con không cố ý…
- Đó thực sự là đòn cuối cùng con có biết không? Đòn cuối cùng, trở lại nhà ông Hal và thấy hai đứa trên giường với nhau.
Mẹ tôi nhìn chằm chằm vào tôi dường như lúc này tôi khác buổi sáng.
- Con bé cố tình nhằm vào ông Hal. Nó không quan tâm gì tới con đâu. Mẹ hy vọng rằng con hiểu điều đó. Nó là một cô gái khó hiểu. Nó sẵn sàng ngủ với bất kỳ ai nếu điều đó làm ông ấy đau đớn.
Khi mẹ tôi quát, miệng bà như hình chữ nhật, tối om, lời lẽ từ đấy trôi ra. Tôi tựa vào cửa và nhìn qua bà, tôi không trông thấy gì ngoài ánh đèn bếp. Tôi nhớ lại sự lạnh lùng, bướng bỉnh của Megan, khi cô đặt chiếc ghế dưới núm cửa, nó lập tức vừa ngay, dường như đã chuẩn bị trước. Mọi thứ mà tôi muốn tin là vô tình lại cứ nối với nhau; ông Hal nhẹ nhàng dẫn mẹ tôi vào cửa, Megan trườn dưới người tôi. Mẹ tôi dừng lại để thở, những đường nét của bà nhập lại, trở thành con người tôi vẫn quen thuộc.
Nguyễn Thị Hiền Thảo dịch
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Christiane

Next

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 53 guests