Truyện Ngắn Hay 2004 - Nhiều Tác Giả (Part 3)

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Truyện Ngắn Hay 2004 - Nhiều Tác Giả (Part 3)

Postby Mười Đậu » 26 Feb 2006

Lứa Bên Sông

Tác Giả: Nguyễn Một


Rồng chầu xứ Huế ngựa tế Đồng Nai Nước sông trong đổ lộn sông ngoài Thương người xa xứ lạc loài tới đây...

(Ca dao)

Con sông từ thượng nguồn vượt qua bao gành thác vẫn cố giữ được dòng, vậy mà về hạ lưu bỗng dưng rẽ làm đôi. Cũng may hai nhánh sông kịp tìm nhau sau đoạn đường ngắn. Cuộc chia tay ngắn ngủi của dòng sông đã tạo ra cồn đất nhỏ này, người ta gọi nó là Cù Lao. Tôi thích Cù Lao mỗi chiều xuống, thành phố nơi tôi mới về sống quá ngột ngạt, đầy tiếng ồn và bụi bặm. Cuối tuần tôi thường nguồi uống cà phê ở quán Hải Âu để tìm chút không khí trong lành. Quán nằm sát mé sông, không gian thoáng đãng và êm đềm. Tôi ngồi từ lúc mặt trời vừa xuống để ngắm cây cối bên Cù Lao dần phủ lớp nắng vàng rực rỡ, ngồi cho đến khi toàn bộ vùng đất nổi lên giữa hai nhánh song chuyển dần qua màu tím thẫm. Vào giờ ấy, bao giờ quán cũng đón một người đàn ông đã đứng tuổi, ông vào quán kêu ly cà phê đen không đường và nhìn đăm đắm qua bên kia sông. Ông hút thuốc không đầu lọc, thứ thuốc lá thịnh hành hồi thập niên tám mươi, bây giờ ít người hút. Bộ quần áo ông mặc trên người đã bạc màu nhưng sạch sẽ vàđược ủi kỹ nên trông khá tươm tất. Sợi dây nịt da mềm oặt có lẽ nó được dùng hơn chục năm nay trông như cái bảng đen cũ kỹ tróc sơn .Tôi quan sát tỉ mỉ và cố đoán ông làm nghề gì nhưng không thể đoán được, thầy cũng không phải, thợ cũng không đúng. Gương mặt ông lúc nào cũng ưu tư và đầy nếp nhăn, hẳn là một người khó tính. Tôi bắt chuyện với ông nhờ vào lần tôi bỏ quên bật lứa và mượn của ông. Hóa ra ông khá cởi mở, chứ không như tôi tưởng. Tất nhiên mãi sau này tôi mới thân với ông, nhưng mối quan hệ khởi sự từ chuyện cái bật lửa. Ông bảo cuộc đời ông ít khi quên cái bật lửa. Cù Lao nơi ông sinh ra, lớn lên, hạnh phúc và khổ đau có nhiều chuyện vui, buồn từ ngày tổ tiên vào đây lập nghiệp. Cuộc đời qua bao thăng trầm nhưng cái bật lửa ông luôn nhớ mang bên mình, vì rằng theo lời truyền lại của dòng họ thì nhờ câu chuyện này mà cụ tổ của ông đã còn mạng sống mà lập nghiệp tại vùng đất nổi duy nhất của miền Đông Nam Bộ. Ngày xưa, trước khi Lễ Thành Hầu đặt chân đến đây, Cù Lao đã có người ở: Dân ngoài Quảng đi thuyền mấy ngày Đêm gặp con sông lớn, ngược nước độ nửa ngày, thuyền đến vùng sông rộng và êm như mặt hồ, nước lại sâu, ghe thuyền có thể vào tận bờ. Trên đất liền, đất đai trù phú cây cối xanh tốt trên trời cò bay trắng như mây, dưới đất từng bầy nai đủng đỉnh xuống bến sông uống nước. Dân di cư biết đây là đất lành bèn trụ lại. lập nghiệp. Cù Lao là vùng đất khởi đầu khi dân ngũ Quảng đặt chân đến xứ này lập nghiệp. Cù Lao còn lạ ở chỗ, dù cho nước sông dâng cao đến mấy cũng không ngập. Cụ tổ nhà ông là thanh niên miệt ngoài, tổ chức nông dân khởi nghĩa trả thù bọn cường hào ác bá, bị thất bại đã “một mình một ngựa” rong ruổi phương Nam... Câu chuyện về cụ tổ mà ông kể cho tôi nghe có thể ông thêu dệt thêm, nhưng khá hấp dẫn, nên tôi nghĩ cần ghi lại, biết đâu sau này có dịp dùng tới. Việc ghi chép những câu chuyện dân gian là kinh nghiệm quý báu của một đàn anh truyền lại cho tôi. Chuyện kể như sau:

Trước khi mặt trời khuất sau ngọn núi, Nguyễn phải vượt qua được khu rừng này. Đây là khu rừng nổi tiếng nhiều cọp nhất miền Đông Nam Bộ. Hơn mười ngày ròng rã Nguyễn băng rừng chạy về hướng Nam. Sư phụ, của chàng, vị sư già chùa Quảng Long, giúp chàng trốn thoát khỏi sự truy nã của quan quân. Ông nói với Nguyễn:

-Hướng Nam là con đường sống duy nhất. Cứ theo con đường này mà đi, không được quay trở lại với bất kỳ lý do gì.

Ông đặt vào tay chàng con ngựa ô hoang dã của vùng sơn cước mà ông đã thuần phục và dặn:

- Con hãy đi mãi, đi đến cho khi nào tuấn mã này gục ngã, con có thể định cư ở đó. Hãy cưới vợ, sinh con, mở mang bờ cõi, hãy quên mọi hận thù. Đừng làm chuyện dại dột nữa, dòng họ chỉ còn một mình con.

Nguyễn quỳ lạy thầy, rồi lên đường Nam tiến. Hàng chục ngày đường, chàng chỉ men theo cánh rừng, đi đường chính, chàng sợ quan quân bắt gặp. Trong hành trang mà người thầy kính yêu chuẩn bị cho Nguyễn, có một thứ ông dặn chàng phải hết sức cẩn thận giữ gìn. Cái vật tạo ra lửa, vị sư già tốn khá nhiều công sức để chế ra. Ngày ấy, muốn có lửa, mọi người phải dùng con dao chẹt vào đá để bắt lửa qua bùi nhùi. Dựa trên nguyên lý ấy, vị sư già chế ra cái bật lửa mà chỉ cần quay nhẹ thanh sắt, viên đá sẽ phát những tia lửa mạnh, có khả năng đốt cháy dây bùi nhùi rất nhanh. Nhờ cái vật kỳ diệu ấy cùng lưỡi kiếm sắc và cánh cung trên vai, chàng đã sống được những ngày qua. Ban ngày chàng đốt lửa nướng thịt, ban Đêm chàng đốt lửa xua đuổi thú rừng. Bất kỳ giống thú dữ nào thấy ánh lửa cũng tránh xa. Vị sư già vừa là cha, là mẹ, là thầy của chàng. Lớn lên Nguyễn mới biết, thầy đã cứu chàng, giọt máu duy nhất của dòng họ một thời lừng lẫy, thoát khỏi họa tru di vì tội phản loạn. Ông chăm sóc dạy dỗ cho Nguyễn chu đáo, nhưng dứt khoát không cho chàng xuống tóc, ông bảo chàng còn một sứ mệnh quan trọng phải thực hiện trong cuộc đời này. Khi Nguyễn được truyền dạy những truyện kỹ võ học “Thiếu lâm Bắc phái”, ông mới tiết lộ cho chàng biết thân phận của mình. Ông cho Nguyễn xuống núi và dặn chàng hãy cố duy trì lại dòng họ của chàng, một dòng họ oanh liệt không đáng bị diệt vong. Khi xuống núi, ông trao cho Nguyễn một bức thư và dặn chàng tìm đến nhà thầy đồ Ngạn là bạn tâm giao của sư thầy, mỗi lần ông lên núi đánh cờ và đàm đạo với sư thầy Nguyễn vẫn hầu bên cạnh. Nay không hiểu sao sư thầy lại cho Nguyễn về ở với thầy đồ Ngạn. Suốt Đêm Nguyễn trằn trọc trong căn nhà vách đất. Chàng không ngủ được vì ánh mắt long lanh và đôi má ửng đỏ của nàng Gấm lúc dọn phòng cho chàng. Từ nhỏ đến giờ sống trong lời kinh tiếng kệ, Nguyễn chưa có dịp đứng gần một cô gái, hóa ra vẻ ngoài duyên dáng, phái nữ còn có mùi thơm kỳ diệu, Gấm ra khỏi phòng từ lâu mà trong phòng còn phảng phất mùi hương: Nguyễn nghĩ, chả trách sao trong sử sách chàng đọc có biết bao anh hùng mất nước vì mỹ nữ. Sáng hôm sau, thầy đồ Ngạn gọi Nguyễn lên nhà trên, chàng quỳ bên án thư, kể từ hôm nay con là rể nhà này. Nhà ta có ba mẫu ruộng con hãy học cách trả thành nông dân, sau khi thành thạo con gái ta thuộc về con.

Nguyễn mấp máy:

- Thưa thầy...! Ông khoát tay:

-Những điều con đã học được ở sư thầy để làm người, chứ không phải để làm quan, con phải nhớ sứ mệnh của mình mà sư thầy dặn dò chứ, hãy phục hồi lại dòng họ, tên con là Phan Nguyễn, nhưng con là họ Nguyễn chứ không phải họ Phan, nhớ lấy điều này!

Nguyễn vâng dạ lui ra. Lúc đầu chàng cũng buồn, những năm tháng trui rèn võ nghệ và học chữ thánh hiền, Nguyễn không ngờ cuối cùng trở thành một nông dân. Chàng nén tiếng thở dài khi nghĩ về nàng Gấm, dù sao thì Nguyễn cũng có một người vợ đẹp... Thế rồi từ đó, Nguyễn trở thành chàng trai cày: Ngày ngày, sau giờ lao động vất vả, Nguyễn được chăm sóc bởi bàn tay dịu dàng của người con gái xinh đẹp nhất làng. Thời hạn ở rể ba năm đã gần hết, Nguyễn mơ ngày ngày cùng Gấm nên vợ, nên chồng. Nhưng số mệnh đã không cho chàng sống một cuộc đời bình thường. Một hôm, đang cày nốt đám ruộng bỗng trong làng có tiếng la hét, ngôi nhà của cha vợ lửa bốc ngùn ngụt. Nguyễn vứt cày chạy về, quan quân lố nhố trước hiên nhà, Gấm bị ba bốn tên lính vác bỏ lên xe ngựa. Cha vợ Nguyễn nằm gục trên vũng máu, một tên quan đặt chân lên người ông, ngạo nghễ nói với dân chúng:

- Những kẻ âm mưu phản loạn ,phải chết. Không kiềm chế được, cụ hương trưởng buột miệng:

- Muốn chiếm đoạt con gái người ta, nên mới vu vạ, chứ thầy Ngạn mà phản loạn gì, quan quân gì mà tàn Xoẹt Lưỡi gươm sang loáng bay qua cổ cụ già khi cụ vừa dứt câu, cụ gục xuống, đôi mắt mở trừng trừng.

Â…y! - Nguyễn hét lên một tiếng lớn, chàng giật phắt lười gươm từ tay một tên lính, ánh gươm loang loáng như sao băng, tên tiểu quan gục ngay tại chỗ bỡi nhát gươm thần tốc. Bọn lính tháo chạy toán loạn, nhưng trước khi rút chúng kịp mang theo nàng Gấm và giết chết một số dân làng. Với lòng căm phẫn cực độ, sau khi chôn cất cha vợ, Nguyễn tụ tập dân làng rút vào núi lập căn cứ, chuẩn bị đối phó với tên tuần phủ tàn ác mà chàng biết thế nào hắn cũng trả thù dân làng. Cuộc khởi nghĩa kéo dài chưa được một tháng thì tan rã. Những người nông dân không quen xa rời ruộng đồng và chưa được rèn luyện đã dần bỏ ngũ. Trận quyết chiến cuối cùng với quan tuần phủ, quân Nguyễn thất bại thảm hại, may mắn chàng thoát chết...

Miên man với chuyện cũ, Nguyễn đã đến bìa rừng. Hoàng hôn vừa buông xuống, trước mặt chàng là làng mạc, chàng đã đến được nơi có người ở. Lác đác khói lam dè dặt bay lên từ những nóc nhà tranh ven sông. Dòng sông rộng mênh mông, ghe thuyền tấp nập, nhưng tuyệt nhiên không hề thấy một bóng quân lính nào của triều đình. Nguyễn an tâm buông cương, có lẽ đến nay chàng đã thoát chết khỏi vùng tầm nã của tên quan phủ. Dừng ngựa bên sông, Nguyễn định bụng sẽ vào nhà chùa nào đó xin nghỉ qua Đêm. Không biết xứ nào mà con gái ăn mặc rất lạ, quần áo gọn gàng khỏe mạnh, không mớ bảy mớ ba như quê chàng. Họ chèo thuyền trên sông, chở đầy những chiếc nồi đất, lại có thuyền chở nhiều loại trái cây trông rất lạ. Dưới sông bỗng vang lên tiếng hò lanh lảnh: À... ơi... Rồng chầu xứ Huế, ngựa tế Đồng Nai... Nước sông trong đổ lộn sông ngoài. Thương người xứ lạ lạc loài đến đây... Một chiếc thuyền khác lại vang lên câu hò: À... ơi... Đồng Nai gạo trắng nước trong... Ai đi đến đó long không muốn về. Những câu hò dìu dặt làm xao động lòng chàng trai trẻ, thì ra đây là xứ Đồng Nai, một nơi mà trước đây lúc còn hầu rượu sư thầy, chàng nghe thầy đồ Ngạn nói loáng thoáng về vùng đất trù phú. Sau khi bình luận ông thường ngâm nga: Làm trai cho đáng thân trai, Phú Xuân cũng trải Đồng Nai cũng từng đang phân vân không biết đi về đâu trong lúc trời tối dần, bỗng một cụ già lại gần hỏi chàng với giọng thân thiện:

- Con đi từ đâu tới mà trông xơ xác thế kia? Nguyễn lễ phép thưa:

- Dạ con từ xứ Quảng đến đây!

Đoạn chàng tóm tắt hoàn cảnh của mình cho cụ nghe, cụ vuốt râu cười:

- Thế thì con nên ở lại đây mà lập nghiệp, miền đất này bao dung lắm, chứa chấp hết thảy ai muốn đến với nó.

Nói xong ông đưa chàng xuống thuyền, chở qua bên kia sông. Nơi ông lão ở là Cù Lao màu mỡ, cây cối xanh tốt, thuyền cập bến ông nói:

-Đất ở đây còn rộng lắm, con tha hồ mà khai phá làm ruộng làm nương. Nguyễn trở thành công dân vùng cù lao từ đấy. Sau bảy năm cật lực khai phá chàng trai tạo nên một cơ ngơi khá khang trang. Nguyễn khai phá cả một vùng đất mênh mông, khu vườn của chàng trồng đầy đủ cây trái miền Nam. Ông lão đưa Nguyễn về đây đã gả cô con gái út cho chàng. Lễ cưới xứ này diễn ra nhẹ nhàng, chứ không lễ mễ như ở quê chàng. Nhẹ nhàng như ngày đầu về đến căn nhà của ông, ông nói với bà: Tôi đã tìm được chồng cho con út rồi bà ơi!” Bà hỏi lại: “Người tốt chứ?” Ông cười khà: “Chỉ cần nhìn qua là biết người tốt”. Vợ chàng không đẹp bằng Gấm nhưng nàng rất khỏe mạnh và mắn đẻ, nàng sinh cho chàng cả thảy bốn trai, ba gái, đứa nào cũng tròn trúc như trái bưởi và mạnh khỏe như cá sấu sông Đồng Nai. Dòng họ Nguyễn được phục hồi ngay trên mảnh đất nằm giữa dòng sông này...


Ông kể say sưa cho đến khi trăng ngã qua bên kia cầu Gành, rọi dải sáng vụn vỡ xuống dòng sông, bên sông leo lét những ngọn lửa nhỏ phát tử những cây đèn bão của đám người câu Đêm. Quán đã vắng khách, cô hầu bàn lục đục dọn dẹp, chúng tôi ra về. Chuyện của ông còn dông dài về việc khai phá đất đai, chuyện cụ tổ đánh cướp, bắt sấu... Những chiến công của cụ tổ khá hiển hách. Thường thì khi kể về những câu chuyện xa xưa, hàng trăm năm, người ta hay tô vẽ, thậm chí bịa đặt thêm cho nó có vẻ huyền thoại hơn, nên tôi chỉ chắt lọc những điều tôi cho là thật. Đêm ấy, tôi thức thêm vài giờ để ghi lại. Buông bút, tôi rút điếu thuốc, quờ tay trên bàn tìm cái bật lửa, mới chợt nhớ, trong câu chuyện ông chưa hề đả động gì đến cái bật lửa, mà ông cho rằng: Nhờ nó cụ tổ của ông còn mạng sống? Đêm ấy! Câu chuyện của ông đi vào giấc mơ của tôi. Không hiểu thần kinh của tôi có vấn đề gì mà hễ ban ngày cứ đọc một cuốn sách, hay nghe một câu chuyện lạ, là y như rằng Đêm tôi nằm mơ về chuyện ấy. Giấc mơ luôn xuất hiện những tình tiết kỳ quái .Trong giấc mơ, tôi thấy tôi chính là chàng trai họ Nguyễn kia, tôi cung cưỡi ngựa, đeo kiếm ở cái thời xa xưa ấy, lạc vào một xứ sở mọi rợ.

Con tuấn mã có vẻ mệt mỏi, bờm rủ xuống, hai bên mép sủi bọt, nó âm thầm rảo bước trên con đường mấp mô, hun hút và tối tăm, tôi buông cương để con ngựa dưỡng sức, bỗng khu rừng âm u rộ lên những tiếng gầm rú, tôi rút soạt lưỡi gươm ra khỏi vỏ, lười gươm loáng lên ánh thép xanh rợn người. Những con thú dữ đổ ra vây quanh tôi. Phản xạ sinh tồn, tôi vung gươm, lưỡi gươm chạm đến đâu, máu loang đến đấy. Những tiếng gầm rú mỗi lúc càng ma quái hơn. Tôi giật mạnh dây cương, con tuấn mã thu tàn lực vọt lên phía trước, dường như nó cũng biết chủ nó đang rơi vào con đường chết. Những con thú dữ ngày càng đông, chúng đuổi theo con ngựa. Tôi rạp người trên mình ngựa vượt khỏi cánh rừng âm u, trước mặt là trảng cỏ tranh vàng úa, khô như rang, lũ thú rừng vẫn nườm nượp đuổi theo sau lưng. Trong giây phút nguy cấp ấy trong đầu tôi bỗng bật lên chữ “lửa”. Đúng rồi, ngọn lửa có thể làm chùn bước lũ thú dữ, tôi nhảy xuống ngựa và đánh lửa. Ngọn lửa bùng lên, đám cỏ tranh cháy hừng hực, ngọn lửa tràn như những ngọn sóng dữ, liếm dần đám cỏ tranh... Ngọn lửa phủ kín cả khu rừng, phủ luôn cả người tôi, nóng hầm hập, tôi vùng vẫy tuyệt vọng giữa đám cháy. Còn lũ thú dữ nhe hàm răng trắng ởn, đạp lên ngọn lửa mà đi, chúng gầm rú tiến dần về phía tôi, miệng đỏ như máu...

Tôi bật dậy mồ hôi đẫm người, ướt như tắm, trong giấc mơ tơi là chàng trai Nguyễn khỏe mạnh kia. Nhưng thực tế tôi là kẻ ốm yếu, hàng Đêm vẫn thường bị những cơn ác mộng hành hạ như vậy. Đó là di chứng của trận ốm thập từ nhất sinh, do sốt rét rừng hồi năm tám mươi, tôi theo cha tôi vào rừng đốt than. Bữa ấy trời mưa dầm dãi, bầu trời nứt toác ra, nước trút xuống như thác đổ, người tôi mềm oặt tựa cọng bún tàu ngâm nước, cha tôi tưởng tôi đã chết, ông cõng xác tôi về để trước hiên nhà, chờ trời tạnh thì mang đi chôn. Mẹ tôi đi đào củ chụp về, bà ôm tôi vào lòng gào khóc, có lẽ do được hơi ấm của mẹ truyền qua, tim tôi đập trở lại. Cha mẹ băng mưa, đưa tôi đến trạm xá. Tôi sống lại với thể chất èo uột? Những cơn ác mộng của tôi, làm mẹ lo lắng, bà đi hết chùa này đến chùa kia, thậm chí bà đến cả cha đạo để xin nước thánh về cho tôi uống. Cả Phật lẫn Chúa cũng không xua được những cơn ác mộng hành hạ tôi hàng Đêm. Sau này lớn lên, tôi quen dần và những giấc mơ giúp tôi giải tỏa ấm ức hàng ngày, cuộc sống mang lại cho tôi. Đêm nào không nằm mộng, ngày hôm sau người tôi uể oải và không làm được việc gì cho ra trò.

Hôm sau, trở lại quán, tôi hỏi ông về chuyện cái bật lửa mà ông chưa kể cho tôi nghe. Ông trầm ngâm rồi nhìn tôi:

- Tôi xin lỗi là không tiết lộ chuyện ấy được, đó là một câu chuyện buồn, một bí mật chỉ có những người trong dòng họ tôi mới biết mà thôi, xin anh thông cảm.

Tôi chợt nhớ giấc mơ của mình, đó là một giấc mơ ghê rợn, nó ám ảnh tôi suốt một thời gian dài.

Ông rút một điếu thuốc không đầu lọc châm lửa, rồi cứ thế cầm trên tay cho tàn dài trắng rớt xuống dòng sông, ly cà phê đen nguội ngắt, ông thở dài tâm sự:

- Anh ạ, chuyện như thế, dòng tộc tôi sinh sống đã nhiều đời trên mảnh đất này, trải bao năm tháng lịch sử, mảnh đất cụ tổ khai phá chia năm xẻ bẩy, nhưng vườn bưởi ven sông nơi đặt nhà thờ cụ tổ thì luôn được gìn giữ truyền lại cho nhánh thứ nhứt dòng họ, đến đời tôi thì mất anh ạ!

Ông đưa cả ly cà phê đen không có đường uống một lần như người ta uống rượu, rồi ông kể về chuyện cuộc đời của ông, lần này tôi cũng ghi lại, nhưng để dung làm tư liệu viết báo. Câu chuyện của ông nêu đúng như lời ông kể thì ông bị oan!

Theo lời dạy của cha, Nguyễn Trí theo học ngành sư phạm, chưa hết năm thứ nhất trường Đại học sư phạm thì có lệnh “tổng động viên”. Hàng ngày, bọn cảnh sát dã chiến và quân cảnh lùng sục khắp hang cùng ngõ hẻm, học sinh các trường đại học đều phải tham gia lớp dự bị sĩ quan. Trí bị bắt đưa vào trường hạ sĩ quan Đồng Đế. Cha anh phải cắn răng cắt ba mẫu đất trong khu đất hương hỏa, chạy cho Trí khỏi phải đi quân dịch. Miếng đất nằm bên bờ sông, hàng năm đón nhận phù sa từ thượng nguồn đổ về nên trái bưởi to như đầu người, ngọt lịm. Ngài tỉnh trưởng nhiều lần đánh tiếng muốn mua một vài mẫu để ngài xây biệt thự cho cô vợ bé, ông nhất định không bán. Nhưng lần này ông đành phải xuôi tay. Anh ruột của Trí đã hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Pháp trên rừng Mã Đà, ông cố giữ thằng con trai duy nhất để sau này có người thờ cúng tổ tiên. Ba tuần trong quân trường, Trí được cho về địa phương với cái giấy miễn dịch của ngài tỉnh trưởng cấp. Bây giờ ngài tỉnh trưởng đã mãn nguyện, một nửa khu vườn của dòng họ Nguyễn đã thuộc về ngài. Sau bốn năm dùi mài kinh sử, Trí tốt nghiệp sư phạm với tấm bằng loại ưu. Anh xin về dạy ngay trên Cù Lao, nơi ngày xưa ông sơ, ông cố, ông nội anh đã từng dạy học. Ngày ba mươi tháng tư năm một ngàn chín trăm bảy mươi lăm, cùng đội ngũ thầy giáo, Trí nô nức đón mừng niềm vui đất nước giải phóng. Lúc đầu Trí cũng lo không biết mình còn được đứng trên bục giảng nữa hay không, nhưng ít hôm sau, Ủy ban quân quản mời thầy cô giáo tập trung cải huấn, để anh chuẩn bị khai giảng năm học mới. Trí vui mừng khôn xiết, thế là anh vẫn được chính quyền cách mạng tin dùng. Cuộc đời Trí hẳn sẽ êm ả trôi đi với “bảng đen phấn trắng, hoa phượng sân trường” nếu anh không quá cả nể. Gia đình có truyền thống cách mạng, anh ruột là liệt sĩ nên thầy Trí được đưa vào diện quy hoạch. Ông bí thư chi bộ xã năm lần bảy lượt mời thầy Trí tham gia chính quyền địa phương và rồi anh tham gia chính quyền mới. Buổi sáng làm việc ở xã, buổi chiều lên đứng lớp, ban Đêm dạy bổ túc cho cán bộ, thầy Trí rất khổ sở với lớp học “không biết ai lấy nỏ thần của An Dương Vương!” Thời bấy giờ các thầy cô giáo gọi các lớp bổ túc như thế, nó xuất phát từ câu chuyện lan truyền trong giáo giới rằng: “ Thầy giáo dạy văn, tranh thủ sau giờ giảng thầy thử kiểm tra kiến thức đám học trò, thầy hỏi: Các anh chị có biết ai là người lấy cắp nỏ thần của An Dương Vương không? Sau một hồi im lặng, một học viên đỏ mặt đứng lên quát: “Thầy hỏi thế là có ý gì? Lớp chúng tôi toàn cán bộ đi học có ai tham nhũng như thế đâu!!!”.

Lớp thầy Trí chủ nhiệm, do đồng chí chủ tịch xã làm lớp trưởng, ông là người triệt để cách mạng nên học hành khá nghiêm túc, chỉ tiếc lâu quá không cầm viết nên bàn tay cứ cứng quèo. Lớp trưởng có giọng nói oang oang như chuông đồng, giờ làm việc cũng như giờ học, lúc nào ông cũng kè kè cây súng ngắn bên hông! Ba Chuông có sở thích uống máu bò nóng, trong xã có ai làm đơn xin mổ bò, ông xin họ cho ông bát tiết đầu tiên, ông xuống tận nơi cầm bát tiết nóng uống đánh ực rồi đưa tay chùi hai mép đỏ lòm. Trẻ con trong xã khóc nhè dỗ không nín, bà mẹ hét lên: “Ông Ba Chuông kìa!”, thế là trẻ nín khe, đố đứa nào dám tỉ tê. Khi có ai làm cho ông giận dữ, ông hăm dọa bắn nát óc người đó, nhưng chưa ai thấy ông bắn bao giờ. Có lần đám thanh niên đánh nhau, can không được ông rút súng nhưng không bắn mà chọi vào giữa đám trẻ, khiến chúng hoảng sợ bỏ chạy toán loạn. Khẩu súng văng ngay vào hũ nước mắm của bà Tư bán bánh bèo, làm ông phải chùi rửa hàng giờ liền. Tính tình bộc trực và đôi khi thô lỗ nên ông không được lòng cán bộ trong xã. Ông Bà Chuông rất kính trọng thầy Trí, việc gì cũng hỏi ý kiến thầy, thầy góp ý ông cẩn thận ghi chép vào sổ tay. Dạo ấy mọi thứ đều quốc doanh hóa, muốn giết thịt con heo cũng phải xin phép, nhưng ở Cù Lao, ông Ba Chuông cho phép nhân dân tự do mổ bò, mổ heo để cung cấp cho nhân dân trong xã. Nhiều cuộc họp trong ủy ban ông bị chỉ trích về tội hữu khuynh! Ba Chuông đứng lên gay gắt:

- Thời chiến tranh dân đói đã đành, bây giờ hòa bình muốn ăn miếng thịt cũng không được hay sao?

Buổi chiều ngồi uống rượu với thầy Trí, ông kể:

- Thầy biết không, hồi trong căn cứ Bàu Hàm giặc bao vây ba tháng, anh em ăn chuối xanh vàng cả mắt, tôi mò về ấp mang theo khẩu B40 dộng thẳng mấy quả vô trong đồn bọn địa phương quân, bọn chúng sợ vỡ mật, tôi vào ấp nhờ cơ sở của ta móc nối với vợ tên tướng ngụy mua ca đoàn cam nhông gạo. Lúc ấy phải linh động như thế mới thắng được giặc Mỹ chứ cứng ngắc như giờ có mà ăn cám!

Đùng một cái ông Ba Chuông bị bắt về tội tổ chức vượt biên, khi bị còng tay, ông nói với thầy Trí:

- Tôi bị oan, tôi không có sao đâu, thầy đừng lo?

Hai hôm sau, thầy Trí cũng bị còng tay vì có chứng cứ thầy là đồng bọn của Ba Chuông. Sau hai năm bị giam cầm vụ án sáng tỏ, ông Ba Chuông và thầy Trí được tha về. Ông Ba Chuông hàng ngày chèo thuyền đi câu lươn ven sông không màng chuyện thế sự. Khu vườn thầy Trí đã được trưng dụng gần hết chia cho cán bộ xã. Mấy năm liền hỏi xin lại đất nhưng cán bộ xã cứ hẹn lần. Thầy vác đơn kiện khắp nơi, tỉnh chuyển về huyện, huyện chuyển về xã, xã bảo để chờ xem xét. Không được bố trí công tác, không có việc làm, thầy Trí ngồi nhà viết đơn thuê cho dân Cù Lao. Văn hay chữ tốt, được dân tin cậy nên thầy viết hàng chục lá đơn từ chuyện tố cáo cán bộ xã tha hóa đến chuyện ly dị của những cặp vợ chồng “cơm không lành, canh không ngọt”. Năm sau thầy Trí bị bắt lại vì chuyện xúi giục dân chúng gây rối! Bảy tháng tám ngày ở tù thầy lại được cho về với lệnh tạm tha! Không bỏ cuộc, thầy tiếp tục theo kiện đòi lại mảnh đất hương hỏa. Hàng chục năm trôi qua, nợ nần chồng chất, thầy Trí bỏ xứ về thành phố làm đủ nghề để kiếm tiền sinh sống và kiên trì đi tìm công lý...

Mấy năm sau khi nghe câu chuyện của ông, tôi không ra quán Hải Âu uống cà phê, vì ngày ấy, tôi bốc đồng hứa với ông rằng tôi sẽ viết một bài báo bảo vệ cho ông. Thực hiện lời hứa, tôi đã bỏ ra nửa tháng trời tìm hiểu viết bài phóng sự có tựa là: Hành trình đi đòi lại mảnh đất hương hỏa của một công dân. Nhưng khi nộp bài, đồng chí tổng biên tập báo, nơi tôi công tác, phê ngay dòng chữ đỏ chót trên góc: Không có căn cứ, phi lý, không sử dụng! Năm lần bảy lượt ông đến tòa soạn tìm, tôi mắc cỡ lẩn tránh. Thời gian trôi qua với bao nhiêu chuyện sôi động xảy ra quanh mình, tôi dần quên ông. Hôm nay, tôi qua Cù Lao vì nhiệm vụ đưa đoàn nhà báo tỉnh bạn đi du lịch vườn Vài năm gần đây, trái bưởi Biên Hòa phục hồi danh tiếng, nhờ nông dân bên Cù Lao trồng lại những giống bưởi một thời làm rạng danh đất Biên Hòa. Chính quyền địa phương đưa chúng tôi đến khu vườn mà theo họ là lý tưởng nhất trong vùng. Khu vườn rộng trên ba mẫu đất nằm sát bên sông. Chúng tôi đi thuyền đến khu vườn. Những cây bưởi đường lá cam, trái tròn căng mọng lá sà xuống tận mặt nước. Một cán bộ xã cho biết chủ nhân của khu vườn được nhân dân trong vùng tôn xưng là hảo hán miệt vườn. Ông là người đầu tiên quyết tâm phá bỏ tất cả các cây trồng khác trong vườn để trồng bưởi. Tôi khá ngỡ ngàng khi gặp lại ông, người chủ vườn bưởi nổi tiếng đất Cù Lao. Khi đoàn khách tham quan ra về tôi xin phép nán lại để xin lỗi ông chuyện ngày xưa. Ông đưa tôi ra bờ sông, với tay hái trái bưởi vỗ nhè nhẹ và bảo:

- Trái này không có hột!

Rồi ông nhanh nhẹn gọt vỏ, múi bưởi mọng nước lộ dần. Ông nói:

-Cuối cùng tôi cũng tìm được công lý anh ạ! Chờ anh không được, tự tôi ra Hà Nội tìm đến tận văn phòng thanh tra Nhà nước. Rất may thanh tra đã về tận nơi xem xét giải quyết, ba tháng sau tôi được giải oan, nhà nước trả lại khu vườn cho tôi. Ngành giáo dục có mời tôi lại dạy nhưng tôi nghĩ mình đã già rồi, kiến thức mai một không theo kịp bọn trẻ nên ở nhà làm vườn.

Nghe chuyện của ông tôi chợt thấy mình hèn, bấy lâu nay tôi cứ ảo tưởng làm nghề báo của mình là nghề có thể cải tạo được xã hội. Thực ra tôi chưa bao giờ theo cái gì cho đến cùng. Bài viết xong đăng được thì đăng, không thì thôi, tôi chưa bao giờ quan tâm đến số phận những con người trong bài viết của mình. Mới mấy năm không gặp, ông giàu lên trông thấy, ngôi nhà hai tầng trắng lóa giữa vườn bưởi chi chít quả. Hệ thống tưới trong vườn, ông bố trí hệ thống phun sương bằng máy, ánh mặt trời xuyên qua lớp nước tạo nên vô số cầu vồng lấp lánh như bồng lai tiên cảnh. Thấy tôi mê mải ngắm khu vườn, ông vỗ vai tôi:

- Chú làm nhà báo chắc chú biết câu này củ Đức Khổng tử: Nước nhà có chính trị hắc ám mà mình phú quí thì đáng xấu hổ. Nước nhà có chính trị tốt mà mình nghèo hèn thì đáng xấu hổ!

Tôi lập cập rút điếu thuốc đưa lên môi ông nhanh nhẹn bật lửa mồi cho tôi và nói:

-Tôi bỏ thuốc từ lâu rồi, nhưng lúc nào cũng có bật lửa trong túi, phải biết giữ lửa anh ạ, đó là bí quyết tồn tại của dòng họ tôi.

Trên sông một giọng hò lanh lảnh cất lên: Hò ơi! Rồng châu xứ Huế, ngựa tế Đồng Nai...

Hoàng hôn trùm tấm lụa vàng xuống Cù Lao…

----------------------------
Dziệc dzì để được ngày mai, thì không nên làm bửa nay!
User avatar
Mười Đậu
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $1,353,160
Posts: 21904
Joined: 15 Mar 2005
Location: Đằng Kia
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng Mười Đậu từ: uachoiboi, tremaikhonggia, futakoma

Postby Mười Đậu » 26 Feb 2006

Người Ngu Ngơ

Tác Giả: Hỏa Vang

Cả nhiệm sở có l8 nhân viên thì có l6 người tận tâm với mọi loại xổ số kiến thiết trung ương, địa phương, đầu tư, từ thiện... Lẽ ra một đôi người thờ ơ: cô Vĩnh và anh Vũ. Tên cả hai đều có dấu ngã. Thảo nào, cả hai cũng chưa xây dựng gia đình mà cô đã mấp mé 30 và anh thì sắp tròn 46.

Tuy nhiên, đời không phải dễ suy lý một chiều như thế. Hãy cứ để yên xem sao...

Cô Vĩnh thì đương nhiên không thể màng tới bất cứ một cái gì ngoài khối lượng công việc đồ sộ, ngổn ngang đầy ắp cả không gian ba chiều của thân phận cô thư ký giám đốc, kế toán trưởng, thủ quỹ, công đoàn, trưởng ban thanh tra nhân dân, chi hội trưởng phụ nữ. Tức là cô bận lắm mà lại còn ham nữa, thấy vui trong công việc nữa, lại còn đang năng nổ nhúng vào một vụ đấu tranh chống tiêu cực động trời nữa. Đến một đức ông chồng mà cô còn không có thì giờ nghĩ đến thì còn ai nỡ trách cô không đoái hoài gì đến xổ số, không khí xổ số đang sôi động, ấm áp, chan chứa quanh mình...

Mà cô xinh chứ. Không .Cô đẹp. Với tuổi 30 phải nói thế. Toàn thân lẩn mình trắng. Da màu ôliu. Mắt to, đen thắm, môi hồng mọng, cong hươi hươi lên chỗ đót giáp nhân trung. Ngực nhỏ mà rắn rỏi, thẳm mời gọi hoặc... gọi mà như xua đi. Một vẻ đẹp lại Ân khiêu khích. Cho nên, kể đã có đến cả một huyện những anh chàng, ông chàng... lăn lóc đến xin ghi danh “đấu thầu” trái tim cô. Rốt cuộc, cũng không hơn gì một tấm vé xổ số, chưa hề được biết đến ánh mắt cô thoáng lướt qua, chưa hề một lần được những ngón tay cô vân vi kỳ ảo, ve vuốt. Đêm ngủ một mình, còn thức là còn nghĩ tới những công việc của ngày mai, mãi đến lúc đã bắt đầu liu diu, đầu đã bảng lảng chập chờn, cô bỗng bật cười một mình khi chợt nảy ra trong đầu hình ảnh Vũ. Mà đã nhiều lần như thế, cứ phải bật cười trong chăn riêng, trên gối đơn thì anh ta mới hiện ra.

Đúng là Vũ có nhiều cái buồn cười thật. Đầu tiên là cái họ của anh, họ Hùng. Cái họ hình như là cổ nhất, oai nhất mà bây giờ không mấy ai có, ai nhớ, nghe lại cứ như cái thứ họ mượn., Rồi đến hình dung hơi quái quái, tóc dài, râu rậm, mắt to mắt nhỏ, cái nhìn lờ đờ mà xóc thẳng. Bất chợt đụng trong. Đêm thì có thể vãi linh hồn tức thì. Mới thấy giữa ban ngày cũng không thể bén mảng nghĩ đến sự cười. Nhưng đi cùng một quãng, ngồi cùng một lúc, lại ở cùng một cơ quan nửa đời nữa... thì cười lắm, cười quá lắm.

Hùng Vũ ngu nga ngu ngơ đi giữa đời. Lỡ vội chưa chùi dép mà bước vào sàn nhà mới lau thì tự dưng nghiêng đầu ngay xuống phía dưới đất, miệng buột ra: “Xin lỗi” đang oi ngột ngạt chợt đổ mưa rào mát thoáng, lại ngửa mặt lên hướng trời, miệng buột ra: “Cảm ơn” lên xe buýt toàn đứng, vì với ai, anh cũng thấy có lý do để nhường chỗ ngồi. Dạo còn đi xếp hàng mua gạo, mua dầu, bao giờ cũng kiệt tối Vũ mới về với lý do tương tự.

Một bữa, đi trên vỉa hè chật lèn, đầy xe dựng trước những cửa hiệu sáng choang, có mấy cô cậu dửng mỡ nô nhau, đuổi chạy như trong phim lúc tình yêu hé mở ban đầu, xô đổ kềnh một chiếc xe đạp ngay trước mặt Vũ, rồi kệ, chạy tiếp mất hút. Vũ bước tới, nâng cái xe dậy gạt lại chân chống thì chủ nó đùng đùng từ trong vầng sáng cữa hiệu vọt ra, thét như băm vào mặt anh: “Đi đứng thế nào thế? Mù à?”. Vẫn chưa buông khỏi ghi-đông, sợ nó chưa thật vững, Vũ điềm đạm: “Tôi không đánh đổ xe ông đâu, chỉ là người đỡ hộ nó lên thôi”. Và câu thứ hai của ông chủ xe khiến anh ngớ ra: “Thứ người ấy hóa thạch làu rồi, đào đâu ra nữa thế. Thôi, thu vén miệng lưỡi lại rồi biến đi, bố bịp ạ!”.

Lại một bữa đi qua cầu hẹp, thấy một cô bé đạp xe đạp cứ bám quá sát chiếc xe tải đi trước, Vũ buột miệng: “Khéo đấy cháu ạ, nó mà phanh đột ngột thì khốn đấy”. Cô bé đảo mắt lại, nguýt dài: “Việc gì đến bố già hả? Rỗi hơi à?”. Khổ, những lời như thế đã chao vào mặt nhau, lòng nhau rồi mà buộc vẫn phải đi cùng nhau, cạnh nhau. Đường độc đạo, cầu hẹp, xe thô sơ như đời. Vũ lủi thủi đạp, ngậm cái hơi rỗi của mình lại .Thì cái xe tải phanh gấp thật. Cô bé nhào cả người vào thành sau xe. Cái xe đạp đổ kềnh. Vũ hấp tấp xuống xe chạy lại đỡ cô bé dậy, lại buột miệng như một tiếng thở dài: “Đấy, tôi đã bảo mà...”. Và câu thứ hai thì đôi môi chúm nhọn như cái mỏ chim của cô bé nọ làm Vũ ngớ ra: “Chỉ tại cái mồm ông gở đấy? Thôi, buông ra, bầy hầy lắm chuyện vừa vừa chứ”.

Tóm lại, Vũ tựa như thứ lông mọc đầy trên mặt “Người lông”, cái đuôi thửa dài dưới đốt sống cùng “Người cớ đuôi” hiện tượng bản sao lưu quá làu những đặc điểm sinh học của chặng tiến hóa trước, của nguồn cội, của thứ người đã hóa thạch. Hiển nhiên, anh như không biết trên đời thời này có một thứ gọi là xổ số.

Ấy vậy mà chiều nay, Vũ mua xổ số, mua hết cả 60.000 đồng tiền thưởng năng suất anh vừa lĩnh ở bàn giấy của Vĩnh ra. Ngay cửa phòng, Vĩnh nhìn nghe thấy tất cả. Và cô không cười.

Chắc là lúc mà Vĩnh đang đếm tiền để trao cho Vũ cũng là lúc cháu gái mù ấy đã lọc cọc, lần mò lên Đường hết cầu thang. Vũ nhận tiền quay ra thì đụng ngay cái mũi gậy đầu Đường của nó ở cửa phòng.

Tay kia nó chìa ra một tập vé số, miệng nó nói thật tươi như hướng vào một ai Đó vô hình đang đứng cạnh Vũ:

- Cô ơi chú ơi, mời chú mua vé số ủng hộ cho trường trẻ em mù của chúng cháu. Tối nay mở thưởng. Giải đặc biệt lOO triệu. Tập vé của cháu nhiều sớ đẹp lắm. Cô ơi, chú ơi.

Vũ sững lại, đặt tay lên vai đứa bé mù. Thế là nó ngước lên. Hai gương mặt như đã nhận ra nhau. Vũ nhìn hút vào hai trái nhãn đã bóc vỏ, trơ cùi, đang hấp háy hy vọng và mời chào trên gương mặt đứa bé. Anh hỏi sẽ sàng, lại có gì ngu ngơ nữa:

- Mỗi vé của cháu là bao nhiêu?

- Dạ, một nghìn đồng ạ! .

-Ở đây cháu có bao nhiêu vé?

- Dạ, 60 vé ạ.

Vũ ắng đi, đầu óc anh chậm chạp, lờ mờ thấy có hai con số 60 trùng nhau. Nhưng sự yên lặng của anh khiến đứa bé mù thảng thốt, nó tưởng anh đã bỏ đi. Đột ngột, hai tay nó huơ huơ lên trước và một giọt nước mắt rưng rưng:

-Chú ơi, chú nghe cháu nói đã. Kỳ này công ty xổ số dành tất cả tiền bán vé cho chúng cháu tăng tiền thức ăn hằng ngày, tiền sách vở đầu năm học sắp tới mà... Thế mà cả ngày hôm nay, chẳng ai mua cho cháu lấy một vé. Bây giờ, sắp đến giờ phải trả lại vé rồi. Thế là… cháu... cháu chẳng góp được một đồng nào cho trường cháu cả.... Cháu... .

Tiếng Vũ đột ngột:

-Cháu đưa cả tập vé của cháu đây và cầm lấy cả tập này. Sáu mươi ngàn đồng đấy nhé?

Vũ đã dắt cô bé mù xuống rồi. Từ dưới chân cầu thang vang lên tiếng lảnh lót:

- Chú ơi, chú mà không trúng số thì cháu buồn lắm. Chú trúng số thì chú phải báo tin cho chúng cháu đấy nhé?

Và thứ tiếng trầm ấm:

- Được được .Nhất định là như thế. Cháu về đi. Vũ quay lên, anh đưa cho Vĩnh cả tập vé số:

-Cô hộ tôi. Tôi có biết theo dõi các thứ này như thế nào đâu.

Vĩnh tứ nãy, vì không thể cười nên nay như bị ám thị. Cô ngước lên định nói gì thì đã chẳng còn thấy Vũ đâu nữa.

Tối ấy, lần đầu tiên cô sắp xếp mọi việc, ngồi bật truyền hình đúng giờ thông báo xổ số, theo dõi căng thẳng. Không tin ở tai, mắt mình một lần qua đi như thế, cô Đón cả những tiếng rao lanh lảnh chạy trên hè phố: “Kết quả đê... ê...”. Mua một tờ, lại về phòng lẩn mẩn nhặt tìm, soi chiếu. Không một vé nào trúng, đâu là một giải cuối, hoặc khuyến khích.

Bây giờ thì cô bật cười thành tiếng. Tiếng cười không hướng về phía Vũ nữa. Cô cười chính mình: Trong lòng cô như có gì vừa mở ra, ào chảy tưng bừng, một dòng sóng nhỏ ngọt ngào và có hương thơm. “Nhất định, nhất định mình phải làm cho anh ấy ngớ ra một lần nữa. Ngớ ra, nhưng theo chiều ngược lại, đốí nghịch với những lần ngớ trước kia, những lần ngớ ra đã quá nhiều của anh ấy”.

Và như trời xếp để ủng hộ ý định của cô, trong khu tập thể chỗ cô ở, một bà nghèo đông con, hôm Đó tình cờ bớt tiền chợ mua một vé xổ số và trúng thưởng
100.000 đồng. Cô nài nỉ với bà hãy cầm số tiền l00.000 đồng cô đưa và cho tấm vé số may mắn Đó.

Được tin mình trúng thưởng, Vũ ngớ ra thật. Và Vĩnh cười đằm thắm:

- Có gì đâu anh. Quy luật của muôn đời. Ở hiền gặp lành mà.

- Ở hiền gập lành, đúng thế, chú có phái ở hiền gặp may mắn đâu. Này, Vĩnh ơi, em có thể đi cùng tôi xuống trường trẻ em mù một lúc được không?

- Sao lại không Anh?

Hôm ấy hai người đã không đi một lúc. Sau cuộc gặp gỡ rất vui với đội văn nghệ của các cháu trường trẻ em mù đang tập luyện, trong Đó có cả bé gái bán vé số hôm trước, họ đã mua về nhiều nước ngọt và hoa quả chia vui với các cháu. Vĩnh chỉ cầm về một trái táo hồng thắm, thơm phức. Chỉ có một trái táo ấy mà đôi người về rất khuya.

Một tháng sau, đám cưới Vĩnh - Vũ diễn ra thật vui ở hội trường lớn trường trẻ em mù. Đi đến tặng hoa cô dâu chú rể là những người bước chân không nhờ mắt mà nhờ ở những lối đi đã quen và do nơi đến là những con người đã quen, đã thương yêu gắn bó.

Chú rể phát biểu:

-Tôi là một người ngu ngơ hạnh phúc. Xin ghi ơn tất cả người bán vé số và người nhận giải thưởng hộ tôi rồi trao thưởng cho tôi tận nhà, tận tay, trọn vẹn... Cô dâu nhìn chú rể. Mắt to, đen thắm. Môi hồng mọng. Da ôliu. Một vẻ đẹp lai Ấn hiền thục không khiêu khích.

---------------------------
Dziệc dzì để được ngày mai, thì không nên làm bửa nay!
User avatar
Mười Đậu
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $1,353,160
Posts: 21904
Joined: 15 Mar 2005
Location: Đằng Kia
 
 

Postby Mười Đậu » 26 Feb 2006

Hoa Hồng Sớm Mai

Tác Giả: Ma Văn Kháng


Cuối cùng thì đất đã Đón nhận tình yêu của Doan, chia sẻ với những vất vả nhọc nhằn của Doan, hóa thân thành một vườn hồng đỏ thắm. Doan yêu tất cả các loài hoa, nhưng yêu thích nhất vẫn là hoa hồng. Trong mảnh vườn nhỏ nhà Doan, hồng nở đỏ ba luống dài suốt bốn mùa xuân hạ thu đông.

Doan yêu hoa hồng không phải vì hoa hồng được tôn là hoa hậu của các loài hoa. Không phải vì hồng là hoa để tỏ tình, là hoa của tình yêu. Ôi, những Đóa hoa hồng bảy cánh đỏ mịn nhung tuyết, khum khum hình cái vỏ hến úp, ấp ôm bao bọc nhau, thật kín đáo ý nhị mà vẫn tươi mới hào phóng dạt dào! Hồng, cơn nhiệt hứng âm thầm! Hồng đẹp cao quý vương giả. Hồng đẹp thật mà bình dị. Không, còn hơn thế nữa. Đó là những buổi sáng tinh mơ, bố mẹ Doan, các em Doan quây quần ăn sáng quanh chiếc bàn tròn và. Doan từ ngoài vườn đi vào, tay ôm bó hồng còn rười rượi sương đêm. Hồng tươi nở trong cái lọ gốm đặt ở giữa chiếc bàn nhỏ. Chúng đem đến cho mọi người cả một bình minh chan chứa tình yêu đời. Chúng đẹp hơn cả hình thể chúng. Dường như chúng không chỉ hiện diện ở nơi đây; chúng tự tạo nên ý nghĩa. và vẻ đẹp ở cõi vô hình, ở chốn vĩnh hằng!

Còn bây giờ thì chính Doan cũng cảm động. Đặt lọ hoa pha lê xòe nở cả mười bông hồng đem từ vườn nhà đến trên cái bàn nước của cơ quan, Doan có cảm giác khung cảnh căn phòng nhỏ giản dị đã biến đổi hoàn toàn. Mười bông hồng rung rinh, nghiêng nghé, chẳng ai sai khiến, cứ tự nở, tự làm đẹp cho cảnh quan xung quanh.

Hồng đẹp vẻ đẹp thiên lương thế ai mà không yêu? Nghiêng đầu ngắm lọ hoa, Doan thầm nghĩ. Và quả nhiên, ngay lúc Đó chưa kịp quay lại, Doan đã nghe thấy tiếng cười đánh lười tặc tặc và xuýt xoa ô sau 1ưng mình.

- Chà chà... hoa và người ở đâu ra mà đẹp thế kia!

Quay mặt lại, Doan nhận ra ông Quanh, trưởng phòng hành chính cơ quan, vừa đẩy cửa bước vào là vừa kịp cất tiếng chào ông, Doan đã thấy ông trật cái mũ cát-két da, để lộ khuôn mặt dài, khổ ải, với cái trán dô bước lại cạnh lọ hoa, nheo nheo hai con mắt tinh anh nhìn Doan, đoạn tiếp tục tặc tặc lười và văn hoa đến bất ngờ.

- Này cô Doan, tôi đố cô, ở đây giữa cô và hoa hồng, ai đẹp hơn ai đấy?

Mười tám tuổi. Mắt sáng. Môi tươi. Mặt như rạng đông một ngày mới. Như hoa nở vừa độ. Không một nét lầm lỡ, không một gợn u sầu. Học hết trung học, ngày ngày ở nhà chăm bón mảnh vườn hoa, một ngày kia qua Trung tâm giới thiệu việc làm, Doan được dẫn đến trước mặt ông Quanh, trưởng phòng hành chính cơ quan này.

-Tôi đã xem lý lịch của cô rồi. Nghĩa rằng là bố mẹ cô đều là người lương thiện! Cô mấy năm học ở trường phổ thông đều đạt học sinh tiên tiến. Nay đến tuổi lao động, xin đi làm. Có đúng thế không?

-Dạ.

Ông Quanh đưa tay chùi đám bọt bia trắng xóa bám ở mép, đặt cốc bia xuống bàn, gõ ngón tay vào tập hồ sơ xin việc của Doan, nhìn Doan vẻ hài lòng vì tiếng đáp rất ngoan của Doan, đoạn gật đầu đánh khục:

-Tôi nhận cô. Nhưng không phải là nhận vào biên chế đâu. Cái Đó còn làu. Nhận đây có nghĩa rằng là nhận vào làm tạp vụ, mà cũng là hợp đồng ngắn hạn sáu tháng một thôi, cô hiểu chưa?

-Dạ cháu hiểu.

- Nghĩa rằng là lương của cô mỗi tháng là 200.000 đồng.

- Dạ.

- Đó là điều phải sòng phẳng. Tính tôi thế. Nghĩa rằng là tôi ưa lý tình phân minh.

- Dạ.

-Nhưng mà cô cũng chớ có nghĩ tạp vụ là công việc đơn giản nhẹ nhàng. Nói cô đừng nghĩ sai. Tôi đây, tôi ngày nay có được chức vụ lớn thế này nhưng khởi đầu cũng là anh tạp vụ, tạp công rồi phấn đấu dần mà lên. Nghĩa rằng là Bạch thủ khởi đầu nan. Cô có hiểu ý câu ấy không? .

Ngừng lời, đưa vại bia lên miệng, khà một hơi, đã tưởng ông chấm dứt bài giáo huấn kề cà, thì ông lại đưa mu tay chùi mép vênh vênh cái mặt lười cày đầy vẻ hãnh tiến, tiếp tục cao giọng:

- Không đơn giản nhẹ nhàng đâu. Nghĩa rằng là làm việc với tôi là phải cật lực, từ đầu hôm tới tối chẫm đấy. Thêm nữa, nói ví dụ cái cốc bia tôi đang cầm trên tay đây. Vì sao họ làm cái cốc bia đại bố, rót vừa hết một lon bia, cô cớ biết không. Ấy là vì bia, một khi rót nhiều lần thì các phần tử nó vỡ ra và bia biến vị thành đắng mất ngon. Đó, cái Đó là kiến thức, người tạp vụ phải học. Cô nhớ chưa!

- Dạ, cháu nhớ.

- Nhân tiện tôi cũng phải nói để cô biết. Tôi là người kỹ tính. Nghĩa rằng là tôi yêu cái sự sạch sẽ. Cô nên nhớ rằng tôi có cái mũi thính, thính hơn cả khuyển cảnh, cô có biết khuyển cảnh là gì không, nghĩa rằng là chó cảnh sát ấy. Cái cốc bia này, giả dụ cô rửa không sạch. Cầm lên tay, ngửi thoáng một cái là tôi biết liền. Còn thật thà là cái đức tính hàng đầu của người nhân viên...

Nuốt nước bọt đánh ực, ngắt đoạn lời dạy bảo cô nhân viên dưới quyền mình, ông Quanh lại chiêu tiếp một ngụm bia nữa, và lần này mặt đỏ hừng vì ngấm men bia, giọng ông vừa the thé vừa chênh vênh, nghiêng ngả.

Ôi, ông Quanh, cấp trên trực tiếp của Doan! Ông Quanh nghĩa rằng là, ông Quanh mũi thính như mũi cảnh khuyển. Ông Quanh lên mặt cao ngạo với một con bé tạp vụ ranh con! Ông Quanh là nhân vật gây nên những trận cười bất tận của mọi người trong cơ quan. Ông Quanh có thế thật. Nhưng, nghe ông nói, nhìn cái mặt kênh kênh của ông, Doan cứ thấy ngờ ngợ thế nào. Nghĩa rằng là giờ mới được Đóng vai thượng cấp nên ông vừa thích vừa lên mặt kẻ đa sự đa ngôn, lại vừa hình như muốn giải tỏa một nỗi niềm đã tích đọng bấy làu. ở trong lòng!

Nhưng mà thôi bây giờ thì Doan chỉ cần biết, dẫu có bị mọi người coi thường, trở thành đề tài để người ta đàm tiếu thật, nhưng ông Quanh quả thật là một cấp trên kỹ tính và xét nét. Nhưng, ông có kỹ tính đến chi ly, xét nét đến khắc nghiệt, thì Doan cũng chẳng sợ.

Sao Doan lại có thể như chị tạp vụ mới bị ông Quanh sa thải, mua nước cam cho giám đốc Quý tiếp khách chỉ có 5.000 đồng một cốc mà lại khai vống lên 8.000 để kiếm lời? Chổi xô, xà phòng, giây lau... mọi thứ đồ vật Doan ra chợ mua về, báo giá cho ông, ông ghi lại, rồi ông tha hồ đi khảo giá ở các cửa hàng khác nhau, so sánh đắt rẻ từng đồng lẻ, Doan cũng chẳng sợ. Khuất tất là tính xấu đáng ghét nhất của con người chưa bao giờ Doan chạm phải! Còn sạch sẽ thì Doan có thừa! Còn chịu thương chịu khó thì khỏi cần nói! Mảnh đất đầu thừa đuôi thẹo ở sau nhà đầy cỏ dại, dưới bàn tay Doan chẳng đã hóa than thành một vườn hồng đỏ thắm, để mỗi sớm Doan có thể hại đem tới cơ quan cả một bó hồng đỏ sao. Ôi những bông hồng đẹp như một thực thể lại bí ẩn như chỉ tồn tại ở cõi vô hình!

Chẳng lẽ hồng đẹp cái đẹp thực thể hữu hình, lại hàm chứa những bí ẩn khôn dò? Hoa chẳng lẽ cũng như người. Và theo nhận xét của Doan thì ông Quanh không chỉ là người hay ngắm những Đóa hồng sớm mai Doan hái từ nhà mang đến cơ quan, ông còn là người tinh tường, giàu suy cảm lắm.

- Này, cô Doan. Tôi có một, thắc mắc muốn hỏi cô: Tại làm sao hoa hồng cô hái từ nhà cô đến lại tươi được làu thế? Cả một tuần còn chưa héo!

Một sớm mai ngắm những Đóa hồng sau một tuần ở phòng khách còn tươi mởn, ông Quanh đột ngột hỏi Doan. Doan cười:

-Cháu đố bác đấy!

ÔngQuanh nhó nháy lại con mắt nhỏ tinh quái:

-Nghĩa rằng là hồng nhà cỡ là loại đặc biệt?

- Không phải. Đơn giản là cháu có một cái mẹo.

Cháu bẻ hết gai cửa nó đi. Hồng hết gai thì sẽ tươi làu bác ơi.

- Nghĩa rằng là thật như thế à? .

- Mẹ cháu dạy cháu thế ạ.

Khậm khặc ho, đưa tay nới nút cà vạt ở cổ, mặt ông Quanh sần sượng như kẻ
bị thua cuộc, lại như người vừa phát hiện ra một điều thú vị mới mẻ.

- Thế tôi đố cô một câu nhé!

Đứng dậy, cắn cắn môi, mặt ông trưởng phòng đang linh lợi chợt đờ ngây khi bắt gặp nét trong sáng và hiền lương của gương mặt Doan.

-Cô Doan, tôi hỏi cô. Vì sao hoa lại đẹp, cô có biết không?

Thoáng chút tư lự, hết câu hỏi, ông Quanh từ từ ngồi xuống ghế. Nhưng ngay sau Đó, không cần đợi Doan trả lời, ông đã gật đầu, đổi mặt trầm tư và bỗng trở nên trang trọng khác thường.

- Đó là vì hoa đẹp cũng như người đẹp, nghĩa rằng là nó không cần bất cứ một thứ gì phụ thêm vào, tô điểm thêm cho. Vì nhìn nó, con người ta thấy mình trong sạch nên, Doan à.

Mùa xuân ấy, như được hưởng phép lạ, mảnh vườn nhỏ của Doan biến thành một thảm đỏ, bồng bồng như bọt biển, như một ảo ảnh vừa rực rỡ vừa mơ màng. Hồng nở chíu chít, sắc đỏ át cả màu xanh ở mỗi cành, mỗi khóm. Cứ như là Doan đã làm xong chức trách cắm cành dâm xuống đất, còn giờ là hồng tự mọc, tự kết nụ, nở hoa, tự làm đẹp cho cảnh quan. Nhưng nhìn vào nhịp điệu ra hoa và vẻ tưng bừng hớn hở của mỗi Đóa, Doan bỗng như nhận ra vẻ đẹp kỳ ảo của chính mình, một vẻ đẹp như ông Quanh nói, không phụ thuộc vào bất cứ cái gì, một vẻ đẹp tỏa ra sức thôi miên, đưa con người vào những miền suy tưởng sâu sa. Hồng bừng bừng cơn hưng phấn, giãi bày, dâng tặng. Và thế là từ hôm ấy Doan đã có thể ngày nào cũng hái một bó hồng lớn đem đến cơ quan, suốt tuần lần lượt đặt hoa, từ phòng tài vụ, đội bảo vệ, tổ lái xe... tới phòng giám đốc Quý.

Một buổi sáng, đang ôm bó hoa vào phòng giám đốc Quý, Doan bỗng nghe tiếng ông Quanh gọi giật. Quay lại, Doan thấy ông trưởng phòng mũ cát-két da, áo bu-dông da gọn ghẽ và trai trẻ, đang tử ngoài sân bước vào. Buổi sáng cuối xuân, ngoài sân sương bay mờ ảo, thấp thoáng nỗi hoài cảm xa gần. Chưa đến giờ tầm. Các phòng ốc chỉ nhấp nhô bông hình những đồ nội thất vô tri.

- Mới có sáu giờ rưỡi, bác đến sớm thế! Bác uống trà cháu mới pha nhé.

Đã quen thân với ông, Doan chủ động, vừa đặt bó hoa xuống bàn nước, vừa rót nước mời ông. Trật mũ, hai con mắt thoáng nỗi đăm chiêu lướt qua những Đóa hồng tươi mởn, ông Quanh chậc lười:

- Đêm qua nằm chả ngủ được. Bốn giờ dậy, đi quanh hồ hai chục vòng, về tắm nước lạnh, rồi ra hiệu phở ăn một bát, nhưng trở về cũng mới chỉ có năm giờ bốn mươi lăm phút.

-Chả bù cho cháu hồi còn đi học. Nếu không có đồng hồ báo thức thì cháu phải ngủ tít một mạch đến mười giờ cơ!

Doan nói. Ông Quanh lắc lắc đầu:

-Tuổi già đến cùng với chứng mất ngủ. Mà ngủ sao được, đời bao nhiêu chuyện phải nghĩ ngợi.

- Thật ra là khi có công việc gì Đó phải nhớ thì cháu cũng chẳng ngủ được một mạch đâu. Nó cứ như người mắc nợ, lúc nào cũng canh cánh bên lòng ấy.

Đấy, từ ngày cháu đi làm, nhất là từ ngày cháu cải tạo mảnh đất hoang thành cái vườn trồng hoa thì cứ độ hơn năm giờ là cháu thức rồi. Cháu dậy để đi tưới tắm, chăm sóc hoa.

- Còn tôi có thói quen dậy lúc bốn giờ là từ khi ở tù

-Ớ tù?

Cùng với tiếng hỏi giật của Doan, ông Quanh cũng nhận ra ngay là mình đã buột mồm. Ông vội đưa tay lên che miệng. Rồi lắc đầu, cười gượng gạo như 1à lảng chuyện:

- Nghĩa rằng là chuyện đời rắc rối lắm? Cô Doan học hết trung học, có biết đời ông nhà thơ ngông nổi tiếng trước ta là Nguyễn Công Trứ không? Ông Nguyễn Công Trứ làm quan dinh điền sứ, có công đầu trong việc lấn biển khai hoang vùng Kim Sơn ấy!

- Cháu có được học qua về ông ấy ạ.

- Đang là quan thượng thư tức là ngang hàng, bộ trưởng bây giờ, đùng một cái bị giáng chức xuống thành thằng lính hầu. Nghĩa rằng là lên voi xuống chó trong nháy mắt. Ngẫm ra, đời tôi cũng có chỗ nó giông giống như đời ông Trứ. Tất nhiên là tài cán, danh vị thì tôi không so được.

- Trời!

Doan thốt kêu. Ông Quanh nhệch môi, hàm răng cặn sỉ, thoáng một cái cười vô thanh và ngán ngẩm. Ồng Quanh hóa ra không chỉ hiện ra bằng những gì đã bộc lộ. Ông Quanh không chỉ là nhân vật gây cười, lắm lời, nhiễu sự, hay lên mặt cha chú một cách cạn cợt. Ông Quanh còn là một uẩn khúc, chưa được giãi bày, một ẩn số chưa được giải đáp. Điều Doan ngờ ngợ ngay từ buổi đầu tiếp xúc với ông, có thể là đây chăng? Ông Quanh sống không yên ổn, trong lòng ông còn những bức bối, âm thầm và chúng sẽ được bộc lộ trong cơn tự kỷ ám thị vì ngoại cảnh kích ứng. Và bây giờ, ông đang ở trạng thái tâm trạng bị giày vò dữ dội, mất tự chủ. Hay sau bao năm trời thất cơ lỡ vận, giờ ông mới có được một kẻ dưới quyền là Doan để có thể thở lột tâm sự? Doan không giống mọi người trong cơ quan xa lánh ông, luôn lấy ông làm trò cười. Doan trong sáng, hồn hậu lương thiện như hoa.

Khuôn mặt dài nhợt bệch vì xúc động, ông Quanh chống tay vào mặt bàn, đứng dậy. Môi ông lật bật, những câu nói giật cục quen thuộc như không kìm giữ được, liên tục buột qua vành môi ông:

- Thôi, cô đem hoa vào cho ông giám đốc Quý đi. Tôi nói điều này cô đừng cho là tự kiêu. Đúng là tôi đã có con mắt xanh khi nhận cô vào làm việc ở đây.

Cô thật là một cô bé ngoan, chịu khó và có tấm lòng nhân hậu cao quý. Qua cô, qua việc cô đem hoa của nhà đến làm đẹp cho cơ quan, tôi nhận ra, một con người có thể đem lại rất nhiều niềm vui cho mọi người. Cô Doan à, cả đời tôi, tôi không nuông nịnh ai đâu. Cả cậu Quý giám đốc kia cũng vậy. Đang gọi là ông tôi hạ giám đốc xuống hàng cậu chắc cô ngạc nhiên, hả? Chẳng có gì lạ đâu. Em út tôi còn hơn cậu ta năm tuổi cơ. Hơn nữa, chính cậu ta cách đây mười lăm năm chỉ là anh nhân viên dưới quyền tôi. Và lẽ ra, phòng giám đốc mà cô sắp đem hoa vào, chính là chỗ ngồi của tôi đấy! .

-Bác Quanh!

- Thật thế đấy. Tôi đã ngồi ở phòng Đó hai năm. Nhưng sau Đó, tôi lại như ông Nguyễn Công Trứ bị giáng chức, bạch thủ khởi đầu nan bắt đầu từ chân tạp vụ: Thật thế đấy. Tôi ở tù ra, trở lại cơ quan này, cậu Quý đã lên giám đốc. Cậu ta là một người tốt. Cậu ta bảo tôi: “Anh Quanh, em rất thương anh, rất thông cảm với anh. Cậu ta nhận tôi vào làm tạp vụ hợp đồng. Nghĩa rằng là tôi lại bắt đầu phấn đấu: Và bây giờ tôi đã trở lại biên chế, rồi lên được chức trưởng phòng. Cuộc đời nó rắc rối thế đấy? Nào ai học được chữ ngờ. Nghĩa rằng là chỉ cần một tí sơ sẩy thôi, là lập tức lộn tùng phèo tất cả...

Mười tám tuổi, như hoa hồng vừa hé nụ, lần đầu tiên trong đời, Doan được biết tới cái phức tạp của cuộc sống, được tiếp xúc với một người như ông Quanh, được sống trong những cảm xúc đa chiều như lúc này.

Ông Quanh đã bị tù? Tội lỗi gì đã đưa ông vào vòng lao lý? Vì ham mê tiền bạc! Vì đắm chìm trong mê cung ái tình! Vì không kìm được bản năng tăm tối mà rơi xuống chốn bùn nhơ! Doan không thể hỏi. Vì lúc này, thật quá bãt ngờ, ông Quanh bỗng ngồi thụp xuống, đưa hai tay lên ôm mặt. Ông Quanh khóc. Khóc nức nở như một đứa trẻ bị đòn oan và ân hận. Khóc trong cơn tự kỷ ám thị kinh hoàng.

- Bác Quanh! Bác Quanh! Bác làm sao thế! - Sợ hãi, Doan kêu khe khẽ.

Giữa hai người, những bông hồng sớm mai rung rinh niềm kiêu hãnh và cơn nhiệt hứng mạnh mẽ âm thầm.

---------------------
Dziệc dzì để được ngày mai, thì không nên làm bửa nay!
User avatar
Mười Đậu
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $1,353,160
Posts: 21904
Joined: 15 Mar 2005
Location: Đằng Kia
 
 

Postby Mười Đậu » 26 Feb 2006

Trung Úy Về Quê

Tác Giả: Hồ Tĩnh Tâm


Tùng xuống xe, đến bến đò vào lúc 6 giờ chiều. Chuyến đò cuối đã chạy trước Đó 30 phút. Hơn mười cây số Đường đất vừa mới đắp cao lên để chuẩn bị lót đan, còn ướt nhẹp, làm sao đi bây giờ? Anh vào quán nước, tính hỏi bà chủ xem ở đây có đò thuê bao hay không. Bao đò vào buổi chiều trời âm âm như vầy, dám bị khía là cái chắc. Nhưng biết làm sao được. Gần sáu tháng trời cùng đồng đội lo phá án, giờ mới được mấy ngày nghỉ phép, giá nào cũng phải về.

Bà chủ quán như đọc được ý nghĩ của Tùng, hỏi:

-Nếu chú về xóm Bàu thì cứ ngồi uống nước, chút xíu tôi nói nhỏ với cháu cho quá giang. Nhà nó ở xẻo Quýt, xóm Bàu.

Vậy là Tùng được quá giang. Mừng muốn hết lớn. Mà lớn gì nữa. Năm nay anh đã 26 tuổi, đã tốt nghiệp .Đại học Cảnh sát được hơn ba năm, đã tham gia phá tới mấy vụ án. Kinh nghiệm vui buồn lủ khủ cùng mình. Lần này quá giang tam bản của cô gái trắng như bông bưởi, không biết sẽ rút ra bài học gì nữa đây.

Cô gái hỏi:

- Anh ở trên tỉnh về phải hôn? . Thấy anh gật đầu, cô gái lại hỏi . Mà ở trển anh làm gì cà?

- Tui làm việc cho nhà nước.

- Hổng lẽ anh làm ráo trọi mọi việc sao?

- Tui làm một việc còn không xong, đâu dám bao đồng như cô hỏi. Mà... bộ cô là công an sao mà hỏi như điều tra vậy?

-Hổng đám đâu! Ngồi không thì hỏi cho đỡ buồn. Coi bộ anh cũng khó quá hà!Dòm mặt tưởng côg an hình sự?

- Cứ cho là công an thì sao?

- Thì cũng ngoài xóm Bàu như em chứ sao.

Tùng thấy thích cô gái. Chẳng biết cô con nhà ai mà bạo mồm bạo miệng. Vóc vạc như vầy, ở làng chắc nhóc nhách người chết mê chết mệt. Tùng tò mò muốn hỏi cho biết cô tên gì, con ai nhưng thấy ngài ngại. Nghiệp vụ khai thác lấy cung, anh được xếp vào loại giỏi vậy mà trước bông bưởi non nõn này, anh thấy lúng túng như gà mắc tóc:

- Cô ba à?

-Em thứ năm, tên Năm Thắm.

- Ủa, cô Năm này, nhà cô khúc nào ở xóm Bàu vậy

- Đã biết ở xẻo Quýt rồi còn hỏi. Ngay bến câu còng chớ đâu.

- Vậy cô con bà Tám à?

- Sao anh biết?

- Là tôi đoán vậy. Nhìn mặt chắc cô khoảng mười tám, hai mươi là cùng.

- Trật lất! Em hăm hai.

- Dạy học phải không?

- Sao anh hỏi vậy?

-Thì... coi mặt bắt hình dong mà.

- Vậy thì đúng công an rồi nghen! Chắc công an chìm quá hà? .

- Ừa, tui có nổi bao giờ đâu mà không chìm. Mắt cô Năm đẹp như hồ nước ấy.

- Bắt đầu tán rồi phải hôn? Trai xóm Bàu lên tỉnh làm việc, ai cũng tán dễ sợ luôn.

- Nói nghe trớt người. Tán giỏi thì tui đâu có ế vợ tới giờ

-Khôn róc tổ chưa? Ai hỏi mà anh khai. Em đã có tới mấy đứa cháu lận.

-Tui cũng cháu trai, cháu gái nhóc nhách. Nói vậy là co Năm còn đang tư
lệnh phòng không chứ gì?

Cả hai đang vui chuyện thì trời chuyển dông vần vũ đen sầm, hơi nước lạnh ngăn ngắt như luồn vào da thịt mà xoa. Rồi mưa xối ầm ầm như nghiêng trời trút nước. Đã vậy chiếc ghe còn chết máy. Quả là ông trời chơi ác. Mà có khi ông còn cố tình để hai người kéo dài thời gian làm quen. Chàng trung úy lúc này đã tự tin lắm. Ràng ràng là Năm Thắm còn gái son. Cổ là con bà Tám thì chắc ăn, hổng bà con ruột già gì. Vấn đề là cần phải điều tra xem cổ có bồ chưa.

Không khéo bé cái nhầm thì chết. Hồi còn học ngoài Hà Nội, có lần Tùng đến thăm một cô công nhân nhà máy dệt. Trời xui đất khiến thế nào cô lại chưa đi chợ về. Mẹ cô ở nhà. Bà trẻ tới mức Tùng cứ tưởng là chị của cô gái. Vậy là anh gọi chị xưng tôi, ngồi tán hượn tán vượn chuyện con gái Hà thành ai cũng đẹp. Còn bà thấy anh mặc sắc phục, lại cứ tưởng. Tùng là cảnh sát khu vực mời được bổ nhiệm. Bây giờ người trong Nam ra Bắc làm việc thiếu gì. Chừng cô gái về tới, giới thiệu Tùng với mẹ, Tùng mắc cỡ muốn chết nên đã tìm cách đánh bài chuồn. Hai người từ Đó không gặp nhau nữa.

Lần này là người làng, về tới nơi hỏi thăm lối xóm, làm sao mà không biết Năm Thắm đã có nơi nào dạm hỏi hay chưa. Có điều lạ thiệt. Đã sang tháng 12 rồi mà còn mưa đông là làm sao. Mưa rớt vụ là năm nay trúng mùa hoa mai vàng rực. Nhà Tùng có tới mấy cây mai thế, mai kiểng. Ông nội quý lắm bởi nó là mai tổ tuổi vài trăm năm có dư. Có nhiều khách tử Sài Gòn xuống dạm hỏi để mua, trả tới mười mấy cây vàng. Ông nội không hề quý vàng như họ tưởng. Ông nói: Nhờ linh cây mai tổ mà con cháu mới học hành đỗ đạt, mới nên người trong thiên hạ. Mười cây chứ cả trăm cây cũng không bán được”.

Gió ngược, nước ngược, hai người ráng sức quạt mái dầm cỡ nào, chiếc tam bản cũng cứ ì ra. Cuối cùng .Tùng bàn tấp ghe vô bờ để sửa máy.

-Cô Năm che áo mưa để tui trị nó mới được. Tới máy xe đò tui còn trị nổi nữa là máy dầu.

Năm Thắm cúi người che máy cho Tùng sửa. Nhưng gió giật dữ quá, cái áo mưa cứ tung lên phành phạch. Nhìn thấy cái chòi canh rẫy trên bờ, Tùng bàn với Năm Thắm khiêng máy lên Đó để sửa. Hai người hè hụi khiêng máy. Gần lên tới bờ đất, Năm Thắm bị trượt chân, chới với mấy cái rồi buông máy, té ùm xuống nước. Tùng bỏ chiếc máy, cúi xuống nắm tay NămThắm kéo lên. Anh kéo mạnh tới mức Năm Thắm đổ sập vào người anh. Vậy là cả hai lại rơi tủm xuống nước.

Lúc leo được lên bờ, Năm Thắm nói:

-Mai mốt em phải bắt thường anh làm tội em té xuống nước hai lần Đó. Giờ phải lo sửa máy cho kịp không thì hết thấy Đường luôn.

Năm Thắm giúp Tùng tháo banh chiếc máy ra sửa. Té ra sự hỏng hóc cũng không ghê gớm gì. Chỉ lui hui một lúc, tiếng máy đã nổ rộn rã.

- Cô Năm thấy chưa? Tui tội thì cô phạt, còn công của tui thì cô có thưởng hông?

Năm Thắm chẳng nói chẳng rằng, hôn chụt một cái vào má Tùng. Trời đất? Sao mà ấm nóng đến rần rật vậy trời. Làm như nụ hôn của con gái có điện hay sao ấy Tùng đứng sững người ra một 1úc rồi chợt nhớ mình là con trai, anh nắm lấy tay Năm Thắm, nâng lên hôn.

Bất ngờ Năm Thắm nói:

-Anh Tùng, em là con dì Sáu, kêu anh bằng cậu lận. Nhà em có nghề xay bột và nấu tào hủ, anh không biết sao. Hồi anh học lớp l2, em học lớp 10, anh đâu có chơi với lớp nhỏ tụi em. Bởi biết anh nên em mới dạn chuyện.

Ôi trời ơi! Vậy là chết nữa rồi. Sao mình hậu đậu làm vậy! Ngoài Đường ngoài xá người ta hay nói giỡn chơi, làm sao mình vội tin Năm Thắm là con bà Tám. Mà kỳ thiệt. Cơn cớ gì mình lại không biết con dì Sáu nấu tào hủ là bà con à! Có khi mình đi học trường huyện từ nhỏ, lớn lên lại đi xa nên không biết Năm Thắm là bà con. Chuyến này ràng ràng là mắc đại họa giữa Đường rồi. Trung úy cảnh sát hình sự mà điều tra không tới nơi tới chốn.

Xìu xuống như cái bánh tráng nhúng nước, từ Đó Tùng chìm luôn cho tới lúc về tới tận nhà.

Khi mấy đứa em đã tắt đèn đi ngủ, Tùng mới hỏi mẹ:

- Má à! Má có biết Năm Thắm con dì Sáu xay bột, nấu tào hủ không?

- Biết chớ sao không! Con nhỏ Đó tao rành sáu câu. Nó mới ra trường về dạy học hơn nửa năm nay. Lắm chỗ nhắm nhe rồi mà nó chưa chịu chỗ nào.

- Cổ bà con với mình sao vậy má?

- Bà con gì? Ba mày họ Trần, tao họ Nguyễn, còn má nó họ Lê, tía nó họ
Huỳnh. Có mà bà con từ thời khỉ mới hóa người thì có.

Trời ạ! Thật là năm con khỉ. Trung úy cảnh sát hình sự mà bị cô giáo mới ra trường gạt cho chìm lỉm.

Tùng lên giường, buông mùng nằm chong mắt nhưng không thể nào ngủ được. Chỗ má được Năm Thắm hôn cứ nóng lên rần rật. Anh tưởng tượng ra ngày trả phép, sẽ mặc bộ quân phục cảnh sát, đeo hàm trung úy, khi tới bến ước gì “chuyến” đò cuối cùng đã chạy. Anh sẽ lại được Năm Thắm cho quá giang... và sẽ lại có một cơn dông bất ngờ ập đến... Khi chữa máy xong, nhất định anh lại sẽ chủ động hôn nàng... Hẳn là đôi má trắng như bông bưởi của Năm Thắm sẽ hồng rực lên cho mà coi... Nghĩ tới Đó, bất giác Tùng bật cười một mình giữa đêm khuya.

------------------------
Dziệc dzì để được ngày mai, thì không nên làm bửa nay!
User avatar
Mười Đậu
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $1,353,160
Posts: 21904
Joined: 15 Mar 2005
Location: Đằng Kia
 
 

Postby Mười Đậu » 26 Feb 2006

Trăng Ngự Bến Xuân

Tác Giả: Trần Thu Hằng


I. Khúc ca cung oán

Chờ hoài, chờ mãi, chỉ thấy mặt Hồ Tây nổi song thôi .

Con thuyền lặn ngụp trong sương gió, và trăng bàng bạc. Không đẩy mà cứ trôi dạt trong im lặng. Cái lạnh thấm sâu vào xương thịt, làm mặt người nhợt nhạt, u uất

Thống Thiện ném cây đàn đáy xuống hồ. Lòng hồ nuốt mất, không một tiếng động. Ngày hôm nay nữa, chàng cũng không thể nhân phím so dây. Hồn chàng kết giao cùng sóng rượn và sóng nước Hồ Tây. Đã bao năm chàng đến chốn mông lung này, chỉ để uống rượu và nghe tiếng hát ấy... Tiếng hát nhẹ như là không có tai người phàm khó mà nghe được, lại hòa với âm nhạc tự nhiên của trời đất, chỉ cảm mà không thể bắt chước.

Chàng thiếp ngủ trong lặng lẽ u sầu. Đó là cái thiếp ngủ của thể xác mệt nhoài, còn thần hồn vẫn tỉnh thức, thao thức đợi chờ. Trăng nhạt màu và gió bớt u mặc. Trong giây phút ngắn ngủi của giấc ngủ ấy, Thông Thiện chợt nghe thấy một khúc đàn bật lên trong chính đầu chàng. Bao nhiêu âm thanh lắng lại rót vào tai chàng, không một phần nào loãng ra ngoài. Tinh thần chàng sáng lóe lên, tất cả dồn vào việc thưởng thức cung đàn muộn, chậm rãi dạo lên. Rồi một tiếng hát cất lên:

“Tình ngắn sầu đài

Ái ân tình ngắn sầu dài

Chập chờn đáy nước khói bay lưng trời...”.

Những lời ngâm nga dài mãi ra, tiếng phách điểm lạc lõng, mơ màng. Hết câu ,khói bay lưng trời...”, tiếng phách ngừng, tiếng đàn im và một màn tối rũ xuống che phủ hồn chàng .Thông Thiện.

Chàng bàng hoàng mở mắt. Be rượu trong tay chàng vẫn còn nghiêng xuống, nhỏ giọt tan vào nước hồ.

Đời chàng mà có kéo dài thêm vài trăm năm nữa thì cũng chìm nổi mãi mà thôi.

Sáng hôm sau, Thông Thiện đến chỗ hẹn trước đền Bạch Mã. Hai người bạn của chàng là Vũ Tùng và Phan Thuận Phong đã chờ sẵn ở Đó. Cả ba người ngoảnh lại nhìn,. sông Tô lần cuối, trước khi dứt áo ra đi

- Ôi! Xin giã biệt . Thăng Long yêu dấu - Thuận Phong kêu to bằng tất cả sự sôi nổi của tuổi tráng niên - Xin giã biệt sâm cầm, Phật say, rừng trúc. Xin giã biệt Văn Miếu, Trường Thi. Anh em chúng ta chẳng có phúc phần, nhưng...

Vũ Tùng cầm ngập con dao xuống đất:

- Vũ Tùng này ra đi tìm minh chúa, nhất định sẽ có ngày trở về giết hết bọn tham quan nịnh thần, trả 1ại cuộc sống bình yên cho dân chúng.

Chỉ có Thông Thiện không để rơi nước mắt, nhưng vẻ mặt chàng tái nhợt như người đã chết. Chàng chỉ nói thầm: “Vĩnh biệt!”. .

II. Khúc sông trong

Ba người bạn đã có ý định tìm vào miền Nam từ làu, nhưng ý Thông Thiện cứ dùng dằng chưa quyết. Trong nhóm bạn, chàng là người học cao hiểu rộng nhất, nhưng vì xuất thân từ phường hát mà chàng liên tục bị đánh hỏng trong các kỳ thi. Chàng cũng là một tài tử phong lưu với ngón đàn như gió cuốn, mày bay. Nhưng ngày xưa người bạn hát của chàng - một đào nương nhan sắc có giọng hát tuyệt vời - đã lọt vào mắt xanh của Trịnh Doanh. Khi ấy Chúa mời là vương tử đã dùng mọi cách bắt nàng vào vương phủ làm ngư nữ. Từ Đó, chàng trở nên gàn dở, uống rượu như nước và chẳng thiết tha gì cuộc đời. Lần lữa bao nhiêu năm, đến khi thân tàn ma dại, chàng mới chịu lên Đường

Ba người bạn xuôi theo những dòng sông vào tận.Biên Trấn, nơi bốn mùa hoa trái hiền hòa, gạo trắng nước trong, lại có tiếng là nơi phú hội. Chính Phan Thuận Phong chọn nơi này, bởi chàng nhận ra sự thông thương giữa các bến cảng, đầu mối của những con sông lớn. Thuận Phong mua vài con thuyền cũ, chọn nghề buôn vải, chẳng bao làu trở nên giàu có, làm nơi dựa dẫm cho anh em.

Vũ Tùng say mê võ nghệ. Nhưng ngày trước ở Thăng Long, chàng khinh ghét bọn kiêu binh, coi thường thế lực nhà Chúa, nên không thèm đầu quân. Đến Đồng Nai, chàng gia nhập đoàn quân của Nguyễn Lữ, và chẳng bao 1âu đã được giao chỉ huy một đội quân bảo vệ Biên Trấn.

Còn Thông Thiện thì đã lớn tuổi. Chàng mang theo tất cả sự nho nhã, thanh cao cùng sự khí khái của một nho sĩ Bắc Hà vào cái lều cỏ của mình bên dòng Phước Long Giang. Chàng chọn nghề dạy học, nhưng không chịu dạy cho con nhà giàu, vì chàng coi thường sự phách lối của chúng. Học trò của chàng đều nghèo nên chàng chẳng nuôi nổi thân. Sau Đó, nhờ biết đọc chữ Hán, chữ Nôm, chàng quay sang bốc thuốc cứu người. Thuở ấy ở Biên Trấn hiếm người biết bốc thuốc chữa bệnh, tất cả những nhà thuốc tập trung trong tay người Hoa kiều, nên dân chúng rất khổ sở. Có được người thiện tâm như chàng, cả một vùng Nông Nại đại phố trở nên êm ấm. Họ gọi chàng là thầy lang Thiện. Tìm được loại thảo dược nào, họ đều mang đến Đóng góp cho nhà thuốc của chàng. Một vị phú nông bên kia sông đã tìm đến, ngỏ ý gửi cả ba cô con gái của mình cho học chữ và học nghề bốc thuốc chữa bệnh. Ban đầu Thông Thiện không dám nhận, vì thấy việc này hơi kỳ lạ. Nhưng thấy phú nông 1à người hào hiệp nhân từ, nên chàng nhận lời.

Ba năm sau, cô em út trong số ba chị em lên thuyền hoa theo Vũ Tùng, vì cảm mến người trai tuấn tú và dũng cảm. Đến năm sau, khi những cành hoa mai bắt đầu chớm vàng bên chòi lá của Thông Thiện, thì cô con gái thứ lạy cha về với Phan Thuận Phong. Tuy Thuận Phong không có vẻ tài hoa như Thông Thiện, cũng không anh tuấn như Vũ Tùng, nhưng chàng lại rất tận tâm và cẩn thận, hết lòng chăm lo cho anh em bạn cùng gia đình vợ. Chỉ còn Lúa, cô chi cả, ngày ngày một mình chèo đò sang cù lao phụ giúp cho Thông Thiện, đến tối lại trở về chăm sóc cha. Thông Thiện như một vị thầy giáo nghiêm khắc, truyền dạy cho nàng Lúa hết cả Tứ thư, Ngũ kinh, bắt nàng học thuộc các vị thuốc, bài thuốc. Nàng trở thành một cộng sự trung thành của Thông Thiện, không hề vắng mặt trong nhà thuốc của chàng một ngày, hết băm lá lại phơi rễ, sao tẩm... Ngoài những công việc hàng ngày, nàng còn đi đổi gạo, đổi cá khô cho chàng, dọn sạch cỏ, đan lá dửa chằm lại mái nhà dột của Thông Thiện. Chàng tuyệt nhiên không nói cười với nàng lấy một tiếng. Những lúc hướng dẫn nàng viết chữ, bốc thuốc, chàng đều tỏ vẻ trang nghiêm đến lạnh lùng. Nàng Lúa cũng tỉ mẩn coi sóc mọi thứ trong ngoài, cho cuộc sống của Thông Thiện được tươm tất, nhưng cũng chẳng bao giờ dám bày tỏ tấm lòng mình.

Mấy năm trôi qua như vậy, Vũ Tùng và Thuận Phong đều đã con cái đề huề. Mỗi cái Tết, hai chàng đều đưa con về nhà ông ngoại, cho chúng chạy chơi trong khu vườn trồng đủ loại cây trái sum suê. Nhìn thấy chị mình còm cõi và đau khổ trong một mối tình câm lặng, Gạo và Tấm đều xót xa. Hai nàng lựa lời nói với chồng. Thuận Phong và Vũ Tùng cũng mấy lần ướm hỏi Thông Thiện, chàng chỉ nói chàng quá nghèo, không xứng với nàng Lúa và gia đình phú nông. Thuận Phong thẳng thắn nói rằng:

- Thưa đại huynh, Đó chỉ là cái cớ vặt mà thôi. Huynh xem năm sáu năm rồi chị Lúa tận tâm tận lực vì huynh như thế, huynh nỡ lòng nào để tuổi xuân của chị phí hoài hay sao? Chỉ cần huynh quyết, Vũ Tùng và đệ sẽ hết lòng lo liệu cho huynh.

Vũ Tùng cũng phụ họa:

-Anh Phong nói chí phải. Anh em chúng ta lớn lên có nhau, lại ở nơi đất khách quê người, không nên khách khí làm gì.

Đáp lại Thông Thiện chỉ im lặng, đôi mắt rưng rưng nhìn dòng sông lặng lẽ trôi. Mắt chàng dời theo những bông hoa lục bình tím ngát rồi từ từ nhắm lại.

Ba bốn năm nữa trôi qua, mọi chuyện vẫn chẳng có gì thay đổi. Phú nông đã khuất núi, để lại lời dặn dò cho con rể Phan Thuận Phong coi sóc đất đai ruộng vườn. Lòng Thông Thiện chẳng hề suy suyển. Chỉ khác là sau bao năm im lặng, chàng bắt đầu bắt chước những ông già trong vùng, đêm đêm ngồi trong chòi lá kéo đàn gáo và ngắm nhìn sông nước. Nàng Lúa mình rạc xác ve, ngày đêm làm lụng không chịu ngả lưng.

Thuận Phong và Vũ Tùng cùng đến tìm Thông Thiện vào một đêm trăng non. Thông Thiện vẫn đăm đắm nhìn dòng sông phẳng lặng, dáng người còn lại như một cái cành khô, chỉ đôi mắt là còn sống. .

- Đại huynh! Đệ và Vũ Tùng đến đây để nói với huynh rằng nếu huynh còn kéo dài cuộc đời mình như thế, đệ và Vũ Tùng sẽ tự vẫn trước mặt huynh.

- Đúng vậy! Vũ Tủng rút ra con dao ngày nào. Thà đệ và anh Thuận Phong chết, còn hơn thấy huynh ra thế này.

-Đừng, đừng. Thông Thiện vội đứng lên, vì nhận thấy hai người anh em không có vẻ đùa cợt chút nào. Rồi chàng xoa dịu: Đây là chuyện riêng của huynh, hai đệ cho huynh từ từ...

- Không thể từ từ nữa. Vũ Tùng lớn tiếng. Đệ và anh Phong chỉ mong thấy huynh sống đàng hoàng. Chúng tôi chờ huynh mười mấy năm rồi.

- Huynh cứ xem đây. Phan Thuận Phong từ tốn cởi áo ra. Thông Thiện nhìn thấy mấy vòng khăn tang buộc sẵn trên cổ chàng Phan.

- Việc này... ta cấm hai đệ. Thông Thiện tái mặt. Thuận Phong vẫn điềm đạm trả lời:

- Ngày xưa thái tử Đan còn tự giết mình để thúc giục Kinh- Kha. lên Đường, thì đệ và Vũ Tùng sao lại không dám chết để giúp huynh hồi tỉnh? Nỗi đau quá khứ, xin huynh đào sâu chôn chặt, làm lại cuộc đời mình, thế mới là chính nhân quân tử. Còn nếu huynh vẫn khăng khăng sống ích kỷ như thế này thì đệ và Vũ Tùng chết không đáng tiếc...

Hai người anh em quỳ xuống, khiến Thông Thiện run rẩy tận đáy lòng. Chàng muốn thét to lên cho vỡ toang màn đêm lồng lộng. Nhưng nỗi uất hận nín câm bao năm nay chặn ngang cổ chàng. Chàng cũng không dám thở dài, sợ phá vỡ mất bầu không khí đêm nay.

Một tiếng hò văng vẳng từ bên sông đưa tới, rõ dần. Câu hò đã thuộc nằm lòng ba chàng trai xứ Bắc: “Nước sông trong đổ lộn nước sông ngoài, thương người xa xứ lạc loài tới đây . Một con đò trôi ngang cái chòi lá của Thông Thiện. Cả ba anh em đứng dậy, nhìn theo, cùng lắng nghe câu hò bao lần làm nát ruột họ. Dáng người phụ nữ chèo đò đứng nghiêng nghiêng trên mặt sông mờ mịt, rồi lại chìm vào bóng tối.

Thông Thiện khóc với hai người bạn rằng:

- Cũng một đêm như thế này, ta rời bỏ Thăng Long...

III. Trăng ngự bến xuân

Giữa năm Bính Ngọ (1786),. Vũ Tùng từ biệt gia đình và hai người anh kết nghĩa, lên Đường hội quân với đức Lệnh Nguyễn Huệ tiến ra Bắc, thực hiện công cuộc phò Lê, diệt Trịnh. Thế là lời thề mười mấy năm đã trở thành hiện thực, nhưng Vũ Tùng không khỏi băn khoăn nhìn vợ và đàn con nhỏ. Chàng nói riêng với Thông Thiện và Phan Thuận Phong: “Chuyến này ra đi một sinh hai tử, xin hai anh nhận của đệ một lạy thay lời bái biệt”. Thuận Phong khóc ròng, rồi an ủi: “Chắc chắn đệ sẽ bình an trở về, nhớ mang cho ta một tấm lụa làng Trúc...”. Riêng Thông Thiện không nói gì.

Vũ Tùng đi rồi, Thông Thiện lặng lẽ xếp lại sách vở, lớp lang đâu ra đấy. Mấy ngày liền chàng ngồi lỳ bên ản thư, viết đi viết lại một lá thư, và chẳng hé răng nói với vợ một câu. Nàng Lúa lẳng lặng làm các công việc hàng ngày rồi đi nằm trước. Nàng đã có mang được năm tháng rồi, lại đã có tuổi, nên người mệt mỏi. Đôi lúc trở mình, nàng nhận thấy chồng vẫn thức chong chong bên ánh đèn dầu phộng. Có lần,nàng giật mình hốt hoảng vì thấy Thông Thiện đang ngồi bên giường, lặng lẽ ngắm nhìn vợ. Linh tính mách bảo nàng, sắp có chuyện chẳng lành, nhưng đã quen cam chịu, nàng không dám cất lên hỏi khi không thấy chồng nói gì.

Một đêm, nàng Lúa giật mình tỉnh giấc thấy chồng đang đứng ở, đầu giường, cũng đang im lặng nhìn mình. Nhưng đêm nay, chàng khoác một chiếc áo tơi trên vai đeo tay nải nhỏ ngày nào chàng đến xứ này. Thế là lòng chàng đã quyết, nàng âm thầm nhắm mắt lại, chờ cho Thông Thiện mở cữa đi ra. Nàng nghe bước chân chàng hụt hẫng đạp trên lốp lá khô đang rụng trong đêm, lát làu sau, cơn đò bên chòi lá chòng chành trôi đi: Nàng Lúa khẽ khàng trở dậy, tìm ra án thư ở Đó có một bức thư Thông Thiện để lại:

“Người tình chung của ta!

Ta xin gọi nàng như vậy, Đó là cách,gọi thận thương của quê nhà ta, trong họ hát của ta. Ta ra đi thế này thật có lỗi với nàng. Nhưng xin nàng hãy yên lòng, dù thế nào ta cũng sẽ quay về. Chỉ vì, đây là điều không thể nói, nên ta phải mượn đến bút nghiên…

Trước khi lấy nàng, làu lắm rồi, ta đã từng có một lời thề với một người con gái. Lời thề trắng trong không vướng chút bụi trần. Nàng tên là Bạch Cúc. Hai ta từng thề nếu có chết thì tan thành cát bụi sông Ngân, còn nếu còn sống thì phải hát cùng nhau trọn một đêm để trả món nợ tình duyên. Ta chờ đợi Bạch Cúc mười năm mà không có tin tức gì. Ta cất công đi tìm thì được nghe tiếng hát của nàng vang ra từ hành cung chùa Trấn Quốc. Tên bạo chúa Trịnh Doanh ấy, trước khi hắn chết trong cung thủy tinh vì sợ nắng sợ gió, hắn đã giam nàng vào nơi ấy. Ngôi chùa thiêng liêng bị biến thành chốn hành lạc và giam cầm. Chỉ những đêm không trăng, bọn chúng không hứng thú bày những cuộc vui hành hạ thân xác và tinh thần những người phụ nữ, thì ta mới được nghe tiếng hát của Bạch Cúc Ta chờ đợi để được đưa nàng ra khỏi nơi ô nhục ấy, để được đàn cho nàng hát. Nhưng Đó chỉ là mong ước của một mình ta, những bức tường cứ sừng sững vây bủa lên số phận bao con người...

Giờ đây, đức Lệnh được phong làm Bắc Bình Vương đem quân đi dẹp chúa Trịnh, trả lại sự nhất thống cho đất nước, ta không khỏi mừng thầm Bạch Cúc sắp được thoát khỏi vòng nô lệ gần ba mươi năm. Ta xin nàng hãy vì thương cho một linh hồn, một tiếng hát mà hỉ xả cho ta... Xin nàng bảo trọng...”.

Nàng Lúa úp mặt vào trang thư mà khóc. Những con chữ nhòe ra bởi nước mắt của nàng. Những con chữ chính chàng đã dạy cho nàng, vun đắp cho cuộc đời nàng... Nàng mường tượng đến cảnh đoàn voi trận của Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ xông vào những thành trì tăm tối của nhà Chúa, lôi ra ánh sáng những bộ mặt tàn độc khét tiếng một thời, mấy trăm năm làm ngả nghiêng thế sự. Nàng còn thấy những người cung nữ đầu bạc bám vào nhau trốn chạy trước ánh sáng chói lòa của một cuộc đời mới. Và Thông Thiện của nàng, vượt qua biển lửa, dắt họ đi...

Dân chúng kéo nhau đến tận phủ chúa Trịnh, nay đã là đại bản doanh của Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ, để chào Đón và tạ ơn. Trong số Đó có một kép đàn già và một đào nương được viên tướng Vũ Tùng dẫn đến, nhận là người nhà. Họ len qua đoàn người, sự ốm yếu chậm chạp của họ khiến quan quân ái ngại nhường Đường. Người kép già bưng cây đàn lên quá đầu, và giữ chặt như thể sợ nó rơi mất. Còn đào nương đi theo sau thì bận bộ áo trắng mỏng manh như một nhánh liễu tàn, lưng đã còng gập xuống, chỉ có nhan sắc thì vẫn mơ màng như đang sống lại trên gương mặt già nua. Đến trước mặt Bắc Bình Vương, kép Thông Thiện cầm cây đàn xá mấy cái rồi nói thật to:

- Thảo dân chờ đợi ngày này đã ba mươi năm rồi. Xin mọi người cho thảo dân cùng vị nương tử đây được hát một bài chúc xuân để tỏ lòng tôn kính...

Nói rồi, Thông Thiện bấm phím ra dây, bàn tay như có thần. Bạch lão nương ngồi sệp xuống ngay giữa lối đi Đường hoàng như ngồi trên chiếu hát, bắt đầu gõ phách và hát:
“Trời riêng đâu mảy tơ mảy phát, Chợt khỏi đông thì thoát sang xuân. Tràng An xe ngựa rân rân
Đâu đâu mừng thấy tiết xuân đã về. Năm cũ đi thì năm mới lại,

Bĩ đã qua thì thái lại ra.

Thiều quang phủ khắp gần xa,

Gió xuân hây hẩy, khí hòa hây hây…”.

Tiếng hát cao vút như có bầy hạc thần bay lên, kéo tung tấm màn ảm đạm trên đầu mọi người. Trăm ngàn con người cảm thấy nở từng khúc ruột, nghe rạo rực và êm ấm lạ thường. Sảnh Đường im phăng phắc, có lẽ chưa bao giờ họ được nghe một giọng hát tuyệt vời như vậy. Bắc Bình Vương ngồi giữa các tùy tướng, mỉm cười chăm chú lắng nghe.

Bỗng. có tiếng ai ,quát to:

- Dừng lại, không được hát “Tứ thời khúc vịnh” nữa. Thuở xưa tên cẩu nho Hoàng -Sĩ Khải đặt ra khúc hát này để dâng nịnh bọn sâu mọt Trịnh Tùng. Đã mấy trăm năm rồi, bây giờ bọn con hát vẫn còn dám lải nhải khúc hát này mà ca ngợi Bắc Bình Vương sao?

Tiếng đàn hát ngừng bặt lại, như chết điếng. Ca nữ Bạch Cúc ngồi ôm đầu sợ hãi. Nhưng Bắc Bình Vương ôn tồn nói:

- Hãy cứ đàn hát cho mọi người cùng nghe. Ta chưa bao giờ được nghe khúc hát tài tình đến thế này. Ai làm ra khúc hát không quan trọng, ta chỉ thấy nó thật là xứng hợp với mùa xuân đang đến với đất trời Thăng Long...

Nói rồi, ngài ra hiệu cho quân lính mang tiền ra thưởng. Tiếng hát của Bạch Cúc như vượt bảy tầng sóng, chín tầng mây, hân hoan không có gì ngăn ngại nữa.

Sau đêm hát, Bạch Cúc và Thông Thiện mang tiền được thưởng ra chia lại cho dân nghèo. Sau Đó họ xuống thuyền ngoạn cảnh Hồ Tây. Trước đây, thú vui này là đặc quyền của các công hầu khanh tưởng với đầy rẫy cung tần mỹ nữ thị thần.

- Trăng đêm nay đẹp quá. Hình như ba mươi năm rồi, thiếp mới được ngắm ánh trăng này...

Bạch Cúc lên tiếng trước. Rồi nàng chầm chậm trao cho Thông Thiện một gói nhỏ:

- Tấm khăn lụa này, chàng đã xin thiếp mà thiếp ngần ngại không dám cho... Bây giờ thì... đời thiếp như sương khói, chỉ còn mảnh khăn này...

Thông Thiện run run nhận lấy, chàng không sao nói được nên lời. Niềm vui đoàn tụ cùng lời thề thuở xưa trọn vẹn, trái tim chàng như bị núi Thái Sơn chặn lên, không sao thở được.

- Trăng đẹp như thế này mà thiếp mệt rã rời. Thiếp nghỉ trước đây. Chàng hãy hưởng thụ đêm xuân này thay cho thiếp, để khi tỉnh dậy rồi chúng ta không phải tiếc nuối...

Thông Thiện bâng khuâng nhìn trời nhìn đất. Khắp nơi chăng đèn kết hoa rực rỡ, dân chúng tràn ra Đường đông vui như mở hội, trên tay họ là những cành hoa. Bỗng có tiếng chuông chùa ngân nga kéo Thông Thiện về miền tâm tưởng. Càng ngước lên nhìn. Dãy hành cung chùa Trấn Quốc biết bao năm sừng sững chắn ngang một góc Tây Hồ đã bị đập vụn, đàn tràng đã được lập lên cùng đèn nến sáng một vùng.

Thông Thiện ngoảnh lại toan gọi Bạch Cúc dậy để tận mắt nhìn sự đổi thay Đó. Nhưng nàng đã tắt nghỉ.

Gương mặt của nàng dịu dàng và viên mãn như một vầng trăng.

- Bạch Cúc! Thông Thiện thì thầm gọi tên nàng.

Chàng đau đớn nâng vuông lụa lên, toan phủ mặt cho nàng. Nhưng chợt nhớ ra, chàng ôm siết di hài bé nhỏ của nàng vào lòng, nói nhỏ:

- Bạch Cúc! Nàng hãy vui lòng cho ta trao vuông lụa này lại cho Thuận Phong nhé. Người anh em ấy luôn mơ ước có được một kỷ vật của quê hương Thăng Long... Còn ta, ta mang tiếng hát của nàng suốt cả cuộc đời.

----------------------
Dziệc dzì để được ngày mai, thì không nên làm bửa nay!
User avatar
Mười Đậu
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $1,353,160
Posts: 21904
Joined: 15 Mar 2005
Location: Đằng Kia
 
 

Postby Mười Đậu » 26 Feb 2006

Nước Nguồn Xuôi Mãi

Tác Giả: Dạ Ngân


Vạ vật thêm một chút trên chiếc chiếu lác ngay dưới chân bàn viết, Dị ngồi bật dậy gập lưng trên hai đầu gối, kiểu ngồi ưa thích mỗi khi chị kết thúc một đêm làm việc. Chị hình dung và muốn bật cười, trong cái dáng khổ nạn này chắc mình giống một con mụ điên bên gúc chợ, xem kỹ thì có vẻ giống một người tù trên nền xà lim. Thật là quá quắt khi tự so vì như vậy thật ra, dù ở xó nào, bao giờ người viết cũng cảm thấy thế giới chung quanh là một cái cũi đối với ước nguyện tự do của họ.

Ngôi như vầy thì xương sống được thể dục nhưng hai vai lại chúi xuống ê ẩm rõ rệt hơn. Dị thèm xiết bao một đôi tay, tay của má rất ân cần nhưng nếu mà ở gần thì bà đâu có ngơi việc, tay của con gái thì hối hả nghĩa vụ nhưng giờ cái nghĩa vụ ấy cũng không thể nữa, còn tay của một người đàn ông thì... Hình như ai Đó từng tổng kết rằng xét về mặt làm chồng thì đàn ông xứ này thuộc loại chồng ích kỷ nhất thế giới, xem ra nhận định cực đoan ấy cũng không phải là quá đáng khi Dị so sánh với người từng là chồng của mình. Vậy thì tìm đâu ra một đôi tay có thể cất bớt chốc lát cái gánh năng sạu một đêm gò lưng bên máy chữ? .

Tiếng xe máy từ ngoài trước cho biết những người đi làm trễ đang vội vã. Trời đất như một mụ luống tuổi ế ẩm hở tý là sụt sùi, đêm đêm tiếng gió lướt thướt kéo dài cùng với tiếng mưa trên mái tôn khi khoan khi nhặt. Dị đan hai cánh tay dưới đầu gui làm mấy động tác lăn lưng thư giãn, chiếc chiếu lác cũ ẩm mềm trên nền gạch cứng. Má chị từng tặc lười: “Chết chết con ơi, cái nghề lấy đêm làm ngày ngủ vờ ngủ vịn nền nhà kiểu này cảm chết có ngày con ơi?”. Chị nghe thấy má đi lại lục đục trên nền xi măng gian bếp, bà không quen đi dép nên tiếng chân lùi đùi lụi đụi khi chị nằm ở cái chỗ hàng đêm của mình. Chị không có nhiều con để biết lòng mẹ thường công bằng hay thiên vị nhưng hình như người mẹ nào cũng muốn san sẻ nhiều nhất cho đứa con yếm thế, thua thiệt, nghèo khó. Ở bên chỗ anh Bình thì má của chị được ngồi một chỗ mà sai khiến ôsin, được ăn đủ mọi thứ trên trời dưới biển, được nằm máy lạnh khi nóng bức còn đi đâu đã có xe hơi, xe biển xanh hẳn hoi đưa Đón. Nhưng hở ra là má chạy qua với Dị và không hiểu sao bà chỉ thích đi bằng xe lôi chớ không phải thứ xe con mở cũng khó mà khi Đóng lại thì phải hất mạnh tay nghe một cái sầm. Bao giờ trong túi xách má cũng có cái gì Đó nhón từ đống quà cáp bổng lộc của anh con trai lớn, khi Dị bứt rứt, Dị cằn nhằn, Dị nài nỉ má đừng có làm như vậy kẻo anh chị biệt anh chị hiểu lầm cả hai má con thì bà chặc lười: “Ôi, tụi nó người ta biếu xén cửa trước cửa sau ăn ngả nào cho hết! Hổng ai như mầy làm cái nghề
gì quanh năm chẳng thấy thiên hạ biếu xén gì trơn?”. Chẳng thấy thiên hạ biếu xén gì trơn là cụm tử bà thích định nghĩa cái nghề của con gái mình. Cô con gái Dị khen lấy khen để cách nói kiệm tiện mà hình ảnh của ngoại còn Dị thì chỉ lặng lẽ cười buồn; dù má chị không biết chữ, má không đọc được những điều chị gõ trên máy hàng đêm, má không hiểu được những câu chuyện bủ khú của đám bạn bè hay kéo đến nhà làm tốn hao cà phê của chị nhưng bà đã khái quát một cách thần kỳ cuộc sống khổ ải của con gái mình bằng sự mẫn cảm của một bà mẹ.

Căn nhà hình ống yên tĩnh một cách cố gắng, thanh bình. Dị lắng nghe và thấy hy vọng một cách dễ chịu vào một ngày mới có thể chưa tốt lên nhưng chắc chắn sẽ không tệ hơn hôm qua. Từ phòng ngoài, con gái Dị đi nhanh xuống, bước chân của con gà mái tơ sốt sắng với vai trò làm mẹ. Nó giống chị ở cái dáng tháo vát, tảo tần, loại người không chịu ngồi không an hưởng, nhất định nó sẽ phải khổ và cực vì cái tính độc lập và hay lo của mình. Vừa tháo giúp mẹ bốn cái dây mùng, nó vừa nói khéo: “Mẹ coi có cách nào chớ cái mùng nầy đêm nào cũng chiếm hết Đường lên xuống toa-lét, vướng quá!”. Dị luống cuống: “Để rồi mẹ thu nhỏ nó lại cho vừa chiếc chiếu thước hai thôi” - chị hứa. Cái mùng ngoại cỡ tự tay chị may lấy này từ làu đã là không gian riêng tư, là một cái chuồng hàng đêm của chị, là vật dụng thiết thân của chị sau cái máy chữ. Nhà dài có mười một thước, hồi mới được phân phối, chị đặt bàn viết của mình ở sát cửa sổ phòng khách, trông ra khoảnh sân có những dây cát đằng bông tím đung đưa trong cái hàng rào sơ sài chị -lấn chiếm thêm cho giống với mọi người trong khu chung cư. Từ khi con gái chị có chồng, chị lui cái bàn của mình vào phòng ăn giáp với gian bếp cũng là chỗ cơi nới thêm sát với miệng cống. Phòng khách trở thành nơi công cộng cho ba thành viên vì ông con rể là khán giả say mê của mọi chương trình, trong Đó có chương trình bóng đá thường lấn cả những đêm yên tĩnh trước kia của chị. Đàn ông chật nhà,đàn bà chật bếp mà. Từ khi chị có cháu ngoại thì chiếc mùng chụp bàn viết được tận dụng vì nhà có trẻ nhỏ không đốt nhang muỗi được. Cái mùng trong phòng ăn đã choán gần hết Đường xuống to lét đã đành, cái chao đèn bàn viết dù đã cụp xuống hết cỡ cũng vẫn làm mất tự do của đôi vợ chồng trẻ ở phòng trong, nhất là những đêm cuối tuần, thời điểm mà con gái chị lóng la lóng lánh ngay từ bữa cơm chiều trong khi chị thì lại buồn hơn, muốn thức sâu hơn và chừng như lại viết được dễ dàng hơn. Chị hiểu nỗi ấm ức của con và chị luôn thấy có lỗi với nó vì cái nghề khổ nhọc của mình.

Cô con xếp gọn chiếc mùng, trước khi nhét vào tủ đã nán lại chỗ cái bàn của mẹ, nó không chú ý mẹ đang viết gì, đêm qua cuốn tiểu thuyết của mẹ thêm được mấy trang mà chỉ lật qua lật lại cái mép khăn lót dưới máy chữ để xem xem như vậy thì đủ dầy chưa. Dị ý tứ lên tiếng trước: “Mẹ lót tới mấy xấp khăn: Lót cao quá thì cái máy bập bênh mà cũng mỏi tay hơn. Nếu ban đêm nó lách cách quá chắc tại mấy cái chân bàn nầy rơ, để mẹ kêu thợ mộc tới coi!”. Chị lưu ý cái chau mày của con rồi lặng lẽ đẩy nhẹ chiếc bàn sát vào tường, nhanh nhẹn cuốn chiếc chiếu dựng vào vách tủ “Cháu nó còn trong mùng hay ra nôi rồi, con?” chị hỏi với theo khi thấy con gái đi trở ra phòng ngoài. “Hổng biết sao hồi sáng nầy nó ọ ẹ hoài”.

Chị ra theo, đôi chân tỉnh táo và thoăn thoắt mỗi khi hướng về cháu ngoại, như chính chị là đứa trẻ, con nó, sự có mặt và cả cuộc sống của nó là một món quà trời ban cho chị. Đứa cháu trai mới ba tháng tuổi, hai ống tay căng hồng màu cà rốt để ngửa lên gối, tất cả toát lên vẻ tươi sáng diệu kỳ trên tấm nệm xanh, khăn đắp cũng màu xanh, một thiên thần bồng bềnh giữa những gợn mây xốp màu da trời. Con gái chị ngồi xuống cỗ vi tính, những sợi tóc mới ra lòa xòa quanh cái cổ trắng mịn của gái một con khiến chị vừa mãn nguyện, vừa se lòng. Còn được mấy tháng phép thai sản, nó nhận bản thảo của một Chi nhánh Nhà xuất bản về làm word kiếm tiền phụ với mẹ với chồng: Ngày trước phía sau bàn viết của chị là đứa con trên chiếc võng vải dù kỷ vật kháng chiến và một sợi dây ni long nối cái mép võng với cổ tay chị. Bây giờ phía sau cỗ vi tính của con gái chị là chiếc nôi tự động đung đưa bằng điện. Hai thế hệ, hai hoàn cảnh, dù tiện nghi có đỡ đần cho đôi chút thì trên vai của người mẹ vẫn là chừng ấy gánh nặng và nỗi lo. Chị ghé vào bật cho con cái đèn bàn: “Mắt đàn bà mới đẻ ngồi vi tính sớm hại lắm. Đừng có tiết kiệm điện, đáng chuyện xài thì phải xài thôi”. Giọng cô con buồn hiu: “Phải chi mẹ viết trên vi tính được để khỏi làm máy chữ thì ban đêm đỡ ồn!”.

Chị lắc lắc đầu lui ra, im lặng. Lại một lần nữa cảm ,thấy mình có lỗi với con dù chị đã làm hết sức mình mấy chục năm nay, cái công việc yêu thích của mình để tồn tại, để nuôi dưỡng con trong môi trường lành tính chữ nghĩa, để làm một tấm gương nghị lực, để có thể tiếp tục độc lập với chính con mình khi đã về già tất cả chung một lý lẽ làm mẹ và làm người. Nhưng quả là chị vẫn thấy chật vật .và sự chật vật ấy đã gây thua thiệt cho con: Chị thấy mình có một cái lỗi cụ thể không khắc phục nổi là không viết được trên vi tính. Chị không thể nhìn dán vào màn hình, trước mặt chị chỉ có thể là cánh đồng, hẹp thì một khoảnh sân hay cùng lắm là một bức tường yên lặng. Và cái máy chữ, nó đã gắn bó từ khi chị chỉ là cô văn thư vô danh trong rừng, nó là người bạn- Đường sống chết có nhau với chị và tiếng lách cách của nó như âm nhạc, như một thói quen không cắt nghĩa được.

Bỗng con gái chị chạy lại chỗ chiếc nôi con, hoảng hốt: “Mẹ, mẹ chạy xuống bếp coi ngoại làm gì mà dao thớt ầm ầm quá trời vậy”. Chị chạy đi như một người làm công ngoan ngoãn, vớ ngay cái thảm nhỏ chỗ cửa bếp đưa cho má:

“Bà cố hổng chú ý gì trơn. Cố lót thêm cái nầy dưới thớt cho dầy nè. Cháu của cố đương ngủ bù, nó mà thức giữa chừng thì mẹ của nó cũng làm giặc luôn”. Bà má làm theo ý con gái như một cái máy. Dị ngồi xuống bên má, bà mẹ với lấy cái ghế thấp để không đẩy ngay cho con gái. Má chị thuộc thế hệ thích ngồi xổm trong bếp hơn là kê ghế hay lên ván hay đứng làm. Cũng như chị đã bị liệt vào thế hệ không say mê vi tính được, những thế hệ đành xếp hàng thui thủi ở sau lưng những con người hiện không thể thiếu mobil và computer. Chị nhìn dán vào hai bàn tay má, bà đang phân một con vịt xiêm trên thớt sao cho những chỗ nạc thì kho được một nồi với củ cải xá bấu, bộ lòng thì làm món xào gì Đó, còn đầu giò cổ cánh thì bằm ra được một món khổ qua dồn thịt làm canh. Bà sẽ đặt những chỗ thịt bằm lên thớt, rồi nện bằng búa cho xương tơi ra sau Đó mới dùng tới dao băm, hai bàn tay cầm chặt cán dao và chỉ xoay cái thớt khi cẳn để chỗ thịt luôn có hình mặt võng. Rồi bà sẽ ngồi bệt xuống nền nhà dùng cả hai tay nhồi nặn thật làu để thịt thấm tiêu hành mắm muối. Má chị có tất cả những phẩm chất của một bà góa sớm đã ở vậy để nuôi con, mỗi khi nhắm mắt lại để nhớ má thì bao giờ Dị cũng nhìn thấy hình ảnh đôi tay chai sần, trong thau quần áo, trong thau bột hay trong những món cần nhồi và ướp như món này, lúc Đó trông bà thật là tận tụy và say mê, tâm huyết. Trong buổi sáng mưa gió đầm dề này, tự dưng chị thấy sao mình cứ muốn khóc khi má vần phải vần một thớt xương để tiết kiệm họ chị từng đồng một. Chị tìm một cái dao nhỏ, chị sẽ xát bắp cho má, chị sẽ cẩn thận gọt từng Đường dao sao cho bắp không nát mà vẫn sạch tận cồi. Chị không nhớ má đã không thể cạp bắp được từ khi nạo, chỉ nhớ bà thường tự gọt bắp ra dĩa lấy muỗng xúc rồi trệu trạo nhai, những lúc ấy, chị nghe thấy tiếng thời gian ,rượt đuổi rất gấp từ phía sau cả hai má con. Nhưng chị vẫn phải thức đêm và má chị vẫn còn phải cầm dao băm thịt cho chị y như ngày nào.

Có tiếng con gái la toáng loáng ở ngoài trước. Hóa ra thằng nhỏ đang ngọ nguậy trong nôi thì bị ọc sữa, sữa trào lên mũi làm cho nó không thở được trong mấy giây Dị chạy lên, bà cố cũng bỏ việc chạy lên nhưng con gái chị bồng ngoảnh đứa nhỏ đi, như thể cả hai người đàn bà là thủ phạm của một vụ vây bức nào Đó. Dị rón rén .”Tại mưa gió sụt sịt, cháu nó lạnh bụng mà con?” - Bà cố chen vào: “Ngoại nói để cái nôi ngoài này ngay gió lắm?”. Cô con dục dặc:

“Đêm nó đâu có yên giấc, vậy mà mới sáng sớm ngoại đã lộp cộp rồi, vầy hoài riết chắc chết hết!” Dị sực nhìn xuống mất cây nhang trong bàn thờ thần tài gần chỗ con đặt cái nôi: “Có phải thằng nhỏ dị ứng mùi nhang nầy không?”. Cô con áp đưa con lên vai bước tránh ra xa, chực khóc: “Mẹ thì lúc nào cũng kiếm chuyện với cái bàn thờ thần tài? Chồng con làm ăn, hổng thắp nhang mỗi sáng sao được?”. Quả là Dị không cần thần tài, không nhà văn nào cần bàn thờ thần tài cả. Nhưng ông con rể chị thì chăm chút mỗi sáng như chỗ Đó là mạn sống của chúng nó vậy. Quả thật chị và vợ chồng chúng là hai thế giới nhưng xét cho cùng, phía trước cả hai đều có chung một ý nghĩa là khẳng định một chỗ đứng nào Đó dù có thể phải nhón chân mà đứng.

Chị lẳng lặng theo má đi trở lại bếp. Bà cố của đứa nhỏ lật đật mở cửa sau đi sang nhà hàng xóm xin ngồi nhờ để băm cho xong chỗ đầu giò cổ cánh một con vịt hy vọng tiết kiệm được một ít tiền moi tim moi óc của con gái. Chị thì đứng xát bắp thành những lát mỏng cho bữa lót lòng mà má chưa kịp ăn.

Sau khi việc trong bếp đã hòm hòm, bà má đến từ phía sao cô con đang ngồi bên bàn đọc lại những thứ đã viết được hồi đêm. Bà nói như thể dỗ dành: “Để má bóp vai cho, thức đêm thức hôm hoài vầy chịu sao thấu con!”. Dị tận hưởng sự chăm sóc của má mà tâm trí để ở phòng ngoài, nơi đứa con gái của chị đang ôm con ngồi ngóng ra trời mưa. Chắc là nó bận thả hồn theo người chồng đang phải phóng xe máy đi lại trong ướt sũng để chạy chọt, kết nói, xin xỏ làm ăn. Ba con người, má chị, chị và con gái như đang đứng trong cùng một đội hình, người này chỉ thấy cái ót của người kia mà phía trước là thời gian và những nỗi lo muôn đời .Nước vẫn từ nguồn chảy dốc ra từ phía sau như vậy róc rách, âm thầm, và cũng muôn đời như vậy.

----------------------------
Dziệc dzì để được ngày mai, thì không nên làm bửa nay!
User avatar
Mười Đậu
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $1,353,160
Posts: 21904
Joined: 15 Mar 2005
Location: Đằng Kia
 
 

Postby Mười Đậu » 27 Feb 2006

Hội Lính Cánh Bắc Đường

Tác Giả: Trung Trung Đỉnh


Tôi mắc cái tật xấu, cứ trước giờ xuất kích, sau khi nghe tiếng anh Mười Thử bảo: “Thôi, đi óc!” là y như rằng, cái thằng bụng dạ tôi nó réo quặn lên, mót ị “Chờ em một chút”, tôi vội vàng tháo thắt lưng, hạ ba lô biến vào rừng, làm cái việc bất đắc dĩ không giải quyết không xong ấy. Gần như cùng một lúc thằng Chung, thằng Viễn, bạn đồng ngũ với tôi đều không cần phải báo cáo, chỉ nhìn bộ mặt đần thối của chúng nó cùng các động tác lật đật tháo thắt lưng, lật đật hạ ba-lô, hạ súng là lẽ tất nhiên, anh Mười cùng cả tổ công tác Cánh Bắc Đường đều ai nấy tự biết cần phải làm gì. Thằng Tụng tủm tỉm liếc mắt sang anh Mười rồi bảo, Đó là căn bệnh của những thằng yếu bóng vía, chưa vào trận mà đã...

- Không hẳn là thế, anh Mười Thử đủng đỉnh nói. Bệnh ấy là căn bệnh của hầu hết những thằng lính mới ra trận, anh nói thêm. Sau này đã dạn dày rồi, tôi mới biết điều Đó.

- Nhưng em cứ suy từ em ra, thằng Chung tồ ít tuổi, bé con nhất, nhưng lại hay nói lý, bảo với anh Mười. Đó hoàn toàn không phải là bệnh hay tật xấu. Đó là phép giải tỏa tâm trạng. Anh có thấy sau mỗi lần giải quyết xong “cái rẹc”!, tâm hồn anh trở nên thơi thới, nó quay sang tôi, rồi lại quay sang thằng Viễn, mở máy tiếp. Tay súng anh ra trận trở nên nhẹ bầng, ý chí anh được nâng cao...

- Cao cái con khỉ! Thằng Tụng chặn đứng luồng thuyết lý của thằng Chung, khiến nó bị hẫng. Đó là lúc tất cả chúng ta đều tranh thủ đọc truyền đơn của địch thì đúng hơn! Thằng Tụng bao giờ cũng đựng được cái cốt cho câu chuyện bằng một chi tiết cực đắt và bất ngờ như vậy.

Ngọn lửa trước mặt chúng tôi chừng như hạ mình xuống, vệt khói xiên thẳng lên cái dàn bếp truyền thống, theo lối cũ kỹ của thằng Chung, trong thứ ánh sáng không ra ánh sáng,cứ chập chờn run rẩy ấy, tạo nên một khung cảnh lạ lùng sau câu nói sắc- lạnh của ba Tụng. Tôi có cảm giác như tất cả trong khoảnh khắc đột nhiên hóa đá.

- Mày cứ nói thế, tôi nói. Mà đọc truyền đơn địch thì đã sao?

- Ba thằng chiêu hồi đều chỉ vì nghe đài địch, đọc truyền đơn địch, nghe loa phóng thanh từ trên máy bay địch...

Thằng Tụng vẫn nói giọng căng cứng. Suýt soát ba mươi lăm năm sau chiến tranh rồi mà tính nết thằng nào vẫn y chang thằng nấy, chẳng thấy thay đổi tí nào.

- Nhậu! Không nói nhiều!

Thằng Viễn rót rượu la hết lượt các ly. Tôi hưởng ứng. Rồi đến anh Mười, thằng Chung.

- Ba Tụng, anh Mười nhắc. Mày sao đó mày?

Ba Tụng cầm ly rượu đưa ra trước mặt thằng Chung, huơ huơ cánh tay cụt, nói:

- Xin lỗi anh em, nói long trọng. Ngày ấy tôi cứ hay nghi thằng Chung này trước sau rồi cũng chiêu hồi...

Chung và Tụng chưa bao giờ hoà hợp với nhau. Đã có lúc hai đứa cùng kéo cò súng lên, định “nói chuyện” với nhau rồi. Chẳng là lần xuống ấp phá bầu cú của địch, anh Mười phân công tôi phụ trách thằng Chung và thằng Tụng đột nhập một hướng. Hướng của chúng tôi phải lội qua một đám sình lầy rồi mới vào được ấp. Thằng Chung đi trước, rồi đến Tụng. Tôi khoá đuôi. Đang lội sình thì pháo sáng địch đột ngột bắn loà trời, lẽ ra phải đứng im thì hắn lại nhảy dựng lên, tất nhiên là sau cú nhảy dựng lên ấy cu cậu cũng phải đứng lại, nhưng toàn thân run lẩy bẩy. Tôi thấy thằng Tụng chồm ngay tới sau khi ánh pháo sáng của địch tắt. Nó ấn thằng Chung xuống bùn rồi cứ thế hai thằng nhồi nhau. Tôi dùng báng súng chận ngang hai đứa và dùng đầu húc mạnh vào mạng sườn thằng Tụng. Chúng tôi lôi nhau lên được bờ thì cối địch đã nã cú nổ cú bụp phía bên kia bãi lầy. Lại pháo sáng! Tôi thấy thằng Chung khóc. Còn thằng Tụng thì dứ dứ quả đấm vào sát mặt thằng Chung. Tôi nghiến răng, dí quả lựu đạn vào mặt chúng nó, rít lên. Tất nhiên là không được rít to:

- Chúng mày giết ông đi!

Cuối cùng rồi cũng êm. Tôi đi giữa, thằng Tụng đi trước, thằng Chung theo sau. Tôi thấy thằng Chung vẫn run, còn thằng Tụng thì vẫn hằm hè bảo nó là thằng hèn, thằng sợ chết. Sợ chết thì nói thẳng ngay từ lúc ở nhà...

Tôi ra lệnh không thằng nào được nói.

Đêm ấy, sau khi quấy rối trong ấp về, chúng tôi rút vào suối Dấu. Thằng Chung ngụp lặn kỳ cọ cả buổi, còn tôi và thằng Tụng ngủ. Ngủ chán rồi mới gọi nhau họp kiểm điểm. Thằng Chung bảo em giẫm vào bụng một cái xác chết trương phình, rất to, nghe rõ tiếng bục của nó, rồi “xèo” một phát. Rút chân ra đúng lúc pháo sáng, em sợ quá nên mới nhảy dựng lên, ai dè bị anh Tụng anh ấy đánh?

Nói xong nó lại khóc. Tôi nghe thằng Chung tả cũng rợn tóc gáy, nhưng không dám nói ra. Còn thằng Tụng thì nhổ phì phì rồi khẳng định, đó là xác bọn Mỹ sau trận đánh của chúng tôi hồi tuần trước vào toán xe tiếp vận của chúng chạy từ căn cứ An Khê ra.

- Ối giời, chuyện vặt!

Thằng Viễn chủ xị vừa giơ chai rượu lên soi soi vừa nói, rồi tiếp tục rót vào các ly, đưa tận tay từng người.

-Tao đã từng ăn cứt thằng Bình thì đã sao?

Của đáng tội, chuyện ấy quả có thế thật, nhưng tất cả chỉ là vô tình. Tôi có nắm cơm khá to, nhưng mấy ngày liền bị Tào Tháo đuổi nên chưa ăn đến, lóng ngóng trong lúc chạy ông Tào Tháo thế nào, bị tuột quai túi, nắm cơm rơi trúng cái bãi chiến- trường dơ mình phóng ra. Bỏ thì tiếc, mà nhặt lên cũng thấy rợn tay.. Nhưng, nói thật là nắm cơm không, trị giá cả lon gạo trắng tinh, tiếc đứt ruột, nên tôi cứ nhặt đại về. Thằng Viễn nửa khuya tù chốt được thay ca, mò tới hỏi thăm tình hình cái bụng xâu của tôi, rồi nó kêu đói quá, tôi đành nói tình thật. Nó đem nắm cơm ra suối rửa, rồi về rang lên, ngôi chén. Nó bảo thế mà bùi, chỉ tiếc là có mỗi nắm nên tao vẫn thòm thêm.

- Anh Tụng hồi ấy hay bắt nạt em, thằng Chung vừa nhổm dậy định nói thì thằng Tụng lại đằng li rượu vừa uống cạn xuống đất nó:

-Tao thèm bắt nạt hạng mày? Mày có công nhận đi lãnh muối, tao gùi năm chục ký, gấp đôi mày không?

- Cái ấy thì công nhận, thằng Chung nói.

- Mày có công nhận hôm mày bị sốt rét tao cõng mày chạy địch càn, về đến trạm giao liên tao còn phái giặt bộ quần áo cứng queo, vừa hôi vừa thối vì cứt đái cua mày, rồi... . .

- Rồi lại đánh nó, tôi nói. Mày cũng một vừa hai phải với nó thôi, Tụng ạ. Tao mà là thằng Chung, tao nói thật, quên ngay công trạng của thằng Tụng. Trong chiến đấu, đó là nhiệm vụ chứ không phải thành tích.

- Tao mà lại thèm kể công? Quên đi!

Nói rồi Tụng cầm ly rượu của thằng Chung, uống cạn. Thằng Chung rượu không, thuốc không, vợ không, tất nhiên em út càng không. Sau ngày giải phóng về, nó học được nghề thuốc Nam chữa bệnh, nghe đâu của ông bác ruột truyền cho. Bệnh nhân nhiều nhưng cu cậu vẫn nghèo. Chính nó chữa bệnh cho vợ anh Mười Thử từ trong Nam ra. Trước khi chị Mười tươi hơn hớn được nó “xuất chuồng”, nó gọi anh em tới nhà chiêu đãi. Những li rượu này do chính tay nó nấu, nó ngâm, nó pha. Nó chắt cho anh em chúng tôi mỗi người một chai đặng đem về. Nó bảo rượu của em các anh uống, các chị phấn khởi .Thế còn nó? Lâu nay nó lo cho tôi hết hẳn căn bệnh “xấu bụng”, thằng ba Tụng hết buốt đầu cánh tay cụt. Thằng Viễn một thời mắc nghiện, may mà có nó kiên trì theo chữa. Rồi đến chị Mười Thứ, khi ra ngoài này mặt mày héo hon, nay nó cho về mặt tươi như bắt được của. Chúng tôi đã đôi lần bàn nhau giúp nó lấy vợ, nhưng nó cứ trơn trớt hứa, anh em đành bảo nhau số nó dao sắc không gọt được chuôi, đành vậy!

- Vớ vẩn, đành vậy là đành thế nào? .Thằng Viễn nói: Cả hội Cánh Bắc
Đường chúng mình mà ra quyết nghị xem!

Nếu nó muốn, nó làm cái “rẹc”, Tụng khật khừ đưa cánh tay cụt lên vỗ vỗ đầu Chung nom rất buồn cườị.

Thì tôi cho rằng, đó cùng chỉ là cách nói thôi chứ làm vẻ gì đến nỗi phải ra nghị quyết. Cứ thế đấy, cuộc sống sẽ tự sắp xếp cho mỗi người theo cái , cách của anh ta, có sốt ruột, có vội vã cũng vậy thôi.
-------------------
Dziệc dzì để được ngày mai, thì không nên làm bửa nay!
User avatar
Mười Đậu
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $1,353,160
Posts: 21904
Joined: 15 Mar 2005
Location: Đằng Kia
 
 

Postby Mười Đậu » 27 Feb 2006

Bến Bội Đình

Tác Giả: Hồng Như


Thực sự cảm nhận được điều gì cốt yếu ở dáng vẻ và khuôn mặt ủ ê của chị thì anh chưa dám chắc, nhưng khi đưa chị bước lên tàu ở cái ga xép nơi đông rừng giữa đêm hôm khuya khoắt này, anh bỗng thấy lòng mình như thắt lại.

Tàu địa phương nên chạy chậm rì rì, tiếng cà rịch cà rịch đều đều trên đường sắt làm cho anh đã mất ngủ lại càng mất ngủ; anh nằm xuống đã lâu, kéo chăn đắp lên tận cằm, đếm nhẩm trong đầu từ một lên đến hai nghìn rồi lộn ngược trở lại từ hai nghìn xuống đến một vẫn không lẫn lộn chỗ nào cả, chỉ mong sao lịm đi một lát mà vẫn không lịm được. Đã thế cứ khoảng tiếng hay hơn tiếng đồng hồ, tàu lại đỗ ở một ga nào đó cho khách lên xuống. Lại chậm rì rì như lười nhác, chẳng cần biết đến giờ giấc, chẳng hề nóng ruột, mãi mới huýt được một hồi còi buồn bã rồi ì ạch bò đi trên hai chiếc đường ray u ám như tình cảnh của anh và chị vậy - anh thoạt nghĩ như một ánh chớp loé lên trong đầu. Anh ngồi dậy, rời khỏi chỗ nằm, nhìn sang giường đối diện bên kia, giường của chị. Khi bước vào toa, chị đã lập tức chuồi người xuống ngay chỗ nằm đúng số ghế cứng trong khoang sáu người nhưng tuyệt nhiên trong khoang không có ai cả, chỉ có anh và chị. Bốn giường khác đều để trống, thì ra tàu không bán hết vé. Vì vậy, tiếng thở đều đều, hơi pho pho của chị khi giấc ngủ chợt đến - hay chính chị muốn như vậy :để tĩnh tâm, yên ổn đôi chút - dường như chẳng làm phiền ai cả. Anh nhìn chị, lắc lắc mái tóc mỉm cười. Ôi chao, cứ ngoan như là một đứa trẻ, vừa lên tàu một cái là lăn ra ngủ. Chiếc áo măng tô bằng dạ màu gạch non chỉ lửng đến đầu gối, chị cứ mặc nguyên như thế mà nằm. Chị nằm nghiêng, hai chân hơi co, đầu gối xếp về một phía, vừa dễ thương vừa tội nghiệp. Tội nghiệp thật đấy chứ! Chồng chị cùng dạy một trường với chị, được gửi ra nước ngoài để làm luận án phó tiến sĩ, chẳng hiểu vì sao xong việc rồi không thấy về nữa, ở luôn bên trời Tây đó buôn bán, và nghe đâu đã chung sống với một người đàn bà khác chẳng biết rõ là người Âu hay người Việt. Anh nhìn chị, bỗng dưng thở hắt một hơi dài và bắt đầu đứng lên đến cạnh chị, rũ cái chăn mỏng đặt dưới chân chị, nhẹ nhàng đắp lên cho chị rồi ra ngoài khoang xoè bật lửa châm thuốc hút.

Bên ngoài trời bắt đầu mưa, mưa nhỏ. Từng sợi nước giăng giăng, kéo màn trên cửa kính toa tàu như tơ nhện. Có tiếng sấm ì ùng xa xa lẫn trong tiếng rít của bánh xe trên đường sắt tạo thành một thứ âm thanh bức bối khó chịu. Không gian đen kịt và ẩm ướt, đêm cuối tháng mười không trăng lại se se, từng luồng gió mang hơi lạnh từ phương Bắc tràn về, không mạnh lắm nhưng cũng đủ làm cho lòng người tê tái. Chị đấy thôi, giờ đây ngủ say sưa như vậy, như thề chẳng có gì phải bận bịu, như thanh thản trước cuộc sống ồn ào và luôn chứa đựng những lời đàm tiếu độc ác, chẳng khách quan một tí nào, đối với người này người nọ chung quanh. Người đàn bà này năm nay đã bốn lăm tuổi mụ, cái tuổi mà người đời thường gọi là tuổi hồi xuân. Bốn mươi lăm mùa xuân đã đi qua trong đời chị nhưng đố ai biết chị đã ở tuổi đó, trông chị như mới ba mươi, trẻ và đẹp một cách nao lòng, đẹp đến nỗi anh người yêu của chị mới hăm bảy tuổi, đẹp trai, khoẻ mạnh, đàn ông chưa vợ nên cường tráng yêu đời, dục tình lúc nào cũng có thể bốc lên như lửa, vậy mà anh không dám đụng vào người chị, mặc dù có lúc chị chủ động như khuyến khích, như mời mọc. Dễ hiểu thôi đối với những người đàn bà độc thân và không chúc gì ràng buộc như chị. Chị dạy môn văn học dân gian ở trường đại học, công việc ngốn của chị khá nhiều thì giờ mà lẽ ra chị cần dành một phần cho việc chăm sóc hai đứa con một trai một gái đã sắp bước vào đại học của chị. Chúng chẳng còn nhỏ dại gì nữa để chị phải nhắc nhở từng li từng tí, như đối với đứa trai thì: “Nào, con đi cắt tóc đi chứ, ai lại để tóc dài như dân bụi thế này!”, đối với đứa gái thì: “Con đừng tô môi sẫm như thế, cái màu tím con ưa dung đó hệt như trong phim các cô gái Hàn Quốc trên ti vi, chả đẹp đâu. Con nên dùng màu hồng phơn phớt như của mẹ?”. Hai đứa con không phải lúc nào cũng nghe theo lời mẹ. Chúng không cãi nhưng thỉnh thoảng chúng vẫn làm ngược lại . Đây lại cũng là một cái cớ để hàng xóm láng giềng, rộng ra nữa là người trong thành phố, chê bai đàm tiếu về chị, đặc biệt là mỗi khi họ bắt gặp người thanh niên trẻ măng yêu chị lái xe máy chở chị đi đâu đó. . .

Hôm nay cũng vậy. Ngày hôm qua, chị không có giờ dạy, chị nói với anh:
“Tôi muốn đi thăm thầy tôi. Ông ấy đang nghỉ hưu tại,quê nhà, xóm hai làng Phúc Trạch”. Anh đưa chị đi, lái xe máy ra ga gửi lại ở nhà người bạn quen xóm phố cạnh đường. Buổi tối sau khi cơm nước ở nhà ông thầy xong, trong lúc vợ thầy là bà chủ sắp xếp chỗ ngủ lại cho chị ở buồng trong cùng giường với bà chủ thì chị bỗng đòi về, tàu về dừng lại ở ga lúc mười giờ. Hai người lại ra đi. Từ nhà ông thầy ra ga chỉ mười lăm phút, chiếc đèn pin trong tay anh không lúc nào tắt để soi cho chị bước từng bước một với đôi giày cào gót dưới chân. Đường sá nông thôn giờ đây bớt lầy lữi nhưng vẫn còn lác đác vài đống cát hoặc một hòn đá chẳng hạn nằm chềnh ềnh trên mặt đường. Chị thấy vui trước sự chăm sóc của anh song nét mặt vẫn ủ ê. Mọi khi những lúc chị buồn như thế này, anh chỉ muốn ôm hôn chị, nhưng giờ đây thì không. Anh không thích hôn chị khi khuôn mặt chị đang rạng rỡ tràn trề niềm vui. Hai người đi lại trên sân gà chờ tàu. Sân ga tối, ngoại trừ vài ngọn đèn nhỏ xíu treo trên cột cao toả ra ánh sáng vàng khè không đủ soi rõ người đi bên dưới. Anh cố gắng đưa ra vài ba lý do trong đầu vì sao chị cứ ủ ê như vậy nhưng lý do nào cũng không đứng vững. Cuối cùng, không dám chắc được điều gì, anh rít sâu một hơi thuốc lá rồi lùa mẩu tàn qua khe hở của cửa sổ, nơi tấm kính và cái chắn lưới sắt, búng nó ra xa. Mẩu thuốc đang còn cháy dở vẽ một đường cong lười liêm trong không trung trước khi rơi xuống bãi cỏ ven đường tàu Anh quay lại, gần như chạm mặt người nào đó phía sau. Ra là chị! Anh đưa cánh tay ra như xin lỗi: “Em đấy à? Em không ngủ nữa ư” Tàu sắp đến nơi rồi!”. Anh gọi chị bằng em rất ngọt như ngàn vạn đôi tình nhân vẫn gọi, nhưng lại xưng “tôi” giống như chị. Chị hơi nhíu mày, không trả lời. Trong ba năm qua, ba năm yêu anh, lần đầu tiên chị nhíu mày, nhưng chẳng hiểu sao lòng chị thấy dịu lại. Chị né người tránh cánh tay anh, đứng tựa vai vào bậu cửa sổ, nhìn ra ngoài. Lúc này tàu đang chạy qua mây xóm ven đô, ánh đèn cao áp sáng trắng đã soi rõ mồn một các đường nét vuông vứt của nhà cửa với những bức tường lô nhô, cứng quèo như ai vừa đẽo xong, trát lên trên đó một lớp sơn của thời thị trường.

- Anh cho tôi xin một điếu thuốc! Anh mở hộp thuốc lá Ngựa trắng chìa ra, bật sẵn bật lửa ga chờ chị đưa điếu thuốc lên môi châm. Đôi môi chị bầu bậu như để cảm ơn anh.

…Cuối cùng thì con tàu cũng đỗ lại. Đây là ga Vinh, ga cuối lộ trình con tàu địa phương từ Quy Nhơn ra, hai ngày một chuyến chạy vào ngày lẻ. Hai người rời khỏi toa. Đã gần mười hai giờ khuya, sân ga gần như hoàn toàn vắng lặng. Những người bán hàng rong dọc ke đã ra về hết sau khi chuyến tàu Thống Nhất cuối cùng trong ngày đã dừng lại và chạy qua . Khách đi tàu chuyến khác thì phải sáng mai, họ đang ngủ lăn ngủ lóc đủ các kiểu trong phòng đợi. Hai người lặng lẽ rời nhà ga đi bộ về nơi gửi xe máy. Thật ra với chiếc Dream 2 vẫn thường lai chị này, hôm qua anh có thể dễ dàng đưa chị đến nhà ông thầy chị, nhưng chị không bằng lòng, nói đi tàu, thành ra anh phải gửi lại. Anh sợ nhất là chị doạ đi một mình.

- Tôi đưa em về nhà nhé!

Chị ngoan ngoãn gật đầu. Ngồi sau anh, chị quàng một tay ôm eo anh làm anh giật mình, tay lái suýt vặn vẹo. May sao lúc này đường phố hầu như không có người và xe cộ đi lại. Chưa bao giờ chị ôm anh cả. Cũng như chưa bao giờ chị đi một mình mà không có anh, trừ những lúc chị đến trường dạy bằng xe máy riêng của chị. Cái cánh tay mềm mại bọc trong lần áo măng tô màu gạch non tuy hơi dày nhưng sao nó êm ái thế, gợi cảm thế? Thật tình mà nói, trong ngần ấy thời gian yêu nhau, anh đã vài bốn lần cùng chị chung chăn gối, nhưng chưa có khi nào anh dám vuốt ve hoặc hôn, hoặc cắn thô lỗ trên hai cánh tay trắng muốt của chị. Những lúc đó, anh cố kìm nén lòng tham muốn khám phá và sự phá phách điên cuồng của người đàn ông đang tuổi trẻ, sức lực thừa thãi nhưng không phải khi nào muốn là được thoả thích nếm mùi đời. Chị biết thế và thầm cảm ơn anh, càng yêu anh hơn. Sự dâng hiến sẽ mất hết ý nghĩa và trở nên thô tục, thậm chí vô cùng thô bỉ khi một bên tự nguyện, một bên lại rắp tâm chiếm đoạt. Anh nhớ lại cái ngày gặp gỡ đầu tiên. Anh từ Huế ra, làm công cho ông chủ tiệm may trong đó có một cơ sở ngoài này do người con trai trông coi Anh học nghề may từ khi đi bộ đi nghĩa vụ quân sự về. Lúc bấy giờ, anh loay hoay mãi hơn hai năm trời không xin được việc gì ở Huế, thậm chí làm cái chân bảo vệ cũng không cơ quan nào nhận. Các con ông cháu cha đã chiếm hầu hết các chỗ còn thiếu, các nơi cần đến. Chẳng lẽ ăn bám bố mẹ mãi, anh đi học may. Nghề này chẳng cần đến cơ quan nhà nước, chẳng cần chiều luỵ ai cũng cứ đủ sống. Và anh đủ sống thật, lại có phần khá nữa. Tay nghề của anh giỏi: Cắt các kiểu, kiểu nào cũng được khách hàng ca ngợi, lại khâu áo dài rất nền. Áo dài không thể khâu bằng máy, phái khâu bằng kim chỉ nơi hai tay. Chị nghe tiếng tăm anh, đến quầy của anh để cắt một chiếc áo dài màu hoa mười giờ bằng lụa tơ tằm. Anh nhìn chị một lát, nói:. “Xong! Mời chị ngày kia đến lấy!”. Chị ngạc nhiên: “Anh đã đo đâu mà xong?”. Anh thong thả: “Không cần đâu chị. Tôi đã đo bằng mắt rồi đấy!”. Chị nhướn mày: “Bằng mắt”. Anh rũ rũ tấm vải, trải trên bàn cắt, lấy phấn và thước ra chuẩn bị làm việc: “Chị yên tâm đi, tôi cắt ngay bây giờ cho chị coi. Ngày kia chị đến lấy không vừa ý, tôi sẽ đền gấp đôi số lụa này!” .

Ngày thử áo là một ngày không thể nào quên đối với anh và cả đối với chị. Đứng trước gương, chị thấy trước mắt mình là một thiếu nữ mới độ ngoài hai mươi với chiếc áo dài thướt tha bó gọn một thân hình trẻ trung tuyệt mỹ và duyên dáng, chị không thể ngờ đó là chính mình. Anh nhìn chị bước ra từ sau tấm riđô, sững sờ đến nỗi phích nước sôi trên tay tuột xuống nền vỡ tan, nổ bốp một cái như pháo, hệt tiếng sâmpanh chào mừng khi chai vừa bật nút. Anh nhìn sâu vào đôi mắt chị, đôi mắt mà đến giờ phút ấy anh mời ngắm kỹ, nó có một ma lực quyến lũ đến kỳ lạ. Chị cũng không chịu thua, bạo dạn nhìn thẳng vào anh, đôi gò ngực như ngực thiếu nữ cộm lên dưới lần áo được cắt vô cùng khéo léo và chuẩn xác, như khiêu khích. Ấy là giờ phút họ thấy từ đó họ khó thể sống mà không có nhau, mặc kệ cho địa vị xã hội của họ khác xa nhau, khác nhau đến mức người ngoài cuộc khó có thể chấp nhận nổi. Đôi khi nghĩ đến điều này chị thường nhủ thầm trong bụng mà như nói rõ rành ra cho mọi người nghe thấy: “Khó, gì mà khó .Đơn giản là tôi yêu anh ấy, anh ấy yêu tôi: Hết. Các người đâu có hiểu tình yêu là cái gì!”. Chị thường bỏ ngoài tai những lời thầm thì, cạnh khoé, những ánh mắt khinh khi hoặc ít ra là chế giễu của mỗi người trong thành phố. Thành phố Vinh nói chung chỉ nhỏ như bàn tay, ai ở đâu làm gì mọi người đều biết rõ, thấy rõ, giấu giếm mà làm chi, vả lại việc chi phải giấu giếm! Thông thường ở đời tốt đẹp phô ra xấu xa đậy lại, chị đinh ninh rằng việc của chị không phải việc xấu, vậy cơn cớ gì phải che đậy?

Nghĩ gần nghĩ xa một hồi, chiếc xe máy đã xịch đỗ trước cổng nhà chị lúc nào không biết. Giờ này hai đứa con chị trong nhà chắc đã ngủ say. Có lẽ chốc nữa thôi, con gà trống nuôi sau bếp sẽ gáy lên, báo đã sang canh ba. Chị xuống xe và bỗng nói như bất chợt:

- Chiều mai, tôi muốn đi Bội Đình?

- Bội Đình ở đâu vậy kìa? Thành phố ta, tỉnh ta làm gì có Bội Đình! Chỉ có
Giang Đình. Hay là Tiên Điền? Hay Lam Đình ở Thanh Hoá?

- Không, Bội Đình? Tôi nhất định phải đến Bội Đình vào chiều mai. Sáng kia tôi mới có giờ dạy. Đi Bội Đình vào lúc hai rưỡi. Anh không đi, tôi sẽ đi một mình. Đến Bội Đình!

Đấy rồi, lại doạ, khổ thế chứ...

Anh có mặt ở cái quán ốc xế cổng nhà chị, bên kia đường cái quán hai anh chị đã ngồi ở đó không dưới mươi lần, ăn ốc luộc gừng chấm với nước mắm ớt cay chảy nước mắt, khi kim đồng hồ trên cổ tay anh chỉ đúng vào con số hai và con số sáu. Chị cũng xuất hiện một giây sau đó. Chị mặc chiếc áo dài màu hoa mười giờ nét ủ ê ngày hôm qua biến mất, thay vào đó là một đôi mắt long lanh, quyến rũ như nó vốn có. Lần thứ hai anh thấy nghẹn thở. Anh mở điện thoại di động kêu một chiếc tắc xi, xe máy gửi lại bà chủ quán ốc. Tắc xi đến. Hai người lên xe. Người lái hỏi:

-Đi đâu?

Chị nói:

- Đến Bội Đình?

Anh tiếp:

- Đi Giang Đình!

Chị nhất quyết:

- Không! Bội Đình là Bội Đình!

Chừng như đã quá quen với sự ngủng ngẳng của các đôi tình nhân kiểu này, người lái tắc xi cười rồi ngâm nga như hát:

- Thì Bội. Thiếu gì Bội! Bội Đình, Bội Thuỷ, Bội Trâm. Ai đi đến đó lâm thâm mưa phùn... “.

Chiếc xe phóng vụt đi. Qua cầu Bến Thuỷ, xe rẽ về phía Nghi Xuân. Chị hốt hoảng kêu:

- Đi Bội Đình sao đi đường này?

- Không đi đường này thì đi đường nào, hả, hả? - Người lái xe bỗng cáu gắt.

Anh không nói gì cả. Lát sau khi rẽ xuống con đường nhỏ trong làng, con
đường vắng lặng quạnh hiu như trong một bức tranh vẽ, anh mới bảo chị:

- Đây rồi, đây rồi! Cái bến Bội Đình của em đây rồi!

Họ xuống xe, cầm tay nhau đi trên bãi cát. Giang Đình giờ không còn là cái bến cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia như trong Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du, chỉ còn rải rác vài chiếc thuyền thúng co lưng nằm cô độc phía xa xa. Nhưng nó vẫn trời nước mênh mông, đẹp và buồn như nhan sắc của chị. Chị đã từng đến đây một lần mấy năm về trước với một sinh viên, học trò của chị. Anh học trò này yêu chị, mê chị lắm nhưng chị không đáp lại. Anh ta đưa chị đến Giang Đình vào một buổi chiều nắng vàng như tơ tằm, ngồi bệt xuống bãi cát và đọc thơ cho chị nghe. Chàng sinh viên học văn học dân gian nhưng lại làm thơ tình hiện đại, thơ của chàng không có vần điệu chi cả, chị chẳng nhớ nổi câu nào nhưng lại cảm thấy hay. Chàng sinh viên gửi thơ đăng tạp chí văn nghệ của tỉnh với bút danh là Đỗ Nguyễn. Chả là Nguyễn họ anh ta còn Đỗ họ chị. Giờ đây anh ta đã tốt nghiệp, học giỏi nên trường lấy ở lại làm nghiên cứu sinh một thời gian và đã trở thành giảng viên, bạn đồng nghiệp của chị năm vừa rồi. Thời gian và kỷ niệm cứ xa xôi như là trong cổ tích...

Chị về đến nhà bằng một chiếc xe tắc xi khác. Trời đã gần tối, lại sắp mưa. Hoàng hôn trước cơn mưa như tiếc nuối điều gì đó một đi không trở lại. Thành phố đã lên đèn như ngày ngày vẫn lên đèn mỗi khi đêm xuống .Chẳng có gì thay đổi cả, ngoại trừ hai đứa con trong nhà nghe tiếng xe vội xô ra hiên đón mẹ, tiếng đưa gái ríu rít:
-A mẹ đã về. Mau lên kẻo ướt mẹ, mưa rồi đấy! Chị trả lời:

-Ừ mẹ đã về. Mưa đâu mà mưa! Mà có mưa cũng chỉ là mưa phùn,thôi,. chẳng ướt được!

Trong làn mưa lâm thâm của một buổi, chiều sắp tắt đột ngột một ánh chớp loé lên giữa hai người, chia đôi anh và chị ra hai phía, tuy vẫn gần nhau. Rồi một tiếng sét lớn nhưng xa, nổ ra làm chị giật thót như tỉnh giấc mơ. Chị chạy ù vào hiên nhà, chiếc túi xách mang trên vai gió bạt lại sau căng vồng lên như một quả me vòi lớn, đập cả vào vai anh.

Đứa con trai của chị sau một tiếng khịt mũi, nói to lên như ông cụ non, cốt
để cho chị nghe:

-Hai người xem chừng đã quyến luyến nặng tình với nhau đến độ rồi nhỉ, không còn cách nào chia rẽ được nữa! . Phải chấp nhận vậy, trân trọng mà chấp nhận. Đó mới chính là tình yêu!

Ngoài kia, dưới cơn mưa to đầu hôm, anh, người thợ may tài hoa của chị, đứng lại một mình, nước mưa ròng ròng trên tóc người. Không biết nghĩ gì, anh phẩy tay một cái,rất mạnh, thong thả đếm từng bước đi về phía quán ốc...

---------------------
Dziệc dzì để được ngày mai, thì không nên làm bửa nay!
User avatar
Mười Đậu
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $1,353,160
Posts: 21904
Joined: 15 Mar 2005
Location: Đằng Kia
 
 

Postby Mười Đậu » 27 Feb 2006

Những Người Bạn Già

Tác Giả: Đoàn Ngọc Hà


Tưởng rũ sạch công danh, về làng, hưởng lương hưu hàng tháng, hưởng sự nhẹ nhõm thanh thản, hoá ra không phải thế. Vốn là một giáo viên rồi làm công chức qua Sở sau 40 năm hành nghiệp, ông Lung trở về quê với chiếc cặp có mấy cuốn sách, hơn triệu bạc Công đoàn cơ quan dành dụm và một bữa liên hoan bia bọt như chan, chúc tụng như rót mà ông Lung chẳng cất được gánh buồn. Cái buồn của người mãn nguyện công chức nhưng bóng nặng của chiều tà, xám phủ, sự rời phai một quá vãng, sự tắt lụi của mọi hoài bão khi cánh cửa thời gian đang từ từ khép lại.

Theo sự sắp xếp của thằng Ngoạn con cả, bà Lung từ Sài Gòn về. Hai ông bà lúm cúm chăm sóc nhau. Việc đầu tiên, ông sửa lại sân nhà, trang bài lại căn gác, san vườn trồng hoa. Theo chỉ dẫn của ông Phan, bạn già cùng xóm, ông hãy đi nạo ít bùn từ ngòi lên vườn thì hoa mới đậu. Ông bà làm cái chậu hì hụi vét bùn. Nửa buổi, ông Lung bỗng hốt hoảng khi ông lật lên một xẻng bùn máu đỏ loè. Ông cúi xuống, một con trạch đất bị đứt làm đôi, đoạn đầu còn oặt oại trong máu! Ông sởn gai ốc. Việc con trạch bị vô tình sát hại cứ đeo đuổi ông mấy ngày. Thơ thẩn, ông ra chùa. Nhà sư đã già lắm. Đọc lại mấy cặp câu đối, ông giật mình vì chữ viết sai nhiều quá. Hỏi ra mới biết chùa mới sửa, có cung tiến về. Nhìn các thập điện thờ Phật, ông càng sửng sốt. Phật đâu mà đông đúc, nhốn nháo như họp chợ. Sách Phật quy định ngôi thứ, không còn ai nhớ nữa. Buổi họp các cụ ở Đình làng, ông ra trình bày về cái sự sai sót ấy. Chẳng ai phản ứng gì. Họ còn mãi gọi nhau vào các chiếu. Chiếu nhất đành cho các vị “Thượng hội đờng”. Rồi đến chiếu cộng đồng quan viên. Họ ngồi yên vị rồi, ông Lung vẫn không có chỗ. Ông ra về.

Rẽ vào cổng nhà ông Phan, ông Lung gọi toáng lên, vì ông này ngồi ở gác hai đọc sách mà đàn chó tây thì cùng tru lên chói gắt. Khác với mọi ngày, ông Lung đề nghị ông Phan bỏ thủ tục ngắm hoa, pha trà để ngồi vào bàn, có việc. Chưa nghe hết chuyện, ông Phan đã độp tay vào lưng ông bạn già:

- Biết! Biết! Khỏi lôi thôi. Nghĩ ngợi làm quái gì. Rời quan trường năm năm nay ở quê sao tôi không biết! Nói chung, chúng ta không hợp. Tôi với ông, lương Nhà nước, ở nhà gác, con cái đề huề, chỉ ăn chơi hưởng lộc, họ ghét là phải.

Ông Lung cắt lời:

- Không phải chuyện ấy. Vấn đề là mình biết thì đóng góp vào cộng đồng.

- Thế hả? - Ông Phan trốn mắt rồi bật cười hậc hậc. Ông cười rõ to, cái cổ đỏ ứng lên rung nhịp - Ông mới về, khổ thân ông, tôi đã bảo là ông chưa nắm hết. Cộng đồng ư, cái cộng đồng làng xóm của người mình xem chừng phải hiểu thêm và cắt nghĩa lại. Ở làng mình bây giờ ồn ào, nhốn nháo, mất hết vẻ thanh bình làng mạc rồi. Tôi tìm đến ba chỗ ở đều không thể chịu nổi. Thôi về quê cố chịu vậy. Về rồi, mới thấy mình lạc lõng như con gà rừng. Mình muốn đem điều hay đến cho họ, họ cho mình cậy chữ, coi thường dân đen. Đi ăn cỗ với họ cứ cắm mặt xuống ăn thì lại hay. Động nói là họ bảo dạy họ! Mà họ nói ngứa tai lắm. Thì ra ta làm văn hoá, mới chỉ làm cái ngọn, còn cái gốc thâm căn cố đế ta ít động đến?

Buồn bã, ông Lung nói nhỏ:

- Đã đành. Nhưng ở quê thì phải hoà hợp với họ!

- Hoà hợp cách nào? - Ông Phan khảng khái, gần như quát lên. - Lão Quất thủ từ làng ta, chữ quốc ngữ còn phải đánh vần. Các vị “Thượng hội đồng” thì cả đời chưa ra khỏi luỹ tre làng. Giàu lên là họ ghét. Học cao hơn là họ tức tối. Chưa nói những tự do vô lối. Ai cho phép anh rước kèn thờ người chết lên loa máy làm cả một vùng mất ngủ?

Sẽ sàng, ông Lung đứng lên khép bớt cửa và ghé vào tai bạn: “Nói nhỏ chứ, ông ơi!”. Không ngờ, ông Phan đấm đùi hộc lên:

- Trời đất! Ông sợ ư? Sợ ai? Một đời làm văn hoá, tôi còn sợ cái gì? Tôi còn phải đưa lên công luận, tôi phải gào lên cho mọi người thấu!

Hàng ngày ra chùa lễ Phật, bà Lung tải về cho ông đủ thứ chuyện. Râm ran nhất vẫn là chuyện vào các cụ Ông Phan ba lần đưa ra “Thượng hội đồng” xét vào các cụ, cả ba lần đều không đắc cử. Ý kiến phê ông nặng nhất vẫn là sự khinh nhờn lệ làng phép nước, tính hách dịch coi thường kể cả trong làng, cậy con cái giàu nứt đố đổ vách mà miệt thị xa lánh người nghèo. Bà “cảnh cáo” ông Lung rằng người ta bắt đầu bàn đến ông rồi đấy. Không chừng, ông lại ăn phải đũa của ông Phan, động một tý là lên tiếng dạy làng. Mà thôi - bà Lung bảo ông cũng nên ít sang nhà ông Phan. Mỗi lần ông sang, người ta đều đứng ngoài nghe trộm về việc ông Phan chửi làng, về việc ông với ông Phan đàm đạo cái gì đó!”. Ông Lung làm thinh. Bà Lung tiếp: “Sống có làng, có nước, tôi bảo ông nhiều lần rồi. Mặc xác ông Phan. Bà ấy mất sớm nhưng con cháu ông ấy bề thế như giời. Ông ấy sống sao mà chả được. Có nhẽ họ nghi ông liên can đến ông Phan nên mấy lần đưa ra xét đều không được. Từ nay, mọi người cứ việc đắp tai cài trốc lại, hết năm nay thì phải “vào được các cụ” Ông mà không “vào được các cụ” thì cũng coi như người ngoài làng. Lúc sống vậy, còn lúc chết, tủi thân lắm?”. Những lúc như thế, ông Lung không nói gì, ông đi nằm. Theo lệ, bà đã chải gối, lấy lọ nước muối để đầu giường cho ông súc miệng. Nằm mãi không ngủ được, ông Lung quờ tay tìm bà. “Gì thế?”

- Bà dịu dàng hỏi. “Xoa trán cho tôi”. Ông bảo và nằm yên để hưởng thụ sự chăm sóc của bà. Từ ngày bà về, ông đã bớt buồn, bớt nghĩ vớ vẩn nhưng vẫn hay “làm nũng” với bà như vậy. Là con gái út cụ đồ Chớt, bà Lung vẫn giữ cái diểm dắn, đoan trang, phúc hậu của con nhà nòi.

Thực tình thì ông Phan đâu phải là người xấu. Một kẻ sĩ thông thái, văn chương Tây, Tàu có cả, một đời làm Trưởng ty Văn hoá, làm chủ tịch Hội Nhà báo tỉnh, lão từng trải ghê gớm. Một con người như thế không thể dung nạp những gì bẩn tưởi, hèn kém. Ông ta phẫn nộ những “rác rưởi” ở nông thôn là phải. Còn vịệc con ông, một đứa làm thứ trưởng, một đứa là tổng công trình sư, ba đứa kỹ sư thì lại là chuyện khác. Chúng học hành và thành tài thực sự. Đi xe về làng, chúng ý tứ để xe mãi ngoài đồng rồi lóm cóm đi bộ, gặp ai cũng cúi rạp chào tử tế. Vậy mà ở quê rõ ràng ông Phan không được yên ổn, người ta cạnh khoé, người ta công kích, người ta nhìn ông như một kẻ ngoại đạo. Đến tháng nay thì ông Phan hì hụi viết. Ông bật đèn viết suốt đêm. Trên gác hai nhà ông không lúc nào tắt ánh điện. Gặp ông Lung đâu là ông Phan lại lồng lên, dắt tay bạn đến bên bàn và tát vào những trang giấy: “Phóng sự đấy, một phóng sự về chốn thôn quê hiện đại. Tôi phải gào lên, tôi phải nói sự thật!”.

Tình thế đó làm ông Lung càng đau đầu. Mỗi người một phận. Ông có thằng con cả trong Sài Gòn, đứa con gái trên Thái Nguyên. Mỗi đứa một gia nghiệp đều muốn bố mẹ ở với chúng. Nhưng ông bà đã nghĩ kỹ. Chẳng ở đâu bằng ở quê, sống ở quê, chết ở quê. Tuy nhiên, ông vẫn không ngờ về quê mà còn rắc rối thế. Thì ra làng vẫn có cái pháp quyền u ẩn, truyền bí của nó. Hội người cao tuổi có nhưng vẫn chỉ là phong trào. Mọi sự Đình đám các cụ quyết đoạn. Người không có trong đoàn thể các cụ hầu như không được ra Đình, không được tham bàn gì. Lúc chết, người có chân trong các cụ nằm xuống đã có trống làng, cờ quạt, ban “Thượng hội đồng” làm lễ long trọng; Kẻ ngoại sổ, khi nằm xuống, mượn cái trống làng cũng khó, chưa nói đến việc đưa tiễn. Chao ôi! Khi người ta chỉ còn nghĩ tới cái chết thì cũng là cùng đường mất rồi, buồn thảm lắm lồi, ấy thế mà chết rồi, cái thân xác xử lý ra sao vẫn còn khổ nữa. Liệu ông chết ở quê hay vào Sài Gòn chết? Rồi sẽ ra sao khi ông nằm xuống mả vẫn chưa được vào các cụ? Nắm xương vô định, biết gửi chốn nào cho yên phận? Bà vợ ông nói phải, dẫu thế nào ông cũng phải vào các cụ.

Vậy mà nguyên cớ tại đâu, một nghi án gì đó mà mấy lần đem xét, các cụ đều lắc đầu, không thông suốt. Lần thứ nhất, tháng l0 năm ngoái, khi nghe các cụ họp, ông Lung ra Đình kiếm cớ xem cây cảnh. Vừa lúc các cụ tan họp. Từ vườn Đình ông Lung nhìn ra thấy một đám người trang phục láo nháo. Có ông kênh kệch đi giày Liên Xô cũ, có ông lể thể khoác ba-đờ-xuy cứt ngựa từ Pháp thuộc, có cụ khăn xếp, có cụ lại mũ lười trai Nhật hoàng, có cụ quần ống sớ lụng thụng lại có cụ sơ -vin lòi ra cái bụng như cái bươu. Ông đi giày Liên Xô cũ chính là ông Quất thủ từ. Ông ấy đấm đến mấy nhát kình kịch để đi đến chỗ ông Lung vẻ đắc ý: “Ông thì rồi cũng vào nhập tịnh!”. Ông Lung căn vặn: “Thế nghĩa là lần này tôi vẫn chưa đắc cứ?” Ông Quất ngật cái cổ lên: “Hẳn!” rồi bệ vệ, ông ấy điệu hai cái giày tổ bố lên nền Đình để cho cái mặt phèn phẹt đỏ lịm ngửa ra nhai trầu.

Trở về, ông Lung kể lại cho bà Lung chuyện ấy, bà Lung bảo: “Phải gai lấy gai mà khêu. Tại mình ít chơi bời với dân làng. Phải la cà vá gặp ai ông cũng phải chào hỏi, với lại cũng nên công đức vào Đình chùa. Chết, tôi còn có đoàn thể các già, tôi lo cho ông quá! Có bộ cửa Đình đã cũ. Hay nhà ta công đức?” Ông Lung cười hiền. Mấy hôm sau, ông rút vài triệu đưa cho cái ông có đôi giày Liên Xô cũ. Ông giày Liên Xô cũ khặc khặc cười. Hôm sửa Đình các cụ nháo nhác tìm bát đa để phục chế bức phù điêu “Lưỡng long chầu nguyệt”. Ông Lung bảo ông sẽ tìm cho các cụ cái đĩa cổ có miệng to bằng cái rá, in bát trên. Ông cho bơm nước ao nhà, rồi lội ào xuống bùn tìm đến cái góc ao quạnh vắng. Bà ôm xống áo của ông ngồi trên đợi. Dễ đến trên một tiếng đồng hồ, ông Lung tìm mà không thấy. Rõ ràng ngày chạy loạn, hai mẹ con ông đã gạt bùn, xếp cả nồi ba mươi, mâm đồng, bát đa cổ xuống góc ao này. Đây rồi, ông Lung reo lên. Mừng quá bà Lung cũng xắn cao quần lội ào xuống đỡ cho ông cái đa cổ tuyệt đẹp. Để nguyên mình trần lấm láp, ông Lung mang đa cổ chạy ra ngoài Đình. Bà Lung ôm mớ xống áo chạy theo. Các cụ “Thượng hội đồng” đều vuốt râu khen cái đa đẹp. Nhưng bỗng một cụ thận trọng ghé tai vào ông Lung hỏi nhỏ:

“Bà ấy đã cầm vào cái đa chưa đấy?” Ông Lung trả lời thế nào mà các cụ lại gật đầu khen rối rít: “Thế là còn tịnh. Được, được lắm!”. Lập tức, cái đa được rước lên gắn vào bộ phù điêu sang trọng.

Tin ông Lung sắp vào các cụ tới tấp đưa về. Ông bà Lung mừng lắm. Cuối cùng thì ông giày Liên Xô chính thức thông báo ý kiến các cụ: Rằm tháng hai này sẽ làm lễ nhập tịnh cho ông Lung. Oái oăm thay, giữa lúc ấy thì cái nhà ông Phan cứ thúc thả đến tìm gọi ông Lung sang nhà ông để chơi bời, bàn luận. Có tới dăm bảy lần như thế, lão cứ bác cái cổ to tổ bố lên mà gọi ồi ồi ngoài cổng rồi lại tũng tẫng về với cái quần soóc chứa hai quả mông lính phính như hai cái giành. Ông Lung lánh mặt, cố lánh mặt. Những lúc ông Phan gọi, bà Lung ôm chồng đẩy vào khe cót lúa cẩn thận rồi mới ra thông báo với ông Phan: “Ông nhà tôi ra bưu điện mua báo!”

Ngày rằm đến, bà Lung sửa soạn mâm cơm mời họ, coi như bữa cơm mừng ông Lung nhập tịnh hưởng lộc làng, lộc thánh. Trừ thằng con cả trong Sài Gòn, bà Lung báo con cháu về mừng. Bữa tiệc chưa tàn thì con chó chồn ra sân roãi cổ tru lên oăng oẳng. Ông Quất lừng lững từ cổng vào. Đôi giày to chuyển từ tiếng bình bịch ngoài vườn sang tiếng độp độp trên sân gạch. Bà Lung vội ra đón khách. Khuôn mặt quá khổ của ông này vẫn ngửa lên trời mà ngoen ngoét nhai trầu trong khi nói:

- Thôi nhá! Các cụ chưa nhất trí cho ông lão nhà bà nhập tịnh!

Một giây bàng hoàng tổ tán, bà Lung se sẽ kéo vạt áo ông Quất vào góc sân hỏi dồn:

- Thế thì sao? Thế thì vì lỗi gì, ông cho tôi biết?

- Tôi không biết?

-Ơ, không biết? - Bà Lung chuyển giọng, giãy nảy lên - Các ông lạ nhỉ! Bắt tù bắt tội cũng còn có án. Ừ, ông nhà tôi có tội gì nào? Nhà tôi có ăn trộm chuông chùa, có đâm chém ai, có làm thất đức đâu mà các ông không cho nhập làng? Tôi phái hỏi cho ra nhẽ, rồi trên, tôi tấu lên tam toà Bắc đẩu, dưới tôi trình lên Chính phủ, Nhà nước cho các ông rũ tù!...

Hơn một năm sau, thời gian vẫn chưa khoả lấp hết những hoảng loạn trong tâm trí ông Lung ờ, thế là ông đã xa nhà vào ở với thằng con cả hơn một năm trời. Ngày ông đi, bà khóc quá. Bà lo cho sức khoẻ của ông nhưng tình thế không giữ ông ở nhà được. Tự dưng người ông cứ gày rạc đi, đêm nằm thổn thức lúc thức giấc lại kể cơn chiêm bao vừa thấy, toàn ác mộng, kể xong, ông rũ ra kêu trời, buồn bực, ngơ ngác người nhợt ra, chân tay lạnh giá. Vào Sài Gòn, ông nhớ bà quá nhưng thằng cả giữ không cho về. Ông ăn uống, luyện tập nghiêm ngặt theo liệu pháp, giữ điều độ thuốc uống theo sự bố trí dày công của thằng cả. Tất cả để sức trở lại, chờ ngày ra Bắc sống với bà.

Ông nghĩ, dẫu quê còn trái ngang, rồi sẽ hoà hợp tất cả có lẽ nào mình thành tâm mà bị tách ra rìa mãi. Tất cả là do thích ứng. Ông sẽ thích ứng, điều ông chưa kịp nói hết với người bạn đã ra đi. Giá bạn ông - ông Phan tự tiết chế mình một chút? Người vậy mà ngã đùng ra chết? Chẳng ai biết vì sao lão Phan đột tử một cách kinh hoàng như thế ngoài ông Lung. Chính nỗi kinh hoàng ấy đã khiến ông Lung phải cao chạy xa bay vào đây ở với thằng cả. Cơn bột phát, nộ khí tức tối đến điên khùng của ông Phan trút lên tới tấp trên trang giấy. Đúng là ông muốn gào lên cho hả dạ. Tuổi già làm việc quá sức lại sẵn chứng cao huyết áp, lại bị o bế, bị từ chối giao hảo, ngay cả đến người bạn cuối cùng là ông Lung
cũng không thèm gặp ông nữa. Hỡi ôi, khi biết tin, ông Lung chạy sang thì lão đã phây phây nằm, người đầy trồi trội, cái trán to tướng ngửa ra, hai cánh tay co lên trước ngực như vẫn còn nộ khí. Tán tàn, cờ lọng cắm đây đường. Xe con cắn đuôi nhau như càng cạc. Làng Đồng Thành đầy khách sang trọng. Làng đứng ra tổ chức, thế chứ, mấy khi thiên hạ rong ruổi về cúi đầu trước một kẻ sĩ của làng. Vị thứ trưởng, vị tổng công trình sư con ông Phan chắp vái từng người làng: Trống làng thùng thình,linh cữu ông Phan được cất lên chòng chành rồi phẳng là trôi theo đoàn người. Đến ngã ba giữa đồng, vị chấp hiệu hô to, tiếp cặp tre “cách cách” thông lệnh nghỉ, cỗ cữu vừa hạ thì một vị trong “Thượng hội đồng” bước ra, toa toa lên như lệnh vỡ: “Làng nước nghe đây? Tình nghĩa với vị quá cố, ta đưa đến đây đã là đủ. Thể tất không băn khoăn gì nữa, ta đã làm tròn bổn phận đạo làng nước. Bây giờ làng bàn giao lại việc tiễn đưa vị quá cố cho con cháu, làng bái yết tất cả quan khách và xin từ biệt”. Thật kinh hoàng! Đám đông rùng rùng, xôn xao. Con cháu tủi thân khóc thét lên. Phút chốc làng bỏ về hết chỉ còn con cháu và khách khứa. Ở một tình thế bất ngờ, thương ông bạn, ông Lung chọn một mô đất cao, đứng lên, bắc loa tay: Tất cả đừng lộn xộn. Xin nghe đây, tôi là bạn ông Phan, xin các quý khách nâng giúp linh cữu ông Phan ra phần mộ!”. Giời đất! Như có phép thần, hàng trăm khách lật mũ, cởi áo, tháo giày lăn vào đỡ linh cữu. Không biết do giúp được bạn hay vì thương mình, ông Lung nói xong câu ấy thì bưng mặt khóc. Ông khóc hô hô. Bà Lung phải kêu lên, rẽ đám đông dìu ông về …

- Bố, bố phải chuẩn bị cho con các toa thuốc, ghi chữ cho từng gói kẻo lẫn, quần áo của bố nữa. Con thu xếp cho bố về thăm mẹ ít ngày do con có việc cần ra Hà Nội giải quyết gấp.

-Thế thì, đi ngay . à con?

Mừng đến ngớ ngẩn; ông Lung chỉ còn kịp khoác chiếc áo rồi xách túi đựng đầy các toa thuốc ra xe. Ngồi trên xe, ông chỉ nghĩ đến bà. Thôi, ông sẽ ở quê, tuổi giả ông bà có nhau. Giời từ đêm mai ông lại được nằm bên bà, hít thở vào cái gáy mịn trắng, thơm ấm, được bà xoa trán cho đến khi chìm vào giấc ngủ.

Xe đến bệnh viện huyện thì thằng cả bảo ông vào nghỉ chân ở phòng khách bệnh viện có mấy bác sĩ. Tiếng thằng cả đanh rắn khác thường:

- Con nói, bố phải bình tâm. Bố không nghe con không được đâu. Bác sĩ đã trực sẵn nhưng con tin rằng bố không cần đến bác sĩ. Thôi nào, bố ráng sức chịu đựng. Con lạy bố, bố giữ thể trạng cho con. Con báo tin buồn, mẹ con mất rồi!

Người ông giật lên. Ông nhìn những bóng áo trắng lố nhố.

Mười ngày ma chay rồi cũng qua. Chưa biết sống ở quê hay đi với thằng cả, tạm thời ông hãy ở nhà trong vòng 49 ngày thắp hương gọi bà về ăn cơm. Cứ nâng bát lên là ông khóc. Sau bảy ngày bà mất thì ông có đôi giày Liên Xô sang bắc chân chữ ngũ, mặt phèng phèng, miệng rộng hoác và đỏ lòm, lười thè lè đưa đẩy miếng trầu, ông ấy vui mừng thông báo:

- Ngày mai làng làm lễ nhập tịnh cho ông đấy!

Đã tê dại đi trong nỗi đau, đã cảm thấy hết cái khốc liệt của một kiếp người, sinh hoá, hoá sinh, như một thứ trò đùa, ấy vậy mà người ta vẫn nhơn nhơn làm khổ nhau, ông Lung thề ơ và mệt mỏi:

- Tôi ấy à?

- Phải! - Lão kia bỏ miếng bã trầu ra để tra vào miệng miếng trầu khác. Rồi không hiểu sao, hứng khởi do đâu lão cúi gập, lóm thóm đến bên ông Lung, không quên nhìn ảnh bà Lung rồi cúp người đầy vẻ bí mật, lão thầm thào: “Tại bà đẹp quá. Khính khính! – Lão cười như thế. - Rõ đến già vẫn đẹp. Mấy lần đưa ra, các cụ đều ngần ngại. Người đẹp thế, vị tất lúc nào ông cũng rếch tay, mà vào các cụ là phải thanh tịnh. Với lại già rồi, ông bà vẫn ngủ chung giường là thế quái nào? Cả cái hôm, ông biếu cái đa ngọc, bà ấy cũng không có ý tứ, trước các cụ “Thượng hội đồng” mà cứ khoe ra cái đùi trắng hếu. Khính khính?

– Lão lại cười cái điệu cười rất lạ như thế, rồi đến bên ảnh bà, lão vái đủ ba cái. Thì ra nguyên cớ thật đơn giản, nào ông có biết. Ông thở dài lại muốn khóc.

------------------------
Dziệc dzì để được ngày mai, thì không nên làm bửa nay!
User avatar
Mười Đậu
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $1,353,160
Posts: 21904
Joined: 15 Mar 2005
Location: Đằng Kia
 
 

Postby Mười Đậu » 27 Feb 2006

Hôm Qua Và Hôm Nay

Tác Giả: Vũ Minh Nguyệt


Rõ ràng là ông đã gặp hắn ở đâu đó.

Hắn! Người cao ráo. Khuôn mặt hình lưỡi cày. Hắn! Mắt trắng. Môi thâm. Loại người này chỉ có thể chung hưởng lúc thái bình; còn khi hoạn nạn cam go thì bỏ nhau. Ông nghĩ thế và nói thế ờ đâu đó rồi nhỉ! Ông lục lọi trong ký ức tìm kiếm những người quen, thân. Một thời đạn bom, một thời hoà bình, bạn bè đồng đội đã đi qua cuộc đời ông nhiều vô kể, từ người lính binh nhì đến tướng lĩnh, ông đã gặp... vậy mà chịu. Không tài nào nhớ nổi hắn! Giời ạ! Cái thân già. Mươi vết thương lớn nhỏ trên người ông và gần sáu mươi tuổi rồi thì làm sao nhớ nổi...

Mới sáng ra mà nắng đã hoe hoắt vọt lên khỏi ngọn tre. Cánh đồng ngoài bãi đê ngô đang thì con gái, từng lớp lá mướt canh dập dìu theo gió. Cây cầu trắng vắt ngang dòng sông, nước trôi êm như tấm lụa xanh. Cách chân cầu một đoạn vẫn còn đó một bến đò trải cát vàng mịn chạy sát chân đê tới mép nước. Vài cánh buồm căng phồng đang cập bến. Mấy chiếc đò ngang mỏng mảnh khua khua mái chèo đón khách. Cả một vùng quê trải dài một mầu xanh ngút ngát: Lúa ngô xanh, xanh đến mát mắt. Ngoài rìa làng nhang bụi tre và phi lao vươn cao ngăn cách làng với những hồ nước trong leo lẻo chen lẫn những ao sen toả hương ngan ngát. Ông đã đi nhiều nơi nhưng chưa thấy ở đâu đẹp như quê ông, thật đúng là sơn thuỷ hữu tình”. Trong hội trường của Uỷ ban loa phóng thanh cộng hưởng với tiếng gọi, tiếng cười, tiếng nói ồn ã.

Hắn! Hắn đó. Hắn đang đi giữa hai hàng người đứng cầm cờ đuôi nheo đỏ, oai vệ như một nguyên thủ quốc gia được đón tiếp trọng thị ở sân bay. Sau mỗi lần hô mồi của anh Trưởng ban Thông tin - Văn hoá xã: Nhiệt liệt chào mừng ngài Đê Vít Tôn về thăm xã Đại Phú” là tiếng hô tập thể: Nhiệt liệt! Nhiệt liệt!” Dường như vẫn không thoả mãn với tiếng hô của dân chúng và để lấy lòng ông Chủ tịch xã, anh Trưởng ban Thông tin-Văn hoá giục giã mọi người: Hô to nữa. Hô to nữa”. Chủ tịch xã, mấy ông phó và thư ký uỷ ban chầu chực ngay bên bậc thềm hội trường kính cẩn lom khom cúi lưng, giơ hai tay bắt, lại còn, giật giật bàn tay nữa. Hắn đi đứng oai lấm và luôn miệng Ô Kê nhưng mắt lại không nhìn vào người đang bắt tay mình, không biết những cái bắt tay của hắn chặt hay lỏng. Thực ra là hắn đưa tay cho người khác bắt. Mẹ khỉ! Ông ngứa mắt quá! Khó chịu quá! Sao cái thói nô lệ và vọng ngoại của mấy thằng cha xã nhà khốn nạn thế. Hay sự đói nghèo làm cho mấy thằng cha này mờ mắt mà tôn thờ sự giàu có đến mức không giữ được thể diện của cá nhân mình, của xã mình. Nghĩ mà thẹn, và xấu hổ với thiên hạ. Ông thở dài. Bên xã Đại Nghĩa, người ta cũng cắt đất cho liên doanh nước ngoài thuê, nghe đâu một dự án nữa lại sắp khởi công mà lãnh đạo, chính quyền xã có cái cúc cung, khúm núm hèn kém thế đâu. Thế mà tay Hàn, Chủ tịch xã mình đang kính cẩn cúi mình thế kia! Hỏng! Hỏng rồi! Các chú ơi! Hãy đứng thẳng lên. Hãy ngẩng cao đầu lên! Ông đang sục sôi ý nghĩ thì chiếc xe Mécxêđéc màu nòng súng, bông loáng sau khi chờ cho hắn vào hẳn trong hội trường mới quành ra bãi cỏ phía trước hồ bán nguyệt, lướt qua hông và suýt làm ông ngã dúi.

Suốt dọc đường chạy thẳng từ chân đê về đến hội trường Uỷ ban người ta treo cờ đuôi nheo đỏ rực giữa các cây cột điện. Tấm băng rôn mầu xanh lam được căng kín cả phía trước hội trường với dòng chữ trắng: Nhiệt liệt chào đón ngài Đê Vít Tôn - đến thăm và góp phần xây dựng xã nhà”. Ngoài sân, trẻ con măng xăng chạy. Đám con gái tụm năm tụm ba thì thầm to nhỏ, thỉnh thoảng lại đấm lưng nhau thùm thụp và cười ré lên. Hình như chúng đang nói chuyện với nhau và hy vọng vào một sự đổi đời trong những ngày sắp tới. Trong hội trường chật ních người, khuôn mặt ai cũng ngời ngời rạng rỡ. Khách khứa đông lắm. Ở cái khoảng đất rộng phía bên phải cạnh hội trường, ô tô, xe máy, đậu chật kín.

Anh chủ tịch xã đến bên micro khẽ e hèm rồi a lô... a lô thử giọng. Và ông chủ tịch xã thao thao nói:

-Thưa ngài Đê Vít Tôn kính mến!

Ông giật mình. Đê Vít Tôn! Thằng Tôn! Đúng rồi! Có phải cái thằng Tôn trong đại đội Ba của ông ngày xưa không. Giọng anh- Chủ tịch xã vang nhưng khống ấm, tuồn tuột, nghe cứ truội đi không vào tai ông:

- Đất nước ta giặc giã liên miên. Mất mùa, đói kém. Bây giờ đến lúc đã yên hàn làm ăn. Xã mình không thể đói mãi. Xã mình phải tiến lên, phai giàu mạnh (Được, chỗ này thì được. - Ông lẩm bẩm). Phải làm giàu bằng mọi cách. (Bằng mọi cách...sao lại phải bằng mọi cách? - Ông cau mày và lẩm bẩm.)

Đồng bằng Sông Cửu Long mùa mưa năm....

Những ngày mưa dầm dề, cả cánh đồng mênh mông trắng xoá. Đại đội trinh sát của ông dầm mình trong nước, những khi có máy bay địch vè vè bay đến là tất cả lại dìm xuống rồi lặn trong nước, hết mảy bay lại ngoi lên: Cả đại đội hắc lào chớt chát. Lúc rỗi rãi anh em thường phải giã lá ô môi để xát cho nhau:

“Ô môi xức lác hay hơn muồng

Lấy chồng bộ đội chở một xuồng ô môi...”.

Đi đến chỗ nào cũng nghe lính đại đội của ông hát như vậy. Có những hôm trời hoe hoe nắng, không khí ôi nóng, cả đơn vị nhăn mặt vì những vết hắc lào loét ra gặp nước mặn xót đây đẩy.

Khánh, Hoà và Tôn là bộ ba thân nhau nhất trong đại đội của ông. Ông còn nhớ: Tôn da dầy, mặt lưỡi cày mắt trắng dã, môi thâm vừa xức nước ô môi lên người vừa khóc. Hoà bảo: “Tôn ơi! Nhìn mày khóc tao thấy thương quá, mong sao cho chiến tranh kết thúc sớm để những thằng đang học dở đại học như mày trở về giảng đường”. Hoà sống chân thật, mộc mạc đến mức mọi chuyện đều trở thành đơn giản, Hoà chỉ mong sau ngày chiến thắng về quê, sẽ lấy một cô vợ, đẻ một bầy con và trồng thật nhiều các loại rau mang vào thành phố bán. Quê Hoà là một vùng đất bãi, năm nào phù sa cũng phủ một lớp mầu mỡ. Tôn cười ranh mãnh, pha trò : “Lúc ấy mày gặp tao và thằng Khánh hoặc ông anh Ba xu dắt vợ đi mua rau thì mày phải hét cho thật đắt...”. Họ mãi nói chuyện và xát vỏ ô môi đã giã nhuyễn lên chỗ hắc lào cho nhau mà không hề biết ông đang đứng ở sau. Ông ,nhìn gương mặt Hoà rất tội nghiệp. Lúc đó, Hoà ngẩn người ra, thật thà bảo: “Mỗi người một số phận. Chắc gì sẽ còn được gặp nhau. Cầu mong cho chiến tranh mau kết thúc. Hễ còn sống, chúng mình đi tìm nhau nhá.”

Hễ còn sống, chúng mình đi tìm nhau nhá. Lời của Hoà không bao giờ ông quên được. Chiến tranh kết thúc, những người lính lũ lượt trở về nơi mình đã ra đi. Còn ông sau khi lăn lộn hết biên giới phía Tây Nam đến biên giới phía Bắc rồi cũng được chuyển về làm công tác quân sự địa phương ngay trong thành phố. Ông chưa kịp đi tìm đồng đội thì bỗng dưng gặp Hoà. Gặp trong một tình huống rất bất ngờ, hy hữu:

Đó một đêm Noen cách đây gần chục năm. Đêm mùa đông rét và có bụi mưa như sương bay nhưng đèn đường phố, đèn trang trí vẫn lung linh huyền ảo. Mọi người đổ ra đường nườm nượp đón chờ giây phút thiêng liêng của đêm Giáng sinh. Hai mươi ba giờ ba mươi phút, chuông trong các nhà thờ ở thành phố đồng loạt vang lên cũng là lúc ông đang chạy xe máy chầm chậm chở vợ đi chơi đêm Giáng sinh. Vợ chồng bộ đội xa nhau quanh năm, vợ từ nhà ,quê lên chơi, chiều nhau được thư vậy, vợ ông mừng lắm.

…Một người đàn ông đang ì ạch đẩy chiếc xe thồ nặng chở hàng nông sản đi bán ở chợ đêm. Chiếc xe thồ ì ạch nhích từng chút một lên dốc đường nhựa. Tin... Tin... Còi xe giục giã xin đường. Một chiếc xe con trườn vọt lên bất ngờ chạm vào chiếc xe thồ, làm nó đổ khềnh. Chiếc xe con dường như không hề hay biết cứ lăn bánh rồi mất hút vào dòng xe cộ như mắc cửi trên đường. Người đàn ông ngã quỵ xuống, su hào, khoai tây, ốc nhồi và cả mấy nải chuối xanh bị hắt tung toé xuống mặt đường. Cà chua lăn ra lỏng chỏng, rồi bị bẹp nhoe nhoét bởi bánh các loại xe kéo dài một đoạn lầy nhầy, đo đỏ như vệt máu. Ông dừng xe máy đỡ người đàn ông dậy. Một người đi đường làm phúc dựng cái cái xe thồ và dắt vào bên lề đường. Ông ái ngại hỏi:

- Khổ thật, chú ở đâu mà nên nông nỗi này?

-Rét quá... Tay tôi cóng hết cả rồi.

Vợ ông lấy lọ dầu gió Trường Sơn trong túi áo ra, bảo:

- Chú xoa dầu đi. Mặt mũi chân tay nóng bừng lên mới khỏi cảm lạnh.

Người đàn ông chìa bàn tay ra cầm lọ dầu gió. Chiếc nhẫn gỗ mun đen bóng ánh lên trên bàn tay tàn tật chỉ còn hai ngón thò ra làm ông kinh ngạc. Thôi chết, nó đây rồi! “Hoài Tưởng mày chết trong cái lần làm mồi nhử máy bay địch ở rừng Tây Ninh dạo ấy”. Ông suýt kêu lên như vậy trong khi người đàn ông đổ dầu gió ra tay xoa lên mặt, còn vợ ông thì hí húi nhặt những quả cà chua, khoai tây còn sót lại bỏ vào sọt cho anh ta. -Thôi cứ lặng im, xem nó có nhận ra mình không và ông ngồi xuống giúp anh ta đánh gió.

Người đàn ông tỉnh hẳn và ra chiều khoẻ lại, anh ta gượng đứng dậy, định cảm ơn người đã cứu giúp mình. Nhưng rồi anh ta nheo mắt rồi há hốc miệng:

“Anh Ba, anh Ba Xu, có phải anh...”.

Hai người lính cựu, một già, một đứng tuổi ôm chầm lấy nhau trong đôi mắt ngạc nhiên của vợ ông. Hai người đã khóc, nước mắt chảy ra ngấm ngầm, lặng lẽ sau mấy mươi năm gặp lại. Trời đêm, sương bay trắng đường nhựa... Im lặng... Đêm Nôen mênh mông, cả hai người trong lòng cũng rưng rưng trong im lặng mênh mông...

Chủ tịch xã trịnh trọng khai mạc xong, đến phần phát biểu của vị Việt kiều yêu quê hương đáng kính: “Thưa bà con xã nhà kính mến! Sau bao nhiêu năm xa đất nước, tôi vẫn đáu đáu một nỗi niềm thương nhớ quê hương da diết. Tôi còn nhớ, xưa kia lũ trẻ con chúng tôi đã phải bơi mủng qua sông Hoàng Long sang tận xã Đại Giang đi học. Ở bên trời Tây kia, đường xá rộng thênh thênh, thẳng tắp tự, trẻ con đi học có xe đưa đón chỉ đi vài phút là đến trường. Nghĩ mà thương dân mình quá! Tôi cũng là dân gốc của một tỉnh đồng bằng chuyên cấy lúa nước. Tôi còn nhớ làng tôi xưa kia có ai ốm đau phải khiêng bằng cáng võng đay đi mấy chục cây số mới lên đến được bệnh viện trên thị xã... ở bên kia á, nếu không may bị hắt hơi sổ mũi,. chỉ cần nhấc máy điện thoại gọi là có ngay bác sỹ đến tận nhà thăm khám... Nghĩ mà thương dân mình quá! Bây giờ đất nước yên bình rồi. Làng xã ta có bao nhiêu trai tráng, bao nhiêu gái xoan phải lận đận ra thành phố kiếm việc làm mà mọi nhà vẫn nghèo, vẫn khổ, vất vả. Chứ ở bên Tây, những người thất nghiệp còn có cả trợ cấp hẳn hoi... Nghĩ mà thương dân mình quá! Vậy nên tôi định sau khi Khu Công nghệ cao chế biến hoa quả xuất khẩu của tôi ở bên đường quốc lộ kia, đi vào hoạt động - ngài Việt kiều chỉ tay ra ngoài cửa - thì tôi sẽ xây dựng nhà cao tầng tặng xã nhà để cho các cháu trường cấp một và cấp hai học... (Anh Chủ tịch xã đứng bật dậy: “Yêu cầu bà con hoan hô”. Cả hội trường bỗng dậy tiếng vỗ tay và nhiều tiếng xì xào rồi lắng dần.,) Hắn chờ cho mọi người im lặng hẳn mới nói tiếp. - Ấy tôi đi nhiều học được cái khôn, cái giỏi của thằng Tây... Nó rất biết tiết kiệm đất, nhà phải cao tầng. Sân vườn phải trồng hoa, đường đi lối lại phải sạch sẽ... Chỗ kia nữa sau này sẽ mọc lên cái trạm xá. À không! Tôi phải xây dựng thành cái bệnh viện nhỏ, hiện đại....

Lại có mấy tiếng xì xào nho nhỏ của đám con gái ngoài hội trường:

-Vậy mấy cái ao sen và cái hồ hán nguyệt kia phải lấp đi à

- Tiếc quá mấy cái hồ ấy nước ăm ắp quanh năm...

Đầu ông cứ ong ong...

So với anh em trong đại đội thì Tôn là trẻ nhất, Tôn nghịch ngợm và đầy cá tính. Ngày mới được điều về đại đội, người đầu tiên Tôn gặp là đại đội trưởng. Đang là buổi trưa vắng vẻ, thấy có một người lính da ngăm ngăm, tóc xoăn tít, mặc quần đùi cởi trần đi từ suối lên .Tôn hỏi thăm luôn: “Anh ơi! Anh cho em gặp đại trưởng Ba Xu,” Không thấy trả lời, chỉ thấy anh ta tủm tỉm cười rồi chỉ Tôn vào chiếc lán ngay trước mặt: “Đồng chí vào trong ấy chờ cho năm phút”. Năm phút sau thì chính người da ngăm đen, tóc xoăn ấy bước vào và nói: “ Tôi là đại trưởng Ba, chứ không phải Ba xu, cậu nghe ai nói mà gọi tôi là Ba Xu, bọn chúng bậy đó”. Sau này, Tôn mới biết đại đội trưởng tên thật là Ba - Vũ Văn Ba, họ tên mộc mạc nhưng dễ gọi và dễ nhớ. Một buổi chiều đại trưởng đi qua lán của nữ giao liên chẳng biết chui qua dây phơi thế nào mà cái xu chiêng của một chiến sĩ gái mắc ngay vào vai. Đại đội trưởng cứ để vậy đi hết chỗ này đến chỗ khác mà không hề biết. Cánh lính thấy thế bấm nhau cười. Về lán đại đội, cậu công vụ mới gỡ cái xu chiêng ra gói lại cất đi. Chiều hôm ấy, có một chiền sĩ gái thập thò ngoài cửa lễ phép: Thủ trưởng cho em xin lại...” Đến lượt đại trưởng Ba ngớ người ra thì cậu công vụ chạy vào lấy gói giấy đưa cho cô. Từ đấy cánh lính trẻ tếu táo cứ gọi đại đội trưởng của mình là Ba Xu thiếu chữ chiêng. Được cái đại đội trưởng không giận. Và trong trường hợp đó ông không nghĩ là Tôn vô lễ nên cũng chẳng giận và trách mắng Tôn. ở chiến trường luôn
luôn căng thẳng, có được những phút giây thư giãn như thế cũng tốt. Bây giờ thỉnh thoảng nhớ lại, ông cứ cười thẳm và lấy làm thích thú với cái biệt danh lính đặt cho vì cái lần vô tình lơ đễnh ấy .

Đê Vít Tôn vẫn sang sảng trên bục diễn đàn:

- Vâng thưa bà con? Việc xây dựng cơ sở hạ tầng là như vậy, nhưng đó chỉ là chuyện nhỏ. Cái lớn lao hơn là một Khu công nghệ sẽ được xây dựng ngay ở trong xã mình. Đấy chỗ kia kìa (ngài Việt Kiều yêu nước chỉ tay ra khu đầm sen) nay mai sẽ là Công ty Liên doanh chuyên sản xuất các mặt hàng xuất khẩu nông sản lớn nhất tỉnh. Con em trong xã sẽ được vào lao động. Ấy là tôi nể tình người quê hương, chứ bên phương Tây là không có chuyện ấy đâu. Nó phải tuyển người giỏi, người khoẻ mạnh cơ, có tay nghề cao cơ; anh em, đồng hương cũng vứt, thế mới văn minh, thế mới phát triển được...

- Chà, phúc đức quá, phúc đức cho xã nhà quá bác nhể? - Một cụ già ngồi bên cạnh quay sang nói với ông.

Một người ngồi ghế đằng trước quay đầu xuống nói:

- Cũng còn phải xem xem đã. Ở bên Quỳnh, lúc đầu liên doanh người ta cũng hứa hẹn thế. Đến khi nhà máy đi vào sản xuất thì chẳng nhận cho xã được lao động nào. Khốn nạn? Bác tính một dây chuyền sản xuất nước khoáng của người ta chỉ có mười sáu công nhân kỹ thuật cao. Lấy lao động đơn giản cấy lúa trồng khoai như con cháu chúng ta thì đào tạo đến bao giờ mới có tay nghề.

- Thì cứ ghi nhận tấm lòng của ông Việt kiều kia đã nào. Vài ba tiếng xuýt xoa, mừng rỡ:

-Lớp trẻ bây giờ thật sung sướng, nay mai thoát ly đồng ruộng, ăn trắng, mặc trơn hết.

-Không biết cái ông Đê Vít Đê Vút kia làm gì mà lắm tiền thế, bác nhể. Dễ
phải đến tiền tấn.

- Hừ... Bà này chả biết gì sất. Nghe người ta nói hết đã nào. Dẻo mồm hứa hẹn để dân mình giao đất giải phóng mặt bằng chứ đã chắc gì nhận con em mình vào. Con em nông dân mình văn hoá thấp, người ta nhận vào có mà phá sản. Chủ tịch xã thấy ồn ào, vội đứng lên hua hua tay:

- Xin bà con trật tự, chúng ta muốn thoát khỏi đói nghèo thì phải hy sinh... Hồ bán nguyệt không mang lại tiền bạc, ao sen cũng không mang lại tiền bạc chỉ có cái dự án của ngài Đê Vít Tôn yêu quê hương này là sinh ra tiền...

Hội trường lại im lặng nghe hắn diễn thuyết. Không biết bao nhiêu lần hắn đưa ra các nội dung dự án rồi lại so sánh “ở bên kia, ở bên ấy, ở bên Tây...” với xã mình, với quê hương mình.

Ngột ngạt quá, ông cảm thấy có nhiều tiếng ong ong bên tai. Hắn bệ vệ, da bánh mật, môi thâm và mắt trắng dã, mái tóc hất ngược được chải gôm bong loáng, thỉnh thoảng lại nói tiếng Tây bồi. Hắn mặc áo sơ mi ngắn tay, ngực và lưng áo in toàn chữ Anh, chiếc quần Tây mầu sẫm ly thẳng tặp lại có hai dải yếm đeo chéo qua vai như kiểu quần soóc trẻ em. Bởi cái bụng của hắn to quá nếu không đeo dải yếm, thì nó sẽ tụt xuống vì chẳng có cái thắt lưng nào vòng qua được cái bụng ấy. Hắn vẫn đang thao thao vẽ ra những viễn cảnh của tương lai. Cả hội trường đã im lặng chăm chú nghe, ai cũng cảm thấy như mình sắp được hưởng sự sung sướng mà ngài Việt kiều yêu quê hương đem lại.

…Cả mặt trận chìm trong làn đạn dày đặc, chớp lửa nhoang nhoáng. Tiếng nổ inh tai buốt óc và rền rĩ, hết đợt này đến đợt khác, cát bụi quyện vào khói bom thành quầng bụi. Ông chạy lên. Sau ụ đất lớn, Tôn ngồi co ro ôm bụng. Lúc ấy, ông đã kịp nhận ra cặp mắt bạc phếch, kinh hoàng và ngơ ngác của Tôn.

- Rút mau, nằm bẹp ở đây mà chết à?

- Em... Em sợ lắm? Đại đội trưởng ơi! Anh Ba ơi!

- Rút mau, tôi lệnh đó.

Ông túm vai áo Tôn đẩy đi.

Máy bay trinh sát quần đảo ngay trên đầu, bên dưới là xuồng của đại đội ông rẽ đứng luồn lách. Hai bên mép xuồng, lá đưng cọ vào xuồng soàn soạt. Giữa cánh đồng không mông quạnh, bỗng có tiếng phụ nữ eo éo: “Hời anh em cán binh Việt cộng, người cha vĩ đại của chúng ta không còn nữa...” Địch đã dung những chiếc cátsét mở sẵn băng ghi âm thả xuống. Ông nghe được cả tiếng trẻ khóc oe oe, tiếng than thở của người già, tiếng thút thít của những cô gái... Và mùi hương trầm ở đầu gió đưa đến thoang thoảng thơm ngát, và lại bay đi mất.

“Hỡi anh em! Trong lúc anh em đang bị đói khổ, bị thương tích đầy người ở đây; thì ở nhà, vợ yếu, con đau, bố mẹ già đang mong các anh em trở về đất Bắc...” Lại những tiếng to tiếng nhỏ phát ra từ loa tâm lý chiến kêu gọi bộ đội mình đầu thú....

Lòng ông chộn rộn. Có một chút lo sợ, hoang mang thoáng qua. Khốn nạn thật, bọn giặc đang đánh vào lòng người. Ác liệt quá! Lâu dài quá! Ngày thắng lợi đang đến gần hay còn xa, đến ông cũng không biết nữa huống chi là lính? Ông biết, đã đến lúc thử thách cao nhất lòng trung thành của người lính ở mặt trận...

Đại đợi phó quân sự người Nam Bộ chính gốc, mặt đỏ hầm hầm bảo ông:
“Anh cho tui rẹt cho nó mấy băng. Để nó lải nhải quá trời, tui chịu hổng nổi.” Ông đã ngăn lại vì chưa phải lúc nổ súng; bảo toàn lực lượng và làm tốt công tác tư tưởng cho anh em mới là nhiệm vụ chính trong lúc này. “

- Thằng Tôn. Đại đội trưởng nhìn kìa!

Ông nhìn theo cánh tay Hoà chỉ. Tôn đang cầm cái áo lót trắng vẫy rối rít giữa trảng trống.

- Để em cho nó một băng - Hoà tức tối và trở tay súng. Ông đã kịp ngăn Hoà và nói như quát:. _
- Không được! Bắn. bây giờ lộ hết. Chịu mất nó. Hoà bảo:

- Cách đây mấy phút thằng Tôn vờ đau bụng. Ai biết đâu nó bỏ anh em mình. Đớn hèn quá.

Tôn lồm cồm bò lên thang dây lủng lẳng dưới bụng máy bay. Từng nấc, từng nấc một. Chiếc thang dây chùng chình rồi được rút lên. Mặt ông tím lại, cằm bạnh ra, hai bên thái dương giật liên tục. Ai đó đằng sau hậm hực:

- Biết thế hôm trước trả nó về tuyến sau còn hơn.

Hai mắt ông nhìn theo thằng Tôn đầy bất lực cho đến khi chiếc máy bay đã rút thang và bay đi.

Một tuần sau, cả đơn vị vẫn còn hoang mang với những trò tâm lý vớ vẩn nhưng cực kỳ nguy hiểm, lợi hại của địch thì lạ thay mọi kế hoạch bí mật lộ hết. Cứ như có người theo dõi từng bước. May mà đơn vị đã kịp chuyển vị trí giấu quân, nhưng bơi xuồng đến chỗ nào cũng bị bom. Tình hình rất căng thẳng, một không khí nặng nề, sợ hãi, hoang mang trùm lên đơn vị. Mấy người du kích đi phối hợp với đại đội sợ quá, đã ra trảng trống vẫy giấy trắng và khăn trắng gọi máy bay của địch xuống để chiêu hồi. Hôm sau nữa lại vài chiến sĩ trốn ra trảng trống vẫy máy bay địch đầu thú .Họ cứ vẫy như thế, chỉ năm phút sau máy bay. Đầm Già và Cán Gáo của địch đã bay đến thả thang và dắt tay lên máy bay đưa về chi khu. Chúng được trọng thưởng và lại gieo thêm nhiều tai hoạ, làm máu bộ đội ta đổ nhiều hơn...

Đại đội trưởng như phát điên, anh thở dài, bất lực, bóp trán suy tính. Anh đi lang thang trên miệng những hố bom và những đống đổ nát của cây cối như một bóng ma. Chưa lúc nào ông lại thấy mình như thế. Cái chết bi hùng của một người lính ôm mũ cối cố ghếch nòng súng lên ụ đất trong tư thế xung phong. Sự ra đi của tiểu đội trưởng Long... và lòng căm dận thằng Tôn phản bội, chiêu hồi đã đem đến cho ông một quyết định thật táo bạo...

- Thưa bác! Mời bác lên hàng ghế đầu. – Anh Trưởng ban Lễ tân vừa nói vừa như van xin. - Mấy hàng ghế đầu trống hoác, các vị thế này thì chết cháu.

-Cho tôi ngồi dưới này.

- Ấy chết! Bác là thiếu tá cựu chiến binh. Bác như cụ tiên chỉ của làng. Chỗ ngồi trang trọng của bác là phải ở trên kia. Bác không lên, chú Hàn, Chủ tịch xã lại mắng cháu té tát.

- Thôi... thôi! Mọi hôm lễ lạt thì thế. Hôm nay xã tiếp khách quý”, cậu nói anh Hàn cứ làm theo chương trình. Người ta không lên mấy hàng ghế đầu là cũng có cái lý của người ta đấy. Tôi ngồi dưới này cho thoáng. Già cả rồi. Lên trên ấy gần cái miệng loa, âm thanh to lắm, tôi không chịu nổi.

- Không! Cháu xin bác. Bác thương cháu. Chú Hàn chủ tịch đang gắt cháu nhặng xị lên kia kìa.

Miễn cưỡng, ông đành phải theo anh Trưởng ban Lễ tân lên hàng ghế đầu ngồi cho phải phép. Và ở chỗ này ông nhìn ngài Việt kiều yêu nước, nhìn thằng Tôn ngày xưa càng rõ hơn.

Sáng sớm, ông dẫn tiểu đội hai ra cửa rừng. Ông đã giao cho Hoà và Khánh thực hiện phương án táo bạo ấy. Cả tiểu đội nắm tay thật chặt hai người đồng đội sắp ra đối mặt với kẻ thù. Nắm tay nhau mà không nói được gì, chỉ đôi mắt là như ngầm bảo: Chúng mình sẽ bảo vệ, chia sẻ với hai cậu đến cùng.

Hoà và Khánh khoác súng AK trên vai. Bên hông là hai trái lựu đạn. Hai người lầm lũi, lặng lẽ đi ra giữa trảng trống. Ngay lúc đó, tự nhiên trong lòng ông chợt thắt lại. Có phải ông đang chơi trò điên rồ, phiêu lưu và mạo hiểm trên tính mạng của đồng đội không? Trời ơi! Ông rên lên. Hai người lính thân yêu của ông chơ vơ giữa cánh đồng. Đúng lúc bao nhiêu xáo trộn trong lòng ông thì máy bay địch bay vè vè đến. Đi đầu là hai chiếc trực thăng nòng nọc, tiếp đến hai thằng cá lẹp chiến đấu. Ông mắt không rời chiếc ống nhòm, mồ hôi vã ra ướt đầm áo. Trong những lùm cây các chiến sĩ trinh sát cũng đang căng thẳng, rê đầu ruồi nòng súng theo vòng lượn của máy bay địch.

Hoà ơi, Khánh ơi, chuẩn bị nhé.” - Ông thầm kêu một mình như vậy. Hai thằng lính trẻ của ông đang đứng cách xa nhau đến mấy trăm mét. Hai chiếc Cán Gáo lù lù bay đến, tốc độ của nó rất chậm, tiếp đến là hai chiếc Đầm Già. Cả không gian bị xé rách bởi tiếng động cơ gầm rú. Ông chờ đợi, lồng ngực tưởng như bị ai thít chặt lại. Kìa Khánh, kìa Hoà, hai thằng lính của ông đang vẫy khăn trắng rối rít. Ông khoát tay đến lần thứ hai vẫn không thấy hai đứa nổ súng, ông run run khi nhìn hai chiếc máy bay địch lượn vòng rồi thả thang xuống. Bất ngờ cả Hoà và Khánh cùng tung lựu đạn lên. Và tiếng lựu đạn, tiếng AK nổ rung trời. Hoà và Khánh chạy tạt ngang, hai chiếc Đầm Già bốc cháy. Súng ở các lừm cây cùng nổ trợ chiến. Địch dường như rất tức giận, cáy cú bởi cú đánh lừa rất ngoạn mục của lính ta nên kêu trực thăng bu lại điên cuồng xả đạn. Ông nhìn thấy một bóng người ngã xuống, chẳng biết Khánh hay Hoà” Trời ơi! Bao nhiêu là máy bay địch kéo đến. Bom napan nổ ùng ục, và lửa cháy rừng rực phía sau. Những cụm khói đen bốc lên cuồn cuộn... Những cành mua bị đạn dồn ngã rạp trên mặt đất. Gió từ hướng biển ùa tới đuổi ngọn lửa chạy dài trên cánh rừng. Lửa liếm trên khoảng không nóng bỏng .

Ông không biết mình đã ngất lịm đi trong bao lâu. Chỉ biết rằng lúc ông tỉnh dậy thì mặt trời đã xuống rất thấp .Mặt đất hắt lên trời những vệt nắng yếu ớt loe loe như những cái phễu khổng lồ. Ông kinh hoàng khi thấy mình bị hất xuống một hố bom. Có tiếng động gì đó Khẹc khẹc hình như tiếng kêu của con khỉ.Thật rồi! Bên cạnh ông là hai mẹ con nhà khỉ. Khỉ con đã bị chết, mảnh đạn găm vào giữa ngực, một vệt máu đỏ bầm vẫn còn rỉ ra... Khẹc...ẹc...ec... Tiếng kêu nghẹn tắc lại, nghe thảm thương quá. Con khỉ mẹ đang khóc...

Buồn quá! Nước mắt ông trào ra, ông muốn co chân lại mà cả thân, mình nặng trình trịch không thể nào co lên được. Tiếng súng đã lặng từ lâu, xa xa lác đác mấy quả pháo sang loé lên trên bầu trời đang tối dần.

Hoàng hôn tím sậm phủ dần, rồi một mầu đen buông xuống thật nhanh. Cả cánh rừng hoàn toàn im lặng, thỉnh thoảng có những tiếng nổ bì bọp rất xa vọng lại. Và ông lại thiếp đi. .Đâu đó có tiếng ầu ớ, ông thấy gương mặt của mẹ, chị gái và cô bé nhà hàng xóm thấp thoáng gần xa ở miền quê xa tít tắp. Những đêm trăng sáng, những đứa trẻ chạy đuổi nhau chơi trốn tìm. Một chiếc thang bắc lên đống rơm ngay cạnh sân gạch. Hình ảnh Hoà và Khánh lại vụt đến trong đầu ông. Hoà chạy tạt ngang sang bên phải và bỗng Khánh ngã gục ngay loạt đạn đầu từ trên trực thăng bắn xuống. Chẳng biết trong số hai chiếc máy bay bị bắn cháy co thằng Tôn ở trong khống?

Khánh đã hy sinh. Ông và Hoà bị thương. Nhưng phương án giả vờ chiêu hồi để chống chiêu hồi của ông đã thành công vô cùng. Bởi những ngày sau đó trực thăng địch không dám thả thang dây, mà xả súng bắn vào bất cứ bóng người nào vẫy khăn trắng, áo trắng. Từ đó cả mặt trận, nhũng kẻ hèn nhát không dám đầu thú, chiêu hồi địch theo kiểu đó nữa.

- Trật tự! là con trật tự nào! Anh chủ tịch xã đứng dậy vừa nói vừa xoà bàn tay dặp dặp. - Ngài Đê Vít Tôn về xã ta đầu tư làm dự án một phần còn do xã ta là quê hương của đồng chí Chủ tịch tỉnh. Mặc dù đồng chí Chủ tịch tỉnh hôm nay bận trăm công nghìn việc không về được, nhưng tôi đề nghị bà con cũng cứ vỗ tay thật to tỏ lòng cảm ơn đồng chí Chủ tịch tỉnh.

Có nhiều tiếng xì xào và tiếng vỗ tay rời rạc. Một cụ già ngồi bên cạnh quay sang ông, than thở:

- Bên Đại Giang người ta cắt đất cho Liên doanh với nước ngoài xây dựng Nhà máy xuất khẩu đông lạnh, bao nhiêu con em được vào làm trong Nhà máy. Chả biết cái ông Đê Vít Tôn kia có làm như thế không? Chứ tôi lo người ta thả con săn sắt bắt con cá sộp lắm, phải cảnh giác, ông nhẩy?

-Cũng còn tuỳ cụ ạ. Thôi thì cứ xem người ta làm chứ đừng nghe người ta nói...

-Ông có thấy cái anh Hàn chủ tịch xã mình khúm núm quá không? Làm vậy mất tư thế thể diện, người ta giàu có thế người ta khinh cho.

- Cụ cũng nghĩ thế a? Tôi thì tôi mong mọi điều tốt đẹp sẽ đến...

Ông mới nói đến đó là hội trường giải tán. Người người túa ra ngoài. Anh chủ tịch Hàn dẫn ngài Đê Vít Tôn đi bắt tay các trưởng ban ngành trong xã và các vị lão thành. Vẫn cái lối đưa tay ra cho người ta bắt còn mình thì hờ hững quay mặt đi nơi khác, ngài Việt kiều yêu nước nói nói, cười cười. Đến trước mặt ông, có nghĩa là giáp mặt nhau, bất ngờ ngài nhìn ông chằm chằm. Chẳng biết ngài Việt kiều yêu nước có nhận ra không, nhưng ông thấy miệng ngài há hốc ra và hai mắt ngài trắng bệch... cũng cái cặp mắt kinh hoàng và ngơ ngác ngày trước.

----------------------
Dziệc dzì để được ngày mai, thì không nên làm bửa nay!
User avatar
Mười Đậu
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $1,353,160
Posts: 21904
Joined: 15 Mar 2005
Location: Đằng Kia
 
 

Postby Mười Đậu » 27 Feb 2006

Nơi Dòng Sông Cháy Qua

Tác Giả: Võ Thị Xuân Hà


Bầu trời nặng như chì vào buổi sáng. Một cô bé đeo một ôm những chùm lắc treo chìa khoá, những chú lính chì, những con búp bê bện bằng len và vải mụn len lỏi trên phố.

Hai bên con đường nơi nó đang đi qua là những căn nhà lúp xúp của dãy phố xép. Một cây đa cổ thụ loà xoà che kín phía trên mái những căn nhà cấp bốn chạy theo mặt phố. Thấp thoáng phía sau một dãy nhà lụp xụp là mái chùa cổ. Từ phía đó vọng đến tiếng chuông thỉnh trong không gian buổi sớm.

Phía sau chùa là dòng sông. Bến cát vọng lên tiếng cười của lũ trẻ con nhà thuyền chài. Những cái lá vàng bị gió đẩy trượt theo bờ cát. Mưa xuống lây, rây từng .

Tiếng rao của cô bé vang xa: “Búp bê đây...” Tiếng rao trong vắt, như chuỗi hạt cườm lóng lánh dắt trên những vòm lá, len lỏi giữa những tiếng ù ù của dòng sông đang chảy và tiếng thành phố mới thức dậy.

Hân dựng xe vào chỗ gửi xe ngay cổng chùa. Chị hơi nhíu mày khi nhìn thấy con bé bán búp bê:


- Đi bán sớm_ thế hở Linh?

- Em chào cô!

Hân vẫy tay:

-Có ai lại đi chơi búp bê sớm thế cơ chứ. Lại đây cô mua cho một con nào.

-Thế là cô có 17 con rồi.

Linh nhẩm bẩm. Hân nhìn cô bé:

-Sao nhớ thế?

Linh không trả lời câu hỏi của Hân mà líu tíu khoe:

-Đêm nào mẹ em cũng tết được hai con. Sư Phúc ở chùa thỉnh thoảng cũng mua cho em một con.


- Đã làm hết bài tập chưa? .

- Em còn một bài toán khó quá chưa giải được. Em làm xong bài văn cô giao rồi.

Nó cười nhìn Hân. Nhưng trong ánh mắt nhìn luôn luôn có gì đó tò mò, vừa thán phục, vừa săm soi...

Chùa Phúc Ân tuy bề ngoài nhỏ nhắn nhưng phía trong rộng thênh. Hân đi lẫn trong dòng người tâm nguyện thành kính vào chùa. Không biết lần này là lần thứ bao nhiêu chị vừa đặt chân vào gian chùa chính vừa tưởng tượng ra gương mặt của một tiêu thiên thần đang mỉm cười với chị từ trên cao. Chị đặt những đồng lễ lên bàn thờ như mọi người rồi cùng chắp tay theo tiếng chuông thỉnh của sư Phúc:

- Nam mô a di đà Phật...!

Cả gian nhà chùa vang lên tiếng cầu. “Nam mô a di đà Phật?”.

Xong buổi lễ, Hân đi phía nhà ngang. Mọi người hồ hởi đón Hân. Sư Phúc vừa xếp mõ, vui vẻ:

- A di đà Phật, lâu lắm mới thấy cô giáo vào chùa. Hân chắp tay vái lại:

-Tôi bận quá, thắp hương ở nhà khấn vọng thôi.

- Cốt lòng thành là được. Chúng tôi cũng đang muốn nhờ thầy cô một việc. Nhà chùa định mở lớp dạy thêm cho đám trẻ lang thang.

- Vâng, sư bác và các bác các thầy cứ cho ý kiến, chúng tôi sẽ cố gắng thu xếp.

Có tiếng trẻ con khóc vọng ra từ trong buồng nhà ngang. Mấy sư nữ vụt chạy vào. Hân hỏi bà giúp việc:

- Nhà chùa có trẻ sơ sinh nhà ai hay sao?

-Không biết đâu, sáng sớm hôm nọ sư Phúc nhặt đươc ngoài cổng. Những hai chị em, rõ tội nghiệp. Chẳng biết mẹ chúng thất cơ lỡ vận ra sao mà đành phó thác cho nhà chùa.

- Nhà chùa định nuôi hay đưa chúng đi? - Hân dè dặt hỏi:

- Thì biết đưa chúng đi đâu. Có ai hảo tâm hay không có con nhận nuôi thì cũng đỡ khổ cho chúng.

Nói xong, bà giúp việc cho nhà chùa chợt ngưng bặt vì biết Hân cũng là người không có con. Nhưng mắt Hân sáng bừng. Chị vụt đứng dậy, đi vào buồng đỡ lấy đứa trẻ đang mút bình sữa chùn chụt trên tay một ni cô. Chị nhìn nó ăn như hút hồn.
- Nó dễ thương quá cô nhỉ. Ni cô lắc bình sữa:

- Gần hết cả chai mà còn thòm them. Chắc mẹ nó không có tiền nuôi con. Hoặc là người ta dặm trường thân gái bà giáo nhỉ. Lại còn con chị đang ngủ ngon lành kia nữa.

Lúc ấy Hân mới nhìn thấy con bé con đang lăn trong góc giường dưới tấm chăn nâu sồng. Ni cô rút con búp bê bằng len ra dứ dứ trước mặt thằng bé:

- Ngoan nào, ngoan nào.

Hân nhìn con búp bê, nhận ra đó là búp bê của mẹ con bà đồng Nam làm. Chị xuýt xoa: ,

-Chúng nó dễ thương quá: Dứt ruột bỏ hai đứa con lại cho nhà chùa, chắc mẹ chúng cùng đường rồi. Nom chúng cũng sạch sẽ, sáng sủa.

- Để con bé hồi tỉnh lại rồi hỏi tên hỏi tuổi xem nó có nhớ được không? Chả chắc đã nhớ được bà giáo nhỉ, bé quá thế kia. Nom bà giáo, tôi đồ chừng như muốn đón chúng về. Làm phúc được phúc bà ạ. Hân không nói gì nữa. Lẳng lặng xếp lại tấm chăn cho con bé rồi nhẹ nhàng đặt thằng cu em xuống giường. Chị vuốt con búp bê rồi tần ngần đặt một ít tiền vào tay ni cô:

- Tôi gửi các cháu ít tiền.

Phải khéo lắm, Hân mới thuyết phục được chồng vào bệnh viện xét nghiệm. Lấy nhau đã lâu mà chưa có được mụn con, Thành vốn là một người đàn ông lặng lẽ, nghiêm nghị, nay lại càng lặng lẽ nghiêm nghị hơn. Hai vợ chồng ngồi: chờ trên chiếc ghế băng dài. Không ai nói với em câu nào. Không khí nặng nề vì Thành không thể nào chấp nhận mình lại phải ngồi ở một nơi kém khí thế này. Còn Hân, chị cứ cảm thầy dường như mình có lỗi trong chuyện phải để chồng đi đến chỗ này. Chị ngồi ngoẹo đầu trông như một đứa trẻ biết lỗi.

Ngoài hành lang, những thiếu phụ mệt mỏi đang đi lại hoặc ngồi chờ đợi đến lượt khám: Họ vác những cái bụng các cỡ qua lại trước mặt Thành. Anh khẽ nhíu mày, sượng sùng. Những cái bụng cứ vươn ra như trêu người lần lượt cái này đến cái khác, thản nhiên, tung tẩy, yếu ớt, kiêu hãnh... Dường như những cái bụng đó đã nói lên hết tất cả những tính cách của những con người đang thành hình và sắp hiện hữu trên cuộc đời.

Những cái bụng cứ phình ra trước mắt. Anh cảm thấy như mình đang loạng choạng lên xe trên một đoạn đường đất đỏ. Những cái bụng biến thành những đứa trẻ ngu nghịch. Chúng nhìn anh mà cười sằng sặc. Chúng xúm quanh anh, gào rú. Thành ngạc nhiên chững xe lại:

- Này, các anh làm cái trò gì thế?

- Trò gì à? Để dạy cho ông một bài học. Ông có biết ông phạm phải cái tội gì không?

Thành hơi tái mặt. Anh sẵng giọng:

-Các cậu là ai mà dám can thiệp vào những chuyện của người khác.

Lũ thanh niên vẫn quay vòng quanh người thầy đáng kính. Chúng cười sằng sặc:

- Ông vẫn chưa hiểu ra à? Ông có biết ông đã phạm vào tội gì không? Tội giả vờ sạch sẽ quá. Như thế rất đạo đức giả thầy giáo ạ. Sống với ông chắc chẳng thú vị gì.

- Nhưng... các anh là ai?

Những gương mặt méo mó chạy vòng quanh Thành. Những tiếng cười sằng sặc, náo loạn, khinh miệt. Anh không né tránh, cũng chẳng sợ hãi. Nhưng anh ngây ra, đờ đẫn, vô hồn. Tiếng cười và những lời nói văng vẳng bên tai anh:

“Ông có biết ông đã phạm vào tội gì không. Tội giả vờ sạch sẽ quá. Như thế rất
đạo đức giả, thầy giáo ạ: Sống với ông chắc chẳng thú vị gì”.

“Sự tẻ nhạt và đạo đức giả...! Sự tẻ nhạt và đạo đức giả...!”.

Thành giật mình rồi tỉnh lại. Một chị có cái bụng rất to ngồi phịch xuống bên cạnh. Anh ngồi xích ra như vẫn còn sợ cái lũ trẻ ở đâu đó quấy rối. Thành lén nhìn sang vợ. Chị đang nghĩ đến những điều gì đó mà gương mặt sáng bừng.

Hân nhìn. những thiếu phụ có thai một cách thèm khát. Chị thò tay vào cái túi, trong đó có con búp bê đang ló đầu ra nheo nheo cặp mắt đen láy nhìn chị. Hân khẽ mỉm cười để vẫy chào nó.

Đến khi có ông bác sĩ ló đầu ra, Thành mới quay đầu sang giục vợ:

- Vào trước đi.

Bác sĩ vẫy tay:

-Cả hai anh chị vào trong đây. Anh sang phòng tay phải kia kìa. Còn chị ngồi đây.

Cuối buổi, cả hai đi ra cổng bệnh viện. Họ im lặng lên xe đi về. Hân bần thần, tay chị bóp chặt con búp bê trong túi.

Buổi tối, Linh rón rén đi vào phía sau cửa nhà chùa:

- Bà ơi, hôm nay cháu bán ế quá. Cháu gửi cho các em con búp bê cháu mới bện tối qua.

Ni cô già cười móm mém:

- Cô giáo Hân vừa mới tới cho hai đứa ít tiền. Nom mặt mày méo xệch. Chắc cô giáo muốn đón lũ trẻ mà ông giáo không cho.

Linh dẩu môi:

- Cháu mà là thầy cháu cũng không muốn.

- Sao cháu nói vậy?

-Lúc nào thầy ấy cũng nghiêm nghị. Nhỡ đâu chúng nó hỗn thầy lại không dám đánh mắng. Ngộ nhỡ người ta đánh giá...

- Con nhà mẹ đồng có khác. Nói năng như một bà chiêm tinh. Cháu phải ăn nhiều vào. Còn nhỏ người lắm.

- Cháu sắp thành người lớn rồi đấy.

- Bao giờ thì thi vào đại học?

-Vâng, cháu sẽ thi vào trường... mà thôi, bí mật? Hôm nay cháu bận rồi.

Linh rảo bước thật nhanh trên con phố vắng. Hôm nay nó đã nhìn thấy thầy Thành đến nhà chị Thương ở xóm Chùa gần bến sông. Nó nhìn thấy thầy kéo chị ấy vào lòng ngay bên hiên nhà. Không biết có nên mách cho cô Hân? Linh thấy trời đất như chao đảo. Giá như có Giang ở nhà, Linh sẽ không ngại ngần gì để đến tìm anh. Có thể anh sẽ có cách nào giúp cô?

Nhưng liệu Giang có để ý đến một cô bé với những con búp bê nghèo nàn?

Trên chiếc giường đôi, Hân nằm rũ rượi. Chị lắng nghe tiếng cô bạn hỏi mà như đang trôi trong một giấc mơ khủng khiếp.

- Này, cậu có biết người ta đang nói gì về ông Thành không?

Hân thoáng tái mặt. Hằng nhìn sâu vào mắt Hân:

- Hay cậu giả không biết gì? Cậu thử hỏi mấy chị xóm Chùa xem.

Hân thẫn thờ:

- Chẳng hỏi thì anh ấy cũng đi rồi: Cô ta cũng tự nguyện. Thì tớ cũng chỉ cốt sao có người sinh cho anh ấy một mụn con. Anh ấy hứa hàng tuần chỉ sang với cô ấy một đôi lần, còn thì lại về nhà với tớ.

Tiếng Hằng văng vẳng:

- Trời ơi, tớ không thể cao cả như cậu được. Tớ mà thấy ống Hùng nhà tớ đi với cô nào bay đèo cô nào là tớ điên lên ngay: Đàn ông vốn bạc từ ,trong trứng bạc ra...

- Tớ cũng...đau lắm. Nhưng cậu bảo làm thế nào được? Thương nhau thì phải biết hy sinh thôi. Tớ không thể sinh con cho anh ấy.

-Tớ không như cậu. Tớ không thích cái thế giới cao thượng của cậu. Tớ phải sống khoẻ. Mà muốn sống khoẻ thì phải yêu chính bản thân mình đã.

- Cậu dạy lũ nhỏ thế à?

- Đấy rồi cậu xem, theo quan điểm của tớ, lũ trẻ thành đạt. Còn đám nào chủ trương theo lối sống của cậu đám ấy sẽ sống rất chật vật.

Hằng ngừng bặt. Hai người im lặng. Rồi Hằng nói tiếp, nhưng sắc giọng nhỏ hẳn:

- Nhưng cũng phải thừa nhận nếu không có những người như cậu, thế giới này sẽ suy tàn...

Linh lặng lẽ lùi ra khỏi ngõ. Nó ngồi xụp xuống bờ cỏ Hương đêm trùm chiếc khăn voan mỏng mảnh hơi sương lên tấm thân nhỏ bé. Nó xoè những con búp bê lên bầu trời trăng đang lên, để có thể nhìn sâu bên trong những vụn len, vụn vải. Nó nhớ đến gương mặt một người. Gương mặt đó nhoè trong ánh trăng non.

Người bạn về rồi, Hân nằm rũ trên giường. Rồi chị bật dậy nhìn cái bóng đơn độc của mình hất lên tường. Ngoài trời trăng sáng vằng vặc. Chị đứng rất lâu bên cửa sổ, dõi theo bóng trăng.

Hân mở cửa đi ra ngoài. Chị cứ đi. Đi mãi. Như không biết mình đang làm gì. Con đường dài hun hun hút. Bỗng chị như nghe tiếng cậu học trò năm nào. Không, đó là tiếng một người con trai đã trưởng thành, đã qua nhiều khó khăn trong cuộc đời: “Môi lần em gặp chuyện gì đó khó khăn tưởng không thể vượt qua, em lai như nhìn thấy cô đứng trước mặt em. Em tưởng tượng cô sắp giang tay ra tát em... (Nụ cười của anh lan xa trên cánh đồng, thật ấm áp). Em cứ nghĩ đến cô, lo sợ cô sẽ gặp phải, chuyện gì đó trong cuộc sống mà em thì không biết. Hãy hứa với em là cô sẽ gọi em khi cần...”.

Chị quay người nhìn lên bầu trời đêm. Nơi đó có những vì sao nhấp nháy như theo dõi chị, soi sang bước đi của chị.

Hân đã đứng giữa cánh đồng. Chị ngứa mặt nhìn lên bầu trời đêm. Rồi gió ùa tới. Thấm sâu vào cơ thể chị. Mùi lúa non thơm man mác thoảng qua vỗ về. Chị như nhìn thấy trong gió bóng một người con trai khoác ba lô đang đứng trên đường. Bóng người đó khuất dạng trong biển lúa, trong gió. Nhấp nhô phía trước .

Hân không biết là phía sau chị, Linh cũng đang thất thểu đi Nó đi theo chị
mà như không biết đi để làm gì.

Linh chìa những con búp bê ra trước mặt khách đi đường tiếng rao của nó như chùng xuống. Không ai đứng lại mua cho nó một con. Có tiẽng ai đó gọi:

- Linh ơi! Dường như đó là tiếng gọi mà Linh vẫn chờ trong giấc mơ của mình. Rồi tiếng người con trai thật gần:

- Linh, bán cho anh hết thỗ này nhé. Linh bối rối:

- Anh Giang, anh về thật đấy à?

- Ơ hay, thì anh về thăm mà, có sao không?

-Không, là em... Anh thích thì em tặng hết cho anh.

- Không, anh thích mua cơ. Để anh mua hết chỗ này.

- Anh mua làm gì mà nhiều thế?

- Anh thích!

- Có thật không?

- Thật! Với cả để làm quà tặng.

Linh chợt dẩu môi như một bà cụ non:

- Anh đừng tặng cô Hận nhé. Tặng là cô ấy sẽ...buồn lắm. Tự cô ấy mua thì được.

- Không đúng!

- Sao thế?

- Mẹ em bảo, nếu muốn người ta yêu mình thì đặt con búp bê lên ngực suốt đêm, rồi mang đến tặng người yêu, hoặc đặt búp bê xuống dưới gối của người đó. Người đó sẽ yêu mình suốt đời. Nếu muốn trả thù thì cắm một cây kim vào ngực búp bê, đặt xuống dưới gối của người đó... Ôi, em quên mất, tại sao em lại tiết lộ điều đó với anh nhỉ? Anh đừng nói cho ai biết bí mật đấy nhé.

- Anh không tin. Đó chắc là một câu chuyện cổ tích mà thôi.

- Em không biết. Nhưng em tin mẹ: Anh về thế này thật tốt. Em có chuyện muốn nói với anh...

Giang ngồi trước mặt Thành:

- Em biết thầy sẽ nói với em câu này. Thầy cho rằng em không có quyền can thiệp vào cuộc sống của thầy và cô. Nhưng em và thầy đều là đàn ông, và có một điều thầy không thể hiểu cả hai chúng ta đều có hình ảnh một người trong đầu, dù thầy không trân trọng hình ảnh đó, còn em thì ngược lại.

Thành nhíu mày nhìn Giang:

- Tôi không có khái niệm trân trọng hình ảnh người đàn bà là vợ mình.

- Thầy ơi, em nghĩ mọi ngôn từ đều là hoa mĩ cả. Thầy hãy giúp cô sống bình thường, hạnh phúc như bao người đàn bà khác.

- Bằng cách nào? Lẽ ra tôi không phải tranh luận hay trả lời anh bất cứ điều gì. Nhưng quả thật, tôi đã đang băn khoăn lắm. Có người để chia sẻ, cũng nhẹ người. Tôi không tin ai xung quanh tôi cả. Lúc nào cũng có người sẵn sàng rình rập, hạ bệ tôi. Chỉ có Hân là người lúc nào cũng coi tôi như một vị thánh. Mà tôi thì đâu phải là một vị thánh. Là đàn ông chắc cậu hiểu. Tôi cũng thích những cô gái đẹp. Tôi cũng thích bia bọt vui vẻ. Nhưng ngay cả ở nhà, tôi cũng không được sống thoải mái. Cô ấy đã làm tôi phải tự bó mình trong hình ảnh một con người mực thước. Tôi mệt mỏi và bế tắc.Bế tắc. Cậu hiểu không? Ngay cả trên giường ngủ, cô ấy cũng làm cho tôi phải giữ gìn mực thước. Có lẽ chính tôi mới là người luôn phải sống vì cô ấy. Và thế là tôi phải phá tan. Phá tan mọi sự với Thương, tôi được làm cái thằng người.

Giang lắc đầu, đứng lên:

-Ai cũng có lý của mình. Cuối cùng để khổ cho chính cô. Thầy không cần phải nói thêm điều gì. Chỉ mong thầy đừng xuất hiện nữa, hãy để cho cô Hân được tự do với nỗi cô đơn của mình. Chào thầy!

Thành hét lên:

- Anh không thể cấm tôi. Đó là vợ tôi. Dù gì cũng là vợ tôi

- Nhưng Giang đã không còn đó để Thành giãi bày hay lý sự.

Hân đi giữa dòng người đi dự hội rằm tháng Giêng trên điện Hòn, leo ngược lên núi đá giữa dòng sông. Gương mặt chị ửng hồng.

Dưới sông, một con thuyền vượt nước băng lên. Linh đang vung tay chèo hớt hải đuổi theo một ai đó. Nhưng một con thuyền khác lại đang rẽ sóng đuổi theo. Trên thuyền là Giang. Thỉnh thoảng anh dừng tay chèo, bắc loa tay gọi:

-Linh ơi!

Hai con thuyền cùng vượt sóng. Những con sóng thượng nguồn đổ về từng đợt. Gió thổi như muốn hất tung mái chèo: Giang gạt mồ hôi khi con thuyền đã áp sát thuyền Linh:

- Linh, mẹ em nói em tự lấy đi của mẹ cái lễ cắt tiền duyên định để mai làm cho người ta.

- Mẹ em để đâu đấy không nhớ. Em lấy làm gì?

Giang giữ cho hai con thuyền dừng lại. Hai con thuyền chòng chành giữa dòng nước xoáy. Giang níu tay Linh:

-Linh, anh không tin vào chuyện bói toán. Nhưng anh đuổi theo em để bảo em đừng làm gì phiền cô Hân trên điện.

- Em làm gì mặc em.

- Hãy để cho cô Hân được sống theo ý mình. Cô ấy sống vì người khác nhiều quá rồi. Em định làm cái lễ cắt tiền duyên cho cô Hân phải không?

- Cắt đi để cho cô không còn ai yêu đương quấy phá. Để cho thầy Thành quay về với cô. Để cho anh khỏi mang cái gánh nặng trở thành người yêu thương quấy phá... Em hiểu anh và cô Hân. Nhưng em không thể chờ đợi. Em không muốn anh vì cô ấy mà quên đi người khác.

Giang giật mình:

- Linh, em nói gì vậy?

- Em ngồi cạnh Mai. Lúc nào có thư anh gửi về nó cũng cho em đọc. Lúc nào anh cũng nhắc đến cô Hân như cái cách một người con trai nhớ đến một người con gái. Cô ấy là cô giáo của anh, lại hơn anh 5 tuổi... Ngày còn nhỏ, em đã tưởng tượng lớn lên sẽ là vợ anh...

-Linh, em nói gì lạ vậy?

-Anh không để ý đến cô gái nào, cũng không để ý đến em. Anh lúc nào cũng lo cho cô Hân. Anh có thể dối lòng mình. Nhưng anh không thể dối em được.

- Linh, em nói gì vậy? Em còn là một cô bé mà.

Linh không nói gì, chỉ nhìn Giang chăm chăm. Con thuyền chòng chành. Nhưng Linh bỗng thản nhiên mở nút áo ngực. Bộ ngực non tơ lộ ra giữa vùng trời nước mênh mông. Nó thì thầm, giọng run rẩy:

- Em đâu còn là một cô bé...

Giang choáng ngợp trước cử chỉ của cô bé bấy lâu anh coi như đứa em. Anh nhắm mắt lại. Con thuyền nhỏ của Linh bỗng vọt lên phía trước một cách quả quyết.

Giang vẫn đứng giữa sông, trên con thuyền chòng chành. Anh vuốt mặt rồi ngửa mặt nhìn lên bầu trời. Rồi nằm xuống thuyền, mặc cho thuyền đưa anh xuôi theo dòng nước, trở lại thành phố.

Rời hội, Hân đi như người đã thoát trận. Chị bước xuống bến nước nhận ra cô bé Linh đang ngồi ngủ gục trên con thuyền nhỏ. Hân gọi:

- Linh, sao em lại ngồi ở đây?

- Em chờ đón cô về:

- Trời ơi, sao em cứ phải vất vả như vậy? Cô đi theo thuyền ai về chẳng được. Sao em không lên dự hội? Vui lắm. Cô có việc nên chẳng ra xem người ta làm lễ cúng Bà được. Chỉ thắp hương cho Bà rồi khấn vọng thôi.

-Lẽ ra em cũng lên, nhưng... sợ lạc cô. Anh Giang dặn em ngồi đợi cô, sợ cô về thuyền khác đông người.

-Giang, đâu rồi?

-Anh ấy không đến đây. Cô ơi, có bao giờ cô nghĩ em là người ích kỷ, là người xấu không?

Hân cười:

-Cái cô bé này, đến là nhiều chuyện. Bao nhiêu chuyện hay chẳng nói, cứ
thích làm bà già. Chốc nữa lên chùa với cô luôn thể nhé.

- Lên thăm các em hả cô?

-Không, lần này cô đến chùa là xin đón các em về.

-Thật hả cô? Thế thì thích quá. Em sẽ sang nhà cô trông chúng nó cho cô đi dạy. Em sẽ làm tặng hai đứa con búp bê với con người máy mới thật đẹp.

-Cái con bé này. Em cũng còn phải đi học với đi bán hàng giúp mẹ chứ.

-Nhưng em sẽ sang thường xuyên với cô. Cả Mai. Với cả anh Giang nữa cô nhỉ.

Hân bước xuống thuyền. Nước ào ạt chảy dưới đáy sâu lòng sông. Những tia nắng vượt lên trước con thuyền như những búp tay nhỏ xíu vẫy gọi. Gương mặt cô bé Linh sáng rực như cánh lá non. Gió nhẹ nhàng lùa những bông sương còn sót lại trong năng rập lờn bên mạn thuyền .

Phía xa, bóng một con thuyền thấp thoáng. Trên thuyền là một người con trai đang khua chèo ngược sông . Người đó có dáng dấp như là Giang, nhưng không còn vẻ thư sinh, không còn ngập ngừng. Con thuyền chở anh đang băng băng về phía Hân, lẫn trong lớp sương mù màu sữa nếp.

------------------------
Dziệc dzì để được ngày mai, thì không nên làm bửa nay!
User avatar
Mười Đậu
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $1,353,160
Posts: 21904
Joined: 15 Mar 2005
Location: Đằng Kia
 
 

Postby Mười Đậu » 27 Feb 2006

Sapa Mây Phú

Tác Giả: Thái Ba Tân


Họ đến Sapa lúc trời gần tối.Mặt trời tháng ba khuất sau núi, ánh lên một vần sáng màu da cam lạnh và buồn. Cả không khí cũng đượm buồn, cái buồn vắng người và vùng núi quá ư yên tĩnh. Từ ô tô nhìn xuống, một vài ngôi nhà mới xây mái đỏ tường trắng trông lạc lõng giữa một màu xanh thầm sũng hơi sương.

Ngồi sau tay lái là một người đàn ông đứng tuổi, đeo kính trắng mắt dày chứng tỏ ông cận nặng, nét mặt hiền hậu tuy khắc khổ. Vợ ông, một người phụ nữ bé nhỏ còn giữ được vẻ đẹp thanh thoát thời trẻ, ngồi phía sau, lơ đãng nhìn ra ngoài. Cả hai đều có vẻ giàu có, đáng kính, thể hiện qua cách ăn mặc, điệu bộ, và cả chiếc Forg Mondeo màu đen bóng, loại ô tô Mỹ nổi tiếng mới thấy xuất hiện ở Hà Nội.

“Tôi không hiểu ông lên đây làm gì. Trời lạnh thế này” .

Bà nói khi hôm sau hai người ngồi ăn sáng ở khách sạn sang nhất của thị trấn trên một ngọn đồi. Mà quả rét thật. Bà ngồi co ro, quàng lên người chiếc khăn len to màu xanh. Như thường lệ khi ngủ dậy, bà trang điểm chút ít, đúng kiểu người ta quen ăn diện nhưng ý tứ.

Ông lặng yên cầm chai rượu vang rót vào hai chiếc ly chân cao, một lúc sau mới đáp:

“Có lẽ bà nói đúng, nhưng tôi không muốn đi nơi khác. Vả lại ở đây có chút kỷ niệm…”.

“Kỷ niệm? Sao ông không bao giờ kể cho tôi nghe?”

“Tại tôi nghĩ bà không cần biết, không muốn biết. Chuyện ấy xưa mà”.
“Hôm nay tôi thấy ông như buồn buồn điều gì. Chắc vì cái kỷ niệm ấy?” Ông không đáp, lại rót rượu cho mình.

“Một thiên tình sử lãng mạn? Một thôn nữ xinh đẹp và hoang dã?” Bà khẽ
cười, pha chút châm biếm.

“Ừ, không hoàn toàn nhưng đúng thế. Một cô gái người Thái, rất xinh, nồng cháy và pha chút hoang dã như bà nói”.

“Sao ông không lấy cô ta làm vợ ?”

“Vì tôi biết sẽ gặp bà, lấy bà”.

“Cảm ơn. Ông kể nghiêm túc cho tôi nghe với nào”. Khi thấy chồng cứ mân mê ly rượu, bà nói thêm: “Hay đấy, tự mình khơi chuyện rồi lại im lặng không chịu nói gì nữa!”

Thực ra chẳng có nhiều để nói. Vì chúng tôi quen nhau được ba tháng thì cô ấy chết, thời gian yêu nhau còn ít hơn”.

“Chết?” Bà định hỏi vì sao nhưng lại thôi. Ông cũng chẳng nói gì thêm.

Mặt trời đã nhô lên quá hàng cây trước khách sạn, vất vả lắm mới chui ra khỏi đám mây dày đặc. Gió se se thổi. Xa xa phía dưới, những mảng sương mù mỏng trắng đục như đứng yên một chỗ, nhưng ông biết chúng đang trôi chầm chậm vì có gió. Còn ở đây thì không có sương mù, chỉ ẩm ướt, trên lá cây lấm tấm những giọt nước nhỏ. Không khí trong lành, thoang thoảng mùi gì đó ông không tìm được tên gọi.

“Tôi định tới đó”. Ông lại lên tiếng khi cô hầu bàn mặc áo dài màu hồng vừa bê bát đĩa đi, chỉ trừ chai rượu và hai chiếc cốc. “Bà có đi với tôi không?”.

“Tới đó là tới đâu?”

“Bản Vẹo. Ngày xưa tôi được phân về dạy học ở đó, nơi tôi đã gặp và yêu cô ấy... Cách đây chỉ mươi cây số, nhưng đường xấu”.

“Không, ông đi đi. Hôm nay tôi mệt”. Bà nói rồi đứng dậy bỏ lên phòng.

Đã qua cái thời có thể ghen tuông, vả lại thực ra chẳng có gì để ghen, nhưng bà vẫn thấy ấm ức vô cớ. Bà sống với ông gần ba mươi năm nay, có thể nói là yên ấm, hạnh phúc. Ông là người chồng tốt, chu đáo với vợ con, nhưng với nhạy cảm của người đàn bà tinh tế, bà biết hình như suốt chừng ấy năm vẫn có cái gì đấy, ai đấy đứng xen giữa vợ chồng họ. Bà nhiều lần cố đoán mà không đoán ra. Bây giờ bà biết người ấy là ai. Dẫu không nhỏ nhen cố chấp, bà vẫn không kìm được thái độ hờn dỗi của mình. Ông biết. Bản thân ông cũng không thực sự muốn vợ đi cùng. Chỉi lờ mờ thấy như mình có lỗi.

Đó là một ngày mưa tầm tã vào tháng chín năm 1967, khi tốt nghiệp xong
Đại học sư phạm anh được phân về vùng này. Vì lý do sức khoẻ, cụ thể là mắt cận ba đi-ốp người ta không gọi anh nhập ngũ như nhiều bạn cùng lớp. Ra đi từ sáng sớm với chiếc ba lô con cóc tòng teng trên lưng, mãi gần tối mới đến được nơi cần đến, trường cấp ba Cẩm Yên, nhưng anh chẳng thấy ai trong mấy ngôi nhà nứa tuềnh toàng ở đấy, đành hỏi thăm nhà ông chủ tịch xã định xin ngủ qua đêm rồi hẵng hay. Lại phải đội mưa dẫm bùn them ba cây số nữa để đến nhà ông chủ tịch. Hoá ra ông này đã được báo trước anh sẽ đến, và được giao nhiệm vụ tìm cho anh một nhà dân để trọ vì trường không có nhà riêng cho giáo viên.
“Tìm nơi náo kha khá một chút. Tay này Hà Nội gốc, có thể khó tính đấy!” Bản Vẹo của ông sống quy tụ, người Kinh nhiều hơn người Thượng, do trước đây có nông trường chè gần đấy, nay đã giải thể. Ông người Thái, vợ ông vốn là một trong những cô gái từ dưới xuôi lên của cái nông trường ấy. Cả buổi chiều trước đó ông đau đầu không biết phải bố trí “anh chàng Hà Nội khó tính” này ở đâu. Trong bản nhà nào cũng nghèo. Cuối cùng ông quyết định cho anh ta sống trong nhà ông, một gia Đình tự ông đánh giá có văn hoá nhất và khá nhất trong cả xã. Ngôi nhà “nhất xã” ấy có tường xây, trát vữa một mặt phía trong, mái ngói hẳn hoi dù đôi chỗ dột, đuồn đuỗn bốn gian nhỏ như nhà tập thể. Anh được ở gian trống cuối, có chiếc cửa sổ không cánh, che bằng vải nhựa nhìn ra bãi sắn. Xa hơn tí nữa là chiếc hồ nhỏ bình thường nhưng với anh rất thơ mộng. Nhà ít người so với dân trong vùng, ngoài ông chủ tịch xã có vợ ông, một người đàn bà quê Hưng Yên, hơn bốn mươi tuổi, ít nói, có vẻ một thời xinh đẹp nhưng gây giờ gầy đét, da xám như người bị sốt rét lâu ngày. Anh thấy hai đứa trẻ, một cậu bé khoảng mười ba và đứa con gái thò lò mũi xanh. Thấy nói còn đứa nữa, đã
lớn, lúc anh đến không có nhà.

Anh tắm giặt, thay quần áo xong và đang ngồi uống nước, nói chuyện với ông bà chủ tịch thì có người bước vào nhà. Bên ngoài trời vẫn mưa nặng hạt. Lúc ấy đã tối hẳn và căn nhà được chiếu sáng bằng chiếc đèn bão to như quả dưa bở, bóng ám muội do lâu ngày không lau. Trong góc phòng ấy treo chiếc đèn măng-xông chắc chỉ dành cho những dịp long trọng phục vụ nhiều người.

“Cái Bình, con gái tôi đấy!”. Ông chủ nhà nói. Có vợ người Kinh, mấy năm
đi bộ đội, anh làm chủ tịch xã xuống huyện hội họp thường xuyên nên ông đã bị “xuôi hoá “ từ lâu, dễ nhận thấy qua cách cư xử, nói năng và cách đặt tên con con. “Năm nay xong lớp mười, tốt nghiệp phổ thông còn chưa biết làm gì, đi đâu đây”. Rồi ông quay sang con gái: “Đây là thầy Thọ mới từ Hà Nội lên. Sẽ dạy trường con đây”.

Cô gái lúng búng “chào thầy”, quay sang nhìn anh, rùng mình hất mái tóc dài về phía sau rồi đi xuống bếp.

Dưới ánh đèn dầu tù mù anh kịp nhận thấy một khuôn mặt tuyệt đẹp, đẹp đến mức khiến anh sững sờ chốc lát. Nó khác hẳn vẻ đẹp thường thấy ở các cô gái đẹp thủ đô. Có cái gì đó mới mẻ, tinh khiết, bí ẩn, thậm chí hoang dã. Khuôn mặt xinh đẹp ấy đang ướt sũng nước mưa (không hiểu sao cô đi đâu về không mũ nón gì cả), quần áo mỏng dính chặt cơ thể con gái mới lớn với những đường nét thật mềm mại và gợi cảm.

Đêm ấy và nhiều hôm sau anh còn bị ám ảnh mãi bởi cuộc gặp bất ngờ này. Anh giật mình lo lắng khi phải tự thú rằng hình như anh đã yêu cô, yêu ngay từ cái nhìn đầu tiên như người ta vẫn nói. Anh nghĩ có lẽ do tính anh dễ xúc động, do bị choáng chút ít về đi đường mệt và thời tiết, rồi mọi việc đâu sẽ vào đấy. Nhưng anh nhầm...

Trường cấp ba Cẩm Yên chỉ vẻn vẹn một lớp mười, hai lớp chín và ba lớp tám. Anh được phân dạy sử, kiêm luôn cả môn địa lớp tám và lớp chín. Thời ấy không chỉ học sinh mà thầy cũng thiếu. Việc giảng dạy chẳng mấy vất vả. Chỉ buồn, cái buồn miền núi suốt ngày chẳng có gì làm, chẳng đi đâu, chẳng biết nói chuyện với ai. Hơn thế, trời hay mưa, không mưa thì sương mù phủ dày đặc, da thịt luôn ẩm ướt như đổ mồ hôi mùa hè, không khí có mùi gì như mùi mốc, lắm lúc buồn nôn. Rất ít ngày trời đẹp. May anh mang theo mấy cuốn tiểu thuyết, chủ đề tiểu thuyết cổ điển Nga trong đó có cuốn. Tội ác và Trừng phạt của Đôtxtôiepxki, đọc nhiều lần đến mức bị ám ảnh muốn tự mình phạm một tội ác nào đó. Có cả cuốn Axia của Tuốcghênhép mà anh thấy Bình, cô con gái ông chủ tịch xã, na ná giáng một nữ nhân vật trong đó.

Anh và Bình ít gặp nhau, ngoài một ngày hai bữa ăn trưa và tối. Ít khi cọ ăn sáng. Buổi sáng đi học, buổi chiều hôm nào cô cũng theo mẹ lên đòi trồng gì ngoài ấy đến tối mới về. Trong bữa ăn, từ khi có anh cô thường cúi mặt hoặc nhìn đi nơi khác. Nói chuyện thì hầu như không, ngoài những câu chào hỏi bắt buộc. Chính vì điều này khiến anh, có thể cả bố mẹ cô nữa, đoán hiểu cô không thờ ơ với anh. Đôi khi anh thấy nhìn trộm mình, và lần nào ngẫu nhiên gặp nhau má cô cũng đỏ bừng. Còn anh thì bây giờ, được quan sát kỹ hơn, bình tĩnh hơn, anh càng thấy cô xinh đẹp và đặc biệt hấp dẫn. Như con thú nhỏ vừa nhút nhát vừa có cái gì đấy mãnh liệt vụng về che giấu bên trong. Tất nhiên, anh phải cố giữ kín tình cảm thật của mình, làm như không để ý tới cô, chỉ thỉnh thoảng giúp cậu em làm bài khi cần. Cậu này học dốt nhưng thích đọc sách, có thể do vậy nên rất quý anh, vì với cậu, anh là nguồn sách vô tận. Thỉnh thoảng, theo yêu cầu của bà mẹ, anh nói nếu Bình có gì không hiểu, anh làm giúp, nhưng lần nào cô cũng lặng lẽ lắc đầu. Anh chẳng hiểu ý bà thế nào. Có thể vô tình, cũng có thể lo xa, bà nghĩ tới cuộc hôn nhân tương lai giữa con bà và anh chàng thư sinh Hà Nội đẹp trai, lại là ông giáo, cái nghề rất được coi trọng ở vùng này. Suy cho cùng, điểm mặt tất cả, bà thấy chẳng ai xứng đáng hơn. Chắc bà cũng nhận thấy tình cảm của anh đối với Bình.

Một hôm, đi đâu về, anh chợt thấy Bình chạy bổ từ trong nhà ra, bối rối và xấu hổ. Hình như từ phòng anh. Anh vội bước vào và thấy một mẩu giấy nhỏ trên bàn xé từ cuốn vở học trò: “Tối nay em chờ anh bên hồ”.

Anh ngồi thừ trên ghế, ngạc nhiên và mừng lo lẫn lộn. Bữa ăn tối diễn ra như thường lệ. Bình không một lần nhìn anh. Ăn xong, cô bảo mẹ sang nhà bạn học bài rồi đi luôn. Vì thỉnh thoảng vẫn đi dạo vào buổi tối, nên anh có thể ra đi mà không bị ai nghi ngờ.Khốn nỗi hôm ấy cậu em cứ nằng nặc nhờ giải giúp bài toán khó, nên khi anh ra khỏi nhà đã gần chín giờ.

Đầu tháng, ánh trăng bàng bạc, mỏng và ẩm ướt. Bốn bề yên ắng, chỉ buồn buồn tiếng côn trùng đâu đó vọng lại. Anh bước nhanh qua bãi sắn về phía hồ, tim đập mạnh vì hồi hộp. Thậm chí không nghĩ tới hậu quả. Không nghĩ gì ngoài việc có người đang chờ anh bên hồ.

Bình ngồi bên tảng đá lớn trên bờ. Bên cạnh có tảng đá khác nhỏ hơn. Cô ôm gối, đầu cúi gục, im lặng và cả anh lên tiếng gọi. Anh lại gần, khẽ đặt tay lên vai cô và biết cô đang khóc. Anh ngồi xuống cạnh, hồi lâu không biết nói gì, cuối cùng nhẹ nhàng nâng đầu cô lên và hôn vào đôi mắt ướt.

“Người ta nói con gái dân tộc mãnh liệt lắm”, anh nghĩ. Nhưng để chủ động hẹn thế này thì chắc Bình phải yêu anh ghê gớm, đấu tranh ghê gớm và cũng bất chấp ghê gớm”.

“Anh yêu em! Yêu ngay từ cái nhìn đầu tiên như trong tiểu thuyết”. Anh nói một cách giản dị rồi cười thành tiếng, cố lấy vẻ thật tự nhiên. Hình như tiếng cười này giúp cả hai vượt qua sự lúng túng ban đầu.

Anh vòng tay ôm cô, xoay về phía mình. Người cô run run lên như bị sốt.

“Em có yêu anh không ?”

Cô khẽ gật đầu, áp mặt vào ngực anh. Hai người im lặng hồi lâu.

“Cũng từ cái nhìn đầu tiên?”

“Không. Phải mấy ngày sau. Rồi em trở thành như đứa mất hồn”. Cô nói cũng thật giản dị. “Anh không nhận thấy à?”.

“Có” Anh đáp. Thực ra anh không nhận thấy gì cả. Lại càng không biết cô
“mất hồn” vì anh.

“Còn em, em có biết anh yêu em không, yêu ngay từ đầu?”

“Có và em chờ. Sao anh không nói gì với em? Sao anh bắt em chờ lâu thế, cho đến lúc không chờ được nữa?”.

“Tại anh sợ. Dẫu sao cũng mới ba tháng. Anh sợ mọi người. Nhưng ngay ngày mai anh sẽ nói chuyện với bố mẹ em...”.

“Đừng. Khoan đã”. Rồi cô ngước nhìn lên, nghiêm túc hỏi: “Anh sẽ cưới em?”

Tất nhiên!”

“Anh thề đi!”

“Không cần thề”, anh cười “Anh cũng mất hồn vì em. Không phải mấy ngày sau, mà ngay từ hôm đầu mới gặp. Tất nhiên anh sẽ lấy em. Còn em?”

“Em là con gái, không cần hỏi”.

Hai người lại im lặng, rồi anh nói, thật thà đến mức ngây ngô, nhưng không ai để ý đến sự ngây ngơ ấy:

“Vậy là chúng ta yêu nhau và sẽ lấy nhau!”

“Vâng. Rồi anh sẽ đưa em về Hà Nội? Em thích được sống ở Hà Nội, ở đây buồn lắm”.

“Anh sẽ đưa em về Hà Nội. Mà thôi, ta phải về, kẻo mọi người nghi”. Hai đứa đứng dậy. Chỉ lúc này họ mới hôn nhau.

Trăng có vẻ mờ hơn, sương cũng nhiều hơn như muốn che họ khỏi những con mắt tò mò.

Những ngày tiếp theo, đêm nào họ cũng hẹn gặp nhau bên hồ mà không ai biết, hoặc có thể biết nhưng giả vờ không. Tuy nhiên, bây giờ khi nhà vắng người, họ vui vẻ nói chuyện với nhau, hôn nhau trong niềm hạnh phúc ngây ngất.

Một tối nọ, khi hai người vừa ra tới hồ, cô bảo anh:

“Ta xuống tắm đi!”.

Anh chưa kịp trả lời thì cô đã nhanh nhẹn cởi hết quần áo, ngay trước mặt anh mà không chút e thẹn, rồi một mình lội xuống nước.

“Con gái miền núi hồn nhiên thật!”.

Anh thầm nghĩ và mỉm cười một mình. Nhưng anh không xuống tắm, chỉ ngồi trên bờ. Lại càng không muốn tắm truồng. Không hiểu sao anh thấy ngượng, dù ý nghĩ được tắm truồng với người yêu dưới đêm trăng thật hấp dẫn. Thích nhưng vẫn ngượng, vì tính anh vốn nhút nhát và hay cả thẹn.

Mười lăm phút sau, cô lên.


“ Anh lau người cho em đi!” Cô nói rồi ôm ghì lấy anh để nước thấm hết cả quần áo.

Phải nói anh hơi thoáng chút bối rối. Tất nhiên anh hiểu cô muốn gì. Anh ôm chặt cô. Người anh cũng run lên, hừng hực. Nhưng một lúc sau anh từ từ buông cô ra:

“Em mặc quần áo vào, kẻo lạnh”.

Cô ngoan ngoãn nghe theo, rồi họ ra về trong im lặng. Ba hôm sau anh được biết cô đã viết đơn xung phong ra mặt trận, và sắp phải lên đường.

“Trời! Sao em làm thế?” Anh kêu lên, gần như hoảng hốt.

“Cả lớp viết .Người ta chỉ chọn ba đứa - Em là lớp trưởng nên được chọn”.

“Em muốn bỏ anh mà đi thật à?”

“Không, em không muốn đi. Nhưng em là lớp trưởng... Em muốn ở lại với anh!”

“Vậy sao xung phong?”

”Cả lớp xung phong...”

Cô thút thít khóc. Không biết nói gì hơn, anh ôm cô vào lòng, như sợ buông cô ra, cô sẽ biến đi mất.

“Hay anh và em cùng bỏ trốn? Vào rừng chẳng hạn. Em biết một chỗ rừng rậm lắm, không ai tìm thấy đâu!” Cuối cùng cô ngước nhìn anh giọng nghiêm túc.

Anh thấy buồn cười với cái ý nghĩ trẻ con ấy.

“Không được, phải tìm cách khác. Không có em, anh chết mất. Mà em cũng có thể chết. Chiến tranh không đùa với ai đâu...”.

Em không sợ chết. Chỉ sợ xa anh”. Cô trầm ngâm một lúc rồi nói: “Mà có chết cũng chẳng sao. Em sẽ chờ anh dưới ấy!”

“Em chỉ nói vớ vẩn, chết thế nào được!”

“Em nói thật mà. Nếu ra đi mà không may phải chết, em sẽ chờ anh dưới ấy. Chờ suốt đời. Em sẽ không yêu ai, không lấy ai cả! Anh không thích em làm thế sao?”

Anh không đáp, chỉ ôm chặt cô hơn và hôn tới tấp khắp mặt cô.

Một tuần sau cô lên đường. Được nửa tháng thì có tin cô chết khi đoàn xe chở cô và những cô gái như cô bị trúng bom lúc đang vượt Hàm Rồng.

“Ông nghĩ ngợi gì thế? Ăn đi kẻo nguội”. Bà nói bên bàn ăn ngay sáng hôm sau.

“Chẳng nghĩ gì cả”, ông thờ ơ đáp. “Hôm nay Sapa nhiều mây quá”.

“Sapa thì lúc nào chẳng vậy”.

Ông lặng thinh rót đầy cốc rượu cho mình. Không hiểu đã là cốc thứ mấy. Đúng, ông đang nghĩ về Bình, mối tình đầu ngắn ngủi, đẹp đẽ và đau đớn. Thực ra suốt mấy mươi năm qua lúc nào ông cũng nghĩ đến nó. Chuyện chỉ có thế. Đơn giản mà thật chua xót. Đúng như ông nói với bà: quen nhau ba tháng, yêu nhau còn ít hơn. Thế mà với ông, nó là mối tình đẹp nhất, quan trọng nhất, có lẽ còn duy nhất. Hôm qua ông ngồi gần như suốt ngày trên tảng đá nơi cô chủ động hẹn ông đến. Ông ngồi, nhớ lại lần đầu tiên nhìn thấy cô trong cái đêm mưa gió ấy. Khuôn mặt xinh đẹp hớp hồn của cô. Đôi mắt to tròn. Bộ quần áo ướt mỏng dính bám sát cơ thể mảnh mai với những đường cong tuyệt mỹ dẫu chưa phát triển hoàn toàn. Ông nhớ những cái hôn, những trò đùa nghịch trẻ con. Nhớ cả lần hốt hoảng giật bắn người khi đang hôn nhau thì bất chợt ông bố về, may chưa kịp nhìn thấy. Tất nhiên nhớ cả đêm trăng cuối cùng bên hồ, khi cô trần truồng trong vòng tay ông, sẵn sàng hiến dâng mà ông ngu ngốc từ chối. Điều này đặc biệt làm ông day dứt. Chắc lúc ấy cô xấu hổ và giận ông lắm. Ông thấy thương cho cô và cả cho mình rằng chuyện ấy đã không xảy ra. Mà cô thì chỉ mấy ngày sau đã chết.

“Chắc hôm qua ông vào thăm gia đình cô ấy”? – Bà hỏi.

“Chẳng còn ai nữa. Sau cái chết của cô ấy hai năm, ông người Thái chết vì ung thư. Bà vợ người Kinh đưa hai con về quê cũ Hưng Yên”.

“Ông chưa kể tôi nghe vì sao cô ấy chết?”

“Chưa à? Đơn giản thôi. Xung phong ra mặt trận. Chưa đánh đấm gì, cả xe chở mấy chục cô gái học sinh bị trúng bom ở Hàm Rồng. Chết hết. Đó là điều khủng khiếp nhất của chiến tranh. Bà hài lòng chưa?”.

“Ông thô lỗ quá đấy!”

“Ừ, tôi xin lỗi”.

“Mà sao ông uống nhiều vậy? Từ nãy đến giờ tôi đếm được năm cốc rồi
đấy”,

“Xin lỗi, đây là cốc cuối cùng”.

“Không lẽ suốt mấy chục năm qua ông không thể nào quên được cô ấy?”

“Không”.

“Và vẫn yêu cô ấy?”

“Vẫn”.

“Tức là suốt chừng ấy năm ông sống với tôi mà luôn nghĩ đến người đàn bà khác?”

Không chờ câu trả lời, bà đột ngột đứng dậy bỏ lên phòng.

“Tôi xin lỗi bà. Không hẳn như vậy. Tôi cũng yêu bà. Nhưng đó là chuyện khác. Xin lỗi”. Ông nói khi chỉ còn lại một mình, với tay lấy chai rượu.

Buổi chiều hôm ấy họ trở về Hà Nội. Vẫn cảnh cũ Sapa mây phủ trắng. Bất chợt ông có cảm giác như đâu đó dưới những đám mây ẩm ướt kia có ai đang đứng chờ ông. Chờ đã lâu. Chờ một cách mòn mỏi và đau đớn.

“Em sẽ chờ anh ở dưới ấy”.

Cô Bình ngày xưa của ông đã nói như thế. Con gái miền núi kỳ lắm. Đã nói nhất định thế nào cũng làm.

HẾT
Dziệc dzì để được ngày mai, thì không nên làm bửa nay!
User avatar
Mười Đậu
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $1,353,160
Posts: 21904
Joined: 15 Mar 2005
Location: Đằng Kia
 
 


Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 93 guests