Tiếu Ngạo Trung Hoa - 18 Tập - Ưu Đàm Hoa

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Tiếu Ngạo Trung Hoa - 18 Tập - Ưu Đàm Hoa

Postby longnu » 08 Apr 2005

Tác Giả: Sưu Tầm

CHUẪN BỊ >>> :)
pass to joine phim : Kim_Bang_2
longnu
Múi Mít
Múi Mít
 
Tiền: $122,632
Posts: 1046
Joined: 14 Mar 2005
Location: đến từ nơi xa lắm
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng longnu từ: Mười Đậu, binhbinh

Postby longnu » 08 Apr 2005

1....
Tiếu Ngạo Trung Hoa Nguyên tác : Ưu Đàm Hoa




Hồi 01 Trung Thu Nam Hải cuồng phong khởi
Thủy thượng ba đào hữu mỹ nhân
Miền duyên hải phía Nam và Đông Trung Hoa có mùa mưa bão kéo dài từ tháng năm đến tận tháng mười một, nhưng dữ dội nhất là ba tháng bảy, tám, chín.
Những cơn bão nhiệt đới này xuất phát ở Nam Hải, di chuyển theo hướng Tây và Bắc vì vậy, ảnh hưởng từ Quảng Châu cho tới vịnh Liêu Đông.
Tất nhiên, địa phương đầu tiên gặp bảo chính là đảo Hải Nam, vùng đất cực Nam Trung Hoa.
Tiết Trung Thu vừa rồi, một cơn cuồng phong mãnh liệt đã thổi bay mấy chục mái lá đơn sơ trong thôn chài Dương Sa ở mạn chính Đông Hải Nam. Một trong số những nạn nhân ấy là chàng trai già Nam Cung Bột.
Nam Cung Bột nổi tiếng khắp thôn Dương Sa vì nhiều lý dọ Thứ nhất là bởi gã có thân hình vạm vỡ, sức khỏe phi thường, tài bơi lội thuộc hàng thượng thặng.
Thứ hai, gã là người nghèo nhất thôn chài.
Do vậy, dẫu đã ba mươi tám tuổi rồi, Nam Cung Bột vẫn phòng không chiếc bóng!
Phải nói thêm rằng Nam Cung Bột có hai tật xấu nho nhỏ. Là uống rượu như hũ chìm và sức ăn gấp năm, gấp bảy người thường. Suốt đời gã làm không đủ ăn thì còn nuôi nổi ai nữa?
Các nữ nhân chưa chồng trong thôn luôn rạo rực dán mắt vào những bắp thịt cuồn cuộn trên cơ thể Nam Cung Bột, nhưng chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện lấy gã!
Chàng trai già của chúng ta cũng biết phận mình nên chỉ nheo mắt đưa tình, hay nhoẻn miệng cười duyên chứ không dám tán tình ai cả!
Thực ra, Nam Cung Bột không hoàn toàn cô đơn vì trong thôn có khá nhiều quả phụ.
Năm nào cũng có một hai ngư dân bỏ mạng ngoài biển khởi, để lại người vợ và bầy con nheo nhóc.
Thỉnh thoảng, Nam Cung Bột đến thắp hương cho những người bạn xấu số và an ủi thê tử của họ.
Tấm lòng tốt của gã đã khiến góa phụ cảm kích đến nỗi lôi xộc Nam Cung Bột vào buồng!
Tuy nhiên, ngay cả những người đàn bà không chỗ nương tựa cũng chẳng dám lấy gã, vì sợ bầy con của mình sẽ chết đói! Tật tham ăn của gã khiến mọi người chán ngán!
Nghề biển không giống với nghề nông vì chẳng thể dựa vào sức lực mà cày sâu cuốc bẫm, gia tăng huê lợi. Ngư dân dong buồm ra khơi, trông đợi khá nhiều vào vận may, đôi khi phải trở về với vài ba con cá chép, chẳng đủ nhét kẻ răng! Thế cho nên, Nam Cung Bột có khỏe như Hạng Võ cũng bằng thừa! Gã chưa chết đói cũng là may lắm rồi!
Vậy vì sao một đáng trượng phu sức vóc như Nam Cung Bột mà lại chịu chôn vùi cuộc đời ở vùng đất cằn cỗi, nghèo nàn này? Vì sao gã không đi nơi khác mà lập nghiệp?
Xin thưa rằng thôn Dương Sa là nơi chôn nhau cắt rốn của Nam Cung Bột, và mười tám năm trước gã đã từng vác đao đi tìm chút công danh.
Chàng trai đảo Hải Nam đã lần đến kinh đô Ưng Thiên Phủ, tức Nam Kinh bấy giờ. Hải Nam cách xa Trung Nguyên là một huyện của Quảng Đông và có nhiều dân cư thuộc các bộ tộc thiểu số Lê, Miêu, Hồi!.. nên văn hóa kém cỏi, bị coi là man di, mọi rợ.
Do đó Nam Cung Bột không được người Đế đô xem trọng, kể cả bọn kỹ nữ!
Lòng tự ái bị tổn thương, Nam Cung Bột liền đại náo Kim Lăng đại kỹ viện, đánh nhau cả với bọn Cẩm Y thị vệ. Mãnh hổ nan địch quần hồ, thế là gã bị bắt.
May thay, quan Vệ Úy Lưu Chân cũng là người Hải Nam nên đã không bắt tội mà còn thu nạp Nam Cung Bột vào làm thị vệ.
Vài năm sau, Yên Vương Chu Lệ cướp ngôi Huệ Đế. Nam Cung Bột phò tá vua cũ chạy trốn, nhưng nửa đường thì lạc mất.
Thế là, Nam Cung Bột phải trở lại quê cũ là thôn Dương Sa, sống cuộc đời ngư phủ nghèo mạt rệp ngày ngày mượn men rượu để tưởng nhớ đến giai đoạn hoàng kim!
Song thân gã đã chết cả, để lại một mái nhà tranh và chiếc thuyền chài! Nam Cung bột đã dời nhà vào cánh rừng dương để được gần gũi mộ phần pha mẹ, dù gã chẳng bao giờ có tiền mua nhang!
Trận bão tháng tám đã thổi tốc mái lá, khiến Nam Cung Bột phải sửa hết ba ngày. May mà gã có thói quen vác thuyền về nhà nên phương tiện mưu sinh vẫn còn nguyên vẹn!
Hôm nay là ngày rằm tháng chín, Nam Cung Bột ra khơi. Gã chèo một mạch tám chín dặm, định đến vùng nước dồi dào tôm cá, thì nhận ra một đoàn chiến thuyền mười mấy chiếc căng buồm tiến lên hướng Bắc, đây là thuyền của quân nhà Minh đi chinh phạt An Nam trở về.
Nam Cung Bột bực bội chửi vang vì đoàn thuyền kia đang đi ngang ngư trường của gã, và vì gã không ưa vị vua hiện tại là Minh Thành Tổ Chu Lệ. Chính lão ta đã khiến Nam Cung Bột phải thất nghiệp, rơi vào cảnh khốn cùng!
Nam Cung Bột biết đàn cá nơi ấy đã chuồn mất nên không đi tiếp, buông chài tại chỗ và chỉ kiếm được vài con. Gã chán nản trở về, sáng hôm sau mới trở lại vùng biển quen thuộc!
Lần này, Nam Cung Bột xa bờ được bốn dặm thì nhận thấy một xác người đang trôi nổi trên sóng nước. Gã mừng rỡ chèo về hướng ấy, may ra tìm được chút vàng bạc hay vật trang sức của nạn nhân.
Năm ngoái, lão Trương Cẩn trong thôn đã từng gặp may, vớ được mười lượng bạc trong xác chết trôi. Lão ta chỉ tốn có năm phân để chôn cất, và lời chín lượng rưỡi.
Đến nơi, Nam Cung Bột cau mày vì nhận ra nạn nhân là một nữ lang mặc áo vải thô, chẳng hề đeo trang sức.
Tuy hơi thất vọng nhưng gã vẫn nhảy xuống đem xác lên thuyền.
Lúc cởi thắt lưng, Nam Cung Bột kinh hãi vì phát hiện nàng ta vẫn còn sống, dù hơi thở rất mỏng manh.
Gã gật đầu lẩm bẩm :
- Cô ả này thân hình nhỏ nhắn chắc ăn chẳng bao nhiêu, ta chỉ bớt vài chén là nuôi được! Thường thì ân biến thành tình, phen này ta đã có vợ đẹp rồi!
Quả thực là nữ lang này rất kiều diễm. Tuy da nhợt nhạt, tái mét vì ngâm nước quá lâu, nhưng sống mũi nàng thanh tú, mày liễu xanh đen và đôi môi nhỏ xinh xinh kia vẫn biểu hiện một nhan sắc mặn mà!
Nam Cung Bột đắc ý thổi vào miệng mỹ nhân những luồng sinh khí.
Môi nàng lạnh giá và mặn chát mà sao gã cứ muốn chạm vào mãi!
Gã là ngư phủ nên thông thạo việc cấp cứu. Chỉ một lát sau đã tống hết số nước biển trong bụng nạn nhân ra. Động tác kế tiếp là phải làm nóng sưởi ấm cơ thể nữ lang, nhưng trên thuyền chẳng hề có lửa hay chăn bông.
Ngay bản thân Nam Cung Bột cũng chỉ có một chiếc quần dài cũ rách vá chằng vá chịt. Gã gãi đầu suy nghĩ tự nhủ cứu người là trọng nên cởi sạch y phục ướt át của nữ nhân rồi nằm ôm lấy, dùng sức nóng trong thân xác mình mà sưởi ấm kẻ bị nạn.
Đáy thuyền chài thường sâu hơn thuyền câu, lòng thuyền lót vạt tre ngang mạn, phía dưới sạp tre là chỗ để chứa cá tôm. Che chở cho sạp là một vòm mui sườn tre, căng bằng vải buồm khá là kín đáo.
Nam Cung Bột yên tâm ôm ấp thân hình thon thả và mịn màng ấy, mặc cho sóng biển nhồi lắc con thuyền!
Đây là lần đầu tiên được kề cận một nàng trinh nữ nên chàng trai già họ Nam Cung nghe lòng bồi hồi, xao xuyến sướng như được lên tiên!
Gã không động dục nhưng lại khao khát được vuốt ve đôi nhũ phong nhỏ nhắn, săn chắc kia. Chúng mơn mởn, thanh tân, đẹp hơn tất cả những bầu * mềm nhão hay chảy xệ của các mụ quả phụ và bọn kỹ nữ!
Nam Cung Bột liếc gương mặt đẹp trang nghiêm của nữ lang, lòng hơi ái ngại và tự trấn an :
- Quái gì phải sợ! Đã ôm ấp thân mật thế này thì có thất lễ thêm một chút cũng chẳng sao!
Và gã run rẩy đặt bàn tay thô tháp, to như nải chuối của mình lên ngực trái mỹ nhân. Cảm giác quả là tuyệt diệu phi thường, nhưng Nam Cung Bột còn chút khí chất trượng phu nên chẳng dám kéo dài, ngượng ngùng rút tay về.
Nữ lang chưa tỉnh lại nhưng thân thể đã ấm hơn, hơi thở điều hòa.
Nam Cung Bột gật gù, ngồi lên, thò tay lấy bộ y phục treo ở kèo mui đã sắp khô nhờ gió biển, phủ lên người nữ lang.
Gã bước ra mũi thuyền, định chèo vào bờ thì phát hiện chung quanh là một đàn cá thu đông dặc. Chúng vây chặt thuyền, cứ như bị hấp dẫn bởi một sức mạnh nào đó!
Nam Cung Bột mừng rỡ quăng chài, chỉ gần khắc đã khẳm một thuyền đầy cá!
Gã mỉm cười tự nhủ :
- Cô ả này đã mang vận may đến cho ta! Làm gì có chuyện cá thu vây lấy thuyền bao giờ?
Gã phấn khởi chèo một mạch về đến bãi biển Dương Sạ Đoạn này rất vắng vẻ vì chỉ có mỗi một nhà của Nam Cung Bột, cách xa xóm chài hơn nửa dặm.
Gã nhảy xuống nước, căng bắp thịt đẩy thuyền lên bãi cát và phăng phăng kéo nó về hướng rừng dương. Thần lực này quả là đáng khâm phục.
Nam Cung Bột bồng nữ lang vào nhà, đặt lên chiếc giường tre cũ kỹ, và chẳng có lấy một manh chiếu hay tấm đệm bông.
Gã nhăn mặt tự cằn nhằn :
- Nhà cửa thế này thì chắc cô vợ đẹp sẽ chuồn sớm! Ta phải bán cá mua thêm ít vật dụng mới được!
Bỗng gã nghe có tiếng thở dài và nữ lang mở mắt ra, nói bằng tiếng Quảng Đông :
- Các hạ hãy ra ngoài để ta mặc lại y phục!
Nam Cung Bột định nói rằng mình đã thấy hết, nàng chẳng cần phải hổ thẹn làm gì. Nhưng khi chạm phải ánh mắt u buồn và nghiêm lạnh, gã chột dạ bước ra khỏi nhà, sẳn dịp xúc cá trong thuyền vào mảnh lưới cũ, mang vào trong thôn bán!
Tổng cộng có đến gần ba trăm cân cá đè nặng lên đôi vai lực lưỡng.
Người trong thôn kinh ngạc trước lượng thu hoạch quá lớn này, cao giọng khen ngợi vì chắc mẩm rằng lát nữa sẽ được mời nhậu.
Bản tính Nam Cung Bột rất phóng khoáng nên bạn bè rất đông đúc.
Song hôm nay, gã vừa rời vựa cá là đến ngay tiệm tạp hóa, mua đủ thứ vật dụng và tất tả trở về nhà chứ không ghé quán rượu.
Nữ lang áo vải xanh kia đã nấu xong cơm, còn có cả một tô canh cá thơm phức.
Nam Cung Bột đã chừa lại chục con, trong lu sành sau nhà, để làm thực phẩm.
Chén đũa mới mua đã có dịp sử dụng ngay.
Hai người lặng lẽ ăn mà chẳng nói tiếng nào.
Nam Cung Bột càng ngắm nghía, lòng càng ngây ngất trước vẻ đẹp của nữ lang.
Gã ấp úng nói :
- Tại hạ là Nam Cung Bột, ba mươi tám tuổi. Dám hỏi phương danh của cô nương?
Gã từng làm thị vệ suốt bốn năm ở Kim Lăng nên ngôn từ không đến nỗi quê mùa, thô kệch.
Nữ lang hờ hững đáp :
- Ta tên gọi Đặng Trinh Tâm, hai mươi lăm tuổi!
Nam Cung Bột có đà hỏi tiếp :
- Chẳng hay Đặng cô nương nguyên quán chốn nào, và vì sao lại rơi xuống biển?
Đôi mắt nữ nhân đang hiền hòa bỗng loé lên tia oán hận và chứa đầy sát khí, mặt nàng lạnh lùng như phủ sương mờ!
Nam Cung Bột chẳng biết sợ trời cao đất dày, vậy mà lại thấy ngán nữ nhân này!
May thay, sắc diện này đã dịu xuống.
Trinh Tâm bình thản nói :
- Sau này các hạ sẽ biết!
Nam Cung Bột cũng chẳng dám hỏi tới, buông đủa đi ra phía sau súc miệng.
Nhận thấy đống củi đã gần hết, gã trở vào nhà lấy thanh đao giấu dưới gầm giường, kỷ vật duy nhất của cuộc đời làm thị vệ!
Nam Cung Bột đi một vòng, chặt những cành dương khô, mang về chất đống sau hè! Gã làm việc cần mẫn, trên môi điểm nụ cười hạnh phúc, và hình bóng Trinh Tâm thấp thoáng trong hồn và trước mắt!
Xế chiều, con sâu rượu trong bụng bắt đầu ngọ ngoạy.
Nam Cung Bột bối rối suy nghĩ :
- Nay nhà đã có thêm một miệng ăn, ta phải bớt uống mới xong! Vả lại cô ả họ Đặng này tính tình khó chịu, thấy ta bê tha tất sẽ không ưng ý! Thôi thì ráng nhịn vài ngày, chờ ván đóng thuyền cái đã!
Gã khoan khoái vì ý tưởng tinh ranh này, tiếp tục công việc dọn dẹp quanh nhà và dựng thêm một buồng tắm kín đáo bằng mảnh vải buồm cũ.
Trước đây, Nam Cung Bột thường trần truồng tắm táp dưới giòng suối nhỏ trong rừng, nhưng giờ đây gã không muốn ai nhìn thấy cơ thể trắng trẻo mịn màng của cô vợ tương lai!
Trinh Tâm cũng cặm cúi làm việc trong nhà, quét mạng nhện, bụi bặm, xếp đặt mọi vật cho ngăn nắp. Và khi Nam Cung Bột làm xong phòng tắm đơn sơ thì nàng cũng đã nấu xong bữa tối.
Gã hoan hỉ định sà vào mâm thì bị người đẹp chỉnh ngay :
- Thân thể có sạch sẽ thì ăn cơm mới ngon được!
Nam Cung Bột sượng sùng mở rương lấy quần sạch ra suối tắm gội.
Trinh Tâm cũng đã khai trương phòng tắm mới vì người nàng nhớp nhúa bởi nước biển. Nữ nhân không có y phục nên đã thay bằng bộ quần áo cũ của mẹ Nam Cung Bột, trông rất buồn cười!
Chờ gã ăn xong Trinh Tâm nghiêm giọng :
- Các hạ tướng mạo đôn hậu thiện lương nhưng tính tình nông nổi, bồng bột, phóng túng, không phải là chỗ dựa tốt cho đời một nữ nhân! Ta sẽ ở lại đây vài ngày xem chàng có khả năng sửa đổi hay không, rồi mới quyết định việc gá nghĩa phu thê!
Nam Cung Bột nghe, tự ái sôi sục nhưng nghĩ lại rằng đối phương nói quá đúng, đành ngượng ngùng đáp :
- Tại hạ biết mình lắm tật xấu, xin cố hoàn thiện để cô nương khỏi thất vọng!
Nói xong, gã mỉm cười chua chát.
Trinh Tâm nói ngay :
- Chắc các hạ đang nghĩ đến cái ơn cứu mạng ta phải trả phải không? Ta có thể hiến thân cho các hạ để đền ơn, nhưng sẽ dứt áo đi ngay khi thấy các hạ không xứng đáng là bậc trượng phu!
Nam Cung Bột giật mình, không ngờ nữ lang lại nhìn thấu tâm can mình như vậy! Gã bối rối biện minh :
- Cô nương. chớ xem thường tại hạ như vậy! Bột này vốn là kẻ thi ân bất cầu báo!
Gã giả đò bực bội, rời chõng tre bỏ ra thuyền mà ngồi. Gã vừa giận lại vừa thẹn, lẩm bẩm chửi đổng :
- Mẹ kiếp! Ả La Sát này quả là lợi hại! Xem ra Bột ta đã gặp khắc tinh rồi! Thân chết trôi mà kiêu kỳ, khó chịu còn hơn công chúa nữa! Bột ta thà ở vậy chứ chẳng thèm hạ mình cầu cạnh!
Nhưng dung nhan xinh đẹp và thân thể nõn nà lại ám ảnh mãi và đánh đổ câu nói hùng hổ lúc đầu!
Nam Công Bột suy nghĩ :
- Ả này kiều diễm như tiên, ăn nói mực thước, đầu óc thông tuệ, chắc xuất thân từ chốn quyền quí, có kênh kiệu một chút cũng là phải! Nếu ta không chịu nhượng bộ thì đến chết cũng chẳng có nỗi một mụ vợ đẹp như thế. Hơn nữa, họ Nam Cung nhà ta vận chưa có người nối dõi, song thân dưới suối vàng sẽ chẳng vui lòng!
Gã nghĩ ngợi vẩn vơ, nằm mơ tưởng đến người ngọc. Lát sau ngủ vùi vì một ngày làm việc mệt nhọc.
Cuối canh tư, theo thói quen, gã giật mình thức giác, phát hiện trên người mình có tấm chăn đơn mới mua hồi trưa. Vậy là Trinh Tâm đã ra đây đắp cho gã.
Nam Cung Bột xúc động và hài lòng :
- Cô ả này trông dữ dằn nhưng đáng mặt vợ hiền!
Thấy bếp có ánh lửa, gã ôm mền đi về phía ấy, nhận ra cơm canh đã sẳn sàng!
Trong suốt tháng trời, ngày nào Nam Cung Bột cũng đánh được rất nhiều tôm cá. Gã càng tin rằng Trinh Tâm là vận đỏ của mình, càng nễ sợ nàng hơn, và không dám uống một giọt rượu nào.
Thấy Nam Cung Bột mua sắm cả vải vóc, người trong thôn đoán ngay là rằng gã sắp cưới vợ.
Đám bạn rượu chặn đường níu kéo, hết lời trách móc và dọa sẽ đến nhà xem mặt người đàn bà đã chiếm mất tay nhậu của họ!
Nam Cung Bột đã được Trinh Tâm dặn dò nên lạnh lùng cảnh cáo :
- Bọn ngươi mà mò đến phá hỏng mối lương duyên của ta thì đừng trách. Bột này tàn nhẫn! Đúng ngày Đại cát, ta sẽ có bữa tiệc ra mắt!
Nam Cung Bột rất có uy nên đám bằng hữu riu ríu nghe lời.
Quả nhiên hôm sau Trinh Tâm nói với Nam Cung Bột :
- Thời gian qua các hạ đã chứng tỏ mình là người có ý chí, dám vì hạnh phúc gia đình mà hi sinh sở thích của mình. Ta bằng lòng kết tóc xe tơ với các hạ, nhưng sau này, nếu các hạ quay lại tật xấu cũ, ta sẽ bỏ đi ngay!
Nàng thở dài, dịu giọng :
- Thực ra, nam nhân có uống vài chén cũng được! Song nếu lạm dụng thì con cái sẽ ngu ngốc, trì độn, chẳng đáng thương lắm sao?
Nam Cung Bột mừng rỡ cười hề hề :
- Nàng dạy chí phải! Con cháu họ Nam Cung mà xuẩn ngốc thì coi sao được! Ta hứa từ nay chỉ uống mỗi ngày nửa cân mà thôi!
Trinh Tâm quắc mắt :
- Không được! Cho đến lúc ta thụ thai, các hạ không được uống một giọt nào cả?
Nam Cung Bột xụ mặt :
- Chẳng lẽ trong ngày cưới cũng không được uống hay sao?
Trinh Tâm mỉm cười :
- Hôm ấy thì cho phép uống ba chung, nếu quá thì một tháng sau mới động phòng!
Nam Cung Bột nhịn thèm đã lâu, liền cười nhăn nhó :
- Ba chung cũng được! Đợi thêm một tháng chắc ta chết mất!
Hiểu ý gã, Trinh Tâm đỏ mặt, càng bội phần quyến rũ!
Mấy hôm rày biển động, thuyền chài không thể ra khơi, hai người quyết định nhân dịp này mà dựng nhà mới.
Nam Cung Bột đã đốn được rất nhiều cây gỗ thẳng thớm, trong khu rừng già dưới chân núi Lam Sơn gần đấy!
Mỗi ngày, bán cá xong là gã chạy ù về nhà, vào rừng tìm vật liệu, nhờ vậy mà trong một tháng đã đủ số.
Chính Trinh Tâm là người vẽ kiểu nhà, và tự tay cưa cắt, đục đẻo những thân cây, trong lúc Nam Cung Bột đi đánh cá!
Tối mười tám tháng mười, nàng bảo Nam Cung Bột :
- Ngày mai chúng ta sẽ dựng nhà, khoảng vài ngày sẽ xong. Sau đó, các hạ có thể mời những bằng hữu thân thiết nhất đến dự tiệc ra mắt vào ngày hai mươi sáu!
Nam Cung Bột phân vân :
- Mình ta với nàng làm sao kịp trong ba ngày? Hay là để ta rủ thêm vài gã trong thôn đến giúp?
Trinh Tâm lắc đầu :
- Không cần đâu! Ta với các hạ là đủ rồi!
Nam Cung Bột nhăn mặt :
- Sắp lấy nhau mà nàng còn xưng hô lạnh nhạt như thế được sao?
Trinh Tâm thẹn thùng cúi mặt, dịu giọng đáp :
- Tướng công đừng giận thiếp!
Nam Cung Bột khoan khoái cười ha hả :
- Có thế chứ!
Sáng hôm sau, ăn uống no nê xong, hai người bắt tay dựng nhà trên mảnh đất trống mé tả nhà cũ.
Nhìn Trinh Tâm vác cây cột gỗ dài hơn trượng, thân to một vòng tay, bước đi thoăn thoắt, Nam Cung Bột mới biết nàng rất khoẻ, và bộ pháp kia là của một người đã dầy công luyện võ!
Gã tự ái, ra sức đào cật lực những lỗ cột, lòng tự hỏi rằng nếu vợ chồng đánh nhau thì ai thắng, ai bại?
Đến chiều thì bốn dàn cột, gồm mười hai thân cây còn nguyên võ, đã được dựng lên sừng sững. Căn nhà này có ba gian chính, bếp và nhà tắm sẽ làm sau.
Nam Cung Bột ngơ ngác hỏi :
- Không có thang thì làm sao lên nóc mà bắc đòn dông?
Trinh Tâm mỉm cười, nhún chân bay vút lên, đứng vắt vẻo trên đỉnh cột cái, và nói vọng xuống :
- Tướng công hãy đưa một đầu đòn dông lên cho thiếp!
Nam Cung Bột tròn mắt sững sốt trước tài nghệ khinh công quán thế của nữ nhân. Gã ấp úng nói :
- Té ra nàng là một cao thủ trong làng võ, chẳng hay nàng xuất thân từ môn phái nào vậy?
Trinh Tâm không đáp, sẳng giọng bảo :
- Đừng nói nhiều, trời sắp tối rồi!
Nam Cung Bột bắt đầu thấy sợ, mau mắn đưa đầu gỗ lên.
Trinh Tâm nắm lấy một đầu, vung cước đá mạnh thân đòn, khiến nó bị hất ngược, vượt qua dàn cột kế cận và ngoan ngoãn nằm đúng vào vị trí.
Động tác này chứng tỏ sức mạnh của chân và quyền lực của mỹ nhân.
Cố định xong đầu bên này bằng lạt mây, Trinh Tâm đi trên đòn mà sang bên kia.
Chỉ bốn ngày sau căn nhà đã hoàn thành, tuy đơn giản nhưng rất kiên cố, vách chung quanh được ghép bằng những thân cây to cỡ bắp chân.
Sáng hai mươi ba, Nam Cung Bột chỉnh tề trong bộ y phục vải mới màu xanh nhạt, râu ria nhẵn nhụi, đi vào thôn Dương Sa tìm bằng hữu, mời họ đến dự tiệc cưới.
Người nghèo đảo Hải Nam ít khi tổ chức hôn lễ rình rang, nhất là trong trường hợp cô dâu chú rể đều mồ côi, không họ hàng thân thích. Chỉ một bữa tiệc nhỏ, mời vài bô lão cao niên và bạn bè là đủ lễ!
Nhưng việc Nam Cung Bột bỏ rượu cưới một cô gái lạ mặt đã kích động óc hiếu kỳ của mọi người trong thôn. Cả những người không nhận được thiếp hồng cũng tuyên bố là sẽ đến dự, bất chấp ý kiến của chú rể!
Tổng cộng số khách lên đến hơn trăm người khiến Nam Cung Bột choáng váng, chạy về báo cáo với Trinh Tâm!
Nàng tư lự tính toán :
- Nay chúng ta làm nhà, mua sắm đồ đạc đã cạn tiền, nhưng chẳng thể để người trong thôn chê cười được! Thiếp sẽ thay đổi thực đơn, không mua gà vịt nữa mà sẽ đãi bằng món khác!
Nam Cung Bột rầu rĩ :
- Không gà vịt thì chăng lẽ cho họ ăn cá? Dân chài sợ hải sản đến mọc ốc, họ sẽ chửi cho đấy!
Trinh Tâm mỉm cười :
- Tướng công cứ đi theo thiếp. Món này thì khách không thể chê được!
Sáng hai mươi sáu, người trong thôn Dương Sa lũ lượt kéo đến nhà Nam Cung Bột. Họ hết lời trầm trồ khen người cơ ngơi mới của gã.
Mùi thơm phưng phức từ bếp bay lên, xộc vào mũi khách, thấu tận đến ruột gan.
Tần Khải, bạn chí thân của Nam Cung Bột, hít hà nuốt nước miếng ừng ực, tò mò hỏi :
- Chẳng hay Nam Cung huynh đãi bọn ta món gì mà hương vị độc đáo thế kia?
Nam Cung Bột đắc ý đáp :
- Ấy là món thịt dê núi rất bình thường, nhưng nhờ tài nghệ của chuyết thê nên mới thơm nức mũi như vậy?
Tần Khải trợn mắt kinh ngạc :
- Ái chà! Chẳng lẽ huynh đài lại khổ công lặn lội đến đỉnh núi Lam Sơn mà bắt chúng về đấy sao?
Mọi người tấm tắc khen ngợi bãn lãnh của Nam Cung Bột. Họ quên rằng bọn Sơn Dương sống trên những vách đá cheo leo, nhanh nhẹn phi thường, trừ phi Nam Cung Bột mọc cánh, hóa thành đại bàng mới mong bắt nổi!
Chẳng qua gã nổi tiếng thực thà nên ai cũng tin!
Đám khách nữ nhân đã ào vào bếp mượn cớ giúp đỡ chủ nhà để biết mặt cô dâu.
Trinh Tâm đang tất bật cạnh năm chiếc nồi lớn, mặt mũi lem luốc nhễ nhại mồ hôi nhưng cũng đủ xinh đẹp để các bà ghen tỵ.
Nàng nở nụ cười hòa ái, thân thiện, nói lời cảm tạ bằng một giọng ngọt ngào như mía lùi, chinh phục được ngay những mụ ngư dân chất phác.
Trinh Tâm ít khi cười nhưng nụ cười của nàng lại có mị lực vô song, ai thấy cũng phải xuyến xao và sinh lòng ái mộ. Thế là đám nữ khách xăng xái phụ hợ, luôn miệng khen cô dâu hiền lành giỏi giang xinh đẹp!
Vợ Tần Khải cao giọng :
- Đại tẩu nhu mì thế này mà lão Tần Khải nhà em cứ bảo rằng đại tẩu dữ như cọp, chưa cưới đã bắt Nam Cung huynh phải bỏ rượu và bằng hữu!
Trinh Tâm cười đáp :
- Chuyến phu trước đây uống rượu quá nhiều nên phủ tạng bị tổn thương. Chư vị không thấy tròng mắt y hơi vàng và túi dưới mắt chảy xệ đấy sao? Nếu y không bớt nhậu, chỉ ít năm nữa là đoản mệnh!
Vợ Tần Khải sợ hãi bật thốt :
- Chết cha! Lão chết tiệt nhà em cũng có triệu chứng ấy, phen này phải bắt lão ta cai rượu mới xong!
Mụ góa Hồ thị vốn từng ăn nằm với Nam Cung Bột nên cay cú xen vào bằng giọng mỉa mai :
- Đại tẩu cứ làm như mình là lang y vậy?
Trinh Tâm thản nhiên đáp :
- Tiểu muội học nghề thuốc từ năm lên tám, trừ chứng nan y thì không dám nhận kỳ dư đều có thể trị được! Ví dụ như bệnh hôi nách cua Hồ thư, tiểu muội chỉ cho ba thang là tuyệt căn!
Hồ thị từ lâu vẫn khổ tâm vì cái mùi đáng sợ của cơ thể mình. Người trong thôn luôn diễu cợt mụ, và có kẻ độc miệng còn bảo rằng :
- Lão Hồ Tứ không thể chết trong bão tố, chẳng qua vì quá khiếp sợ mùi hôi nách của vợ nên đã chèo thẳng vào lục địa mà lánh nạn!
Nay nghe Trinh Tâm nói với giọng tự tin như vậy, Hồ thị cố nén thẹn thùng, hạ giọng khẩn nài :
- Nếu quả Nam Cung đại tẩu có tài y thuật cao siêu như vậy. Xin hãy ra tay chữa trị cho tiểu muội!
Hồ thị đã ba mươi sáu, nhưng theo vai vế tuổi tác của Nam Cung Bột nên phải xưng là em!
Trinh Tâm gật đầu :
- Ngày mai Hồ thư hãy đến đây, tiểu muội sẽ giúp cho!
Thôn Dương Sa chỉ có một lão lang trung già nua, chậm chạp, lại không tinh thông các bệnh đàn bà nên đám nữ nhân phải cắn răng chịu đựng bệnh tật. Giờ thì họ nhao nhao khai hết với Trinh Tâm, nhờ nàng ra tay Biển Thước.
Trinh Tâm vừa làm vừa lắng nghe và khẳng định rằng mình có đủ khả năng chữa trị.
Thế là các bà, các cỗ xem nàng như nữ Bồ Tát giáng phàm, từ bỏ vai khách, trở thành người nhà để phục vụ đám tiệc cưới.
Trong lúc nhà bếp rộn ràng tiếng dao thớt, chén bát khua vang, thì nhà trên cũng đã được bày đủ mười bộ bàn tròn, phủ vải đỏ hẳn hoi.
Hơn bốn ngàn cân cá đã đem lại cho Nam Cung Bột số bạc gần trăm lượng, một tài sản khá lớn đối với cuộc đời dân chài. Làm nhà xong gã còn hai chục lượng, do không phải mua thực phẩm nên có dư để mướn chén bát bàn ghế.
Đám nam nhân vặn vẹo hỏi han đủ chuyện, từ lai lịch cô dâu đến nhúng mẻ cá dồi dào đều dặn, và cả việc ai đã giúp gã dựng nên ngôi nhà đồ sộ dài sáu trượng, rộng hai trượng nầy?
Nam Cung Bột chỉ cười khà khà chứ không trả lời!
Giữa giờ tỵ, chén đũa và thức ăn đã được bọn nữ nhân dọn ra. Tuy chỉ có một loại thịt nấu thành năm món gồm: ba đĩa và hai tô kèm theo một đĩa rau thơm gừng, chanh, ớt, giềng!
Chẳng ai biết tên của năm món này, chỉ nhận ra đĩa dồi lòng, đĩa thịt nướng, đĩa thịt luộc và một tô thịt nấu với măng!
Mùi thơm từ hai tô nghi ngút bốc khói kia khiến trưởng thôn là Tô lão đại rút ngắn thủ tục.
Ông nuốt nước miếng, hắng giọng tuyên bố :
- Lão phu đại diện bà con trong thôn Dương Sa, chứng nhận cho Nam Cung Bột ba mươi tám tuổi và Đặng Trinh Tâm hai mươi lăm tuổi nên duyên phu phụ. Chúc hai người sống đến lúc răng long đầu bạc!
Rồi lão bảo tân lang và tân nương vái lạy bàn thờ tổ tiên, lạy lẫn nhau.
Tô lão làm nhanh đến nỗi thức ăn vẫn còn nóng hổi!
Hải Nam kém phần giáo hóa nên lễ nghi đơn giản chứ không rườm rà như Trung Nguyên. Lê thứ ở đây cũng chất phác thật thà và thô lậu. Họ Ồn ào thét lên lời chúc tụng cho đủ lễ rồi ngồi ngay vào bàn.
Nam Cung Bột cao giọng mời khách cạn chung, động đũa.
Bọn Tần Khải nhao nhao mời lại chú rể.
Nam Cung Bột tiếp tân nương rồi uống một chung.
Hôm nay, chàng trai già họ Nam Cung chững chạc trong chiếc trường bào lụa xanh màu nước biển, thắt lưng hồng. Trinh Tâm cắt rất khéo nên áo bào vừa vặn, làm nổi bật thân hình rắn chắc, cường tráng của tân lang!
Nam Cung Bột vốn dĩ chẳng phải là người xấu trai, có điều mũi hơi tẹt, mắt một mí và miệng không rộng! Giờ đây, niềm hạnh phúc to lớn đã làm rạng rỡ gương mặt gã bằng những nụ cười bất tận khiến gã dễ coi hơn!
Tuy nhiên, dù gã có đẹp hơn vài phần nữa cũng chẳng thể xứng với một cô dâu trẻ măng và xinh đẹp tuyệt trần như Trinh Tâm!
Nàng thướt tha trong tấm áo hồng, cùng chồng đi các bàn để nhận tiền mừng của khách!
Thôn Dương Sa có một tục lệ rất lý thú là cho khách dự hôn lễ được thiếu nợ. Ai sẵn tiền thì đưa ngay trong bàn tiệc, ai túng thiếu thì vẫn có quyền sang sảng tuyên bố, và sau này sẽ trả hoặc cấn trừ khi con nợ kết hôn.
Ví dụ như trường hợp của Tần Khải. Mười năm trước gã cưới vợ, Nam Cung Bột không có tiền mừng nên mắc nợ một lượng bạc, đến nay vẫn chưa trả, lần này Tần Khải cười khanh khách nói :
- Tiểu đệ xin dâng lễ mừng đại huynh và đại tẩu hai lượng bạch ngân, trừ đi một lượng hôm đám cưới tiểu đệ, còn lại một lượng xin cho thiếu!
Xem ra, Nam Cung Bột mắc nợ đám cưới khắp lượt quan khách nên Trinh Tâm hầu như chẳng thu được xu nào!
Nàng tủm tỉm cười, thầm công nhận tập quán này tuy kỳ quái nhưng rất hay. Nó giúp mọi người ung dung vui vẻ đến chung vui với bạn bè mà chẳng hề mặc cảm. Phong tục này có lẽ xuất phát từ việc thu nhập thất thường của nghề ngư phủ. Có người hàng tháng không gặp may và cũng có người liên tiếp bội thu.
Thực khách hết lời tán tụng năm món ăn do cô dâu chế biến từ thịt Sơn Dương. Cho rằng trên đời này không có sơn hào hải vị nào ngon hơn được.
Do vậy họ bỏ qua việc Nam Cung Bột chỉ nhấp môi lấy lệ chứ không uống ừng ực như xưa.
Tô Trưởng Thôn vui vẻ hỏi :
- Chẳng hãy Tân Nương quê quán ở đâu mà lại biết cách nấu món thịt dê núi tuyệt diệu thế này?
Trinh Tâm thoáng đỏ mắt, ánh mắt có vẻ gì ranh mãnh và bí ẩn :
- Bẩm Tô lão bá! Tiểu nữ quê ở Hóa Châu!
Tô trưởng thôn ngơ ngác :
- Hóa Châu ở phủ nào nhỉ?
Tần Khải cười rộ, khoe khoang kiến văn :
- Lão quả là ngớ-ngẩn, Hóa Châu thuộc Quảng Đông chứ đâu nữa? Lão không thấy cô dâu nói tiếng gì sao?
Mọi người gật đầu khen phải và không ngờ rằng Hóa Châu là đất của An Nam, một nước nhỏ ở phía Tây đảo Hải Nam, vừa bị nhà Minh thôn tính!
Đám nữ nhân, sau khi đem thức ăn ra cũng đã ngồi vào bàn, ăn ngấu nghiến.
Đời ngư phủ nghèo nàn, thường chỉ được ăn tôm cá, nay gặp món lạ họ vô cùng khoái khẫu, tuy không ghiền rượu như đám nam nhân nhưng việc uống vài chung là chuyện thường.
Hồ thị ngà say, bốc trong đám rau thơm một lá nhỏ hơn bàn tay, hai mặt đầy lông tơ mượt như nhung, cười khúc khích bảo :
- Loại lá Trung Tiện Diệp này trong rừng Lam Sơn có rất nhiều, nó hôi nên chẳng ai dám ăn cả! Không ngờ khi ăn chung với thịt Sơn Dương lại ngon đến như vậy!
Hải Nam ở cùng vĩ độ với đất An Nam, chỉ cách xa hơn ngàn dặm nên hệ thực vật cũng tương tự! Trung Tiện Diệp chính là lá mơ!
Quá trưa thực khách lảo đảo cáo từ và trên bàn không còn một miếng thịt nào!
Vài ngày sau, người trong thôn Dương Sa loáng thoáng nghe tin thôn Ngư Hải kế cận bị mất mười hai con chó trong một đêm. Vụ án này khiến mọi người ngơ ngác, chẳng hiểu nguyên nhân, vì dân Hải Nam không ăn thịt chó bao giờ!



Xem tiếp hồi hai
pass to joine phim : Kim_Bang_2
longnu
Múi Mít
Múi Mít
 
Tiền: $122,632
Posts: 1046
Joined: 14 Mar 2005
Location: đến từ nơi xa lắm
 
 

Postby longnu » 08 Apr 2005

2....
Tiếu Ngạo Trung Hoa Nguyên tác : Ưu Đàm Hoa




Hồi 02 Hải biên hỏa chiếu vân
Thần Long nhập Trung Nguyên
Hơn một năm sau, đúng trưa ngày mùng một tháng mười một năm Ất Mùi, tức năm Vĩnh Lạc thứ mười ba, Trinh Tâm hạ sinh một bé trai bụ bẫm, nặng đến sáu cân.
Nàng đặt tên cho con là Nam Cung Giao. Đứa bé có tiếng lạ là hai ngón chân cái hơi chĩa ra ngoài.
Giao nhi giống cha ở nết ăn nên lớn nhanh như thổi, hơn năm đã biết đi. Tất nhiên, khi nó đứng thì hai ngón chân cái giao nhau!
Dân trong thôn lấy làm lạ, nhưng không biết đấy là đặc tính của người Giao Chỉ nước An Nam!
Giao nhi càng lớn càng ăn rất khỏe. Điều này đã an ủi Nam Cung Bột, vì dung mạo đứa bé giống mẹ chứ chẳng giống cha, cho nên nết ham ăn là chứng tích của giòng máu Nam Cung!
Cuộc sống gia đình gã giờ đây đã khá giả, nhờ tính cần kiệm của Trinh Tâm và cũng nhờ y thuật của nàng.
Danh tiếng Dương Sa nữ đại phu đã lan ra những thôn kế cận, kẻ nghèo người giàu điều tìm đến khi đau ốm.
Đám quả phụ trong thôn đã trở thành trợ thủ của Trinh Tâm, lo việc hái thuốc, phơi phóng và bào chế dược vị!
Nhờ họ, Trinh Tâm biết rõ gia cảnh từng bệnh nhân, tùy giàu nghèo mà tính tiền.
Trinh Tâm dạy con rất nghiêm khắc, năm bốn tuổi đã cho học chữ và luyện võ. May thay, Giao nhi thông minh đỉnh ngộ chứ không ngốc như cha, học một biết mười, văn võ đều tiến bộ. Nó lại thừa kế nòi thần lực của Nam Cung Bột nên rất khỏe mạnh, mới lên tám đã đánh bại cả đứa trẻ mười hai!
Năm Bính Ngọ, Tuyên Đức Nguyên Niên, đời vua Minh Nguyên Tông, Giao nhi gần trọn mười hai tuổi. Cậu bé không vạm vỡ, to béo như cha những cũng cao hơn bọn tiểu hài đồng trang lứa!
Giao nhi may mắn thừa hưởng hết những ưu điểm của song thân: Thân cao và rộng, mũi thẳng, mặt xương xương, mắt hai mí đen tuyền, hơi xếch về đằng đuôi, cằm đầy đặn.
Tóm lại, Giao nhi là một cậu bé trai khá anh tuấn dù nước da ngăm đen như bất cứ người dân miền biển nào!
Rõ ràng, cậu giống mẹ nhiều hơn cha, nhưng Nam Cung Bột hài lòng vì gã chẳng ưa đôi mắt nhỏ và sống mũi tẹt của mình, ít ra thì Giao nhi cũng giống gã ở nết ăn và tính khôi hài.
Nam Cung Bột vẫn ra khơi đánh cá vì chẳng thể ở nhà ăn bám vợ được.
Một nam nhân chân chính phải làm việc gì đó dù nhỏ hay lớn.
Việc giáo dưỡng Giao nhi là của Trinh Tâm, song Nam Cung Bột cũng tranh thủ dạy cho con trai cưng pho quyền pháp gia truyền. Gã không dạy đao pháp vì Giao nhi đã luyện pho Lạc Điểu kiếm pháp của giòng họ Đặng.
Còn nghề bơi lội thì khỏi dạy vì Giao nhi ở dưới nước cũng thoải mái như trên cạn, thủy tính giỏi nhất trong đám thiếu niên.
Chính Trinh Tâm cũng không biết xuất xứ của pho kiếm pháp Lạc Điểu tổ tiên họ Đặng đã truyền lại nhiều đời, và nhờ nó mà Đại tướng Đặng Dung, bào huynh của Trinh Tâm, đã trở thành Đệ Nhất Kiếm Thủ đất An Nam!
Đặng Dung theo phò vua Trần Quang Trần Qúi Khách của An Nam khởi nghĩa chống Minh. Tháng chín năm Qúi Tỵ, một năm trước khi Trinh Tâm gặp Nam Cung Bột, thống binh đoàn quân viễn chinh triều Minh là Tân Thành Hầu Trương Phụ vào đến Thuận Hóa. Nửa đêm Đặng Dung đem quân tập kích Trương Phụ. Ông vượt qua được vòng vây vào đến tận thuyền của Trương Phụ. Do không biết mặt nên đã để họ Trương chạy thoát.
Trận ấy, Đặng Dung đã một mình một kiếm trước mười tám cao thủ Trung Nguyên theo hộ vệ Tân Thành Hầu, dọa khiếp tướng sĩ nhà Minh!
Bản lãnh siêu quần bạt tụy của Đặng Dung đã chứng tỏ được sự lợi hại của pho Lạc Điểu kiếm pháp.
Giao nhi học võ từ năm lên bốn nên thuộc làu cả kiếm lẫn quyền pháp, khinh công cũng khá!
Đầu tháng bảy năm ấy, đoàn thuyền chở lương sang tiếp viện quân binh ở An Nam gặp bão, phải ghé vào đảo Hải Nam để sửa chữa những cột buồm bị hư hại.
Ba mươi chiếc thuyền chở lương này thả neo ở một đoạn bờ biển cách thôn Dương Sa vài dặm. Bọn thủy binh la cà vào thôn ăn nhậu, oang oang khoe tầm quan trọng của nhiệm vụ hậu cần. Chúng còn khai ra cả mục đích lẫn danh tính của vị chỉ huy, tham tướng Trương Năng, bốn mươi lăm tuổi, mười tám năm trước từng theo Tân Thành Hầu Trương Phụ chinh phạt An Nam.
Lần này, Trương tham tướng phải quay lại An Nam vì lão Lê Lợi nào đó đã nổi dậy, cách nay mười năm, đánh cho quân nhà Minh chạy dài!
Nam Cung Bột đến nhà Tần Khải chơi, nghe được chuyện này, về kể lại cho vợ nghe!
Đêm ấy Trinh Tâm không ngủ, sáng ra, chờ trượng phu ăn điểm tâm xong, nàng quì xuống đất lạy!
Nam Cung Bột thất kinh vội đỡ lên, nhăn mặt hỏi :
- Vì sao phu nhân lại làm như vậy?
Trinh Tâm bật khóc, rồi gạt lệ nói với giọng kiên quyết :
- Tướng công cũng đã biết thiếp là một nữ tướng của An Nam. Mười năm qua, vì thương chàng và Giao nhi mà nấn ná ở lại chốn này chứ không về cố thổ góp sức với Lê Lợi kháng Minh! Nhưng nay nếu để đoàn lương thuyền đến được An Nam thì nghĩa quân nguy mất! Gia dĩ, gã Trương Năng kia chính là một tên đại ác, từng giết hạ hàng ngàn người Giao Chỉ vô tội. Lúc áp giải tù binh về Trung Hoa, Trương Năng còn hành hạ bọn thiếp rất tàn nhẫn, khiến vua Thịnh Quang phải nhảy xuống biển và gia huynh Đặng Dung cắn lưỡi chết theo. Sau đó, gã và tám tên nữa định cưỡng bức thiếp, may mà thiếp kịp nhảy ra khỏi thuyền, và được tướng công cứu vớt!
Nam Cung Bột ràu rĩ ngắt lời :
- Thế phu nhân định sẽ làm gì?
Trinh Tâm đáp :
- Lát nữa, gia đình chúng ta sẽ thu xếp hành lý, giả vờ về thăm quê của Tướng công ở Cán Châu. Chàng cứ đem Giao nhi đi, còn thiếp sẽ quay lại, tìm cách giết Trương Năng và đốt đoàn thuyền lương!
Giao nhi sợ hãi kêu lên :
- Hài nhi không để mẫu thân đi một mình được. Có chết thì cả nhà cùng chết chung!
Nói xong, cậu bé bật khóc nức nỡ, ôm chặt lấy từ mẫu!
Nam Cung Bột tần ngần suy nghĩ một lúc lâu, rồi mỉm cười thê lương, nhìn Trinh Tâm bằng ánh mắt âu yếm :
- Này nương tử! Bột ta vốn chẳng tán thành việc giết người cướp đất của triều đình! Trung Hoa rộng mênh mông, người ở không hết, hà tất phải đi xâm lăng nước khác? Ta tuy là người Hán nhưng chẳng mù quáng đến nỗi ủng hộ kẻ ác. Ta sẽ cùng nàng xuất thủ, chắc chắn sẽ thành công mà còn bảo toàn được mạng sống! Ta không muốn mất vợ và cũng chẳng nỡ để Giao nhi mồ côi mẹ!
Trinh Tâm mừng rỡ quì xuống lạy tạ :
- Tướng công nếu được đại nghĩa, không ngại tiếng phản tặc, khiến lòng thiếp mừng vì gởi thân chẳng lầm người!
Nam Cung Bột nghiêm giọng :
- Nhưng chỉ một lần này thôi! Dĩ hậu, nàng đừng dây vào ân oán giữa hai nước nữa!
Trinh Tâm gạt lệ hứa :
- Thiếp hiểu được nỗi khổ tâm của tướng công! Sau trận này, chúng ta sẽ về Trung Nguyên sinh sống! Đời thiếp sẽ trọn vẹn thuộc về họ Nam Cung, nhưng việc truy tầm tám tên cao thủ cận vệ của Trương Phụ, để báo thù cho gia huynh là vua quan nhà Hậu Trần, Giao nhi sẽ phải cáng đáng!
Nam Cung Bột gật gù :
- Tất nhiên là thế! Ta cũng không chịu buông tha những kẻ đã hành hạ và định cưỡng bức người vợ xinh đẹp của ta!
Trinh Tâm thẹn thùng nguýt phu quân :
- Tướng công quả là không biết thẹn! Trong lúc này mà chàng còn đùa được sao?
Nhưng chính câu nói bỡn của Nam Cung Bột đã khiến lòng người nhẹ nhõm.
Giao nhi cười khúc khích :
- Hôm nay hài nhi thấy phụ thân oai phong khác hẳn thường nhật!
Trinh Tâm đỏ mặt tát yêu con:
- Ngươi nói nhăng gì thế? Ta có bao giờ lấn lướt cha ngươi đâu?
Giao nhi nheo mắt, ranh mãnh đáp :
- Mẫu thân rất hiền, nhưng không hiểu sao người trong thôn ví phụ thân bằng cái tên Tam Bôi tiên sinh? Họ bảo rằng mẫu thân chỉ cho chồng uống mỗi ngày ba chén rượu mà thôi, nếu quá mức thì cấm vào giường trong một tháng!
Nói xong, cậu bé vuột nhanh khỏi tay mẹ để tránh bị đòn! Giao nhi núp sau lưng cha, cười giòn dã!
Trinh Tâm vừa thẹn vừa giận đuổi con trai chạy vòng quanh chồng.
Nam Cung Bột chụp tay nàng giữ lại, từ tốn nói :
- Giao nhi có tính hay đùa giống ta, nàng giận làm gì! Giờ hãy bàn kế hoạch cho chu đáo để khi hành sự không sơ suất.
Đến chiều thì cả thôn Dương Sa biết việc gia đình Nam Cung Bột về Cán Châu thăm mộ tổ tiên, và có thể sẽ ở lại luôn để Giao nhi được học hành tử tế hơn!
Nhà cửa được giao cho Tần Khải chăm sóc. Nếu vợ chồng Nam Cung Bột không trở lại thì coi như tặng luôn cho họ Tần.
Sáng hôm sau, nhằm ngày mùng chín tháng bảy, dân trong thôn Dương Sa bịn rịn tiễn đưa gia đình Nam Cung.
Đám nữ nhân sa lệ khóc ròng vì lưu luyến Dương Sa nữ đại phụ Nàng ma đã chửa bệnh và làm người bạn tốt của họ, trong suốt mười năm qua!
Trinh Tâm cũng ngậm ngùi khi phải chia tay những người dân chài chất phác, quê mùa này. Họ không thiếu những tật xấu của người nghèo như tham rặt, khôn vặt và nhiều chuyện. Nhưng bản chất nhân hậu, chuộng việc nghĩa, họ chẳng khác gì đồng bào của nàng ở bên kia biển!
Chạnh lòng tham của bọn vua chúa Trung Hoa đã gây nên cảnh chém giết giữa hai dân tộc vốn hiền lành, hiếu khách!
Giao nhi cũng gồng mình nhận những cú phát thật mạnh của bọn trẻ làng chài, và đáp lễ lại để giã từ. Cậu bé không hề thấy đau nhưng nước mắt sầ cứ tròn mau. Đứa bé nào cũng khóc khi phải xa rời nơi mà cả cuộc đời thơ ấu đã trôi qua vui vẻ!
Nam Cung Bột xiết chặt từng người trong đám nam nhân lần cuối rồi khàn giọng thúc giục vợ con lên xe ngựa. Gã đã mua một cỗ xe độc mã để chỡ thê tử và hành lý.
Cỗ xe lăn bánh đi về hướng Bắc, khuất dần sau những cụm dương xanh thẫm.
Người trong thôn giải tán, ai về nhà nấy, và không biết rằng Nam Cung Bột đã cho xe rẽ vào cánh rừng già dưới chân núi Lam Sơn, cách nhà cũ chừng sáu dặm.
Trời vừa tối hẳn, Nam Cung Bột và Trinh Tâm, toàn thân hắc y, mặt bịt kín, âm thầm quay lại nhà mình.
Họ vào bếp mang những túi dầu cá lanh ra chất đầy thuyền, rồi chèo về hướng đoàn chuyên chở lương.
Ngoài lúa và ngũ cốc, ba mươi chiếc thuyền lớn này còn chở theo cả quân nhu, như y phục, lu bạt, chăn mền, cung tên, yên cương!
Mỗi loại đều có tầm quan trọng như nhau nên được phân tán đều khắp lượt, để phòng có đắm vài chiếc cũng không ảnh hưởng đến đại cục.
Thực ra, chỉ có hai mươi chín chiếc thuyền cò hàng, chiếc soái thuyền của tham tướng Trương Năng dành cho các võ quan.
Trời bão nên gió rất lớn, Trương Năng phải thả neo, và buộc dính các thuyền lại với nhau, để tạo thế liên hoàn vững chắc. Như thế, quân sĩ có thể chuyển vật liệu sta chùa từ thuyền này sang thuyền khác một cách dễ dàng.
Những cột buồm gẩy đã được thay thế bằng loại gỗ tốt trong rừng Lam Sơn. Họ Trương định sáng mốt sẽ khởi hành nên tối nay mở tiệc mừng.
Hải Nam cách xa An Nam hàng ngàn dặm, chẳng có kẻ địch nào đe dọa nên Trương Năng cho lính thả giàn.
Cuối canh ba thì chẳng còn mấy tên tỉnh táo! Chúng được quyền ngủ đến tận chiều mai cho lại sức để sáng mười một ra khơi, vì bão đã tan.
Cuối canh ba phu thê Trinh Tâm đã lần lượt tưới dầu hết hai mươi chín chiếc thuyền hàng.
Soái thuyền nằm giữa, hai vợ chồng chia nhau mỗi người một đầu tiến vào, và gặp nhau ở đấy.
Soái thuyền của Trương Năng là một du thuyền có hai tầng, được canh giữ nghiêm mật, đèn đuốc sáng trưng.
Bên trong, bọn võ tướng vẫn còn ăn uống và thưởng thức lời ca, điệu múa của đám ca nhi được mời về từ trấn Hải Hoa gần đấy.
Phu thê Trinh Tâm ẩn ở thuyền bên cạnh nhìn sang.
Nam Cung Bột tư lự nói :
- Này nương tử! Cạnh Trương Năng còn có rất nhiều quan quân, chúng ta mà đánh vào, chưa chắc đã giết được họ Trương, có khi còn bỏ mạng. Mong nàng xem tưởng việc đốt lương hận thù riêng và nghĩ đến con thơ mà tạm gát việc giết Trương Năng.
Trinh Tâm mỉm cười :
- Tướng công quả là cao kiến, thiếp xin tuân mệnh!
Tình mẫu tử bao la đã thắng được lửa hận thù, Trinh Tâm quay lại nửa đoàn thuyền của mình, bật hỏa tập châm lửa đốt chiếc thuyền hàng bên cạnh soái thuyền.
Nam Cung Bột cũng khai hỏa chiếc thứ hai.
Như vậy, soái thuyền bị kẹp vào giữa, chắc chắn sẽ bị cháy lây.
Từ chiếc thứ ba trở đi, công việc càng khó khăn, vì bọn thủy quân ở hai thuyền trước đã báo động vang trời.
Trinh Tâm và Nam Cung Bột phải ra sức chém giết mới tiến sang được thuyền khác mà châm lửa.
Dù Minh Thành Tổ Chu Lệ đã băng hà nhưng Nam Cung Bột không biết điều ấy, nên dồn hết giận hờn vào thanh đao, bổ những nhát như trời giáng, quét bay bọn thủy quân đang choáng váng cơn say rượu, nên đám binh lính lấy hết sức lực và dũng khí la hét cho oai chớ không dám trực diện đương đầu với gã hắc y to lớn như hộ pháp kia. Nhờ vậy, Nam Cung Bột đỡ phải áy náy vì phải giết đồng bào của mình.
Bên này, Đặng Trinh Tâm không nhân từ như trượng phu, xuất thủ rất tàn nhẫn. Tuy sức lực không bằng Nam Cung Bột song đường kiếm của nàng nhanh nhẹn và hiểm ác tuyệt luân. Mối hận vong quốc đã biến nàng thành mãnh hổ, chém giết chẳng nương tay. Luồng kiếm quang lấp loáng dưới ánh lửa hồng trông tựa như màu máu.
Bọn thủy quân nhà Minh thấy đối phương đi đến đâu thì máu chảy đầu rơi, nên sợ hãi nhảy cả xuống biển cầu sinh.
Trương Năng và đám võ quan đã rời ngay soái thuyền, bỏ của chạy lấy người, vì biết các thuyền hàng đều chứa thuốc súng! Quân Minh đã đem cả đại pháo sang An Nam để trấn áp nghĩa binh Lê Lợi.
Quả nhiên, hai chiếc thuyền cạnh soái thuyền phát nổ trước. Ngàn cân hỏa dược phá nát thuyền, biến thành ngọn lửa khổng lồ, chụp xuống thuyền kế bên.
Thời Tam Quốc, trong trận Xích Bích, Tào Tháo từng bị dụ mà nối các chiếc thuyền lại với nhau, để rồi bại trận. Giờ đây, Trương Năng cũng tự se dây trói mình bằng kiểu ấy.
Lần lượt, từng chiếc thuyền phát nổ long trời lỡ đất, đánh thức bách tính Dương Sa cũng như những thôn gần đấy.
Dù còn đến gần hai chục thuyền lương chưa được châm lửa, nhưng phu thê Nam Cung Bột cũng nhảy xuống biển đào tẩu, vì biết rằng trước sau gì chúng cũng tan tành.
Hai người bơi một mạch về hướng Bắc, đến đoạn bờ biển đã hẹn trước rồi cùng nhau phi thân về hướng rừng Lam Sơn.
Trinh Tâm hân hoan bởi góp được công lao với quê nhà, nhưng biết lòng trượng phu đang nặng trỉu vì áy náy, nên nàng chẳng dám nói cười.
Về đến chỗ đậu xe, không thấy Giao nhi đâu, hai vợ chồng kinh hãi gọi vang.
Trinh Tâm giận dữ nói :
- Chắc là nó đã ra bờ biển xem cảnh thuyền cháy! Chúng ta phải quay lại đấy tìm mới được!
Họ vội vã lướt đi, lòng đầy lo lắng.
Bờ biển sáng rực và vẫn còn vang dậy tiếng nổ khủng khiếp của
những chiếc thuyền cuối cùng.
Hai vợ chồng vừa chạy vừa trừng mắt quan sát, cố tìm cho ra vóc dáng nhỏ bé của đứa con yêu.
Khi còn cách đám cháy hơn dặm, Trinh Tâm mừng rỡ rú lên khi thấy Giao nhi đang cầm tiểu đao chạy ngược về phía mình. Nàng lao đến ôm con thơ, nhận ra nó ướt như chuột lột.
Trinh Tâm nổi cơn lôi đình :
- Giao nhi! Vì sao con lại dám cãi lời song thân lần đến chỗ hiểm nguy!
Nam Cung Bột cũng càu nhàu :
- Ngươi quả là khó dạy! Ta phải đánh đòn mới được!
Giao nhi thản nhiên nhe răng cười :
- Hài nhi nghe song thân bàn bạc kế hoạch, đoán rằng Trương Năng sẽ phải nhảy ra khỏi thuyền để bơi vào bờ. Vì vậy, hài nhi đã phục sẵn dưới nước, ìn đâm cho lão ta một nhát chết toi! Trương Năng là người duy nhất biết việc mẫu thân nhảy xuống vùng biển Dương Sa mười ba năm tnrớc. Nếu để lão sống sót thì lai lịch của mẫu thân sẽ bại lộ, di hại đến cả giòng họ Nam Cung! Lệnh truy nã chúng ta sẽ được thông báo khắp cả nước, dẫu đi đến đâu cũng khó sống.
Trinh Tâm bàng hoàng trước lập luân của con thơ, biết rằng mình đã phạm một sai lầm rất lớn, may mà Giao nhi đã kịp sửa chữa.
Nàng sung sướng ôm chặt ái tử và khen ngợi :
- Ôi Giao nhi! Con còn nhỏ mà đã suy nghĩ chu toàn đến thế sao?
Nam Cung Bột cũng hổ thẹn vì chính gã đã khuyên Trinh Tâm đừng giết Trương Năng. Gã chữa thẹn bằng cách nghiêm giọng trách móc :
- Nương tử ôm thù hận mà dạy con nên Giao nhi mới từng tuổi này đã dám giết người. Ta thật chẳng hài lòng chút nào cả!
Trinh Tâm cũng thấy đau lòng khi nghĩ đến cảnh con thơ tay nhúng máu. Nàng thở dài não nuột :
- Thiếp biết lỗi mình! Nguyện sẽ dạy dỗ Giao nhi cẩn thận hơn!
Nàng buồn rầu bảo con :
- Giao nhi! Đạo làm người phải xem chữ nhân làm trọng, nếu con hiếu sát như vậy thì có khác gì bọn quân Minh man rợ, đã từng giết hại người An Nam đâu?
Giao nhi gật đầu hối lỗi rồi lại cười ngay :
- Lúc đầu hài nhi cũng run tay không dám đâm lão họ Trương. Nhưng nghĩ đến cảnh lão ức hiếp mẫu thân là lửa giận lại sôi lên. Trừ cha ra, hài nhi chẳng muốn ai phạm đến cơ thể ngọc ngà của mẫu thân cả!
Nam Cung Bột phì cười còn Trinh Tâm thẹn chín người, phát mạnh vào lưng con trai :
- Tiểu quỷ quá lắm! Ngày ấy ta kịp nhảy xuống biển, có bị chúng đụng chạm gì đâu?
Giao nhi cười hì hì :
- Ai mà biết được? Có thể mẫu thân mắc cỡ nên nói thế đấy thôi!
Biết sắp ăn đòn, Giao nhi chạy ù đi ngay!
Nam Cung Bột đắc ý nói :
- Ai bảo rằng nó không giống ta? Tiểu quỷ này quả chẳng biết sợ là gì! Dẫu hoàn cảnh nào cũng đùa giỡn được! Ngày xưa ta cũng có tật sờ * mẹ cho đến năm mười tuổi mới thôi!
Trinh Tâm thẹn quá hóa giận, đấm vào ngực trượng phu.
Nam Cung Bột chụp lấy tay nàng kéo đi, chạy theo con trai!



Hai tháng sau, gia đình Nam Cung Bột đến Cảnh Đức trấn, thuộc đất Giang Tây! Vì phòng xa, họ đã không định cư ở đất Cán Châu như dự kiến ban đầu.
Chắc chắn Tri huyện Hải Nam sẽ cho điều tra vụ đốt thuyền lương và có thể nghi ngờ nhà Nam Cung. Nhưng may thay, sự việc lại diễn biến theo một chiều hướng khác. Gã phó tướng Trương Năng vì sợ rơi đầu nên đã đưa đám tàn quân lên chiếc thuyền duy nhất còn sót lại, trốn sang quần đảo Phù Tang. Không có nguyên cáo cũng như nhân chứng, Tri huyện Hải Nam đành phải làm tờ trình gởi về cho Tri phủ Quảng Đông.
Nội dung là: Đoàn lương thuyền vô cớ phát nổ, không một ai sống sót?

Cảnh Đức trấn là địa phương sầm uất, trù phú nhất Giang Tây thời ấy. Nơi đây có đến mấy trăm lò gốm, sản phẩm nổi tiếng khắp Trung Hoa và hải ngoại. Ngày ngày, thương lái các nơi và bọn Tây Dương đến mua hàng, khung cảnh cực kỳ náo nhiệt.
Nhưng sanh nghề tử nghiệp, đa số dân trong trấn và quanh vùng đều mắc những chứng bệnh về đường hô hấp.
Khói từ lò gốm đã làm ô nhiễm bầu không khí, và ảnh hưởng đến sức khỏe của bách tính!
Vậy là y thuật của Trinh Tâm có đất dụng võ. Chỉ sau vài tháng nàng đã nổi danh thần y, có rất nhiều thân chủ!
Nam Cung Bột bỏ nghề đánh cá, phụ giúp ái thê việc thuốc men vì Giang Tây không có biển.
Năm Chính Thống thứ nhất đời Minh Anh Tông, Nam Cung Giao tròn hai mươi hai tuổi, đã có thêm hai em gái. Tuy An Nam đã giành được độc lập nhưng Trinh Tâm vẫn chưa quên mối thù giết anh, liền cho trưởng tử lên đường.
Nam Cung Bột đã sáu mươi mốt tuổi. Người già thường an phận nên lão không tán thành việc báo thù, nhưng biết tính tính kiên quyết của vợ, đành phải ngậm miệng.
Hiểu ý cha Nam Cung Giao cười bảo :
- Nam nhi chí tại bốn phương! Nay hài nhi giỏi võ hơn văn, chẳng lẽ lại sớm lấy vợ sanh con, sống đời tẻ nhạt ở chốn đầy khói bụi này? Năm xưa, phụ thân đã chẳng từng bỏ nhà vác đao đi lang bạt đấy sao?
Chàng ranh mãnh đảo mắt nói :
- Hài nhi sẽ mang về năm sáu cô vợ đẹp để khỏi bị ăn hiếp như phụ thân! Người này không cho ngủ thì ta chui vào giường khác!
Nam Cung Bột phá lên cười khanh khách, còn Trinh Tâm thì đỏ mặt. Ở tuổi bốn mươi tám, bà vẫn còn rất thon thả và quyến rũ khiến trượng phu mê như điếu đổ. Chính nhờ sự nghiêm khắc của bà mà Nam Cung Bột sống điều độ, giữ được vẻ cường tráng, dù đã bước qua tuổi lục tuần.
Trinh Tâm nén thẹn thùng, nghiêm giọng dạy con :
- Tửu sắc là hai việc mà bậc chính nhân luôn cẩn trọng! Nam nhi mà đa mang tình ái thì chẳng dựng nên nghiệp lớn!
Nam Cung Giao vòng tay chính sắc đáp :
- Hài nhi luôn ghi nhớ những lờl vàng ngọc của mẫu thân. Sau này xuất đạo, mỗi ngày chỉ uống ba chung, còn lấy vợ thì chỉ ba người mà thôi!
Biết chàng nói bỡn, Nam Cung Bột cười hô hố để chọc ghẹo bà vợ xinh đẹp và dữ như cọp của mình. Nào ngờ Trinh Tâm lại gật đầu :
- Giao nhi có tướng đào hoa lắm thê nhiều thiếp, ắt sẽ khổ vì tình. Nay con đã hứa thì phải giữ lời, nếu lấy đến người thứ tư thì ta không thừa nhận đâu đấy!
Nam Cung Giao ngỡ ngàng, còn Nam Cung Bột thì lẩm bẩm :
- Mẹ kiếp! Không ngờ thằng bé này lại tốt số hơn mình!



Gần tháng sau, trong thành Nam Kinh, cạnh sông Trường Giang xuất hiện một chàng trai mặc trường bào xanh nước biển thắt lưng và dây buột tóc màu vàng nhạt. Trên gương mặt trắng trẻo kia ló đôi lông mày chữ nhất đen như hai vệt mực, đôi mắt trong sáng, tinh anh. Sống mũi thẳng với chuẩn đầu tròn đầy, và đôi môi không mỏng không dầy.
Bảo rằng anh tuấn phi phàm thì e quá lời, nhưng khi chàng ta cười, lúm đồng tiền ở má trái sao duyên dáng lạ lùng! Nhìn lâu chúng ta sẽ phát hiện ánh mắt kia có chút gì ranh mãnh, pha chút diễu cợt.
Nam Cung Giao kế thừa được hết những ưu điểm của song thân : tính lạc quan, vui vẻ của cha và sự thông minh, kiên quyết của mẹ.
Lần đầu tiên đến chốn phồn hoa đô hội, chàng trai xứ biển ngây ngất ngắm nhìn cảnh vật, môi điểm nụ cười thán phục.
Nam Kinh ngày xưa chính là Kim Lăng, nơi Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương chọn làm Đế Đô, và đặt cho cái tên rất kêu là Ứng Thiên Phủ.
Nhưng sau khi con trai thứ của Thái Tổ, Yên Vương Chu Lệ, cướp ngôi cháu là Huệ Đế Chu Doãn Văn, đã cho dời đô về Bắc Kinh. Minh Thành Tổ Chu Lệ là một vị vua có tài trị nước.
Việc thiên sư lên phía Bắc có một ý nghĩa chiến lược rất quan trọng. Vì mối hiểm họa hình của Trung Hoa là bọn rợ phương Bắc như Mông Cổ, Mãn Châu, chứ chẳng phải những nước nhỏ ở phía Nam như Giao Chỉ, Miến Điện, Tây Tạng.
Nam Kinh giờ đây chi còn là cố đô, song tập trung không ít những vị đại thần đặc phái của triều đình, chịu trách nhiệm từ sông Trường Giang trở về Nam. Những tù binh An Nam, Chiêm Thành, cùng tất cả sách vở tịch thu, đều ở cả Nam Kinh!
Nam Cung Giao đến đây không phải vì các tù nhân hay cổ thư mà vì một người có trên là Quách Tường An, hiện giữ chức Nam Kinh Binh bộ Thượng thư. Nghĩa là họ Quách nắm binh quyền ở các phủ phía Nam. Do việc Bắc Kinh ở tận cực Bắc xa xôi, cách Vạn Lý Trường Thành chỉ vài trăm dặm nên Nam Kinh hầu như có cả một triều đình nhỏ, các bộ đều cử đại diện đến đây.
Hơn hai mươi năm trước, Quách Tường An là một võ tướng dưới quyền Tân Thành Hầu Trương Phụ, sang chinh phạt An Nam. Lão giết người như ngoé, kể cả lương dân vô tội và đàn bà con trẻ! Lão cũng là một trong những kẻ đã hành hạ tù binh và định cưỡng bức Trinh Tâm.
Vì chuyện xảy ra đây hai mươi mấy năm nhưng thù nhà nợ nước đã luôn ám ảnh người nữ kiệt họ Đặng.
Bà đã nung nấu lửa căm hờn trong lòng con trai bằng những câu chuyện thương tâm do bọn quân binh tàn ác gây ra. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến tính cách của Nam Cung Giao.
May mà cha chàng tánh tình phóng khoáng, rộng rãi, nên đã giảm nhẹ ấn tượng sắc máu trong tâm hồn thơ dại.
Song dẫu sao, Nam Cung Giao cũng quyết lấy đầu Trương Phụ và đám quan võ ác ôn kia.
Chàng tìm chỗ trọ, gởi ngựa và hành lý, đi dạo khắp nơi, chủ yếu là quan sát dinh thự của Nam Kinh Binh bộ Thượng thư họ Quách.
Cơ ngơi của Quách Tường An nằm gần cổ cung, nơi ngày xưa Chu Nguyên Chương trị vì.
Giờ thì Hoàng cung đã trở thành Hoàng cung để vua mới nghỉ ngơi, mỗi khi có dịp Nam du.
Khu vực này còn có khá nhiều dinh thự của các quan to khác, được bảo vệ nghiêm mật. Đường không cấm đi song lúc nào cũng có những đoàn quân sĩ tuần tra qua lại!
Con đường quan cách này được đặt tên là đường Hoàng cung. mặt lộ rộng bốn mươi bước chân lát đá bằng phẳng, hai bên đường trồng toàn những cây hoàng xương xanh thẵm!
Các kiến trúc trên đường rất đẹp và đầy nét cổ kính nên được du khách bốn phương chiếu cố, người qua kẻ lại tấp nập.
Đi nhiều ắt phải mỏi chân, khát nước. Do vậy có nhiều vị quan muốn chứng tỏ mình liêm khiết, giàu có nhờ tài kinh doanh của vợ, liền mở trà lâu, tửu quán ngay mặt tiền.
Đấy là những người ít quyền lực làm ở những ngành không quan trọng, chứ Binh bộ Thượng thư thì chẳng thể muối mặt được. Nhưng xeo xéo trước mặt dinh thự họ Quách có một tòa Phú Qúi đại tửu lâu.
Chủ nhân tửu lâu này là phu nhân của quan Thị lang Bộ Hộ họ Tả.
Từ trên tầng hai, Nam Cung Giao có thể quan sát bao quát cơ ngơi của Quách Tường An.
Đã trót mang tên là Phú Qúi nên nơi đây chỉ tiếp toàn những người sang cả đất Nam Kinh.
Rượu và thức ăn đều đắt gấp ba lần quán khác, khiến kẻ trung lưu cũng chẳng dám vào!
Nhưng sanh ý của Tả phu nhân rất thịnh vượng vì quán của bà là chỗ giao dịch làm ăn. Ai có việc muốn nhờ vả lo lót tất sẽ mời các quan đến đây thương lượng. Cũng là chỗ đồng liêu, bá quan Nam Kinh không sợ Tả phu nhân tiết lộ bí mật của mình! Họ lại chẳng phải là người trả tiền ăn nhậu, nên cứ khăng khăng đòi đến Phú Qúi đại tửu lâu cho an toàn!
Nam Cung Giao xuất thân nghèo khó, lại căn cơ hà tiện chẳng khác mẫu thân. Chàng bấm bụng mua bộ y phục bằng gấm thượng hạng để được vào chốn sang trọng này. Chàng mỉm cười xót xa khi gọi rượu thịt, biết rằng hầu bao sắp thủng!
Trên đầu Nam Cung Giao còn một tầng nữa, dành riêng cho các quan thù tiếp bọn trọc phú, thương nhân.
Tửu khách chân chính chỉ được ngồi ở tầng trệt và lầu một. Song từ đấy, khách vẫn có thể nhìn thấy núi Tây Hà ở ngoại thành.
Tây Hà là một thắng cảnh đất Kim Lăng, cứ mỗi độ thu về, sau tiết sương giáng, lá cây phong, cây hoàng lư, cây thị trên núi trở nên đỏ rực, cảnh tượng muôn phần xinh đẹp, hấp dẫn bách tính và du khách. Người xưa có câu: “Lá Sương Giáng đỏ hơn hoa tháng hai”, là để chỉ trường hợp này!
Do vị trí thuận tiện nên tầng hai rất đông khách, đa số là con cháu các quan và thế gia công tử đất Nam Kinh.
Không muốn nhiều người nhận ra sự hiện diện của mình ở chốn này, Nam Cung Giao tính tiền rồi rời Phú Qúi đại tửu lâu. Với đôi mắt tin tưởng và trí nhớ tuyệt luân, chàng đã nhớ rõ cách bố trí nhà cửa thông tư dinh Quách thượng thư.
Tuy không thể sánh với cha nhưng sức ăn của Nam Cung Giao cũng gấp ba người thường. Đĩa thức ăn lúc nãy chẳng thấm tháp gì, nên chàng tìm đến một phạn điếm hạng trung để ăn cho no.
Đầu canh ba đêm ấy, Nam Cung Giao thay áo dạ hành, mặt bịt kín tìm đến sào huyệt của kẻ thù!
Sau gần hai mươi hai năm trị vì, Minh Thành Tổ đã khiến nước Trung Hoa trở nên hùng mạnh, phú cường.
Triều cương vững vàng, đất nước thanh bình, chỉ ở những địa phương xa xôi mới có giặc cướp, còn chốn phồn hoa thì cùng lắm là vài tên trộm vặt.
Nam Kinh là trọng địa thứ hai, tập trung quan quân phương Nam nên lại càng an toàn, nhiều năm liền chưa hề xảy ra trọng án. Song cũng vì vậy mà bọn quân sĩ phòng vệ mất cảnh giác, tuần tra, canh gác lấy lệ, lòng chắc mẩm rằng sẽ chẳng có gì xảy ra!
Trinh Tâm là người nghiêm khắc, tuy thương con nhưng không hề nương tay khi dạy dỗ, nhờ thế Nam Cung Giao rất chuyên cần rèn luyện võ nghệ!
Là nam nhân, lại có thần lực hơn người, hiện nay, bản lãnh chàng đã cao hơn thân mẫu. Nếu không được thế thì Trinh Tâm đã chẳng yên lòng cho con đi báo huyết thù!
Trinh Tâm có tài học đạo và ký ức rất tốt, đã vẽ lại chân dung Trương Phụ và chín gã võ quan ác độc. Nam Cung Giao nhớ nằm lòng, nhưng chẳng biết họ ở đâu mà tìm!
Chàng đến Nam Kinh vì nghe bọn lái buôn đồ gốm kể về lão tham quan Quách Tường An. Đêm nay, chàng sẽ phải bắt sống gã để tra lối, hạ lạc tám người còn lại sau đó mới giết!
Giòng máu anh hùng của họ Đặng lưu chuyển trong huyết quản Nam Cung Giao không hề biết sợ.
Nhưng vấn đề là chàng có bắt được Quách Tường An trước khi bị bọn vệ quân phát hiện hay không?
Trong cơ ngơi đồ sộ có cả trăm phòng và tiểu xá này, làm sao chàng tìm được chỗ ngủ của Quách thượng thư? Vị quan nào cũng có cả chục tỳ thiếp, mỗi đêm ân ái với một nàng!
Nam Cung Giao quyết định bắt một người để dò hỏi. Chàng đột nhập vào từ phía sau, vượt qua bức tường cao gần trượng, nhảy xuống vườn hoa.
Khu vực này được canh gác bởi một toán vệ binh. Chúng lười biếng đi tuần, quây quần cạnh ba chiếc đèn lồng mà tán gẫu và chuyền tay nhau bầu rượu.
Nam Cung Giao nương theo bóng đêm và cây cối trong vườn, tiến về phía dãy nhà ngang và vài căn tiểu xá, có lẽ dành cho bọn gia nhân cư ngụ.
Lần đầu đóng vai thích khách, lòng chàng không khỏi có chút hoang mang và hồi hộp. Chẳng chút kinh nghiệm, chàng chỉ dựa vào óc phán đoán và sự cẩn trọng mà thôi.
Khi đi ngang căn nhà bếp lớn, Nam Cung Giao giật mình vì nghe có tiếng người đang ngâm thợ Giọng lão già này khàn khàn, đầy vẻ thê lương, chẳng hay ho chút nào cả! Song điều đáng chú ý là việc lão ngâm bằng tiếng An Nam!
Trong hai lần chinh phạt, Trương Phụ đã bắt giải về Trung Hoa mấy ngàn tù nhân gồm tù binh và dân thường. Tù binh bị giam cầm cho đến chết, hoặc bị đày đi làm lính, còn thường dân thì trở thành nô lệ, nô tỳ cho bọn quan lại Trung Hoa.
Sau hơn hai chục năm, số tù nhân An Nam này đã sinh sôi thành hàng vạn người, tập trung ở các phủ phía Nam, và nhiều nhất là đất Kim Lăng này!
Quách Tường An từng đích thân áp giải tù nhân về nước, dĩ nhiên đã tuyễn lựa cho mình khá nhiều chiến lợi phẩm! Lão già trong bếp kia là một trong số ấy!
Nam Cung Giao xúc động, lướt đến nép sát cạnh cửa sổ nhìn vào trong.
Bên bếp lửa bập bùng kia có một lão già tuổi lục tuần, áo gia nhân bạc màu, râu tóc hoa râm, đang ngồi nhâm nhi bầu rượu nhỏ trên chiếc chiếu rách.
Gương mặt nhìn nghiêng của lão trông đoan chính, quắc thước, vầng trán cao biểu hiện sự thông thái của người có học.
Lão nhân uống cạn một chung, hắng giọng ngâm tiếp một bài khác :
Thế sự du du nại lão hà!
Vô cùng thiên địa nhập làm ca.
Thời lái đồ điếu thành công dị.
Sự khú anh hùng ẩm hận đa.
Chủ hữu hoài phù địa thục,
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.
Quốc thủ vị báo đầu tiên bạch ky?
Độ long tuyền dải nguyệt ma!
Dịch :
Việc đời bối rối tuổi già vay
Trời đất vô cùng một cuộn say
Bần tiện gặp thời lên cũng dễ
Anh hùng lỡ bước cũng khoanh tay
Vai khiêng trái đất mong phò chúa
Giáp gột sông trời khó vạch mây
Kiếm báu mài trăng mấy độ đây.
Bài thơ Thuật Hoài này chính là kiệt tác của đại tướng An Nam Đặng Dung, cậu ruột của Nam Cung Giao! Chỉ những người thân và lực lượng nghĩa quân Hậu Trần mới biết được. Như vậy lão già này có thể từng là thủ hạ của họ Đặng?
Nam Cung Giao phấn khởi, ra cửa lớn lao vút vào như bóng oan hồn.
Chàng cẩn trọng chĩa mũi kiếm vào ngực lão nhân rồi trầm giọng hỏi :
- Đêm nay lão Quách Tường An nằm ở đâu?
Do bản năng sinh tồn, lúc đầu lão nhân giật mình và sợ hãi. Song dường như lão chẳng hề lưu luyến kiếp đời nô lệ cho kẻ thù nên đã trấn tỉnh lại ngay. Lão bình thân hỏi :
- Vì sao các hạ lại muốn giết Quách thượng thư?
Nam Cung Giao lạnh lùng đáp :
- Báo gia thù! Lão là tù nhân của họ Quách, tội gì phải bao che cho lão ta?
Lão nhân gật gù, cười kinh ngạc :
- Lão phu quả chẳng yêu thương gì Quách Tường An, chỉ vì tò mò muốn biết nguyên nhân đấy thôi? Dẫu sao, hai mươi năm qua, lão phu cũng mang nợ áo cơm của họ Quách, chẳng thể vì sợ chết mà bán đứng y được. Các hạ nên nói rõ nguồn cơn để xem Quách Tường An có đánh chết hay không đã?
Nam Cung Giao phẫn nộ :
- Lão trượng là người An Nam, lẽ ra phải vui mừng khi thấy kẻ thù ác độc kia đền tội, sao lại có thái độ kỳ quặc như vậy?
Lão nhân tủm tỉm đáp :
- Người Giao Chỉ ân oán phân minh, thà tự tay phục thù chứ không nhờ vả kẻ khác!
Nam Cung Giao ngao ngán trước lão già gàn dở, hạ gịo.ng nói bằng tiếng mẹ đẻ :
- Tại hạ là người Giao Chỉ đây!
Trinh Tâm âm thầm dạy con ngôn ngữ quê hương, song Nam Cung Giao ít khi sử dụng nên khẩu âm không chuẩn.
Lão nhân rùng mình vì kinh ngạc và sung sướng nhưng vẫn nghi :
- Tiếng Giao Chỉ rất dễ học, mong các hạ nói rõ lai lịch?
Nam Cung Giao tuyệt đối không thể tiết lộ thân phận, di hại đến song thân nên chỉ còn cách tháo giầy, để lộ bàn chân có ngón cái hơi chĩa ngang.
Lão nhân xúc động đến ứa nước mắt, đưa tay gạt phắt lưỡi kiếm của chàng, chồm đến vuốt ve bàn chân kỳ lạ.
Đặc tính này đã mất dần đi sau gần ngàn năm bị người Hán đô hộ và đồng hóa, không phải người An Nam nào cũng có dị tướng này, nhưng ai có được thì chắc chắn là nòi Giao Chỉ!
Lão nhân nghẹn ngào nói :
- Các hạ cứ an tâm ngồi xuống đây, giờ này chẳng có ai đi ngang bếp đâu!
Nam Cung Giao kiên quyết đáp :
- Không được! Việc hàn huyên xin hẹn dịp khác, mong lão bá chỉ giáo cho đường đi nước bước để tại hạ hoàn thành sứ mạng!
“Đại hạn phùng Cam Vũ, tha phương ngộ cố tri”
Lão nhân đâu dễ gì để niềm vui của mình tan biến quá sớm.
Lão khẩn cầu :
- Đêm còn dài, mong thiếu hiệp nán lại thêm nửa khắc! Lão phu là Nguyễn Tuấn, quê ở đất Diễn Châu, dám hỏi xuất xứ của thiếu hiệp?
Nam Cung Giao hỏi lại :
- Chẳng hay vì sao Nguyễn lão bá lại ở chốn này?
Nguyễn Tuấn biết chàng chưa tin tưởng mình, liền nói rõ :
- Năm xưa, lão phu chịu trách nhiệm việc quân lương dưới trướng tướng quân Đặng Dung, cùng bị bắt giải về Trung Hoa. Lúc đi ngang đảo Hải Nam. Vua Trùng Quang nhảy xuống biển tự trầm, Đặng tướng quân cùng các tướng khác cũng cắn lưỡi chết theo. Lão phu là nho sĩ không có được dũng khí ấy, đành kéo dài kiếp sống thừa cho đến hôm nay!
Nam Cung Giao hờ hững nói :
- Trên thuyền tù chẳng lẽ không có nữ nhân nào?
Nguyễn Tuấn lắc đầu :
- Sao không có! Trương Phụ và bọn quan quân nhà Minh đã bắt được hơn hai trăm nữ binh và các nữ tướng: Đặng Trinh Tâm. Họ bị cưỡng hiếp, dày vò rất dã man, riêng Đặng tiểu thư giỏi võ nên kịp gieo mình xuống biển tự sát chứ không chịu ô nhục!
Nam Cung Giao dịu giọng :
- Bà ấy vẫn còn sống!
Sau hơn khắc mừng mừng tủi tủi, Nguyễn Tuấn hăm hở dẫn đường cho Nam Cung Giao đến tiểu viện của ả tỳ thiếp thứ chín, nơi Quách thượng thư thường xuyên qua đêm.
Chờ Nguyễn Tuấn đi khá xa, Nam Cung Giao bắt đầu hành động.
Nguyễn lão là đầu bếp chính của Quách thượng thư, thường xuyên phục vụ khách khứa nên nghe ngóng được rất nhiều. Ông đã kể cho Nam Cung Giao biết hạ lạc của Trương Phụ và bảy tên võ quan còn lại, nên chàng không cần phải tra hỏi Quách Tường An nữa.
Thu năm nay, vùng hạ du Trường Giang ít mưa nên trời oi bức, các cánh cửa sổ thông ra vườn hoa đều mở rộng.
Nam Cung Giao nghe tiếng động, ghé mắt nhìn qua song.
Trên chiếc giường gỗ quí cuối phòng là một lão già trần truồng đang ngủ say như chết, tiếng ngáy đều đều vang lên!
Quách thượng thư đã sáu mươi lăm nên kiệt lực sau trận thư hùng với nàng tiểu thiếp trẻ trung.
Có thể vì chưa thỏa mãn, hoặc vì khó chịu bởi tiếng ngáy của lão chồng già nên mỹ nhân chưa ngủ. Cửu nương chỉ mặc phong phanh tấm áo ngủ bằng the mỏng, yếm đào chẳng có dây lưng lười buộc nên thân thể nõn nà lồ lộ cả ra dưới ánh nến.
Nàng đang đứng cạnh bàn, say mê ngắm nghía những viên ngọc quí lấy từ rương gỗ nhỏ ra.
Cửu nương là danh kỹ số một của thành Nam Kinh, nhan sắc và tài cầm kỳ thi họa nổi tiếng khắp phương Nam. Quách Tường An đã chuộc nàng ra với giá vạn lượng bạc, biến mỹ nhân hai mươi ba tuổi này thành của riêng.
Họ Quách mê nàng như điếu đổ, tặng rất nhiều vàng ngọc. Bao nhiêu của đút lót, hối lộ đều chạy cả vào tay Cửu nương.
Mỹ nhân có nhũ danh là Hàn Ly Hoa, mặt đẹp như ngọc nhưng lòng tham cũng chẳng nhỏ!
Nam Cung Giao ngượng ngùng dán mắt vào thân hình thon dài, nẩy nỡ của người đàn bà lẳng lơ kia, nghe lòng nổi sóng. Chàng là trai mới lớn, dục hỏa rất vượng nên khó thoát khỏi sự hấp dẫn của vẻ đẹp lõa lồ, khêu gợi trước mắt.
Song Nguyễn Tuấn vừa mới kể cho không nghe về tính tình độc ác, tàn nhẫn của Ly Hoa. Nàng ta rất hà khắc với bọn tỳ nữ, gia nhân, nhất là những người gốc An Nam. Chỉ một chút sơ suất nhỏ, họ cũng phải chịu những trận đòn rách thịt, và phải nghe những lời chửi rủa nặng nề! Câu An Nam cẩu chủng là thành ngữ luôn gắn trên môi Hàn Ly Hoa.
Nam Cung Giao có nửa giòng máu Giao Chỉ, lại hết dạ tôn kính mẫu thân nên rất phẫn nộ. Lửa giận đã giúp chàng bình tâm lại, và thầm hổ thẹn vì sự hiếu sắc của mình.
Nam Cung Giao đi vòng ra phía sau, may mắn tìm được một ô cửa sổ tròn không chấn song đang mở toang để đón chút gió Tây hiếm hoi.
Cửa sổ này thuộc về phòng hai ả tỳ nữ thân tín của Ly Hoa.
Nam Cùng Giao trèo vào, điểm huyệt mê họ rồi mở cửa phòng đi lên phía trước.
Chàng âm thầm lao đến khống chế Cửu nương, biến nàng ta thành pho tượng gỗ câm lặng, chỉ còn đôi mắt đầy khiếp sợ kia là chuyển động.
Trinh Tâm tinh thông y lý nên Nam Cung Giao rành rẽ kinh mạch, nhận huyệt rất chính xác. Chàng xuất thủ từ phía sau nên Quách cửu nương không hề nhìn thấy vóc dáng.
Nam Cung Giao êm ái bước đến giường bát bửu một tay bịt chặt miệng, tay kia cắm thẳng tiểu đao vào tim kẻ thù!
Quách Tường An giẫy giụa một lúc rồi tuyệt khí, lìa đời trong trạng thái trần như nhộng, y hệt lúc chào đời!
Nghĩ đến việc lão ta từng cưỡng bức đám nữ binh của mẫu thân, và còn định tiết mạn cả bà, Nam Cung Giao liếc nhìn khúc thịt ỉu xìu, thảm hại kia, mỉm cười tinh quái vung đao hớt đứt.
Khi suy nghĩ cách trừng trị tính ác độc của Hàn Ly Hoa, máu khôi hài của họ Nam Cung đã nổi lên.
Nam Cung Giao điểm thêm Thùy huyệt Cửu nương, vác nàng ta đặt lên giường nằm ngược chiều với Quách Tường An.
Chàng nhét đoạn của quý vào chiếc miệng anh đào và đặt tay trái Ly Hoa vào cán tiểu đao.
Với hiện trường này, Cửu nương sẽ bị bọn bộ đầu Nam Kinh hành hạ đến sói tóc!
Nguyễn lão đã cho Nam Cung Giao biết rằng có một số người Giao Chỉ muốn trốn về quê hương nhưng không có lộ phí. Do vậy chàng tìm một mảnh vải, bỏ rương châu báu và ngân phiếu vào đấy, cột lại vác lên vai và thoát ra.



Xem tiếp hồi ba
pass to joine phim : Kim_Bang_2
longnu
Múi Mít
Múi Mít
 
Tiền: $122,632
Posts: 1046
Joined: 14 Mar 2005
Location: đến từ nơi xa lắm
 
 

Postby longnu » 08 Apr 2005

3...
Tiếu Ngạo Trung Hoa Nguyên tác : Ưu Đàm Hoa




Hồi 03 Khuê trung nữ hổ nhan như ngọc
Mã phủ Hồ Ly đáo tử kỳ
Sáng hôm sau, Nam Cung Giao thản nhiên đến Phú Qúy đại tửu lâu ăn điểm tâm. Nơi đây giá đất cắt cổ nhưng được cái rượu và thức ăn rất ngon. Các quan đều là kẻ sành ăn nên Tả phu nhân đã phải mời vị một đầu bếp lừng danh đến phục vụ.
Quả nhiên, vừa qua giờ thìn thì dinh Quách thượng thư náo loạn như ong vỡ tổ. Và chỉ gần khắc sau, Tổng bộ đầu Nam Kinh Lưu Cát đã cùng thủ hạ phóng ngựa đến nơi.
Đám thực khách sáng nay đều có giao tình với Quách phủ nên đổ xô xuống, chạy sang xem thử.
Khi Lưu tổng bộ đầu giải Cửu nương Hàn Ly Hoa đi thì họ mới chịu quay về tửu lâu.
Các vị thiên kim tiểu thư khuê các thì mặt mày đỏ như gấc chín, nhưng đám thiếu niên công tử thì cười hô hố, diễn tả lại những điều đã trông thấy.
Người lớn tiếng cao giọng nhất chính là công tử Mã Kim Khu, con trai quan Hình bộ Thượng thư Nam Kinh.
Gã ỷ thế cha nên chạy xộc vào tận nơi xảy ra huyết án, mà đám Bộ đầu không dám ngăn cản.
Mã công tử có thân hình phốp pháp, to lớn, mặt tròn, mắt hí, mũi lân... tóm lại là xấu xí và hơi ngốc!
Nhưng gã lại được mọi người yêu mến vì tính phóng khoáng, vui vẻ, và thẳng thắn đến mức thô lỗ.
Mã Kim Khu đắc ý kể lể và kết luận :
- Tiểu đệ theo phụ thân phá án đã nhiều năm mà chưa hề gặp một vụ phi thường thế này! Hung thủ quả là một kẻ có óc khôi hài và xảo quyệt. May mà Lưu tổng bộ đầu đã phát hiện mẩu “của quý” kia bị đao chặt đứt chứ chẳng phải do cắn! Nếu không thì nam nhân đất này chẳng dám ngủ với vợ nữa!
Gã ôm bụng cười vang vì câu nói đùa của chính mình!
Nam Cung Giao cũng cười, nhưng là cười sự bố trí non kém mà mình đã đắc ý, tưởng là chu đáo.
Một chàng công tử lên tiếng :
- Mã huynh! Vậy thì sao Cửu nương Hàn Ly Hoa lại còn bị giải đi?
Mã Kim Khu nhăn mặt :
- Tội nghiệp cho người đẹp! Tám vị phu nhân kia cứ khăng khăng đổ tội lên đầu nàng, nên Lưu tổng bộ đầu đành phải giải Hàn Ly Hoa về nha môn tra hỏi!
Chàng trai kia hăm hở hỏi tiếp :
- Thế lúc Mã huynh vào đấy thấy y phục của Hàn nữ nhân thế nào?
Mã Kim Khu cười sặc sụa :
- Hà tiểu quỷ ngươi quả là trân tráo! Ngươi mà thấy được thân hình tuyệt diệu ấy sẽ phải mất ngủ cả năm.
Hà công tử gượng cười :
- Năm Hàn Ly Hoa về Thượng thư phủ thì tiểu đệ mới mười lăm. Nghe các đàn anh tán dương hết lời nên lòng này cũng khát khao!
Cả bọn bật cười chế diễu.
Mã Kim Khu đang nhai một miếng thức ăn nên bị sặc, khí quản tắc nghẽn, ngã xuống sàn lầu, mắt trợn trắng!
Biến cố này khiến đám thế gia công tử kinh hoàng, luống cuống, chẳng biết phải đối phó thế nào.
Nam Cung Giao biết để lâu thì nạn nhân sẽ chết, liền rời bàn bước đến nghiêm giọng :
- Tại hạ là thầy thuốc mong chư vị nhường chỗ!
Vòng vây lập tức giản ra, Nam Cung Giao ngồi xuống, dựng nạn nhân lên, xoa bóp các huyệt đạo trước sau rồi vỗ mạnh vào lưng.
Miếng thịt trôi qua khỏi khí quản, trả lại hơi thở cho Mã Kim Khu.
Gã hoàn hồn, ngoác miệng chưởi :
- Mả cha Hà tiểu tử! Vì ngươi mà ta suýt chết vì nghẹn.
Thấy gã thoát chết, đám bằng hữu mừng rỡ cười dòn. Lúc này Mã công tử đã nhận ra chàng trai lạ mặt đang ngồi bên cạnh. Gã ngơ ngác hỏi :
- Phải chăng chính các hạ đã cứu mạng Khu này?
Nam Cung Giao mỉm cười :
- Chút việc nhỏ chẳng đáng để công tử phải bận tâm đâu!
Nói xong, chàng đứng lên định trở về bàn. Song Mã Kim Khu đã níu chặt áo ân nhân, trợn mắt bảo :
- Các hạ xem Mã mỗ là hạng người không biết lễ nghĩa hay sao? Ơn này, ta không trả được thì quyết chẳng làm người!
Đám bằng hữu của gã nhao nhao tán thành :
- Mã huynh nói chí lý! Bậc trượng phu ân oán phải phân minh.
Mã Kim Khu cũng tự xem mình là một đại trượng phu nên lòng sôi sục nghĩa khí, vung tay nói với giọng đanh thép :
- Mã Kim Khu tôi nguyện làm thân trâu ngựa để đền ơn, dẫu ân công có sai nhảy vào dầu sôi lửa bỏng cũng chẳng từ nan.
Câu nói sáo rỗng này đầy dẩy trong truyện võ hiệp và lịch sử đương thời.
Nam Cung Giao phì cười :
- Tại hạ chẳng phải nông phu hay xà ích nên không cần trâu ngựa. Còn như muốn chiên giòn một người to lớn như Mã công tử đây thì e chẳng đủ tiền mua dầu. Tốt nhất cứ xem như bằng hữu.
Đám thế gia công tử phá lên cười khanh khách trước câu nói ví von ngộ nghĩnh của chàng lạ mặt, và phát sinh hảo cảm.
Mã Kim Khu ngượng ngùng nhưng thầm hài lòng, hỏi lại :
- Tiểu đệ chưa được biết danh tính của ân công?
Nam Cung Giao xưng họ tên, tuổi tác rồi xin phép cáo từ.
Mã Kim Khu không chịu, cùng bạn bè lôi kéo chàng về Mã phủ, tư dinh của quan Hình bộ Thượng thư.
Phu thê họ Mã chỉ có mình Kim Khu là nam tử nối dõi tông đường nên rất tri ân và quí mến Nam Cung Giao.
Thượng thư phu nhân cho mở ngay tiểu yến ăn mừng.
Kim Khu giống cha nên thô mãng, xấu xí, nhưng bào muội của gã lại cực kỳ xinh đẹp nhờ giống mẹ.
Mã tiểu thư tên gọi Hoàn Cơ, tuổi đôi mươi nhỏ hơn Nam Cung Giao, còn Mã Kim Khu hai mươi mốt. Do vậy, Mã thượng thư đã bảo hai con gọi Nam Cung Giao là đại ca.
Mã thượng thư xuất thân võ tướng nên bắt con cái luyện tập võ nghệ gia truyền.
Hoàn Cơ tuy là gái nhưng kiếm pháp lợi hại chẳng kém Kim Khụ Tính nàng đoan trang trầm lặng, bề ngoài nhu mì, thùy mị nhưng bản chất cương nghị và quyết liệt.
Kim Khu tuy là anh mà vẫn phải ngán sợ cô em gái ít nói và cứng đầu.
Vì thế, đám vương tôn công tử đất Nam Kinh cũng kính nhi viễn chi, chẳng dám tán tỉnh nữ nhân.
Trong bửa tiệc trưa nay, Hoàn Cơ lặng lẽ ngồi cạnh mẫu thân, lén quan sát Nam Cung Giao.
Trinh Tâm là ái nữ của Tri phủ Hóa Châu Đặng Tất. Khi Trương Phụ sang An Nam lần thứ nhất để tiêu diệt Hồ Quý Ly, Đặng lão sức yếu thế cô, liền trá hàng quân Minh, được phong làm Đại Tri Châu đất Hóa. Trong công việc, họ Đặng tiếp xúc nhiều với các quan tướng Minh triều, nên Trinh Tâm giỏi tiếng Trung Hoa và thông hiểu nghi lễ Trung Nguyên. Bà đã đem những hiểu biết ấy dạy dổ con trai.
Nhờ vậy, Nam Cung Giao không đến nỗi lúng túng khi lọt vào môi trường quan cách. Chàng sử sự ung dung, đúng mực, ngôn từ cẩn trọng, không tự tôn mà cũng chẳng tự ti!
Bọn công tử luôn miệng khen ngon để lấy lòng gia chủ nhưng ăn chẳng bao nhiêu.
Nam Cung Giao không hề tán dương mà chậm rãi chén sạch những gì được Mã phu nhân bỏ vào bát.
Bà lão mỏi tay liền để khách tự xoay sở, ánh mắt chàng biểu hiện rõ sự hài lòng vì ngon miệng, khiến Mã Hoàn Cơ vui trong dạ. Nàng đã đích thân xuống bếp ra thực đơn và nêm nếm mười món ăn đặc sắc hôm nay.
Cách ăn của chàng trai kia làm nàng cảm động như gặp kẻ tri âm, đủ trình độ thưởng thức tài nấu bếp của mình. Bất giác nàng mỉm cười, mặt thoáng hồng.
Mã thượng thư tinh ý nhận ra tâm sự của ái nữ, liền cười ha hả :
- Nhìn Nam Cung hiền điệt ăn mà lão phu phát thèm! Thân nam nhi phải có phạn lượng như rồng hổ mới đủ sức vung gươm tung hoành tứ hải, hay xông pha trận mạc, giữ gìn cương thổ! Chẳng hay hiền điệt ăn nhiều vì đói bụng hay vì tài nghệ của đầu bếp?
Nam Cung Giao buông đủa vòng tay cười đáp :
- Cảm tạ đại nhân đã không chê cười tật xấu của kẻ thảo dân quê mùa thô lỗ! Thảo dân cũng định ăn qua loa để chứng tỏ mình biết thủ lễ, nhưng vì thức ăn quá ngon nên tay và miệng chẳng còn tuân lệnh nữa!
Cả nhà bật cười, riêng Hoàn Cơ tủm tỉm nói :
- Nếu Nam Cung đại ca đã tán thưởng tài mọn, ngày mai tiểu muội lại xuống bếp phụng hầu thêm vài món mới nữa!
Nam Cung Giao giật mình ngơ ngác :
- Té ra là Tiểu thư đã ra tay thánh thủ đấy ư? Thế mà tại hạ tưởng rằng một lão đầu bếp già nào đấy!
Vẻ mặt thành thực của chàng lại khơi dậy tiếng cười.
Nam Cung Giao đã khai rằng mình là con của một tiểu phú đất Các Châu, đang đi du ngoạn, nên chẳng thể từ chối sự lưu giữ của phủ Thượng thư.
Mã Kim Khu còn cho người đến khách điếm mang ngựa và hành lý của chàng về nhà mình.
Ban ngày gã lôi chàng đi khắp nơi thưởng ngoạn và ăn nhậu, nhưng bao giờ Nam Cung Giao cũng đi về phủ dùng cơm, được thưởng thức tài nấu nướng của Hoàn Cơ.
Sức ăn của chàng gấp ba người khác nên dù đã ăn ngoài cùng với Kim Khu, vẫn có thể làm hài lòng Mã Tiểu thư!
Nam Cung Giao thực lòng yêu mến Hoàn Cơ vì người có những nét giống mẹ mình trong tính cách!
Lực lượng công sai Nam Kinh vẫn ráo riết truy lùng thủ phạm sát hại Binh bộ Thượng thư Quách Tường An, nhưng chẳng có chút manh mối nào!
Lưu tổng bộ đầu đã bàn với Mã thượng thư quy trách nhiệm cho một gã đạo tặc độc hành lừng danh là Dạ Hồ Sài Tốn, dù họ sài vắng bóng đã bảy tám năm. Và trong văn án cũng chỉ ghi rằng tài sản bị cướp là hơn ngàn lượng bạc.
Thực ra rương gỗ châu báu của Hàn Ly Hoa trị giá đến ba vạn lượng vàng. Nhưng nếu khai đúng thì người quá cố sẽ lộ bộ mặt tham quan, ảnh hưởng đến thanh danh quan lại Nam Kinh!
Hàn Ly Hoa bị giam cầm khổ sở, chỉ muốn thoát ra cho nhanh nên nhất nhất cung khai theo ý Tổng bộ đầu Lưu Cát và các quan trên. Nàng lủi thủi trở về với nghề kỹ nữ vì bị Quách phủ xua đuổi.
Cáo trạng được dịch trạm đưa về Bắc Kinh.
Thiên tử thương tiếc bậc trung thần, nổi lôi đình truyền chỉ truy nã Dạ Hồ Sài Tốn trong cả nước.
Đến giữa tháng mười thì Nam Cung Giao đã làm khách của nhà họ Mã được mười sáu ngày. Chàng quyết định ra đi, mượn cớ phải đến Tô Châu thăm bà con, mặc cho Mã Kim Khu hết lời lưu khách.
Phu thê Mã thượng thư thấy thời gian qua ái nữ Hoàn Cơ luôn cười nói và tỏ ra nhu mì hiền thục, hiểu rằng nàng đã ghé mắt xanh vào Nam Cung Giao.
Tính tình vui vẻ, trung thực và dung mạo đường chính của chàng cũng đã chinh phục được vợ chồng Thượng thư. Lại thêm Mã Kim Khu cực lực tán thành nên cả nhà chờ đợi giây phút Nam Cung Giao ngỏ lời cầu hôn.
Nay chàng dửng dưng bỏ đi khiến ai cũng thất vọng nhất là Hoàn Cơ! Mặt hoa ủ dột, u ám như chiều đông, nhưng nàng vẫn cắn răng chịu đựng mối sầu ly biệt, không mở lời giữ chân người trong mộng.
Mã phu nhân cố gỡ gạc :
- Ngày mai mười bốn, không tiện xuất hành, Nam Cung hiền điệt hãy nén lại một hôm để bọn ta tổ chức tiệc tống hành.
Nam Cung Giao không tiện từ chối, đành cúi đầu phụng mạng.
Chiều hôm ấy, Mã thượng thư rủ Nam Cung Giao và Mã Kim Khu sang Cố cung uống rượu.
Người duy nhất được cư trú trong hành cung của Thiên tử chính là Thất vương gia Chu Nghiêm. Ngài là đại diện tối cao của triều đình ở phương Nam.
Chu Nghiêm là em ruột của đương kim Hoàng đế, tính tình dễ dãi, xởi lởi và có tật thích uống rượu.
Tháng nào ngài cũng tổ chức yến tiệc, mượn tiếng nghị sự, bàn bạc việc cai trị, song thực ra để nhậu cho say khướt.
Mã thượng thư không đem theo vệ binh, vì đã có Mã Kim Khu và bốn tên quân khiêng kiệu.
Mã công tử luyện được tám thành pho kiếm pháp gia truyền nên tự xưng kiếm sĩ, đi đâu cũng kè kè thanh trường kiếm có nơ bằng vàng, nạm bảy viên lục Bảo Ngọc.
Nam Cung Giao đã ném bỏ trường kiếm, văn nhã trong bộ trường bào gấm màu xám trọ Chàng luyện võ từ nhỏ, thân hình rắn chắc, đầy những bắp thịt nên không thể chối cãi khi bị Mã Kim Khu hỏi han. Chàng thú nhận rằng mình có học quyền thuật và kiếm pháp, nhưng bản lĩnh chẳng được bao nhiêu!
Hôm nay, Mã Kim Khu cùng nghĩa huynh sánh đôi, cỡi ngựa đi phía sau kiệu của Mã thượng thư.
Kim Khu say sưa nói về dự định viếng thăm Hàn Ly Hoa. Gã chưa quên được người đàn bà nhan sắc ấy. Tuy Hàn Ly Hoa vẫn được khá nhiều khách làng chơi mến thương.
Tất nhiên Kim Khu không hề dám rủ ý trung nhân của bào muội theo.
Hoàn Cơ mà nổi giận thì gã chỉ có cách chạy trốn!
Đoạn đường từ phủ Thượng thư đến Hành cung chỉ xa độ ba dặm. Hai bên đường xá nhà cửa, phủ đệ các quan nên chẳng có gì để phải đề phòng.
Khi còn cách Hành cung gần dặm, đường phố như hẹp lại vì hai tòa lâu các sừng sững, lan can nhô hẳn ra ngoài.
Trước đây, hai tòa nhà bốn tầng này được cho mướn để mở tửu điếm.
Thất vương gia thấy các quan thường ghé đấy rồi mới ngất ngưởng đến nhậu với mình, nên đã ra lệnh đóng cửa.
Giờ đây, một trở thành khách điếm, còn cái đối diện vẫn im lìm hoang phế!
Kiệu của Mã thượng thư vừa đi ngay cửa Kim Lăng đại lữ điếm. Và tòa nhà câm lặng, thì từ lan can lầu ba có một chậu hoa rất lớn, đường kính độ hơn vòng tay rơi xuống, gieo thẳng vào nóc kiệu.
Mã Kim Khu phát hiện ngay từ dầu, chỉ ú ớ hét lên chứ chẳng thể nào can thiệp kịp, vì gã ở cách cha già đến hai trượng.
Khách bộ hành cũng có người nhìn thấy, thét thất thanh và sợ hãi, ôm mặt lùi lại không dám nhìn thảm cảnh.
Chậu hoa đầy đất kia nặng hơn trăm cân, từ độ cao ba trượng rơi xuống hóa thành ngàn cân, chắc chắn sẽ đè nát người trong kiệu.
Nhưng đúng Iúc chuông treo sợi tóc ấy, Nam Cung Giao đã rời yên ngựa, lao đi như mũi tên, vung cước đá bể nát chậu hoa khi nó còn cách nóc kiệu hai sải tay.
Đất và mảnh sành rơi đầy trên nóc gỗ của kiệu nhưng không xuyên qua được.
Hai tên quân khiêng kiệu phía trước cũng bị đất phủ đầy người, may mà chúng chẳng bị thương!
Cỗ kiệu dừng lại, Mã thượng thư hốt hoảng vén màn bước ra hỏi :
- Kẻ nào đất dám ném đất đá vào kiệu của lão phu vậy?
Mã Kim Khu chưa kịp hoàn hồn, chạy đến ôm cha già, nói chẳng ra hơi :
- Phụ thân có kẻ đã ném chậu hoa vào kiệu... May mà Nam Cung đại ca... đã bay đến đá văng đi, cứu mạng phụ thân!
Gã chỉ cho Mã thượng thư thấy những mảnh sứ rơi rớt trên đường. Một đoạn vành bồn hoa còn lại đã giúp Thượng thư ước lượng được độ lớn và sức nặng của tai họa.
Ông vừa sợ vừa mừng, bước đến vỗ vai Nam Cung Giao :
- Không ngờ hiền điệt lại thần dũng tuyệt luân như vậy? Hai đời họ Mã nhà ta chịu ơn cứu tử của hiền điệt, lão phu biết lấy gì mà đền đáp đại ân này đây?
Nam Cung Giao mỉm cười :
- Tiểu điệt đã ăn thủng nồi trôi rể phủ Thượng thư, nay mặt mũi nào mà kể công lao nữa đây?
Mã thượng thư hài lòng trước câu trả lời hóm hỉnh và chân tình của chàng, quyết không để vuột mất chàng rể quý. Ông là võ tướng tất phải biết cú đá của Nam Cung Giao mạnh đến dường nào. Chàng trai này có công lực tương đương với một cao thủ rèn luyện ròng rã ba chục năm.
Họ Mã đã ước đoán chính xác vì Nam Cung Giao học võ mười tám năm, cộng với thần lực bẩm sinh, chàng có tu vi cao hơn tuổi tác là phải!
Toán quan quân tuần tra đi đến nơi, bị Mã thượng thư khiển trách nặng nề, bắt họ phải lục soát ngay tòa nhà bỏ hoang kia.
Nam Cung Giao lắc đầu :
- Đại nhân đừng phí công, tiểu điệt đã nhìn thấy hung thủ. Gã mặc y phục xanh lục, không râu, vóc dáng mảnh khảnh, tầm cao trung bình. Sau khi thả chậu hoa xuống, gã đã đào tẩu bằng một thân pháp nhanh như điện.
Mã thượng thư tần ngần nghĩ :
- Lão phu mới từ quan ải về nhậm chức Nam Kinh Hình bộ Thượng thư được ba năm, chưa có dịp chém một tội nhân nào, sao lại gây thù oán với ai được?
Lão buồn rầu ra lệnh quay về phủ không đến Hành cung nữa!
Trong lúc Mã phu nhân hết lời cảm tạ Nam Cung Giao, Thượng thư cho gọi Tổng bộ đầu Lưu Cát và Tổng binh Nam Kinh đến.
Nghe kể lại vụ ám sát hụt hai người tái mặt, hứa sẽ dốc sức điều tra và cho quân bảo vệ phủ Thượng thư.
Hệ thống hành chính ở Nam Kinh khá phức tạp.
Việc trị dân thuộc trách nhiệm Tri huyện Kim Lăng, gồm thành Nam Kinh và vùng nông thôn phụ cận.
Song việc trị an trong thành lại là phận sự của Tổng binh và Tổng bộ đầu, dưới quyền điều động của Binh bộ Thượng thư và Hình bộ Thượng thư.
Nay Quách Tường An đã chết chưa có người thay thế, nên quyền hành tập trung cả vào tay Mã thượng thư. Ông chỉ phải phục tùng Thất vương gia mà thôi!
Lưu tổng bộ đầu rụt rè nói :
- Bẩm đại nhân! Việc gã Nam Cung Giao xuất hiện ở Nam Kinh đúng lúc xảy ra huyết án ở Quách phủ, lại giấu giếm bản lãnh cao cường, khiến ty chức hoài nghi lai lịch của y. Mong đại nhân cẩn tâm đề phòng!
Mã thượng thư quắc mắt nạt :
- Túc hạ chớ nói càn! Giao nhi nhân phẩm cao quí, tâm địa trong sáng như nhật nguyệt, sao lại có thể là hung thủ giết Quách Tường An được? Hay là túc hạ cho rằng lão phu đã đui mù!
Cơn thịnh nộ của Thượng thư đã khiến Lưu Cát sợ đến nhũn người, vội tụt khỏi ghế, quỳ xuống tạ tội :
- Ty chức mới là kẻ có mắt không tròng, xin đại nhân khai ân tha cho kẻ thuộc hạ ngu xuẩn này!
Phạm tổng binh cũng hết lời xin xỏ cho đồng liêu nên Mã thượng thư nguôi giận, lạnh lùng bảo Lưu Cát ngồi vào ghế.
Hai người chỉ ở lại thêm một lúc đã cáo lui.
Ra đến ngoài, Phạm tổng binh trách họ Lưu :
- Lưu huynh tinh minh, mẫn cán nhưng còn kém trong nghệ thuật làm quan! Dẫu Nam Cung Giao có đúng là hung thủ sát hại Binh bộ Thượng thư thì lão Mã Xuân Trác kia cũng chẳng cần biết đến! Đại ân cứu mạng cả cha lẫn con họ Mã lớn hơn non Thái, có sá gì cái chết của một kẻ kình địch chốn quan trường?
Lưu Cát hổ thẹn đáp :
- Tiểu đệ quen tính trực ngôn nên lỡ lời! Từ nay sẽ khâu kín cái miệng này lại.
Đêm ấy, phủ Thượng thư bình an vô sự nhưng đến sáng thì cả Nam Kinh náo động vì vụ án ghê rợn ở kỹ viện Hồng Loan các.
Nàng danh kỹ Hàn Ly Hoa đã bị bóp cổ đến chết.
Hung thủ còn tàn nhẫn cắt lìa đôi môi tuyệt đẹp của nàng!
Mã thượng thư bù đầu vì vụ huyết án nên tiệc tống hành Nam Cung Giao bị bãi bỏ.
Ngay trưa mười bốn, chàng thản nhiên thu xếp hành lý đòi lên đường ngay.
Mã thượng thư rầu rỉ nói :
- Lão phu đang phải đối phó với một kẻ thù ẩn mặt và lợi hại, vốn trông cậy vào hiền điệt bảo vệ gia quyến. Nay hiền điệt nỡ nào dứt áo ra đi như vậy?
Nam Cung Giao mỉm cười.
- Tiểu điệt ở lại đây thì hung thủ không dám đến để đại nhân bắt! Khi tiểu điệt ra đi, một là gã sẽ chặn đường, hai là tìm đến đây.
Mã thượng thư mừng rỡ cười ha hả :
- Té ra hiền điệt bày kế điệu hổ ly sơn. Lão phu sẽ chia hai lực lượng, giăng lưới chờ đợi con mồi.
Mã Hoàn Cơ bây giờ mới rõ, lòng thầm hổ thẹn vì đã hiểu lầm chàng trai dũng lược. Nàng thỏ thẻ :
- Đại ca có đoán được hung thủ là ai không mà dám quyết đoán như vậy?
Nam Cung Giao tư lự :
- Ngu ca đã hình dung được gương mặt của kẻ ném bồn hoa hôm qua. Lão ta tuổi độ sáu mươi, mắt rất sáng, đầy vẻ xảo quyệt và tàn độc. Sau cái chết của Hàn Ly Hoa, ngu ca cho rằng lão già kia chính là Dạ Hồ, kẻ đang bị triều đình truy nã. Có thể lão không giết Quách thượng thư nên tức giận, trả thù những người liên quan!
Mã thượng thư chột dạ hỏi :
- Vì sao hiền điệt lại biết Dạ Hồ không giết Quách Tường An?
Nam Cung Giao mỉm cười, chỉ Mã Kim Khu :
- Bẩm đại nhân, chính Mã hiền đệ đã kể cho tiểu điệt biết kế di họa giang đông của đại nhân và Lưu tổng bộ đầu.
Mã Xuân Trác ngượng ngùng nhưng yên tâm vì chàng rể tương lai chẳng có gì đáng nghi!
Ông nói lảng sang chuyện khác :
- Dạ Hồ Sài Tốn giỏi đao pháp, hiền điệt không có vũ khí e sẽ thiệt tḥòi, lão phu xin tặng một thanh bảo kiếm để hiền điệt phòng thân.
Thượng thư vào ngọa thất, lát sau trở ra, tay cầm một thanh kiếm cũ kỹ, chuôi bằng sừng đen bóng, võ bằng da lạc đà, có chỗ đã trụi lông. Thanh kiếm này dài hơn kiếm thường độ gần gang tay. Chứng tỏ chủ cũ của nó phải là người cao lớn.
Mã thượng thư rút kiếm khỏi võ, để lộ nước thép xanh ngời. Ông hào hứng nói :
- Bảy năm trước, lúc lão phu còn trấn giữ quan ải, được mật báo rằng có gián điệp Mãn Châu lén vượt trường thành. Lão phu liền bố trí phục binh, bắn chết toán cao thủ Mãn Châu ấy, và tịch thu được thanh bảo kiếm này. Không hiểu nó được đúc bằng loại thép gì mà lại nặng gấp đôi kiếm gia truyền của tổ phụ để lại nên không dùng đến. Nay hiền điệt thần lực hơn người, chắc sẽ vừa tay!
Nam Cung Giao nhận lấy, vòng tay cảm tạ rồi búng thử vào thân kiếm, lắng nghe tiếng thép ngân trong trẻo và kéo dài. Quả thực là nó rất tốt và vừa tay, chàng tự nhủ sẽ đặt tên nó là Lạc Điểu.
Cả nhà ra tận cổng phủ tiễn đưa Nam Cung Giao, cố ý để người ngoài trông thấy.
Chiều hôm ấy, Nam Cung Giao đã rời xa Nam Kinh được bốn chục dặm, về hướng Bắc.
Đường quan đạo vắng vẻ vì lữ khách đã ghé cả vào quán trọ. Tuy là thời bình nhưng cũng ít người dám đi đâu, bởi trời tối tăm, chẳng thể nhìn rõ đường sá. Vả lại, sợ bóng tối luôn là đặc tính của loài người!
Phía sau chàng bỗng vang lên tiếng vó ngựa rầm rập phi nước đại.
Nam Cung Giao ngoái đầu lại, nhận ra có đến mười kỵ sĩ áo xanh lục đang lao đến. Chàng cho ngựa đi chậm, nép vào vệ đường như muốn nhượng lối, thực ra là để phòng đánh lén.
Do vậy, toán kỵ sĩ kia đã dễ dàng vây chặt con mồi lại.
Nam Cung Giao cau mày :
- Vì sao chư vị lại bao vây tại hạ?
Lão nhân râu quắn quăn tít kia có lẽ là thủ lĩnh toán Lục y, ông ta cười nhạt :
- Phải chăng tiểu tử ngươi là kẻ đã đá bể chậu hoa, cứu mạng lão cẩu quan họ Mã đấy không?
Nam Cung Giao gật đầu hỏi lại :
- Thế Tôn giá và chư vị đây thuộc bang hội nào vậy?
Lão nhân nhếch mép :
- Trước sau gì ngươi cũng chết, lão phu chẳng cần phải giấu giếm. Bọn ta là thủ hạ của Hồ bang, và bổn Bang chủ chính là Dạ Hồ, kẻ đã bị lão Mã Xuân Trác vu oan giá họa.
Nam Cung Giao không ngờ Sài Tốn lại chẳng đơn thương độc mã mà có đông đảo thủ hạ thế này! Nay lão không xuất hiện, chỉ cho tay chân chặn đường thường, tức sẽ đích thân xâm nhập Mã phủ.
Tuy phủ Thượng thư được canh phòng cẩn mật, nhưng bọn vệ binh chưa chắc đã phát hiện nổi một đại cao thủ về khinh công như Dạ Hồ! Sài Tốn chỉ cần cho vài tên bang chúng gây hỗn loạn là sẽ có cơ hội âm thầm tiến sâu vào hậu viện!
Cảm kích ân tình của nhà họ Mã, Nam Cung Giao quyết kết liễu cuộc chiến ở đây thật nhanh, rồi quay lại Nam Kinh.
Chàng nói nửa đùa nửa thật :
- Tại hạ sợ vạ lây nên đã rời khỏi phủ Thượng thư! Mong chư vị cứ lấy hết vàng bạc và tha cho cái mạng nhỏ bé này! Tại hạ được Mã thượng thư ban cho đến hơn ngàn lượng vàng đấy.
Vàng là thứ kim loại hấp dẫn nhất thế gian! Vì nó, con người sẵn sàng giết cả cha mẹ, anh em hay bằng hữu. Bọn hán tử áo xanh lục này đi theo Sài Tốn cũng vì ham lợi, nay nghe nói đến ngàn lượng vàng thì tên nào cũng nhấp nhỗm.
Nam Cung Giao móc trong lưng ra một xấp ngân phiếu, ném rải lên đầu hàng ngũ đối phương.
Thế là chín gã đao thủ Hồ bang nhao nhao nhảy xuống đất, giành giật nhau những tờ ngân phiếu.
Lão nhân râu quăn bối rối quay lại quát tháo :
- Bọn ngươi làm thế thì bổn bang còn ra thể thống gì nữa!
Lão chợt phát giác ra mình đã sơ hở khi rời mắt khỏi con mồi.
Lão quả có lý vì Nam Cung Giao đã rời lưng ngựa, như cánh chim ưng giương mắt chụp lấy mục tiêu.
Chàng dồn toàn lực vào chiêu Điểu Trảo Niên Dương (Móng chim bắt dê non), kiếm ảnh tua tủa, tỏa khí lạnh căm căm, vây kín thân trên đối thủ.
Lão nhân râu quắn bản lĩnh cao cường nên mới được Dạ Hồ giao sứ mạng hạ sát Nam Cung Giao, người có cú đá mạnh ngàn cân. Nhưng Sài Tốn không biết rằng chàng trai trẻ kia giỏi kiếm pháp còn hơn quyền thuật, và khi Nam Cung Giao ở thế “xuất kỳ bất ý công kỳ vô bị”, nghĩa là đánh lén, thì khó ai được an toàn.
Thanh Lạc Điểu kiếm tuy không sắc bén như thần binh thời Xuân Thu, nhưng được cái nặng nề và cứng rắn phi thường. Do đó, chiêu kiếm của Nam Cung Giao mãnh liệt như núi Thái đang đổ ập xuống.
Lão nhân râu quắn cắn răng múa kiếm chống đỡ một cách tuyệt vọng, và rú lên thảm khốc, rơi khỏi mình ngựa.
Ngực lão thủng đến bốn lỗ, tay hữu đứt lìa!
Nam Cung Giao không dừng bước, điểm chân vào đầu ngựa của lão râu quắn, bốc lên cao, chụp lưỡi kiếm xuống bốn tên áo lục đang cãi cọ, giằng co nhau một tờ ngân phiếu.
Tiếng thét thê lương của đầu lãnh khiến chúng ngơ ngác, quay lại nhìn, nhưng chưa kịp rút đao. Thanh Bảo kiếm Lạc Điểu dài hơn kiếm thường nên phạm vi sát thương khá rộng, đâm thủng đủ bốn đỉnh đầu của những kẻ được phát tài! Chúng có thể tự an ủi rằng mình đã lìa đời trong tư thế của người giàu có, vì trong tay mỗi tên đều cầm đến ba bốn tờ ngân phiếu!
Năm gã bang chúng còn lại thất kinh hồn vía, múa đao xông đến. Họ thi triển cùng một loại đao pháp rất lợi hại. Vậy là, bảy tám năm qua, Dạ Hồ đã âm thầm chiêu mộ thủ hạ và dạy cho chúng đao pháp của giòng họ Sài!
Đây là lần đầu tiên Nam Cung Giao thực sự chiến đấu, trực diện đối phó với kẻ thù. Chàng phấn khởi vũ lộng thanh bảo kiếm, thi thố hết sở học.
Trinh Tâm là nữ trung hào kiệt, tánh tình cương liệt, nghiêm khắc. Khi dạy kiếm cho con trai, bà bắt con phải cùng mình tỷ thí. Trinh Tâm ra đòn rất hiểm ác chứ không hề nương tay, cứ như bà đang chiến đấu với kẻ thù vậy.
Thanh kiếm gỗ của bà đã liên tục gây ra những vết thâm tím trên thân thể Nam Cung Giao. Nhưng nhờ vậy mà kinh nghiệm giao đấu của chàng trai trẻ không đến nỗi nghèo nàn! Trừ phi đối thủ thông minh và biến hóa hơn Trinh Tâm mới có thể làm khó được chàng!
Khi bị giáp công, bốn phương đều có địch, Nam Cung Giao sở cậy rất nhiều vào pho khinh công Lạc Điểu thân pháp. Chàng nhấp nhô lên xuống, di chuyển linh hoạt giữa vòng vây, chống trả rất hữu hiệu!
Nóng lòng trở lại phủ Thượng thư, Nam Cung Giao giở hết những chiêu sát thủ. Chàng nhảy xổ vào gã béo trước mặt xuất chiêu Lạc Điểu Nam Phi (Chim Lạc bay về Nam), mũi kiếm hóa thành trăm bóng ảnh chập chờn, uy hiếp thân trên hán tử to béo. Gã hung hản rùn người, tung ra những đòn đao mãnh liệt.
Không có tiếng thép chạm nhau, chỉ có tiếng thét rợn người.
Nam Cung Giao lại đảo thân chống đỡ chiêu đao của gã mé hữu, trong chớp mắt đã thọc mũi kiếm vào sườn đối phương.
Đắc thủ chàng đề khí bốc lên không trung, xà xuống đầu tên thứ ba.
Kiếm dài, đao ngắn, gã bang chúng Hồ bang bị đâm thủng trán.
Hai tên cuối cùng sợ mất mật tháo lui, quay lưng đào tẩu theo hai hướng khác nhau.
Nam Cung Giao không chút chần chờ, phóng trường kiếm vào lưng một tên và đuổi theo tên thứ hai.
Thanh kiếm như mũi trường tiễn rời dây cung bay vút đi và xuyên qua hậu tâm gã bang chúng hướng Bắc.
Thủ pháp này Nam Cung Giao đã phải khổ luyện suốt nhiều năm ròng. Kiếm bay đi nhờ uyển lực, tức sức mạnh ở cổ tay, chứ chẳng phải cánh tay. Đây chính là căn bản của phép ném ám khí.
Tiếng rú thảm thiết vừa vang lên thì chàng đã đuổi kịp gã bang chúng thấp lùn.
Thấy chàng tay không vũ khí, gã yên tâm quay lại chiến đấu. Quả thực là nắm tay bằng thịt bị kém thế lưỡi đao sắc bén.
Nam Cung Giao không dám va chạm, chỉ liên tục di chuyển, chờ cơ hội nhập nội.
Song đối phương cũng biết chàng cước pháp ngàn cân nên không dám mạo hiểm đối đòn, chỉ tận dụng đao pháp ảo diệu mà chiếm thượng phong. Gã không biết một điều là càng đánh lâu dài thì Nam Cung Giao càng nắm được tinh túy của pho quyền pháp gia truyền. Vả lại, chàng dẻo dai và bền sức hơn gã rất nhiều.
Một khắc sau, hán tử kia toát mồ hôi hột, hơi thở hỗn loạn, đường đao lộ nhiều sơ hở. Gã kinh hoàng nhận ra đối phương vẫn ung dung, và liên tiếp tung ra những đòn như sấm sét.
Dường như Nam Cung Giao đã tìm ra cách phối hợp pho khinh công Lạc Điểu với pho quyền, cước bộ chàng nhanh nhẹn phi thường, thân ảnh chập chờn khiến đối thủ hoa cả mắt.
Chàng đã nhận ra cơ hội, ập vào như cơn lốc, đảo người tránh một đòn đao quét ngang, thì tay tả chụp lấy cổ tay phải hán tử và tung cước đá vào bụng gă.
Thân hình nạn nhân văng ngược về phía sau hơn trượng, nằm im bất động.
Nam Cung Giao hài lòng chạy đi thu lại trường kiếm và những tờ ngân phiếu.
Nhìn mười tử thi nằm rải rác, chàng bỗng rùng mình bất nhẫn, cảm thấy ghê sợ bản thân!
Gương mặt người chết thường hiền lành, hoặc đầy nét khổ sở vì đau đớn, chứ chẳng hề dử tợn hay gian ác. Chàng áy náy nhìn quanh, tìm chỗ khả dĩ chôn cất thi hài những kẻ xấu số.
Mé Tây quan đạo là ruộng lúa nước mênh mông, còn hướng Đông có ngọn đồi nhỏ ngổn ngang đá tảng, cách đấu trường độ mười trượng!
Nam Cung Giao thở dài cặp nách một lần hai xác, đi năm lượt thì mang hết mười nạn nhân đến chân đồi.
Thấy có ba tảng đá nằm gần nhau, tạo thành khe trống, chàng xếp tử thi vào đấy rồi ôm những tảng đá nhỏ hơn chất đè lên. Xong xuôi, chàng mệt lả người, y phục thấm lem vì máu và bụi đất.
Nam Cung Giao nhăn nhó tự chế giễu :
- Ta thật là lẩn thẩn, giết người xong lại phải chôn cất và áy náy trong lòng! Thôi thì lần sau bỏ chạy cho đỡ mệt xác!
Chàng mỉm cười, trở ra quan đạo, lần ngựa phi nước đại về hướng Nam Kinh.
Mười con ngựa của phe Hà Bắc vẫn còn thản nhiên gặm cỏ, nhưng khi trời sụp tối, chúng sẽ chạy về nơi xuất phát.

Cơn mưa cuối thu ập xuống, gội sạch đất, máu trên áo quần lữ khách, và làm dịu nỗi băn khoăn.
Nam Cung Giao nghe đói bụng nhưng không dám dừng chân, cuối canh hai về đến cửa Bắc thành, lúc này cơn mưa đã ngừng rơi.
Chàng ghé vào quán trọ bên đường, thay y phục, nuốt vội tám chén cơm, rồi đi bộ vào thành. Chàng lầm lủi bước nhanh, hơn khắc sau đã có mặt trên mái ngói đại sảnh của phủ Thượng thư.
Vệ binh trong phủ rất đông mà không phát hiện được sự xâm nhập của chàng thì Dạ Hồ Sài Tốn vào chẳng khó.
Mãy mù đã tan, trăng thu ló dạng soi sáng cảnh vật đất Nam Kinh.
Nam Cung Giao nép mình vào một góc tối, nằm ngửa ngắm vầng trăng, nhớ đến song thân và hai em. Nhị muội chàng là Lộc nhi mới lên tám, còn cô bé Hà nhi sáu tuổi.
Quê ngoại chàng là thôn Can Lộc phủ Hà Tĩnh nên hai em mang tên ấy để thể hiện ḷòng hoài hương của người nữ tướng đất An Nam. Ngay tên Giao của chàng cũng thuộc về xứ sở Giao Châu!
Gió thu hiu hiu lạnh, ru chàng trai trẻ vào giấc ngủ. Chàng ta đã quá mệt nhọc vì trận tử đấu và phải giong ruổi gần trăm dặm.
Giữa canh tư, Nam Cung Giao giật mình thức giấc, dụi mắt nhìn quanh. Dù không có động tĩnh gì nhưng chàng vẫn chẳng dám ngủ tiếp, ngồi cảnh giới.
Từ vị trí cao chót vót này, chàng có thể bao quát toàn bộ khu vực.
Gần khắc sau, có kẻ nào đó đã ném những trái yên cầu qua tường vây rơi vào sân trước, tỏa khói mít mù.
Loại khói này làm cay mắt đám vệ binh, chúng sợ hãi ôm mặt la hét, chẳng còn thấy đường mà chiến đấu.
Và sau đó, gần chục Hắc y nhân vượt tường xông vào phủ. Chúng lạnh lùng chém giết những tên vệ binh mù lòa, không phương né tránh hay chống cự!
Nam Cung Giao phẩn nộ trước thủ đoạn tàn nhẫn của Hồ bang, chút băn khoăn ban chiều đã biến mất.
Dĩ ác diệt ác là quy luật của sinh tồn, kẻ ác đánh mất nhân cách là tự đặt mình ra ngoài vòng bao dung của đạo trời.
Chàng không dám suy nghĩ lâu, quay về quan sát hậu phủ.
Chín tên Hắc y kia chỉ là những con chốt thí của Dạ Hồ. Chúng hoàn toàn không có sinh lộ khi đánh vào đây!
Nam Cung Giao thiếu kinh nghiệm giang hồ nhưng thừa hưởng được trí tuệ siêu phàm của mẫu thân, tâm cơ ngày càng sắc sảo. Chàng luận việc chính xác, vì một bóng đen đã cánh dơi đêm lướt trên những ngọn hòe cao vút, trong vườn hoa phía sau tiến vào khu hậu viện. Chỉ Dạ Hồ mới có được thân pháp thượng thừa ấy!
Tiếng la hét, ồn ào phía trước đã che lấp tiếng động trên ngọn cây. Lực lượng công sai và vệ binh không thể ngờ đến việc kẻ thù đang di chuyển trên đầu mình. Họ chỉ lo cố thủ vị trí đã được giao phó chờ lệnh mới xông ra!
Giữa tòa đại sảnh hai tầng và khu hậu viện có một vườn cảnh nhỏ.
Hiện giờ, Hình bộ Thượng thư Mã Xuân Trác và Tổng bộ đầu Lưu Cát đang đứng giữa toán công sai bàn bạc.
Mặt trận tiền sảnh đã có Phạm tổng binh đối phó.
Nam Cung Giao đã phục sẵn trên lan can lầu chờ đợi.
Dạ Hồ thì hạ thân xuống mái hậu viện, êm ái lướt ra phía trước. Lão xác định xong chỗ đứng của Mã thượng thư, ném hai trái yên cầu, rồi nhảy xuống phủ lưỡi đao vào đầu họ Mã.
Hình bộ Thượng thư võ nghệ siêu quần, nhiều phen vào sinh ra tử nên phản ứng cực kỳ thần tốc. Dù mắt cay xè và đau nhức như bị kim đâm, ông vẫn bình tĩnh múa tít bảo kiếm che chở thân trên.
Dạ Hồ điều nghiên địa thế rất kỹ, nhưng lại không biết lão quan già bảy chục tuổi này là cao thủ, và suốt năm mươi năm chưa hề bỏ bê việc luyện công!
Đao kiếm chạm nhau chan chát, Dạ Hồ nghe hổ khẩu tê rần, thầm ngán sợ công lực của Mã thượng thư.
Lão bị dội ra, rơi xuống, liền điểm chân lên vai một gã bộ đầu, bốc cao hơn trượng, lặng lẽ bổ đao vào đầu Mã thượng thư.
Mã lão đoán rằng đối phương đã rơi, tất chiêu thứ hai phải tấn vào trước hoặc sau người mình. Ông biến chiêu, không chú ý đến phía trên nhiều. Ông không ngờ rằng Sài Tốn giảo hoạt, đa mưu như chồn cáo nên mới có danh là Dạ Hồ.
Mã Kim Khu và Mã Hoàn Cơ chạy ra đến hành lang dãy nhà hậu viện, nhìn thấy rõ thảm cảnh khói cay hơi nặng nên đã lắng xuống, không còn che phủ nhãn tuyến nữa. Tác dụng chính của nó là làm mù tạm thời những đôi mắt đối phương.
Hai anh em họ Mã kinh hoàng nhảy qua lan can hành lang, chạy đến cứu cha già.
Khoảng cách quá xa khiến mọi nỗ lực của họ trở thành vô dụng, kể cả tiếng la cảnh báo của Mã Kim Khu :
- Cha! Trên đầu.
Nhưng lúc đao Dạ Hồ còn cách mái tóc hoa râm của họ Mã một gang thì lão bị một đạo kiếm quang lạnh buốt bay đến nuốt chửng, và thổi văng đi.
Một trận mưa máu rơi theo xác Dạ Hồ!
Nam Cung Giao hạ thân đứng cạnh đấy, trong tiếng hô vang của Mã Kim Khu :
- Nam Cung đại ca!
Nghe đến tên rể quí, Mã Xuân Trác biết rằng tai họa đã qua, dừng kiếm quát hỏi :
- Giao nhi! Kẻ địch đâu rồi?
Cách gọi thân thiết này khiến Nam Cung Giao chạnh lòng. Chàng chưa kịp đáp thì Hoàn Cơ đã đáp thay :
- Gã ta đã bị Nam Cung đại ca đâm chết rồi!
Mã thượng thư cười ha hả :
- Giao nhi giỏi lắm. Lão phu lại mắc nợ ngươi nữa rồi!
Nam Cung Giao không đáp, nói với Hoàn Cơ :
- Hiền muội bảo gia nhân mang nước sạch ra đây cho đại nhân và những người kia rửa mắt!
Phạm tổng binh vào đến, vui vẻ báo rằng chín tên Hắc Y đã bị loạn tiễn bắn chết!



Sáng hôm sau, mượn cớ trở lại khách điếm ở cửa Bắc thành lấy ngựa và hành lý, Nam Cung Giao rời khỏi Nam Kinh, từ giả bằng hai câu thơ.
Khổ hải mang mang chu vô độ!
Tam niên vị tử điểu qui sào!
Dịch :
Biển khổ mênh mông thuyền chẳng bến.
Ba năm chưa chết sẽ quay về!
Mã Tiểu thư không khóc thành tiếng nhưng lệ doanh tròng, sắc diện cực kỳ thống khổ!
Mã thượng thư an ủi ái nữ :
- Xem ra lai lịch Giao nhi có nhiều uẩn khúc. Những y đã hẹn ba năm quay lại là đã chứng tỏ tình cảm với Cơ nhi!
Hoàn Cơ cười lạnh :
- Nay chàng đã lưu lại lời ước hẹn, hài nhi tự xem mình là dâu họ Nam Cung, quyết sánh vai trượng phu hành hiệp! Hài nhi tính tình nóng nảy chẳng thể chờ đủ ba năm được!
Mã phu nhân biết tính con, ngao ngán nói :
- Cơ nhi cứ đi! Nhưng phải ghé qua Tây Hà sơn, nhờ nhị sư thúc hộ tống. Có thế thì ta và cha ngươi mới yên lòng!
Mã thượng thư học nghệ với Trường Giang thượng nhân, có một sư đệ là Cẩn Nhục Đầu Đà Hồ Sóc Phương. Lão này tính tình quái dị nhưng võ nghệ cao cường, suốt đời chỉ thích ăn thịt chó nên nổi danh!
Mã Kim Khu rất hợp tính với sư thúc, mừng rỡ nói :
- Nay Dạ Hồ Sài Tốn đã mạng vong, Mã phủ chẳng còn bị đe dọa, hài nhi sẽ cùng Cơ muội đi tìm Nam Cung đại ca!
Mã thượng thư suy nghĩ một lúc rồi đáp :
- Thôi được. Hai anh em ngươi cứ lên đường!



Xem tiếp hồi bốn
pass to joine phim : Kim_Bang_2
longnu
Múi Mít
Múi Mít
 
Tiền: $122,632
Posts: 1046
Joined: 14 Mar 2005
Location: đến từ nơi xa lắm
 
 

Postby longnu » 08 Apr 2005

[color=red][b]4...
Tiếu Ngạo Trung Hoa Nguyên tác : Ưu Đàm Hoa




Hồi 04 Tô Châu phùng xú tử
Lộ thượng đả Hàm Đan
Đầu tháng mười một, Nam Cung Giao đến Tô Châu. Mục tiêu của chàng chính là Tri phủ Giang Tô Mạc Tôn Long.
Chàng đã lén gặp Nguyễn Tuấn, trao cho lão số ngân phiếu vạn lượng, nhờ phân phát cho những người Giao Châu muốn trở về xứ sở, hay đang gặp khó khăn!
Nguyễn Tuấn bảo rằng Tô Châu cũng có khá nhiều người đồng hương, và đã dạy chàng phương thức liên lạc.
Sau hai mươi mấy năm, số lượng người Giao Chỉ ở những phủ phía Nam Trung Quốc đã tăng lên gấp bội. Có một số đã thoát đời nô lệ, ra ngoài mưu sinh, xây dựng được sự nghiệp.
Cùng dân tộc, cùng chịu cảnh ly hương, ngươi Giao Chỉ ở mỗi địa phương âm thầm liên kết lại thành bang để tương trợ lẫn nhau.
Trưởng Bang ở Nam Kinh là Nguyễn Tuấn, còn Trưởng bang ở Tô Châu là Đặng Kiệm! Họ Đặng tuổi năm mươi ba, là thầy thuốc trong nghĩa quân Hậu Trần, dưới trướng biểu thúc Đặng Dung, khi bị bắt về Trung Quốc trở thành nô lệ cho Mạc Tôn Long!
Họ Mạc nhờ công lao chinh phạt An Nam, được phong làm Tri phủ Giang Tô. Lúc mới về nhiệm sở, chưa dám trổ ngón tham quan ngay nên Tôn Long rất túng thiếu. Lão bèn bán bớt một số nô tỳ để có tiền xây nhà mới. Trong đó có Đặng Kiệm!
Đặng Kiệm may mắn lọt, vào một nhà đại phú nhân đức họ Hoàng. Khi Hoàng viên ngoại lâm bệnh trầm kha, các danh y trong thành Tô Châu đều bó tay, thì Đặng Kiệm trổ tài Biển Thước.
Hoàng viên ngoại thoát chết, liền giải phóng ân nhân khỏi kiếp nô lệ và gả con gái cho!
Giờ đây, Đặng Kiệm thừa kế cơ nghiệp họ Hoàng, trở thành một người có thế lực đất Tô Châu.
Về vai vế, Đặng Kiệm là biểu ca của Nam Cung Giao. Nhưng chàng không thể nhận bà con vì sợ lộ thân phận và có thể di hại đến Đặng Kiệm.
Chàng sẽ đến với lão bằng cách khác! Nguyễn Tuấn từng kể rằng Đặng Kiệm có thói quen chiều chiều uống rượu trong Cô Tô đại tửu lâu, cạnh bờ Thái Hồ. Lão được dành riêng một bàn, dù bất cứ ai cũng chẳng được ngồi vào vị trí ấy!
Hoàng gia trang vốn kinh doanh ngành tơ lụa, nhưng sau này, Đặng Kiệm đã trao nghề cũ cho vợ, còn mình mở tiền trang.
Vùng duyên hải phía Đông Nam Trung Hoa có nhiều hải cảng buôn bán với ngoại bang, nên thương lái bất cần vốn liếng. Với bốn tiền trang ở các phủ Giang Tô, Chiết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông. Đặng Kiệm đã trở thành Đại tài thần.
Không chỉ đám lái buôn cần tiền, mà cả các quan lớn nhỏ cũng là con nợ của họ Đặng. Tiền bạc đi đôi với quyền lực chẳng ai còn dám nhắc đến cái gốc gác An Nam man mọi của Đại thần tài nữa!
Người Trung Hoa luôn tự hào về nền văn minh rực rỡ mấy ngàn năm của mình, nên xem nhân dân tộc xung quanh là man di mọi rợ. Thực ra, vào thời bấy giờ, tuy sử dụng Hán tự, dân Giao Chỉ đã có một nền văn hóa đặc sắc riêng, không thể sánh với Trung Hoa nhưng hơn hẳn những nước trong khu vục như Cao Ly, Phù Tang, Xiêm La, Miến Điện.
Chính vì vậy Minh Thành Tổ đã ra lệnh cho Tân Thành Hầu Trương Phụ tịch thu tất cả sách vở của Giao Châu, phá hủy văn bia, chỉ để lại những gì của Trung Hoa.
Đấy là chuyện nhiều năm trước, giờ chúng ta sẽ cùng Nam Cung Giao lên lầu hai của Cô Tô đại tửu lâu.
Cô Tô là một ngọn núi có phong cảnh rất đẹp ở ngoại thành và nó là xuất xứ của hai chữ Tô Châu.
Thành Tô Châu xưa kia là kinh đô của nước Ngô cổ đại, do Mã Hạp Lư xây dựng lên. Thời Tần, Tô Châu được gọi là Ngô Huyện, thời Đông Hán đổi là Ngô Quận. Đến năm Bính Tý (1276) tức năm Cảnh Viên thứ nhất, đời vua Tống Đoan Tông, vùng đất lẫy lừng này mới có tên Tô Châu!
Cái tên Cô Tô đại tửu lâu hàm ý rằng khách có thể vừa uống rượu, vừa ngắm ngọn núi Cô Tô ở xa xa. Còn gần trước mắt chính là mặt nước Thái Hồ mênh mông, được điểm xuyết bằng rất nhiều núi đá có hình thù diễm lệ và kỳ ảo!
Nam Cung Giao lên lầu, bước đến lan can phía Tây, nhận ra Đặng Kiệm chưa có mặt. Chàng bèn ngồi xuống bàn gần đấy, gọi rượu thịt.
Tửu lâu mỗi lúc một đông người, đa số là hào kiệt võ lâm.
Nam Cung Giao không lấy làm lạ, vì lúc còn ở Kim Lăng đã nghe Mã Kim Khu kể về việc Tổng Trấn Quân Vụ Tích Giang hiệu triệu khách giang hồ đến giúp mình đương cự bọn hải tặc Phù Tang (Nhật Bản).
Mấy trăm năm qua, bọn giặc lùn luôn là mối hiểm họa của miền duyên hải phía Đông Trung Hoa. Thỉnh thoảng, chúng từ biển khơi tập kích vào đến tận Nam Kinh, quân triều đình phải tốn hao xương máu mới đuổi ra được.
Nhưng vài năm nay, hải tặc Phù Tang liên tiếp bị thất bại bởi lực lượng kiêu dũng, thiện chiến của Tổng trấn quân vụ Tích Giang Vương Trọng Hưng (Tích Giang gồm hai phủ Giang Tô và Chiết Giang).
Vương Tổng Trấn chính là đương kim Minh chủ, quê ở Thượng Hải, được Minh Đế đặc cách phong quan tước giao nhiệm vụ đối phó với giặc Phù Tang!
Tuy ông đã từ nhiệm nhưng vẫn được võ lâm kính trọng. Cả hai phe Hắc Bạch đều lũ lượt kéo đến giúp đỡ.
Trong vòng ba năm, nhờ những cao thủ này mà Vương Tổng Trấn đã sáu lần tiêu diệt quân thù, bảo vệ được sinh mạng và tài sản của lê thứ.
Bọn hải tặc Phù Tang có rất nhiều tay kiếm giỏi, nhưng gặp phải cao thủ Trung Nguyên đành chịu thất bại.
Sáu tháng nay, tình hình ven biển đã yên bình, các hào kiệt dưới trướng họ Vương được phép giải ngũ. Họ về Tô Châu nghỉ ngơi, hưởng lạc. Khi còn trong quân ngũ thì bị ràng buộc bởi quân pháp, ai cũng một lòng chống giặc. Nhưng giờ đây, bản chất anh hùng cá nhân của đám hào khách có dịp biểu lộ. Chính tà lưỡng lập, tuy không đến nỗi chém giết nhau nhưng mỗi nhóm đều ngồi riêng!
Nam Cung Giao thích thú ngắm nhìn các võ sĩ Trung Hoa. Họ rất đa dạng gồm nhiều thành phần, xuất thân từ các địa phương, các môn phái khác nhau. Hầu hết đều ở lứa tuổi từ hai mươi lăm đến bốn mươi, vẻ cao ngạo, đắc ý hiện rõ trên dung mạo của những bậc anh hùng này. Họ tự hào vì đã có công lao với xã tắc nên nói cười sang sảng, kể lể những chiến công oanh liệt!
Bàn của Đặng Kiệm không có ghế nên chẳng xâm phạm. Do vậy, người khách vừa lên ngơ ngác nhìn quanh rồi tiến đến những bàn có ít người, xin được ngồi chung. Nhưng có lẽ do bộ dạng của hắn không gây được thiện cảm nên bị những bậc anh hùng kia lạnh lùng từ chối!
Vị khách này là một chàng trai tuổi đôi mười, võ phục bằng vải thô màu đen cũ kỹ, có đôi chỗ vá, lại rộng thùng thình cứ như là đi mượn hay trộm cắp của ai. Hắn lại thọt chân, bước đi khập khiễng, đầu tóc thì chẳng gọn gàng, vài trăm sợi ngắn dài phủ lòa xòa trên gương mặt rám nắng. Đôi môi hắn gọn gàng, nhưng lại lệch một bên, và trên cặp mắt to đen linh lợi kia là cặp chân mày cao thấp chẳng đều.
Chàng trai áo đen tội nghiệp ấy vẫn mỉm cười dù bị khinh rẻ. Hắn đã đến bàn của Nam Cung Giao, không mở lời hỏi xin chỉ nhìn chàng bằng ánh mắt vui vẻ!
Nam Cung Giao đưa tay :
- Mời huynh đài ngồi chung với tại hạ cho vui?
Chàng áo đen cười rạng rỡ :
- Huynh đài có lời mời dùng bữa, tiểu đệ vô vàn cảm kích!
Nam Cung Giao phát hiện đối phương có hàm răng trắng đều rất đẹp, và chàng cũng hiểu ẩn ý của gã. Chàng chỉ cho phép ngồi cùng bàn nhưng gã lại gài chàng phải đãi ăn.
Nam Cung Giao tủm tỉm cười :
- Các hạ quả là người nhanh nhẩu? Xin cứ tùy tiện gọi thức ăn, tại hạ sẽ chiêu đãi!
Hán tử hớn hở an tọa, mở thực đơn ra gọi liền một lúc sáu món thượng hạng và một, vò rượu Thiệu Hưng năm mươi năm. Gã nheo mắt bảo khổ chủ :
- Tiểu đệ là người biết lễ nên chỉ gọi bấy nhiêu thôi!
Nam Cung Giao vẫn điềm nhiên :
- Nếu thích, các hạ có thể chọn thêm vài món nữa!
Chàng trai áo đen hơi ngỡ ngàng, liếc nhìn rõ bộ võ phục vải thô trên người nạn nhân băn khoăn nói:
- Huynh đài không bỡn tiểu đệ đấy chứ? Trông lại huynh đâu hơn gì tiểu đệ?
Nam Cung Giao gật gù :
- Đúng thế! Nhưng cùng lắm thì ta và các hạ ở lại đây làm công cho tửu lâu mà trừ nợ!
Nhìn ánh mắt hoài nghi, tinh minh của chàng, hán tử áo đen biết ngay chàng nói đùa. Hắn phì cười :
- Té ra huynh đài cũng biết bỡn cợt người?
Hắn yên tâm cao giọng ra lệnh cho tiểu nhị :
- Ngoài sáu món vừa rồi, ngươi nhớ bưng thêm món tráng miệng nữa nhé!
Rồi hắn quay lại tự giới thiệu :
- Tiểu đệ là Mộc Kính Thanh hai mươi tuổi quê ở Chiết Giang, dám hỏi đại danh của huynh đài?
Nam Cung Giao xưng tên tuổi, quê quán, Mộc Kính Thanh nhăn nhó nói :
- Tiểu đệ nhỏ hơn hai tuổi xin nhận phận em! Để mừng buổi tương phùng, tiểu đệ xin kính đại ca một chung!
Nam Cung Giao tính tình phóng khoáng, đại lượng, dù bị ai chơi gác cũng chẳng hề giận. Chàng vui vẻ cùng Kính Thanh ăn uống lại còn khen gã khéo chọn thực đơn! Thái độ của chàng đã khiến Kính Thanh lấy làm lạ và rất khâm phục.
Gã cảm động nói :
- Tiểu đệ quả may mắn khi được làm em của Nam Cung đại ca!
Chàng cười khà khà :
- Ngươi đừng tưởng bở, nếu sau này ngươi phạm lỗi thì đại ca sẽ phát vào mông đấy!
Kính Thanh thoáng giật mình, chụp chung rượu ngửa cổ uống cạn!
Vài khắc sau bọn tiểu nhị tíu tít mang ghế ra sắp quanh bàn của Đặng Kiệm, chứng tỏ lão đã tới.
Họ Đặng đi cùng với một lão già áo gấm béo phệ, mặt vênh váo ra vẻ quan quyền. Theo sau là hai gã vệ sĩ to như hộ pháp sắc điệu dữ dằng. Hai gã này không được phép ngồi, đứng hầu như pho tượng.
Nam Cung Giao nhận ra Đặng Kiệm nhờ nốt ruồi son trên sóng mũi.
Chàng chăm chú quan sát vị biểu huynh của mình, lòng thoáng ái ngại.
Đặng Kiệm khá anh tuấn, người dong dỏng cao, râu thưa, tóc đen nhánh, mắt sáng, thường liếc nhanh.
Nam Cung Giao không thích cái cảnh Đặng Kiệm đi đâu cũng mang theo hộ vệ một cách trưởng giả như vậy!
Nhưng Mộc Kính Thanh đã hạ giọng nhận xét :
- Đại ca! Lão già cao gầy kia có tướng mạo của một kẻ gian tham, phản trắc!
Nam Cung Giao giật mình :
- Sao hiền đệ lại dám khẳng định như vậy?
Kính Thanh mỉm cười tự hào :
- Tiểu đệ được chân truyền khoa Ma y thần tướng của gia phụ, chưa hề nhìn lầm người!
Nam Cung Giao bán tín bán nghi, tự nhủ sẽ dò hỏi cho kỹ rồi mới tiếp xúc với Đặng Kiệm! Chàng giễu cợt Kính Thành :
- Sao ngươi không trổ tài xem tướng rồi hãy tìm chỗ ngồi mà cứ phải đi lòng vòng như ăn mày vậy?
Kính Thanh gượng cười :
- Thiện ác thì dễ phân biệt nhưng tật bủn xin thì tiểu đệ chẳng thể nhìn ra!
Hai người thù tạc thêm nửa canh giờ thì bọn Đặng Kiệm rời quán. Có lẽ họ đến đây để bàn bạc chuyện gì đó chứ chẳng phải là uống rượu ngắm cảnh.
Nam Cung Giao cũng muốn trở về khách điếm, định từ giả Kính Thanh thì phát hiện gã đang nhìn về phía thang lầu với ánh mắt sợ hãi.
Chàng nhìn theo, thấy một lão già to béo, râu tóc hoa râm, mặt vàng võ và võ phục cũng toàn một màu vàng rực rỡ!
Sau lưng lão còn có hai hán tứ áo trắng tuổi tam tuần, sắc diện cũng vàng vàng trông rất giả tạo và quái dị.
Mộc Kính Thanh thớ dài nói nhỏ :
- Đại ca! Kẻ thù của tiểu đệ đã tìm đến, cái mạng thỏ bé này e khó bảo toàn! Xin cảm tạ thịnh tình của đại ca, kiếp sau sẽ báo đền!
Nam Cung Giao nhíu mày :
- Họ là cao nhân phương nào vậy? Và vì sao ngươi lại kết oán thù với họ?
Mộc Kính Thanh rầu rĩ đáp :
- Kim Diện cung ở Từ Châu quen thói ỷ thế hiếp người. Bảy tháng trước tiểu đệ vì cứu một dân nữ nên va chạm với gã Thiếu cung chủ Tiền Thanh Giám. Tiểu đệ đâm thủng bụng dưới của gã dâm tặc nên bị Kim Diện cung truy sát.
Nam Cung Giao mỉm cười :
- Sao ngươi không hạ thủ thấp xuống nửa gang để gã đổi tên thành Tiền Thái giám cho xong?
Mộc Kính Thanh có nước da rám nắng nên không biểu hiện được sự hổ thẹn, nhưng đôi mắt to đen của gã thì chẳng giấu nổi ai. Gã nhăn nhó :
- Tiểu đệ đang gặp nguy mà đại ca còn bỡn cợt được ư?
Lúc này, Hoàng Y lão Giả đã phát hiện ra Mộc Kính Thanh, liền bước đến.
Nam Cung Giao nói nhanh:
- Ta sẽ giúp Thanh đệ một tay. Nhưng nếu địch không lại thì phải bỏ chạy ngay!
Kính Thanh không ngờ Nam Cung Giao lại dám vì mối tình sơ ngộ mà động chạm đến một đối thủ đáng sợ như Kim Diện cung!
Gã bật cười :
- Đại ca đã chí tình như vậy thì tiểu đệ chẳng thèm chết nữa!
Lúc này, lão áo vàng đã đứng cách bàn một trượng, cất giọng âm trầm :
- Mộc tiểu tử! Người của Kim Diện cung đã vây chặt nơi này, ngươi đừng mong tẩu thoát! Hãy khôn hồn mà bó tay chịu trói!
Mộc Kính Thanh phá lên cười hăng hắc :
- Kim Diện cung dung dưỡng cho đệ tử ức hiếp lương dân, bị bổn thiếu hiệp trừng trị là thích đáng lắm rồi, sao còn đến đây diệu võ dương oai? Ta là tùy tướng của Tổng trấn Quân vụ Tích Giang, cùng các bậc anh hùng hảo hán đây dầy công hạng mã tiêu diệt giặc Phù Tang, ai dám đụng vào là có ý làm phản đấy!
Các hào khách võ lâm nghe họ Mộc tán tụng mình là anh hùng, khoan khoái ưỡn ngực, nhìn bọn Kim Diện cung với ánh mắt đe dọa.
Dù họ không ưa gì Mộc Kính Thanh nhưng dẫu sao mấy tháng qua cũng từng cùng tham chiến đấu!
Lão già áo vàng chính là Hộ cung Đệ tam Kiếm sứ, tên gọi Tưởng Phi Diên. Thấy Mộc Kính Thanh được sự đồng tình của nhiều người, họ Tưởng hơi chột dạ.
Lão nham hiểm nói :
- Đã làm thì phải có gan chịu, sao lại kéo người khác vào đỡ đòn? Nay ngươi đã giải ngũ, lão phu sợ gì mà không dám hỏi tội? Còn ai muốn kết oán với Kim Diện cung thì lão phu chẳng dám ngăn cản!
Thanh danh Kim Diện cung lừng lẫy võ lâm hơn chục năm nay nên quả là ít có ai muốn chuốc họa vào thân! Hơn nữa, Tưởng Phi Diên còn vòng tay nói với quần hào :
- Kính cáo chư vị anh hùng! Rằm tháng này, bổn cung sẽ mở lôi đài tuyển lựa người tài đức để sánh duyên với Thần nữ Kim Diện cung là Tiểu thư Tiền Vân Mị Lão phu thay mặt bổn cung, mời chư vị thiếu hiệp đến tham dự!
Tiền Vân Mi là tuyệt thế mỹ nhân, tuổi đôi mươi được đám hào kiệt võ lâm tôn thờ khao khát. Nay nghe tin nàng kén chồng, ai nấy hớn hở nói cười quay sang ủng hộ Kim Diện cung, cứ như mình đã thành rể đông sàng vậy!
Một hán tử cao to lên tiếng :
- Này tiểu tử họ Mộc! Ngươi mau bó giáp qui hàng để Tưởng tiền bối còn phải về cung chuẩn bị lôi đài nữa!
Mộc Kính Thanh không ngờ gậy ông đập lưng ông, hậm bực đáp :
- Hạng tôm tép như Hồ Nhị ngươi mà cũng mơ tưởng làm chồng Tiền Vân Mi hay sao mà lại vuốt mông Kim Diện cung? Trong phòng the thì cái lỗ mũi to tướng, xấu xí của ngươi sẽ dùng được vào việc gì?
Hán tử họ Hồ kia quả đúng là có cái mũi to quá khổ, đỏ như chu sa, đầy những gân máu vì rượu chè. Miệng lưỡi của Mộc Kính Thanh sắc bén và độc ác luôn đánh thẳng vào nhược điểm của kẻ khác.
Quần hào phá lên cười, và có người bật thốt :
- Để ngửi trung tiện của mỹ nhân chớ để làm gì!
Hồ Nhị thẹn chín người, bị nhấn chìm trong trận bão cười làm cung chuyển tửu lâu!
Hộ Cung Kiếm Sứ Tưởng Phi Diên bực bội nói :
- Mộc Kính Thanh! Mau đứng lên theo lão phu về Kim Diện cung chịu tội!
Lão và hai thủ hạ rút kiếm thị uy!
Bỗng Nam Cung Giao cao giọng gọi :
- Tiểu nhị đâu?
Gã hầu sáng vội chạy đến.
Chàng chỉ Tưởng Phi Diên và nói :
- Ta ăn chưa xong mà bị phá đám, vậy người hãy tính tiền bàn này cho lão!
Gã tiểu nhị bói rối nhìn họ Tưởng, chẳng biết làm sao. Trong đám quần hào cũng có những người không ưa gì Kim Diện cung, hoặc biết chắc mình chẳng thể trở thành phu quân của Thần Nữ, nên chẳng đứng về phe nào cả! Họ vui vẻ đưa Tưởng Phi Diên vào thế kẹt!
- Đúng vậy! Trời đánh còn tránh bữa ăn, Kim Diện cung phải
thanh toán tiền cho tửu lâu, chẳng lẻ vài lượng bạc cũng chẳng có?
Tưởng Phi Diên giận run người, sắc mặt càng vàng thêm. Lão hậm hực hỏi tiểu nhị :
- Bao nhiêu?
Gã nhẩm tính rồi cung kính đáp :
- Bẩm lão gia năm mươi sáu lượng!
Họ Tưởng giẫy nẩy :
- Làm quái gì mà nhiều thế?
Gã tiểu nhị gải đầu, mỉm cười cầu tài :
- Bẩm lão gia! Họ gọi toàn món đắt tiền nhất của bổn điếm! Riêng vò rượu Thiệu Hưng năm chục năm này cũng đã trị giá đến mười hai lượng!
Có ai đó khích bác :
- Chưa đến sáu chục lượng mà đã sợ xem ra Kim Diện cung cũng chẳng giàu có gì!
Tưởng lão hậm hực móc hầu bao trả đủ số, rồi nhìn Nam Cung Giao bằng cặp mắt oán hận :
- Ngươi dám hí lộng lão phu là không còn muốn sống nữa rồi!
Nam Cung Giao tủm tỉm nói :
- Cảm tạ lão trượng đã chiêu đãi anh em tại hạ xin cáo từ!
Vừa dứt lời, chàng và Mộc Kính Thanh tung mình qua lan can, rơi thẳng xuống vườn hoa.
Có đến mười gã môn đồ của Kim Diện cung chờ sẳn, vung kiếm tấn công hai kẻ đào tẩu.
Mộc Kính Thanh đã rút cây nhuyễn tiên dài nửa trượng quanh lưng ra, mũi roi như đầu độc xà mổ nhanh vào ngực, bụng hai gã áo trắng trước mặt. Bọn này đều thuộc đội Bạch Y, cận vệ của Kim Diện cung, kiếm thuật rất cao cường, tính tình tàn độc nổi tiếng giang hồ. Đấu pháp của họ lại cực kỳ hung hãn và liều lĩnh nên đã vô hiệu hóa đước đường roi của Mộc Kính Thanh. Nếu gã đả thương đối phương thì bản thân cũng khó mà lành lặn.
Nhưng Nam Cung Giao không có cái tâm mềm yếu như họ Mộc, chàng múa kiếm tấn công như vũ bão, đánh bạt vũ khí đối phương, trong chớp mắt đã phá thủng vòng vây, mở đường cùng Kính Thanh chạy đến cuối vườn, nhảy qua tường vây, hòa với dòng người trên đường.
Tưởng Phi Diên đã xuống đến, đuổi theo và thất vọng quay lại mắng mỏ thủ hạ :
- Bọn ngươi quả là vô tích sự, mười người mà không ngăn nổi hai gã nhãi ranh kia!
Một gã nhăn mặt biện bạch :
- Bẩm Hộ Cung! Tên Họ Mộc thì không đáng kể nhưng gã áo lam kia có chiến thuật cao siêu và công lực vô cùng thâm hậu. Bọn thuộc hạ chạm vào kiếm của gã đều bị rách hổ khẩu. May mà gã chẳng có ý giết người, nếu không thì!
Tưởng Phi Diên giật mình :
- Lạ thực! Tuổi gã ấy chỉ độ đôi mươi, sao lại có bản lãnh đáng sợ như vậy? Lão phu phải về cung bẩm báo và xin thêm cao thủ mới được.
Kim Diện cung rút quân, còn quần hào trở lại chỗ ngồi, xôn xao bàn tán về chàng trai lạ mặt.
Họ không biết tên, nên Nam Cung Giao vẫn chẳng thể nổi tiếng được!
Lúc này, Mộc Kính Thanh và Nam Cung Giao đang giã từ nhau trước cửa khách điếm.
Họ Mộc cười hì hì :
- May mà đại ca thần dũng tuyệt luân nên anh em ta mới thoát chết! Ơn này tiểu đệ chẳng dám quên, giờ xin cáo biệt! Sáng mai, tiểu đệ sẽ đến dây cùng đại ca dùng điểm tâm!
Nam Cung Giao quyết định hạ thủ Mạc Tôn Long trong đêm nay nên không giữ Kính Thanh ở lại. Chàng gật đầu, móc hầu bao đưa cho gã ba tờ tiền giấy Đại Minh Thông Hành Bảo Sao, trị giá ba trăm lượng bạch ngân và nói :
- Làm huynh trưởng, ta chẳng thể để ngươi thiếu thốn được. Hãy cầm lấy số bạc này mà tiêu xài!
Kính Thanh cảm động nhận lấy rồi nhấp nháy đôi mắt tinh ranh :
- Phải chăng đại ca đưa bạc ra để dũ bỏ đứa em xấu xí, tội nghiệp này?
Quả thực, Nam Cung Giao có ý ấy! Chàng không muốn Kính Thanh đi theo mình và bị liên lụy. Tội giết mệnh quan của triều đình không phải là nhỏ.
Bị nói trúng tim đen chàng hết lòng khâm phục cơ trí của Kính Thanh, cao hứng phát mạnh vào mông :
- Tiểu quỷ ngươi quả là thông tuệ! Ta đã chán ngán ngươi lắm rồi!
Kính Thanh nhăn nhó xoa mông, ấp úng trách móc :
- Đại ca kỳ quá!
Nam Cung Giao cười khà khà bỏ đi vào lữ quán của mình.
Mộc Kính Thanh đứng tần ngần một lúc, chợt mỉm cười rồi đi về hướng khác.



Đầu canh ba, Nam Cung Giao đã có mặt trên mái ngói dinh Tri phủ Giang Tô Mạc Tôn Long.
Tư gia của họ Mạc chỉ cách phủ đường và doanh trại quân triều đình chừng nửa dặm. Do đó, việc hạ sát Mạc tri phủ là cực kỳ mạo hiểm, nếu bị lộ, quan quân mà đến bao vây, chàng khó mà thoát nổi.
Đông đã về, tuy tuyết chưa rơi nhưng tiết trời lạnh giá.
Nam Cung Giao đã khoác thêm áo lông cừu đen, vừa chống lạnh, vừa ngụy trang cho cơ thể to lớn thêm ra. Tất nhiên, chàng đã chụp túi vải đen trên đầu, để che dấu dung mạo lẫn tuổi tác. Đối phương không nhận thấy tóc sẽ khó mà đoán được!
Theo Vương pháp thì mệnh quan mỗi địa phương phải cư trú ngay trong huyện đường, hay phủ đường, để kịp thời đối phó với những biến cố dù ngày hoặc đêm. Nhưng thực ra, bọn tham quan đều có cơ ngơi riêng đầy đủ tiện nghi, khi phải chuyển nhiệm sở họ dễ dàng bán lãi với giá cao.
Mạc Tôn Long cũng là một tên tham quan, lại may mắn trị nhậm vùng đất thịnh vượng giàu có là Giang Tô nên bòn mót được một tài sản rất lớn. Nhà riêng của lão chẳng phải chỉ một căn năm ba gian, mà là cả một trang viện đồ sộ, có đến mấy chục phòng, chưa kể những tòa nhà tiểu viện nằm giữa vườn hoa rộng.
Nam Cung Giao bối rối, không biết kẻ thù cư ngụ ở đâu mà tìm đến, đành phải giở hạ sách là bắt một người mà tra hỏi.
Nhưng có lẽ cái chết của Nam Kinh Binh bộ Thượng thư Quách Tường An đã khiến bọn tham quan chột dạ, nên Mạc gia trang được canh phòng rất nghiêm mật. Bọn vệ binh đi tuần tra liên tục và họp thành nhóm chứ không đi lẻ.
Nam Cung Giao chuyển nhanh trên mái ngói, cố tìm một con mồi.
Trời lạnh, ai cũng đóng chặt cửa phòng, quấn mền ngủ say như chết, dẫu có tiêu tiểu cũng xả vào bô chứ chẳng ra ngoài.
Nam Cung Giao lần mò một lúc lâu, chán nản định quay về khách điếm thì phát hiện căn nhà kho ở cạnh vườn hoa phía sau bốc cháy ngùn ngụt.
Đấy là nơi chứa dụng cụ làm vườn, mái lợp ngói nhưng vách bằng gỗ, nhà kho còn tiếp giáp với bếp và vài công trình nữa.
Lửa cháy rất mạnh, dường như có người tưới dầu rồi phóng hỏa.
Tiếng báo cháy vang dội đêm trường tĩnh mịch, người trong Mạc gia trang kéo đến dập lửa.
Ánh sáng từ đám cháy đã giúp Nam Cung Giao nhận ra một bóng đen đã vượt tường phía sau đào tẩu.
Chàng thở dài rủa thầm trong bụng rằng mình xui xẻo, đến đây đúng lúc Mạc Tôn Long bị trộm viếng nhà, không chừng còn mang họa thay cho tên đạo chích!
Nhưng chàng cũng tự hỏi vì sao gã kia lại phải phóng hỏa rồi mới thoát ra? Gã vác một bọc lớn trên vai tức là đã đắc thủ, đâu cần đánh động khổ chủ làm gì?
Mạc Tôn Long đã xuất hiện, y phục xốc xếch, cao giọng đốc thúc bọn vệ binh và gia đinh chữa cháy.
Tuy lão đã già hơn xưa hai mươi mấy tuổi nhưng Nam Cung Giao vẫn nhận ra những nét quen thuộc. Mẫu thân chàng là bậc tài hoa, đã vẽ lại dung mạo lẫn thần khí của từng kẻ thù. Hơn nữa, qua những lời xưng hô, đối thoại của lão già râu ba chòm đạo mạo kia với bọn thủ hạ, chàng có thể đoán chắc được lai lịch!
Nam Cung Giao hiểu ngay rằng đây là cơ hội hiếm có để chàng hạ sát lão họ Mạc, liền nhảy xuống đất, tìm chỗ thuận tiện mà ẩn thân, rồi bất ngờ điểm ngã một tên vệ binh. Chàng chụp lấy chiếc nón lá dứa của gã lên đầu mình xách thùng nước chạy đến đám cháy.
Trong cảnh hỗn loạn, ánh sáng nhá nhem chập chờn này, chẳng ai để ý đến việc có gã vệ binh lại mặc áo lông cừu đen, tay cầm kiếm chứ chẳng phải đao.
Nam Cung Giao nhẹ nhàng tiến đến sau lưng Mạc tri phủ, vung cước đá thẳng vào hậu tâm kẻ thù.
Tuy xuất thân võ tướng nhưng sau nhiều năm cai trị chỉ lo hưởng lạc, bỏ bê việc rèn luyện, nên Mạc Tôn Long không thể phát hiện được tai họa.
Thân hình lão văng xa hai trượng rơi xuống mảnh sân gạch của căn nhà kho đang cháy.
Tiếng rú thảm khốc của lão đã khiến bọn gia đinh choáng váng, lao đến cứu ra khỏi vùng lửa nóng hừng hực. Do tư thế lúc văng đi, có người còn tưởng quan Tri phủ dũng cảm phi phàm, đã vận thành công nhảy vào tận hỏa trường để làm gương cho thủ hạ, không may trượt chân té ngã!
Nam Cung Giao đã nhanh chân lẩn mất, an toàn thoát ra. Chàng tin chắc Mạc Tôn Long không thể sống sót được!
Pho quyền pháp tổ truyền của họ Nam Cung rất chú trọng đến những đòn chân, và chàng đã luyện đến mức có thể đá gãy thân cây đường kính một gang!
Sáng ra, Nam Cung Giao vừa vệ sinh xong thì có tiếng gọi cửa :
- Nam Cung đại ca! Tiểu đệ đến dùng điểm tâm với đại ca đây!
Biết khách là tiểu tử thọt chân, miệng méo Mộc Kính Thanh, chàng mỉm cười bước ra mở cửa!
Kính Thanh vào phòng ngồi phịch xuống chiếc đôn sứ cạnh bàn, vui vẻ nói :
- Đêm qua cường đạo đột nhập Mạc gia trang, giết chết quan Tri phủ, vét sạch tủ vàng bạc và còn phóng hỏa đốt nhà. Sáng nay, quan quân đã phong tỏa cửa thành, cho lục soát khắp nơi để tìm hung thủ. Không sớm thì muộn, chúng cũng mò đến đây!
Nam Cung Giao chau mày :
- Ngươi có biết cửa thành sẽ bị phong tỏa mấy ngày không? Ta đang muốn rời khỏi chốn này!
Mộc Kính Thanh đáp :
- Ngoài vô thì được nhưng ở trong ra sẽ bị khám xét gắt gao!
Nam Cung Giao thở phào :
- Thế thì không sao! Ta đâu có mang theo tang vật!
Kính Thanh mỉm cười bí ẩn :
- Vậy đại ca cứ soạn sẵn hành lý, lát nữa ăn uống xong chúng ta sẽ cùng đi.
Nam Cung Giao mở tủ gỗ thu xếp y phục, chợt phát hiện một bọc vải khá lớn. Chàng kinh hãi mở ra xem, chết điếng người khi thấy toàn là vàng ngọc, số lượng nhiều gấp bốn năm lần số của cải mà chàng đã lấy của Binh bộ Thượng thư Quách Tường An!
Nhớ đến vóc dáng nhỏ nhắn của tên đạo chích đêm qua, chàng thức ngộ ngay vai trò của Mộc Kính Thanh.
Nam Cung Giao hít một hơi dài trấn tĩnh, cầm kiếm quay trở ra. Chàng quắc mắt nhìn gã thọt, lạnh lùng hỏi :
- Vì sao ngươi lại muốn giá họa cho ta?
Kính Thanh chẳng hề sợ hãi cười hì hì :
- Đại ca giết người còn tiểu đệ thì cướp của, chẳng xứng đôi lắm sao?
Đôi mắt Nam Cung Giao bắn ra những tia sát khí, chàng nghiến răng nói :
- Ngươi đã cố tình khám phá bí ẩn của ta, có chết cũng đừng oán hận!
Kính Thanh rùng mình khiếp vía, xua tay nói liến thoắng :
- Đại ca đừng hiểu lầm! Tiểu đệ thấy đại ca chẳng có chút kinh nghiệm giang hồ mà dám làm chuyện tày trời nên theo để giúp đỡ, chuyện trộm của chỉ là tiện tay mà làm đấy thôi! Đêm qua, nếu tiểu đệ không đốt nhà kho thì liệu đại ca có giết được kẻ thù hay không? Tiểu đệ còn phóng hỏa cả kho lương thảo trong doanh trại quân triều đình, nhờ vậy họ mới chậm chân, không đến Mạc gia trang hổ trợ!
Nam Cung Giao thầm công nhận Kính Thanh có lý! Chàng đã nhìn thấy ngọn lửa trong khu doanh trại của quân sĩ trấn thủ Tô Châu! Chàng dịu giọng :
- Đúng là ngươi đã giúp ta! Nhưng từ nay đường ai nấy bước. Ta không sát nhân diệt khẩu cũng vì câu huynh đệ, ngươi hãy đi đi!
Kính Thanh thản nhiên bấm tay :
- Nam Kinh Binh bộ Thượng thư là một, Tri phủ Giang Tô là hai, dám hỏi đại ca còn định giết bao nhiêu vị quan lớn nữa?
Nam Cung Giao biến sắc, không ngờ Kính Thanh lại suy ra cả việc chàng là hung thủ giết Quách Tường An! Gã còn sống là bí mật tày đình kia sẽ khó bảo toàn.
Chàng lẩm bẩm :
- Kính Thanh! Cái đầu thông minh kia đã hại ngươi rồi đấy!
Kinh Thanh đứng phắt dậy, bước đến rầu rĩ nói :
- Đại ca không tin tiểu đệ thì cứ xuất thủ! Thanh này thực lòng yêu mến, muốn giúp đại ca báo phục thù sâu để đền ơn tri ngộ! Tiểu đệ tuy yếu đuối nhưng lão luyện giang hồ, dẫu đầm rồng hang hổ cũng coi thường!
Ánh mắt thành thực, thiết tha của gã khiến chàng rúng động, thở dài hỏi lại :
- Ngươi theo ta giết hại mệnh quan của triều đình, không sợ tội tru di hay sao?
Kính Thanh biết chàng đã mềm lòng, liền cười hăng hắc :
- Tiểu đệ đầu đầy mưu ma chước quỷ hành sự lại chu đáo, thận mật đến mức quỷ thần không hay biết thì còn sợ gì nữa!
Và gã quì ngay xuống lạy chàng tám lạy cất tiếng thề thốt :
- Mộc Kính Thanh tôi xin Hoàng thiên Hậu thổ chứng giám cho tấm lòng thành đối với nghĩa huynh Nam Cung Giao. Tuy chẳng đồng sinh nhưng thề đồng tử, nếu sinh lòng phản trắc sẽ chết chẳng toàn thây!
Nam Cung Giao biết chẳng thể chối từ việc kết nghĩa, cũng quì xuống đáp lễ! Chàng thấy mắt đối phương ướt rượt vì cảm động, cũng nghe nao nao trong dạ, liền ôm đứa em xấu xí, tinh quái và nói :
- Cảm tạ hiền đệ!
Chàng chợt phát hiện đối phương mềm mại như nữ nhân, bèn trách móc :
- Chắc ngươi lười biếng luyện công, suốt ngày lăn lóc chốn kỹ viện nên thân thể mềm nhão, chẳng xứng đáng là bậc trượng phu!
Kính Thanh giãy giụa thoát khỏi vòng tay chàng, cười đáp :
- Đúng là tiểu đệ hơi háo sắc, nhưng việc cơ bắp thiếu rắn chắc, là do Nhuyễn Cốt tâm pháp gia truyền. Nếu cứng cáp như đại ca thì làm sao chui lọt qua song cửa nhà người ta được?
Nam Cung Giao phì cười :
- Công phu đạo chích của ngươi xem ra cũng cao cường, cớ sao lại rỗng túi như vậy?
Kính Thanh nhơn nhơn đắc ý :
- Tiểu đệ là hiệp đạo, lấy của người giàu cứu tế người nghèo, không nghĩ đến bản thân nên mới túng thiếu!
Nam Cung Giao cau mày :
- Nếu đem tang vật phân phát cho họ chẳng khác gì vu oan giá họa ư?
Kính Thanh cười nắc nẻ :
- Đại ca quả là khờ khạo! Đương nhiên là tiểu đệ có chỗ tiêu thụ vàng ngọc, biến nó thành tiền bạc chứ! Ngay trong thành Tô Châu này cũng có kẻ chuyên tiêu thụ của gian, người thứ nhất là lão Đặng Kiệm, người thứ hai là Hà Tam Nương. Tiểu đệ không tin họ Đặng nên chưa bao giờ giao dịch với lão ta!
Nam Cung Giao giật mình dò hỏi :
- Tư cách họ Đặng thế nào?
Kính Thanh ra vẻ quan trọng, trợn mắt nói :
- Đặng Kiệm gian xảo như hồ ly, liên kết với bọn quan lại Giang Tô mà làm giàu. Lão vốn là Bang trưởng của người An Nam, song lại bóc lột đồng hương chẳng chút xót thương. Lão trả lương họ rẻ mạt và còn cắt xén ngân quỹ của bang!
Nam Cung Giao nghe lửa giận bừng lên, cười nhạt hỏi :
- Vì sao ngươi lại biết rõ như vậy?
Kính Thanh bực bội vì bị nghi ngờ :
- Trong thành này có một xóm nghèo gồm rất nhiều người Giao Châu. Tiểu đệ quen với một phụ nhân bán cháo lòng được bà ta kể cho nghe! Bà ta rất tốt bụng, mỗi lúc không tiền, tiều đệ thường đến ấy ăn chịu? Một người như thế thì nói xấu Đặng Kiệm làm gì?
Nam Cung Giao gật gù :
- Hay lắm! Ta nghe nói người An Nam nấu cháo lòng heo rất ngon, anh em ta sẽ điểm tâm bằng món ấy!
Kính Thanh tán thành :
- Sẵn dịp, tiểu đệ sẽ mang số châu báu này đi đổi thành ngân phiếu cho tiện!
Nam Cung Giao liền lấy cả số bảo ngọc của mình đưa cho gã.
Kính Thanh cười khanh khách :
- Phải chăng đây là tài sản của lão Quách thượng thư?
Nam Cung Giao tủm tỉm đáp :
- Ta cũng là một hiệp đạo như ngươi vậy!



Hai người tới lữ điếm đi về hướng Đông thành, hơn khắc sau đến một xóm nhỏ nghèo nàn, nhà cửa lụp xụp vật liệu chỉ toàn tre trúc và gỗ lá.
Đường đi ở khu vực này không được lót đá nên gồ ghề, đầy những ổ gà do cơn mưa hạ để lại. Có dăm đứa tiểu đồng đang chơi trò đánh đáo, nói với nhau bằng một thứ ngôn ngữ kỳ lạ, pha trộn giữa tiếng Hán và tiếng An Nam!
Nam Cung Giao nghe lòng rộn lên cảm giác ấm cúng, cứ như được về thăm quê mẹ. Đồng thời, vẻ nhếch nhách, rách rưới của lũ trẻ khiến chàng phẫn nộ khi nghĩ đến cảnh giầu sang tột bực của Đặng Kiệm! Với tài sản kếch sù hiện nay, lão thừa sức tặng cho những đứa bé tội nghiệp kia một chiếc áo bông lành lặn ấp áp!
Thế mà lão lại còn ăn cắp những đồng tiền mồ hôi nước mắt của cha mẹ chúng, hành vi ấy không thể tha thứ được!
Quán cháo lòng của Nguyễn Đại Nương nằm ở giữa xóm, đối diện với giếng nước chung. Cơ ngơi của bà khá khang trang vì mái được lợp ngói, sàn lát gạch nung, vách ván, chung quanh trổ cửa sổ rộng, có lẽ món cháo lòng và bầu rượu đã giúp thực khách chống lạnh nên vẫn mở toang hoác để đón gió Đông.
Trên nền gạch vuông vức mỗi bề hai trượng này bày biện tám chiếc bàn thấp, mỗi bàn có thể ngồi được bốn người.
Nồi cháo đang nghi ngút hơi nóng kia được đặt ngay cạnh cửa ra vào, phía sau là một phụ nữ tuổi trạc năm mươi, mập mạp, phúc hậu.
Nguyễn Đại Nương luôn tươi cười, ngay cả lúc khách bảo rằng mình ăn chịu!
Phụ giúp bà là một lão già chính gốc Hán tộc và một thiếu nữ tuổi đôi chín. Họ là chồng và con gái của Đại Nương!
Thấy Kính Thanh, Đại Nương hớn hở chào :
- Đã hơn tháng nay không thấy thiếu hiệp đến ăn cháo!
Bà chợt khựng lại, nhìn chăm chú chàng trai lạ mặt đi cạnh họ Mộc.
Dường như ở chàng có những nét quen thuộc với bà?
Kính Thanh cười khanh khách :
- Tại hạ còn thiếu Đại Nương ba mươi bảy tô cháo và hai mươi tám bình rượu, đành phải đi xa, kiếm bạc về thanh toán!
Nguyễn Đại Nương mỉm cười :
- Có đáng bao nhiêu đâu mà thiếu hiệp phải bận tâm.
Chồng con của Đại Nương cũng lộ vẻ mừng rỡ.
Dương lão trợn mắt nạt :
- Ngươi không đến đây tán gẫu khiến lão phu buồn muốn chết được!
Còn cô gái Dương Tiểu Tĩnh thì đỏ mặt liếc Kính Thanh bằng cặp mắt hân hoan.
Nam Cung Giao cười thầm, tự hỏi gã họ Mộc xấu xí tàn tật này có gì hay ho mà lại được nhiều người yêu mến như vậy?
Hai người ngồi xuống, sì sụp ăn cháo, và chiêu thêm vài ngụm rượu cho ấm dạ.
Thực khách ở đây có cả người Hán vì đa số các nhà trong xóm đều hình thành bởi cuộc hôn phối giữa hai dân tộc.
Người Trung Hoa có khả năng đồng hóa rất mạnh, song người Giao Châu lại luôn sống chết gìn giữ bản sắc, cho nên đám đàn ông người Hán trong xóm nói tiếng An Nam rất sõi!
Điều này chứng to nữ nhân Giao Chỉ giỏi nghề dạy chồng hơn nữ nhân Trung Hoa!
Chính phe nữ giới của mỗi dân tộc mới thực sự có công lao trong việc luôn giữ nguồn cội! Họ ru con, dạy con bằng ngôn ngữ mẹ đẻ, kể cho chúng nghe những câu chuyện cổ tích, nói về các danh nhân, anh hùng trong lịch sử, miêu tả cảnh vật nơi cố quận xa xăm. Do vậy, dù mang hai giòng máu nhưng
những đứa trẻ có mẹ là người Giao Chỉ mãi mãi hướng về phương Nam như loài chim Việt chỉ làm tổ ở cành Nam.
Nam Cung Giao cũng ở trong trường hợp này, nhất là khi chàng có hai ngón chân cái đặc biệt của người Giao Chỉ.
Ăn xong, chàng nhâm nhi hớp rượu gạo, miên man suy nghĩ và buột miệng ngâm :
Hồ mã tê bắc phong
Việt điểu sào Nam chi!
Dịch :
Ngựa hồ hí gió bấc
Chim việt ở cành Nam!
Bàn chàng gần vị trí nồi cháo nên Nguyễn Đại Nương nghe thấy. Bà tủm tỉm hỏi :
- Thiếu hiệp quê ở đâu mà lại ngâm hai câu thơ ấy?
Chàng kính cẩn đáp :
- Bẩm Đại Nương! Tại hạ quê ở Cán Châu, Quảng Đông!
Ánh mắt bà chìm xuống, lộ vẻ thất vọng!
Kính Thanh cạn chung, gãi đầu :
- Chết thực! Tại hạ vì quá mãi ăn cháo nên quên không giới thiệu vị nghĩa huynh của mình với đại thúc, đại nương. Đây là Nam Cung đại ca tên Giao!
Họ Nam Cung thuộc nòi Hán tộc chính gốc nên Nguyễn Đại Nương chẳng hỏi thêm.
Bỗng từ ngoài có khách mới bước vào. Lão già võ phục đen bạc phếch này tuổi độ sáu mươi, có thân hình vạm vỡ, to ngang, hông đeo đơn đao, tướng mạo rất oai phong. Tóc lão hói trụi chỉ còn ít sợi lưa thưa quanh đầu.
Mắt lão dài nhỏ, mũi lân to và đỏ ứng, miệng rộng để lộ hàm răng trắng nhớn chắc khỏe!
Lão nhân ngồi xuống bên một bàn trống, cao giọng gọi bằng tiếng An Nam :
- Một tô cháo lòng!
Cả quán ôm bụng cười vang vì họ đều hiểu tiếng Giao Châu.
Lão già hói kia đã phát âm sai chữ lòng thành chữ gì thì chư vị độc giả tự hiểu lấy.
Lão nhân hói đầu bực bội gắt :
- Làm gì mà các ngươi cười hô hố như vậy? Ở đây bán cháo lòng thì lão phu gọi cháo lòng chứ sao?
Sự lập đi lập lại âm ngữ gợi cảm kia đã khiến mọi người càng cười nôn ruột.
Đám nữ nhân đỏ mặt tía tai chẳng dám ngẩng lên.
Nguyễn Đại Nương vui vẻ hỏi :
- Không hay lão huynh học tiếng An Nam ở đâu vậy?
Lão hậm hực đáp :
- Lão phu quen mụ già bán rượu ở cửa Nam thành đã nửa năm nay, cố công học nói tiếng Giao Châu để cưới mụ ta!
Kính Thanh cười hì hì :
- Vậy phải chăng đây là lần đầu tiên các hạ đi ăn cháo lòng?
Lão nhân gật đầu :
- Đúng thế! Hôm qua lão phu mới được biết đến danh tiếng của quán cháo này!
Lão ngập ngừng, bẽn lẽn nói tiếp :
- Lão phu nghe nói nới đây có bán chịu, chừng nào trả cũng được phải không?
Vẻ mặt ngượng ngùng, áy náy của lão trông thật đáng thương, thực khách lại cười! Thấy tội nghiệp, Nguyễn Đại Nương hiền hòa nói :
- Lão huynh cứ tự nhiên ăn uống, khi nào có tiền thì mang đến trả cho thiếp cũng được!
Lão nhân đầu hói mừng rỡ đáp :
- Thế thì phiền bà chủ cho thêm một bình rượu nhỏ và một dĩa.. lòng.. riêng!
Lão đã ngập ngừng, cố sửa từ lòng cho giống mọi người nhưng không thành công!
Kính Thanh phì cười :
- Chẳng thà lão nói tiếng Hán cho xong, hà tất phải khổ sở như vậy?
Gã chợt nhớ ra điều gì đó, quay lại hỏi Nam Cung Giao :
- Dường như đại ca cũng biết tiếng An Nam nên mới cười hoài như vậy?
Nam Cung Giao vội chống chế :
- Ở Cán Châu cũng có người An Nam! Thuở nhỏ ta chơi với lũ trẻ ấy nên biết được vài từ!
Chỉ nửa khắc sau, lão nhân hói đã ăn sạch tô cháo và dĩa lòng, song vẫn tỏ vẻ thòm thèm, liếc trộm Nguyễn Đại Nương.
Nam Cung Giao thấy vậy cười bảo :
- Các hạ cứ việc ăn uống thỏa thích, tại hạ sẽ chiêu đãi!
Đôi mắt như sưng mọng kìa sáng rực lên. Lão cười khà khà bước sang ngồi với mạnh thường quân, vòng tay nói :
- Tứ hải giai huynh đệ! Lão phu là Cuồng Vũ Đao Sách Hán Xương, đất Hà Bắc, vui mừng được kết giao với thiếu hiệp!
Kính Thanh lộ vẻ kinh dị :
- Các hạ oai trấn Hà Bắc sao lại lưu lạc, trầm luân ở chốn này?
Sách Hán Xương phì cười :
- Oai trấn cái khỉ khô gì! Lão phu bị Hồ bang truy sát đành phải ẩn thân đất Tô Châu!
Nam Cung Giao nhíu mày hỏi :
- Nghe nói Bang chủ Hồ bang là Dạ Hồ Sài Tốn đã bị giết ở Nam Kinh chẳng lẻ Bang hội ấy vẫn còn cao thủ lợi hại?
Cuồng Vũ lão nghiêm giọng :
- Sài Tốn chỉ có hư vị mà thôi! Sau lưng lão là Hồ Ly song tiên đại ma đầu khét tiếng võ lâm, võ công cực kỳ lợi hại!
Lão phu nghe bằng hữu từ phương Bắc xuống kể rằng đương kim Bang chủ là Sài Tuấn, con trai của Dạ Hồ! Gã này được Song tiên yêu mến, cho uống kỳ trân dị dược nên bản lãnh còn cao siêu hơn cả cha là Sài Tốn! Hiện nay, Hồ bang đã dời trọng địa về núi Trịnh Sơn ở phía Nam Hoàng Hà, cách Trịnh Châu trăm dặm về hướng Đông Nam!
Thực khách thưa dần, rốt cuộc chỉ còn lại bàn của Nam Cung Giao.
Nguyễn Đại Nương đích thân bưng đến tặng một dĩa tim gan. Bà nhìn chàng bằng ánh mắt nhu hòa mà nói :
- Dung mạo Nam Cung thiếu hiệp rất giống một người quen cũ của tiện phụ khiến lòng này bùi ngùi nhớ lại chuyện xưa!
Nam Cung Giao mỉm cười :
- Chẳng hay người quen cũ của Đại Nương là ai vậy?
Nguyễn Đại Nương hạ giọng :
- Hai mươi mấy năm trước, tiện phụ là nữ binh dưới trướng An Nam nữ tướng quân Đặng Trinh Tâm! Tiếc rằng Đặng Tiểu thư đã trầm mình giữa biển, nếu không tiện phụ sẽ cho rằng thiếu hiệp là con của bà ấy!
Kính Thanh thoáng giật mình, hỏi một câu là lạ :
- Nguyễn Đại Nương! Phải chăng Tri phủ Giang Tô Mạc Tôn Long ngày xưa đã từng có mặt trong đoàn quân chinh phạt An Nam?
Nguyễn Đại Nương đanh mặt đáp :
- Đúng vậy! Lão ta còn là người áp giải tù binh về Trung Hoa. Trên đường đi, Mạc Tôn Long cùng một số võ quan nữa đã cưỡng hiếp khắp lượt các nữ tù nhân, và hành hạ vua quan An Nam. Đặng Tiểu thư chết cũng vì không chịu ô uế tấm thân bởi bọn chó má ấy!
Kính Thanh nghe xong vỗ đùi lẩm bẩm :
- Ta đã hiểu rồi!
Nam Cung Giao biết gã thông tuệ tuyệt luân, đã đoán ra lai lịch mình.
Chàng vội hắng giọng để cảnh cáo gã chớ tiết lộ!
Kính Thanh cười đắc ý, nói lảng sang chuyện khác.
Khi biết Nguyễn Đại Nương là thủ hạ của mẹ mình, Nam Cung Giao hiểu rằng bà đã nói thực về nhân chính của Đặng Kiệm.
Chàng thề sẽ trừng phạt lão Việt gian kia, trả lại đạo công bằng cho những người đồng hương khốn khổ!
Nhưng trước tiên, chàng phải giúp đỡ lão Cuồng Vũ Đao tội nghiệp này cái đã!
Nam Cung Giao lấy ra tờ ngân phiếu năm trăm lượng bạc, đặt xuống trước mắt Sách Hán Xương, từ tốn nói :
- Mong tiền bối vì tình đồng đạo mà hạ cố nhận số bạc mọn này. Khi nào thiếu thốn, tại hạ sẽ đến hỏi xin lại!
Sách Hán Xương ngơ ngẩn nhìn con số ngũ bách lượng, bối rối đáp :
- Lão phu tứ cố vô thân, nghề ngỗng chẳng có, dẫu được số bạc này chắc cũng không xài được bao lâu. Hay là thiếu hiệp cho phép lão phu được tháp tùng kiếm cơm qua ngày?
Mộc Kính Thanh cướp lời huynh trưởng, cười hăng hắc :
- Sách lão quả là khôn ngoan! Đại ca ta là người trọng nghĩa khinh tài, tất sẽ lấy lễ quốc sĩ mà đối xử với lão! Đừng nói no cơm ấm áo, mà phải là bạc vàng rủng rẻn, oai danh lừng lẫy võ lâm!
Sách Hán Xương mở cờ trong bụng, nhưng vẫn cố giữ tư cách, trịnh trọng nói :
- Lão phu sẽ đem pho Cuồng Vũ đao pháp truyền lại cho Nam Cung thiếu hiệp để đền ơn tri ngộ!
Kính Thanh cười sằng sặc :
- Lão tưởng võ công của mình hơn được đại ca ta ư?

Đêm xuống, có ba bóng đen áp sát tường vây Đặng gia trang.
Họ vượt tường, một ẩn lại nơi vườn hoa, hai đi tiếp vào sâu bên trong.
Sau vụ án giết người cướp của ở dinh Mạc tri phủ, các nhà đại phú thành Tô Châu rất sợ hãi, cho gia đinh canh phòng cẩn mật.
Đặng Kiệm giàu nhứt Tô Châu, có tình thâm giao với quan lại địa phương, nên đã được Tổng Binh cho quân sĩ tuần tra vòng ngoài Đặng gia trang.
Bên trong, bầy hổ ngao tám con cũng được thả cửa để cảnh giới.
Từ thời nhà Nguyên, việc giao dịch buôn bán của Trung Hoa với các nước phương Tây đã rất phồn thịnh.
Hàng hóa, vật dụng của Hà Lan, Bồ Đào Nha... rất được bọn nhà giàu ưa chuộng, kể cả chó, mèo.
Chó Tây Dương to lớn, hung dữ, hình dạng giống loài sói, ít sủa mà chỉ âm thầm tấn công kẻ đột nhập.
Nhưng chó nào cũng là chó, và đều thích ăn ngon!
Mộc Kính Thanh là cao thủ thượng thừa trong nghề đạo chích đã chuẩn bị sẵn những miếng thịt bò tẩm thuốc, loại thuốc đặc biệt này có mùi vị rất hấp dẫn và chỉ khiến cho lũ Tây khuyễn rơi vào trạng thái lơ mơ, lười biếng.
Bề ngoài, trông chúng vẫn bình thường, vẫn đi lại được nhưng thực ra, dẫu có ai đá vào mõm, chúng cũng chẳng thèm phẫn nộ.
Do thế, dám gia đinh chỉ chửi lũ chó Tây vô dụng chứ không biết rằng chúng đã bị hạ thủ!
Có tật giật mình, Đặng Kiệm không tốt với đồng hương nên chẳng dám tin tưởng họ. Đám gia đinh trong nhà lão toàn là đám con cháu nghèo bên vợ, công nhân An Nam thì làm việc ở kho xưởng, cách xa Đặng gia trang!

Đêm cuối tháng không trăng nên mới giữa canh hai mà Kính Thanh đã dám đưa Nam Cung Giao đến mục tiêu.
Đây chính là đạo lý cao siêu của nghề trộm cắp, vì lúc này còn nhiều người chưa ngủ, sinh hoạt ồn ào nên tinh thần cảnh giác lơi lỏng. Song, chỉ có những kẻ khinh công xuất chúng mới dám lợi dụng sơ hở này.
May thay, dù chẳng phải phi tặc nhưng thân pháp của Nam Cung Giao cũng nhanh nhẹn, êm ái chẳng kém gì Mộc Kính Thanh. Chàng hồi hộp bám theo sát nút, lòng vô cùng thán phục thủ đoạn lão luyện của y!
Hai người lướt đi như cánh dơi đêm, chẳng hề khua động mái ngói dưới chân, cuối cùng, họ đã có mặt trên nóc đại sảnh, nơi mà Đặng Kiệm đang uống trà, trò chuyện với khách!
Họ Đặng nhẫn tâm bóc lột đồng hương tất chẳng thể là người rộng rãi. Nghĩa là lão keo kiệt đến mức vắt cổ chày ra nước! Dĩ nhiên, lão chẳng dại gì thắp sáng hết cả tòa đại sảnh rộng mênh mông, chỉ cho đốt một ngọn tọa đăng, đặt ngay trên bàn.
Thế là Kính Thanh yên tâm dẫn nghĩa huynh nhảy xuống đất, núp cạnh cứa sổ mà nghe ngóng, quan sát.
Nhận ra khách là hai lão áo nâu, gầy gầy, mặt xương xẩu, lưỡng quyền cao, còn miệng thì nhọn hoắt, Kính Thanh kinh hãi thì thầm :
- Đại ca! Không ngờ Đặng Kiệm lại mời cả Địa Thượng Nhị ở đất Phúc Châu đến bảo vệ cho mình. Hai lão này bản lãnh cao cường, khét tiếng tàn ác và dâm đãng. Tám năm qua họ biệt tăm, không ngờ lại xuất hiện ở đây.
Nam Cung Giao kiến văn kém cỏi chẳng biết ai là ai, lại như cừu non không sợ cọp nên thản nhiên cười đáp :
- Nếu bị phát hiện thì ta sẽ cầm chân họ để ngươi đào tẩu! Dưới đất thì không cần thiên lôi, có lẽ hai lão ấy sẽ vui vẻ về trời nhậm chức!
Kính Thanh lo lắng khuyên can :
- Đại ca đừng quá tự tôn mà uổng mạng. Võ công mỗi người trong Nhị Lôi đàn đều tương đương với Cuồng Vũ Đao Sách Hán Xương. Khi hai anh em họ liên thủ thì càng bội phần lợi hại. Ngay Minh chủ võ lâm là Tổng Trấn Vương Trung Hưng còn không làm gì được!
Nghe giọng khẩn thiết, đầy vẻ quan hoài, Nam Cung Giao cảm động :
- Thanh đệ đừng lo! Ta sẽ đào tẩu ngay khi thấy nguy, chứ chẳng dại mà liều lĩnh làm gì!
Bỗng trong kia, Đặng Kiệm phấn khởi cao giọng :
- Tứ Hải hội mau mắn đáp ứng lời thĩnh cầu của lão phu, cử nhị vị hộ pháp đến đây, khiến Đặng này muôn vàn cảm kích. Quả không uổng công lão phu đóng góp cho ngân quỷ của quý Hội!
Kính Thanh vội giải thích :
- Đại ca! Tứ Hải hội là một tổ chức thần bí mới xuất đầu lộ diện độ bảy năm nay, hùng cứ các phủ phía Nam Trường Giang. Họ không có ác tích rõ rệt, chỉ âm thầm bành trướng, thu thuế bảo kê các ngành kinh doanh.
Nay hai lão ác ma kia trở thành hộ pháp đủ chứng tỏ Tứ Hải hội chẳng ra gì!
Nam Cung Giao cười mát :
- Chắc ngươi chuyên nấp dưới gầm giường, rình nghe chuyện thiên hạ nên mới từng tuổi này mà cái gì cũng biết!
Hai người dùng công phu Ngũ Ngữ truyền âm mà trò chuyện nên rất thoải mái, không sợ đối phương nghe thấy!
Lúc này, Đặng Kiệm và Địa Thượng Nhị Lôi đã rời khách sảnh, về phòng nghỉ ngơi.
Anh em Nam Cung Giao vội nhảy lên mái ngói, quan sát xem họ Đặng ngủ ở đâu. Hai người không có ý giết Đặng Kiệm vì tội lỗi của lão chưa đáng phải chết.
Nam Cung Giao sẽ gởi một bức thư cảnh tỉnh, nếu lão không thay đổi tâm tính mới trừng trị.
Đặng Kiệm vào một phòng lớn trong khu hậu viện, còn Địa Thượng Nhị Lôi cũng ở cách đấy không xa.
Họ Đặng khóa chặt cửa ra vào, bỏ chìa vào túi, cẩn thận xoay lắc nắm cửa bằng đồng sáng láng. Đây là loại khóa của người Hà Lan, đắt hơn vàng, nên lão cho rằng đám dạo chích Trung Hoa không thể nào mở nổi.
Nhưng sáng hôm sau, lúc tỉnh giấc, Đặng Kiệm phát hiện trên gối mình có một mảnh giấy hoa tiên, ghi hai dòng chữ :
Nhân bất nhân nan tho.
Phú quí tư cố hương.
Đặng Kiệm toát mồ hôi lạnh vì hiểu rõ thâm ý của lời cảnh cáo :
Người bất nhân chẳng thọ,
Giàu sang nhớ quê xưa.
Hai câu thơ này ám chỉ thái độ tham lam hà khắc của lão đối với đồng hương, và dọa sẽ lấy mạng.
Đặng Kiệm rảo bước ra kiểm tra ổ khóa cửa trị giá năm chục lượng vàng, chán nản thở dài.
Nó vẫn còn nguyên vẹn không hề có dấu cậy phá, cứ như đêm qua lão quên khóa vậy.
Đặng Kiệm ngồi thừ trên ghế, đăm chiêu suy nghĩ rất lâu, lão nhớ đến cái chết của Nam Kinh Binh bộ Thượng thư Quách Tường An và Tri phủ Giang Tô Mạc Tôn Long, liền rùng mình lẩm bẩm :
- Chẳng lẽ Đặng biểu cô còn sống và đang tiến hành việc báo thù? Chỉ mình bà mới có động cơ sát hại hai vị quan lớn kia, và bênh vực người An Nam!
Lão nghĩ đến Đặng Trinh Tâm vì bà có võ nghệ cao siêu, hơn nữa nét chữ trên tờ giấy hoa tiên mềm mại, uyển chuyển, chẳng thể là của nam nhân được. Lão cũng hiểu rằng tính tình Trinh Tâm cương liệt sắt đá tất sẽ chẳng tha mạng mình lần thứ hai!
Cái chết lởn vởn đã khiến lão phải suy xét lại hành vi của mình, lòng thầm hổ thẹn. Họ Đặng quyết sẽ hành động ngay để chứng tỏ cho vị biểu cô nóng tính, đáng sợ kìa nhìn thấy.

Ngay sáng hôm ấy, lão đến xưởng quạt, tăng gấp đôi số lương cho tất cả công nhân.
Người Giao Châu rất khéo tay, kiên nhẫn nên đã sản xuất ra những cây quạt xếp tinh xảo, xinh đẹp bằng đủ loại nguyên liệu như tre, gỗ, đồi mồi, ngà voi...
Quạt của Tô Châu lừng danh thiên hạ, được cả người Tây Dương ưa chuộng, và sản phẩm của Đặng gia là nổi tiếng nhất.
Sau đó, Đặng Kiệm còn đích thân đến thăm hỏi những xóm nghèo Giao Châu, tặng mỗi nhà mười lạng bạch ngân ăn tết, và hứa sẽ tận tâm giúp đỡ đồng hương khi họ cần đến. Ngay cả việc nộp tiền cho ngân quĩ của Bang, lão cũng hủy bỏ, xin được cáng đáng hết!
Người Giao Châu ở Tô Châu hết lời ca ngợi cử chỉ nhân đức của Đặng Kiệm, nhưng lòng thầm nghi hoặc, tự hỏi vì sao?
Non sông dễ đổi, bản tánh rất khó dời, phải vì nguyên nhân trọng đại nào đó nên một kẻ tham lam, bủn xin như Đặng Kiệm mới đột nhiên trở thành đại thiện nhân như vậy?
Có người đoán rằng lão ngỡ chết!
Chỉ một mình Nguyễn Đại Nương ngờ ngợ đoán ra ẩn tình, nhưng không dám đoan chắc! Bà khao khát muốn gặp lại Nam Cung Giao, song chàng đã cùng Kính Thanh và Sách lão rời khỏi Tô Châu.

Sáng mùng hai, ba người ra cửa thành hướng Bắc. Tang vật đã được bán đi, ngân phiếu giấu kín trong người nên họ qua mắt bọn quan quân rất dễ dàng. Hơn nữa việc Kính Thanh lại quen biết với gã Lãnh binh trấn giữ cửa này.
Trời xam xám, những bông tuyết đầu mùa nhỏ như hoa gạo bay lất phất trong không gian, bám vào mặt mũi, y phục mọi người. Cảnh tượng tuy hơi tiêu điều, song vẫn có nét đẹp riêng của mùa đông.
Kính Thanh vui vẻ nói :
- Đại ca! Lát nữa chúng ta sẽ ghé Hổ Khâu xem phong cảnh! Thắng tĩnh ấy đẹp nhứt trong những ngày đầu đông!
Cuồng Vũ Đao Sách Hán Xương chắc đang đau lưng khi phải chia tay với mụ già bán rượu ở cửa Đông nên càu nhàu :
- Mồ mả thì có gì mà đẹp! Thời tiết này mà ăn cháo nóng và uống rượu là tuyệt nhất!
Nhưng thực ra, Hổ Khâu chính là đệ nhất danh lam nước Ngô, nằm cách thành Tô Châu hơn mười dặm về phía Tây Bắc.
Hổ Khâu! Một gò cao, nơi Ngô Phù Sai chôn cha là Hạp Lự Chôn được ba ngày, có em là Bạch Hổ đến nằm phục ở cạnh mồ, nên gò này mới có tên là Hổ Khâu.
Trên đỉnh gò Hổ có ngọn tháp cao, xây từ thời nhà Tùy. Còn trước gò có một hồ nước nhỏ tên gọi Kiếm trì. Song không phải chỉ có thế, toàn khu vực Hổ Khâu là một vườn hoa bát ngát. Với những hàng cổ thụ già nua mấy trăm năm tuổi. Mùa nào trong năm, nơi đây cũng ngào ngạt sắc hương của hoa.
Nam Cung Giao trong mấy ngày qua chỉ lo việc báo thù nên không có dịp ngoạn cảnh, giờ phấn khởi thúc ngựa theo Kính Thanh.
Hai khắc sau, ba người đã nhìn thấy ngọn Cổ tháp trên đỉnh gò Hổ, thấp thoáng trong làn tuyết mỏng, chỉ cần rẽ trái đi thêm hơn dặm là đến nơi.
Nhưng phía trước có một đoàn kỵ sĩ đông độ hơn hai chục, đi ngược chiều đến.
Dẫn đầu toán nhân mã ấy là ba lão nhân mũ lông đen, áo cừu ngắn để lộ bộ võ phục nâu sậm, lưng đeo trường kiếm. Chín người còn lại nhất loạt Bạch y, hông cài đơn đao.
Cuồng Vũ Đao Sách Hán Xương đã nhận ra lai lịch đối phương, nhăn mặt nói :
- Bọn họ là người của Hồ bang, đến đây tìm lão phu! Hai người cứ đi trước đi!
Kính Thanh cười xòa:
- Hàm Đan tam kiếm có gì mà đáng ngại? Chúng ta cứ đánh một trận cho dản gân cốt!
Nam Cung Giao vỗ bụng :
- Nếu biết sáng nay phải đánh nhau, lúc nãy ta đã ăn thêm vài chục cái bánh bao cho chắc dạ!
Một người một câu chẳng giống nhau, nhưng hàm ý quyết chiến, khiến Cuồng Vũ Đao cảm kích cười dài.
Tiếng cười của lão đầy hào khí, thanh thản vượt ngoài sinh tử.

Lúc này, đoàn nhân mã Hồ bang đã dừng lại...
Người có võ nghệ cao cường như Hàm Đan tam kiếm tất nhãn lực phải rất tinh anh, đã sớm nhận diện được kẻ thù. Dù hôm nay Cuồng Vũ Đao oai phong chỉnh tề trong bộ võ phục gấm xanh, áo mũ lông cừu trắng tuyết.
Hàm Đan tam kiếm đều ở tuổi lục tuần, mặt tròn đầy, mắt nhó, mũ ưng, môi mỏng. Họ là anh em ruột, cách nhau chỉ hai, ba tuổi.
Kính Thanh nhanh nhẩu kể :
- Đại ca! Lão râu dài đứng giữa là lão Đại Mạc Vi Hầu, lão tai vểnh là lão Nhị Mạc Đắc Khoa, còn lão rỗ hoa là em út Mạc Quan Tung.
Phe đối phương đã vây chặt ba con mồi, Nhất kiếm Mạc Vi Hầu gầm lên :
- Sách Hán Xương! Lưới trời tuy thưa mà chẳng lọt, nên lão mới xui xẻo gặp bọn ta ở đây. Mau bó tay chịu trói.
Theo khẩu khí này thì họ đến đây không phải vì họ Sách, chỉ tình cờ gặp gỡ mà thôi
Cuồng Vũ Đao rủa thầm vận đen, cười sằng sặc :
- Chính các ngươi mới là những kẻ kém may mắn!
Dứt lời, lão tung mình khỏi lưng ngựa, chụp lưỡi đao xuống đầu Mạc Vi Hầu.
Nam Cung Giao và Mộc Kính Thanh cũng nhất tề tấn công hai lão còn lại trong Tam Kiếm.
Chiến đấu trên lưng ngựa chẳng phải thói quen của khách võ lâm, nên Tam kiếm cũng rời yên chống đỡ.
Ba cặp đấu thủ chạm nhau trên không, trao đổi một chiêu rồi rơi xuống đất, tiếp tục xấn vào.
Hàm Đan là kinh đô nước Triệu thời chiến quốc, nằm cạnh bờ sông Hoàng Hà ở đoạn trung lưu, thuộc đất cổ Cửu Châu, cái nôi của dân tộc Trung Hoa, và là một trong những vùng địa linh nhân kiệt, từng sản sinh ra những kiếm khách thượng thừa.
Kiếm pháp nước Triệu có vô số, khác hẳn với những kiếm phái võ lâm như Hoa Sơn, Võ Đang, Thanh Thành, Nga Mi, Thiếu Lâm... khác cả về chiều dài của vũ khí.
Nghĩa là, các giòng họ ở Hàm Đan vẫn trung thành với loại kiếm cổ mà kích thước có từ sau thời Xuân
pass to joine phim : Kim_Bang_2
longnu
Múi Mít
Múi Mít
 
Tiền: $122,632
Posts: 1046
Joined: 14 Mar 2005
Location: đến từ nơi xa lắm
 
 

Postby longnu » 08 Apr 2005

[color=blue][b][color=blue][b]5...
Tiếu Ngạo Trung Hoa Nguyên tác : Ưu Đàm Hoa




Hồi 05 Diêu hí lộng Lôi Phong
Thần mưu tranh mỹ nhân
Chiều mùng sáu, ba người ghé thành Trấn Giang nghỉ ngơi, sáng mùng bảy vượt Trường Giang.
Trưa hôm ấy, khi còn cách hồ Cao Bảo hai chục dặm thì đụng độ lực lượng Kim Diện cung.
Ngoài Hộ cung Đệ tam Kiếm sứ còn có thêm hai lão hồng bào nữa!
Theo sau họ là mười lăm gã kiếm thủ áo xanh.
Mộc Kính Thanh thở dài nói nhỏ :
- Nguy rồi đại ca ơi! Cặp lão phu thê áo đỏ kia là Hồng Y song tướng của Hồ bang, thân phận thực của họ là Yên Đài song sát bên bờ Bột Hải. Hai lão ấy đều có công lực hơn hoa giáp, trượng pháp oai trấn võ lâm.
Nhờ linh dược của Kính Thanh nên vết thương trên ngực của Nam Cung Giao đã lành được tám phần, không hề trở ngại khi phải đánh đấm. Vì vậy, chàng thản nhiên cười cợt :
- Nghe ngươi nói ta cũng rất sợ hãi, định bỏ mặc ngươi mà đào tẩu. Hôm nay, ngươi cứ chết trước, đúng ngày này bảy chục năm sau, ta sẽ tự sát chết theo cho đúng lời thề đồng sanh đồng tử.
Kính Thanh bật cười :
- Đại ca quả là kẻ chẳng biết sống chết, chỉ giỏi nghề bỡn cợt!
Sách Hán Xương hào hứng tán thưởng :
- Bậc trượng phu gặp nguy phải cười vang, vui vẻ mà chết, sao lại phải bi lụy!
Thấy ba con mồi bị vây chặt mà vẫn ung dung nói cười, Hộ cung Kiếm sứ Tưởng Phi Diện giận dữ quát :
- Mộc Kính Thanh! Ngươi chết đến gáy mà còn cười được ư?
Nam Cung Giao lên tiếng :
- Bọn tại hạ đang tiên đường đến Kim Diện cung để dự đại hội tỹ võ chiêu phu, sao chư vị lại chặn đường.
Tưởng Phi Diên cười nhạt :
- Các ngươi đã mạo phạm đến bổn cung, chẳng còn tư cách dự thí nữa!
Nam Cung Giao nghiêm giọng :
- Tháng trước, Thần Nữ Tiền Vân Mi có đến Nam Kinh thăm bằng hữu là Tiểu thư Mã Hoàn Cơ và công tử Mã Kim Khụ Tại hạ cùng nàng có mối duyên sơ ngộ, mong túc hạ nể mặt mà bỏ qua hiềm khích với gia nghĩa đệ Mộc Kính Thanh!
Yên Đài song sát giật mình nhìn nhau, họ là người thân cận với Thần Nữ, được nàng thố lộ cuộc tao ngộ với Nam Cung Giao.
Tiền Vân Mi quen biết với đám thế gia công tử Nam Kinh vì từng học võ của Tây Hà Thần Nị Am của bà gần chùa Cẩn Nhục Đầu Đà, nên khi Mã Kim Khu cùng em gái dắt bạn bè lên thăm sư thúc thì gặp gỡ Vân Mi.
Hôm mùng chín tháng mười vừa rồi, Thần Nữ đến Nam Kinh thăm sư phụ, và tìm gặp đám bằng hữu trẻ tuổi lúc Nam Cung Giao đang bị Mã Kim Khu lôi kéo đi khắp nơi, tham dự những cuộc vui bất tận, gặp gỡ Vân Mi bốn năm lần.
Nam Cung Giao chẳng hề tán tỉnh Vân Mi, chỉ nhìn nàng mà cười. Trong đám đông chàng ít khi mở miệng, thỉnh thoảng đưa ra vài nhận xét thông minh, hóm hỉnh khiến cả bọn cười vang. Tuy xuất thân từ chốn bình dân nhưng phong thái của chàng ung dung, tiêu sái và rất tự nhiên.
Vân Mi trở về Từ Châu, chợt phát hiện mình luôn vương vấn gương mặt dễ mến, có lúm đồng tiền duyên dáng của chàng họ Nam Cung!
Yên Đài song sát tuổi đã hơn bảy mươi mà không con cháu nên rất yêu thương Thần Nữ. Nàng cũng mến họ nên chẳng giấu giếm tâm sự của mình.
Thế là Đại Sát Thân Công Hải hỏi lại ngay :
- Chẳng phải tiểu tử ngươi tên gọi Nam Cung Giao, quê đất Cán Châu?
Chàng mỉm cười vòng tay xác nhận :
- Bẩm tiền bối! Quả đúng là kẻ hèn này!
Lúm đồng tiền trên má trái chàng đã chứng minh lai lịch. Thân lão vuốt râu tư lự, bàn bạc với Nhị Sát Tiêu Xuân Oanh rồi bảo Nam Cung Giao :
- Nể mặt ngươi! Lão phu sẽ thay mặt Cung chủ xóa bỏ ân oán với gã Mộc KínhThanh. Tuy nhiên, ngươi phải hứa rằng sẽ thượng đài tranh ngôi vị rể đông sàng của bổn cung. Điều thứ hai là tiểu tử họ Mộc không nên tháp tùng ngươi đến Từ Châu, e rằng Thiếu cung chủ sẽ nổi giận!
Nam Cung Giao từng hứa với song thân là sẽ mang về ba nàng dâu tuyệt đẹp nên nhận lời ngay. Ngoài Mã Hoàn Cơ, chàng đã gấm ghé Tiền Vân Mi, vì cả hai đều là giai nhân hiếm có! Còn người thứ ba thì chưa biết tìm đâu!
Chàng quay sang nói với Kính Thanh :
- Hiền đệ cảm phiền tạm xa ta một thời gian, khi nào ta cưới được Thần Nữ sẽ mời ngươi đến dự tiệc. Lúc ấy, gã Thiếu cung chủ kia chẳng còn dám làm gì ngươi nữa rồi!
Mộc Kính Thanh giận hờn trách :
- Đại ca quả là háo sắc, thấy gái đẹp là quên hết tình huynh đệ!
Nam Cung Giao bật cười :
- Ngươi đâu phải là tình nhân của ta mà nói giọng ghen tuông ấy hả? Chỉ sau ngày rằm tháng này là anh em ta sẽ hội ngộ thôi mà!
Mộc Kính Thanh xụ mặt buồn bã, mắt đảo nhanh như đang suy nghĩ một mưu sâu kế độc.
Lát sau, gã vui vẻ hẳn lên, vòng tay nói với Song sát :
- Cảm tạ nhị vị tiền bối đã xóa tội cho vãn bối! Xin chư vị cứ yên tâm quay lại Từ Châu, anh em vãn bối còn phải tạ từ nhau!
Nhị Sát Tiêu Xuân Oanh trợn mắt hăm dọa Nam Cung Giao:
- Nếu ngươi không giữ lời, lão thân sẽ kéo hết lực lượng Kim Diện cung truy sát gã Mộc Kính Thanh, chặt ra làm tám mảnh.
Nam Cung Giao cười mát :
- Tiền bối chớ lo! Tại hạ đã phát nguyện lấy cho được vợ đẹp, tất chẳng bõ qua cơ hội này!
Tiêu Nương lạnh lùng hừ nhẹ :
- Chớ đại ngôn! Liệu ngươi có được bao nhiêu bản lảnh chứ?
Nam Cung Giao cười đáp :
- Hôm ấy chắc nhị vị tiền bối sẽ làm giám khảo, chỉ cần thiên vị một chút là xong! Vãn bối mà không cưới được Thần Nữ e sẽ chết vì tương tư mất!
Tiêu Nương tưởng thật, lộ vẻ băn khoăn :
- Vân Mi cũng đã có cảm tình với ngươi, song việc tỷ võ thắng thua rạch ròi, làm sao lão thân thiên vị được?
Hộ cung Kiếm sứ Tưởng Phi Diễn từng bị khiển trách vì lần bắt hụt Mộc Kính Thanh ở Cô Tô đại tửu lâu, nên đem lòng chán ghét tiểu tử họ Nam Cung.
Lão mỉa mai :
- Đã bất tài mà còn mơ ăn thịt ngỗng trời nữa sao?
Nam Cung Giao nghiêm nghị hỏi lại lão :
- Thế hôm ấy Tưởng Kiếm Sứ có thượng đài ứng thí hay không?
Tưởng Phi Diên đỏ mặt nạt :
- Ngươi nói nhăng nói cuội gì thế? Lão phu già cả, đáng bậc chú bác của Thần Nữ, lẽ nào lại làm thế?
Nam Cung Giao lộ vẻ hớn hở, gật gù :
- Thế thì được! Tại hạ chỉ sợ đám lão nhân hồi xuân thượng đài tranh giành còn, như những cao thủ dưới năm mươi tuổi thì không đáng ngại!
Đại Sát Thân Công Hải phá lên cười :
- Tiểu tử ngươi quả là khéo hí lộng, chọc cười thiên hạ, thảo nào chinh phục được con bé khó tính Vân Mi. Nay ngươi đã dám đại ngôn như thế thì lão phu sẽ ra giới hạn tuổi ứng thí là tứ thập, nếu ngươi thất bại thì lão phu sẽ lấy đầu đấy!
Nói xong, lão ra lệnh cho thủ hạ ra ngựa trở lại Từ Châu.
Mộc Kính Thanh chờ họ đi khuất, tư lự hỏi :
- Phải chăng đại ca quyết chí lấy cho được Thần Nữ Tiền Vân Mi? Còn Mã Hoàn Cơ và mối gia cừu thì sao?
Nam Cung Giao mỉm cười tinh quái :
- Nay ta đã có được sự hỗ trợ của một kẻ đa mưu túc trí, quen ăn vụng chùi mép như ngươi, thì đâu còn sợ bị phát hiện nữa mà không dám lấy vợ? Giả sử ngươi là gái, dù xấu xí một chút ta cũng cưới luôn!
Mộc Kính Thanh bực bội cằn nhằn :
- Đại ca chỉ nói càn! Tiểu đệ có là nữ nhân cũng chẳng thèm lấy một gã đàn ông đa mang như đại ca! Cảnh chồng chung nào có hay ho gì? Con người chỉ có một trái tim, sao lại trao cho nhiều người được? Ngược lại, các bà vợ của đại ca cũng sẽ vì ganh ghét mà xào xáo tối ngày, gia đình chẳng thể yên ấm được!
Nam Cung Giao cười khà khá :
- Ít nhất thì kẻ đa thê cũng chẳng phải ngủ một mình khi vợ nhà giận dỗi. Ta đã từng chứng kiến gia phụ nhăn nhó như khỉ mỗi lần bị gia mẫu cấm cửa!
Cuồng Vũ Đao ôm bụng cười vang :
- Té ra cha ngươi là một kẻ sợ vợ!
Tia mắt Nam Cung Giao tràn ngập ánh yêu thương, trìu mến khi nhắc đến mẹ hiền :
- Đúng vậy! Gia mẫu xinh đẹp phi phàm, tính tình nghiêm nghị, cương liệt hơn cả nam nhân, chẳng bao giờ nói hai lời! Nhưng với cha con tại hạ, bà là nữ nhân tốt nhất thế gian!
Và bỗng chàng tươi cười nói thêm :
- Gia mẫu giỏi nghề thông pháp, đã nhận xét rằng tại hạ có tiếng đa thê. Bà đã cho phép tại hạ lấy đủ ba vợ!
Mộc Kính Thanh bật thốt :
- Thực thế sao?
Gã ngẩn người một lát, lén nháy nhỏ Sách Hán Xương rồi vòng tay cáo từ Nam Cung Giao :
- Tiểu đệ cũng có việc riêng phải giải quyết, nhưng phải được Sách lão hỗ trợ. Hẹn gặp lại đại ca ở thành Nam Kinh.
Nam Cung Giao gật đầu :
- Hiền đệ và Sách lão cứ đi, xin hãy bảo trọng. Ta sẽ ở phủ Thượng thư chờ đợi!
Sách Hán Xương miễn cưỡng đi theo Mộc Kính Thanh, vì lòng chỉ muốn tháp tùng Nam Cung Giao.
Hai người kia đi về hướng Nam, còn Nam Cung Giao tiếp tục ngược Bắc.



Tuyết đã rơi dầy hơn mịt mù mặt nước Đại Vận Hà, bên tay tả, lữ khách một mình dong ruổi trong ngày đông lạnh lẽo, ướt át.
Nam Cung Giao bỗng nhớ Kính Thanh vô luân.
Xế chiều, chàng ghé vào Cao Hà phạn điếm, cạnh bờ Tây Nam hồ Cao Bảo dùng cơm.
Hồ Cao Bảo ở phía Nam và thông với Hồng Trạch hồ Đại Vận Hà với Trường Giang, đổ vào hai hồ này rồi tiếp tục vươn lên hướng Bắc.
Những cánh buồm vẫn hối hả ngược xuôi trong tuyết, như nhắc nhở người lữ thứ rằng năm đã sắp hết, hãy mau trở lại quê nhà vui tết đoàn viên.
Nam Cung Giao đã ăn xong, đang ngơ ngẩn hoài nhận cảnh gia đình ấm cúng, mắt dõi nhìn về phương Nam xa tít thì phát hiện có một cỗ kiệu đang đi đến, và dừng trước cửa phạn điếm!
Chàng cau mày bất nhẫn vì thấy bốn người phu khiêng kiệu kia gồm ba hán tử lực lưởng và một thiếu nữ gầy gò thân mảnh. Điều đáng giận là họ không hề có áo ngự hàn, chỉ phong phanh bộ võ phục vải mỏng manh màu tía, trên đầu cũng chẳng nón che, cho nên tuyết đã phủ trắng tóc, y phục ướt đẫm. Chẳng phải chủ nhân của họ quá nghèo, vì cỗ kiệu kia làm bằng toàn gỗ Tử Đàn, loại gỗ đắt như vàng.
Đất Trung Hoa không trồng được loại cây quí có mùi thơm này, mà phải nhập từ Nam Dương, hay mua của An Nam.
Trên thân kiệu trảm đầy những hoa văn bằng vàng hay bạc dát mỏng, rèm bằng gấm dầy mầu vàng kiêu hãnh.
Và chủ nhân chiếc kiệu vén rèm đường bệ bước ra.
Phải chi đó là một lão nhân già nua, đau ốm quặt quẹo thì thiên hạ còn đỡ tức, khổ thay hắn lại là một trung niên công tử, tuổi gần tứ tuần cao lớn, khỏe mạnh!
Gã có gương mặt anh tuấn và thêm phần lịch lãm nhờ hàng râu mép xanh rì, được tỉa tót cẩn thật. Có điều, bộ mặt trắng như ngọc kia lạnh tựa sương đêm và ánh mắt gã lộ vẻ kiêu ngạo, khinh người.
Trong tòa Cao Hà đại phạn điếm này có không ít hào khách giang hồ. Họ đang trên đường đến Từ Châu ứng thí, hoặc xem cảnh náo nhiệt của lôi đài tỷ võ chiêu phu.
Các hào kiệt này đều thuộc những địa phương phía Nam Trường Giang nên nhận ra lai lịch khách mới đến.
Họ xì xầm bàn tán :
- Chẳng lẽ Lôi Phong sơn chủ Bạch Tuấn Hào đất Hàng Châu, lại định trở thành rể của Kim Diện cung?
Nam Cung Giao chưa hề đến Chiết Giang, nhưng đã được nghe Mã Hoàn Cơ miêu tả phong cảnh kỳ tuyệt đất Hàng Châu, nhờ thế, chàng biết núi Lôi Phong!
Lôi Phong là một đỉnh của núi Tịch Chiếu, nằm ở phía Nam Tây Hồ, đây là một trong mười phong cảnh đẹp nhất Hàng Châu.
Trên đỉnh Lôi Phong có tòa tháp Lôi Phong cao bảy tầng, khi ánh chiều tà chiếu vào, trông nó giống như được làm bằng ngọc bích. Tháp Lôi Phong còn có tên là Hoàng Phi Tháp, vì được xây dựng bởi một người nước Ngô họ Hoàng tên Phi.
Từ trăm năm nay giòng họ Bạch cư ngụ trên sườn núi Lôi Phong, các đời kế tiếp nhau xưng là Lôi Phong sơn chủ. Còn gia trang của họ thì mang tên Tịch Chiếu sơn trang.
Bạch gia nổi tiếng võ lâm nhờ pho Lôi Phong kiếm pháp, chiêu thức phát ra âm thanh ì ầm của sấm, và chói lọi khi có nắng.
Bạch gia đã từng ba lần nắm chức Minh chủ võ lâm, chứng tỏ võ học tổ truyền của họ chẳng tầm thường. Do vậy, có khá nhiều người trẻ tuổi đến Tịch Chiếu sơn trang xin học nghệ. Tóm lại, với số đệ tử đông đến ba trăm, Tịch Chiếu sơn trang có thể được xem là một kiếm phái trong võ lâm!
Nam Cung Giao tức anh ách khi thấy Bạch Tuấn Hào ấm áp trong mũ áo lông cừu dầy thượng hảo hạng, cả đôi ủng cũng bông lông cáo. Thế mà gã nhẫn tâm để cho đệ tử trần trụi xông pha sương tuyết với gánh nặng trên vai, nhất là khi trong số ấy lại có một nữ nhân gầy yếu.
Bạch Tuấn Hào chễm chệ ngồi riêng một bàn, sang sảng gọi liền sáu món đắt tiền, còn bốn người đệ tử kia khép nép ở bàn gần đấy, chỉ dám gọi một mâm cơm đạm bạc.
Đặng Trinh Tâm tính tình nghiêm khắc song lại rất nhân hậu.
Suốt hai chục năm làm lương y, bà luôn chữa trị miễn phí cho người nghèo khó. Nam Cung Giao theo mẹ học nghề, chứng kiến điều ấy nên học được cả chữ nhân! Nay, trước cảnh chướng tai gai mắt này, quả thực chàng chẳng thể nào chịu nổi.
Đây chính là một trong những đức tính căn bản của dân tộc Giao Chỉ.
Hơn năm trăm năm sau được đại sử gia đất Việt là Lệ Thần tiên sinh đã nhận xét rằng: “Người Việt kiêu ngạo, hay nói khoác, nhưng có lòng nhân, biết thương người và hay nhớ ơn”.
Đèn nhà ai nấy sáng, dù phẫn nộ nhưng Nam Cung Giao chẳng biết làm thế nào để can thiệp! Chàng suy nghĩ rất lung, bước đến quầy nói nhỏ với chưởng quỹ.
Bạch Tuấn Hào ăn xong ra hiệu tính tiền!thì lão chưởng quỹ vui vẻ đáp :
- Bẩm đại gia, bữa ăn này đã được vị thiếu hiệp bàn bên kia thanh toán cả rồi!
Bạch Tuấn Hào cau mày nhìn về hướng tay chỉ của lão.
Nam Cung Giao đứng lên, vòng tay tươi cười :
- Bẩm Sơn chủ! Uy danh của Tịch Chiếu sơn trang từ lâu đã oai trấn võ lâm, người người đều kính trọng. Tại hạ may mắn được diện kiến tôn nhan ở chốn này xin được tỏ chút lòng ngưỡng mộ!
Đến bậc Thiên tử còn khoái nghe nịnh, huống hồ một gã chủ núi như Bạch Tuấn Hào? Hơn nữa, Nam Cung Giao anh tuấn, dễ mến, phong thái đường chính chứ chẳng phải phường mặt dơi tai chuột, quen thói sang bắt ro quàng làm họ.
Kẻ cao ngạo họ Bạch khoan khoái vì có người tán dương Tịch Chiếu sơn trang, mỉm cười độ lượng :
- Bổn nhân rất cảm kích tấm lòng của thiếu hiệp.
Cà cuống chết đít còn cay!
Bạch Tuấn Hào không thèm hỏi tên đối phương để chứng tỏ hành vi hào hiệp kia chẳng đáng gì!
Nam Cung Giao vui vẻ nói tiếp :
- Tại hạ ngưỡng mong Sơn chủ hạ cố nhận thêm một món quà mọn!
Bạch Tuấn Hào gật gù :
- Cũng được!
Nam Cung Giao vẫy gọi chưởng quỹ.
Lão khệ nệ ôm một ôm áo lông cừu đến, phát cho bốn người phu khiêng kiệu của Bạch Tuấn Hào.
Họ đang lạnh run vì gió Đông, mừng rỡ khoác vào ngay!
Họ Bạch tái mặt khi thấy tặng phẩm của Nam Cung Giao thuộc loại đắt tiền, chẳng thua gì bộ áo lông của gã đang mặc!
Nãy giờ, bọn hào khách trong quán chăm chú theo dõi hoạt cảnh. Họ hài lòng trước vẻ rất khó coi của Lôi Phong sơn chủ, tủm tỉm cười hoài.
Có kẻ độc mồm thở dài nói bâng quơ :
- Sông có khúc, người có lúc! Nhà đại phú đôi khi cũng không mua nổi áo cừu cho gia đinh!
Bạch Tuấn Hào thẹn chín người, ngửa cổ cười dài, rồi quắc mắt nhìn Nam Cung Giao :
- Té ra người rắp tâm làm nhục bổn nhân? Bốn người kia là Tứ Thiết hộ vệ, đang khổ luyện Vô Ngại thần công của bổn bang, phải dầm sương dãi nắng mới mong thành tựu, chứ đâu phải bổn nhân bủn xỉn?
Nam Cung Giao tròn mắt tỏ vẻ kinh ngạc :
- Té ra là thế! Chẳng qua vì tại hạ không biết nên đã đắc tội, mong Sơn chủ lượng thứ!
Chàng giả đò bối rối, nói tiếp :
- Phải chăng Vô Ngại thần công là để dành cho các đệ tử, còn Sơn chủ luyện công phu khác nên mới mặc áo lông dầy như thế?
Bọn hào khách phì cười và ai đó bật thốt :
- Đúng vậy! Bạch sơn chủ luyện pho Dục Noãn thần công (ấp trứng thần công) đấy mà!
Noãn có nghĩa là trứng, và còn để chỉ hai hoàn ngọc hành trong đũng quần. Vì vậy, mái ngói phạn điếm rung rinh vì trận bão cười của hơn trăm thực khách.
Chốn đông người, chẳng thể tìm ra kẻ đã chế giễu mình, Bạch Tuấn Hào điên tiết, mặt trắng bệch, trút hận lên đầu Nam Cung Giao. Nhưng gã biết rằng giết chàng thì sẽ phương hại đến thịnh danh Tịch Chiếu sơn trang, nên nghĩ cách vớt vát.
Họ Bạch nghiêm giọng :
- Chỉ vì ngươi nên bổn nhân bị mang ra làm trò cười. Giả như ngươi thực lòng muốn Tứ Thiết hộ vệ được ấm áp thì hãy thay Tứ vệ Sở Nhu khiêng kiệu. Bằng ngươi từ chối tức là đã có ý sĩ nhục Tịch Chiếu sơn trang. Và nếu thế, ngươi đừng bao giờ để bổn nhân gặp lại lần nữa!
Câu nói này rất đắc thế, biểu hiện được cả sự oai phong lẫn lượng bao dung của bậc trưởng trượng!
Tứ Thiết Vệ lặng lẽ cởi áo lông để trả lại cho chàng trai tốt bụng.
Nam Cung Giao ngắm bàn tay thon dài, cứng đỏ vì lạnh nên lóng ngóng, và gương mặt tái xanh của Sở Nhu, nghe dạ xốn xang. Chàng còn nhận rõ vẻ nuối tiếc của nàng, khi phải từ giã bộ áo lông ấm cúng và rất đẹp. Có lẽ cả đời nàng chưa bao giờ được mặc loài áo cừu thượng hạng, trị giá đến hai trăm lượng bạc như thế này!
Nam Cung Giao rất yêu thương mẫu thân nên tràn trề tình cảm với nữ giới. Thuở còn thơ ấu chàng luôn bênh vực đám nữ hài trong xóm chài Dương Sa, không để ai hiếp đáp. Khi chúng bị cha mẹ đánh, thường đến tìm chàng để được an ủi vỗ về. Chàng cũng có chút kiêu ngạo của tuổi thanh niên, chẳng cam tâm khuất phục ngay, bèn xoay qua cách khác :
- Bẩm Sơn chủ! Tại hạ đã nhẵn mặt các danh lam thắng cảnh đất Hàng Châu nên suốt đời không đến đấy cũng chẳng sao! Tại hạ chỉ lo cho Tịch Chiếu sơn trang vì việc này mà mang tiếng bất nhân. Và có thể Thần Nữ Kim Diện cung sẽ hiểu lầm nhân phẩm của Sơn chủ đấy!
Bạch Tuấn Hào động nộ :
- Đừng lắm lời! Làm ơn thì làm cho trót, hoặc là hãy đi cho khuất mắt ta!
Nam Cung Giao biết đối phương đã quyết làm nhục mình, liền cười ha hả :
- Sơn chủ đã hạ cố cho tháp tùng, tại hạ vui mừng được nếm mùi gian khổ của kẻ luyện Vô Ngại thần công!
Thái độ của chàng khiến ai cũng sửng sốt, không ngờ, một người trẻ tuổi giàu có dám phóng tay mua tặng kẻ không quen biết bốn chiếc áo cừu trị giá gần ngàn lượng bạc, lại chấp nhận làm phu khiêng kiệu!
Quần hào bàn tán sôi nổi, người thì bảo chàng khùng, kẻ nói chàng ngụy. Song không ai chê chàng háo sắc vì Sở Nhu tuy kiều diễm nhưng trên trán lại có một bướu thịt nhô ra, trông rất quái dị.
Sở Nhu tròn mắt nhìn chàng trai chưa biết tên, môi thoáng điểm nụ cười là lạ.
Nam Cung Giao bước đến, nói với nàng :
- Tại hạ là Nam Cung Giao, mong Sở cô nương nhường cho vinh dự làm phu khiêng kiệu. Cô nương sẽ cỡi con ngựa già của tại hạ, đi theo sau.
Sở Nhu thẹn thùng gật đầu, nói lí nhí :
- Xin thiếu hiệp đưa túi hành lý cho tiểu muội giữ giùm!
Nam Cung Giao trao cho nàng và nheo mắt nói :
- Cô nương hãy cẩn thận, đừng mở ra, vì trong này có mấy bộ y phục bẩn chưa giặt. Dù cô nương có luyện đến lớp chót Vô Ngại thần công thì cũng chẳng chịu nổi mùi hôi của chúng đâu!
Nghe giọng điệu khôi hài, Sở Nhu che miệng tủm tỉm nhưng đám hào khách thì phá lên cười hô hố!
Ba hán tử khiêng kiệu kia bước đến, vòng tay ôm quyền cúi chào Nam Cung Giao, ánh mắt tràn ngập tình cảm. Họ đều có gương mặt chữ điền rắn rỏi, cằm bạch phủ đầy râu quai nón, mũi ưng, mắt diều trông rất cương nghị và kiêu dũng.
Sở Nhu thỏ thẻ giới thiệu :
- Bẩm công tử, đây là đại ca Sở Tường Thụy, nhị ca Sở Sĩ Hưu và tam ca Sở Tích Vũ. Họ là bào huynh của tiểu muội!
Nam Cung Giao vội vòng tay đáp lễ :
- Hân hạnh được làm quen với tam vị!
Bách Tuấn Hào cất giọng khó chịu :
- Lên đường!
Gã nện gót bước ra, oai vệ lên kiệu ngồi.
Nam Cung Giao và ba hán tử họ Sở đặt đòn lên vai rảo bước.
Sở Nhu cũng thượng mã, thúc ngựa theo sau!
Đoạn đường không dài, chỉ đến cửa Bắc trấn là tã dừng lại để ghé vào lữ điếm, vì trời đã về chiều.
Sáng hôm sau, họ lại khởi hành, tiếp tục gội sương tắm tuyết trên đường thiên lý.
Lúc đầu, Bạch Tuấn Hào cho rằng gã ngông cuồng ngây dại kia sẽ chẳng chịu đựng được lâu, tất phải bỏ cuộc, khi ấy gã có cớ để trừng trị chàng.
Không ngờ Nam Cung Giao thoăn thoắt hòa bước chân với ba anh em nhà họ Sở, chẳng hề chịu kém cỏi. Dù đòn kiệu nặng trĩu trên vai, chàng vẫn vui vẻ chuyện trò, tán gẫu với Sở Nhu và đồng nghiệp, những nụ cười đã khiến đường dài ngắn lại.
Mỗi lần dừng chân dùng bữa, Nam Cung Giao gọi những món ăn ngon nhất và loại rượu quí lâu năm để Bạch Tuấn Hào và bốn anh em họ Sở thưởng thức.
Họ Bạch hài lòng vì chẳng phải tốn tiền, song cũng ấm ức vì thấy Tứ Thiết Vệ yêu mến, kính trọng chàng còn hơn cả mình.
Sở Nhu giữ tay nải của Nam Cung Giao nên là người thanh toán chi phí. Ngay lần đầu, nàng đã suýt ngã ngửa khi phát hiện số ngân phiếu trị giá năm vạn lượng hoàng kim trong túi hành lý.
Sở Nhu không dám nói ra! Và trong lòng dào dạt những cảm xúc kỳ lạ. Chàng trai kia đã thản nhiên giao cho nàng giữ một tài sản khổng lồ mà chẳng hề e ngại!
Được ăn uống no nê, bổ dưỡng, và mặc đủ ấm, sức lực ba gã họ Sở sung mãn, cước trình nhanh gấp bội, nên họ đã đưa Bạch Tuấn Hào đến mục tiêu sớm hơn.

Ngay trưa mười một, cỗ kiệu đã vào thành Từ Châu.
Đoàn người ngụ trong Tứ Hải đại tửu điếm ba tầng, sang trọng nhất thành.
Bạch Tuấn Hào khoan khoái vênh mặt, giá cả nơi đây rất đắt, chẳng phải khách võ lâm nào cũng dám đến trọ. Gã để mặc cho Nam Cung Giao đặt đến sáu phòng thượng hạng và đòi hỏi thực đơn đặc biệt.
Giờ đây, họ Bạch khát khao có được một thủ hạ giàu có, rộng rãi như chàng trai họ Nam Cung. Gã định bụng sẽ đem pho Lôi Chiếu kiếm pháp lừng danh ra làm mồi chiêu dụ đối phương gia nhập Tịch Chiếu sơn trang.
Thanh danh làm lụy người. Giòng họ Bạch muốn trở thành một môn phái, sánh vai với các phái lớn trong thiên hạ, nên đã thu nạp đến ba trăm đệ tử. Dù đã hết sức tằn tiện, cho họ ăn mắm hút gỏi nhưng tài sản Bạch gia cũng ngày một cạn kiệt. Thực ra, Tâm pháp Vô Ngại của họ Bạch đâu cần phải nhịn ăn, nhịn mặc!
Lần này, Bạch Tuấn Hào đến ứng thí ngôi vị rể Đông sàng của Kim Diện cung cũng là nhắm vào món hồi môn to tát mà Thần Nữ Tiền Vân Mi sẽ mang về!
Kim Diện cung phú xưng địch quốc, vì núi Kim Sơn, nơi họ xây cung là điện ở cách thành Từ Châu sáu dặm về hướng Tây Bắc, chính là một mỏ vàng.
Nếu hôn sự thành công, và lại có thêm một gã đệ tử giàu nứt cố đổ vách, chẳng phải là Song Hỉ hay sao?
Còn như Tuấn Hào không cưới được Tiền Vân Mi, thì gã khùng họ Nam Cung kia sẽ là mỏ vàng của Tịch Chiếu sơn trang!
Nam Cung Giao cũng đoán ra thâm ý của họ Bạch, song tảng lờ như không biết gì cả! Chẳng thản nhiên dẫn Tứ Thiết Vệ đi thăm thú phong cảnh Từ Châu, về đến khách điếm là cho bày yến tiệc, chẳng hề hỏi giá cả. Tất nhiên, chàng cũng kính mời Bạch Tuấn Hào thưởng thức.
Họ Bạch chẳng dại gì từ chối, nên vô tình phải ngồi chung bàn với Tứ Thiết Vệ, một việc mà trước giờ chưa hề xảy ra!



Sáng mười lăm, Bạch Tuấn Hào khăn áo chỉnh tề, oai phong tuấn tú trong bộ võ phục gấm màu thanh thiên, mép viền hoa văn vàng nhạt. Gã đủng đỉnh xuống tầng trệt, dùng điểm tâm rồi bước ra sân, định bước lên kiệu.
Tuấn Hào chưa kịp nhận ra rằng Sở Nhu đang đứng vào chỗ của Nam Cung Giao, thì lão chưởng quỹ đã tất tả chạy ra, trong tay cầm một xấp phiếu dầy cộm.
Lão khom lưng cười hề hề :
- Mong đại gia thanh toán tiền trọ và tiền ăn!
Lúc này, trên sân trước lữ điếm cũng có khá nhiều hào kiệt đang chuẩn bị yên cương để đến Kim Diện cung.
Họ nhìn về phía Lôi Phong sơn chủ với ánh mắt mỉa mai.
Bạch Tuấn Hào thẹn đỏ mặt, liếc quanh, phát hiện sự vắng mặt của Nam Cung Giao. Gã choáng váng, cố tỏ vẻ lạnh lùng, hỏi Sở Nhu :
- Tứ Hộ vệ! Sao tối qua không thanh toán tiền cho khách điếm?
Sở Nhu kín cẩn đáp :
- Sơn chủ là người giử ngân lượng, đệ tử làm gì có.
Tuấn Hào gằn giọng :
- Thế gã Nam Cung Giao đâu?
Lão Đại Sở Trường Thụy cướp lời bào muội :
- Y đã đi hồi cuối canh tư! Có gởi lời chào tạm biệt Sơn chủ!
Tuấn Hào chết điếng, trách móc :
- Sao ngươi không giữ hắn lại!
Sở Trường Thủy cười mát :
- Y chẳng phải là đệ tử của Tịch Chiếu sơn trang, thuộc hạ giữ lại làm gì?
Tuấn Hào giận điên người, quay sang hỏi lão chưởng quỹ :
- Bao nhiêu?
Lão ta đã mất niềm tin vào vị thượng khách bề ngoài sang cả kia nên hờ hững đáp :
- Bẩm đại gia! Tổng cộng các khoản là hai trăm bốn mươi sáu lượng vàng!
Tuấn Hào tá hỏa tam tinh, nghe cổ họng đắng như nuốt mật, bất giác bật thốt :
- Làm gì mà nhiều thế?
Lão chưởng quỹ cười nhạt :
- Bổn điếm có cơ ngơi khang trang, lộng lẫy nhất phủ Giang Tô, cung cách phục vụ lại chu đáo, xem khách như bậc Vương tôn, tất nhiên giá cả phải cao. Song ba chục năm qua, chưa có vị quí nhân nào vào đây mà mở miệng chê đắt cả! Tôn giá thử hỏi những vị kia xem?
Đám hào kiệt đứng gần đấy đồng thanh cười cợt chế giễu họ Bạch :
- Không phải mãnh long thì đừng qua sông! Đã dám vào trọ ở Tứ Hải đại lữ điếm mà còn bủn xỉn nữa sao?
Có kẻ còn mỉa mai :
- Té ra Tịch Chiếu sơn trang đã sạt nghiệp nên Bạch sơn chủ mới mong đến đây để ẵm năm vạn lượng vàng hồi môn của Thần Nữ Kim Diện cung!
Bạch Tuấn Hào run lẩy bẩy, nhục nhã đến mức chỉ muốn độn thổ. Gã thề sẽ tìm cho được Nam Cung Giao mà xé xác.
Trong túi gã hiện giờ chỉ còn chưa tới trăm lượng vàng, cố móc sạch ra cũng không đủ. Hơn nữa, nếu không cưới được Tiền Vân Mi thì lấy đâu ra lộ phí về Hàng Châu?
Mặt gã lúc trắng, lúc đỏ, đứng chết lặng chẳng biết tính sao.
Lúc này lão chưởng quỹ mới chậm rãi nói :
- Tôn giá là bá chủ một phương, anh hùng khét tiếng nên lão phu niệm tình, mở cho một lối thoát. Nay bổn điếm cũng đang cần võ sĩ hộ viện, sẳn sàng mua lại bốn đệ tử khiêng kiệu kia, với giá năm trăm lượng vàng. Trừ đi chỉ phí ăn ở, tôn giá còn lại hai trăm năm mươi bốn lượng!
Chẳng thể đứng mãi ở đây mà chịu nhục, Bạch Tuấn Hào đành phải chấp thuận. Gã quay sang nói với Tứ Thiết Vệ :
- Nay bổn nhân trúng quỷ kế của tiểu tử Nam Cung Giao, đành phải nhờ các ngươi giúp đỡ. Sau này ta sẽ mang vàng đến chuộc lại!
Sở Trường Thụy ngửa cổ cười dài, chua xót nói :
- Anh em tại hạ vì mối gia thù đến làm trâu ngựa cho Sơn chủ, mong học được vài đường tuyệt kiếm. Thế mà, hai năm qua Sơn chủ chỉ dạy cho có bốn chiêu, e rằng kẻ thù sẽ chết trước khi bọn ta đủ sức giết lão. Giờ đây anh em tại hạ còn bị đem ra bán thì còn gì đạo nghĩa nữa?
Gã đang định phản đối quyết liệt thì phát hiện chưởng quỹ nháy mắt với mình, ra hiệu rằng hãy đồng ý!
Trường Thụy hiểu ngay rằng đây là kế hoạch của Nam Cung Giao, muốn giải thoát bốn người họ Sở khỏi lời thề lúc gia nhập Tịch Chiếu sơn trang.
Gã liền đổi giọng :
- Thôi được! Bọn tại hạ đồng ý cứu vãn thanh danh cho Sơn chủ. Kể từ nay, anh em tại hạ không còn là người của Tịch Chiếu sơn trang nữa!
Lão chưởng quỹ quay vào quầy, trở lại ngay với số vàng hai trăm năm mươi bốn lượng, toàn bằng tiền giấy Đại Minh Thông Hành Bảo Sao.
Từ sau đời vua Minh Thành Tổ, vàng bạc đã được lưu hành song song với tiền giấy, và dĩ nhiên là ai cũng thích thứ kim loại óng ánh hơn những tờ giấy dễ ướt, dễ rách, dễ cháy. Do vậy, lão chưởng quỹ đã vui vẻ tống hết cho Bạch Tuấn Hào.
Lão còn mau mắn bảo tiểu nhị đi gọi bốn gã phu khiêng kiệu để thay thế cho Tứ Thiết Vệ.
Lôi Phong sơn chủ thẫn thờ lên kiệu, lòng phân vân không biết có nên đến Kim Diện cung nữa hay thôi? Chắc chắn chuyện này sẽ được loan truyền khắp nơi, khiến mọi người đàm tiếu!
Song, Tuấn Hào chợt nghĩ rằng Nam Cung Giao đến đây chắc cũng để thượng đài ứng thí, vậy thì gã sẽ muối mặt ở lại, giết cho được tiểu tử khốn kiếp kia.
Hơn nữa, gã bắt buộc phải lấy cho được Tiền Vân Mi thì mới cứu vãn nổi cơ nghiệp nhà họ Bạch. Nếu Kim Diện cung giới hạn tuổi thượng đài là Tứ thập thì Tuấn Hào tin chắc mình sẽ thành công!
Với ba mươi năm tu vi và pho Tịch Chiếu kiếm pháp, gã là cao thủ số một trong hàng ngũ trung niên và thanh niên.
Ý nghĩ này đã khích lệ Tuấn Hào lo đi đến núi Kim Sơn.
Họ Bạch đi rồi, lão chưởng quỹ liền mời anh em họ Sở vào trong.
Lão hồ hởi nói :
- Chính Nam Cung thiếu hiệp đã bàn với lão phu, gài bẫy Bạch Tuấn Hào giải thoát cho chư vị!
Chàng thì bảo rằng: Họ Bạch tính tình lạnh nhạt, kiêu ngạo, thiếu phần nhân tình, tất sẽ không tận tâm dạy kiếm pháp cho anh em họ Sở. Dẫu họ có làm nô lệ cho Tịch Chiếu sơn trang hai chục năm cũng không thể nào giết nổi Hoài Giang Thần Thương. Chư vị hãy đi tìm danh sư khác mà học nghệ!
Lão Nhị Sở Sĩ Hưu rầu rỉ thở dài :
- Anh em tại hạ cũng đã thức ngộ được điều ấy, do bị ràng buộc bởi lời thề nhập môn nên phải cắn răng chịu đựng. Nay nhờ ơn Nam Cung công tử mà thoát vòng cương tỏa, nhưng quả thực chẳng biết tìm danh sư ở chốn nào.
Lão chưởng quỹ cười khà khà :
- Lão phu trước đây là một cao thủ Hắc đạo, tung hoành mười tám năm mới hoàn lương, kinh doanh lữ điếm này. Lão phu mạo muội nhận xét rằng chư vị hơi kém mắt nên không nhìn ra chân tướng của bậc anh hùng trẻ tuổi họ Nam Cung? Nếu y chẳng tự tin thắng nổi Bạch Tuấn Hào thì đã không dám hạ nhục gã! Tứ vị hãy theo phò Nam Cung Giao, lão phu đoan chắc mối gia thù của họ Sở sẽ trả xong.
Lão Tam Sở Tích Vũ mới hai mươi sáu, tính tình sôi nổi, bộp chộp, ăn nói chẳng giử lời. Gã rất khoái Nam Cung Giao nên tán thành ngay, bàn với lão Đại :
- Đại ca! Hay là chúng ta gả quách Tứ muội cho y. Khi trở thành rể họ Sở, y hợp lực với anh em ta giết lão Hoài Giang Thần Thương?
Sở Nhu bẽn lẽn trách móc :
- Tam ca toàn nói quàng xiên, công tử đâu thèm để ý gì đến tiểu muội!
Tích Vũ ngoác miệng định cãi gì đó thì nghe lão chưởng quỹ nói với giọng diễu cợt :
- Ý kiến của ngươi cũng không phải dở, song e rằng quá muộn và Nam Cung thiếu hiệp đã đi núi Kim Sơn tranh ngôi rể quí của nhà họ Tiền.
Và lão trao cho Sở Nhu mười tờ ngân phiếu trị giá tổng cộng ngàn lượng bạch ngân :
- Nam Cung Giao tặng cho Tứ vị số bạc mọn này để làm lộ phí!
Bốn anh em họ Sở cảm động đến ngây người, vòng tay cáo từ chưởng quỹ kiêm chủ nhân Tứ Hải đại lữ điếm, vội vã rời thành Từ Châu, đến Kim Sơn tìm Nam Cung Giao.
Song, chàng chưa có mặt ở lôi đài mà lại đang chểm chệ trong một tửu quán cạnh đường quan đạo.
Quán này khá độc đáo vì chỉ bán độc nhất chỉ một loại đồ nhắm, đó là thịt chó!
Sáng này, lúc rời thành Từ Châu, Nam Cung Giao đi ngang nơi đây, thoáng nghe có người gọi rượu thịt bằng tiếng An Nam, lòng rộn lên cảm xúc hoài hương! Chàng chưa được về quê mẹ lần nào, nhưng trong tâm thức luôn đầy ắp những ấn tượng đẹp đối với vùng đất xa xăm kia.
Ở nhà, chàng và thân mẫu thường nói chuyện với nhau bằng tiếng Giao Chỉ. Nay xa mẹ, chàng khát khao được nghe những âm thanh êm ái du dương ấy.
Lôi đài sẽ mở trong bốn ngày, do vậy, Nam Cung Giao chẳng cần vội vả, rẽ pha ghé vào quán nọ!
Tuy chủ quán là người Giao Châu nhưng thực khách thì Tàu Ta có đủ.
Trong ngày đông lạnh giá thế này thịt chó nóng và rượu nếp là hai món ngự hàn tốt nhất.
Người Trung Hoa ở lưu vực sông Hoàng Hà cũng biết ăn thịt chó. Dòng sông tai họa này liên tục gây ngập lụt, lúc thì phá vỡ đê, lúc thì đổi dòng chảy. Khi ấy, lê thứ đói khổ lầm than, họ ăn cả chuột chứ đừng nói chó! Và thịt chó lại là món ăn ngon nhất trên đời, nên sau này dù không gặp thiên tai, bách tính cũng vẫn tìm mà ăn!
Người Trung Hoa nổi tiếng thánh thủ trong nghề bếp núc, nhưng đối với thịt chó thì họ nấu không ngon bằng người Giao Châu.
Quán này nằm quay lưng hướng ngọn gió Đông Bắc, nên cửa chính có thể rộng mở mà đón khách. Hơn nữa, hôm nay tuyết rơi nhẹ.
Có lẽ nhờ sanh ý phát đạt nên người chủ quán tha hương kia đả xây được một cơ ngơi khá khang trang. Tường gạch, mái ngói.
Nam Cung Giao mỉm cười khi nhìn hai ngọn cờ trên sào tre trước sân, một viết chữ tửu, lá bài còn lại là bốn chữ “Cẩu Nhục Thất Bảo”.
Chàng cột ngựa, bước vào quán, nhận ra các bàn đều đã có người, chàng cau mày định quay ra thì một thiếu nữ áo xanh vải thô, tóc thắt hai bím đong đưa, bước đến vui vẻ mời :
- Công tử cứ vào! Tiện nữ sẽ thu xếp chỗ ngồi.
Nàng đưa vị khách trẻ tuổi quí phái đến một bàn ở cạnh vách hướng Nam.
Người ngồi ở bàn này là một lão nhân lục tuần, y phục cũ kỷ, tóc tai rối bù. Trước mặt ông ta chỉ có một đĩa dồi nhỏ và bình rượu.
Có lẽ lão nhân uống chịu nên biết thân phận, chớp đôi mắt lèm nhèm, cười cầu tài :
- Lão phu sẽ xuống bếp cho ấm! Lão lật đật bưng đĩa, cầm bình rời chỗ.
Thiếu nữ lấy khăn lau mặt bàn, duyên dáng bảo :
- Công tứ dùng món gì?
Nam Cung Giao mỉm cười :
- Đủ bảy món. Nếu có rượu nếp Giao Châu thì lấy ba cân.
Thiếu nữ gật đầu, liếc chàng tình tứ rồi rảo bước.
Chỉ lát sau, rượu thịt, rau rác đã được dọn lên.
Nam Cung Giao cau mày :
- Sao không có Trung Tiện Diệp!
Thiếu nữ hầu bàn chưa kịp đáp thì ai đó đã phì cười, nói bằng giọng ồm ồm như sấm :
- Ngươi ngu thực! Ở phía Bắc Trường Giang làm gì có loại lá ấy?
Người nói là hòa thượng áo xám, ngồi ở bàn bên cạnh. Tuổi lão độ sáu mươi, mày rậm mắt lộ, mũi thẳng, miệng rộng, mặt chữ điền, cằm má đầy, râu lởm chởm. Trông lão cũng khá oai vệ, nếu mồm mấp không bóng loáng vì mỡ chó.
Thực khách trong quán giật mình, dừng đũa nhìn xem chàng công tử áo gấm xanh kia có nổi nóng hay không? Một kiếm khách trẻ tuổi như chàng chắc sẽ chẳng chịu để kẻ khác vô cớ chưởi mình nghe!
Song Nam Cung Giao lại thản nhiên cười, lộ rõ vẻ ngượng ngùng :
- Đại sư dạy chí phải! Đệ tử quả là ngu ngốc!
Chính vị hòa thượng kia cũng phải sửng sốt trước độ lượng của chàng trai!
Nam Cung Giao ung dung ăn uống rất ngon lành, chậm rãi thưởng thức hương vị của món mà ngày còn ở nhà mẹ mình vẫn nấu!
Thiếu nữ thắt bím cứ lởn vởn qua bàn chàng, thỉnh thoảng lại ân cần hỏi xem chàng có còn đòi thêm gì nữa không?
Nàng còn khéo léo tự giới thiêu :
-Tiện nữ là Trần Lan, công tử muốn sai bảo, cứ gọi Lan nhi là đủ!
Trần Lan tuổi độ mười sáu, mười bảy, cơ thể chưa phát triển, nhưng dung nhan hứa hẹn mai sau trở thành mỹ nữ.
Nam Cung Giao đoán nàng thuần chủng Giao Chỉ, vì gương mặt có nét đẹp khác Mã Hoàn Cơ và Tiền Vân Mi.
Trần Lan đã khiến chàng nhớ đến mẫu thân, do vậy chàng vui vẻ đáp :
- Lan nhi sẽ phải vất vả đấy, sức ta có thể ăn được hai mươi mốt đĩa thịt của quán này!
Lan nhi phì cười :
- Công tử quả khéo nói đùa!
Bên kia, hòa thượng áo xám ôm bụng cười sằng sặc :
- Tiểu tử người ăn như vậy trong mười năm, e rằng sẽ biến thành chó đấy!
Cả quán cười ồ lên. Kẻ có máu khôi hài thì luôn rộng lượng, ít khi nổi giận.
Nam Cung Giao tươi cười trả đủa :
- Đại sư tuổi đã cao, ăn thịt chó chắc không dưới ba chục năm, e rằng sẽ biết sủa trước đệ tử đấy!
Chàng nói rất hữu lý nên mọi người đồng thanh khen phải, và có kẻ nói :
- Nguy quá! Lão phu thấy mấy răng nanh của hòa thượng khá dài rồi đấy!
Các tửu khách ôm bụng cười nôn ruột, chế giễu lão hòa thượng lắm lời kia.
Gậy ông đập lưng ông.
Hòa thượng tái mặt hổ thẹn, miệng lẩm bẩm :
- Tiểu tử này quả là khó chơi thực!
Tiểu Lan không vui khi thấy lão trọc phá giới kia cứ liên tục buông lời mạ lị, khiêu khích người trong mộng của mình. Nàng ngoe nguẩy bỏ đi vào bếp, nhưng do sơ ý, vấp vào chân ghế, lảo đảo ngã xuống, phải bám vào vai lão hòa thượng.
Nàng lúng túng xin lỗi lão rồi rảo bước.
Nam Cung Giác ăn hết bảy món Cẩu Nhục Thất Bảo, gọi quán tính tiền.
Hòa thượng áo xám cũng vậy.
Song mặt lão chợt xám ngoét như gà bị cắt tiết, hai tay sờ soạng khắp người, nhìn cả xuống gầm bàn để tìm túi bạc!
Lão giận dữ hỏi :
- Kẻ nào đã dám lấy hầu bao của bổn Đầu Đà?
Tửu khách đều đã ngà say nên lớn tiếng phản đối :
- Lão nói nhăng nói cuội gì thế! Bọn ta đều là người lương thiện, thấy của rơi còn không thèm nhặt, huống hồ gì trộm cắp!
Nghe ồn ào, mẹ của Tiểu Lan trong bếp chạy ra, bà dịu dàng hỏi :
- Hay là đại sư để quên túi bạc ở nhà? Khu vực này hai mươi mấy năm nay không hề có bóng kẻ bất lương nào cả?
Lão hòa thượng chợt nhớ ra cảnh cô gái hầu bàn kia đã chạm vào mình. Ông quắc mắt nhìn nàng, song không hề phát hiện nét bối rối vì tội lỗi. Ánh mắt này vẫn trong sáng, ngây thơ và vô cùng thánh thiện.
Bị xúc phạm, các tửu khách đua nhau mỉa mai hòa thượng :
- Túi không tiền thì cứ ngửa tay mà xin ăn, sao lại bày trò đổ vạ lên đầu người khác?
Hoặc là :
- Lão sư phá giới này chắc đã quen thói ăn quịt, phải giải lên quan thôi! Lão ta là người ăn quịt, Đại nương đừng cho thiếu!
Hòa thượng chịu hết nổi điên lên quát vang như sấm :
- Câm ngay! Câm ngay!
Rồi lão quay sang bảo Nam Cung Giao :
- Ngươi cho bần tăng vay đỡ hai lượng để trả tiền rượu thịt.
Tuy nói thế nhưng lão chẳng mấy hy vọng, vì lúc nãy đã từng xỏ xiên đối phương!
Nào ngờ Nam Cung Giao mỉm cười gật đầu, nói với tiểu Lan :
- Lan nhi cứ tính cả cho ta!
Lan nhi nhìn chàng bằng ánh mắt khâm phục :
- Công tử quả là đại phương đại lượng hiếm có trên đời!
Và nàng e thẹn hói nhỏ :
- Danh tính của chàng là gì?
Nam Cung Giao xưng tên và nói đùa :
- Lan nhi hãy ghi sẵn vào sổ nợ, lần sau ta sẽ ăn chịu đấy!
Chàng trả tiền, tặng luôn số thừa, vòng tay chào chung cả chủ lẫn khách rồi quay gót.
Lan nhi theo ra đến tận cửa tần ngần nhìn chàng tháo dây buộc ngựa và lưu luyến hỏi vọng :
- Ngày mai công tử có đến không?
Nam Cung Giao nheo mắt đáp :
- Nếu còn ở lại đất Từ Châu này, ta hứa ngày nào cũng đến.
Hòa thượng áo xám đứng gần đấy hậm hực trách móc :
- Ngươi quả là kẻ chẳng ra gì, thấy gái đẹp là tít mắt lại!
Nam Cung Giao không giận, chỉ cười khà khà :
- Duyên nợ do trời định! Số đệ tử đa thê nên cố tránh cũng chẳng được!
Tiểu Lan thẹn thùng cúi mặt nhưng lòng sung sướng vô hạn. Té ra chàng cũng chẳng hờ hững với nàng!
Nam Cung Giao vừa thượng mã thì hòa thượng áo xám cũng nhảy lên ngồi trên lưng ngựa, lạnh lùng bảo :
- Tiểu tử cho bần tăng quá giang đến núi Kim Sơn. Tới nơi, bần tăng sẽ bảo nha đầu Mã Hoàn Cơ trả lại cho ngươi hai lượng bạc lúc nãy.
Nam Cung Giao giật mình ấp úng :
- Té ra đại sư đi cùng Mã tiểu thư đến đây!
Hòa thượng cười nhạt :
- Đúng vậy! Bần tăng là Cẩn Nhục Đầu Đà ở núi Tây Hà, sư đệ của Mã thượng thư. Con tiểu nha đầu Hoàn Cơ vì say mê ngươi nên đã nhất quyết rời Nam Kinh đi tìm. Sư huynh và sư tẩu bần tăng vì lo thân gái dặm trường nên bắt bần tăng và gã Mã Kim Khu theo hộ tống. Bọn ta bám theo hụt cả hơi, không ngờ ngươi lại đang đi tìm duyên mới!
Nam Cung Giao cảm kích trước mối tình ý chân thành, nồng nhiệt của Hoàn Cơ thầm xấu hổ cho thói tham hoa luyến sắc của mình. Chàng bèn ra sức biện bạch, kể lại cuộc chạm trán với Yên Đài song sát và vì nghĩa đệ Mộc Kính Thanh mà phải nhận lời đến Kim Diện cung ứng thí.
Cẩn Nhục Đầu Đà sững người :
-Té ra con liễu đầu Vân Mi cũng đã để mắt xanh đến ngươi nên Yên Đài song sát mới bức bách ngươi thượng đài.
Lão tần ngần suy nghĩ một lúc, chợt vỗ vai Nam Cung Giao, bật cười khanh khách :
- Bần tăng cũng nhận ra ngươi có tiếng đa thê nhưng nếu ngươi muốn được cả Nga Hoàng lẫn Nữ Anh tất phải hết lòng cung phụng bần tăng như cha mẹ. Lúc ấy bần tăng sẽ thuyết phục con bé Hoàn Cơ chịu chung thuyền với Thần Nữ Tiên Vân Mi.
Nam Cung Giao vội thoái thác :
- Tiểu điệt lúc nào cũng tôn kính sư thúc, nhưng chẳng thể làm tổn thương Hoàn Cơ được! Sư thúc cứ kể rõ cho nàng nghe nội tình, còn tiểu điệt sẽ thượng đài nhưng giả vờ thua để khỏi phải cưới Vân Mi, mà vẫn tròn lời hứa với Yên Đài song sát!
Cẩn Nhục Đầu Đà ngợi khen :
- Tiểu tử người toàn tâm với Hoàn Cơ là tốt!
Hai người đều nặng cân nên tuấn mã ì ạch bước đi, cuối giờ Thìn mới đến chân núi Kim Sơn.
Khung cảnh nơi đây náo nhiệt phi thường, quanh lôi đài gỗ là gần ngân khán giả đang ồn ào cổ vũ cho cặp đấu thủ trên đài.
Đa số trong bọn họ là những cao thủ trẻ trung, ăn mặc diêm dúa sang trọng. Nhan sắc Thần Nữ và tài sản khổng lồ của Kim Diện cung đã khiến rất nhiều người khao khát. Đấy là chưa kể đến pho tuyệt học Kim Long kiếm pháp danh lừng vũ nội của Kim Diện cung chủ Tiền Phong Vân.
Ai làm rể lão tất sẽ được truyền thụ pho kiếm này!
Kim Diện cung ra đời chỉ mới mười lăm năm nay nhưng thanh danh khá vang dội.Tiền cung chủ đã từng đả bại chưởng môn hai phái Võ Đang, Hoa Sơn trong một cuộc so tài hữu nghị.
Võ lâm đánh giá rằng bản lãnh Tiền Phong Vân còn cao hơn cả đương kim Minh chủ của Vương Trung Hưng.
Song, do lão quá giầu nên chẳng dại gì ra tranh chức Minh chủ!
Thực chất là kẻ làm Minh chủ khổ như chó, chuyên ăn cơm nhà vác ngà voi, bôn ba lận đận vì chuyện của thiên hạ, lại chẳng được trả lương!
Thĩnh thoảng, các phái võ lâm có nhớ đến thì cho người mang vài trăm lượng bạc đóng góp vào ngân quỹ Tổng đàn võ lâm. Nếu họ có quên thì Minh chủ cũng chẳng thể muối mặt cho người đi nhắc nhở!
Quyền lợi duy nhất của Minh chủ là được toàn thể hào kiệt giang hồ tôn kính và được quyền động nhân lực, hay xen vào nội bộ các phái, nếu có tranh chấp. Đặc quyền này là niềm khao khát của những kẻ nuôi dã tâm thống trị võ lâm, còn người quân tử một lòng vì chính khí giang hồ thì ít khi sử dụng đến.
Còn một lý do tế nhị nữa khiến long đầu, thủ lãnh các bang hội lớn ít khi ra tranh cử Minh chủ, vì nếu đắc cử, họ sẽ mất quyền thu thuế bảo kê các hiệu buôn trong địa phận của mình.

Dài dòng đôi chút cho vui, giờ chúng ta sẽ trở lại với lôi đài tỷ võ chiêu phu.
Nam Cung Giao đã gởi ngựa, mon men vòng ngoài, thích thú dõi mắt quan sát trận so tài đang diễn ra trên kia.
Còn Cẩn Nhục Đầu Đà thì đã biến mất, có lẽ đi tìm anh em họ Mã để báo tin mừng.
Quả đúng vậy, lát sau, Mã Hoàn Cơ xuất hiện, bước lên lôi dài từ mé hữu, ngồi sau lưng Thần Nữ Tiền Vân Mi. Tuy vẻ mặt đoan trang, nghiêm nghị, song nhan sắc của Hoàn Cơ chẳng kém gì Thần Nữ.
Các chàng hào kiệt trẻ tuổi xôn xao bàn tán về nữ nhân lạ mặt kia.
Mã Tiểu thư thì thầm với bạn gái, tla cả hai chăm chú nhìn về phía hàng người đứng cuối, nở nụ cười tươi rói!
Từ sáng đến giờ, Vân Mi hoa dung ủ dột, mắt, liếc quanh nhời đang tìm kiếm, chờ đợi ai? Hoặc đang lo sợ vì lấy phải một đáng trượng phu đui, què mẻ, sứt. Nếu đến nước ấy, Vân Mi chỉ còn cách liều mạng với gã tốt số kia.
Theo luật thì ứng cử viên cũng sẽ phải thắng được Thần Nữ! Mà kiếm pháp của Vân Mi thì chẳng hề tầm thường chút nào cả! Nàng thông minh mẫn tiệp nên thành tựu hơn hẳn em trai là Thiếu cung chủ Tiền Thanh Giám!
Kim Diện cung chủ Tiền Phong Vân không hề rõ tâm sự của ái nữ. Lão là người độc đoán nên đã quyết định lập lôi đài kén rể, chẳng cần biết ý kiến của Vân Mi. Giờ đây lão đang cao hứng, hài lòng trước hai ứng cử viên sáng giá là Lôi Phong sơn chủ Bạch Tuấn Hào, và Hoàng Ưng bảo chủ Tổ Nam Phi, giòng dõi thế phiệt đất Huy Châu.
Người dự khán, dự thí rất đông do vậy, giám khảo là Yên Đài song sát đã qui định mỗi ngày chỉ chọn ra mươi cặp đối thủ. Họ thẳng tay loại bỏ những thí sinh võ nghệ tầm thường, xuất thân hèn kém hay dung mạo xấu xí ra khỏi danh sách thượng đài.
Song Sát đã tự động ghi tên Nam Cung Giao vào sổ, ngay khi thấy chàng xuất hiện, họ xếp chàng sang ngày thứ ba để gà nhà có cơ hội quan sát võ công của Lôi Phong sơn chủ và Hoàng Ưng bảo chủ.
Bạch Tuấn Hào thượng đài trong ngày đầu, đến chiều đã chiếm ngôi đầu bảng. Gã chẳng gặp khó khăn gì chỉ cần vài chiêu đã đã hạ đối thủ của mình.
Sang ngày thứ hai, Hoàng Ưng bảo chủ Tổ Nam Phi cũng chiến thắng oanh liệt y như Lôi Phong sơn chú.
Bạch Tuấn Hào hơi chột dạ trước công lực và pho Hải Ưng đao pháp của họ Tổ. Nếu hai bên cầm đồng thì e rằng lợi thế sẽ nghiêng về phía Hoàng Ưng bảo chủ. Ban giám khảo chắc chắn sẽ chọn Tổ Nam Phi vì gã trẻ hơn, đẹp trai hơn và cũng giàu có hơn.
Trong hai ngày này Nam Cung Giao chỉ dự khán buổi sáng, còn từ trưa đến tối thì cùng Mã Kim Khu, Cẩn Nhục Đầu Đà đi nhậu suốt. Do hai người này cứ bám chặt lấy chàng nên bốn anh em họ Sở chẳng dám đến chào hỏi. Họ đành nhẫn nại chờ đợi cơ hội.
Mã Kim Khu đã báo cho Nam Cung Giao biết việc Hoàn Cơ và Vân Mi kết nghĩa tỹ muội, đồng ý thờ chung một chồng. Gã nhắc đi nhắc lại rằng Nam Cung Giao phải thắng. Nếu không Thần Nữ sẽ liều chết hoặc tự sát!
Nam Cung Giao nhăn nhó :
- Nhưng lỡ tiểu đệ không địch lại Bạch Tuấn Hào hay Nam Phi thì sao?
Mã Kim Khu cười khanh khách :
- Ngươi đừng giả đò khiêm tốn. Ta đã biết việc ngươi giết Hàm Đan lão nhị Mạc Đắc Khoa và đả bại cả lão Đại Mạc Vi Hầu! Tin này, cả vùng Tô Châu đang xôn xao vì việc này, tiếc là kẻ chứng kiến không biết ngươi, nếu không thì ngươi đã lừng danh thiên hạ rồi!
Cẩn Nhục Đầu Đà cười tít mắt, kể công :
- Bần tăng đã phải múa ba tấc lưỡi nên con nha đầu Hoàn Cơ mới chịu thiệt thòi đấy! Ngươi phải nhớ lời hứa mà tận tình cung phụng ta cho chu đáo!
Chiếu mười sáu, Yên Đài song sát đến tìm Nam Cung Giao, cũng với luận điệu rằng chàng không được phép thua.
Nam Cung Giao đành thề thốt rằng có chết cũng phải thắng, và rủ họ nhập bọn vào thành mà uống!
Chàng đã giữ lời, hôm sau toàn thắng bốn trận trở thành ứng cứ viên vòng chung thẩm trong ngày thứ tư.
Nhưng sáng mười tám, khi Bạch Tuấn Hào, Tổ Nam Phi và Nam Cung Giao thượng đài ra mắt giám khảo cùng quần hùng, chuẩn bị bốc thăm so tài, thì cuộc vui phát sinh quái sự.
Một đoàn kỵ sĩ áo đen, đông độ năm mươi người, hộ tống cỗ xe song mã có thùng dát vàng lá rực rỡ xuất hiện. Và năm chục gã kiếm thủ ấy đồng thanh hô vang :
- Thiếu chủ Vô Thanh cốc giá lâm!
Tiếng họ vang rền như sấm dậy, chứng tỏ một nội lực thâm hậu.
Mọi người giật mình hoang mang, phần vì bất ngờ, phần vì thanh danh đáng sợ của Vô Thanh cốc chủ, Long Giác Thần Quân Khương Quang Bật.
Trời sinh họ Khương có hai bướu ở góc trán, trông tựa sừng rồng nên lão xưng là Long Giác Thần Quân.
Do tướng mạo quái dị, tính tình lão ta cũng cổ quái, độc ác khác thường.
Trong vòng bốn mươi năm, Khương Quang Bật đã tàn sát rất nhiều người để đoạt sắc, cướp của.
Lần nào lão cũng giết sạch không chừa lại một nhân chứng, dù gà hay chó. Vì vậy tuy biết Long Giác Thần Quân là hung thủ mà các phái chẳng thể hội quân hỏi tội.
Sào huyệt của Khương lão ma có tên gọi là Vô Thanh cốc, nằm trong rừng núi bạt ngàn Ngũ Kinh Nguyên ở phủ Hồ Nam, nhưng chẳng ai rõ vị trí chính xác là chỗ nào.
Sở trường của Long Giác Thần Quân là pho kiếm pháp Vô Thanh, chiêu thức hiểm ác phi thường, lại hoàn toàn không phát ra tiếng động. Cả pho khinh công Vô Trần ảo lão cũng độc bá võ lâm, đến quỷ không hay, đi thần không biết!
Khương lão đem hai tuyệt học này truyền cho đệ tử Vô Thanh cốc, biến họ thành những sát thủ thượng thặng, hành sự tàn nhẫn chu đáo, không hề để lại dấu vết.
Khi Vô Thanh cốc đã ghé mắt xanh vào bảo vật hay nữ nhân nào thì khổ chủ hãy khôn hồn mà dâng nạp, nếu lắc đầu thì toàn gia chết sạch, chẳng còn đến một móng.
Vô Thanh cốc còn giỏi nghề hóa trang, thủ đoạn xảo quyệt như chồn cáo, khiến nạn nhân chết mà không thấy mặt hung thủ.
Tóm lại, Long Giác Thần Quân và bọn sát thủ Vô Hình cốc là quỷ dữ vô hình, ám ảnh tâm trí người võ lâm, khiến ai nghe đến cũng ngán ngẩm, khiếp sợ!
Đã dây đến họ thì khó mà sống sót, hoặc phải phát điên vì bị quấy nhiễu.
May thay, mười lăm năm trước, Long Giác Thần Quân đem quân dành cướp viên Tỵ Thủy châu của nhà họ Vương đất Giang Lăng, tình cờ chạm trán Nhị trưởng lão Thiếu Lâm tự là Pháp Hoa thần tăng.
Nhị trưởng lão là bào huynh của Vương Viên ngoại, việc này người ngoài không được biết, và Vô Thanh cốc cũng vậy.
Pháp Hoa thần tăng năm ấy đã bát tuần, bản lãnh cao siêu nhất chùa Thiếu Lâm. Thần tăng đã dùng tuyệt học Kim Cương chỉ lực xoi thủng ngực lão ác ma.
Long Giác Thần Quân kéo quân đào tẩu chẳng rõ sống hay chết mà Vô Thanh cốc im hơi lặng tiếng cho đến tận bây giờ!
Sự tái xuất của tổ chức khủng bố khét tiếng này đã làm mọi người run sợ. Cả Kim Diện cung chủ Tiền Phong Vân cũng thoáng chấn động đôi vai.
Lão mang mặt nạ bằng vàng dát mỏng nên có biến sắc cũng chẳng ai thấy được.
Thiếu cốc chủ Vô Thanh cốc bước xuống xe, oai vệ tiến về phía lôi đài. Còn bọn kỵ sĩ thì vẫn ngồi yên trên ngựa, thần thái lạnh lùng đầy vẻ uy hiếp.
Quần hào tự động dản ra, nhường đường cho hậu nhân của võ lâm đệ nhất hung thần. Họ khao khát dán mắt vào hai cục u quái dị trên trước trán của gã Thiếu cung chủ, và rùng mình quay sang hướng khác khi chạm phải nhãn thần tàn độc của đôi mắt Tứ Bạch!
Mắt người thường chỉ có hai phần tròng trắng kẹp lấy tròng đen ở giữa. Nhưng cũng có kẻ mang tướng mặt Tam Bích (trắng ba bên) hay Tứ Bạch (chung quanh tròng đen lộ rõ tròng trắng). Đây là tướng của kẻ đại ác. Thêm vào đó gã Thiếu cốc chủ này còn có gương mặt choắt của loài hồ ly, hàm răng lại nhọn, răng nanh dài! Thân hình gã cũng thấp nhỏ, chỉ tương đương với nữ nhân!
Bộ trường bào gấm vàng rực rỡ, vạt viền đỏ, trên người gã càng làm nổi bật vẻ xấu xí chứ chẳng có tích sự gì!
Thế nhưng cả con người gã toát ra một vẻ gì đó khiến người đối diện phải khiếp sợ, chẳng dám nhìn lâu.
Thiếu cốc chủ Vô Thanh cốc chẳng hề cong gối hay lắc vai mà thân hình vẫn bay vút lên lôi đài, hạ thân êm ái đến mức không có hạt bụi nào bốc lên.
Đây chính là tuyệt học Vô Thần thân pháp!
Gã nhoẻn miệng cười, để lộ hàm răng trắng nhởn, nhỏ và nhọn hoắt vòng tay cung kính nói :
- Bẩm Tiền cung chủ! Vãn bối Khương Thư Hàn được tin quý cung khai đàn kén rể, vội kiếm trình ngày đêm, song do đường sá xa xôi nên đến trễ. Mong Cung thủ nể mặt gia phụ và nghĩ đến lòng nhiệt tình của vãn bối mà cho phép được tham gia ứng thí!
Ngôn từ của gã rất lưu loát, đúng mực, chúng tỏ là người có học. Và lạ thay, giọng nói của Khương Thư Hàn trầm ấm, ngọt ngào như mía lùi.
Kim Diện cung có tài sản cơ ngơi ở khắp các phủ Giang Tô, Sơn Đông, Huy Châu nên rất e ngại Vô Thanh cốc. Nếu làm mích lòng Long Giác Thần Quân thì cơ nghiệp to tát kia sẽ tan thành trong phút chốc! Với thân thủ ma quái, bọn đệ tử Vô Thanh cốc chưa hề thất bại bao giờ!
Kim Diện cung chủ Tiền Phong Vân vội gượng cười :
- Công tử có lòng lặn lội nghìn dặm đến đây, khiến lão phu muôn vàn vinh dự và cảm kích. Tuy nhiên nếu để công tử thượng đài vào phút chót thì e rằng ba ứng cử viên kia phải chịu thiệt thòi và sẽ phản đối.
Khương Thư Hàn vui vẻ đáp :
- Vãn bối cũng hiểu được đạo lý này nên sẽ chấp họ tấn công trước ba chục chiêu. Vãn bối sẽ chỉ phòng thủ, nếu bị trúng đòn, dù là rách áo hay rơi đài cũng sẽ nhận bại ngay!
Khẩu khí của gã cực kỳ cao ngạo, ngông cuồng, song lại hợp lý nên Tiền cung chủ chẳng thể từ chối được.
Ông quay sang thì thầm bàn bạc với Yên Đài song sát, được họ tán thành, liền phúc đáp :
- Công tử đã dám nhận phần thiệt để bù đắp cho việc đến trễ, thì lão phu định phải tuân mệnh. Tuy nhiên, lão phu mong công tử hãy cẩn thận, ba người kia đều là những cao thủ kiệt xuất.
Ông bèn giới thiệu Lôi Phong sơn chủ, Hoàng Ưng bảo chủ và Nam Cung Giao cho Khương Thư Hàn biết.
Họ Khương cười khanh khách :
- Cung chủ yên tâm! Vãn bối có chắc thắng mới dám đến đây!
Gã bước đến trước mặt Lôi Phong sơn chủ Bạch Tuấn Hào vòng tay chào rồi tươi cười nói :
- Bạch huynh tướng mạo anh tuấn, gia thế hiển hách, lo gì không cưới được mỹ nhân khác, xin hãy nhường chỗ này cho đứa em xấu xí là Hàn tôi. Nếu được vậy, Vô Thanh cốc sẽ suốt đời nhớ ơn Tịch Chiếu sơn trang! Chẳng hay lệnh huyện đường vẫn còn khang kiện đấy chứ?
Giọng điệu uy hiếp này khiến Bạch Tuấn Hào lạnh cả gáy, hiểu rằng nếu không bỏ cuộc thì Bạch Gia sẽ gặp tai họa, tan cửa nát nhà chứ chẳng chơi!
Tuấn Hào đành cam tâm đánh mất mỹ nhân, và cũng vì thanh danh của Tịch Chiếu sơn trang, nên cố nặn ra một nụ cười :
- Công tử đã hạ mình nói vậy khiến ta cũng động lòng. Nhưng bao năm nay, tại hạ khao khát được chiêm ngưỡng tuyệt học Vô Thanh kiếm pháp của Khương lão tiền bối nên xin được tiếp vài chiêu. Mong công tử đừng vì vậy mà đem lòng oán hận!
Khương Thư Hàn vội xua tay :
- Không! Bạch huynh đừng hiểu lầm! Nếu bị đ
pass to joine phim : Kim_Bang_2
longnu
Múi Mít
Múi Mít
 
Tiền: $122,632
Posts: 1046
Joined: 14 Mar 2005
Location: đến từ nơi xa lắm
 
 

Postby longnu » 08 Apr 2005

[color=red][b]6...
Tiếu Ngạo Trung Hoa Nguyên tác : Ưu Đàm Hoa




Hồi 06 Hoài Châu giải oan án
Quỳ Phong tróc Nhất Phụng
Nhắc lại, Nam Cung Giao không vui trước thái độ tiểu nhân, khiếp nhược của Kim Diện cung chủ Tiền Phong Vân nên đã thoái hôn, bỏ về Tứ Hải đại lữ điếm thu xếp hành lý rời khỏi Từ Châu.
Bốn anh em nhà họ Sở đã bám gót theo sau gõ cửa phòng xin bái kiến.
Họ nhất tề quì phục xuống.
Sở Trường Thụy nói :
- Mong công tử nhận bọn tại hạ làm nô bộc! Nếu người từ chối, anh em tại hạ sẽ quỳ mãi nơi này, quyết chẳng đứng lên!
Sở Nhu không nói gì nhưng ánh mắt long lanh, ướt mượt, đầy vẻ van nài.
Nam Cung Giao cau mày, đắn đo rồi phúc đáp :
- Việc này khoan bàn đến, giờ chúng ta hãy ra cánh rừng đào ở cửa Tây thành để ta khảo sát võ công tứ vị. Nếu ta không thắng nổi, tức là không đủ sức giúp chư vị giết Hoài Giang Thần Thương. Bằng ngược lại, ta sẽ nhận lời!
Anh em họ Sở mừng rỡ đứng lên, cùng Nam Cung Giao rời Tứ Hải đại lữ điếm.
Năm người vào sâu trong rừng đào, chọn một khoảng đất trống kín đáo để so tài.
Chính vì thế mà bọn Cẩn Nhục Đầu Đà đã vượt qua, đi trước Nam Cung Giao mà không biết.
Đến nơi, Nam Cung Giao thận trọng hỏi :
- Mong Sở túc hạ kể rõ nguồn cơn mối thù với Hoài Giang Thần Thương cho tại hạ được rõ?
Lão Nhị Sở Sĩ Hưu ăn nói lưu loát nhất bọn liền ứng tiếng:
- Bẩm công tử! Tiên phụ là Xảo Xảo thư sinh Sở Nam Vu, nổi tiếng khéo tay nhất võ lâm, giỏi nghề cơ quan, máy móc và hỏa dược.
Ba năm trước, tiên phụ bị đâm chết trong hoa viên, bởi một ngọn đoản thương, bảo vật trong nhà cũng mất sạch.
Lúc ấy, anh em tại hạ đều vắng mặt, nghe tin dữ mới trở về.
Ngọn đoản thương kia chính là ám khí lừng danh của Hoài Giang Thần Thương Tần Dũng Nhuệ, thủ lĩnh Thần Thương hội ở huyện Hoài Nam, cạnh bờ sông Hoài.
Anh em tại hạ mang tang vật đến hỏi tội thì Tần Dũng Nhuệ chối biến, bảo rằng mũi thương kia thất lạc đã lâu.
Anh em tại hạ liền vây đánh, nhưng không sao giết được họ Tần, vì lão chính là bằng hữu thâm giao của tiên phụ, hiểu rõ tường tận từng chiêu thức của pho Cổ Mộ kiếm pháp nhà họ Sở.
Do đó, bọn tại hạ mới phải bôn ba đi tìm võ công khác mà học hỏi!
Nam Cung Giao tư lự :
- Lạ thực! Nếu ta là hung thủ tất chẳng bao giờ lưu lại tang vật! Hay là có kẻ đã giá họa cho Tần lão?
Sở Trường Thụy rầu rĩ gật đầu :
- Tại hạ cũng nghĩ thế, nhưng Tần Dũng Nhuệ quả thực có vắng nhà trong khoảng thời gian gia phụ bị hại, và lão cũng không dám nói là mình đã đi đâu, làm gì, chỉ kể là mình lão một mình thả thuyền xuôi giòng Hoài Giang, uống rượu ngâm thợ Tất nhiên là không có ai làm chứng cho lão ta!
Bỗng Nam Cung Giao cười hỏi :
- Thần Thương năm nay niên kỷ bao nhiêu, còn vợ lão tính nết thế nào?
Sở Nhu bỡ ngỡ đáp :
- Tiểu muội là người thường lui tới thăm hỏi nhà họ Tần nên biết rất rõ! Tần lão đã sáu mươi lăm. Song Tần phu nhân chỉ mới tứ tuần. Tính tình bà ta rất nghiêm nghị, hung dữ!
Nam Cung Giao cười khà khà :
- Hay là hôm ấy Thần Thương đi thăm tiểu thiếp, vì quá sợ nên thà bị oan án sát nhân chứ chẳng dám nói ra?
Anh em họ Sở đều ngơ ngác :
- Lẽ nào có người lại sợ vợ đến mức ấy?
Nam Cung Giao đắc ý gật gù :
- Đúng vậy, như gia phụ chẳng hạn, ông nổi danh là Tam Bôi tiên sinh vì gia mẫu chỉ cho phép uống tối đa ba chung rượu, mặc cho bằng hữu hết lời chế giễu cũng không dám sái phạm! Nay biết đâu Tần Dũng Nhuệ đã lén vợ mà lập phòng nhì, mượn cớ đi dạo mà ghé thăm. Và có kẻ biết rõ việc ấy liền đến Hợp Phì hạ thủ lệnh tôn, bằng nửa đoản đao để hại họ Tần!
Sở Nhu là người thông tuệ, lập tức nhận ra rằng Nam Cung Giao suy luận rất đúng đắn.
Nàng hào hứng tiếp lời :
- Công tử nói chí phải. Song nếu vậy thì hung thủ phải là người quen biết với cả Tần lão và tiên phụ, mới có thể trộm đoản thương và ám toán tiên phụ!
Sở Tích Vũ kêu lên :
- Ngoài lão Đoạt Hồn Thương Chu Toại, Phó hội chủ Thần Thương hội, còn ai vào đây nữa?
Sở Sĩ Hưu gật gù khen :
- Không ngờ hôm nay tam đệ thông minh đáo để!
Nam Cung Giao trầm ngâm hỏi :
- Nếu Tần lão không hiểu rõ võ học nhà họ Sở thì có địch lại Tứ vệ hay không?
Sở Trường Thụy cười mát :
- Bản lãnh của họ Tần chỉ tương đương với Lôi Phong sơn chủ, nếu lão không may mắn có được ưu thế kia thì đã chết dưới kiếm của anh em tại hạ rồi!
Nam Cung Giao gật gù :
- Tại hạ xin được thưởng lãm tuyệt học Cổ Mộ phái, mong tứ vị nhẹ tay cho.
Sở Nhu tinh quái nói :
- Công tử định giả thua để giũ bỏ anh em tiểu muội đấy ư?
Nam Cung Giao bị đánh trúng tim đen, gượng cười biện bạch :
- Nàng đừng nghĩ xấu cho ta như thế!
Chàng rút kiếm bước ra giữa bãi cỏ ra hiệu mời các địch thủ.
Bốn người họ Sở vây lấy chàng, và Trường Thụy nghiêm giọng :
- Cổ Mộ kiếm pháp là tuyệt học tà môn, có từ thời Bắc Tống, chiêu thức hiểm ác, tàn nhẫn vô cùng. Khi đã xuất thủ, bọn tại hạ bị kiếm ý mê hoặc nên không thể nương tay được. Mong công tử cẩn tâm, trổ hết tài nghệ ra đối phó. Khi nào không còn cầm cự được nữa thì phải lên tiếng ngay!
Nam Cung Giao rợn dạ gà trước ánh mắt lạnh lẽo và giọng nói âm trầm của Sở Trường Thụy, biết rằng gã nói thực. Nhưng chàng ước lượng bản lãnh mình cao hơn Lôi Phong sơn chủ một bậc nên rất tự tin, vui vẻ đáp :
- Hay lắm! Nếu đánh không lại tại hạ sẽ la làng ngay, mong chư vị nhớ đình thủ giùm cho!
Sở Nhu bật cười, vung kiếm tấn công trước, ba người kia cũng ập vào, phối hợp rất nhịp nhàng.
Quả thực là pho kiếm tà môn kia có ma lực, chỉ sau vài chiêu, sắc diện anh em họ Sở đã lạnh như sương, đường kiếm ác độc khôn lường, cứ như đang đấu với kẻ thù giết cha vậy.
Nam Cung Giao khen thầm, đem hết sở học ra chống cự. Đây là cơ hội rất tốt để chàng rèn luyện, ứng dụng pho Lạc Điểu kiếm pháp, trong hoàn cảnh bị giáp công bốn mặt.
Thân hình Nam Cung Giao quay cuồng đảo lộn, bảo kiếm bay lượn vun vút đẩy lùi những đợt sóng kiếm vũ bão của anh em họ Sở.
Trong hai trăm chiêu đầu, Nam Cung Giao thủ nhiều hơn công, nhưng sau đó, chàng đã thức ngộ thêm những tinh túy trong sở học, mạnh dạn phản kích.
Kiếm là vua của các loại binh khí cá nhân vì những đặc tính ưu việt như có mũi nhọn để đâm, sắc cả hai lưỡi nên có thể chém mà không phải trở bản như đao. Hơn nữa, kiếm khá nhẹ nên tốc độ rất nhanh và linh hoạt.
Một kiếm thủ thượng thừa có thể múa kiếm dưới cơn mưa tầm tã mà không hề sợ ướt.
Còn về chiều dài, từ thời Xuân Thu đến nay, kiếm đã tăng gấp đôi, mở rộng tầm tấn công và sát thương.
Nhưng nó cũng có giới hạn, đó là chiều cao của người sử dụng.
Do vậy trường kiếm các đời Tống, Nguyên, Minh đều có kích thước khoảng ba xích một thốn!
Riêng Nam Cung Giao thân thể cao lớn hơn người thường cả gang tay, cho nên mới sử dụng được thanh kiếm vô danh này. Và cũng nhờ vậy mà kiếm thuật của chàng thêm lợi hại, cả trong phòng thủ lẫn tấn công. Đơn giản là mũi kiếm của chàng luôn vươn đến mục tiêu trước!
Đến chiêu thứ năm trăm thì Nam Cung Giao đã ở thế thượng phong, liên tiếp đẩy lùi đối phương, và có thể đả thương bất cứ người nào!
Sở Nhu công lực kém nhất, không chịu đựng nổi cuộc chiến khốc liệt và dai dẳng, liền bỏ cuộc nhảy lùi, ôm ngực thở hồng hộc :
- Tiểu muội kiệt sức rồi!
Kiếm trận thế là tan tác, ba người anh của nàng cũng đình thủ ngượng ngùng tra kiếm vào vỏ.
Họ nhất tề quì xuống lạy chín lạy.
Sở Trường Thụy thay mặt tuyên thệ :
- Bốn anh em họ Sở chúng tôi nguyện suốt đời trung thành với Nam Cung công tử, dẫu tan xương nát thịt cũng không thay lòng đổi dạ!
Nam Cung Giao thẹn đỏ mặt, bối rối xua tay :
- Được rồi! Được rồi! Tứ vị hãy đứng lên đi!
Năm người hàn huyên một lát rồi khởi hành, đi về hướng Tây Nam để đến trấn Hoài Nam, trọng địa của Thần Thương hội.
Họ sẽ tiến hành điều tra theo ý của Nam Cung Giao tức là tìm cho ra mụ vợ nhỏ của Hoài Giang Thần Thương.
Trong suốt gần nửa tháng đăng trình, Sở Nhu hết lòng chăm sóc, hầu hạ Nam Cung Giao, chỉ thiếu điều đút cơm cho chàng ăn nữa mà thôi!
Chàng vô cùng khoan khoái, y như ngày còn thơ dại được từ mẫu cưng chiều!
Sở Nhu trầm lặng, ít nói nhưng khi phát ngôn thì câu nào cũng ý nhị, sâu sắc và hóm hĩnh khiến lòng người vui vẻ.
Nhờ được ăn toàn cao lương mỹ vị, thân hình mảnh khảnh của nàng đã đầy đặn thêm, trông càng quyến rũ.
Nam Cung Giao thầm nghĩ :
- Nha đầu này tính tình hiền lành nhu mì, siêng năng, đáng mặt vợ hiền. Ta mà lấy ả thì chẳng sợ rơi vào cảnh bị kìm kẹp như phụ thân. Nhưng chỉ sợ mẫu thân vì cái bướu kia mà không chấp nhận.



Cuối tháng mười một, đoàn người đến đoạn sông Hoài, cách trấn Hoài Nam hai trăm dặm. Họ sẽ chia nhau, đi dọc hai bờ, tiến về phía trấn Hoài Nam.
Nam Cung Giao và Sở Nhu sang sông, còn ba gã họ Sở ở lại bờ Bắc.
Theo kế hoạch họ sẽ dùng vàng bạc mua chuộc những lão trưởng thôn tham lam, nhờ họ cung cấp tin tức,
Người Trung Hoa rất thích kháo chuyện rỗi, thôn xóm chỉ được dăm chục nóc nhà, chẳng ai giấu được ai điều gì. Nếu một mụ già xinh đẹp nào đó có tình nhân ghé thăm, tất chỉ sáng hôm sau là cả làng đều biết!
Lễ vật đưa trước là năm lượng bạc trắng để khởi động bộ xương già nua của những lão hương cả móm mém. Nếu tìm được đúng đối tượng, lão ta sẽ được thêm năm lượng.
Anh em họ Sở sẽ xưng là thám tử phủ Nam Kinh Hình bộ Thượng thư đi điều tra, phá án. Với bộ mặt cô hồn và y phục gấm xanh sang trọng, chắc chắn bọn hương chức quê mùa kia sẽ dạ vang chứ chẳng dám hỏi đến lệnh bài nha môn!
Nam Cung Giao thì vững chân hơn vì lúc ở Từ Châu đã được Mã Kim Khu tặng cho tấm Đồng bài, trên khắc sáu chữ “Nam Kinh Hình Bộ Hộ Vệ”.
Gã sợ em rể đơn thương độc mã trước lực lượng Hồ bang nên đã tặng đồng bài, để chàng có thể nhờ cậy sự hỗ trợ của quan quân khi cần thiết!
Thực ra, đồng bài và chức danh này là của Mã Kim Khu! Gã nhiều phen theo Thượng thư phá án nên được Thất vương gia ban cho chức vụ hộ vệ, đứng đầu đám thám tử của Hình Bộ phía Nam.
Sau năm ngày gội tuyết, mỏi miệng vì hỏi han, Nam Cung Giao và Sở Nhu đến thôn Thủy Liễu cách Hoài Nam sáu chục dặm.
Hai người vào nhà của lão Trưởng thôn họ Hồ.
Nam Cung Giao đặt đồng bài lên bàn, lạnh lùng nói :
- Tại hạ thừa mệnh Hình bộ Thượng thư Nam Kinh đi điều tra một vụ án nghiêm trọng. Túc hạ là người đứng đầu thôn Thủy Liễu này, cũng xem như bầy tôi của triều đình, xin hãy tận tâm giúp đỡ tại hạ làm sáng tỏ vương pháp.
Mã thượng thư đã hứa thưởng ngày trăm lượng bạc cho bất cứ ai có công.
Để lời nói của chàng thêm trọng lượng, Sở Nhu móc hầu bao, lấy ra thỏi bạc năm lượng và tờ ngân phiếu.
Nàng dịu giọng :
- Năm lượng này là lễ vật sơ kiến, mong Hồ cửu phẩm nhận cho!
Thường thì, các Hương chức trong thôn đều có hàm từ Cửu phẩm đến Thất phẩm.
Hồ lão run rẩy cầm lấy năm lượng bạc bỏ vào tay áo cho chắc ăn rồi vái dài :
- Xin Hộ vệ đại nhân cứ dạy.
Nam Cung Giao hỏi :
- Trong thôn Thủy Liễu này có mỹ nhân lỡ thì, hay góa bụa nào làm nhị phòng cho người của địa phương khác hay không? Nam nhân ấy tuổi độ sáu mươi lăm, thân thể cao lớn, thường mặc áo học trò!
Hồ lão đang lăm le lấy được năm lượng bạch ngân nên mừng rỡ kêu lên :
- Bẩm có ạ! Cạnh bờ sông có ả Bạch Thắng Tuyết năm nay ba mươi sáu tuổi, mặt rổ hoa, nhưng nhan sắc mặn mà, ả ế chồng vì bị cụt một chân. Trước đây ả bán rượu, sau này trở thành vợ bé của một lão già lạ mặt, hiện đã sanh được ba nam hài. Dáng vóc của lão già sanh tật kia quả đúng như lời Hộ vệ đại nhân vừa mô tả.
Lão liếng thoáng nói văng cả nước bọt, hí hửng vì sắp được bỏ tờ ngân phiếu kia vào túi!
Nam Cung Giao thở phào, hoan hỉ nhìn Sở Nhu, rồi bảo Hồ lão :
- Hồ cửu phẩm hãy đưa bọn ta đến đấy, nếu đúng là đối tượng cần tìm, bổn chức sẽ tưởng thưởng!
Chàng tủm tỉm cười, thu lại tờ ngân phiếu, khiến lòng họ Hồ hoang mang.
Lão mau mắn dẫn hai người đi về hướng bờ sông, đến căn nhà gỗ nhỏ của Bạch Nương.
Nữ nhân tàn tật, bạc mệnh này đang ngồi vá áo cho con, chung quanh là ba bé trai đang đùa giỡn, đứa nhỏ nhất độ ba tuổi!
Quả đúng như tên, Bạch Nương có nước da trắng như ngọc, dung mạo hiền lành, nhân hậu.
Chỉ cần nhìn cảnh nhà cửa tươm tất, gọn gàng và cách ăn mặc ấp áp, sạch sẽ của ba đứa trẻ, cũng đủ biết nàng rất siêng năng, chu đáo!
Bạch Nương đã thấy khách từ lúc họ còn ở ngoài cửa, vội rời ghế, chụp nạng gỗ ra đón.
Sở Nhu nhanh chân rảo bước đi trước, đến sát mặt chủ nhà, tươi cười nói nhỏ :
- Tiểu muội được Tần lão gia phái đến thăm hỏi Bạch đại tỷ.
Dường như Thắng Tuyết đang mong đợi Tần Dũng Nhuệ nên hân hoan cười đáp :
- Ngu tỷ mừng quá, đã ba tháng nay ông ấy không ghé, nhà sắp hết gạo rồi!
Sở Nhu quay lại nháy mắt ra hiệu với Nam Cung Giao rằng đã tìm đúng mục tiêu.
Chàng trao tờ ngân phiếu cho Hồ trưởng thôn và nghiêm giọng dặn dò :
- Vụ án này nghiêm trọng đến mức phủ Hình Bộ phải đích thân thụ lý! Nếu lão bép xép tiết lộ ra thì đầu lìa khỏi cổ. Hãy nhớ lấy điều ấy, và nếu người trong thôn có thắc mắc thì cứ nói rằng có họ hàng của Bạch nương đến tìm!
Mắt chàng sáng rực như có lửa khiến Hồ lão sợ nhũn cả người, vái dài thề thốt :
- Hộ vệ đại nhân yên tâm! Dẫu có ai kề đao vào cổ thì tiểu lão cũng chẳng dám hé môi!
Lão khom lưng nhận bạc, hấp tấp chuồn thẳng.
Sau vài khắc chuyện trò phân giải, Bạch Nương đã rõ nguồn cơn, khẳng định tiết trung thu năm trước Tần Dũng Nhuệ đã ở đây, vì lúc nàng mới sanh đứa thứ ba.
Nam Cung Giao cảm thương số phận hẩm hiu của người đàn bà tội nghiệp này liền nghĩ cách giúp nàng.
Chàng bảo :
- Bạch đại tỷ! Tại hạ có cách giúp đại tỷ và ba con được danh chính ngôn thuận về sống với Tần lão!
Bạch Nương ứa nước mắt đáp :
- Nếu vậy thì tiện phụ xin suốt đời xin đội ơn công tử. Tiện phụ sẵn sàng chết, chỉ cần Tần phu nhân hết lòng nuôi dưỡng ba đứa bé đáng thương kia!
Nam Cung Giao cười mát :
- Sao đại tỷ lại nói thế! Tại hạ bảo đảm rằng Tần phu nhân sẽ phải vui vẻ mà chấp nhận!
Chàng bèn nói sơ kế hoạch của mình.
Dù không tin tưởng lắm nhưng Bạch Nương cũng cắn răng đưa các con đi theo Nam Cung Giao và Sở Nhu.



Sáng ngày mùng tám tháng chạp, Tri huyện Hoài Châu đích thân thống lĩnh lực lượng công sai, bích lệ, kéo đến Tần gia trang, cũng là Tổng đàn Thần Thương hội, ở bờ Nam Sông Hoài.
Hoàng tri huyện cũng là chỗ quen biết với Hoài Giang Thần Thương, thế mà hôm nay mặt lạnh như tiền.
Tần Dũng Nhuệ và Tần phu nhân vội ra cổng đón mời khách vào sảnh lớn.
Quan quân đứng cả ngoài sân, chỉ có Hoàng tri huyện và năm người áo gấm nhập sảnh.
Tần lão nhận ra anh em nhà họ Sở, biết rằng họ đã kiện mình.
Hoàng tri huyện chìa tay về phía chàng trai trẻ áo lam, giới thiệu :
- Vị đại nhân này là Hộ vệ của phủ Hình bộ Thượng thư Nam Kinh, danh tính Nam Cung Giao, thừa lệnh Mã thượng thư đến đây áp giải Tần trang chủ về qui án! Sở gia đã đâm đơn kiện hồi đầu năm! Sau khi điều tra Bộ Hình đã tìm ra nhân chứng nhìn thấy Tần trước có mặt ở thịnh Hợp Phì đúng tiết trung thu ba năm trước!
Tần phu nhân cơ hồ té xỉu, quì xuống van lạy :
- Mong chư vị đại nhân khai ân xét lại! Chuyết phu là bằng hữu chí thân của Sở đại ca, lẽ nào lại làm chuyện trời chu đất diệt ấy!
Nam Cung Giao cười nhạt :
- Chưa hết đâu! Do số tài sản bị cướp của nhà họ Sở lên đến hai chục vạn lượng vàng, nên nha môn Hoài Châu sẽ phải tịch biên gia sản họ Tần để bồi thường cho nạn nhân.
Đồng tiền liền khúc ruột, nên Tần phu nhân lập tức ngất xỉu, được bọn tỳ nữ xoa bóp một lúc mới hồi tỉnh.
Tần Dũng Nhuệ đứng trước cảnh tan cửa nát nhà, lòng đau như cắt, không biết nói ra sự thực có còn kịp hay đã muộn!
Đúng lúc ấy, Nam Cung Giao oai vệ nói :
- Bọn ngươi hãy ra ngoài đợi để bổn chức tiến hành văn án!
Anh em họ Sở cố nín cười lui bước ngay.
Hoàng tri huyện liền đổi sắc mặt khuyên bảo :
- Này Tần lão đệ! Bổn quan cũng không tin lão đệ là kẻ sát nhân, nhưng anh em họ Sở đã cùng thám tử phủ Thượng thư tìm ra nhân chứng, dẫu thực hay giả thì tính mạng của hiền đệ cũng nguy to rồi. Nay Nam Cung hộ vệ đây cũng là chỗ thâm giao với bổn quan, sẽ cùng bàn bạc cách giải vây!
Tần phu nhân mừng như sống lại, vái lạy Hộ vệ đại nhân :
- Xin đại nhân mở cho con đường sống, thảo dân chẳng dám quên ơn!
Nam Cung Giao phì cười :
- Phu nhân định giở trò hối lộ cho ta đấy ư?
Tần phu nhân bẽn lẽn đáp :
- Dạ bẩm đại nhân! Đấy là để tỏ lòng biết ơn chứ đâu phải hối lộ!
Hoàng tri huyện mớm ý :
- Hay là Tần lão đệ cứ khai rằng Trung thu năm đó đến thăm tình nhân hay tiểu thiếp, rồi nhờ người ấy làm chứng cho!
Tần Dũng Nhuệ liếc vợ cười khổ :
- Tiểu đệ làm gì có tình nhân hay vợ bé?
Tần phu nhân tức tối rít lên :
- Thật là vô dụng! Trai năm thê bảy thiếp, thế mà lão không có đến một ả nhân tình!
Tần lão giận quá gầm vang :
- Chỉ vì bà hung dữ như cọp cái, suốt ngày ghen tuông, đay nghiến nên lão phu nào dám đa mang! Lão phu mà lập nhị phòng thì bà sẽ cho người xé xác ngay, ai ngu gì mà đến với lão phu!
Tần phu nhân xấu hổ cúi đầu lẩm bẩm :
- Thiếp chỉ có cái miệng là hung dữ, chứ nếu tướng công cứ làm thì thiếp cũng phải chịu!
Nam Cung Giao cướp lời bà :
- Nay tại hạ sẽ tìm cho Tần lão một tiểu thiếp, người này sẽ đứng ra làm chứng để cứu mạng và tài sản nhà họ Tần. Liệu sau này phu nhân có bạc đãi người ấy hay không?
Tần phu nhân vui mừng khôn xiết :
- Tiện phụ thề có lôi thần chứng giám là sẽ xem người ấy như em gái của mình!
Nam Cung Giao quắc mắt nhấn mạnh :
- Nể lời khẩn cầu của Hoàng tri huyện nên tại hạ mới làm rõ vương pháp, chứ chẳng phải vàng bạc! Nếu phu nhân không giữ lời thề thì đừng trách tại hạ tàn nhẫn đấy!
Trong lúc Tần phu nhân run lên vì sợ hãi, chàng bước ra nhoài nói nhỏ với Sở Nhu.
Mẹ con Bạch Dương được bố trí trong một lữ điếm gần đấy nên chỉ nửa khắc sau đã có mặt.
Tần Dũng Nhuệ nhìn thấy họ, ngơ ngác, bàng hoàng, không biết mình mơ hay tỉnh.
Đã được dặn dò trước nên bé đứa bé ngoan kia không chạy đến kêu Tần lão bằng cha, chúng chỉ dương mắt nhìn ông cười tít.
Bạch Nương buông nạng quì xuống khấu đầu :
- Tiểu muội Bạch Thắng Tuyết bái kiến đại thư!
Tần phu nhân thấy đối phương tàn tật, không xinh đẹp bằng mình nên cũng an tâm và sinh lòng tội nghiệp.
Bà vội bước đến đỡ Bạch Thắng Tuyết lên vỗ về :
- Hiền muội chớ đa lễ. Từ nay chị em chúng ta sẽ cùng thờ một chồng. Ta thề sẽ hậu đãi nàng và các con!
Bạch Nương gạt lệ, bảo ba con :
- Long nhi! Hổ nhi! Báo nhi! Các con hãy đến ra mắt phụ thân và đại mẫu!
Thế là ba đứa bé làm theo lời nàng.
Tần phu nhân hài lòng, nũng nịu trách chồng :
- Ông quả là bất tài nên nhà họ Tần không có được những đứa bé trai ngoan ngoãn và xinh đẹp thế này!
Hoàng tri huyện cười ha hả :
- Lão phu sẽ làm án văn để ba đứa bé này mang họ Tần!
Hoài Giang Thần Thương lờ mờ hiểu ra rằng đây là một vở kịch được dàn dựng rất khéo, và anh em họ Sở cũng đã hiểu nỗi oan của lão! Nhưng đạo diễn chính có lẽ là chàng trai họ Nam Cung tuấn tú này đây!
Lão nhìn chàng chăm chú bằng ánh mắt cảm kích.
Nam Cung Giao bỗng hỏi :
- Chẳng hay Phó thủ lĩnh của Thần Thương hội là Đoạt Hồn Thương Chu Toại giờ đang ở đâu?
Tần Lão rầu rĩ đáp :
- Gia sư đệ luyện công bị tẩu hỏa nhập ma, chết hồi tháng trước rồi!
Và lão vận công truyền âm :
- Xin công tử báo với anh em họ Sở rằng lão phu đã giết Chu Toại để báo thù Xảo Xảo thư sinh Sở Nam Vu! Bảo vật của họ Sở hiện đang ở đây, lúc nào đến lấy cũng được!
Nam Cung Giao cười, đáp thầm :
- Hay lắm! Tần lão quả là người minh tinh, đã tìm ra được hung thủ. Nhưng từ nay hãy nhớ rằng không được quá nể sợ phu nhân, mất cả oai phong của bậc trượng phu!
Tần Dũng Nhuệ đỏ mặt gật đầu,
Hoàng tri huyện và Nam Cung Giao cáo từ, kéo quân rời Tần gia trang.

Sau khi chia tay Hoàng tri huyện, bọn Nam Cung Giao lên đường về thành Hợp Phì, để anh em họ Sở thăm mẹ Sở mẫu!
Sở mẫu tuổi đã gần thất thập, hiện đang sống với ba nàng dâu và bảy cháu nội!
Đã sang tháng chạp nên tuyết rơi mù mịt, song sắc diện ba hán tử vẫn rạng rỡ, họ mừng vì sắp được trở lại tổ ấm gia đình. Chỉ mình Nam Cung Giao là buồn vô hạn, khi cuối năm mà vẫn cách cố hương hàng ngàn dặm.
Sở Tích Vũ là gã phổi bò, chẳng để ý đến tâm tình nặng trĩu của chàng, cười hô hố hỏi :
- Công tử! Thuộc hạ thấy Tần phu nhân còn kiều diễm hơn Bạch Nương, vì cớ gì lão Tần Dũng Nhuệ lại khổ sở đa mang người đàn bà tàn tật kìa?
Nam Cung Giao cười đáp :
- Ở nhà, Tần lão luôn phải khép nép như rắn mùng năm trước mụ vợ dữ dằn! Nhưng khi đến với Bạch Nương, ông ta được nàng chìu chuộng, tôn kính, bảo sao lòng không khoan khoái? Chỉ có ở bên nàng, Tần lão mới thấy mình là bậc trượng phu oai phong lẫm liệt mà thôi!
Sở Tích Vũ cười tít mắt :
- Thế Nam Cung lão gia nhà ta có ở trong tâm trạng ấy không?
Nam Cung Giao lắc đầu, vui vẻ nhắc đến song thân bằng giọng trìu mến :
- Thực ra thì gia mẫu chỉ nghiêm khắc chứ không dữ tợn? Bà cấm gia phụ uống nhiều rượu vì lo cho sức khỏe của ông. Hơn nữa, mẹ ta xinh đẹp phi phàm, khiến gia phụ mê như điếu đổ, còn lòng dạ đâu mà nhìn ngó đến mỹ nhân khác nữa!
Sở Nhu che miệng cười :
- Sao công tử không noi gương lệnh tôn mà lại uống nhiều rượu như thế!
Nam Cung Giao cười khà khà :
- Ta đã hứa với mẫu thân rằng rượu ba chén, vợ ba nàng! Nhưng xem ra khó mà giữ được rồi!
Rượu thì có thể ăn gian vì gia mẫu không qui định chén lớn, chén nhỏ.
Ta uống chín chén nhỏ thì vừa bằng ba chén lớn!
Chỉ có khoản thiếp là khó cãi, mới mấy tháng thôi mà ta nướng đến hai mối rồi, biết đâu lúc về nhà lại dắt theo đủ chục thì nguy to!
Ba hán tử họ Sở phá lên cười, còn Sở Nhu thì tủm tỉm hỏi :
- Thế công tử có yêu Mã tiểu thư và Tiền tiểu thư như lệnh tôn, đã yêu lệnh đường không?
Nam Cung Giao cười buồn :
- Nhu muội quả có tài nhìn thấu tâm can người khác! Thực ra, ta chỉ thuận duyên mà kết hợp, chứ lòng vẫn khao khát gặp được người duy nhất để có thể yêu trọn vẹn như gia phụ!
Sở Nhu cười khúc khích :
- Té ra bản chất của công tử chẳng phải người hời hợt như bề ngoài, song công tử có tướng đa thê, chẳng thể tránh khỏi. Mong rằng sau này, trong đám thê thiếp của công tử sẽ có một người đẹp ứng được yêu cầu ấy. Tuy nhiên, công tử tuyệt đối không được để lộ cho những người kia biết, bằng không, gia đình sẽ xơ xác vì ghen tuông!
Nam Cung Giao bật cười :
- Cha chung không ai khóc! Kẻ đa thê làm gì có được hạnh phúc ấy? Tốt nhất là ta nên giữ mình, chỉ lấy hai Tiểu thư kia là đủ rồi.
Chẳng ngờ ba gã họ Sở nhất tề kêu lên :
- Không được!
Nam Cung Giao sửng sốt :
- Sao lại không?
Tích Vũ cười hề hề giải thích :
- Lệnh đường đã cho phép ba, công tử chỉ lấy hai, sợ rằng bà sẽ buồn đấy.
Nam Cung Giao gật gù :
- Chẳng sao cả! Ta chỉ lấy hai vợ nhưng số tiểu thiếp thì không giới hạn!
Chàng phá lên cười, quất ngựa phi mau!
Sở Nhu lẩm bẩm :
- Tính cách của chàng thực phức tạp! Khó mà nhận chân được.

Đường đi lầy lội, trơn trượt vì tuyết phủ đầy nên cước trình tuấn mã chậm chạp, sẩm tối họ mới đi được hơn ba chục dặm đường, phải ghé vào lữ điếm bên đường nghỉ ngơi!
Hân hoan vì thù cha đã xong, ba gã họ Sở liên tục nâng chén uống mừng, cuối canh hai thì cả họ lẫn Nam Cung Giao đều say mèm.
Sở Nhu dìu chủ nhân về phòng, cởi y phục, lấy khăn nóng lau mặt cho chàng, rồi xoa bóp những huyệt đạo quanh đầu và cổ.
Thủ pháp giải rượu của Sở Nhu quả là hiệu nghiệm như thần, kẻ say rượu toát mồ hôi như tắm, dần dần tỉnh táo lại.
Ngoài trời, cơn bão tuyết đang gào thét nên cửa phòng đóng chặt, lại có cả lò sưởi than hồng đỏ rực, mùi hương thơm tho nồng thắm của thân thể Sở Nhu ngày càng đậm đà, bay vào mũi Nam Cung Giao.
Chàng thích thú lắng nghe bàn tay mềm mại, mịn màng của nàng đặt lên da thịt mình.
Sở Nhu đang một tay giữ vai chàng, tay kia dùng khăn ấm lau mồ hôi sau trước.
Bỗng Nam Cung Giao phát hiện mình đã động tình, khao khát được ôm lấy thân hình thon thả, ấm áp kia.
Chàng kinh hãi thở dài, mở mắt nói :
- Nhu muội hãy về nghỉ đi! Ta sắp biến thành Tề Tuyên Vương rồi đấy!
Sở Nhu đỏ mặt thỏ thẻ :
- Nếu công tử không chê tiểu muội xấu xí hơn Chung Vô Diệm thì Sở Nhu xin được hầu hạ gối chăn. Tiểu muội mang dị tướng, chẳng dám mong làm dâu họ Nam Cung, và cũng không thể lấy ai! Được gần gũi công tử một đêm là tiểu muội mãn nguyện rồi!
Nói xong, nàng run rẩy thoát y, đứng cúi gầm mặt như chờ đợi, đôi giòng lệ chảy dài trên gò má, lấp lánh dưới ánh tọa đăng vàng vọt.
Nam Cung Giao đang tuổi thanh niên khí huyết cương phương, lại lần đầu được chiêm ngưỡng một cơ thể thon dài khêu gợi, nên bàng hoàng mê mẩn dán mắt vào những đường cong tuyệt diệu.
Chàng thẫn thờ ngồi lên vuốt ve đôi tuyết lê mơn mởn, miệng lẩm bẩm :
- Từ năm mười tuổi đến nay ta mới được nhìn lại tạo vật hấp dẫn, tuyệt diệu nhất thế gian này.
Sở Nhu không nén được, bật cười khúc khích :
- Té ra công tử sờ * mẹ đến tận năm mười tuổi hay sao?
Chàng cười hì hì, kéo nàng vào lòng, gầy cuộc mây mưa.
Hai thân xác thanh xuân quấn quít chẳng rời đến tận gần sáng.
Sở Nhu rón rén trở về phòng riêng trong ánh mắt nuối tiếc của Nam Cung Giao.
Chàng lại nhủ thành lời :
- Bây giờ ta mới hiểu vì sao phụ thân lại say mê mẫu thân đến thế?
Hôm sau, bão tuyết vẫn còn dữ dội, Nam Cung Giao mừng thầm, bàn rằng :
- Chằng đi đâu mà vội, chúng ta cứ ở lại đây thêm một ngày nữa, chờ bão tuyết tan rồi hãy lên đường.
Tất nhiên anh em họ Sở không dám phản đối, chỉ nhìn chàng tủm tỉm cười.
Tối đến, ba gã vịn cớ mệt mỏi đầu canh hai đã đi ngủ, tạo điều kiện cho Nam Cung Giao gần gũi Sở Nhu.
Chàng nháy mắt với nàng rồi hớn hở về phòng.
Lát sau, Sở Nhu vào đến, ngượng ngùng dâng hiến.
Sau trận ái ân, hai người nằm ôm nhau mà trò chuyện.
Sở Nhu cười khúc khích chọc ghẹo :
- Tiểu muội có tật ở đầu, hai ngón cái kia trông thật kỳ lạ.
Nam Cung Giao đáp với giọng xa vắng :
- Không phải dị tật đâu! Đây là đặc tính bẩm sinh của dân tộc Giao Chỉ!
Chàng bèn kể hết lai lịch cũng như mục đích của mình.
Sở Nhu lặng lẻ lắng nghe, cuối cùng nghiêm giọng :
- Nếu công tử cứ hành động như hiện nay, đến đâu là có huyết án xảy ra thì sớm muộn cũng bị phát giác, khi ấy, nhà Nam Cung khó thoát khỏi cảnh tru di tam tộc! Tổng bộ đầu Nam Kinh Lưu Cát từng nổi tiếng là Trung Hoa đệ nhất thần thám, cơ trí sắc bén tuyệt luân. Chắc chắn sau cái chết của Giang Tô tri phủ Mạc Tôn Long, lão đã khẳng định được công tử là hung thú. Chúng ta phải lập tức tung hỏa mù để đánh lừa lão ta mới được.
Sáng mai công tử bất tất phải ghé Hợp Phì mà hãy lên đường về Nam Kinh ngay. Ở đây, bọn tiểu muội sẽ giết lão Tổng trấn Huy Châu.
Huyết án xảy ra khi công tử đã ở Nam Kinh, điều này sẽ khiến Lưu Cát không tin vào phán đoán của mình nữa. Sau đó, bọn tiểu muội đến Nam Kinh chờ lệnh.
Nam Cung Giao nghe hữu lý, cao hứng hôn lên má Sở Nhu hỏi lại :
- Dinh Tổng trấn Quân Vụ Trang Độc Chương dẫy đầy quân sĩ, liệu anh em nàng có an toàn thoát thân nổi hay không?
Sở Nhu nép đầu vào ngực tình lang thì thầm :
- Công tử đã đem cả bí mật kinh thiên động địa ra ký thác thì tiểu muội cũng chẳng dám giấu. Trước khi tiên phụ ngộ hại, bọn tiểu muội tham gia một tổ chức Hắc đạo thần bí nhất võ lâm, có tên là Thế Thiên hội, hoạt động ở Tứ Xuyên và ba tỉnh Tây Bắc, tôn chỉ của hội là diệt tru bọn tham quan ô lại, cường hào ác bá, cướp sạch tài sản của chúng mà phân phát cho dân nghèo. Nhưng do thủ đoạn hành sựtàn nhẫn và quyết liệt nên bị xem là Tà Hội!
Hội chủ Thế Thiên hội là Vô Khổng Bất Nhập Trịnh Kiều (Không lỗ nào không lọt), giỏi thuật ẩn thân, dẫu hoàng cung cũng có thể vào được. Lão đã dạy cho môn đệ Thế Thiên hội thuật ấy, nên họ hành sự chưa bao giờ thất bại!
Nam Cung Giao cười hăng hắc :
- Té ra ngươi cũng từng là nữ tặc, thật đáng khâm phục! Ta đồng ý với kế hoạch này, nhưng anh em nàng phải cẩn trọng, thấy khó phải rút lui ngay!
Và chàng hạ giọng nói nhỏ :
- Nhớ đến Nam Kinh cho sớm, kẻo ta lại nhớ nàng đấy!
Sở Nhu sung sướng cắn nhẹ vào ngực chàng.
Sáng mai đã phải chia tay, hai người níu kéo từng hạt cát thời gian.
Nam Cung Giao say đắm ôm mãi thân hình thon dài, nồng ấm nhưng săn chắc, quên hết mọi sự đời, quên cả chiếc bướu thịt xấu xí trên trán nàng!

Sáng hôm sau, lúc Nam Cung Giao tỉnh giấc thì anh em họ Sở đã đi rồi.
Vắng bóng Sở Nhu, chàng nghe trống trải vô cùng, thẫn thờ như người đánh mất bảo vật vậy!
Bão tuyết đã tan, vầng dương mùa đông được ngày hiếm hoi để ban phát chút nắng nhạt nhòa.
Ăn điểm tâm xong, chàng lên ngựa lững thững nện vó tung làn tuyết nhẹ, đến ngã ba thì rẽ trái đi về hướng Đông.
Được vài dặm, chàng chợt nghe sau lưng có tiếng vó câu dồn dập và kế đó là tiếng người gọi ơi ới :
- Nam Cung đại ca!
Giọng nói quen thuộc của Mã Kim Khu đã khiến chàng dừng cương quay ngược lại.
Ngoài Mã đại công tử còn có Cẩn Nhục Đầu Đà và hai mỹ nhân.
Chàng kinh ngạc khi nhận ra Thần Nữ Tiền Vân Mi, thầm đoán nàng đã ly khai Kim Diện cung để đi tìm mình.
Cẩn Nhục Đầu Đà hùng hổ mắng :
- Ngươi quả là đáng ghét, bắt bọn ta luôn phải đuổi theo! May mà bần tăng giỏi nghề truy tung, không thì đã lạc mất rồi!
Nam Cung Giao ngượng ngùng mỉm cười :
- Điệt tế xin nhận lỗi, và sẽ tạ tội bằng hai chục bữa thịt chó ngon lành!
Đầu Đà thấy chàng chịu nhận là cháu rể, khoan khoái cười vang. Không bắt lỗi nữa!
Mã Hoàn Cơ cũng được an ủi, hoa dung đang ủ dột nhợt tươi tắn hẳn lên.
Nàng chỉ trách móc nhẹ nhàng :
- Chàng không hiểu tâm tình của Mi muội hay sao mà lại nói lời thoái hôn và dứt áo bỏ đi như vậy?
Nam Cung Giao biện bạch :
- Ta thấy Tiền cung chủ quá ngán sợ Vô Thanh cốc đến nỗi không muốn nhận rể, nên chẳng mặt mũi nào ở lại!
Vân Mi bật khóc :
- Nếu công tử nhất quyết từ hôn thì tiểu muội xin chết ngay tại chỗ này!
Nam Cung Giao hốt hoảng :
- Ấy đừng! Nàng hãy ráng sanh cho ta vài đứa con rồi hãy chết!
Thần Nữ thẹn chín người, song lòng sung sướng vô hạn, vì biết duyên nợ đã thành.
Đầu Đà và Mã Kim Khu phá lên cười, còn Hoàn Cơ lắc đầu chán ngán :
- Không ngờ ta lấy phải một người chồng bẻm mép thế này! Lúc nào cũng đùa được!
Nam Cung Giao thản nhiên bảo Thần Nữ :
- Mi muội! Chúng ta đi thôi! Nay Hoàn Cơ đã chê bai thậm tệ như thế! Ta sẽ đưa một mình nàng về ra mắt song thân mà thôi!
Chàng lại vái chào Đầu Đà và Mã Kim Khu, thái độ rất nghiêm túc khiến Hoàn Cơ sợ bở vía, ấp úng nói :
- Thiếp chỉ nói đùa thôi, chứ đâu dám chê bai gì, xin chàng lượng giải cho!
Nam Cung Giao hầm hầm giận dữ :
- Gia mẫu từng dặn dò ta rằng: “Dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về”. Chưa cưới nhau mà Cơ muội đã dám coi thường ta ư?
Cẩn Nhục Đầu Đà và Mã Kim Khu ngơ ngác, chẳng hiểu vì sao chàng trai vui vẻ kia lại nổi dóa bất tử như vậy, song chẳng ai dám xen vào.
Hoàn Cơ gật đầu vâng dạ, mặt tái mét.
Nam Cung Giao nói tiếp :
- Ta phạt nàng tối nay phải bóp chân, đấm lưng cho ta.
Chàng vươn vai than :
- Ối chà! Cỡi ngựa mãi thân thể mỏi nhừ như sắp rã ra rồi!
Chàng bất ngờ ra roi phi nước đại và cười ngất.
Mọi người đã hiểu nãy giờ chàng chỉ đùa, thở phào phóng ngựa đuổi theo.
Kim Khu chọc ghẹo em gái :
-Hiền muội đã gặp khắc tinh rồi đây!
Hoàn Cơ vừa tje vừa thẹn, dấm dẳng đáp :
- Cưới xong y sẽ biết tay tiểu muội!
Tuy nói thế nhưng nàng hiểu rằng mình sẽ không làm gì được vì đã lỡ quá yêu chàng trai bất trị kia!



Mười ngày sau, đoàn người về đến Nam Kinh.
Phủ Thượng thư mở tiệc ăn mừng, có mời cả Tổng bộ đầu Lưu Cát đến dự.
Lão lặng lẽ nghe Kim Khu sôi nổi kể lại cuộc đả lôi đài ở Từ Châu cũng như việc phải truy đuổi Nam Cung Giao vất vả thế nào?
Họ Lưu nghe xong, lòng vô cùng bối rối! Vì hôm qua lão vừa nhận được tin Tổng trấn Quân Vụ Huy Châu Trang Bộc Cương bị giết. Lúc ấy bọn Nam Cung Giao đã sắp về đến đây.
Như vậy, chàng trai khả nghi kia không thể là hung thủ được.
Còn vụ ám sát Tri huyện Hàng Châu lại xảy ra đúng ngày mười tám tháng mười một, khi Nam Cung Giao đang tỷ võ ở Kim Sơn!
Lão nói với Mã Xuân Trác :
- Bẩm Thượng thư. Chiều hôm qua, ty chức nhận được hung tin từ Huy Châu, rằng quan Tổng trấn Quân Vụ đã bị ám sát đêm mười bảy tháng chạp. Không ai nhìn thấy hung thủ, nên Tri phủ Huy Châu chỉ nhờ ty chức điều tra với manh mối duy nhất là những viên ngọc trai màu đen đã bị cướp, Trang tổng trấn đã mang chúng từ An Nam về, hơn hai mươi năm trước!
Lưu Cát hắng giọng nói tiếp :
- Giang Tô tri phủ Mạc Tôn Long thì chết đêm hai mươi sáu tháng mười. Sau đó là Tri huyện Hàng Châu Dịnh Thủy Tôn chết đêm mười tám tháng mười một. Tính luôn cả Nam Kinh Binh Bộ Thượng thư Quách Tường An thì đã có bốn vị mệnh quan bị giết. Bốn nạn nhân đều có một điểm chung là từng có mặt trong đoàn quân chinh phạt An Nam hai mươi ba năm trước, dưới trướng Tân Thành Hầu Trương Phụ!
Nam Cung Giao giật mình, không hiểu ai đã giết lão Tri huyện Hàng Châu giùm mình?
Chàng chợt nhớ đến Mộc Kính Thanh, vì chỉ có gã mới biết danh sách kẻ thù của chàng!
Và Nam Cung Giao cũng vô cùng khâm phục tài suy luận của Lưu Cát, khi nghe gã nói tiếp :
- Từ đặc điểm này, ty chức đoán rằng hung thủ là người An Nam, do muốn báo thù cho vua quan nhà Hậu Trần nên mới chọn lọc người mà hạ thủ. Như vây, mục tiêu kế tiếp là những vị võ tướng viễn chinh còn lại, kể cả Tân Thành Hầu Trương Phụ, nay là Bình Phiên Công ở Bắc Kinh!
Mã Kim Khu sôi nổi góp ý :
- Lưu đại nhân! Tiểu điệt cho rằng có hai khả năng xảy ra, một là hung thủ từ An Nam sang, hai là y thuộc thế hệ thứ hai của những tù binh An Nam hiện đang ở Trung Hoa, nhờ luyện thành tuyệt học nên mới dám làm chuyện động trời này! Chúng ta chỉ cần điều tra đám kiều dân Giao Châu ở các phủ phía Nam Trường Giang là có kết quả!
Lưu Cát ngỏ lời khen ngợi Kim Khu trong lúc Nam Cung Giao sầu héo ruột gan. Chàng không ngờ hành động của mình lại làm hại đến đồng bào ở Trung Hoa. Cuộc sống bình yên của họ sẽ bị xáo trộn, khổ sở vì những thủ đoạn tàn nhẫn bá đạo của bọn công sai!
Nhưng may thay, gần cuối tiệc thì có thám mã đến phủ Thượng thư, đưa công văn hỏa tốc của phủ An Khánh, báo tin Tri huyện Hòa Châu bị ám sát và mất sạch của cải.
Lần này hung thủ đánh rơi vật chứng rất quan trọng là một thẻ bạch nhỏ bằng hai ngón tay, trên khắc ba chữ Tứ Hải hội!
Lục Tri huyện này mới gần tứ thập, và chắc chắn không phải là đồng ngũ của bốn nạn nhân trước.
Điều này khiến lập luận của Lưu Cát bị sụp đổ.
Mã thượng thư hờ hững nói :
- Này đã có manh mối. Mong Lưu túc hạ dốc sức điều tra Tứ Hải hội, và hãy quên đám kiều dân An Nam đi! Nếu không sớm có kết quả, trước khi Thánh hoàng nổi lôi đình, thì e rằng cả bổn chức Iẫn túc hạ đều rơi đầu đấy!
Lưu Cát vừa thẹn, vừa sợ kính cẩn đáp :
- Ty chức xin tận lực!
Lão vội cáo từ để đi huy động thủ hạ điều tra lai lịch Tứ Hải hội!
Nam Cung Giao cố nén tiếng thở dài nhẹ nhõm, chàng vô cùng cảm kích nghĩa đệ Mộc Kính Thanh, gã đã kịp thời sửa chữa sai lầm của chàng.
Hôm sau, đã đến hẹn với Sở Nhu nên chàng rủ Kim Khu cùng hai mỹ nhân ra Thanh Phong tửu lâu uống rượu ngắm cảnh tuyết rơi trên sông Trường Giang.
Vài khắc sau, chàng nhận ra Sở Sĩ Hưu đã hiện diện. Thấy gã vào đi vào phòng vệ sinh chàng cũng giả đò nhăn nhó đứng lên.
Hai người gặp nhau nhanh chóng trao đổi, bàn bạc rồi chia tay.
Tối đến, chàng đang định đi ngủ thì nhớ lại ánh mắt buồn man mác của Thần Nữ Tiền Vân Mi lúc ban sáng, liền lần sang phòng nàng.
Nghe tiếng gõ cửa, Vân Mi bước ra mở, bẽn lẽn hỏi :
- Sao công tử lại đến thăm tiểu muội vào giờ này?
Nam Cung Giao dịu giọng :
- Ta nhớ nàng nên không ngủ được?
Vân Mi sung sướng liếc chàng rồi mời vào.
Tuy giỏi võ nhưng Thần Nữ chưa hề bôn tẩu giang hồ, vẫn giữ được tính cách khép nép, lễ nghi của một Hoàng Hoa Khuê Nữ! Nàng nói năng nhỏ nhẹ, lễ độ, cử chỉ đoan trang dịu dàng, càng làm tăng vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành.
Nam Cung Giao nhận ra Vân Mi rất không tuệ, đoán ngay được những cái bẫy lắt léo trong ngôn từ của chàng.
Từ ngày quen nhau đến giờ, hai người mới có dịp chuyện trò lâu.
Nam Cung Giao cao hứng tự nhủ :
- Giao ta phúc bảy mươi đời nên lấy được hai cô ả đẹp như tiên, Hoàn Cơ thì hơi nghiêm nhưng Vân Mi thì ngoan hiền rất mực!
Nghĩ đến việc Thần Nữ bỏ cả gia đình và cuộc sống phú quý đi theo mình, chàng cảm động vô vàn, chợt nẩy sinh cảm giác muốn che chở, bảo bọc, chàng nghiêm giọng :
- Mối chân tình của Mi muội khiến ta phải hổ thẹn! Nàng gởi thân nương nhờ Phủ Thượng thư này mãi e không tiện! Sang xuân, ta sẽ đưa nàng về ra mắt song thân. Nàng sẽ thay ta phụng dưỡng huyên đường!
Vân Mi hân hoan thỏ thẻ :
- Thiếp nguyện hết đạo dâu con, nhưng sao công tử lại phải ra đi?
Nam Cung Giao mỉm cười :
- Ta có một bí mật, chỉ có thể tiết lộ với người đầu ấp tay gối mà thôi!
Vân Mi vừa xấu hổ vừa sợ hãi, cúi đầu nói líu ríu :
- Công tử không thể đợi đến ngày đại hỉ được sao?
Nam Cung Giao cười buồn :
- Ta muốn nàng có thai trước khi ta tử đấu với Khương Thư Hàn!
Nói xong, chàng đi thẳng vào trong, lên giường nằm đợi.
Ở đây Thần Nữ bối rối suy nghĩ.
Lát sau, nước mắt lo âu chảy thành dòng. Con người lạc quan như Nam Cung Giao mà đã nói vậy nghĩa là chàng biết mình không thể sống sót. Thế mà thời gian qua, chàng vẫn nói cười như không hề sợ hãi, dũng khí ấy quả đáng kính phục!
Vậy thì nàng sẽ hiến dâng và cùng chàng thụ hưởng những ngày hạnh phúc cuối cùng!
Nghĩ thế Thần Nữ gạt lệ bước vào.
Nam Cung Giao ngồi lên, giang tay đón lấy nàng, đặt vào lòng, nhẹ nhàng hôn lên mắt, lên môi.
Đặng Trinh Tâm biết con mình sau này xuất đạo phục cừu sẽ hành động nhiều về đêm, nên thuở chàng còn thơ dại, bà đã thường xuyên cho ăn những món vi cá nhám, chưng với Hà Thủ Ô và vài dược liệu khác. Nhờ vậy, nhãn lực của Nam Cung Giao tinh tường gấp bội người thường!
Song đêm nay, chàng không sử dụng đôi thần nhãn để phát hiện ám khí hay trường tiễn, mà để chiêm ngưỡng thân hình bạch ngọc của Vân Mi, dù chỉ với chút ánh sáng vàng võ từ phòng uống trà hắt xuyên qua cửa ngọa thất.
Vân Mi đầy đặn, khêu gợi hơn Sở Nhu rất nhiều, nhờ những điều kiện chăm chút của cảnh giàu sang, cũng như việc luyện võ.
Đã có kinh nghiệm, Nam Cung Giao dịu dàng mơn trớn, xóa tan cảm giác thẹn thùng và hoảng sợ trong tâm lý người xuân nữ giúp Vân Mi hòa nhịp trăng hoa.
Thần Nữ chơi vơi trong biển ái ân lồng lộn tự nhủ rằng mình đã không lầm khi yêu tha thiết Nam Cung Giao.
Cuối canh ba, Vân Mi ngượng ngùng từ chối tái chiến, nũng nịu bắt tình lang phải thố lộ bí mật đời mình!



Đêm hôm sau, Nam Cung Giao nằm khểnh trong phòng, nôn nao chờ đợi Thần Nữ đến như đã hẹn.
Quả nhiên, khi hành lang hậu viện vắng bóng gia nhân qua lại thì có người đẩy cửa phòng lách vào.
Nam Cung Giao giả vờ ngáy vang, và giật bắn mình, ngồi bật dậy khi nghe tiếng của Hoàn Cơ :
- Công tử đừng giả đò nữa!
Chàng nhăn nhó hỏi :
- Sao nàng lại đến đây vào giờ này, lỡ Mã lão gia và phu nhân biết thì sao?
Hoàn Cơ ứa lệ, rầu rĩ nói :
- Vì sao công tử lại ưu ái Vân Mi hơn thiếp?
Nam Cung Giao thất kinh dọ hỏi :
- Thế Thần Nữ đã kể gì với nàng?
Chàng tuyệt đối không đám tiết lộ lai lịch với gia đình họ Mã, vì e sợ lòng người đen bạc, cái tội tru di tam tộc có thể khiến Mã thượng thư quên ơn cứu mạng, bắt chàng giao nộp cho triều đình!
May thay, Hoàn Cơ thẹn thùng đáp :
- Mi muội chỉ bảo rằng chàng không chắc đã sống sót khi phó hội với Thiếu cốc chủ Vô Thanh cốc Khương Thư Hàn, nên muốn sớm có người nối dõi!
Nam Cung Giao thầm thở phào, điềm đạm bảo :
- Vân Mi giờ đây tứ cố vô thân nên ta mới dám liều lĩnh tiết mạn, nhờ nàng ấy giữ gìn chút hương hỏa của họ Nam Cung. Còn Cơ muội thì sẽ trả lời song thân thế nào khi bụng phưỡn ra?
Và chàng nheo mắt nói tiếp :
- Nhưng nếu nàng không sợ tiếng đời dị nghị thì ta cũng xin chìu ý.Nào hãy bước lại đây!
Hoàn Cơ hốt hoảng biến sắc, lùi ngay lại, mặt đỏ như gấc :
- Thiếp chỉ muốn biết lòng công tử thế nào thôi, chứ đâu phải muốn chia ân xẻ ái!
Nói xong, nàng vụt bỏ chạy ra ngoài, chẳng dám lưu lại.
Lát sau, Thần Nữ Tiền Vân Mi đến, bị Nam Cung Giao lạnh lùng trách móc, mỹ nhân thản nhiên cười cợt :
- Thiếp có thành thực như thế thì Mã đại thư mới hết lòng yêu thương, sau này gia đạo mới thuận hòa.

Tết năm ấy Nam Cung Giao đón xuân ở Nam Kinh.
Mã phu nhân đã đốc thúc chàng về quê mời song thân đến để bàn việc cưới xin.
Phu thê Thượng thư đã nhận Thần Nữ Tiền Vân Mi làm nghĩa nữ, và sẽ đứng ra gả nàng cùng lúc với Hoàn Cơ!
Song Nam Cung Giao đã trình bày rõ việc mình phải tử đấu, xin hoãn đám cưới đến mùa xuân năm tới!
Mã thượng thư đồng ý và còn trấn an :
- Giao nhi đừng bi quan! Hôm ấy lão phu sẽ cho đại quân vây chặt đấu trường để xem gã họ Khương kia có dám giết ngươi không?
Ý kiến này khiến hai mỹ nhân rất hoan hỉ, nhưng Nam Cung Giao lại thầm hổ thẹn, càng ra sức luyện kiếm pháp.
Đối thủ cùng luyện với chàng là Hoàn Cơ, Vân Mi sau đó thêm cả Mã Kim Khu và Cẩn Nhục Đầu Đà!
Hoàn Cơ không dám trao thân cho chàng nhưng cũng thường đến để được vuốt ve âu yếm. Những cảm giác rạo rực cũng khiến nàng bớt tủi thân trước cảnh nồng thắm của tình quân và Thần Nữ.
Đến cuối tháng giêng thì Mộc Kính Thanh và anh em họ Sở đã hạ sát thêm năm lão tham quan nữa, trong số ấy có hai kẻ thù của Nam Cung Giao. Và tội lỗi đổ cả lên đầu Tứ Hải hội!
Như vậy, Nam Cung Giao chỉ còn một kẻ đại thù là Bình Phiên Công ở Bắc Kinh, vì hai kẻ cuối cùng trong danh sách đã không làm quan mà lại biệt tăm từ mười mấy năm trước!
Những vụ án trảm tham quan liên tiếp này đã làm Minh Đế nổi giận, hạ chỉ truy nã Tứ Hải hội trên toàn quốc. Nhưng tổ chức ấy đã sớm ẩn mình, rút vào bí mật, không để lại dấu vết. Vả lại, trước đây cũng chẳng ai biết sào huyệt của họ ở chốn nào.



Qua đầu tháng hai, cả Mộc Kính Thanh, Cuồng Vũ Đao và anh em họ Sở đều về Nam Kinh, liên lạc với Nam Cung Giao.
Sau đó ba ngày, tức đêm mùng bốn tháng hai Nam Kinh đã xảy ra một sự cố trọng đại đó là việc Thất vương gia Chu Nghiêm bị bắt cóc.
Hung thủ đã để lại một lá thư nặc danh, yêu cầu Mã thượng thư cử sứ giả đơn thương độc mã, mang năm vạn lượng vàng bằng ngân phiếu, gồm toàn những tờ trị giá trăm lượng, đi lên hướng Bắc để chuộc con tin.
Hung thủ khôn ngoan không xưng danh và cũng chẳng nói rõ địa điểm, chỉ biết rằng sẽ liên hệ với sứ giả ở dọc đường để hướng dẫn đến nơi.
Nếu Mã thượng thư cho Bộ đầu, thám tử bám theo, hợp đồng chuộc mạng sẽ bị hủy, Thất vương gia sẽ bị giết!
Mã Xuân Trác là Hình bộ Thượng thư Nam Kinh, đương nhiên chịu trách nhiệm trước Thiên tử về an toàn của Thất vương gia. Nếu không cứu được Chu Nghiêm, họ Mã chắc chắn sẽ rơi đầu! Tất nhiên, cả vài vị đại quan nữa cũng không thoát chết!
Việc này được giữ kín như bưng nên bách tính không hề hay biết.
Nhưng toàn bộ quan lớn Nam Kinh đều méo mặt. Từ Mã thượng thư cho đến Lưu tổng bộ đầu, Phạm tổng binh Bố Chánh Sứ Tích Giang, Tri huyện Kim Lăng, đều bị liên lụy.
Hình phạt nhẹ nhất cũng là hạ phẩm trật, đổi nhiệm sở.
Khốn khổ nhất là quan Vệ Úy Cấm Quân của Hành cung, lão đã bị bắt hạ ngục ngay sáng hôm sau.
Mã Kim Khu được điều đến thay thế, lo việc bảo vệ Thất vương phi và các công nương!
Các Đại thần Nam Kinh tụ họp cả ở Hành cung, dưới sự chủ tọa của Thất vương phi, bàn bạc việc cử người đi chuộc mạng Thất vương gia!
Vương phi có nhũ danh là Triển Cẩm Thu, ái nữ của đương kim Thái sư Minh Triều Triển Tài!
Bà xuất thân trong gia đình võ tướng, từng theo cha trấn thủ đất Liêu Đông. Bà hăng hái xông pha trận mạc, anh hùng chẳng kém bậc mày râu.
Nay phu quân bị bắt cóc, Thất vương phi tuy lo lắng nhưng không khóc lóc, xỉu lên xỉu xuống như những người vợ khác, mà bình tĩnh cùng các đại thần bàn lương sách!
Bà nghiêm nghị phán :
- Này các khanh, hung thủ vô danh giảo quyệt, chưa chắc đã chịu buông tha Vương gia sau khi nhận vàng. Do vì sứ giả phải là một người đầu óc tinh minh quyền biến. Theo ý Ai gia thì Lưu hiền khanh cơ trí, bản lãnh đều xuất chúng, có thể đảm đương được trọng trách này!
Nam Kinh Tổng bộ đầu Lưu Cát hồn phi phách tán, vì biết chuyến đi này cửu tử nhất sinh. Lão đủ thông mình để hiểu rằng đối phương sẽ giết cả mình lẫn Vương gia để xóa dấu vết,ấy là thủ đoạn thông thường của giới hắc đạo. Kẻ đã dám bắt cóc một Vương gia thì sẽ chẳng dại gì lưu lại di họa.
Trong quá trình giam giữ con tin lâu ngày, không ai dám chắc mình không sơ suất, và chỉ cần một manh mối nhỏ là quan nha sẽ lần ra lai lịch hung thủ. Danh tiếng Trung Hoa Đệ Nhất Thần Thám đã quá lẫy lừng, Lưu Cát mà đi thì Chu Nghiêm càng chết sớm!
Họ Lưu cắn răng trình bày sự thật tàn nhẫn :
- Khải tấu Vương phi! Vi thần liều chết khẳng định rằng tính mạng Vương gia còn mong manh hơn dự đoán của Vương phi, vì chắc chắn hung thủ tuyệt đối sẽ không tha cho con tin lẫn sứ giả! Vi thần không sợ chết, nhưng tự lượng chẳng đủ sức đảm đương đại nhiệm. Sứ giả phải là người có võ công siêu quần bạt tụy, sức lực phi phàm mới mong thi hành chút kế mọn của vi thần!
Nghe Lưu Cát thoái thác, Triển vương phi nổi lôi đình, mắt tóe lửa gằn giọng :
- Kế gì?
Lưu Cát cố trấn tĩnh trình bày :
- Khải tấu Vương phi! Chúng ta sẽ cho lót đồng dầy quanh vách một cỗ xe song mã, giao cho sứ giả dong đi. Đến nơi, khi Điện hạ đã lên xe an toàn thì người này mới giao ngân phiếu. Nếu đối phương trở mặt, người này sẽ phá vòng vây, đưa Vương gia thoát hiểm! Đôi ngựa chắc chắn sẽ bị đối phương hạ sát trước tiên, vì vậy, sứ giả phải kéo xe chạy hàng chục dặm đường mới đến được nơi đô hội!
Các quan ồ lên, mỉa mai vì cho rằng chẳng vị võ tướng nào đủ sức làm việc phi thường ấy.
Triển vương phi cười nhạt :
- Lưu khanh định chế giễu Ai gia đấy ư? Đất Nam Kinh này làm gì có được một vị võ tướng nào thần dũng tuyệt luân đến mức ấy?
Lưu Cát đã lỡ phóng lao đành phải theo đến cùng, dù biết sau này sẽ không yên thân với Mã Xuân Trác.
Vả lại nếu không cứu được Thất vương gia thì cái đầu này cũng rời cổ, còn sợ gì nữa?
Lão run giọng đáp :
- Khải tấu Vương phi! Vi thần tuyệt đối chẳng dám phạm thượng! Quả thực là có một vị anh hùng như thế, người ấy là rể quí của Mã thượng thư, họ Nam Cung, tên Giao!
Triển vương phi có nghe phong phanh về việc Nam Cung Giao đá bể chậu hoa cứu Mã Xuân Trác, và một kiếm giết được Dạ Hồ Sài Tốn. Nhưng bà không biết bản lãnh của Dạ Hồ cao cường đến mức nào. Hơn nữa, Nam Cung Giao đánh lén nên chẳng được bà xem trọng.
Nay nghe Lưu Cát hết lời tán dương, bà tò mò hỏi :
- Bổn phi có nghe Vương gia kể lại đôi điều về gã Nam Cung Giao, nhưng liệu y có xứng với lời tiến cử của Lưu hiền khanh hay không?
Lưu Cát khẳng định :
- Khải tấu Vương phi! Hiện nay Nam Cung công tử lừng danh thiên hạ và đả bại những các thủ hạng nhất như Hàn Đan tam kiếm, Thiếu cốc chủ Vô Thanh cốc.
Vương phi có thân quyến ở Hàn Đan nên biết rõ bản lãnh anh em họ Mạc, nhưng không hiểu lai lịch Khương Thư Hàn, liền bảo Lưu Cát khai báo.
Họ Lưu nghiêm nghị nói về Long Giác Thần Quân, và nhờ Mã Kim Khu kể lại cuộc đả lôi đài ở Kim Diện cung.
Kim Khu tính tình bộc tuệch, khoan khoái vì có em rể anh hùng, nên hào hứng kể không sót một chi tiết.
Thủ đoạn tinh ranh của Nam Cung Giao đối với Khương Thư Hàn đã khiến cả Vương phi cũng phải mỉm cười tạm quên được nỗi lo về Thất vương gia.
Bà phấn khởi phán :
- Nếu đúng là Nam Cung Giao anh hùng cái thế như vậy thì chẳng còn ai xứng đáng hơn! Y lại có cơ trí quyền biến tất sẽ thành công? Mã hiền khanh mau triệu y vào Hành cung!
Mã thượng thư rầu thúi ruột, khom lưng đáp :
- Khải tấu Vương phi! Nam Cung Giao tuy có tình với khuyển nữ Hoàn Cơ nhưng chưa nên duyên phận, y lại chẳng phải là mệnh quan của triều đình, không thể cưỡng bách được! Tuy nhiên, vi thần sẽ hết lời thuyết phục y nhận nhiệm vụ này!!
Triển vương phi nghe hữu lý ngẫm nghĩ một lúc rồi cười nhạt :
- Mã hiền khanh nói phải. Song Ai gia tin rằng trong việc này y bắt buộc phải nhận lời để cứu cái đầu của khanh và những đại thần có mặt ở đây!
Các ngài quan lớn rợn tốc gáy, đốc thúc Mã Xuân Trác.
Họ Mã vội sai Kim Khu hồi phủ gọi Nam Cung Giao!

Chỉ gần khắc sau, chàng trai trẻ họ Nam Cung có mặt, quì xuống ra mắt Thất Vương Phị Tuy từng nghe chồng nhắc nhở đến, nhưng đây là lần đầu gặp mặt. Bà chăm chỉ quan sát Nam Cung Giao, không nói tiếng nào!
Nam Cung Giao cứng người chịu đựng, thầm nghĩ :
- Mụ này dung mạo nghiêm trang, ánh mắt sắc như gươm, hèn gì Thất vương gia chỉ lấy rượu làm vui chứ không dám nạp thiếp! Xem ra lão ta cũng khổ chẳng thua gì gia phụ.
Nhớ đến cha, chàng bất giác mỉm cười. Nụ cười quyến rũ của chàng quả là không hợp cảnh vì chung quanh toàn là những gương mặt méo xẹo như đưa đám.
Triển vương phi cau mày liễu :
- Tại sao khanh cười?
Nam Cung Giao vội nói trớ đi :
- Khải tấu Vương phi! Thảo dân có tật hay cười khi quá sợ hãi! Đã cười được thì bớt sợ! Ánh mắt của Vương phi sắc bén đến nỗi thảo dân có cảm giác rằng tóc trên đầu mình sắp đứt sạch!
Vương phi mỉm cười :
- Bộ dung mạo ta hung ác lắm hay sao?
Nam Cung Giao tròn mắt biện bạch :
- Dạ bẩm! Thảo dân nào có ý ấy! Vương phi kiều diễm tợ tiên nga giáng trần, phong thái tôn nghiêm, cao quí đáng mặt mẫu nghi thiên hạ! Chẳng qua thảo dân quê mùa nên thấy sợ đấy thôi!
Từ ngày trở thành Vương phi, Triển Cẩm Thu chưa hề được nghe ai tán dương nhan sắc của mình, nên giờ đây vô cùng khoan khoái. Hơn nữa, Nam Cung Giao đã vô tình đánh trúng tâm sự thầm kín của Thất vương phi.
Bà vẫn tự cho rằng mình xứng đáng làm Hoàng hậu nương nương chứ không phải là vợ của một Vương gia không chút thực quyền. Do vậy, lòng bà phát sinh hảo cảm với chàng trai trẻ thông minh đĩnh ngộ kia, xem chàng là tri âm của mình!
Nụ cười tươi tắn trên môi Vương phi khiến lòng Mã thượng thư nhẹ nhõm, lão nhủ thầm :
- Tiểu quỷ này quả là khéo vuốt mông ngựa, nếu làm quan thì sẽ mau chóng trở thành sủng thần của Hoàng hậu!
Triển vương phi cố làm nghiêm mà phán :
- Nam Cung hiền khanh. Nay Ai gia và các đại thần Nam Kinh định nhờ khanh mang vàng đi chuộc mạng Thất điện hạ. Khanh nghĩ sao?
Nam Cung Giao kính cẩn đáp :
- Thảo dân xin xã thân để cứu Vương gia! Nhưng xin hỏi kế hoạch thế nào?
Mã thượng thư lạnh lùng bảo Lưu Cát :
- Lưu tổng bộ đầu hãy nói rõ diệu kế của mình?
Lưu Cát hắng giọng kể và kết luận :
- Lão phu sẽ cùng hai chục cao thủ của nha môn âm thầm bám theo Nam Cung công tử để hỗ trợ. Khi đã cứu được Vương gia, lão phu sẽ điều động quân nơi ấy bắt gọn bọn cuồng đồ để điều tra kẻ chủ mưu!
Nam Cung Giao cười nhạt :
- Đối phương đâu ấu trĩ đến mức không đoán ra được kế hoạch ấy của túc hạ! Lúc này, chắc chắn là tai mắt của họ đã rải khắp các cửa thành Nam Kinh, túc hạ vừa rời khỏi là đã bị phát hiện. Khi ấy chỉ e Vương gia sẽ mãi mãi không còn được ai nhắc đến nữa!
Lưu Cát toát mồ hôi lạnh, thờ thẫn nói :
- Chẳng lẽ lão phu lại phải bó tay đứng nhìn công tử một mình đi vào hiểm địa?
Mã Xuân Trác tư lự hỏi :
- Thế ý của Giao nhi ra sao?
Chàng vòng tay đáp :
- Bẩm đại nhân! Thảo dân sẽ một mình mang vàng đi chuộc Vương gia, tùy cơ ứng biến. Nếu may mà thành công thì tốt, bằng không, thảo dân nguyện liều mạng với đối phương rồi chết theo người!
pass to joine phim : Kim_Bang_2
longnu
Múi Mít
Múi Mít
 
Tiền: $122,632
Posts: 1046
Joined: 14 Mar 2005
Location: đến từ nơi xa lắm
 
 

Postby longnu » 08 Apr 2005

[color=blue][b]7...
Tiếu Ngạo Trung Hoa Nguyên tác : Ưu Đàm Hoa




Hồi 07 Lão gia nan quá tam bôi tửu
Ám độ hoa dung Tứ Sứ Thần
Mười ngày sau, Thất điện hạ có mặt ở Hành cung, triệu tập bá quan để ăn mừng.
Tất nhiên, ông hết lời khen ngợi Nam Cung Giao.
Chàng cười đáp :
- Thảo dân chỉ tốn sức đánh xe vài trăm dặm để đón Vương gia, đâu dám nhận công lao!
Thất vương gia trợn mắt :
- Khanh nói thế sao được? Đám bằng hữu giang hồ kia vì khanh mà xuất lực chứ đâu phải vì Bỗn Vương. Không có khanh thì dẫu Nghiêm này có chết mục xác họ cũng chẳng thèm nhìn đến! Từ nay, khanh có quyền ra vào Hành cung, bất cứ lúc nào và không phải thi đại lễ!
Đặc ân này rất lớn vì ngay Mã thượng thư cũng không được phép!
Các quan thầm ganh tỵ với Nam Cung Giao, nhưng ngoài miệng vẫn tán dương công trạng của chàng!
Ông tặc lưỡi nói tiếp :
- Tiếc là Đại quận chúa năm nay mới mười hai tuổi, nếu không bổn vương sẽ gả cho khanh!
Thất vương phi che miệng cười :
- Vương gia quả là lẩn thẩn, sao không hỏi xem Nam Cung hiền khanh có muốn được phong tước Hầu hay quan chức gì?
Vương gia vui vẻ đáp :
- Bỗn Vương đã hỏi y có muốn làm Tổng bộ đầu hay không thì y từ chối, bảo rằng tài đức chẳng bằng Lưu hiền khanh! Y còn nói là nhờ diệu kế của Lưu khanh nên mới thành công!
Lưu Cát nghe cảm động đến nghẹn lời trước thái độ của Nam Cung Giao, tự nhủ sau này đền ơn đáp nghĩa!
Kể từ hôm ấy, Nam Cung Giao và hai vị hôn thê liên tục được mời sang Hành cung dự yến.
Quyền lực của Mã thượng thư cũng nhờ thế mà càng thêm vững mạnh!
Bá quan Nam Kinh và các phủ phía Nam đều ra sức o bế Mã Xuân Trác và Nam Cung Giao.
Giờ đây, chàng được cả Vương gia lẫn Vương phi sủng ái, nói gì họ cũng nghe.
Nam Cung Giao đã xin xá tội cho kẻ tử tù là quan Vệ úy Lâm Trung, chỉ huy lực lượng thị vệ ở Hành cung!
Họ Lâm thoát chết, dù bị giáng xuống làm phó cho Mã Kim Khu, nhưng cũng hết lòng tri ân chàng!
Trịnh Kiều đã tặng Nam Cung Giao ba chục tay đao giỏi nhất làm thủ hạ!
Chàng bèn giao một nửa cho Kim Khu để bảo vệ Vương gia!
Mười lăm người còn lại ở trong phủ Thượng thư cùng anh em họ Sở và Cuồng Vũ Đao.
Sách lão đã già nên vui vẻ nhận chân hộ viện cho nhà họ Mã!
Riêng Mộc Kính Thanh là không vui, ngày nào cũng đi chơi đến tận nửa đêm mới về. Không thấy gã say, Nam Cung Giao lại trách :
- Thân thể ngươi đã chẳng được tráng kiện mà cứ lăn lóc chốn lầu xanh thế này thì chẳng mấy chốc nguyên dương sẽ cạn kiệt!
Kính Thanh nở nụ cười thê lương :
- Nay đại ca sa vào bẫy phú quí, phấn son, vui mừng với kiếp cá chậu chim lồng khiến tiểu đệ vô cùng thất vọng! Có lẽ tiểu đệ sẽ về Chiết Giang chứ không ở đây làm gai mắt đại ca nữa!
Nam Cung Giao rầu rĩ đáp :
- Ngươi hiểu lầm ta rồi! Chỉ cần Vân Mi có tin vui là ta sẽ cùng ngươi khởi hành đi Bắc Kinh ngay! Hiền đệ ráng chờ thêm một tháng nữa!
Kính Thanh cười cợt :
- Nhị tẩu tuy xinh đẹp tuyệt trần như mang tướng chân dài, eo nhỏ chẳng phải là người mắn đẻ, hay là đại ca thử vận may với Mã đại tẩu xem sao?
Nam Cung Giao xua tay :
- Không được! Việc lấy Hoàn Cơ phải hoãn lại sau cùng! Khi đã thành rể nhà họ Mã là mất hẳn tự do, chẳng còn được thỏa chí tang bồng! Ta đã có cách khác!

Cuối tháng ba, Thần Nữ vẫn chưa có hỉ tín.
Mộc Kính Thanh lặng lẽ bõ đi, để lại thư cho Nam Cung Giao :
“Đại ca nhã giám!
Tiểu đệ không nỡ để đại ca rời xa cảnh nhung lụa ấm êm, nên sẽ thay đại ca đi Bắc Kinh! Nếu tiểu đệ thất bại, không trở về nữa, thì có nghĩa là đại ca cũng chẳng nên đi cho uổng mạng! Nhớ nhau, xin đại ca thắp ba nén hương và bày chung rượu nhạt là đủ!
Ngu đệ Mộc Kính Thanh bái bút”.
Nam Cung Giao thở dài, đốt lá thư, rồi tìm đến phòng Thần Nữ. Chàng buồn rầu kể lại việc Kính Thanh một mình liều mạng đến Bắc Kinh ám sát Bình Phiên Công Trương Phụ.
Chàng lại bảo :
- Du nàng chưa cấn thai nhưng ta cũng phải lên đường ngay, không thể để Kính Thanh đơn thương độc mã vào hang cọp được! Ta sẽ giả vờ báo với nhà họ Mã là nàng đã có tin vui, cần được đưa về Cán Châu!
Thần Nữ bẽn lẽn cúi đầu :
- Thiếp quả là vô dụng nên đã phụ lòng tướng công.
Trong lúc Vân Mi thu xếp hành lý Nam Cung Giao trở về phòng, cho gọi Sở Trường Thụy Iên, chàng nghiêm giọng :
- Bốn anh em túc hạ sẽ hộ tống Nhị phu nhân về nhà phụ mẫu ta ở Cảnh Đức trấn. Hành trình phải cực kỳ bí mật, không được để người ngoài chú ý. Sau đó, chư vị sẽ mua nhà ở lại nơi ấy chờ ta!
Trường Thụy ngượng ngùng đáp :
- Xin công tử điều anh em khác, bởi bọn thuộc hạ đang định đưa Tứ muội về Hợp Phì!
- Vì sao vậy?
Trường Thụy chua xót đáp :
- Gia muội đã cấn thai gần tháng nay, biết phận mình xấu xí, hèn mọn nên chẳng dám với cao, đành về quê hương nhờ từ mẫu!
Nam Cung Giao mừng rỡ vỗ đùi :
- Tuyệt diệu thực! Té ra trời đã rủ lòng thương ta. Gia mẫu và gia phụ tất sẽ hoan hỉ đón một lúc hai nàng dâu.
Trường Thụy cảm kích quì xuống lạy :
- Nhà họ Sở xin cảm tạ tấm lòng rộng rãi của công tử?
Nam Cung Giao đỡ gã lên, nghiêm giọng :
- Ta vốn thực tâm yêu mến Sở Nhu, nên mới đến với nàng! Chỉ vì ngại song thân tỵ hiềm dung mạo của Nhu muội nên lòng vẫn còn ngại! Nay nàng ta lại thụ thai tức là đã đúng như ý ta sắp xếp.
Chàng lại cười :
- Nhưng lúc này ta chưa gọi túc hạ là Đại Cửu Tử đâu đấy nhé!
Hôm sau, người trong gia đình họ Mã lưu luyến tiễn Nam Cung Giao và Thần Nữ Tiền Vân Mi lên đường về Cán Châu.
Hoàn Cơ buồn rười rượi và rất tủi thân. Nàng đã vì gia phong mà không dám hiến thân cho tình quân, đành bám víu vô lời hứa hẹn của Nam Cung Giao.
Cuộc ra đi này được giữ kín, kẻ trước người sau rời phủ chứ không rầm rộ một lúc.
Khi sang đến bờ Nam Trường Giang, Nam Cung Giao lẳng lặng quay lại cùng hai gã cao thủ Thế Thiên hội đi lên hướng Bắc.
Hai gã này là cháu ruột gọi Hội chủ. Thế Thiên hội Trịnh Kiều bằng thúc phụ.
Trịnh Tháo là anh, ba mươi sáu tuổi còn Trịnh Mãng là em nhỏ hơn một năm. Họ được chân truyền pho Tuyệt Mệnh đao pháp Trịnh gia nên bản lãnh cao cường nhất, chỉ thua có mình Hội chủ.
Kẻ có tài thường ngang bướng, và do tình quyến thuộc nên Trịnh Kiều lại càng khó xử. Vì thế, lão đã đẩy hai đứa cháu bất trị sang cho Nam Cung Giao!
Trịnh Tháo và Trịnh Mãng sinh trưởng ở Bắc Kinh, sáu năm trước mới đến tham gia Thế Thiên hội. Họ rành rẽ, thông thuộc địa thế Bắc Kinh nên đã được Nam Cung Giao cho tháp tùng!
Hai gã vô cùng hoan hỉ vì được về thăm cố thổ, nếm lại những lạc thú đất Kinh Sư! Giờ đây bạc vàng đầy túi, nhờ sự rộng rãi của Nam Cung công tử, họ có quyền mò đến những nơi sang trọng nhất!
Là anh em ruột nên dung mạo dáng vóc hao hao giống nhau, cao trung bình mặt vuông, mắt dài, mày xếch, mũi ưng, môi dầy đĩ thõa.
Tuy hay cười, hay bông lơn, nhưng thủ đoạn của hai gã tàn nhẫn phi thường, giết người chưa bao giờ biết run tay!
Trung lúc Nam Cung Giao và họ Trịnh tất tả bôn hành, chúng ta sẽ về Cảnh Đức trấn để xem cảnh nhà Nam Cung Giao nhận dâu!

Gần giữa tháng tư, lúc trời đã tối hẳn, có năm người khách đến gõ cửa Tế An đường của nữ danh y họ Đặng.
Nam Công Bột bước ra mở cửa, niềm nở hỏi :
- Chẳng hay chư vị cần chữa bệnh hay mua thuốc?
Biết lão già to béo, cao lớn nay là Nam Cung Bột, Sở Tường Thụy kính cẩn vòng tay đáp :
- Bẩm lão gia! Bọn vãn bối mang thư của Nam Cung công tử đến vấn an lão gia và lão thái!
Nam Cung Bột mừng rỡ mở toang cửa :
- Hay quá! Mời chư vị vào! Lão phu đang nóng ruột chờ đợi tin tức của Giao nhi!
Ông chợt hạ giọng :
- Vợ ta còn rất trẻ đẹp, chư vị đừng xưng hô là lão Thái, bà ấy sẽ không vui, cứ gọi bà ấy là phu nhân thôi.
Năm người cúi đầu vâng dạ, Thần Nữ và Sở Nhu đứng sau cùng nên Nam Cung Bột không thay, lúc họ bước qua ngạch cửa. Lão nhận ra sự tương phản của hai người, ngơ ngác gãi tai tự hỏi :
- Lẽ nào tiểu quỷ nhà mình lại ngông cuồng đến mức vợ cả xấu lẫn đẹp, chẳng chừa một ai cả? Phen này bà lão nhà ta sẽ phải rối trí đây?
Lão hối hả mời khách ngồi, chạy vào gọi Trinh Tâm.
Nghe nói có người mang tin của trưởng tử về, bà mừng rỡ thay áo ra ngay.
Lộc nhi và Hà nhi cũng đi theo mẹ!
Tuy không son phấn, song Trinh Tâm vẫn rất đẹp so với số tuổi gần ngũ thập, làn da bà trắng trẻo mịn màng, chỉ điểm vài nếp nhăn nơi đuôi mắt. Khi bà cười, hai lúm đồng tiền duyên dáng kia khiến gương mặt trẻ như mới ba mươi.
Cả năm người khách nhất tề quì xuống, nhưng chỉ có hai nữ nhân run rẩy lên tiếng :
- Tức nữ bái kiến lão gia và nải nương!
Trinh Tâm choáng váng, sửng sốt nhìn hai nàng dâu, thầm nhủ :
- Lẽ nào Giao nhi lại dám bày trò hí lộng ta! Phải hỏi cho ra lẽ mới được!
Bà cố trấn tĩnh bảo :
- Mời chư vị bình thân an tọa! Ta muốn được đọc thư của Giao nhi trước đã!
Vân Mi vội cung kính trao thư cho bà.
Năm người khép nép ngồi xuống ghế tựa, chăm chú theo dõi nét mặt gia chủ.
Nam Cung Bột vui vẻ nói :
- Lộc nhi! Con mau xuống bếp nấu nước pha trà đãi khách!
Sở Tích Vũ nãy giờ dán mắt vào, những hũ rượu thuốc lớn trên kệ, buột miệng nói ngay
- Chẳng dám phiền đến nhị tiểu thư! Bọn vản bối chỉ xin vài chén rượu cũng đủ!
Nam Cung Bột mở cờ trong bụng, liếc phu nhân, mũi phập phồng, nói giả lả :
- Nếu chư vị thích dùng rượu thì lão phu xin tuân mệnh!
Cạnh hũ lớn có những bình nhỏ độ một cân chiết sẵn để bán cho khách.
Nam Cung Bột xách ngay một bình đến bàn, rót ra mời mọc.
Họ vừa cạn chén thứ hai thì Trinh Tâm lên tiếng :
- Rượu bổ dành cho người bệnh hoạn, thân thể đã cường tráng thì chẳng thể uống nhiều được!
Sở Tích Vũ vội viện bạch :
- Bẩm phu nhân, Vãn bối chỉ uống đúng ba chén thôi! Cũng giống như công tử vậy!
Trinh Tâm hiếu kỳ hỏi :
- Giao nhi xa nhà mà vẫn nhớ được lời dạy bảo của ta ư?
Tích Vũ hăng hái xác nhận :
- Bẩm phải. Công tử mỗi ngày chỉ uống đúng ba chén. Có điều mỗi chén phương Bắc lớn gấp ba bốn lần chén của nhà này!
Nam Cung Bột khoái chí cười ha hả :
- Giao nhi giỏi thực! Ngày mai lão phu phải tìm mua chén uống rượu của người phương Bắc mới được!
Trinh Tâm tủm tỉm cười :
- Giao nhi còn trẻ, có uống ba chén lớn cũng chẳng sao! Nhưng ông thì không nên!
Rồi bà nghiêm giọng :
- Tướng công hãy đọc kỹ thư của Giao nhi rồi cho thiếp biết chủ ý!
Nam Cung Bột vội cạn chén thứ ba, đưa tay nhận thư.
Đọc xong, lão hắng giọng phát biểu :
- Giao nhi quả là đứa con chí hiếu, trước khi dấn thân vào hiểm địa đã chu toàn tông mạch cho họ Nam Cung! Lão phu quyết định nhận cả Vân Mi lẫn Sở Nhu làm con dâu! Ý phu nhân thế nào?
Trinh Tâm đáp ngay :
- Thiếp cũng cùng một ý với Tướng công!
Nam Cung Bột đắc ý cười hể hả, vuốt râu nói :
- Phu nhân nhu thuận như thế khiến ta rất hài lòng!
Lão tiện tay nâng chén lên uống thì nghe người vợ ngoan hiền nhắc nhở :
- Tướng công! Đã đủ ba chén rồi!
Nam Cung Bột ngượng ngùng đặt xuống :
- Lão phu vì quá vui nên quên đếm!
Khách không dám nhưng Lộc nhi và Hà nhi cười dòn dã, đồng thanh hét lên :
Nhất nhật tam bôi hề
Tráng lão ích tho.
Đa nhất bôi hề
Phụ thân chung dạ tương tư
Ô hô! Ai tai!
(Dịch)
Ngày ba chén hề
Tốt Ião sống lâu
Thêm một chén hề
Cha suốt đêm nhung nhớ
Tiếc thay! Buồn thay!
Bài đồng dao này do Nam Cung Giao nghĩ ra và dạy cho hai cô em gái.
Bình thường chúng vẫn nghêu ngao nhưng chẳng hề bị phụ mẫu trách mắng. Nay trước mặt khách, chúng đem ra hát chơi, khiến mặt Trinh Tâm đỏ như gấc còn Nam Cung Bột thì xấu hổ đến mức chỉ muốn độn thổ.
Thẹn quá hóa giận lão hùng hổ uống cạn chén thứ tư trên bàn.

Giờ chúng ta sẽ quay lại với cuộc hành trình của Nam Cung Giao. Chàng và hai thủ hạ đã đến Từ Châu trưa ngày rằm tháng tư.
Ba người vào Tứ Hải đại lữ điếm nghỉ trọ.
Tắm gội xong, chàng rủ anh em họ Trịnh :
- Ở cửa Bắc thành có quán thịt chó của người Giao Châu mùi vị tuyệt hảo. Ta sẽ cùng hai ngươi say sưa một bửa ra trò!
Trịnh Tháo khoan khoái đáp :
- Té ra công tử hảo món nhậu bình dân ấy! Anh em thuộc hạ vui mừng được hầu rượu công tử!
Nhưng khi đến nơi, Nam Cung Giao ngơ ngác nhìn cảnh điêu tàn, đổ nát, quán thịt chó đã bị phá sập, gạch ngói ngổn ngang.
Dưới ánh nắng gay gắt cuối xuân, một phụ nhân nhỏ bé đang ngồi khóc lóc bằng tiếng Giao Chỉ :
- Ôi Lan nhi! Tội nghiệp cho đứa con gái ngoan hiền xinh đẹp của mẹ! Vì sao lão trời già oan nghiệt kia lại cướp con khỏi vòng tay của mẹ thế này?
Nam Cung Giao kinh hãi xuống ngựa, chạy đến đỡ bà lên và hỏi :
- Mong đại nương, cho tiểu điệt biết chuyện gì đã xảy ra với nhà ta và Tiểu Lan!
Bà nhìn một lúc, nhận ra người khách trẻ tuổi hồi trong năm, lại òa lên khóc lóc, kể lể :
- Nam Cung công tử đây sao? Lan nhi vẫn thường hay nhắc đến người với mối tương tư nặng trĩu đầu đời! Nay công tử trở lại thì đã quá muộn rồi!
Nói xong, bà ngất xỉu trong vòng tay Nam Cung Giao!
Chàng vội bồng bà lên, đi sâu vào trong thôn. Phía sau quán thịt chó, cách một thửa ruộng có vài chục nóc nhà của dân Giao Chỉ, đa số là nhà tranh hay gỗ! Và tất cả đều đang được sửa chữa lại. Cái thì đã xong, cái vẫn dở dang. Điều này chứng tỏ thôn xóm vừa gặp tai họa.
Đám tửu khách từng gặp chàng hồi giữa tháng mười một, mừng rỡ gọi vang, chạy đến chào hỏi.
Có hai phụ nhân đỡ lấy Trần mẫu đưa vào nhà chăm sóc.
Đấy là căn nhà gỗ lợp ngói của trưởng thôn họ Lê!
Lão đông con trai nên đã sửa xong, liền mời Nam Cung Giao vào nhà dùng trà.
Lão buồn rầu kể :
- Mãnh đất này trước đây vốn thuộc về Vệ gia trang. Tổ tiên họ Vệ có công lớn nên được Minh Thái Tổ cắt đất phong bá. Chê khu vực này toàn đầm lầy ngập nước nên hai mươi năm trước, cố Trang chủ Vệ Thiên Dụng đã bán lại cho đám dân An Nam nghèo khổ chúng tôi. Bao nhiêu mồ hôi nước mắt đã đổ xuống nên mới được cao ráo, phì nhiêu như hôm nay. Nào ngờ, bốn ngày trước, Vệ trang chủ bây giờ là Đông Thành Bá Vệ Cảnh kéo gia nhân đến, bắt cả thôn phải dọn đi và nhận lại số bạc nhỏ lúc trước. Lão lấy cớ là đất của Thiên tử phong thì không được bán, nay họ Vệ sợ tội nên phải thu hồi! Giá ngày xưa chỉ là trăm lượng bạc, không đủ mua lá lợp nóc bốn chục căn nhà, chớ đừng nói đến mua ruộng đất mới! Tất nhiên, bọn ta không đồng ý, lập tức bị đánh đập và phá hủy nhà cửa. Tiểu Lan giỏi võ liền chống cự quyết liệt song cuối cùng cũng bị giết chết!
Nam Cung Giao nghe như đất trời sụp đổ, phẫn nộ gầm vang tựa hổ rống, nước mắt chảy dài.
Thấy mọi người hoảng sợ, chàng cố trấn tĩnh lại và hỏi :
- Thế Lê lão trượng có nhờ nha môn Từ Châu phân xử hay không?
Lê lão chua chát đáp :
- Tri huyện Từ Châu Hoàng Tẩn ăn hối lộ của nhà họ Vệ nên khi nhận được đơn kiện của dân trong thôn này liền trả lời rằng: Vệ Cảnh là Bá Tước, Đại Lý tự ở Bắc Kinh mới có quyền xét xử, các ngươi hãy lên Kinh Đô mà kêu oan. Nhà họ Vệ được Thái Tổ ban cho Đan Thư Thiết Khoán nên bổn chức chẳng thể vào được!
Nam Cung Giao ở phủ Hình Bộ đã vài tháng, biết rõ luật lệ này, chàng gật gù :
- Hoàng tri huyện nói đúng đấy, phải có thánh chỉ hoặc trát của Bộ Hình, Đại Lý tự Đô Sát viện thì mới được vào Vệ gia trang!
Lê lão hậm hực :
- Thế chẳng lẻ Tiểu Lan phải chịu chết oan và hơn hai trăm người dân thôn này phải mất cơ nghiệp, đi ăn xin mà sống? Là dân Giao Châu, dầu có ngửa tay xin chịu nhục cũng chẳng mấy ai cho.
Nam Cung Giao cười nhạt :
- Việc của Tiểu Lan tính sau giờ phiền lão trượng đi tìm mua một mãnh ruộng to độ bốn chục mẫu. Mỗi nhà trong thôn sẽ được chia một mẩu và tiền bạc để xây nhà mới!
Lê lão ngơ ngác, rụt rè hỏi lại :
- Công tử không nói chơi đấy!
Chàng lắc đầu, móc ra một tập ngân phiếu đếm rồi trao cho lão :
- Số vàng ngàn lượng này hi vọng sẽ đủ. Nếu còn dư, lão trượng hãy chia đều cho mọi người.
Kỹ thuật làm giấy của Trung Hoa rất cao. Sản xuất ra được những loại giấy cực kỳ tốt. Dĩ nhiên, giấy ngân phiếu phải là hạng tốt nhất, láng mịn và dai bền. Nét in cũng tinh xảo có hoa văn chim, hình mây, núi, rồng, phượng. Tóm lại là rất khó làm giả!
Lê trưởng thôn rời ghế quì ngay xuống, nghẹn ngào vái tạ.
Người trong thôn nãy giờ xúm lại nghe ngóng, cũng vội quì theo.
Nam Cung Giao buồn rầu nói :
- Chư vị chỉ cần chăm sóc Trần mẫu và mộ phần của Tiểu Lan chu đáo là đã trả ơn cho tại hạ rồi!
Mọi người đồng thanh hứa!
Nam Cung Giao cùng hai gã họ Trịnh trở về thành Từ Châu!
Trịnh Mãng nóng nẩy nói :
- Công tử! Hay là đêm nay chúng ta đến Vệ gia trang lấy đầu lão bá tước khốn kiếp kia?
Nam Cung Giao xua tay, giọng lạnh như băng :
- Không được! Nếu làm thế sẽ gây tai họa cho đám kiều dân An Nam. Chờ sự việc lắng xuống, chúng ta mới có quyền giết lão! Nếu lần này đi Bắc Kinh ta có mệnh hệ gì thì trách nhiệm của hai ngươi là quay về đây giết Vệ Cảnh!
Hai gã không biết, mục đích chuyến thượng Kinh này nhưng cũng gật đầu.
Họ tự hỏi phải chăng chủ nhân của mình định hành thích Thiên tử?
Ba người dừng cương trước tòa Bành Thành Đệ Nhất Tửu lâu, lên tận tầng hai ngồi cho mát.
Bành Thành vốn là tên rất xưa của Từ châu. Nam Cung Giao thường ngày tươi tắn nhưng giờ đây sắc diện u ám ánh mặt đầy vẻ bi thương, thống khổ.
Chàng để mặc cho anh em họ Trịnh gọi thức ăn và không hề động đến, chỉ lặng lẻ nâng chén uống cạn, như muốn dùng rượu để dìm chết nỗi sầu muộn trong lòng!
Bàn của ba người nằm cạnh lan can nên Nam Cung Giao có thể ngắm những cụm hoa thược dược dưới vườn.
Dáng thướt tha của loài hoa này gợi cho chàng nhớ đến Trần Lan, người con gái Giao Châu xuân sắc, bạc mệnh!
Chàng không yêu Tiểu Lan, nhưng đặc biệt quí mến vì nàng mang nét đẹp của quê mẹ xa vời. Trong tất cả những nữ nhân chàng đã gặp thì Tiểu Lan giống mẹ chàng nhất, không phái về dung mạo mà vì nàng là người Giao Châu thuần chủng.
Gió xuân ấm áp thổi qua vườn, lay động những bông hoa thược dược vàng rực, khiến chàng tưởng như Trần Lan đang yểu điệu bước qua trước mắt mình!
Một giọt lệ hiếm hoi bỗng lén trào qua khóe mắt chàng trai hay cười!
Hoa thược dược đơn độc ở đầu cành, màu hoa hồng đậm, dáng hoa tha thướt, nên còn được gọi là Kiều Cung, Dư Dung, Diệm Hữu.
Trong vườn sau nhà Nam Cung Giao ở Giang Tây cũng có trồng thược dược, và người trồng chính là cha của chàng.
Nam Cung Bột về già bỗng thích làm vườn, chẳng đi đâu cả. Sau khi giúp vợ bào chế thuốc lão chỉ lo chăm sóc vườn hoa. Lão từng bảo rằng mình yêu hoa thược dược nhất vì chúng cũng đẹp như Trinh Tâm vậy!
Quả thực là loài hoa thược dược rất đẹp và rất đáng yêu, cuối xuân nở hoa, có các loại màu tía, hồng nhạt, trồng, và màu vàng Ià quí nhất!
Nam Cung Bột đã trồng đủ các sắc hoa Thược dược đất Dương Châu đứng đầu thiên hạ, nhưng sau này, Bắc Kinh cũng trồng và rất nỗi tiếng!
Thời Đường, Tống, thược dược được gọi là “lam vĩ xuân”. Bởi vì tuần rượu cuối của một tiệc rượu, tửu khách sẽ uống ba chung liền, gọi là “lam võ tửu”. Vì thế, lam vĩ xuân có ý nói Thược Dược là hoa đẹp nở cuối cùng của mùa xuân, và mùa hạ sắp tới!
Do thế Nam Cung Giao đã chọc ghẹo cha :
- Phụ thân mới giống hoa Thược dược, vì chỉ được uống có ba chung! Tam Bôi tiên sinh mà đổi thành Lam Vĩ tiên sinh thì nghe hay ho hơn nhiều!
Đang hồi ức những kỷ niệm cũ, Nam Cung Giao chợt nghe lòng đau nhói khi nhớ lại câu nói của Lê trưởng thôn: “Là dân Giao Châu, dẫu có ngửa tay chịu nhục cũng chẳng mấy ai cho!”
Người Hán tự hào về nền văn hóa lâu đời rực rỡ của mình nên xem thường các dân tộc khác. Ngay người dân Hải Nam như Nam Cung Bột cũng không được xem trọng, huống hồ gì đám dân lưu vong Giao Chỉ?
Bậc hảo tâm sẽ không phân biệt gốc gác kẻ ăn mày khốn khổ, nhưng chính những đồng nghiệp người Trung Hoa sẽ xua đuổi họ ra khỏi những nơi dễ kiếm ăn nhất như danh lam, thắng cảnh, chùa chiền, miếu mạo!
An Nam hiện đã độc lập, dù phải xưng thần và tiến cống Triều Minh ba năm một lần, song không phải ai cũng dám trở về quê cha đất tổ!
Đám dân Giao Chỉ lưu vong đã bị ràng buộc với đất khách bằng những cuộc hôn phối cùng người Hán, hoặc vì sinh kế.
Ngoài ra, họ còn mang mặc cảm vì bản thân, hoặc cha ông đã không tự sát chết theo vua Tùy Quang, mà lại kéo lê kiếp sống nô lệ cho kẻ thù! Và liệu khi họ về lại cố hương có được sống yên ổn, hay lại bị ruồng bỏ và nghi kỵ?
Trung Hoa là mối họa ngàn đời của An Nam, dù đang hòa nhã vẫn luôn phải đề phòng!
Nam Cung Giao giờ đây đã hiểu rõ nỗi khổ của mấy chục vạn đồng bào của thân mẫu, và chính mình, chợt tự nhủ sẽ tận lực giúp đỡ họ. Được như thế thì cuộc đời chàng mới có chút giá trị!
Tâm niệm này đã khiến chàng khuây khỏa, bình tâm ăn uống với hai gã thủ hạ tội nghiệp kia.
Nãy giờ họ chẳng dám nói cười, nhai nuốt cũng cố không gây ra tiếng động!
Nhậu nhẹt như thế thì làm sao ngon miệng được?



Sáng mười sáu bọn Nam Cung Giao tiếp tục cuộc hành trình. Khoảng cách giữa Từ Châu và Tế Nam là bẩy trăm dặm, có thể tạm chia làm hai đoạn :
Đoạn thứ nhất vượt hoàng Hà, đi dọc Đại Vận Hà hơn bốn trăm dặm.
Lúc này mé tay tả của lữ khách chính là vùng Lương Sơn Bạc nổi tiếng.
Sau đó, người ta phải sang bờ Đông Đại Vận Hà, đi nốt quảng đường hơn hai trăm dặm để đến Tế Nam.
Chính đoạn đường thứ hai mới là đáng sợ, cả về mặt địa hình lẫn an ninh!
Quan đạo trải dài trên vùng sơn cước của dãy núi Thái Sơn, nên gập ghềnh, hiểm trở có nhiều đèo dốc, và hai bên là rừng rậm âm u đầy ác thú!
Còn cường đạo thì chắc là chẳng thiếu, nhưng chỉ là những nhóm nhỏ, quen ức hiếp với những lữ khách đơn độc.
Song chàng họ Nam Cung của chúng ta chưa đến đấy.
Trưa ngày hai mươi ba, chàng mới có mặt ở bờ Tây Đại Vận Hà, chờ đò sang bên kia!
Đây là bến đò duy nhất của con đường huyết mạch, nên quán xá rộng rải để đón tiếp những đoàn xe chở hàng hóa.
Ba người bọn Nam Cung Giao vừa ăn được vài gắp thì nghe tiếng vó ngựa, tiếng trục xe kẻo kẹt vọng đến.
Âm thanh ồn ào này chứng tỏ đoàn xa mã ấy khá đông đảo, và hàng hóa chở theo rất nặng nề.
Lát sau, đám lữ khách kia dừng chân trước cửa quán gồm mười cỗ xe song mã và hai trăm quân áp tải. Y phục của họ rất khác hẳn quan quân triều đình.
Lính thì vải, quan thì lụa, song đều có điểm chung là áo dài quá gối, tay áo chật, ống quần rộng.
Bốn vị võ quan áo xanh không mang giáp trụ, đầu trần quấn khăn vành rễ, búi tóc nhỏ lệch hẳn về phía sau chứ không ở gần đỉnh đầu như người Trung Hoa.
Lá đại kỳ vuông vức bằng mãnh chiếu, cắm trên cỗ xe đầu tiên, một mặt có hai chữ Đại Việt, mặt kia là Thiệu Bình, thêu bằng chỉ đen giữa nền vàng. Và trên nóc chín cỗ xe còn lại là những lá cờ trắng nhỏ, viết hai chữ Cống Phẩm.
Nam Cung Giao bồi hồi xúc động, nhận ra đoàn sứ giả An Nam đang trên đường triều cống nhà Minh!
Chàng không thắc mắc về cống phẩm vì đã từng nghe Thất vương gia nói qua.
Cứ ba năm một lần, Triều Lê đất An Nam phải tiến cống một số phương vật căn bản như :
Hai người bằng vàng.
Một lư hương bằng bạc.
Một đôi bình hoa lạc.
Mười bốn đôi ngà voi.
Mười hai bình hương trầm.
Hai vạn nén hương luyến.
Hai mươi bốn cây hương trầm lớn.
Các khoản đều có thể thay đổi bằng vật lạ khác, riêng hai hình nhân bằng vàng là cố định. Tên của hai người bằng vàng là Đái Thân Kim Nhân (Người vàng thế mạng) tượng trưng cho hai Đại tướng Minh triều là Liễu Thăng và Lương Minh, bị quân Lê Lợi giết trong trận Chi Lăng!
Hôm nay quán vắng khách, vài bàn là có người, song chỉ bốn võ quan vào ngồi hẳn, còn quân sĩ An Nam thì chia nhau luân phiên ăn uống, không dám bỏ mặc đoàn cống phẩm.
Nam cung Giao ngắm nghía những gương mặc cương nghị, rắn rỏi kia với ánh mắt thích thú và trìu mến.
Chàng chợt lấy làm lạ khi họ lại đi đường này để đến Bắc Kinh? Vì theo lệ thường, và thuận tiện nhất là đường quan đạo Bắc Nam, qua Quảng Tây, Hồ Nam, Hồ Bắc đến Trịnh Châu rồi vượt Hoàng Hà. Sau đó, họ sẽ ghé qua những địa phương sầm uất như An Sương, Thạch gia trang, Bảo Định và đến đế đô.
Đường trục chính này vừa rộng rãi rừa an toàn, sao họ không đi? Hay là lần này họ phải ghé vào Nam Kinh trước?
Chính vị võ tướng râu ba chòm đen nhánh đã vô tình giải thích.
Nam Cung Giao hiểu.
Lão nói bằng tiếng An Nam và không ngờ có người nghe được :
- Này tam vị hiền đệ! Năm ngoái, cống phẩm của nước ta bị cướp ở bờ Bắc sông Hoàng Hà, quan quân áp tải chết không còn một mống, thế là Triều Minh giả như không biết, gởi thư trách móc.
Lần này, nếu chúng ta không đến được Bắc Kinh thì e rằng họ sẽ mượn cớ mà gây hấn. Nghe nói đoạn đường đến Tế Nam có địa hình phức tạp, chúng ta phải cố vượt qua thật nhanh, đi cả ngày lẫn đêm.
Ba người kia gật đầu tán thành, và võ quan tuổi tam tuần anh tuấn thở dài bảo :
- Nguyễn huynh! Tiểu đệ chỉ thắc mắc một điểm là Sứ thần năm ngoái vì sao lại không thoát thân được? Quan Hành khiển Phạm Văn Tường võ nghệ tuyệt luân, sức khoẻ như thần, chạy nhanh hơn vó ngựa, lẽ nào lại không giữ được mạng sống mà đến Bắc Kinh tố cáo? Chỉ cần đem được biểu tấu của vua ta và điệp Thông quan ra trình là Triều Minh phải dốc sức điều tra, xem như đã nhận cống vật!
Người họ Nguyễn tuổi độ năm mươi, vầng trán cao rộng, mắt sáng tinh anh, biểu hiện một trí tuệ sâu sắc. Ông nghiêm giọng :
- Trần hiền đệ! Trung Hoa đất rộng người đông, nhân tài võ học nhiều như lá mùa thu! Phạm tướng quân dù tài giỏi nhưng biết đâu phe cường đạo lại có cao thủ lợi hại hơn?
Nay chúng ta bản lãnh không bằng họ Phạm nên mới phải đi dường này để tránh cường. Nếu chẳng may lại bị chặn đường, bọn ta sẽ liều chết đoạn hậu để hiền đệ thoát thân, đến Bắc Kinh! Thất vương gia Chu Nghiêm ở Kim Lăng đã xác nhận số lượng cống phẩm vào Thông quan điệp, dù có bị cướp sạch cũng chẳng sao!
Họ Trần chua xót :
- Không ngờ Trần Dũng tôi lại phải làm trò bất nghĩa, bỏ mặc bào huynh mà đào tẩu! Thật nhục nhã cho giòng dõi Tướng quốc!
Nam Cung Giao thầm đoán Trần Dũng là con cháu của Tả tướng quốc Trần Nguyên Hãn, đại công thần của nhà Lê, song đã bị Thái Tổ Lê Lợi chém đầu.
Chàng thường đàm đạo với Mã thượng thư và các quan Nam Kinh nên biết khá rõ về triều đình An Nam.
Ví dụ như hai chữ Thiệu Bình trên ngọn đại kỳ kia là niên hiệu của vua Lê Thánh Tông. Ông này lên nối ngôi Lê Lợi đã được bốn năm.
Nam Cung Giao cau mày suy nghĩ, tự hỏi bang hội nào đã dám làm chuyện tày trời, cướp cống phẩm?
Thủ đoạn giết sạch không chừa nhân chứng kia phải chăng là của Hồ bang?
Trong địa phận ấy đâu còn tổ chức nào hùng mạnh hơn họ? Nếu Hồ Ly song tiên xuất hiện thì khó có cao thủ An Nam nào địch lại!
Đoàn sứ thần An Nam rời quán, đốc thủ hạ lên đường.
Nam Cung Giao cũng bảo quán tính tiền, đi theo họ, vì đò đã cặp bờ!
Hàng hóa nặng nề nên đám người An Nam đi khá chậm.
Nam Cung Giao cứ lẻo đẻo đằng sau họ, không chịu vượt qua.
Trịnh Mãng cười hỏi :
- Chẳng lẽ công tử định đánh cướp số cống vật này?
Chàng nghiêm nghị đáp :
- Năm ngoái họ đã bị cướp sạch, nên năm nay mới lén đi đường này! Ta sợ rằng họ sẽ khó mà thoát được, nên vì thể diện của người Trung Hoa mà giúp họ một tay! Kẻo không họ lại tưởng rằng nước ta chốn nào cũng có đạo tặc!
Trịnh Tháo cười hăng hắc :
- Biết sau họ sẽ tri ân mà tặng vàng bạc cho chúng ta?
Do đã liên hệ trước với người phụ trách bến đò nên đoàn sứ thần An Nam được ưu tiên sang sông, bằng mười chiếc đò lớn đáy phẳng. Thế mà cũng phải mất hai lượt họ mới qua hết.
Nam Cung Giao sang được bờ sông, thúc ngựa phi mau để bắt kịp những đứa con của quê mẹ!
Thấy chàng và hai thủ hạ lại cứ bám theo sau. các sứ thần An Nam rất lo ngại, thỉnh thoảng ngoái lại nhìn. Nhưng họ không thể nói gì vì đây là lãnh thổ Trung Hoa, chứ chẳng phải đất An Nam!
Bị âm hồn phía sau ám ảnh tâm lý các sứ thần An Nam đến nỗi chàng võ quan trẻ tuổi Trần Dũng không còn chịu nổi sự căng thẳng, bất ngờ quay ngựa lại.
Gã chặn đường bọn Nam Cung Giao, trợn mắt quát :
-Các ngươi âm mưu gì mà cứ bám theo bọn ta?
Cả đoàn xe đã phải dừng lại và ba sứ giả kia vội đến hỗ trợ Trần Dũng.
Họ cũng muốn giải quyết cho xong mối đe dọa sau lưng!
Ba gã đội nón rộng vành kia quả là đáng ngờ, khiến lòng họ luôn nơm nớp lo sợ!
Tuy nhiên, người họ Nguyễn cẩn trọng nhắc nhở Trần Dũng :
- Trần hiền đệ chớ nên quá lỗ mãng, biết đâu họ đi theo vì tò mò chứ không hề có ác ý!
Tràn Dũng hậm hực đáp :
- Mả mẹ chúng! Tiểu đệ chịu hết nổi rồi.
Cả hai đều nói tiếng An Nam, tưởng đối phương không hiểu.
Quả thực là anh em họ Trịnh thì như vịt nghe sấm, song Nam Cung Giao sa sầm nét mặt, khi bị chưởi động đến mẫu thân.
Chàng quyết định dạy cho gã thô lỗ kia một bài học.
Nam Cung Giao ngửa cổ cười dài, lạnh lùng nói:
- Kẻ đảm đương đại nhiệm thì lúc nào cũng. phải trầm tĩnh như núi Thái, cẩn trọng trong hành động và ngôn từ! Nay các hạ tính tình nóng nẩy, bồng bột, lại khiếp nhược nên đa nghi, chằng xứng mặt sứ thần. Không lẻ nước An Nam hết người rồi sao?
Tất nhiên chàng nó bằng tiếng Quảng Đông, thứ ngôn ngữ mà rất nhiều người thông thạo huống hồ gì các sứ giả!
Người họ Nguyễn nghe lời chính khí, kinh hãi chắp tay nói :
- Lời vàng ngọc của tráng sĩ khiến Nguyễn Đào này vô cùng kinh ngạc, dám hỏi tráng sĩ là cao nhân phương nào!
Trần Dũng nóng nẩy cướp lời :
- Nguyễn huynh quả là nhẹ dạ nên mới qua vài câu đã bị lung lạc! Tiểu đệ chỉ nhìn mặt họ là biết ngay phường đạo tặc!
Lão nhân râu ba chòm cao niên vội ngắt lời Trần Dũng :
- Ngươi chớ hồ đồ! Để Nguyễn hiền đệ đối phó! Dường như đối phương hiểu tiếng Việt!
Nam Cung Giao cười mát :
- Tại hạ không biết nhiều song những câu chưởi mả thì hiểu hết! Lão trượng bảo gã họ Trần kia tạ lỗi thì tại hạ sẽ bỏ qua chuyện này.
Lão nhân nghiêm nghị đáp :
- Lão phu là Lê Khải, Chánh sứ thần An Nam! Mong tráng sĩ xưng danh tính và nói rõ lý do vì sao lại bám theo đoàn xe cống phẩm. Sau đó. lão phu sẽ bắt Trần Tham tướng phải tạ lỗi!
Nam Cung Giao kính lão, vòng tay điềm đạm đáp :
- Tại hạ là Nam Cung Giao. Lúc ở bến đò Đại Vận Hà, tại hạ tình cờ nghe được việc cống phẩm năm ngoái bị cướp, nên đi theo để giúp đỡ chư vị một tay!
Trần Dũng bị chàng chê bai nên rất hận, buột miệng nói :
- Võ nghệ được bao nhiêu mà đòi giúp người?
Nãy giờ hai phe đối thoại đều bằng tiếng Quảng nên anh em họ Trịnh hiểu được. Giờ nghe Trần Dũng khinh thường chủ nhân, Trịnh Mãng nổi giận quát :
- Này tên tiểu tử ngu xuẩn kia! Ngươi đui mù nên mới không thấy được núi Thái Sơn! Nếu còn mở miệng chó ra sủa lần nữa thì đừng tránh lão gia đấy!
Lúc gã giận thì vẻ hung ác hiện rõ mồm một khiến các Sứ thần An Nam chột dạ. Dung mạo chàng trai trẻ họ Nam Cung đường chính, hiền lành, song thủ hạ của chàng thì thật đáng sợ!
Trần Dũng là cừu non hiếu thắng, bị chửi là chó, lập tức rút kiếm ra ngay.
Lê Khả đưa tay ngăn cản :
- Trần Tham tướng! Nếu ngươi không mau chóng tạ lỗi người ta rồi lên đường thì lão phu sẽ chiếu quân pháp trừng trị ngay! Hành trình bị trì trệ cũng chỉ vì tính nông nổi của ngươi!
Trần Dũng ỷ vào vai trò quan trọng của mình trong chuyến đi này nên không sợ bị chém, ngoan cố đáp :
- Ty chức thà chịu trừng phạt chứ không chịu nhục trước kẻ ngoại bang!
Lê chánh sứ biến sắc không biết phải xử trí thế nào!
Nam Cung Giao nghiêm giọng :
- Kẻ nhận mệnh vua đi sứ nước ngoài phải đem văn tài võ lược ra làm rạng rỡ thanh danh nước nhà, đấy mới gọi là không chịu nhục trước ngoại bang Nay ngươi như ngựa non háu đá, như gà tơ tranh tiếng gáy, không nhận nổi chút việc vặt dọc đường, liệu khi đứng trước cảnh uy nghiêm của triều đình nhà Minh, có bảo toàn được quốc thể hay không? Để ta mài dủa bớt lòng kiêu ngạo kia thì may ra ngươi mới nên người!
Chàng quay sang nói với Lê Khải :
- Lê chánh sứ đừng sợ trễ! Nếu đi đêm là trúng kế dĩ dật dãi lao của cường đạo. Tốt nhất chư vị hãy nghỉ ngơi trong trấn Tam Tuyền phía trước, chờ sáng rõ hãy khởi hành! Còn trận so tài này, tại hạ hứa sẽ không giết họ Trần!
Lê Khả vòng tay cảm khái đáp :
- Không ngờ giữa đường lại hội ngộ bậc quân tử! Nghe lời giáo huấn, bọn lão phu như kẻ đi trong đêm tối thấy được ánh dương quang. Mong tráng sĩ nhẹ tay cho!
Trần Dũng ê mặt, tung mình rời ngựa, tấn công gã trẻ tuổi có miệng lưỡi sắc bén kia. Thân pháp họ Trần vô cùng nhanh nhẹn, chứng tỏ đã dầy công luyện tập. Có lẻ vì vậy mà gã được giao nhiệm vụ mang Tấu chương và Thông quan điệp đào tẩu!
Nam Cung Giao rút kiếm nhanh như chớp, dẫu ngồi trên lưng ngựa mà giải phá chiêu kiếm của họ Trần.
Chạm phải màn kiếm quang kín đáo và mãnh liệt của Nam Cung Giao.
Trần Dũng nghe cổ tay tê chồn, và bị đánh bạt ra xa, rơi xuống đất. Gã chỉ kịp than thở, tự trách mình hồ đồ chọc đúng vào tổ ong vò vẽ , thì đã bị đối phương nhảy xuống ngựa đánh cho tối tăm mặt mũi.
Họ Trần cắn răng nắm chặt chuôi kiếm, đem hết tài nghệ ra chống đỡ. Gã vẫn tự hào rằng mình là kiếm thủ xuất sắc nhất nước Nam. Sau khi Phạm Văn Tường đi sứ bỏ mình. Song giờ đây, gã chua xót nhận ra mình chỉ là một đứa trẻ con trước chàng kiếm sĩ áo lam kia.
Nhớ lại lời hứa không giết của đối thủ, Trần Dũng liều lĩnh tấn công ráo riết, không thèm phòng thủ. Vì một lý do nào đó mà gã thà chết chứ không chịu thua.
Nam Cung Giao bình thản đẩy lùi những đợt tập kích điên cuồng, chân vẫn không hề rời chỗ. Mũi kiếm của chàng nhẹ nhàng đâm thủng hàng chục lỗ trên áo họ Trần mà không hề làm tổn thương da thịt.
Hơn thua đã rõ, Lê chánh sứ quát lên :
- Trần Tham Tướng hãy dừng tay, ngươi không phải là địch thủ của Nam Cung tráng sĩ!
Và lúc này, vị võ quan thứ tư mới lên tiếng. Chàng ta có thân hình thỏ bé, râu mép râu càm rậm rì, che gần hết gương mặt trắng trẻo. Đôi mắt đen tròn kia giờ đây đầy vẻ lo lắng sợ hãi.
Chàng bật thốt :
- Trần đại ca đừng đánh nữa!
Giọng nói thánh thót, thanh tao kia là của nữ nhân, hoàn toàn tương phản với bộ râu dữ tợn! Thì ra gã là gái giả trai!
Nhưng đúng lúc ấy, Nam Cung Giao đã nổi tính khôi hài, chặt đứt dây thắt lưng của Trần Dũng.
Cả hai giải rút quần cũng chẳng toàn vẹn!
Quần dài, quần cụt nhất tề rơi xuống, khiến Trần Dũng vướng chân, ngã lăn ra đất. Vạt áo sau lệch đi nên mông gã chìa cả ra ngoài trắng hếu.
Trịnh Tháo cười hô hố :
- Ối chà! Gã này ở bẩn nên bị lác ghê quá, mông toàn những đốm đồng tiền!
Trần Dũng tá hỏa tam tinh, luống cuống kéo quần lên, đứng giữ lấy chẳng dám buông. Mặt gã tái xanh như tầu lá vì thẹn và nhục nhã.
Cô nàng râu rậm kia vội chạy đến, lúi húi mở bọc hành lý, dịu dàng nói :
- Đại ca hãy vào xe thay y phục!
Trần Dũng thẹn quá hóa khùng :
- Sao nàng dám cười khi thấy ta bị hạ nhục!
Quả thực là lúc nãy các sứ thần đều mỉm cười trước cảnh tượng hoạt kê kia.
Cười là một hành vi bản năng rất khó kiểm soát. Khi đôi mắt chụp bắt được hình ảnh vui nhộn thì lập tức nụ cười hiện ra, trước khi ý thức được rằng nên hay không nên!
Do vậy, khi Trần Dũng ngã chổng mông trắng hếu ra thì ai cũng phải cười, dù nạn nhân là người thân cũng vậy!
Mỹ nhân râu rậm biết lỗi, cúi đầu ấp úng :
- Tiểu muội quả là bất nhã mong Trần đại ca lượng thứ!
Song Trịnh Mãng đã đổ dầu vào lửa, gã cười khanh khách chế giễu :
- Nàng ta cười là phải! Ai đời một gã đẹp trai như ngươi mà người đầy ghẻ lác, trông thật gớm ghiếc!
Thực ra thì hầu hết những người cỡi ngựa đường dài đều bị tổn thương phần da ở mông và đùi, do cọ xát tiếp xúc với yên ngựa. Nếu không giữ gìn vệ sinh, vùng da ấy dễ lở loét và ngứa.
Anh em họ Trịnh cũng có nhưng vì chán ghét Trần Dũng nên cứ làm như chỉ mình đối phương là bị lác!
Trịnh Tháo mau miệng bồi thêm một đòn :
- Nếu cô nương có ý định lấy gã thì hãy bỏ đi! Bệnh Kim Tiền Tiển này lây ghê lắm, và cực kỳ nguy hiểm với nữ nhân! Sau này, làn da trắng
như ngọc của cô nương sẽ toàn là những đốm đỏ ghê tởm!
Gã nói rất nghiêm trọng khiến cô gái ngây thơ kia sợ hãi, buột miệng hỏi lại :
- Thực thế sao?
Anh em họ Trịnh phá lên cười vang, càng khiến Trần Dũng điên tiết.
Nam Cung Giao thấy ánh mắt gã đổ lửa, vội nạt hai thủ hạ rồi bước đến vòng tay nói :
- Tại hạ lỡ tay khiến túc hạ phải rơi vào cảnh khó coi, lòng này rất áy náy! Xin túc hạ nhận một lễ này tha thứ cho!
Dứt lời, chàng cúi mình vái rất sâu!
Lê chánh sứ cũng nói :
- Nam Cung tráng sĩ đã ngỏ lời tạ rồi, Trần hiền đệ cũng nên tỏ ra rộng lượng! Vả lại ngươi là người gây sự trước mà!
Trần Dũng trợn mắt quát vào mặt Nam Cung Giao :
- Đừng giả nhân giả nghĩa! Ngươi đã hạ nhục ta trước mặt vị hôn thê! Thù này ta quyết chẳng quên! Hãy cút đi!
Nam Cung Giao lộ vẻ ăn năn :
- Vì tại hạ không biết trong đoàn có nữ nhân nên mới đùa giỡn một chút. Nay các hạ đã không lượng giải, tại hạ đành phải cáo từ với niềm hối hận!
Chàng vòng tay chào chung rồi lên ngựa phi mau!
Nguyễn Đào thở dài tiếc nuối :
- Kiếm pháp của người này đã đạt đến mức thượng thừa, tâm địa lại rộng rãi, quân tử lẫm lẫm. Biết bao giờ Đại Việt ta mới sản sinh được một nhân tài như vậy? Nếu Trần hiền đệ đừng quá hồ đồ thì chúng ta có được một trợ thủ lợi hại!
Bị trách móc, Trần Dũng bực tức nói :
- Biết đâu gã ta lại chính là đạo tặc đến đây để dò la!
Nữ nhân rậm râu cãi ngay :
- Tiểu muội cho rằng không phải! Tướng mạo y hiền lành, nhân hậu chẳng thể nào làm cường đạo được!
Trần Dũng cười lạnh :
- Phải chăng nàng đã phải lòng gã nên mới hết lời bênh vực?
Thiếu nữ sững người rồi bật khóc :
- Tiểu muội không ngờ đại ca lại là người thiển cận, hẹp hòi như vậy! Chỉ vì thói ghen tuông của đại ca mà đường đường một Sứ thần như tiểu rnuội phải mang râu giả trai, da mặt ngứa ngáy, lở loét! Đại ca đã nặng lời sỉ nhục thì tiểu muội cũng chẳng thèm chịu lép nữa. Từ nay chúng ta sẽ đối xử với nhau bằng tình đồng liêu!
Dứt lời, nàng giật bỏ râu ra để lộ gương mặt trái xoan kiều diễm!

Xế chiều, đoàn xa mã đến trấn Tam Tuyền, dừng chân nơi mảnh đất trống ngoài cửa trấn, cho người vào tìm chỗ trọ.
Nguyễn Đào lãnh nhiệm vụ này, lát sau trở lại với vẻ thất vọng :
- Bẩm Lê tôn huynh! Nhà trọ trong trấn đều nhỏ bé, không nơi nào đủ chỗ chứa đoàn xe và lực lượng người ngựa của chúng ta!
Lê Khả vuốt râu nhìn quanh rồi nói :
- Lão phu cho rằng chỉ còn cách dựng lều hạ trại tại chốn này mà qua đêm! Lương thực thì có thể vào trấn mua!
Cô gái Sứ thần nhăn mặt :
- Nhưng ở đây làm gì có chỗ tắm gội! Tiểu muội ngứa ngáy lắm rồi!
Lê Khả mỉm cười :
- Tội nghiệp cho Cầm Vệ Úy thân gái dặm trường. Thôi thì hiền muội cứ vào trấn tìm chỗ nghỉ ngơi, sáng mai nhớ ra sớm!
Thiếu nữ họ Cầm này tuy tuổi mới đôi mươi nhưng được Hoàng thái hậu đặc biệt yêu mến, phong hàm Nhị Phẩm, quản lý toàn bộ lực lượng cấm quân canh gác Hoàng cung.
Có hai lý do khiến Cầm Đạm Thủy được Hoàng gia ưu ái.
Thứ nhất, nàng là cháu nội của Cầm Quí, Tri phủ Ngạc Ma (thuộc đất Nghệ An). Họ Cầm đã phản lại quân Minh, theo phò Lê Thái Tổ cho đến ngày đại thắng.
Thứ hai, Cầm Đạm Thủy tinh thông những bí phương của dân tộc Mường, giúp Hoàng Thái Hậu luôn giữ được làn da mịn màng, trắng trẻo, dù tuổi đã cao.
Lần này, Cầm Đạm Thủy đi sứ Trung Hoa với trách nhiệm cải thiện làn da nhăn nheo của Hoàng Thái hậu Minh Triều. Nếu tranh thủ được tình cản của bà ta, việc bang giao giữa hai nước sẽ vô cùng thuận lợi!
Cầm Đạm Thủy đang hí hửng định vào trấn thì nghe Trần Dũng dấm dẳng nói :
- Gã Nam Cung Giao chắc đang nóng lòng gặp nàng đấy! Hãy nhanh chân lên!
Cầm Đạm Thủy đỏ mặt, vừa thẹn vừa giận lối ghen hờn bóng gió của tình lang.
Nàng cười nhạt :
- Này Trần tham tướng! Bổn chức cấm ông không được xen vào việc riêng của ta! Nếu còn phạm thượng, đừng trách bổn chức chiếu trừng qui mà xử phạt!
Trần Dũng chỉ mới là quan Tam phẩm xét ra là cấp dưới của Cầm Đạm Thủy. Gã thấy nàng quyết liệt như vậy cũng không dám nói thêm, hậm hực quay đi!
Nhìn vẻ mặt cau có, khắc bạc của gã Đạm Thủy đau lòng dậm chân than khổ :
- Không ngờ ta lại yêu lầm một kẻ tiểu nhân, tâm địa nhỏ nhen, cố chấp!
Rồi nàng sa lệ bõ về xe ngựa của mình, không vào trấn nữa.
Lê Khải và Nguyễn Đào nhìn nhau lắc đầu, ngụ ý chê bai Trần Dũng.
Lão vừa định ra lệnh cho sĩ tốt dựng trại thì có một lão già áo gấm đen phương phi, bệ vệ phóng ngựa đến. Theo sau lão là bốn gã tuần đinh cầm gậy.
Lão nhân xuống ngựa vòng tay kính cẩn nói :
- Lão phu là Vương Nghị, Chánh tổng của trấn Tam Tuyền, hân hạnh được bái kiến chư vị sứ thần. Tệ xá tuy nghèo nàn nhưng rất rộng rãi, kính thỉnh chư vị hạ cố giá lâm!
Sự nhiệt tình này khá lạ lùng vì các hương chức đều ngại tiếp xúc với người ngoại bang. Và họ hoàn toàn không có trách nhiệm đón tiếp, giúp đỡ các sứ giả An Nam!
Lê Khải vòng tay đáp lễ, thận trọng nói :
- Lão phu là Lê Khả, Chánh sứ thần An Nam quốc, vô cùng cảm kích trước thịnh tình của Vương túc hạ! Nhưng dám hỏi vì sao túc hạ lại biết bọn lão phu đang cần chỗ tá túc?
Vương Nghỉ mỉm cười, bước đến kề tai họ Lê mà thì thầm :
- Nam Cung công tử đã ra lệnh cho lão phu phải hết lòng tiếp đãi chư vị! Xin Sứ thần cứ yên tâm!
Lê Khả mừng rỡ hỏi ngay :
- Lão phu rất ngưỡng mộ nhân phẩm của Nam Cung công tử, song thú thực là chưa được biết, lai lịch của bậc quí nhân ấy!
Vương Chính Cung đắc ý, vẻ bí mật hạ giọng đáp :
- Mong Lê chánh sứ giữ kín giùm cho! Nam Cung công tử là người của Đô Sát viện đấy!
Đô Sát viện là thanh tra cao cấp nhất triều đình nhà Minh. Cơ quan này độc lập với lục bộ, gồm toàn những vị quan trẻ tuổi, chức thấp nhưng có đức tính liêm chính!
Đô Sát viện có quyền hạch sách bá quan, biện minh oan uổng, tuần hành trong nước, để vỗ về lê thứ cũng như quân sĩ. Mỗi năm, họ đi thanh tra khắp nước, xem xét việc cai trị và xử kiện, kiểm soát các trường học, kho lúa nhận báo cáo của các quan, lắng nghe lời kêu ca của bách tính.
Họ có quyền nói thẳng với Thiên tử, không phải kiêng dè ai hết. Ngay cả những chiếu lệnh của vua mà có sai lốt cần xét lại, Đô Sát viện cũng có thể xin vua sửa đổi. Nhưng các nhân viên chỉ được phục vụ vài năm là phải rời Đô Sát viện, lãnh một chức khác!
Thất vương gia Chu Nghiêm là một trong ba vị lãnh đạo tối cao của Đô Sát viện. Ông phụ trách các phủ phía Nam Trường Giang.
Họ Chu thấy Nam Cung Giao nhất quyết không nhận quan tước hay vàng bạc, nên đã tặng chàng một tấm Yên Bài đầy quyền lực của Đô Sát viện. Với Ngân bài này, Nam Cung Giao được quan lại cả nước kính trọng và khiếp sợ!
Lê Khả hân hoan cao giọng đến thúc quân sĩ đánh xe vào trấn, đến nhà của lão Chánh Tổng họ Vương!
Ông chỉ nói nhỏ với Nguyễn Đào về lai lịch của Nam Cung Giao chứ không cho Trần Dũng biết!
Sau bữa tiệc thịnh soạn và một đêm ngon giấc, sáng ra, đoàn người hớn hở lên đường!
Cầm Đạm thủy cũng đã hiểu ai là ân nhân, lòng bâng khuâng nhớ đến gương mặt khả ái của chàng trai rộng lượng và kiêu dũng Nam Cung Giao tài đức đều hơn hẳn Trần Dũng, khiến người xuân nữ thầm chua xót.
Nàng lén liếc về phía sau, thử xem chàng có đi theo nữa không, và chợt thoáng buồn khi chẳng thấy!

Gần trưa, đoàn xe cống phẩm đến cánh rừng chân đồi Đại Thạch. Nơi đây, cây cối um tùm, mọc xen với những tảng đá lớn hình thù quái dị. Địa thế này có thể giấu mấy ngàn quân mai phục!
Lê Khả chột dạ quát vang :
- Dương khiên lên!
Hai trăm chiếc khiên mây lập tức che chắn người kỵ sĩ.
Sự cẩn trọng của họ Lê chẳng hề thừa vì chỉ lát sau, một trận mưa tên từ hai bìa rừng bay ra tới tấp.
Người an toàn nhưng có đến ba chục con tuấn mã thọ thương, rú lên thảm thiết.
Toán quân hộ tống cống phẩm lần này đều là những tay thiện chiến, được lựa chọn kỹ lưỡng nên không hề rối loạn. Họ bình tĩnh nhảy xuống, giương giáo chống đỡ những thanh đao sắc bén của mấy trăm tên cường đạo áo xanh mầu lá! Quân số phục binh đông gấp rưởi, mau chóng giành được thượng phong!
Bốn vị Sứ thần An Nam múa tít trường kiếm chiến đấu kiên cường, giết liền mấy gã Thanh Y. Lợi hại nhất là Trần Dũng, y có thực tài nên mới dám kiêu ngạo, tuy thua Nam Cung Giao nhưng chẳng xem lũ đạo tặc này ra gì cả!
Điều đáng kinh ngạc chính là bản lãnh của Cầm Đạm Thủy.
Mắt phượng tròn xoe, mồi mím chặt, nàng anh dũng tả xung hữu đột, đường kiếm vun vút rưới máu khắp nơi.
Kiếm pháp của nàng chủ ở chữ Khoái và chữ Ảo, hiểm ác tuyệt luân.
Lê Khả và Nguyễn Đào thì trầm ổn, vững vàng, động tác chuẩn xác, như để dành lại cho một cuộc chiến kéo dài.
Nhờ bản lãnh cao cường của bốn vị sứ giả mà thế trận được vãn hồi. Những tiếng kêu rên thảm thiết của đám cường đạo xấu số đã khích lệ tinh thần sĩ tốt An Nam.
Giáo dài hơn đao, khi lập trận phòng thủ thì rất kiến cố, lúc tấn đông thì tầm sát thương khá rộng. Chính vì ưu điểm này mà giáo trở thành vũ khí chính trong quân ngũ.
Nhưng đại cao thủ của phe cường đạo đã xuất hiện, uy hiếp tinh thần đối phương bằng những tràng cười ghê rợn. Từ bìa rừng mé Tây, ba người bịt mặt áo vàng hung hãn lướt ra, một cầm đoản côn, hai cầm trường kiếm.
Cả ba đều để lộ mái tóc hoa râm và đôi mắt sáng quắc của những kẻ có nội công thâm hậu.
Lão nhân cầm côn thép có thân hình cao lớn, lực lưỡng, cánh tay to như cột đình.
Lão xông thắng vào Trần Dũng, chỉ một đường côn đã đẩy lùi đối thủ.
Sức mạnh khủng khiếp của lão ta đã khiến họ Trần rách hổ khẩu, máu chảy đầm đìa, cơ hồ không cầm vững chuôi kiếm.
Trần Dũng khiếp vía, liên tiếp đảo lộn và thoái hậu, không dám va chạm với cây côn sắc nặng như núi kia.
Khi dũng khí đã không còn thì sức lực yếu đi, kiếm pháp rối loạn, lộ nhiều sơ hở. Trong chớp mắt Thiết côn đánh bật trường kiếm của họ Trần và thọc vào ngực gã.
Trần Dũng rú lên thê lương, hồn lìa khỏi xác!
Trước đó, một chàng trai áo đen đã phá vây, nhảy từ cỗ xe này đến cỗ xe khác, cố đến được trận địa của Trần Dũng, song quá muộn!
Hắc y nhân này chính là Nam Cung Giao.
Cầm Đạm Thủy nghe tiếng thét lìa đời của tình lang, kinh hãi lao vút đến, điên cuồng tấn công kẻ sát nhân.
Nam Cung Giao đã được Đinh Tử Phượng tiết lộ lai lịch của lão nhân cầm côn kia, biết lão là Quỷ Côn Đường Cổ Ngữ, Phó bang chủ Hồ bang!
Họ Đường chịu ơn cứu mạng của Hồ Ly song tiên nên khuất thân làm nô bộc, được lệnh theo phò Sài Tốn và Đinh Tử Phượng chính là Bang chủ phu nhân Hồ bang, ái thê của họ Sài.
Quỷ Côn tuổi đã bẩy mươi hai, tu vi thâm hậu, thần lực kinh người, nên chắc chắn Cầm Đạm Thủy sẽ phải bỏ mạng!
Quả không sai, trường kiếm của nàng nữ kiệt phương Nam vừa chạm vào lưỡi côn, lập tức văng khỏi tay nàng. Đồng thời, Đạm Thủy kinh hoàng nhận ra thần chết đang ập đến qua bẩy đốm mũi côn chập chờn trước mặt!
Đúng lúc ngàn cân treo sợi tóc ấy, một bàn tay của ai đó đã kịp xô nàng sang một bên, và trường kiếm của người ấy chặn đứng thế côn bão táp.
Quỷ Côn và Đạm Thủy đều nhận ra kẻ mới đến là Nam Cung Giao, người thì hoan hỉ, người thì kinh ngạc.
Đường lão phần nộ vì bị phá đám, lại nghĩ đến mối hận hôm nào, liền vung côn tới tấp, quyết giết cho được tên tiểu tử đáng ghét kia!
Tuy Thanh Lạc Điểu kiếm cực kỳ cứng rắn nhưng cũng khó mà chịu nổi những cú đập như trời giáng của côn sắt!
Nam Cung Giao nghe cổ tay tê dại, chẳng dám sinh cường, thay đổi đấu pháp. Mũi kiếm của chàng thọt nhanh như chớp, uy hiếp cổ tay cầm côn của đối phương. Nếu có va chạm thì lực đạo ở đoạn côn gần bàn tay Đường lão cũng không mạnh mẽ bằng phần mũi.
Thuật khoái kiếm siêu việt của chàng đã khiến Quỷ Côn lúng túng như gà mắc tóc. Lão giận dữ vũ lộng Thiết Côn liên tiếp tung ra những đòn mãnh liệt, côn ảnh bay loang loáng dưới ánh tà dương, chấp nhận đổi mạng.
Song Nam Cung Giao có thân pháp nhanh nhẹn như chim cắt, tiến thoái hợp ý, tránh né xong là phản kích ngay, chẳng chịu nhường đối phương một bước nào cả.
Chàng không làm gì được Quỷ Côn, song lão cũng vậy.
Cuộc chiến dằng dai nầy đã khiến lão điên tiết gầm vang.
Hai thủ hạ của Nam Cung Giao là anh em họ Trịnh đã sớm hợp lực với Lê Khả và Nguyễn Đào chống cự hai lão già áo vàng sử dụng kiếm.
Loại kiếm hơi ngắn này đã tố cáo lai lịch của anh em họ Mạc đất Hàm Đan.
Nhị lão Mạc Đắc Khoa đã chết dưới tay Nam Cung Giao, giờ chỉ còn lại Đại lão Mạc Vi Sầu và Tam lão Mạc Quan Tung.
Kiếm thuật của họ hơn hẳn hai cao thủ Giao Châu, nhưng vì có Trịnh Tháo và Trịnh Mãng nên thế trận lại nghiêng về phía số đông.
Tuyệt Mệnh đao pháp của giòng họ Trình đất Yên cực kỳ bá đạo, chiêu xuất như lôi, mạnh bạo phi thường, lối đánh cương mãnh, dồn dập của Trịnh Tháo và Trịnh Mãng đã khiến hai tay kiếm đất Triệu phải đem hết sở học ra chống đỡ. Nếu không nhờ tu vi thâm hậu, kiếm pháp cao siêu, anh em họ Mạc khó mà cầm cự nổi đến giờ này.
Cầm Đạm Thủy đã nhặt kiếm lên, phòng thủ phía sau lưng Nam Cung Giao, không để bọn Thanh y đánh lén chàng. Nhờ vậy Nam Cung Giao có thể toàn tâm đối phó với Quỷ Côn, bằng yếu quyết Phiên Dực Tung Phi kỳ lạ!
Thỉnh thoảng Nam Cung Giao lại bị đẩy lùi, lưng chạm lưng với Đạm Thủy, dù chỉ là những giây phút tiếp xúc ngắn ngủi nhưng cũng đã khiến nàng thiếu nữ Giao Châu xao xuyến.
Đạm Thủy hổ thẹn, tự trách mình đã sớm quên đi cái chết của hôn phu là Trần Dũng. Song nàng cũng hiểu rằng từ trước đến giờ mình không hề yêu họ Trần. Chẳng qua, Trần Dũng dựa thế nghĩa phụ là Đại Tư Đồ Lê Sát, nhờ Hoàng thái hậu se duyên cho nàng và gã. Do còn đang chịu tang cha nên hôn ước vẫn chỉ là lời hứa cửa miệng chứ chưa qua nghi lễ.
Hôm qua, Đạm Thủy đã thấy rõ bản chất tiểu nhân của Trần Dũng, và bị nhân phẩm xuất chúng của Nam Cung Giao thu hút! Tuy chỉ sơ ngộ nhưng lòng nàng đã rung động mãnh liệt bởi một tình yêu đích thực!
Đạm Thủy là gái Mường, một bộ tộc lớn ở châu Hoan, tính tình chất phác, thẳng thắn và nồng nhiệt, yêu ghét rạch ròi! Tâm hồn nàng trong sáng, thuần khiết nên hạt giống ái tình đâm chồi nẩy lộc rất nhanh!
Cuộc chiến ngày càng khốc liệt, tiếng rên xiết vang dậy và ưu thế đang thuộc về đội quân áo xanh đông đảo.
Sĩ tốt An Nam thọ thương khá nhiều, được đồng ngũ kéo vào nằm đầy dưới gầm xe cống phẩm.
Đạm Thủy đau lòng thúc giục Nam Cung Giao :
- Công tử mau kết liễu đối thủ, nếu kéo dài chúng ta sẽ nguy mất!
Với nàng, bản lãnh của Nam Cung Giao là vô địch, nên Đạm Thủy đặt trọn niềm tin, không hề ngờ rằng chàng đã phải toát mồ hôi mới cầm chần được Quỷ Côn.
Nam Cung Giao cũng thức ngộ được tình thế bất lợi của phe nhà, nghiến răng xuất một kỳ chiêu, cố đả thương Đường Cổ Ngữ.
Song công lực lão hơn chàng đến mấy bậc, lập tức chặn đứng ngay đợt tập kích.
Nam Cung Giao bị đẩy lùi, chạm phải Đạm Thủy. Phúc chí tâm linh, chàng chợt nghĩ ra diệu kế, liền nói nhỏ :
- Trâm!
Rồi chàng lại dấn lên phản kích, trong thời gian ấy, Đạm Thủy đã kịp hiểu ý, thò tay rút cây trâm bạc trên mái tóc mình.
Khi Nam Cung Giao bị đẩy lùi lần nữa, tay tả đưa về phía sau, thì Đạm Thủy lên nhét trâm vào tay chàng.
Nam Cung Giao phấn khỏi xuất chiêu Thiên Mao Xạ Thủy, mũi kiếm hoá thành ngàn giọt nước long lanh, chụp lấy đối phương!
Đường Cổ Ngữ chẳng chút sợ hãi, múa tít thiết côn, công phá thẳng vào màn mưa trước mặt.
Tiếng sắt thép chan chát ghê người, lưỡi kiếm của Nam Cung Giao bị côn sắt đánh bạt ra.
Đường lão mừng rỡ phóng côn vào ngực đối thủ, nào ngờ lão chợt lảo đảo vì đau gối đau nhói, mũi trâm bạc của Đạm Thủy đã cắm sâu vào huyệt Độc Tỵ chân phải, thuộc Kinh Túc Dương Minh Vị.
Huyệt này rất quan trọng, chỉ cần gõ nhẹ vào cũng đã khiến chân bủn rủn, cho nên giờ đây Quỷ Côn như liệt cả một bên.
pass to joine phim : Kim_Bang_2
longnu
Múi Mít
Múi Mít
 
Tiền: $122,632
Posts: 1046
Joined: 14 Mar 2005
Location: đến từ nơi xa lắm
 
 

Postby longnu » 08 Apr 2005

[color=red][b]8...
Tiếu Ngạo Trung Hoa Nguyên tác : Ưu Đàm Hoa




Hồi 08 Giao Long, Hắc Vũ nan phân thực
Đại Lý, An Nam soán Đại Minh
Sau nửa tháng vượt suối trèo non, đoàn sứ thần An Nam đưa được cống phẩm đến Bắc Kinh.
Nam Cung Giao và anh em họ Trịnh đã đồng hành cùng họ để đề phòng bất trắc.
Trong thời gian này, Đạm Thủy luôn quấn quít bên chàng.
Chuyện trò thân mật, nàng đã nguyện dạy Nam Cung Giao nói tiếng An Nam và vô cùng thán phục khi thấy học trò của mình tiếp thu rất nhanh.
Ngược lại, Đạm Thủy bắt chàng phải dạy tiếng Bắc Kinh cho mình.
May thay, tuy không được đến trường học hành tử tế, song nhờ có người mẹ văn võ toàn tài nên Nam Cung Giao chẳng phải là kẻ dốt nát.
Trinh Tâm thông minh mẫn tiệp, được Đặng Tất hết lòng yêu mến, đi đâu cũng cho theo trong việc giao thiệp với quan lại nhà Minh, suốt thời gian ông trá hàng, đều qua sự phiên dịch của ái nữ. Chính vì thế mà Trinh Tâm không như những thiếu nữ Giao Châu khác!
Là con quan, nàng được học hành chu đáo, văn hay chữ tốt, thông thạo cả tiếng Quảng Đông lẫn Bắc Kinh!
Trung Hoa đất rộng người đông, mỗi địa phương đều có ngôn ngữ riêng, vậy thì trong triều đình bá quan nói năng với nhau thế nào?
Bá quan là tập hợp những nhân tài trong cả nước, xuất thân khác nhau, nếu không có một ngôn ngữ chung thì nguy to, chẳng ai hiểu ai nói gì!
Thời Chiến Quốc, người nước Yên không hiểu tiếng Sở, người nước Triệu không biết tiếng nước Việt (Lưỡng Quảng), chữ viết cũng có chỗ khác nhau.
Sau khi thống nhất Trung Hoa, Tần Thủy Hoàng sai Tể tướng Lý Tư thống nhất ngôn ngữ và văn tự.
Về chữ viết, họ Lý đặt ra lối chữ Tiểu Triện giản dị và thông dụng.
Nhưng về ngôn ngữ thì không sử gia nào ghi chép lại rằng nhà Tần chọn loại tiếng nói của vùng nào để làm ngôn ngữ chung cho cả nước, ít nhất là để sử dụng trong việc học hành hay cai trị!
Ngay cả những triều đại sau này như Hán, Tùy, Đường cũng vậy.
Hậu thế không biết ngày xưa Lý Bạch đã ngâm thơ ca tụng nhan sắc Dương Quý phi bằng tiếng Quảng hay tiếng Tiều!
Người đời sau chỉ có thể phỏng đoán, dựa theo vị trí của kinh đô mỗi triều đại, rằng vua quan các nhà ấy dùng tiếng Trường An (Thiểm Tây).
Nhưng tiếng Bắc Kinh thì có căn cứ rõ ràng hơn, vì Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn quê ở vùng phía Nam Bắc Kinh. Vua nói tiếng gì thì chắc các quan cũng phải học thứ tiếng ấy để khỏi bị rơi đầu!
Sau này, người Mông Cổ chiếm được Trung Hoa cũng đặt kinh sư ở Bắc Kinh, đặt tên là Đại Đô. Tất nhiên họ phải sử dụng ngôn ngữ của địa phương sở tại!
Rồi đến khi Minh Thành Tổ dời đô từ Kim Lăng ra Bắc Kinh, học trò cả nước bắt buộc phải biết tiếng Bắc Kinh thì mới mong thi cử, làm quan.
Ngay đám hào kiệt giang hồ, nếu muốn tung hoành tứ hải, dọc ngang thiên hạ thì cũng phải học nói thứ tiếng phổ thông này, để đỡ phải mỏi tay!
Nam Cung Giao nuôi chí tang bồng hồ thỉ nên không thể không biết! Và thầy của chàng chính là mẫu thân!
Trinh Tâm giao thiệp với quan lại nhà Minh nên vốn liếng tiếng Bắc Kinh của bà văn hoa, quan cách chứ chẳng phải dân dã, quê mùa!
Cũng như Trinh Tâm, Cầm Đạm Thủy không nhuộm răng, vì bộ tộc của nàng không có tập quán này! Trong khi Lê Khả và Nguyễn Đào đều có nụ cười đen bóng!
Tình cảm giữa nàng và Nam Cung Giao ngày càng sâu đậm, nhưng kẻ Nam người Bắc xem ra khó mà thành tựu!
Họ chia tay nhau trong cảm giác bùi ngùi, lưu luyến.
Nam Cung Giao dặn dò :
- Tam vị cứ về dịch xá nghỉ ngơi, chờ triệu kiến! Có gì khó khăn cứ đến Trịnh gia trang ở cạnh Thần Nông Đàn tìm tại hạ!
Trịnh gia trang chính là nhà cũ của anh em họ Trịnh.
Đạm Thủy vui vẻ đáp :
- Tiểu muội còn ở đây cả tháng để làm đẹp cho Hoàng Thái hậu, dù không có việc cần, tiểu muội cũng sẽ đến thăm công tử!
Song phương cáo từ, mỗi phe mỗi ngả. Dịch xá ở trong Hoàng Thành, còn Trịnh gia trang nằm tại ngoại thành!
Trịnh mẫu thấy mặt hai đứa con bất hiếu, lêu lổng, mừng đến ứa nước mắt, song vẫn mắng chưởi :
- Hai ngươi phá tan cơ nghiệp rồi bỏ lão thân mà đi biền biệt, chắc không kiếm đủ ăn nên lại mò về chứ gì? Thật tủi hổ cho tông môn họ Trịnh!
Trịnh Tháo xấu hổ với Nam Cung Giao, lén nháy mắt ra hiệu rồi cười giả lả :
- Mẫu thân đã trách oan bọn hài nhi rồi. Mấy năm qua, anh em hài nhi làm công sai cho phủ Thượng thư ở Nam Kinh. Do việc quan đa đoan nên không thể về vấn an từ mẫu. Nay hiền tế của Mã thượng thư đi công cán Bắc Kinh, bọn hài nhi cũng được cử theo, sẵn dịp thăm nhà.
Làm mẹ, ai cũng mong con cái công thành danh toại, Trịnh mẫu nghe nói hai con phục vụ cho phủ Thượng thư, liền hoan hỉ, vái chào Nam Cung Giao, mời chàng ngồi!
Nam Cung Giao nhìn quanh, thấy nhà cửa xềnh xoàng, biết Trịnh gia trang đang rất thiếu khốn. Mái tóc bạc phơ và thân hình ốm yếu của Trịnh mẫu đã khiến chàng cảm thương.
Rõ ràng là hai gã bất hiếu tử kia đã không hề chu cấp cho từ mẫu. Phải chăng vì cái danh hiệp đạo mà các môn nhân Thế Thiên hội đều nghèo mạt rệp?
Chàng muốn bà lão kia được an nhàn, sung túc trong quãng đời còn lại nên cung kính nói :
- Bẩm lão thái! Nhị vị đây dầy công hạng mã với Bộ Hình suốt mấy năm quạ Do vậy, gia nhạc phụ là Mã thượng thư đã quyết định ban thưởng năm trăm lượng vàng, nhờ tiểu điệt trao tận tay lão thái gọi là tuyên dương công lao của Trịnh Gia, đã sản sinh, giáo huấn nên hai bầy tôi mẫn cán cho triều đình!
Trịnh mẫu sững sờ kinh ngạc, không hiểu mình mơ hay tỉnh. Hai thằng con trời đánh thánh vật kia mà lại có thể làm rạng rỡ tông môn được sao?
Cả Trịnh Tháo và Trịnh Mãng cũng bất ngờ, lòng tràn ngập cảm giác biết ơn, chàng đã khéo léo làm vui lòng người mẹ già tội nghiệp của họ!
Trịnh mẫu run rẫy nhận lấy tờ ngân phiếu, luôn miệng cảm tạ ơn đức của Mã thượng thư!
Số vàng này đủ để bà sửa chữa trang viện và sống an nhàn đến cuối đời, với niềm tự hào về hai đứa con anh hùng!
Nếu bà biết sự thực về nghề nghiệp ăn cướp của Trịnh Tháo và Trịnh Mãng thì sẽ đứt gân máu chết ngay.

Sau bốn ngày dạo chơi, thăm thú thắng cảnh Bắc Kinh, nhân tiện tìm Mộc Kính Thanh và điều nghiên địa thế phủ Bình Phiên Công.
Nam Cung Giao quyết định ra tay!
Trương Phụ được phong tước Công, nên dù đã trí sĩ, vẫn được ở trong tòa phủ đệ vua ban. Mười năm nay, họ Trương không tham chính nhưng vẫn được tôn trọng như người lão tướng tài ba nhất của hai đời vua Thành Tổ và Tuyên Tôn.
Nghe đồn rằng, từ ngày cáo lão qui điền, ở tuổi sáu mươi lăm, Trương Phụ dốc chí tu hành, ngày ngày kinh kệ, giữ giới cư sĩ. Có lẽ lão sám hối cho những tội lỗi đã gây ra trong hai lần chinh phạt An Nam!
Kẻ tu hành thì nếp sống giản dị, gia nhân không nhiều.
Nam Cung Giao và anh em họ Trịnh dễ dàng xâm nhập vào đến tận khu hậu viện, dù trời mới giữa canh hai.
Nam Cung Giao nấp ngoài cửa sổ nhìn lão già râu tóc bạc phơ, mặc tăng phục xanh xám kia, mà lòng phân vân vô hạn.
Giờ đây, gương mặt quắc thước của Trương Phụ toát ra vẻ từ bi hiền hòa. Lão đang ngồi xếp bằng trước tượng Phật Như Lai, mắt nhắm hờ, miệng tụng niệm kinh A Di Đà, tay gõ chuông mõ!
Hết khóa lễ, Trương Phụ đứng lên khấn vái :
- Đệ tử kiếp này gây nhiều sát nghiệp, về già lòng vô cùng hối hận, xin thành tâm trai giới tu hành, cầu siêu giải oan cho hàng vạn nạn nhân năm xưa!
Lão thở dài, rời Phật Đường, đi vào thư phòng ở gần đấy.
Lúc này mà Nam Cung Giao xuất thủ thì Trương Phụ chẳng thể thoát chết, nhưng chàng vẫn do dự bất quyết!
Trịnh Mãng thì thầm :
- Nếu không tha được thì phải giết ngay! E rằng sau này chẳng có cơ hội tốt nữa?
Nam Cung Giao gật đầu, cùng anh em họ Trịnh lao về phía thư phòng.
Viên Tổng quản già của phủ cầm đèn lồng đến tìm chủ nhân :
- Bẩm đại nhân! Có quan Thái Bảo Liễu Di Phu đến cầu kiến, đang chờ ở khách sảnh.
Liễu Di Phu là bào đệ của Minh Lỗ Phó tướng quân An Viễn Hầu Liễu Thăng, người bị quân của Lê Sát chém chết ở núi đảo Mã Pha (phía Nam ải Chi Lăng) vào ngày hai mươi tháng chín năm Đinh Mùi, nhằm năm Tuyên Đức thứ hai, đời vua Minh Tuyên Tông!
Liễu Di Phu được Tập Tước Hầu của anh trai, đường hoạn lộ rất hạnh thông, hiện là đương kim Thái Bảo Triều Minh. Uy quyền của Di Phu chỉ dưới có mình lão Thái sư Triển Tài.
Trương Phụ chào khách rồi điềm đạm hỏi :
- Chẳng hay Liễu Hầu gia giá lâm tệ phủ vì việc gì?
Liễu Di Phu nghiêm giọng :
- Nay vua An Nam là Lê Thái Tông còn nhỏ tuổi, quyền hành tập trung cả vào tay gã ngu phu Lê Sát.
Đây chính là cơ hội tốt nhất để chúng ta khởi binh chinh phạt An Nam! Tiểu đệ được sự ủng hộ của các đại thần, định sẽ khải tấu lên Thánh thượng, xin người hạ chỉ xuất chinh! Trương túc hạ là người hai lần đại thắng An Nam, xin chỉ giáo cho tiểu đệ vài yếu quyết về chiến lược!
Trương Phụ rót trà mời khách, trầm ngâm một lúc rồi đáp :
- Lão phu biết Hầu gia chưa quên được mối thù giết anh, quyết lấy đầu Lê Sát! Tuy nhiên, theo thiển ý của lão phu thì việc chinh phục An Nam là hoàn toàn không nên làm!
Thứ nhất là vì xứ An Nam nhỏ bé chưa bao giờ là hiểm họa của Trung Hoa. Họ chỉ mong được yên thân, cầu hòa chứ chẳng dám nghĩ đến việc xâm phạm cương thổ Minh Triều!
Họ Trương nhấp hớp trà rồi nói tiếp :
- Thứ hai, đất An Nam hiểm trở, thủy thổ không thích hợp với quân ta, có đánh được cũng phải chịu thương vong rất lớn!
Thứ ba, giống dân Giao Chỉ kia tuy nhút nhát, cầu an, song khi ra trận mạc thì rất can đảm và có kỷ luật, chẳng hề chịu khuất phục. Tóm lại, dẫu có chiếm được đất cũng chẳng thể giữ được lâu!
Trong khi rợ Mông cổ đang dòm ngó biên cương phía Bắc thì việc đánh An Nam là bất trí vậy!
Liễu Di Phu sa sầm nét mặt :
- Không ngờ Trương túc hạ lại là kẻ khiếp nhược như thế! Phu này chẳng cần kinh nghiệm của túc hạ cũng có thể chiếm được An Nam một cách dễ dàng!
Lão phất tay áo giận dữ bỏ về, chẳng thèm chào hỏi chủ nhà.
Trương Phụ nhìn theo, buột miệng than :
- Nếu Thánh thượng nghe lời lão côn đồ kia thì máu xương lại chất chồng lên đất An Nam. Sáng mai, ta phải vào triều cảnh tỉnh Thiên tử mới được.
Nam Cung Giao ở ngoài nghe thấy hết, quyết định tha thứ cho Trương Phụ! Người chàng phải giết sẽ là những vị đại phần đang chủ trương xâm chiếm An Nam!
Ba người trở về Trịnh gia trang.
Trịnh Mẫu hớn hở nói :
- Lão thân biết công tử đi chơi khuya về tất sẽ đói bụng, nên đã nấu sẵn nồi cháo gà.
Trịnh Mãng cười hì hì :
- Mẫu thân quả là tinh ý và chu đáo. Hài nhi cũng đang thèm rượu!
Bà lão trợn mắt :
- Ngươi cứ mở miệng ra là rượu chè! Nay đã là người của quan nha, phải biết giữ tư cách chứ!
Anh em họ Trịnh nhìn nhau vui vẻ.
Trịnh Tháo tủm tỉm đỡ lời em :
- Mẫu thân yên tâm! Chỉ khi về nhà bọn hài nhi mới uống thôi, còn lúc thi hành công vụ, dẫu một giọt cũng chẳng dám! Tóm lại, anh em hài nhi học theo công tử đây, mỗi ngày tối đa là ba chén.
Trịnh Mẫu hài lòng :
- Thế thì tốt!
Bà quay xuống bếp, lát sau cùng một phụ nhân tuổi ngũ thập dọn cháo lên.
Người đàn bà này là cháu họ của Trịnh mẫu, do góa bụa côi cút nên đến ở với Biểu Di.
Thấy Nam Cung Giao trầm tư nâng chén uống mãi, Trịnh Tháo nghiêm giọng :
- Công tử! Anh em thuộc hạ biết phận hèn mọn chẳng dám hỏi đến tâm sự của bậc quí nhân, song, nếu phải vào cung hành thích Hoàng Đế thì cũng chẳng từ nan! Xin công tử cứ dạy bảo!
Trịnh Mãng tiếp lời :
- Chim khôn lựa cành mà đậu. Anh em thuộc hạ đã nguyện suốt đời theo phò công tử dẫu chết cũng chẳng màng!
Nam Cung Giao nhìn hai gương mặt rắn rỏi, chân thành của họ, gật gù đáp :
- Nhị vị đã có lòng như vậy thì ta cũng chẳng dấu! Gia mẫu là người Giao Chỉ!

Trước khi rời Bắc Kinh, đến Trường An gia nhập Thế Thiên hội, Trịnh Tháo và Trịnh Mãng chỉ là đại ca của bọn côn quang Đế đô. Giờ đây, hai gã tìm đến bọn thủ hạ cũ, điều động chúng thực hiện một kế hoạch tinh vi!
Lão Đại Bắc Kinh hiện nay vốn là đệ tử ruột của Trịnh Tháo, tên gọi Lương Nhẫn biệt hiệu Thiên Gia Thử, đao pháp cũng khéo và xảo quyệt như chồn!
Nay sư phụ trở về, thưởng ngay cho trăm lượng vàng, khiến họ Lương khoan khoái, hết lòng phục vụ!
Chỉ đến chiều ngày rằm, Thiên Gia Thử đã tìm ra tung tích của Mộc Kính Thanh.
Bẩy ngày trước, họ Mộc đã từ Kế Thành đại lữ điếm đến Cầu Lô Câu, đứng tựa thành cầu ngắm nước chảy rất lâu. Sau đó, không thấy đâu cả, hành lý vẫn còn trong quán trọ.
Lô Câu kiều năm ở phía Tây Nam Bắc Kinh, được xây dựng năm Kỷ Dậu (1189), nhằm năm Trùng Hưng thứ mười sáu đời Nam Tống.
Lúc này, miền Bắc Trung Hoa đã thuộc về rợ Kim, và tương ứng với năm Đại Định thứ hai mươi chín, đời vua Kim Thế Tông Hoàn Diên Ung!
Vậy, cầu Lô Câu, tên ban đầu là Quảng Lợi, do rợ Kim xây dựng, nhưng tất nhiên cả thầy thợ đều là người Hán.
Rợ Kim là một bộ lạc đông đúc ở miền thượng du Hắc Long Giang, tên gọi Nữ Chân (vùng bộ tộc với Mãn Châu).
Người Kim lạc hậu dốt nát, tính tình hung hãn, chỉ được cái đánh nhau là giỏi! Thế nên, họ chẳng thể nào đủ đầu óc và khéo léo để xây một chiếc cầu nguy nga, hùng vĩ như Lô Câu Kiều được.
Cầu Lô Câu là cây cầu đá dài nhất, cổ nhất ở Hoa Bắc. Cầu được ghép bằng đá, dài hơn tám chục trượng, rộng gần ba trượng, trên thân khắc nổi bốn trăm tám mươi lăm con sư tử đá! Trên cầu còn có bốn hoa Biển và bốn bia đá rất lớn.
Cây cầu kỳ vĩ này nằm trong một phong cảnh tuyệt đẹp, nên đã trở thành đề tài ngâm vịnh cho các tao nhân mặc khách.
Nam Cung Giao không đến đây để làm thơ! Chàng đứng trên cầu đăm chiêu suy nghĩ, cố đoán xem từ đây Mộc Kính Thanh đã đi đâu mà lại không trở về quán trọ? Và vì sao gã lại không đến giết Trương Phụ như đã định?
Chàng dõi mắt nhìn quanh, chợt phát hiện trong cánh rừng xa xa kia thấp thoáng có mái ngói của một tòa nhà cao nào đấy, liền hỏi Thiên Gia Thử :
- Này Lương túc hạ? Chẳng hay những cơ ngơi trong khu rừng kia thuộc về ai vậy?
Lương Nhẫn cung kính đáp :
- Bẩm công tử! Chủ nhân nơi ấy là một lão già tuổi quá bẩy mươi, họ Lâm. Ba năm trước, lão từ Giang Nam về đây mua nguyên cánh rừng ba chục mẫu ấy và xây dựng nhà cửa! Tiểu nhân có thử mò vào thăm, nhưng không sao qua nổi trận pháp trong vườn. Tiểu nhân đoán lão ta là một bậc kỳ nhân võ nghệ cao cường chứ chẳng chơi!
Gã là học trò của Trịnh Tháo nên không dám xưng là thuộc hạ.
Nam Cung Giao hiếu kỳ hỏi :
- Sao túc hạ lại kết luận như thế?
Lương Nhẫn đắc ý đáp :
- Tiểu nhân đâu dám nói càn. Số là, có một hôm, tiểu nhân đang ngồi nhậu trong một tửu quán ở phố Thiên Kiều thì thấy lão họ Lâm kia đi dạo.
Lúc ấy, trên vỉa hè có ba gã da đen nhẻm, tướng mạo hung ác, chắc là hải tặc biển Đông. Họ vừa chạm mặt Lâm lão là quì ngay xuống, lạy như tế sao.
Tiểu nhân loáng thoáng nghe ba gã gọi Lâm lão đầu là Đảo chủ! Họ Lâm chỉ gật gù, xua tay, thế là ba hán tử kia rảo bước chuồn thẳng.
Nam Cung Giao bâng khuâng suy nghĩ, miệng lẩm bẩm :
- Chữ Mộc chẳng phải là một nửa của chữ Lâm hay sao?
Chàng chợt linh cảm rằng Mộc Kính Thanh có liên quan đến Lâm gia trang. Dù không dám chắc lắm nhưng chàng vẫn phải bám víu lấy manh mối duy nhất này.
Chàng hỏi lại :
- Có cách nào để vào Lâm gia trang một cách đường chính hay không?
Lương Nhẫn gãi đầu tính toán, rồi mỉm cười :
-Bẩm có, Lâm trang chủ rất khoái nuôi chim cảnh! Chúng ta chỉ cần tìm cho ra một con chim thật đẹp, thật khôn, mang đến bán cho lão là cửa trang rộng mở ngay!
Trịnh Mãng gật gù :
- Thế thì đêm nay chúng ta sẽ bắt trộm con Bạch Anh Vũ của lão Lưu Tài Thần ở phố Tô Châu nhuộm lông đem đến đấy gạ bán!
Trịnh Tháo cười nhạt :
- Ngươi đúng là ngu như heo. Con chim ấy nói tiếng người rất sõi, coi chừng chính nó sẽ khai ra lai lịch đấy!
Lương Nhẫn lắc đầu :
- Sư phụ yên tâm! Con chim quỷ ấy đã nghẽo hồi năm ngoái, còn con hiện nay chưa biết nói! Cứ nhuộm đen là xong!
Nam Cung Giao phì cười :
- Nói bậy! Trên đời này làm gì có chim vẹt màu đen?
Lương Nhẫn ngoan cố cãi lại :
- Chúng ta cứ nói phức là loài Hắc Anh Vũ hiếm có này được đưa từ Miến Điện hay Xiêm La sang, thì bố lão ta cũng không bắt bẻ được! Bạch Anh Vũ thì đâu chẳng có, phải là của lạ lão ta mới chịu tiếp.
Nam Cung Giao chỉ cần gặp mặt lão họ Lâm là đủ, nên để mặc Lương Nhẫn làm theo ý của gã!
Sáng mười bẩy, Nam Cung Giao cùng Lương Nhẫn có mặt trước cửa Lâm gia trang, gõ vào cánh cửa dày kiên cố và đồ sộ, được sơn đen bóng.
Trong tay Nam Cung Giao là một chiếc lồng chim nan đồi mồi khảm bạc giá mười lượng vàng. Đây là chiếc lồng đắt nhất Bắc Kinh! Còn con chim Vẹt đen thui ấy lại là thứ hiếm có nhất trên đời!
Trịnh Tháo đã dùng loại thuốc hóa trang đặc biệt của Thế Thiên hội để nhuộm lông con vật, chỉ chừa lại chiếc mỏ, đôi chân và mào!
Lát sau, cánh cửa hé mở, và một nữ lang áo xanh kiều diễm xuất hiện.
Nàng chớp mắt tủm tỉm hỏi :
- Chư vị là ai, đến đây vì việc gì?
Nam Cung Giao cười đáp :
- Bọn tại hạ từ phương Nam lên Bắc Kinh du ngoạn, chẳng may cạn túi thiếu lệ phí về quê. Nghe Lương huynh đây bảo rằng quí Trang chủ có thú chơi chim nên tại hạ đánh liều đem con Hắc Anh Vũ này đến bán.
Nữ lang che miệng cười khúc khích, ánh mắt đầy vẻ tinh ranh :
- Ối chà! Công tử quả khéo đùa, trên đời này làm gì có chim vẹt màu đen?
Nam Cung Giao thản nhiên đáp :
- Trời đất bao la, chuyện lạ chẳng thiếu! Trước khi bọn Tây Dương đến Trung Hoa buôn bán, chẳng ai tin rằng trên đời này lại có những cặp mắt xanh biếc như mắt mèo!
Nữ lang phì cười :
- Công tử quả là khéo biện luận, nhưng gia phụ không hiền như tiểu muội đâu!
Nam Cung Giao giật mình vòng tay :
- Thất lễ! Thất lễ! Té ra là Lâm tiểu thư! Tại hạ là Nam Cung Giao hân hạnh bái kiến!
Nữ lang nghiêng mình đáp lễ :
- Tiểu muội là Lâm Bảo Thoa! Còn vị anh hùng đây danh tính thế nào?
Nam Cung Giao liền giới thiệu Lương Nhẫn với nàng!
Bảo Thoa mở rộng cửa, mời khách nhập trang.
Lương Nhẫn cáo thoái để một mình Nam Cung Giao vào thôi. Gã ở lại cũng chỉ vướng chân chàng khi cần đào tẩu!
Vào đến khách sảnh, nàng để khách ngồi ở bàn bát tiên mà chạy vào gọi cha!
Nam Cung Giao tranh thủ quan sát khách sảnh, cố tình ra chút dữ kiện để bám víu. Chàng chỉ vào đây tìm Mộc Kính Thanh một cách vô căn cứ nên lòng rất băn khoăn, hồi hộp.
Trên tường Đông có treo một bức họa chân dung, vẽ một lão nhân đang đứng trên lưng Giao long, tay cầm trường tiên, phong thái cực kỳ oai vũ.
Nam Cung Giao hoan hỉ thở phào, thầm đoán Kính Thanh là con trai hay học trò của Lâm trang chủ, vì gã cũng sử dụng roi mềm.
Đã có được chứng cớ quan trọng, chàng bình thản trở về bàn ngồi.
Lâm trang chủ đã ra đến, dung mạo giống hệt như lão nhân trong tranh.
Lão không cao lớn, ngũ quan đoan chính, mắt sáng như sao, thần thái uy nghiêm khiếp người.
Khách đứng lên thi lễ với chủ nhân.
Lâm lão nhìn Nam Cung Giao chăm chú, nhãn quang sắc như dao.
Chàng nổi da gà, tự nhủ :
- Lão già này xem ra rất khó chơi, ta phải cẩn thận mới được!
Và chàng lên tiếng :
- Bẩm Trang chủ! Vãn bối là Nam Cung Giao, người miền Nam, vì thiếu lệ phí về quê nên đem chim quí đến đây nhờ pháp nhãn của Trang chủ thưởng lãm!
Lâm trang chủ nhìn con chim Anh Vũ đen tuyền, trong chiếc lồng đặt trên bàn, lạnh lùng nói :
- Lão phu đâu phải trẻ con để người hí lộng? Nếu không giải thích rõ ràng thì đừng hòng sống mà rời khỏi chốn này!
- Bẩm Trang chủ! Vãn bối mua còn Hắc Anh Vũ này của một lão Đạo Sĩ đất An Dương. Lúc đầu vãn bối cũng nghi ngờ, nhưng lão ta đã nói: Này tiểu thí chủ! Đạo trời đất biến hóa vi diệu khôn lường, hà tất phải để tâm đến việc có hay không có? Hàng ngàn năm nay, chẳng ai tận mắt thấy rồng, thế mà tranh, tượng của rồng đầy dẫy Trung Hoa! Chắc gì rồng là có thực, và chắc gì con vẹt lông đen này không có thực. Vãn bối nghe hữu lý nên đã mua chim của lão.
Lâm trang chủ cười nhạt :
- Đừng ngụy biện! Cả rồng lẫn chim Anh Vũ đen đều không có thực!
Nam Cung Giao cười hề hề :
- Trang chủ đã từng cỡi rồng vượt biển, sao lại bảo rằng rồng không có thực!
Lâm trang chủ giật mình ngơ ngác, và nhớ ra bức họa trên tường.
Lão cứng họng chịu thua, gật gù khen :
- Tiểu tử ngươi quả là khéo biện luận, gài được cả lão phụ Ta có nghe đồ đệ Mộc Kính Thanh kể về tài trí của ngươi, lòng không mấy tin tưởng, nay gặp mặt mới biết chẳng sai!
Nam Cung Giao vui mừng khôn xiết quì xuống thi đại lễ :
- Vãn bối nóng lòng vì sự thất tung bí ẩn của Mộc nghĩa đệ nên mạo muội làm càn, mong Lâm sư phụ lượng thứ.
Lâm trang chủ gật gù :
- Té ra ngươi đã nhuộm lông con chim này!
Nam Cung Giao chợt nhận ra tia mắt cổ quái của lão, sinh lòng cảnh giác, đứng lên đáp khéo :
- Vãn bối xin thề là lúc nhìn thấy lần đầu tiên thì lông nó đã là màu đen.
Chàng rất thành thực vì đúng là anh em họ Trịnh đã nhuộm lông con vẹt ở nhà Lương Nhẫn, chàng chẳng hề thấy!
Nam Cùng Giao không để ý rằng ánh mắt của Bảo Thoa đầy vẻ hài lòng.
Lâm trang chủ cười nhạt :
- Ngươi đề phòng cả lão phu, chứng tỏ bản tính đa nghi, cơ cảnh, vậy vì sao lại đem cả bí mật trọng đại ra thố lộ với Kính Thanh?
Nam Cung Giao gượng cười :
- Vãn bối yêu mến Mộc hiền đệ như bản thân mình, giấu giếm làm gì! Xin Lâm sư phụ cho vãn bối được gặp y!
Lâm trang chủ ngửa cổ cười dài, làm rung rinh mái ngói đại sảnh.
Giọng cười của ông đầy vẻ phẫn nộ và thê thiết :
- Kính Thanh gây đại họa, làm lão phu mất mặt, chẳng dám lưu lại biển Đông, phải về đây ẩn cư! Năm ngoái, y lại trốn đi, sống lang thang như kẻ lạc phách. Khiến lão phu càng tủi hổ! Nay lão phu đã giam cầm y trong trang không cho ra ngoài nữa. Ngươi hãy về đi!
Nam Cung Giao chết điếng người, suy nghĩ một lúc rồi nghiêm giọng :
- Vãn bối chỉ xin được gặp một lần, biết y còn sống là sẽ rời đây ngay!
Lâm trang chủ quắc mắt :
- Chẳng lẽ ngươi cho rằng lão phu đã giết chết Kính Thanh?
Nam Cung Giao bình tĩnh đáp :
- Vãn bối chẳng dám có ý ấy, nhưng không thấy mặt y thì chẳng thể yên lòng!
Lâm trang chủ hững hờ bảo :
- Ngươi đừng sinh cường trước mặt lão phu, Lâm Thu Bái ta chính là Chu Sơn đảo chủ, ba mươi năm trước từng đại náo võ lâm Trung Nguyên, chưa hề gặp đối thủ! Lão phu đã ra tay thì cực kỳ tàn nhẫn, nếu ngươi không sợ chết thì cứ thử trăm chiêu!
Nam Cung Giao chụp ngay cơ hội!
- Cảm tạ sư phụ đã mở cho lối thoát, nếu vãn bối vượt qua được trăm chiêu, mong sư phụ tha cho Kính Thanh!
Lâm Thu Bái nhíu mày :
- Y tàn phế, xấu xí như vậy, đâu đáng để người phải thí mạng?
Nam Cung Giao mỉm cười :
- Vãn bối cũng sợ chết lắm. Hay là sư phụ thương tình tha quách cho Kính Thanh! Xét ra, y có hơi bướng bỉnh, phá phách, song cũng chưa bằng việc đại náo võ lâm!
Nghe chàng nói kháy mình, Lâm Thu Bái bực bội :
- Đừng xảo ngôn vô ích. Muốn cứu Kính Thanh thì hãy rút gươm ra! Thoa nhi lấy roi cho ta!
Bảo Thoa mau mắn chạy vào, trở ra với một sợi nhuyễn tiên đen tuyền, thân lớn độ ngón chân cái, dài nửa trượng không biết làm bằng vật liệu gì.
Lâm lão cầm vòng roi, lạnh lùng nói :
- Lão phu sẽ biểu diễn chút nghề mọn để ngươi tự lượng sức mà rút lui?
Ông ta vừa nói xong thì cây nhuyễn tiên đột ngột vươn dài, thẳng băng như cây trường côn. Chu Sơn đảo chủ đặt mũi roi vào cột gỗ tròn bằng gỗ trắc cứng rắn và chậm rãi đẩy.
Khủng khiếp thay, mũi roi cắm ngập vào gỗ cả lóng tay, cứ như cắm vào đậu hũ.
Lâm Thu Bái rút roi lại, nhìn Nam Cung Giao với vẻ đe dọa :
- Liệu thân thể ngươi có cứng rắn bằng gỗ trắc hay không? Thức thời thì hãy rời trang ngay!
Chàng tủm tỉm cười :
- Cột gỗ tuy cứng rắn nhưng không biết tránh né, vãn bối thì ngược lại.
Lâm trang chủ ngao ngán lắc đầu :
- Không ngờ ngươi lại ngu xuẩn đến mức không biết sống chết là gì!
Lão phu cũng thương tình nên cho phép bãi chiến nữa chừng, khi không còn cầm cự nổi ngươi cứ lên tiếng đầu hàng!
Nam Cung Giao cười mát :
- Cảm tạ Trang chủ! Có điều trong trận này vãn bối bắt buộc phải đánh đến chiêu cuối cùng!
Chàng rút kiếm, vòng tay chào rồi đứng theo tư thế Phiên Dực Tung Phi!
Lâm Thu Bá gật gù tán thưởng, quay lại nói với ái nữ :
- Thoa nhi hãy làm trọng tài, đếm theo số chiêu mà ta đánh ra!
Bảo Thoa gật đầu, ngượng ngùng thỏ thẻ :
- Mong phụ thân nhẹ tay cho!
Lâm lão nháy mắt trấn an nhưng ngay chiêu đầu đã xuất tuyệt kỷ.
Ngọn nhuyễn tiên của họ Lâm như con rồng đen lồng lộn trong mây, chụp lấy đối phương.
Nam Cung Giao nhận ra trong, màn hắc quang mù mịt kìa có hàng trăm chiếc đầu độc xà đang ung dung uy hiếp toàn thân, tiên kình rít lên như xé lụa, chứng tỏ công lực Lâm Thu Bái cực kỳ thâm hậu.
Chàng cắn răng thi triển chiêu Vạn Diệp Tế Hoa (vạn lá che hoa) chỉ thủ chứ không công. Tay chàng chớm động vì lực đạo mạnh mẽ của cây roi, đường kiếm hơi lệch đi, lộ sơ hở, và ngay lập tức bị mũi roi mổ vào bả vai trái. Máu từ vết thương bắn ra, vương vãi không gian khi Lâm lão rút roi về!
Lão không đánh tiếp mà nhảy lùi lại ngạo nghễ hỏi :
- Sao? Ngươi còn dám lớn họng nữa không?
Nam Cung Giao đưa tay điểm huyệt chỉ huyết, bình thản đáp :
- Cảm tạ Lâm sư phụ đã nương tay nên vết thương không sâu lắm! Vãn bối xin được lĩnh giáo thêm!
Chàng cúi đầu để tỏ vẻ biết ơn, song lại thuận thế lao đến tấn công để chiếm tiên cơ.
Roi của họ Lâm dài gấp rưỡi Lạc Điểu kiếm nên chàng chỉ có cách nhập nội mới mong chiếm được ưu thế!
Quả nhiên, Lâm Thu Bái vướng Bảo Thoa sau lưng không thể lùi lại, đành để mất tiên cơ.
Lão thu ngắn nhuyễn tiên, cẩn trọng giải phá những chiêu kiếm liên miên bất tuyệt của tiểu tử xảo trá, lì lợm kia, vì giờ đây mũi kiếm của Nam Cung Giao có thể chạm vào người lão.
Chẳng trách năm xưa Lâm Thu Bái không tìm ra địch thủ, phép đánh roi của lão trên đời có một không hai.
Màn tiên cũng thu hẹp lại càng dầy đặc kín đáo và mãnh liệt chứ không hề giảm sút uy lực.
Tuy nhiên, Lạc Điểu kiếm pháp lại có lộ số khác hẳn kiếm thuật Trung Nguyên, chiêu thức nhanh như thiểm điện, chủ yếu là những thức đâm, ngay lúc chém cũng dùng mũi kiếm. Do đặc tính này, nhiều lần roi của Lâm lão đã quấn được kiếm của đối phương thì bị tuột ra ngay. Mà đây lại là điểm lợi hại nhất trong phép đánh nhuyễn tiên.
Lâm Bảo Thoa thánh thót đếm nhanh đến líu cả lưỡi cho kịp tốc độ của trận đấu.
Nam Cung Giao đánh một hơi ba mươi sáu chiêu mới bị đẩy bật ra.
Bị chàng dồn ép, lòng tự tôn của Lâm Thu Bái bị tổn thương, lão gầm lên, dồn toàn lực vào ngọn roi tấn công như vũ bão.
Nam Cung Giao liên tiếp thoái hậu, tận dụng bộ pháp để tránh né, thỉnh thoảng mới phản kích được một đòn.
Đến chiêu thứ tám mươi hai thì ngực chàng đã lảnh ba đường, tuy vết thương không nặng nhưng do chẳng rảnh tay chỉ huyết nên máu chảy đầm đìa, nhuộm hồng vạt trước của bộ võ phục màu thanh thiên.
Bảo Thoa vẫn không dám ngừng đếm mà nước mắt chảy ròng ròng, tội nghiệp cho chàng trai cương cường trọng nghĩa kia!
Có lẻ Lâm Thu Bái cũng luyến tài, dừng tay lên tiếng :
- Lão phu khuyên ngươi nên bỏ cuộc, nếu không thì đừng hòng sống sót!
Nam Cung Giao nhân cơ hội này chăm sóc vết thương, giả đò tần ngần cân nhắc, nhưng thực ra ngấm ngầm điều khí lấy lại chút sức lực.
Bảo Thoa buồn bã nói :
- Công tử đừng cố nữa. Gia phụ xưa nay chưa từng để ai sống sót qua khỏi chiêu thứ một trăm!
Nam Cung Giao nheo mắt đáp :
- Cảm tạ tiểu thư đã quan hoài! Nãy giờ tại hạ vì kính lão nên không dám xuất kỳ chiêu đấy thôi! Thực ra tại hạ chỉ cần một chiêu cũng đủ thủ thắng! Gia mẫu từng bảo rằng chiêu kiếm này tuyệt đối không ai giải phá nổi!
Lâm Thu Bái cười rộ :
- Thật là khoác lác, ngươi cứ thi thố thử xem thế nào!
Nam Cung Giao vái dài :
- Cảm tạ Lâm sư phụ đã bớt cho mười bảy chiêu, xin người cẩn trọng, chiêu kiếm này ảo diệu vô song, hiểm ác khôn lường.
Dứt lời, chàng dựng đứng trường kiếm trước mặt, tay tả xoè ra, đỡ lấy chuôi kiếm, mắt nhắm hờ, thần thái trầm ổn, sát khí dàn dụa.
Lâm đảo chủ không dám khinh thường, vội dồn nội lực vào thân roi chờ đợi.
Nam Cung Giao chợt mở to mắt, thân kiếm vung lên, hóa thành ngàn kiếm ảnh mờ mờ, che kín toàn thân, chẳng còn thấy đâu cả. Và trái cầu thép ấy lao thẳng vào Lâm trang chủ.
Thu Bái thấy kiếm ảnh liền lạc như da trời, chẳng hề có một sơ hở nào, lòng vô cùng hoang mang dồn toàn lực vào nhuyễn tiên, quất những roi mãnh liệt, chủ yếu để chặn đứng đối phương chứ không nghĩ đến chuyện giết chóc. Các cao thủ lão thành thường cẩn trọng, khi không nắm chắc thì chẳng bao giờ liều lĩnh.
Tuy không cao lớn và có thần lực bẩm sinh như Quỷ Côn, nhưng nhờ lúc trẻ ăn được kỳ trân biển Đông, nên Thu Bái sở hữu đến bảy mươi năm chân khí, hơn cả Đường Cổ Ngư!
Tất nhiên, Nam Cung Giao không thể nào chịu nổi, văng ngược về phía sau.
Dẫu không trúng đòn nhưng sự va chạm với luồng kình lực nặng như núi kia đã khiến khí huyết chàng nhộn nhạo máu rỉ ra khóe miệng.
Song, chàng vẫn còn sống, và như thế là quá đủ.
Nam Cung Giao đưa ống tay áo lau máu miệng, vái thật sâu :
- Bản lãnh của Lâm sư phụ thật đáng xưng vô địch. Vãn bối đã giở đến tuyệt chiêu thủ mạng mà không thể đụng đến chéo áo của người, nhưng cũng may mắn qua được thử thách!
Lâm Thu Bái bối rối hỏi :
- Chiêu kiếm kia là của phái nào mà lại không hề có sơ hở như vậy?
Nam Cung Giao mỉm cười :
- Bẩm Lâm sư phụ! Đấy là chiêu Mật Trướng Đương Phong (Mùng kín chống gió) vốn là chiêu thủ, không hề có một thức công nào thì làm sao có sơ hở được! Vãn bối biết mình không qua nổi trăm chiêu nên mới nói khéo để có thể dồn hết sức vào một chiêu cuối cùng. Dù chiêu thức để tấn công thì ít nhất cũng bảo toàn được mạng sống!
Chu Sơn đảo chủ hiểu ra, ngửa cổ cười khanh khách :
- Ngươi quả là một chàng trai trí dũng song toàn, trong hiểm cảnh luôn tìm được lối thoát! Thế mà lão phu lại tưởng trên đời có một chiêu kiếm toàn mỹ thượng đẳng đến thế nên không dám phản kích!
Lão chợt nghiêm sắc mặt :
- Lão phu đồng ý để Kính Thanh đi theo ngươi, nhưng nếu ngươi không tận tình chăm sóc, bảo vệ cho nó thì đừng trách lão phu tàn nhẫn!
Ánh mắt lão như lưỡi dao cạo lướt trên mặt Nam Cung Giao, khiến chàng rùng mình, vội đáp :
- Lâm sư phụ yên tâm. Vãn bối và Mộc hiền đệ đã có lời thề đồng sanh, đồng tử.
Bảo Thoa bật cười khúc khích :
- Phải chăng công tử đã thề rằng chết cùng ngày, cùng tháng nhưng không cùng năm chứ gì?
Nam Cung Giao gượng cười :
- Cô nương thật khéo đánh trúng tim đen người khác. Song thực ra, dẫu có thề thốt thế nào cũng không quan trọng bằng tấm lòng đối với nhau!
Bảo Thoa tinh quái nói :
- Tiểu muội nghe Mộc sư huynh kể rằng công tử có rất nhiều vợ đẹp, đắm chìm trong son phấn, còn thời gian đâu mà dành cho bằng hữu nữa?
Nam Cung Giao gật gù :
- Tại hạ hứa từ nay thỉnh thoảng lại ôm Kính Thanh mà ngủ để y khỏi tủi thân!
Bảo Thoa thẹn thùng cự nự :
- Công tử nói kỳ quá!
Lâm Thu Bá cười ha hả :
- Ngươi làm sao đấu khẩu lại gã tiểu tử xảo trá này. Hãy vào bảo Kính Thanh tắm gội, chuẩn bị hành lý xuất trang.
Bảo Thoa dạ rất ngoan, rao bước đi ngay.
Ở đây Lâm trang chủ vui mời khách an tọa trên bàn bát tiên, cuối sảnh đã có sẵn một khay rượu nhỏ!
Chủ khách cạn chun đầu, Thu Bái bỗng nói :
- Tài trí, nhân phẩm của ngươi đã khiến lão phu mến mộ, muốn đem Bảo Thoa gả cho ngươi thấy thế nào?
Nam Cung Giao chính sắc đáp :
- Đa tạ Trang chủ đã nhủ lòng thương tưởng, song vãn bối quả không dám nhận lãnh. Cảnh chồng chung thực ra cũng chẳng hay ho gì? Rất thiệt thòi cho lệnh ái!
Lâm lão cười nhạt :
- Ngươi đã nói thế thì sau này đừng đến lạy lục lão phu mà xin cưới đấy nhé!
Nam Cung Giao mỉm cười tự tin :
- Vản bối sắp rời khỏi Bắc Kinh, không có dịp tiếp xúc với lệnh thiên kim thì làm sao say mê được?
Lâm lão phì cười, lắc đầu chán ngán :
- Lão phu cũng không hiểu ngươi là kẻ có trí hay xuẩn ngốc nữa?
Rồi lão nói sang chuyện khác :
- Lão phu nghe Kính Thanh kể rằng ngươi đã ước hẹn tử đấu với Thiếu cốc chủ Vô Thanh cốc Khương Thư Hàn và lệnh nhạc phụ là Mã thượng thư đã quyết dùng quân triều đình để bảo vệ ngươi! Nhưng lão phu muốn biết chủ ý của ngươi?
Nam Cung Giao trầm ngâm đáp :
- Vãn bối tuy không lụy vì hư danh, song vẫn muốn giữ khí tiết của kẻ trượng phu, đành phải tận lực phó ước, gác chuyện sinh tử ra ngoài.
Chu Sơn đảo chủ hài lòng gật gù :
- Hảo hài tử. Ngươi khá lắm! Lão phu không muốn ngươi chết nên sẽ tặng cho một bửu bối để phòng thân!
Lâm Thu Bái võ nghệ cao siêu quán thế, đáng được tôn làm Thiên Hạ Đệ Nhất Nhân. Nay lão đã mở miệng đòi truyền tuyệt kỹ, Nam Cung Giao vui mừng khôn tả, quỳ ngay xuống lạy tạ!
Lâm lão xua tay, bảo chàng ngồi lên rồi vuốt râu kể :
- Thực ra, trong lần vào Trung Nguyên ba mươi năm trước, lão phu đã gặp một địch thủ xứng tay, đó là Long Giác Thần Quân Khương Quang Bật.
Song phương tỉ thí hơn ngàn chiêu mà vẫn không phân thắng bại, nên bãi chiến! Về đến đảo Chu Sơn, lão phu ấm ức, cố tìm cách giải phá tuyệt học của đối phương.
Sau nhiều năm lao tâm khổ trí, lão phu đã sáng tạo ra một bộ pháp ảo diệu, khả dĩ vô hiệu hóa được kiếm pháp Vô Thanh quái dị của họ Khương. Tuy đã nắm chắc thắng, song do lòng hiếu danh đã nhạt, lão phu không tìm Long Giác Thần Quân nữa. Nay lão phu sẽ dạy cho ngươi pho Hư Ảnh Thần Bộ.
Lão đứng lên dắt chàng ra vườn sau khách sảnh, chỉ vào chín viên đá trắng trên mặt cỏ.
Bát Quái đồ tuy đơn giản nhưng gồm thâu vận động cả vũ trụ. Võ học cũng không ở ngoài lẽ ấy! Ngươi hãy đứng vào trung cung, tức viên gạch ở giữa, rồi lão phu sẽ chỉ dạy yếu quyết biến hóa.
Nam Cung Giao luyện tập đến trưa thì thuộc hết chương pháp, đường lối, nhưng chưa thể gọi là tinh thông.
Thế mà Lâm Thu Bái cất lời khen :
- Căn cơ của ngươi quả hiếm có trên đời! Hãy cố khổ luyện đạt đến mức tinh túy thì ngay cả Long Giác Thần Quân cũng khó mà giết được ngươi trong vòng hai trăm chiêu!
Nam Cung Giao cười mát :
- Thế thì vãn bối sẽ bỏ chạy sau khi đánh xong chiêu thứ một trăm chín mươi chín!
Lâm lão nghiêm giọng :
- Kiếm thuật của ngươi phối hợp với bộ pháp này, mà có thêm khoảng hai mươi năm chân khí nữa, thì chẳng còn phải sợ Khương lão quỷ. Nhưng hiện tại thì ngươi không phải địch thủ của lão, vì vậy, tuyệt đối không nên giết Thư Hàn!
Vả lại, giết người cũng chẳng hay ho gì!
Nam Cung Giao vội kính cẩn cúi đầu tuân mệnh, theo Lâm lão trở vào khách sảnh.
Chàng khát khô cả cổ, thầm chê Bảo Thoa thiếu tế nhị, chẳng đem trà nước ra đãi đằng.
Chàng bỗng nghĩ lại người đẹp đang bận rộn nấu nướng để đã cơm mình, không ngờ Mộc Kính Thanh lên đến, tay nải trên vai, vui vẻ nói :
- Chúng ta đi thôi, đại ca!
Nam Cung Giao nhìn gã bằng ánh mắt tràn ngập yêu thương và trách móc :
- Hiền đệ âm thầm bỏ đi, lại thất tung bất ngờ khiến ta lo lắng muốn chết! Ta phải đánh cho ngươi sưng mông lên mới được!
Mặt họ Mộc rám nắng nên không thấy đỏ, nhưng đôi mắt đen láy kia lộ vẻ hổ thẹn.
Gã đảo mắt liếc Lâm trang chủ rồi cằn nhằn Nam Cung Giao :
- Sao đại ca lại nói những lời ấy trước mặt Gia sư?
Chàng quay sang phân bua với Chu Sơn đảo Trang chủ, không nhận ra vẻ mặt lão rất kỳ quái :
- Lâm sư phụ! Vãn bối làm anh nên luôn dạy bảo Kính Thanh. Vãn bối sờ nắn, thấy khắp người y gân cốt mềm nhão, liền la mắng, bắt y phải thường xuyên luyện võ nghệ, và cấm không được lăn lóc nơi kỹ viện. Y lại trả lời rằng vì luyện Nhuyễn Cốt Thần Công nên da thịt mới mềm mại như thế! Dám hỏi Lâm sư phụ có đúng vậy chăng?
Lâm Thu Bái ôm bụng cười sặc sụa rồi quát lên :
- Hai ngươi có cút nau không? Lão phu giết chết cả hai bây giờ!
Kính Thanh bỏ chạy như bị ma đuổi, Nam Cung Giao cũng vái vội chủ nhân rồi rượt theo!

Về đến Trịnh gia trang, Kính Thanh lập tức bị lôi vào bàn nhậu.
Anh em họ Trịnh đã thân với Kính Thanh từ hồi ở phủ Thượng thư.
Nam Cung Giao thay áo, tắm rửa, băng bó sơ rồi trở ra, ăn như rồng cuốn.
Được tám chín chén chàng mới buông đũa, kể cho Trịnh Tháo và Trịnh Mãng nghe cuộc tỷ thí của mình và Lâm trang chủ!
Trịnh Tháo giật mình :
- Thuộc hạ từng nghe thúc phụ Trịnh Kiều nhắc đến Chu Sơn đảo chủ, không ngờ ông ta lại là sư phụ của Mộc công tử đây!
Tương truyền, tính tình Lâm đảo chủ cực kỳ cổ quái, lãnh đạm, xuất thủ không biết nương tay!
Kính Thanh cắt lời gã :
- Sao ngươi lại dám nói xấu gia sư? Nếu ông thực sự tàn nhẫn thì Nam Cung đại ca đã chết từ lâu rồi!
Nam Cung Giao xác nhận :
- Đúng vậy! Ta chỉ thắc mắc vì sao Lâm sư phụ lại cố tình thị uy, bắt ta bãi chiến? Ngay chiêu đầu ta đã thọ thương, lòng vô cùng khiếp sợ, nhưng vì nghĩ đến cảnh Kính Thanh bị giam cầm nên đành phải liều!
Mộc Kính Thanh cười hì hì :
- Đại ca tốt với tiểu đệ quá. Nhưng mà nhờ vậy mới thu hoạch được lợi lớn là pho Hư Ảnh Thần Bộ.
Nam Cung Giao hỏi lại :
- Dường như ngươi cũng không biết công phu này?
Kính Thanh gật đầu :
- Gia sư vừa mới hoàn thành hồi cuối năm ngoái, tiểu đệ có ở nhà đâu mà học? Mấy ngày trước, vì nhớ ân sư nên mò về thăm và xin ông tha lỗi. Nào ngờ sư phụ nổi lôi đình, bắt nhốt, cấm không cho xuất trang nữa!
Nam Cung Giao hỏi tiếp :
- Thế ba năm trước ngươi gây ra tai họa gì mà Lâm đảo chủ hổ thẹn đến mức phải rời Chu Sơn vào Trung Nguyên ẩn mặt?
Kính Thanh chớp đôi mắt tinh quái, ngượng nghịu đáp :
- Tiểu đệ bị gia sư ép lấy cháu gái của Đông Hải thần tăng, trụ trì chùa Phổ Đà. Ngay trước ngày cưới, tiểu đệ bỏ trốn nên gia sư mang nhục!
Trịnh Mãng phá lên cười hề hề :
- Chuyện này còn khó tin hơn việc chim vẹt màu đen! Chẳng lẽ cô dâu lại xấu xí như quỷ nên Mộc công tử mới chê!
Kinh Thanh trợn mắt cãi :
- Ngươi tưởng ta thế này nên không lấy được vợ đẹp ư? Người ấy kiều diễm nhất vùng đảo Chu Sơn, nếu đem ra so sánh với Mã Hoàn Cơ hay Tiền Vân Mi thì mỗi người một vẻ, chẳng hề thua sút!
Nam Cung Giao lộ vẻ buồn rầu chứ không cười :
- Trai tài gái sắc! Ta tin rằng ngươi đã nói sự thực! Nhưng việc ngươi đào hôn đã khiến ta nghi ngờ rằng vì luyện Nhuyễn Cốt thần công nên cả cái của nợ trong đũng quần kia cũng tiêu rồi!
Nói xong, chàng đưa tay tả định mò vào hạ thể của gã.
Kính Thanh hồn phi phách tán, mang cả ghế lùi nhanh lại, người run lẩy bẩy :
Nam Cung Giao và anh em họ Trịnh ôm bụng cười ngất, thật lâu sau chưa nín nổi!
Kính Thanh hầm hầm nổi giận :
- Nếu đại ca cứ suồng sã như vậy tiểu đệ sẽ trở về Lâm gia trang!
Nam Cung Giao cố nín cười, nói rằng :
- Ngu ca xin lỗi! Và hứa từ nay sẽ không trêu ghẹo hiền đệ nữa!
Mộc Kính Thanh xụ mặt xách ghế trở lại bàn, cùng chàng tính toán kế hoạch ngăn cản cuộc xâm lăng An Nam của Minh triều!
Khi nghe Nam Cung Giao đòi giết quan Thái Bảo Liễu Di Phu, Kính Thanh bác ngay :
- Hiện nay, đoàn sứ thần An Nam đang có mặt ở Bắc Kinh, đại ca làm thế là đưa họ vào chỗ chết!
Phe chủ chiến không phải chỉ mình họ Liễu, những đại thần còn lại sẽ đổ vạ lên đầu bọn Lê Khải, mượn cớ này mà xin Minh Đế khởi binh trừng phạt An Nam!
Nam Cung Giao sợ toát mồ hôi, ngập ngừng hỏi lại :
- Thể theo ý hiền đệ thì chúng ta phải hành động ra sao đây?
Kính Thanh tư lự :
- Đại ca phải liên lạc ngay với bọn Lê Khải, báo cho họ biết âm mưu của phe Liễu Di Phu, và yêu cầu họ sớm quay về cố quốc. Họ đi rồi chúng ta mới rảnh tay mà hạ thủ!
Trong thời gian ấy, tiểu đệ và anh em họ Trịnh điều nghiên địa thế tư dinh của Liễu thái bảo!
Nam Cung Giao phấn khởi vỗ vai. Cũng may ngươi xem mỹ nhân như cỏ rác nên ta mới có được một quân sư tài giỏi! Thôi đừng cưới vợ làm gì, thanh lâu chỗ nào chẳng có.
Kính Thanh mỉa mai :
- Đi theo đại ca chẳng khác gì theo voi ăn bã mía, xấu hay đẹp thì đại ca cũng hốt sạch, làm gì còn phần cho tiểu đệ nữa?
Nam Cung Giao mỉm cười :
- Ta đã chẳng chừa Lâm Bảo Thoa tiểu thư lại cho ngươi rồi đấy sao? Ta biết ngay ngươi say mê sư muội nên không chịu lấy ai khác!

Thiên Gia Thử Lương Nhẫn quen đám dịch tốt trong dịch xá Bắc Kinh nên chiều hôm sau đã liên lạc được với các sứ thần An Nam.
Gã trở về bẩm báo :
- Bẩm công tử! Chánh sứ Lê Khải kể rằng Minh Đế long thể bất an nên chưa triệu kiến đoàn sứ thần An Nam, chỉ mình Cầm Đạm Thủy cô nương đã vào cung làm đẹp cho Thái hậu.
Quan Thái Bảo Liễu Di Phu đã cùng quan Lễ Bộ Thượng thư đến dịch xá nhận tấu chương và cống phẩm.
Khi nghe Lê Khải báo rằng nửa đường gặp cường đạo, sứ giả Trần Dũng bỏ mình.
Di Phu khéo léo dò hỏi, nhưng Nguyễn Đào đã khôn ngoan đổ hết công trạng cho Trần Dũng và đội quân áp tải chứ không nhắc đến công tử.
Gã thấm giọng bằng một chun rượu đầy, rồi kể tiếp :
- Dường như Liễu Di Phu biết rõ bản lãnh của phe cường đạo nên ánh mắt đầy vẻ nghi hoặc. Cuối cùng, họ Liễu bảo rằng nhân dịp có sứ thần các nước Phù Tang, Cao Ly, Mông Cổ,
Mãn Châu cùng hiện diện, khi Minh Đế khỏi bệnh, lão sẽ tổ chức một cuộc so tài hữu nghị giữa đại biểu các nước về Trung Hoa.
Dũng sĩ thắng trận sẽ phong danh hiệu lưỡng quốc Võ trạng nguyên, và nước ấy sẽ được miễn triều cống lần tới.
Nam Cung Giao ngắt lời gã :
- Thế ai sẽ là đại biểu của An Nam?
Lương Nhẫn cười đáp :
- Nay Trần Dũng đã chết, chỉ còn Cầm Đạm Thủy là có kiếm pháp cao cường nhất. Nàng ta sẽ được cử tham gia cuộc tỷ võ!
Mộc Kính Thanh cau mày :
- Không hiểu Liễu Di Phu đang bày độc kế gì? Nhưng chỉ riêng việc Minh Đế cứ liệt giường vài tháng cũng khổ cho chúng ta rồi!
Nam Cung Giao nóng ruột hỏi Thiên Gia Thử :
- Thế ngươi có biết Minh Tông mắc bệnh gì không?
Họ Lương cười hề hề :
- Gã dịch tốt họ Tăng kia có bào muội làm cung nữ! Ả ấy kể rằng long nhan mới được tiến cung một giai nhân tuyệt sắc. Nàng ta tên Đoàn Tự Cơ người đất Vân Nam, mặt đẹp như ngọc, thân hình trắng tựa ngó sen, tỏa mùi hương yêu mị!
Thiên tử không sao dứt ra nổi suốt ngày quấn quít, bỏ cả việc triều chính. Chỉ sau hai tháng ôm ấp Đoàn quý phi, long thể cạn kiệt nguyên dương, tay chân run rẩy, đi không nổi, thở chẳng ra hơi. Quan thái y đã tận lực chữa trị nhưng không có kết quả!
Nam Cung Giao gật gù :
- Ta có một dược phương bồi bổ nguyên khí, tráng dương, cố thận cực kỳ thần diệu. Nếu có người tiến cử, ta sẽ vào cung trị bệnh cho Minh Đế?
Mộc Kính Thanh nghiệm giọng :
- Đại ca có chắc là sẽ thành công hay không? Quan Thái Y còn phải chịu thua đấy!
Nam Cung Giao cười tinh quái :
- Sao không chắc! Ngươi cứ uống thử vài thang là biết ngay tác dụng! Lúc ấy, ta chỉ sợ ngươi đòi lấy vợ ngay thì nguy to!
Cả bàn cười vang mà Kính Thanh không giận, chỉ hờ hững nói :
- Nếu đúng thế, đại ca hãy trao dược phương cho sứ thần An Nam. Vua Minh thọ ơn trị bệnh tất chẳng mặt mũi nào chuẩn tấu việc chinh phạt An Nam!
Cao kiến của y được tán thành, nhưng hôm sau Thiên Gia Thử đến trao thư của chánh sứ Lê Khải.
Nam Cung Giao đọc xong thở dài kể :
- Lê Khải bảo rằng mình không tinh thông y thuật, khi vào cung, bị thái y vặn vẹo tất sẽ lòi đuôi chuột. Lão yêu cầu ta hóa trang thành viên Lãnh binh Đặng Quyết, nhập cung để tận tay đối chứng lập phương.
Trịnh Tháo cả cười :
- Phải đấy! Gã họ Đặng kia có dáng vóc và dung mạo hao hao giống công tử! Thuộc hạ chỉ cần hóa trang sơ là chẳng ai phân biệt nổi!
Nam Cung Giao viết thư phúc đáp Lê Khải, đồng thời bảo Lương Nhẫn nhờ gã Dịch tốt họ Tăng bắn tin vào cung cấm.
Cầm Đạm Thủy nhận được lệnh của Lê Chánh Sứ, lập tức thỏ thẻ với Hoàng Thái hậu :
- Khải tấu lão Phật Gia! Tiện nữ nghe các cung nữ nói với nhau rằng long thể Thánh thượng đang bất an, cả thái y cũng bó tay! Tiện nữ xin mạo muội tiến cử một bậc danh y của nước An Nam, hiện đang có mặt trong đoàn sứ thần!
Chỉ mới vài ngày mà nước da của Thái hậu đã trắng trẻo hơn trước, mất sạch những nốt đồi mồi già nua, nên bà rất tin tưởng và yêu mến ĐạmThủy.
Nghe nàng nói thế, bà phấn khởi phán rằng :
- An Nam quả lắm nhân tài! Ai gia sẽ hạ chiếu triệu ngay người ấy vào cung! Nếu y cứu được Vương nhi khỏi chứng di tinh quái ác kia, Ai gia sẽ trọng thưởng!
Sáng hai mươi mốt, viên Thái Giám Tổng quản Xuân Minh cung, cùng bốn Tiểu Thái Giám đến dịch xá.

Dịch xá trong cả nước đều thuộc bộ Giá, riêng Đại Dịch Xá ở Bắc Kinh lại do bộ Lễ quản lý, chuyên để tiếp đón các đoàn sứ giả ngoại bang, hoặc các đại thần phương xa hồi kinh.
Người phụ trách Đại Dịch Xá Bắc Kinh là quan Viên Ngoại Lang Bộ Lễ, tên gọi Tạ Phong.
Họ Tạ mau mắn đưa vị Tổng quản Thái Giám thân tín của Thái hậu đến dãy phòng của các sứ thần An Nam.
Hoàng Tổng quản the thé rao :
- Thái hậu ban thánh chỉ!
Biết trước việc này nên Lê Khải, nguyễn Đào và viên Lãnh binh Đặng Quyết đều đã có mặt. Song chỉ có hai sứ thần ra quì nghe chiếu chỉ, còn Đặng Quyết vẫn ở trong phòng.
Trung Hoa xem trọng đạo hiếu nên ý chỉ của Thái hậu còn có hiệu lực hơn thánh chỉ của nhà vuạ Tuy nhiên, thường thì các bà già ấy không viết thành chiếu mà lại truyền bá qua miệng của Viên Thái Giám thân tín nhất!
Lần này cũng vậy, Hoàng Tổng quản cất giọng gà mái chói tai :
- Lão Phật Gia truyền Chánh Sứ thần An Nam Quốc, cử vị thần y Đặng Quyết đến Càn Thanh cung để trị bệnh cho Thánh thượng! Khâm thử!
Lê Khải và Nguyễn Đào khấu đầu :
- Chúng thần tuân chỉ!
Toán Thái Giám trở ra khách sảnh của Dịch xá chờ đợi. Ở đây Đặng Quyết thay áo.
Đặng Quyết thực đang nấp kỹ trong phòng Nguyễn Đào, để Nam Cung Giao thế chỗ!
Giờ đây, chàng trai họ Nam Cung khác hẳn, vì cặp lông mày rậm, hàng râu mép xanh rì và bộ râu quai nón bó cằm rất oai vũ.
Chàng bồi hồi soi bóng trong chiếc gương pha lê Hà Lan, tự nhủ rằng mình đúng là dân Giao Chỉ khi mặc chiếc áo the đen, đầu đội khăn vành rễ!
Chính Lê Khải cũng nói :
- Lạ thực! Trong bộ y phục này, trông công tử chẳng có một nét nào của người Trung Hoa!

Hai khắc sau, chàng đã có mặt ở cung Khôn Ninh, để theo Thái hậu đến cung Càn Thanh.
Tướng mạo khôi vĩ, oai vệ của Đặng Quyết chẳng hề giống với một thầy lang, khiến bà mẹ vua ngần ngại :
- Này Đặng hiền khanh! Do lời tiến cử của nha đầu Đạm Thủy, nên Ai gia mới cho gọi khanh đến. Nhưng việc chữa bệnh cho Thánh thượng là rất quan trọng, liệu khanh có đủ năng lực hay không?
Đặng Quyết mỉm cười, để lộ cái mà gã không có, đó là lúm đồng tiền trên má trái, và vui vẻ đáp :
- Khải tấu Thái hậu! Hạ thần cam đoan rằng chỉ sau bảy ngày, Hoàng thượng sẽ phục hồi như cũ, có thể lâm triều giải quyết chính sự!
Thái hậu lạnh lùng nói :
- Khanh tự tin như thế khiến Ai gia cũng yên lòng. Nhưng nếu bệnh tình của Thánh thượng xấu đi thì không phải chỉ riêng cái đầu của khanh rơi xuống đâu đấy!
Ý bà nói rằng cả đoàn sứ thần An Nam gần hai trăm mạng sẽ phải chết.
Thái hậu đứng lên, di giá đến cung Càn Thanh, nơi Minh Anh Tông đang dưỡng bệnh.
Trên hành lang trước cửa cung có gần hai chục vị quan lớn đang chầu chực, cứ như sợ rằng mình không hiện diện đúng lúc Thiên tử băng hà!
Thấy Thái hậu, họ nhất tề phục xuống lạy.
Nam Cung Giao đi sau bà, khoan khoái nhận đại lễ của họ. Chàng nhận ra Thái sư Triển Tháo vì gương mặt ông có những nét giống Thất vương phi!
Tất nhiên có cả Thái Bảo Liễu Di Phu!
Triển thái sư không phải quì, chỉ cúi mình chào, vì ông là thông gia với Thái hậu.
Triển lão rầu rĩ lên tiếng :
- Khải tấu Thái hậu! Thái y bảo rằng bệnh của Thánh Hoàng mỗi lúc thêm nặng, tuy mạng rồng không đáng ngại, nhưng tinh thần rất suy sụp!
Các đại danh y Đế Đô và miền Hà Bắc này lần lượt bị đức Vạn Tuế đuổi ra, cả Thái y cũng mới bị hạ ngục hồi sáng!
Ông vừa dứt lời thì Liễu Di Phu nói tiếp :
- Khải tấu Thái hậu! Phải chăng gã An Nam râu rậm kia được mời đến để trị bệnh cho Thánh Hoàng?
Thái hậu thở dài :
- Đúng vậy! Gã đã đem đầu ra cam đoan rằng sẽ thành công! Ai gia bắt buộc phải thử xem!
Thái hậu bước vào Càn Thanh cung.
Đặng Quyết theo sau, nheo mắt cười bảo Triển thái sư :
- Đại nhân bị chứng táo bón kinh niên, mỗi ngày phải ăn đủ một cân rau sống, và đi bộ mười dặm thì sẽ thấy khá hơn!
Triển thái sư ngơ ngác nhìn theo gã thầy lang An Nam, rồi nói với các quan :
- Gã này đáng mặt thần y, chỉ nhìn qua đã biết rõ bệnh kín của lão phu.
Liễu Di Phu hận hực :
- Hay ho gì gã! Chẳng qua mặt của lão Thái sư nhăn nhó, nặng nề, ai nhìn không đoán được! Như tiểu đệ đây trĩ lòi cả gang, sao y không giỏi mà nói ra đi!
Các quan che miệng cười, định bụng sẽ về kể cho vợ nghe bí mật của hai vị quan đầu triều.
Quả thực là Nam Cung Giao chỉ lòe thiên hạ, bệnh táo bón của Triển thái sư là do Thất vương gia tiết lộ với chàng!

Trong thẩm cung chỉ có mình nhà vua và Đoàn quý phi.
Mỹ nhân đang ngồi bóp chân cho Thiên tử, mặt hoa ủ dột, đầy vẻ u sầu lo lắng. Nàng sợ Minh Đế băng hà, và khi đó, nàng sẽ không thoát chết dưới tay Hoàng hậu!
Đoàn quý phi sẽ bị khép tội dùng sắc mê hoặc Quân vương, khiến long thể hao mòn nguyên khí dẫn đến tử vong!
Tuy chưa nói ra nhưng mỗi lần đến thăm Thiên tử, ánh mắt Hoàng hậu đã biểu lộ lòng căm hờn tột độ!
Nàng oán hận trời xanh đã ban cho nàng nhan sắc phi phàm và một thân thể nồng nàn mùi hương quyến rũ. Dù nàng không muốn, song Minh Đế đã vì hai điều ấy mà mê mệt, miệt mài truy hoan, đưa đến hậu quả hôm nay!
Nhận ra Thái hậu giá lâm, Đoàn quý phi vội rời long sàng, phục xuống lạy :
- Tây Cung quý phi khấu kiến Thái hậu!
Thái hậu nói với giọng lạnh như băng :
- Miễn lễ!
Rồi bà bước đến cạnh giường, lay gọi Minh Anh Tông :
- Vương nhi! Ai gia đưa thần y đến trị bệnh cho ngươi đây!
Nhà vua mở mắt, buồn rầu nói :
- Thần nhi chẳng còn thiết sống nữa! Mẫu hậu bất tất phải bận tâm!
Nói xong, Minh Đế nhắm mắt lại quay vào trong.
Thái hậu chán nản thở dài, bảo Nam Cung Giao :
- Thánh Hoàng đã đánh mất chí cầu sinh, còn thuốc nào cứu chữa nổi nữa. Ai gia chẳng nhẫn tâm nhìn cảnh này, giao lại cho ngươi đấy!
Bà nghẹn ngào quay bước, rời khỏi phòng.
Nam Cung Giao chờ bà đi khuất, tủm tỉm nói với Đoàn quý phi :
- Hạ thần là người nước An Nam, quen tính trực ngôn, xin thành thật chia buồn với Qúi Nhân. Nay Thánh Hoàng đã không còn khát sống thì sinh mạng của Qúi Nhân cũng sắp kết thúc! Thật uổng thay cho một bậc mỹ nhân sắc nước hương trời!
Đoàn Tự Cơ thẹn thùng bởi ánh mắt nồng nàn của chàng trai lạ, lòng sung sướng vì được ngợi khen, song nàng vẫn giả đò nghiêm nghị, gắt gỏng :
- Sao khanh lại dám nói những lời phạm thượng như thế?
Nam Cung Giao thản nhiên đáp :
- Hạ thần chỉ nói ra sự thực. Sao gọi là phạm thượng? Bốn năm trước, Tiên Hoàng của tệ quốc băng hà, Hoàng hậu lập tức khép tội nàng Ái Phi được sủng ái nhất, bắt phải thắt cổ chết!
Đoàn quý phi bàng hoàng, run giọng :
- Thực thế sao? Ta từ nhỏ nghe đến điều ấy, nhưng đã quyết chết theo Thánh thượng nên không hề sợ!
Nam Cung Giao mỉm cười :
- Tối độc phụ nhân tâm! Nàng ái phi kia đã không được chôn gần mộ của Lê Thái Tổ, và cũng chẳng ai biết xác nàng ta bị ném xuống sông cho cá rỉa hay quăng vào rừng cho chó gặm!
Dẫu nàng ấy có gặp Lê Thái Tổ dưới hoàng tuyền chắc cũng bị chê!
Đoàn quý phi sợ hãi rú lên :
- Ngươi đừng dọa ta!
Minh Anh Tông chịu hết nổi, cố lấy hơi mà quát :
- Tên cuồng đồ kia! Ngươi có bao nhiêu cái đầu mà dám khi quân? Trẫm còn sống mà?
Nam Cung Giao vui vẻ quay lại :
- Thánh thượng giết hạ thần rồi thì lấy ai trị bệnh? Sao ngài không cố sống mà bảo vệ cho người mình yêu dấu!
Minh Đế thở dài :
- Sống mà thế này thì thà chết còn hơn!
Nam Cung Giao nghiêm giọng :
- Hạ thần đã đem gần hai trăm cái đầu của đoàn sứ thần An Nam để bảo chứng, tất không thể thất bại được. Chỉ cần Thánh thượng tuyệt đối tin tưởng hạ thần là đủ!
Cách sử sự kỳ lạ và thái độ tự tin của chàng đã khiến nhà vua tò mò! Chàng khác hẳn những vị đại phu già nua, khiếp nhược từng đến đây!
Minh Anh Tông cau mày hỏi :
- Cách điều trị của khanh thế nào?
Nam Cung Giao đáp :
- Mỗi ngày một thang, sau bẩy ngày hồi phục như xưa. Nếu tiếp tục dùng dược phương này thường xuyên, đến tuổi tám mươi vẫn cường tráng! Nhưng từ nay trở đi mỗi đêm Thánh thượng chỉ được phép ngự hoan một lần!
Long nhan mừng rỡ ngắt lờ
pass to joine phim : Kim_Bang_2
longnu
Múi Mít
Múi Mít
 
Tiền: $122,632
Posts: 1046
Joined: 14 Mar 2005
Location: đến từ nơi xa lắm
 
 

Postby longnu » 08 Apr 2005

[color=blue][b]9...
Tiếu Ngạo Trung Hoa Nguyên tác : Ưu Đàm Hoa




Hồi 09 Thiếu Thất giả cuồng đương Ngọc Diện
Trịnh Sơn nguyệt dạ khấp thê nhi
Nam Cung Giao không tống tiễn vì sợ ánh mắt lưu luyến của Cầm Đạm Thủy. Bọn chàng kéo đến Lâm gia trang để cáo biệt Chu Sơn đảo chủ Lâm Thu Bái.
Không thấy Bảo Thoa, Nam Cung Giao hỏi ngay :
- Lâm sư phụ! Vãn bối muốn được chào từ biệt lệnh ái.
Lâm lão cười khà khà :
- Con bé ấy đã đi Trực Lô thăm Đại di rồi! Nếu không thì lão phu đã bảo nó bắt gà làm thịt đã các ngươi.
Anh em họ Trịnh hăng hái ứng tiếng :
- Để bọn vãn bối làm cho!
Hai gã cùng Mộc Kính Thanh xuống bếp, để Nam Cung Giao hầu chuyện Lâm Thu Bá.
Lâm lão cười hỏi :
- Sao ngươi không giết Trương Phụ?
Nam Cung Giao liền kể lại mọi việc, chỉ trừ mối tình nồng cháy với Đoàn qúi phi. May mà chàng đã uống nước của món Hắc Cẩu Bát Bửu Thần, huống nên khí huyết hưng vượng, không hề hốc hác xanh xao vì mười đêm mây mưa nồng nhiệt!
Nam nhân độc thân và nghiện rượu thì thường có tài làm thức nhắm rất nhanh. Chỉ hơn khắc sau, ba món thịt gà rán, luộc, canh và cơm đã được dọn lên.
Giữa bữa, Lâm Thu Bái bỗng thở dài nói :
- Lão phu hiếu võ đến mức quên cả việc lập gia thất, năm ngũ thập mới lấy vợ, sinh ra được mình Bảo Thoa! Gần đây, lão phu nghe trong người không ổn, có lẽ là do hậu quả của việc ăn kỳ trân Hải Thượng Huyết Hoa thời trai trẻ. Muốn sống lâu, lão phu cần có ba viên Đại Hoàn đan của Thiếu Lâm tự! Vậy phiền Giao nhi và Thanh nhi mang thư đến núi Thiếu Thất gặp Phương trượng Bạch Vân thần tăng, xin hộ lão phu! Sau đó, Kính Thanh sẽ một mình mang về đây.
Nam Cung Giao vội đáp :
- Vãn bối xin tuân mệnh.
Và chàng quay sang bảo anh em họ Trịnh :
- Hai ngươi hãy về Kinh bằng đường Từ Châu, và giết gã Đông Thành Bá Vệ Cảnh giùm ta. Nhớ hành động êm thắm, tốt nhất là ngụy trang sao cho họ Vệ trông giống như đột tử hay tự sát!
Trịnh Tháo cười đanh ác :
- Công tử yên tâm! Thuộc hạ sẽ xiết cổ gã rồi treo lên, chẳng ai có thể nghi ngờ được!
Trịnh Mãng tiếp lời :
- Bọn thuộc hạ sẽ không quên đến thăm mộ Tiểu Lan cô nương và xem tình hình của thôn Giao Chỉ mới!
Nam Cung Giao hài lòng gật đầu, chưa kịp khen họ thì nghe Lâm lão nói :
- Chuyện đời như phong vân bất trắc, biết đâu lão phu mãn số trước khi linh đan luyện xong!
Lão phu không an tâm về duyên phận của Bảo Thoa nên muốn được ngươi gọi trước một tiếng nhạc phụ!
Nam Cung Giao thấy lão quá thiết tha, không nỡ từ chối, nhưng cố vớt vát :
- Lòng yêu thương của Trang chủ khiến vãn bối vô cùng cảm kích!
Tuy nhiên, vãn bối đã lỡ hứa nhường Lâm tiểu thư cho Mộc hiền đệ! Y cũng thầm yêu thương Bảo Thoa từ lâu, do mặc cảm xấu xí nên không dám thố lộ!
Lâm Thu Bái phì cười :
- Làm gì có chuyện ấy! Kính Thanh thuở nhỏ trèo cây té xuống, ngọc hành bị vỡ, đâu còn thiết tha với nữ nhân nữa?
Trịnh Mãng khoái trá cười vang :
- Thì ra việc công tử là thái giám! Hèn gì không có cọng râu nào, mông thì cong như đàn bà!
Trịnh Tháo đắc ý nói theo :
- Dường như tâm tính y cũng biến đổi, suốt ngày chỉ bám chặt lấy Nam Cung công tử!
Nam Cung Giao cũng rợn người thầm nghĩ :
- Bỏ mẹ ta rồi! Chẳng lẽ Kính Thanh ái nam, ái nữ, đã xem ta là chồng?
Mộc Kính Thanh thẹn quá hóa giận, vung tay tát vào mặt Trịnh Tháo rồi quay sang nghẹn ngào nói với Nam Cung Giao :
- Đại ca yên tâm! Tiểu đệ chẳng đến nỗi quái gở như vậy đâu? Nhưng nếu đại ca ghê tởm, tiểu đệ sẽ không bao giờ để đại ca nhìn thấy nữa!
Nam Cung Giao thấy mắt gã ướt rượt, lòng chàng cảm thương vô hạn, liền an ủi :
- Hiền đệ đừng nói thế! Dù ngươi có biến thành quái vật ta cũng vẫn yêu mến hết lòng!
Kính Thanh mỉm cười tha thứ, và nói :
- Đại ca đã biết rõ ẩn tình, xin cứ nhận lời gia sư để người được vui!
Nam Cung Giao gật đầu, rời ghế phục xuống lạy Lâm trang chủ chín lạy, miệng gọi :
- Nhạc phụ! Tiểu tế xin ra mắt.
Lân Thu Bái hoan hỉ cười dài, gương mặt đầy vẻ mãn nguyện, cao hứng.
Hôm ấy, cả đám đều say khướt, chỉ mình Kính Thanh là hơi tỉnh táo!
Sáng hôm sau, Nam Cung Giao và Kính Thanh theo hướng Tây về Bảo Định, còn anh em họ Trịnh đi đường Đông Nam, ghé qua thành Trực Cô (Tức Thiên Tân bây giờ).

Cuối tháng sáu, Nam Cung Giao vượt Hoàng Hà, cùng Kính Thanh đến thành Trịnh Châu vào giữa trưa.
Minh Đế đã tặng riêng cho Đặng Quyết, tức Nam Cung Giao, số vàng vạn lượng, nên chàng có thể yên lòng vào trọ Hà Nam đệ nhất lữ điếm.
Trịnh Châu là thủ phủ của tỉnh Hà Nam, lại nằm giữa giao điểm của hai đường quan đạo chính Bắc Nam, Đông Tây, nên trù phú, thịnh vượng hơn hẳn Từ Châu. Vì thế, chẳng có gì lạ khi giá phòng ở đây cao gấp đôi Tứ Hải đại lữ điếm.
Nghe Kính Thanh đòi hai phòng, Nam Cung Giao định cản nhưng lại thôi.
Nam Cung Giao bắt đầu cảm thấy rằng dường như mình cũng là kẻ ái nam ái nữ. Vì quá yêu mến Kính Thanh chỉ muốn ôm gã vào lòng!
Trong bửa cơm, Nam Cung Giao vui vẻ nói :
- Hiền đệ ở riêng là phải! Gần đây, tính tình ta rất quái dị, cứ nghĩ đến chuyện ôm ngươi mà ngủ!
Kính Thanh giật mình, trợn mắt vì mắc nghẹn. Gã nốc vội chung rượu lớn, nhăn mặt trách móc :
- Đại ca có bấy nhiêu vợ đẹp sao không nghĩ đến mà lại chọn tiểu đệ?
Nam Cung Giao cười khà khà :
- Ta cũng chằng hiểu vì sao?
Mệt mỏi vì đường xa nên họ chỉ ăn lấy lệ, lăn ra ngủ đến cuối giờ mùi.
Kính Thanh sang rũ Nam Cung Giao dạo phố :
- Đại ca! Anh em ta dạo một vòng, rồi ghé vào Thánh Thủy đại tửu lâu. Nơi ấy thức ăn ngon và có loại rượu đặc chế lừng danh Trung Thổ!
Nam Cung Giao nhăn mặt :
- Nắng thế này đi dạo làm gì, cứ lên quách chỗ ấy mà ngồi cho mát! Ta đang đói đây!
Kính Thanh phì cười :
- Đại ca quả là xấu nết ăn. Lỡ gặp năm đói khát, không chừng sẽ ăn thịt cả vợ con!
Nam Cung Giao gật đầu, bất ngờ phát vào chiếc mông tròn trịa của họ Mộc, rồi cười nham nhở :
- Đúng thế! Ta đang muốn ăn cả mông của ngươi đấy! Trông mà phát thèm!
Kính Thanh đau đớn xoa chỗ bị đánh, mắt láo liên tìm cách trả đũa.
Gã đổi giọng yểu điệu :
- Đại ca đừng mạnh tay, tiểu đệ thích được nhẹ nhàng thôi!
Ánh mắt gã đầy vẻ tình tứ, lả lơi khiến Nam Cung Giao rợn tóc gáy, bối rối lùi xa, miệng ấp úng :
- Hiền đệ đừng làm ta sợ! Ta là đàn ông mà!
Mộc Kính Thanh ôm bụng cười ngất, và hăm dọa :
- Đại ca còn dám ăn hiếp tiểu đệ nữa không?
Nam Cung Giao cười khổ :
- Té ra ngươi đùa! Thế mà ta tưởng ngươi đang muốn lấy ta! Từ nay ta xin chừa!
Hai người rời lữ điếm, đi thẳng về hướng Nam, lên tầng chót của Thánh Thủy đại tửu lâu ăn nhậu.

Trịnh Châu là địa bàn của Hồ bang, nên trước khi đến sông Hoàng Hà, Nam Cung Giao và Kính Thanh đã phải cải trang thành hai hán tử rậm râu.
Giờ đây, họ có thể ung dung ăn uống, dù chung quanh có rất nhiều khách võ lâm, vì ngay bàn bên cạnh là bốn gã đệ tử Hồ bang.
Không phải do bọn này dán chữ lên mặt, mà là vì Nam Cung Giao thính tai, nghe được cuộc đối thoại dù rất khẽ, lúc này Kính Thanh đã rời bàn, ôm bụng nhân nhó :
- Tô đường chủ! Tiểu đệ nghe anh em kháo nhau rằng Bang chủ phu nhân Đinh Tử Phượng bị tống vào ngục khi đang mang thai, chẳng hay việc ấy có thực hay không?
Gã Đường chủ họ Tô kia đắc ý gật đầu, ra vẻ quan trọng :
- Đúng thế! Đây là bí mật quan trọng của bổn bang, ta chỉ nói riêng cho mình ngươi biết, tuyệt đối không được để hở ra nghe chưa! Sài bang chủ đang luyện thần công nên kiêng nữ sắc đã hơn nửa năm nay, khi phát hiện Đinh phu nhân có thai, ông ta biết ngay vợ mình đã dan díu với gã Nam Cung Giao, trong lúc thực hiện chiến dịch đòi tiền chuộc Thất vương gia! Sài bang chủ định giết ngay Đinh phu nhân, nhưng nhị vị lão nhân gia Hồ Ly song tiên đã ngăn cản. Kế hoạch của họ là sẽ gởi thư nói rõ việc này, dụ Nam Cung Giao mang vàng đến chuộc Đinh Tử Phượng và bào thai, rồi giết gã! Nhưng phải sau khi hợp lực cùng Vô Thanh cốc tấn công Kim Diện cung vào đầu tháng tám tới, thì mới tính đến vụ này!
Nam Cung Giao nghe xong, lòng lo lắng vô hạn, thương cho Tử Phượng và đứa con của mình trong bụng nàng!
Chàng cố bình tâm lắng nghe tiếp, vì gã mặt choắt kia đã lại hỏi họ Tô :
- Sao chúng ta không tự mình ra tay để gom gọn số tài sản khổng lồ của Kim Diện cung mà lại phải nhờ đến Vô Thanh cốc?
Tô đường chủ lên mặt :
- Ngươi quả là ngu xuẩn! Cuộc tập kích này phải chớp nhoáng, kết liễu trước khi quan quân Từ Châu kéo đến. Do vậy mới cần lực lượng sát thủ thiện chiến của Vô Thanh cốc! Nghe nói lần này cả Hồ Ly song tiên và Long Giác Thần Quân đều ra tay để đảm bảo thành công.
Nam Cung Giao không ưa gì Cung chủ Kim Diện cung Tiền Phong Vân, nhưng dẫu sao lão ta cũng là nhạc phụ, chàng thầm mừng vì đã may mắn nghe được tin tức quí giá này.
Gã thứ ba, có hai nhánh râu cá chốt đểu cáng, chợt xen vào :
- Tô đường chủ. Sao Đinh phu nhân không trốn đi trước khi bị phát hiện? Để lâu bụng phướn ra tất nhiên sẽ lộ!
Họ Tô gật gù :
- Chắc chắn bà ta đã nghĩ đến việc đào tẩu nhưng do mắc kẹt mẫu thân đang lâm trọng bệnh nên không nỡ bỏ đi. Nửa tháng trước, Đinh lão thái từ trần, phu nhân ngất xỉu nên mới bị phát hiện là đang nịt bụng để giấu cái thai!
Có lẽ đã no say, bốn gã tính tiền rồi đi xuống.
Kính Thanh cũng đã ra đến, mặt phởn phơ, nhẹ nhõm.
Gã cau mày hỏi :
- Sao sắc diện đại ca lại u ám như vậy?
Nam Cung Giao gượng cười, chọc ghẹo gã để giấu giếm tâm sự :
- Ta đang lo ngươi rơi xuống hố xí chết mất tiêu rồi! Sao đi lâu thế?
Chắc chư vị độc giả vẫn thường thắc mắc, tự hỏi rằng người thời cổ nói chung, các hiệp khách nói riêng, đã đi vệ sinh như thế nào? Và vì sao Nam Cung Giao lại sợ Kính Thanh chết đuối trong hố xí?
Vậy thì xin chư vị bịt mũi mà đọc đoạn này!
Số là, hố xí có từ rất sớm, tên chữ Hán là xí sở (xí có nghĩa là bên cạnh, hàm ý là nó được làm ở chỗ kín đáo).
Thời Tần, Hán, hố xí thường liền với chuồng lợn, để tích trữ phân bón ruộng! Hố chứa phân rất sâu nên thường có người không cẩn thận, trượt chân ngã xuống đấy mà chết. Trong Tả Truyện, hồi Thành Công Thập Niên có viết: “Tấn Hầu là Tương Thực Trương vào hố xí rơi xuống mà chết!”
Chết thế này quả không thơm tho chút nào cả, và chắc là khó đầu thai vì ngay âm phủ cũng chẳng dám tiếp nhận!
Thời Ngụy Tấn, bọn quí tộc làm hố xí rất sang trọng, hào nhoáng ngay trong nhà, có cả nô bộc túc trực hầu hạ, khiến khách ở địa vị hèn kém ngại ngùng chẳng dám vào, cố mà nín!
Người xưa thường mặc áo dài, vào nhà vệ sinh rất bất tiện, phải cởi ra. Do vậy, đi vệ sinh được gọi khéo là canh y (thay áo).
Và sau khi đại tiện thì họ làm sao?
Xin thưa rằng, các cụ nhà ta dùng một mảnh tre mỏng để lau chùi, dùng xong rửa sạch mà xài cho lần khác! Ôi ghê quá!
Sau khi phát sinh ra giấy, đại đa số người Trung Hoa cổ vẫn cứ dùng mảnh tre, vì giấy quá đắt! Còn giấy viết rồi thì cũng không được đem ra chùi đít, vì phải tôn trọng chữ nghĩa của thánh hiền!
Cho đến thời nhà Nguyên, trong chính sử mới có ghi chép về việc dùng giấy vệ sinh.
Thời Minh-Thanh, cũng chỉ những nhà đại phú, quan quyền và trong các khách sạn lớn mới dám xài giấy xấu. Tất nhiên phải được vò cho thật mềm!
Giờ chúng ta có thể buông tay, trở lại Thánh Thủy đại tửu lâu, nghe Kính Thanh cười khúc khích :
- Đại ca chỉ giỏi nói bậy! Hầm phân ở tầng trệt, hố xí trên này chỉ là một bệ gạch thông xuống dưới, lỗ nhỏ xíu làm sao chui lọt được?
Nam Cung Giao xua tay :
- Thôi! Ngươi đừng diễn tả nữa, ta ăn mất ngon!
Chàng cố tỏ thái độ vui vẻ để gã nghĩa đệ tinh ranh kia không nghi ngờ, vặn vẹo. Chàng đã quyết mạo hiểm, xâm nhập Tổng đàn Hồ bang trên núi Trịnh Sơn để cứu Tử Phượng, chín phần chết, một phần sống, nên không thể cho Kính Thanh đi theo được. Nhưng phải chờ lấy xong Đại Hoàn đan, Kính Thanh lên đường mang về Bắc Kinh, thì chàng mới quay lại mà ra tay!
Đêm ấy, Nam Cung Giao thao thức mãi, mới ngủ và nằm mộng thấy Đinh Tử Phượng, bụng to vượt mặt đang ngồi dựa vách trong ngục đá.
Lạ thay, nàng lại mỉm cười và bảo :
- Trăng chưa tròn, tướng công đến đây làm gì?
Nổi xong, nàng biến mất!
Nam Cung Giao kinh hãi gọi vang, chạy nhanh tìm kiếm. Và rồi chàng giật mình tỉnh giấc, mồ hôi toát ra như tắm.
Chàng rời giường, uống một tách trà nguội, ngồi thừ người suy nghĩ.
Chàng nhẩm tính, biết rằng Tử Phượng mang thai đã được bốn tháng rưỡi, trước Sở Nhu nửa tháng. Câu nói lạ lùng của Tử Phượng trong giấc mơ lúc nãy cứ ám ảnh chàng mãi.
Chàng tự hỏi :
- Phải chăng đêm rằm tháng bảy này Hồ bang sẽ tổ chức cúng cô hồn?
Nhưng nghĩ đến việc Tử Phượng vẫn còn sống chứ chưa thác, làm sao báo mộng được, chàng chẳng biết nên tin hay không.
Sáng ra, Nam Cung Giao và Kính Thanh rời Trịnh Châu, đi đến núi Tung Sơn trên đất Đăng Phong!
Trưa hôm sau hai người đã có mặt ở chùa Thiếu Lâm.
Đọc xong thư của Chu Sơn đảo chủ, Bạch Vân phương trượng vui vẻ nói :
- Té ra nhị vị thí chủ đây một người là rể, một người là đồ đệ của Lâm đảo chủ!
Ông vuốt chòm râu bạc trắng như cước ngắm nghía Nam Cung Giao rồi gật gù khen :
- Nam Cung thí chủ khí chất phi phàm, cốt cách anh hùng, quả xứng đáng làm rể một bậc kỳ nhân như Chu Sơn đảo chủ!
Ông nhìn sang Mộc Kính Thanh, chưa kịp nhận xét đã bị gã cướp lời :
- Đệ tử vốn chẳng ra gì! Xin đại sư đừng nói ra khiến kẻ hèn này thêm tủi hổ!
Thiền sư mỉm cười :
- Thí chủ không cho phép thì lão nạp cũng chẳng dám nhiều lời!
Ông nâng chung trà mời khách, nhấp một hớp rồi nghiêm giọng :
- Nhị vị đến đây quả là đúng lúc! Lão nạp có điều muốn thỉnh giáo!
Kính Thanh mau miệng :
- Xin đại sư cứ dạy.
Bạch Vân thiền sư hắng giọng hỏi :
- Mộc thí chủ ở đảo Chu Sơn khá lâu có biết gì về cháu trai của Đông Hải thần tăng, trụ trì chùa Phổ Đà này không?
Mộc Kính Thanh đảo nhanh cặp mắt hắc bạch phân minh, ngập ngừng đáp :
-Bẩm đại sư! Người ấy tên gọi Trương Sĩ Hạo, ba mươi bốn tuổi, chưa vợ nổi tiếng khắp vùng duyên hải, có biệt danh là Ngọc Diện Thần Kiếm.
Họ Trương tiếp thu được hết sở học của Đông Hải thần tăng, kiếm pháp cực kỳ cao siêu, chưa biết bại là gì!
Gã đổi hơi rồi hỏi lại :
- Nhưng vì sao đại sư lại hỏi thăm về gã ấy?
Bạch Vân thiền sư nghiêm giọng :
- Phật pháp chỉ một nhưng giáo phái Trung Hoa lại chia nhiều nhánh, từ đấy sinh ra việc tranh giành thanh danh, nói ra thực xấu hổ!
Đầu năm ngoái, trong đại hội tăng thống toàn quốc vua Minh Anh Tông đã ngỏ ý muốn tặng chùa Thiếu Lâm danh hiệu Hộ Quốc Vĩnh Thọ Thiếu Lâm thiền tự.
Song Đông Hải thần tăng, Phương trượng chùa Phổ Đà đã đứng lên nói rằng Phổ Đà tự mới xứng đáng được nhận tấm bông vàng ấy. Đã nhiều năm nay, tăng lữ chùa Phổ Đà tham gia bảo vệ Đảo Chu Sơn trước sự tấn công của bọn hải tặc Phù Tang.
Còn Thiếu Lâm tự thì chẳng có công lao gì cả!
Thiền sư thở dài, kể tiếp :
- Đông Hải Phật huynh còn công khai phê phán rằng võ học Thiếu Lâm tự đã sa sút, chẳng thể sánh với Phổ Đà Tự!
Để chứng minh, Thần tăng đã hẹn tháng bảy này cử đệ tử là Trương Sĩ Hạo đến bổn tự so tài? Chỉ cần chùa Thiếu Lâm có đệ tử nào tuổi dưới bốn mươi mà đả bại được Sĩ Hạo thì Phổ Đà tự sẽ không tranh giành danh hiệu vua ban nữa.
Thánh thượng không muốn xen vào chuyện nội bộ của Phật Giáo nên đã chuẩn tấu cuộc phó ước!
Mộc Kính Thanh bực bội nói :
- Đông Hải thần tăng bề ngoài trang nghiêm, hiền hòa, không ngờ bên trong lại đầy đủ tham sân si!
Nam Cung Giao tủm tỉm cười :
- Ngươi cũng khôn nên sớm đào tẩu nếu không sẽ trở thành cháu rể của lão sư hổ mang ấy rồi!
Kính Thanh giật mình, nói lảng sang chuyện khác.
Gã giả vờ ngây thơ hỏi :
- Bẩm đại sư! Trước giờ đệ tử cứ ngỡ Phổ Đà tự cũng từ chùa Thiếu Lâm mà ra!
Bạch Vân thiền sư lắc đầu, từ tốn giải thích :
- Không phải thế, vào năm Trinh Minh thứ hai, đời Hậu Lương, một đoàn tăng nhân Nhật Bản đến Ngũ Đài sơn rước tượng Phật Quan Âm về nước thờ phụng. Nhưng thuyền của họ ra đến vùng đảo Chu Sơn thì gặp bão dữ dội, đành phải ghé vào núi Lạc Ca Sơn. Cho rằng đức Phật Quan âm không muốn rời Trung Hoa các tăng lữ Nhật Bản đành về tay không, còn tượng Phật gởi lại một nhà dân.
Ngôi nhà ấy sau này được đặt tên là Quan Âm Bất Khẳng Khứ Phật Viện (Viện Quan Âm không chịu đi).
Có một vị Thiền sư Nhật Bản ở lại với tượng Phật, và chính ông đã xây nên chùa Phổ Đà hiện nay. Vị Thiền sư này tên là Từ Dũ Kỳ, rất giỏi kiếm pháp và nhu thuật của Phù Tang. Ông ta đã nghiên cứu kiếm pháp Trung Hoa, phối hợp với sở học, sáng tạo nên pho Lạc Ca kiếm pháp, truyền lại cho đến bây giờ!
Tóm lại, Phổ Đà tự không có quan hệ gì với bổn tự!
Mộc Kính Thanh gật gù ra vẻ đã hiểu, rồi nghiêm trang nói :
- Không phải đệ tử xem thường quí tự, song Trương Sĩ Hạo đã được gia sư tặng cho một cánh Hải Thượng Huyết Hoa, nên hiện nay gã sở hữu đến bốn mươi năm chân khí! Đệ tử sợ rằng trong độ tuổi dưới bốn mươi, phái Thiếu Lâm không có ai hơn được gã!
Lời tiết lộ này đã khiến Bạch Vân thiền sư bàng hoàng.
Ông rầu rĩ xác nhận :
- Thí chủ nói không sai! Đệ tử giỏi nhất của lão nạp cũng chỉ có độ ba mươi năm tu vi!
Và ông cau mày hỏi :
- Nhưng sao Lâm đảo chủ lại tặng kỳ trân cho Trương Sĩ Hạo!
Kính Thanh ấp úng nói :
- Gia sư bắt đệ tử lấy cháu gái của Đông Hải thần tăng, đệ tử không chịu nên trốn đi. Gia sư phải bồi thường nhà họ Trương bằng một cành của đóa Hải Thượng huyết hoa!
Thiền sư mỉm cười :
- Lão nạp hiểu cả rồi!
Nam Cung Giao lên tiếng :
- Cũng tại ngươi nên giờ đây Thiếu Lâm tự gặp khó khăn. Hay là ngươi cứ ở lại đây, gặp Trương Sĩ Hạo gọi gã là Đại Cửu Tử rồi năn nỉ gã bãi binh!
Kính Thanh cười hì hì :
- Không phải tiểu đệ mà là chính đại ca sẽ phải gánh vụ này! Xét ra, đại ca cũng là đệ tử của Thiếu Lâm tự đấy!
Nam Cung Giao ngớ người :
- Sao ngươi lại nói thế?
Kính Thanh đắc ý nói :
- Pho quyền mà mỗi sáng đại ca thường múa may chính là công phu Kim Cang Phục Hổ quyền của phái Thiếu Lâm!
Nam Cung Giao ngượng ngùng, lẩm bẩm :
- Vậy mà ta cứ tưởng là gia học của họ Nam Cung!
Bạch Vân thiền sư hiền hòa nói :
- Thiếu Lâm tự có truyền thống lâu đời võ học phổ biến khắp thiên hạ, sau nhiều lần bổ khuyết thì thành của riêng, Nam Cung thí chủ không biết cũng là phải!
Riêng pho Kim Cang Phục Hổ Quyền thì ngay trong bổn tự cũng ít người luyện, vì lối đánh của môn võ này cực kỳ cương mãnh, hao tổn sức lực, song lại rất thích hợp với người có tứ chi dài như thí chủ!
Kính Thanh ngắt lời ông :
- Đại sư! Vì mối giao tình giữa quí tự và gia sư, đệ tử đề nghị được giúp một tay. Đại sư cứ cho Nam Cung đại ca đấu thử với lệnh đồ, nếu y thắng thì sẽ đại diện Thiếu Lâm tự đấu với Ngọc Diện Thần Kiếm!
Bạch Vân thiền sư đăm chiêu lưỡng lự, chậm rãi nói :
- Lão nạp cũng biết Nam Cung thí chủ đây đã từng giết Dạ Hồ Sài Tốn, đuổi chạy Hàn Đan tam kiếm, đả bại Thiếu cốc chủ Vô Thanh cốc, bản lãnh đứng đầu trong lớp thanh niên.Song việc này nguy hiểm đến tính mạng Nam Cung thí chủ, cũng như tổn hại thanh danh bổn tự, nên lão nạp chẳng dám nhận lời!
Kinh Thanh xua tay :
- Đại sư yên tâm! Nam Cung đại ca đã được gia sư truyền thụ tuyệt học, chẳng thể thua được. Còn về danh nghĩa thì đại sư chỉ việc nhận y làm đệ tử là xong! Y chưa hề nhận ai làm sư phụ!
Nam Cung Giao đang nóng ruột rời đây để lo việc cứu đại Đinh Tử Phượng nên bực bội cằn nhằn Kính Thanh :
- Sao ngươi lắm lời thế? Ta đâu phải con gái của ngươi mà lại chịu cảnh đặt đâu ngồi đấy?
Kính Thanh quay lại, buồn rầu bảo :
- Nếu Trương Sĩ Hạo chính là người đã đánh què chân tiểu đệ thì đại ca tính sao?
Nam Cung Giao nhảy dựng :
- Có việc ấy ư? Nhưng sao giả nhạc phụ là thầy của ngươi mà lại chịu để yên?
Kính Thanh hậm hực đáp.
- Đông Hải thần tăng có ơn một lần cứu mạng gia sư nương nên sư phụ đâu dám mở miệng?
Nam Cung Giao gật gù, nở nụ cười lạnh lẽo :
- Nếu thế thì ta sẽ chặt đứt hai chân của Sĩ Hạo để trả thù cho hiền đệ.
Bạch Vân phương trượng nghiêm giọng :
- Lão nạp rất hiểu tấm lòng của Mộc tiểu thí chủ. Lão nạp sẽ phụng ý thi hành, nhưng không dám chịu trách nhiệm trước Lâm đảo chủ!
Kính Thanh vui vẻ trấn an :
- Đại sư yên tâm! Gia sư đã từng bàn với đệ tử về việc đem Nam Cung đại ca đến học nghệ ở Thiếu Lâm tự. Nếu y thụ giáo pho nội công Liên Hoa tâm pháp và được chỉ điểm thêm về kiếm đạo, thì sau này mới mong giết nổi Long Giác Thần Quân!
Nam Cung Giao sợ hãi la lên :
- Tạ. ta không chịu cạo đầu làm sư đâu!
Kính Thanh phì cười :
- Làm đệ tử tục gia thì đâu cần phải cạo đầu! Chẳng lẽ gia sư lại muốn con rể xuất gia để ái nữ ở giá?
Gã quay sang bảo Bạch Vân thiền sư :
- Bẩm Phương trượng! Trước lúc rời Trung Nguyên trở về Chu Sơn, gia sư đã so tài với Khương lão quỷ. Ông có cơ hội để khẳng định rằng Long Giác Thần Quân năm ấy đã luyện được ba thành Dịch Cân kinh. Họ Khương trúng một roi vào huyệt phục thố trên đùi phải mà chẳng hề hấn gì! Đấy chính là phép Di Huyệt trong Dịch Cân kinh, suy ra, lão ta chính là kẻ đã vào Tàng Kinh các giết người cướp kinh. Gia sư không nói ra vì sợ đại sư nóng ruột báo thù sẽ uổng mạng!
Bạch Vân thiền sư run lẩy bảy, khẽ lẩm bẩm :
- Thì ra tiên sư chết dưới tay Long Giác Thần Quân!
Hơn ba mươi năm trước, sư phụ của Bạch Vân là Nhất Hối thiền sư, phụ trách Tàng Kinh các.
Một đêm nọ, có kẻ đã giết ông một cách êm thắm và lấy đi quyển Dịch Cân kinh. Thiếu Lâm tự giấu kín mối nhục này, dốc hết lực lượng ra âm thầm điều tra, nhưng không hề có manh mối!
Bạch Vân thiền sư vốn là trẻ mồ côi, bị quăng bỏ nơi chân núi Thiếu Thất, được Nhất Hối thiền sư nhặt về nuôi dưỡng, dạy dỗ. Do vậy, Bạch Vân vẫn xem Nhất Hối như cha mình. Ông đã rời chùa lang bạt khắp nơi để tìm hung thủ, gặp gỡ Chu Sơn đảo chủ, kết tình bằng hữu.
Sau mười năm truy tìm vô vọng ông trở về chùa khổ công tu luyện, rồi trở thành Chưởng môn phái Thiếu Lâm!
Do quá đau lòng vì cái chết của ân sư, râu tóc và lông mày của Bạch Vân đều bạc trắng, dù tuổi mới sáu mươi lăm!
Nay phát hiện lai lịch kẻ thù, Thiền sư nổi lòng sầu hận, lát sau mới bình tâm được. Ông biết mình không có chứng cứ cụ thể và cũng chẳng đủ bản lãnh báo thù. Song, nếu sử dụng Nam Cung Giao như phương tiện phục hận thì ông cũng chẳng nhẫn tâm.
Thiền sư điềm đạm nói :
- Lão nạp và đệ tử chùa Thiếu Lâm sẽ tìm cách đòi lại Dịch Cân kinh, chẳng dám để cho Nam Cung Giao thí chủ phải đương đầu với một đại cao thủ như Long Giác Thần Quân!
Kính Thanh cười xòa :
- Thôi được! Việc ấy sẽ tính sau, giờ lo chuyện dành tấm bảng sắc phong trước đã!
Bạch Vân thiền sư lắc đầu :
- Sau khi biết ai là hung thủ sát hại tiên sư, lòng lão nạp đã nguội lạnh với thanh danh. Ngày mai dẫu đệ tử Thiếu Lâm có bại thì cũng không sao!
Nam Cung Giao mừng rỡ tán thành :
- Đại sư nhạt mùi danh lợi như thế là đúng tôn chỉ của Phật môn. Xin đại sư ban cho Đại Hoàn đan để anh em đệ tử sớm trở lại Bắc Kinh!
Bạch Vân thiền sư gật đầu, đi vào trong hậu xá để lấy thuốc.
Ở đây, Mộc Kính Thanh giận dữ đay nghiến :
- Đại ca quả là người ngu ngốc, không biết chụp lấy cơ hội ngàn vàng. Nếu học được Liên Hoa tâm pháp, bản lãnh đại ca sẽ tăng tiến vượt bậc, vài năm nữa dư sức tranh chức Minh chủ võ lâm!
Nam Cung Giao cười mát :
- Ta cần quái gì cái chức Minh chủ? Lúc ấy suốt ngày ăn cơm nhà, vác ngà voi, bỏ mấy em vợ trẻ đẹp cho ai!
Kính Thanh tức hộc máu, trợn mắt hỏi :
- Vậy là đại ca cũng chẳng hề nghĩ đến chuyện báo thù cho tiểu đệ?
Nam Cung Giao nheo mắt đáp :
- Ngươi ngu thực? Ngày mai, chờ Trương Sĩ Hạo đánh nhau với Thiếu Lâm tự xong, ta sẽ đứng ra khiêu chiến. Hà tất phải lạy lão sư già kia làm thầy?
Kính Thanh hài lòng nói :
- Như thế cũng được! Nhưng đại ca nhớ đừng nói nguyên do, nếu không, gã họ Trương sẽ kiện gia sư đấy! Tiểu đệ cũng ẩn mặt!
Nam Cung Giao gật đầu :
- Được rồi! Ta sẽ mồm loa mép giải vu oan giá họa cho gã để gây sự! Nhưng ngươi cũng phải cho ta biết vài yếu điểm của Sĩ Hạo để dễ bề công kích?
Kính Thanh thở dài :
- Khó đấy! Trương Sĩ Hạo tướng mạo anh tuấn như cây ngọc trước gió, tính tình trầm tĩnh, trang nghiêm, khí độ rộng rãi, dù vô cớ bị chửi cũng không thèm chấp!
Tóm lại, dường như con người gã không hề có khuyết điểm!
Nam Cung Giao phì cười :
- Một người toàn mỹ như vậy đến giờ vẫn chưa có nữ nhân nào tóm cổ thì cũng lạ? Hay là gã quá tốt đẹp nên không còn là người nữa?
Kính Thanh cười khổ :
- Đại ca nói đúng! Trương Sĩ Hạo như kẻ thuộc về thế giới thần tiên, lạnh lùng cao quí tựa pho tượng ngọc bích, chỉ có thể ngắm nghía chứ không thể ôm mà ngủ được!
Nam Cung Giao ngao ngán :
- Gã nầy khó chơi thực! Ta lấy cớ gì để khiêu khích đây!
Kính Thanh ấp úng nói :
- Đại ca cứ nói rõ việc mình là rể của gia sư, và giả vờ nổi giận về việc gã đã rình Lâm Bảo Thoa tắm hồi ba năm trước!
Nam Cung Giao giật mình than :
- Có việc ấy sao? Thế là lỗ vốn rồi, ta chưa được thấy gì mà người ngoài đã xem mãn nhãn! Chán thực!
Kinh Thanh hốt hoảng biện minh :
- Không phải! Đêm ấy trăng khuyết y chỉ thấy lờ mờ phía sau thôi!
Nam Cung Giao lừ mắt :
- Phải chăng hôm ấy ngươi cũng rình Bảo Thoa nên mới biết rõ như vậy?
Kính Thanh cuống quít đáp :
- Tiểu đệ nào đến nỗi khốn nạn như thế! Điều này do Lâm sư muội kể lại thôi!
Nam Cung Giao bỗng nhớ ra một điều :
- Thế Bảo Thoa tắm ở đâu mà để Sĩ Hạo nhìn trộm?
Kính Thanh nói lí nhí :
- Ngoài bờ biển.
Nam Cung Giao than trời :
- Chết ta rồi! Nếu thế thì chắc gì một mình gã họ Trương nhìn thấy? Nàng ta có thói quen tắm khỏa thân dưới trăng đã nhiều năm, khoảng chừng một nửa dân đảo Chu Sơn đều có cơ hội thưởng lãm! Ta phải quay lại Bắc Kinh hỏi cho ra lẽ mới được?
Kính Thanh hồn phi phách tán, quì này xuống khóc và lạy lục :
- Tiểu đệ xin đem tính mạng ra thề rằng suốt đời Lâm sư muội chỉ sơ xuất có một lần như thế! Đại ca mà khinh khi nàng thì tiểu đệ sẽ chết không nhắm mắt.
Nam Cung Giao phá lên cười sặc sụa, kéo Kính Thanh ôm vào lòng vỗ :
- Ta chỉ đùa mà ngươi tưởng thực sao? Lòng này còn rộng rãi hơn gã Trương Sĩ Hạo kia nhiều!
Kinh Thanh điên tiết, há miệng cắn mạnh vào ngực Nam Cung, khiến chàng đau đớn thét lên.
Kính Thanh nhảy lùi, cười đắc ý :
- Lần sau đại ca còn dám hí lộng tiểu đệ nữa không?

Bạch Vân thiền sư ra đến, trao lọ sành đựng ba viên Đại Hoàn đan và một phong thư cho Kính Thanh.
Hai người quì xuống đảnh lễ rồi rời núi Thiếu Thất, trở về phòng trọ trong thành Đăng Phong!
Sáng hôm sau, ăn điểm tâm xong, Kính Thanh ân cần dặn dò :
- Tiểu đệ có mặt không tiện! Đại ca cứ một mình lên núi, cố mà thắng cho được Trương Sĩ Hạo, dù không chặt chân gã thì cũng chẳng sao. Điều chủ yếu là phải đả bại gã, tuyệt đối không được thua! Nếu đại ca mà thua thì tiểu đệ sẽ không bao giờ nhìn đại ca nữa?
Ánh mắt lo lắng của gã khiến Nam Cung Giao áy náy, vội hứa :
- Hiền đệ cứ yên tâm đem thuốc về cho Lâm sư phụ! Đại ca hứa sẽ làm cho hiền đệ hài lòng!
Kính Thanh nghiêm nghị nói :
- Trương Sĩ Hạo là một kiếm thủ bẩm sinh, trình độ kiếm thuật dễ đạt đến cảnh giới kiếm đạo. Đại ca nhất thiết không được xem thường! May mà đại ca đã luyện được bốn thành của pho Hư ảo Thần Bộ nên tiểu đệ mới yên tâm để đại ca so tài với gã!
Hai người hẹn gặp lại nhau ở Nam Kinh rồi chia tay.
Kính Thanh đi rồi, lát sau Nam Cung Giao lững thững xách kiếm lần đến chân núi Thiếu Thất. Chàng không thượng sơn mà nhảy lên chặng ba ẩy cổ thụ đầu sơn đạo nằm hát nghêu ngao, chờ Ngọc Diện Thần Kiếm đến.
Trong hai mươi mấy ngày xuôi Nam, những lúc dừng chân dọc đường, chàng đã cùng Kính Thanh luyện tập pho Hư Ảnh Thần Bộ, đạt đến bốn thành hỏa hầu. Với thân pháp kỳ tuyệt này, Nam Cung Giao rất tự tin vào bản lãnh của mình.
Chàng thầm biết ơn Chu Sơn đảo chủ đã cất giùm gánh nặng trong lòng mình.
Mấy tháng nay, tuy không nói ra nhưng tâm hồn chàng luôn chua xót khi nghĩ đến cảnh thảm bại và chết dưới tay Khương Thư Hàn!
Nghĩ đến Bảo Thoa và Tử Phượng, chàng mỉm cười tự nhủ :
- Mới xuất đạo chưa đầy một năm mà ta đã có đến năm cô vợ, biết ăn nói thế nào với mẫu thân đây?
Chàng lẩm nhẩm thành tiếng :
- Không sao! Ba lần ba lần chín, cứ cãi chày cãi cối là xong!
Bản cửu chương là do người Trung Hoa sáng tạo ra, đứa trẻ nào bắt đầu học toán cũng đều phải thuộc.

Quá đầu giờ Thìn, Nam Cung Giao nghe tiếng vó ngựa vọng đến, liền nhỏm dậy xem.
Trong đoàn kỵ mã kia còn cách xa đến bẩy tám trượng, song đôi mắt tinh ranh của chàng vẫn nhận ra hai người quen. Đó là Địa Thượng Song Lôi, hộ pháp của Tứ Hải hội, đã từng xuất hiện ở nhà Đặng Kiệm đất Tô Châu!
Hai lão quỷ này có dung mạo cổ quái chẳng thể nào lẫn vào đâu được. Giờ đây, họ đi sau lưng một hán tử Bạch Y dung mạo tuấn tú như Phan An tái thế, chắc là Ngọc Diện Thần Kiếm Trương Sĩ Hạo.
Chẳng khó gì để hiểu rằng Song Lôi là thủ hạ của họ Trương, họ không dám thúc ngựa đi ngang hàng với gã.
Một ý niệm lóe sáng trong đầu Nam Cung Giao :
- Chẳng phải Trương Sĩ Hạo là Hội chủ Tứ Hải hội!
Chàng vui mừng khôn xiết vì đã nắm nước thóp đối phương. Do tin rằng không ai biết Địa Thượng Song Lôi là người của Tứ Hải hội nên Trương Sĩ Hạo mới đưa họ theo. Xui cho gã là Nam Cung Giao lại vô tình có mặt và khám phá ra chân tướng.
Phía sau thầy trò Sĩ Hạo còn có một toán quân triều đình đông độ ba mươi tên, đang hộ tống một chiếc kiệu phủ sa tanh, có lẽ là Tri huyện Đăng Phong. Lão ta đến đây để giám sát cuộc so tài. Rồi báo kết quả về Bắc Kinh!
Nam Cung Giao nhanh chân chuyền sang cây khác, chạy thẳng lên chùa Thiếu Lâm.
Các tăng lữ gác cổng Tam quan vui vẻ hỏi :
- Sao thí chủ còn quay lại đây làm gì?
Chàng cười đáp :
- Để chặt chân Ngọc Diện Thần Kiếm! Gã đã đến!
Một tăng nhân vội vả vào chiếc khánh đồng, báo hiệu cho người trong chùa biết mà chuẩn bị!
Đang chờ đợi, nên Bạch Vân thiền sư và các cao tăng mau mắn ra sân trước của tòa Đại Hùng bảo điện, ngạc nhiên vì thấy Nam Cung Giao.
Chàng lướt đến vòng tay chào rồi nói :
- Trương Sĩ Hạo chính là Hội chủ Tứ Hải hội, đang bị triều đình truy nã. Lát nữa, đại sư cứ mời phe địch vào dùng trà, rồi tìm cách dẫn lão Tri huyện vào quí tăng xá. Phen này thì bảng vàng sắc phong kia chắc chắn là của Thiếu Lâm tự.
Thiền sư kinh ngạc trước diễn biến bất ngờ và thuận lợi này, nhíu mày hỏi lại :
- Tiểu thí chủ có nhìn lầm không?
Nam Cung Giao mỉm cười :
- Chắc đại sư cũng phong phanh biết đệ tử còn là rể của Nam Kinh Hình bộ Thượng thư, xin cứ để đệ tử lo liệu là mọi việc sẽ chu toàn! Đại sư xem nhẹ hư danh, nhưng hai ngàn tăng lữ Thiếu Lâm sẽ không vui khi thua kém Phổ Đà tự.
Bạch Vân thiền sư cảm động đáp :
- Thiện tai! Thiện tai! Nam Cung thí chủ quả có tấm lòng Bồ tát. Xin cứ tùy nghi hành động!
Các cao tăng đứng sau cũng nhất tề chắp tay vái tạ!
Nam Cung Giao hổ thẹn rảo bước về phía hậu tự!

Lát sau, Ngọc Diện Thần Kiếm Trương Sĩ Hạo và Tri huyện Đăng Phong là Phương Khiên lên đến.
Địa Thượng Song Lôi và toán sĩ tốt đều ở lại chân núi để gữ ngựa, chỉ có gã sư gia của huyện đường đi theo Phương Khiên.
Bạch Vân thiền sư lập tức nhận ra Trương Sĩ Hạo cốt cách phi phàm, thần thái trang nghiêm, đạo mạo, cử chỉ ung dung, đáng mặt nhân tài.
ông cố tìm tướng xấu trên gương mặt đẹp và đoan chính kia mà chỉ hoài công. Phải chăng trong thân thể y còn có ẩn tướng kỳ dị, nếu không thì chẳng thể là kẻ đại ác được?
Ông chợt giật mình với ý nghĩ :
- Lạ thực! Sao ta lại có cảm giác rằng đang chiêm ngưỡng, thẩm định một pho tượng cổ chứ chẳng phải người? Ánh mắt y dường như vô cảm, nhìn ta mà không thấy ta, miệng cười mà mắt không cười?
Thiền sư cố dẹp bỏ niềm nghi hoặc, tươi cười mời mọc :
- Chẳng mấy khi Tri huyện đại nhân giá lâm tệ tự, xin mời ngài và Trương sư diệt vào khách xá dùng chén trà nhạt!
Tri huyện Phương Khiên đã hai lần nhờ Thiếu Lâm tự lo tang ma, cúng kiến cho song thân nên rất kính trọng Bạch Vân phương trượng. Vả lại ông cũng muốn ngôi chùa trong địa hạt mình được sắc phong chứ chẳng phải chùa Phổ Đà xa xôi, lạ lẫm!
Phương tri huyện vui vẻ đáp :
- Phương trượng đã có lời mời, bổn chức đâu dám từ chối!
Bạch Vân hài lòng, cùng sáu cao tăng đi trước dẫn đường.
Trương Sĩ Hạo vẫn thản nhiên đi theo, chẳng hề tỏ vẻ nôn nóng. Gã khoan thai bước đi trong bộ võ phục gấm trắng tinh.
Trộng gã xinh đẹp và trang nghiêm như một đóa sen trượng đang trôi!
Lạc Ca, theo tiếng Phạn có nghĩa là Bạch Liên. Trương Sĩ Hạo sinh ra, lớn lên trên núi Lạc Ca, có lẽ vì thế mà nhiễm sắc hương.
Vào đến khách sảnh, Bạch Vân thiền sư giới thiệu sáu cao tăng, rồi hỏi thăm gia cảnh Phương tri huyện, chẳng hề đá động gì đến cuộc so tài.
Thấy Sĩ Hạo vẫn an nhiên, chậm rãi nhấp từng hớp trà thơm, ông thầm khen định lực của y.
Nửa khắc sau, Bạch Vân thiền sư nói với Phương tri huyện :
- Phương đại nhân! Lão nạp vừa được Phương trượng chùa Phật Quang ở Ngũ Đài sơn tặng cho bức cổ họa Trường Giang Vạn Lý Đồ của Hạ Khuê thời nhà Tống. Chẳng hay đại nhân có muốn thưởng lãm hay không?
Phương Khiên cũng là tay nho học tài hoa, và rất mê tranh cổ. Vì vậy, lao đứng phắt lên, mừng rỡ nói :
- Quả là dịp may hiếm có. Từ lâu bỗn chức đã khao khát được chiêm ngưỡng nét bút của thần họa thời nhà Tống!
Thế là lão lôi xộc Bạch Vân phương trượng về tăng xá, cách đấy không xa, bỏ mặc Ngọc Diện Thần Kiếm ngồi lại!
Đến nơi Phương Khiên say sưa ngắm nghía bức tranh, xuýt xoa khen ngợi từng nét thắng bút.
Lão chưa mãn nhãn thì có người thứ ba vào đến.
Chàng trai râu rậm, thân hình cao lớn này mặc bộ võ phục gấm đen thượng hạng, thần thái rất oai vệ. Chàng ta nhìn họ Phương mỉm cười chẳng thèm cúi chào.
Phương Khiên bỡ ngỡ hỏi Bạch Vân :
- Đại sư! Chẳng hay người này là ai vậy?
Bạch Vân chưa biết đáp sao thì chàng râu rậm kia đã lạnh lùng tự giới thiệu :.
- Tại hạ là Nam Cung Giao người của Đô Sát viện.
Và chàng dí mãnh Kim Bài đáng sợ vào mặt Phương Khiên.
Kẻ làm quan, ít người dám tự hào mình tuyệt đối trong sạch, không hề tơ hào công quĩ và của dân. Phương Khiên cũng có chấm mút chút đỉnh nên sợ đến nhũn cả người khom lưng vái dài :
- Ty chức Phương Khiên, Tri huyện Đăng phong, xin bái kiến đại nhân.
Nam Cung Giao hờ hững đáp :
- Phương túc hạ bất tất phải đa lễ. Tại hạ chỉ có vài điều muốn hỏi!
Họ Phương cung kính nói :
- Xin đại nhân chỉ giáo!
- Túc hạ đã nhận được công văn truy nã Tứ Hải hội của Triều đình hay chưa?
Phương Khiên cố nén tiếng thở dài, té ra đối phương đến đây vì chuyện này chứ chẳng phải để sách hạch mình!
Lão vội đáp :
- Bẩm đại nhân có! Ty chức đã dốc sức điều tra, có thể đoan chắc rằng Tứ Hải hội không hề hiện diện trong địa phận này! Vả lại, bọn tà bang kia chẳng dại gì lập sào huyệt hay hoạt động ở gần chùa Thiếu Lâm!
Nam Cung Giao cười nhạt :
- Túc hạ sai rồi! Gã Trương Sĩ Hạo và hai lão già áo xanh mồm thiên lôi kia chính là người của Tứ Hải hội! Tại hạ đã bám theo họ từ Chiết Giang đến tận đây, do Sĩ Hạo là cháu ruột của Đông Hải thần tăng chùa Phổ Đà nên tại hạ chẳng thể công khai bắt trói khi chưa tìm ra chứng cớ xác thật. Do vậy, hôm nay tại hạ sẽ dùng thân phận khác đánh đuổi gã, rồi bám theo để tìm sào huyệt. Nhiệm vụ của túc hạ là phải nhất nhất ủng hộ cho ta!
Chàng bất ngờ quắc mắt hỏi :
- Hay là túc hạ đã nhận hậu lễ của Tứ Hải hội rồi!
Ngón đòn chụp mũ của quan trên đã khiến Phương Khiên tá hỏa tam tinh, mặt tái mét, run giọng mà biện bạch :
- Khải bẩm đại nhân? Ty chức có giao tình với Thiếu Lâm tự, lẽ nào lại nhận lễ của đối phương! Xin đại nhân minh xét!
Tội tư thông vời cường đạo bị xử rất nặng nên Phương Khiên run bần bật, tự nhủ rằng mình đã may mắn khi chẳng nhận được gì của Sĩ Hạo!
Thực ra, nếu họ Trương đưa ra vài nén vàng, để tranh thủ tình cảm thì lão cũng không chê!
Nam Cung Giao gật gù :
- Làm quan mà giữ được đạo liêm chính thì chẳng thể sợ mất đầu! Túc hạ hãy quay lại khách xá, nói cười tự nhiên, không được để họ Trương sinh nghi!
Nói xong, chàng kể sơ qua kế hoạch của mình!
Phương Khiên vâng dạ, vái dài rồi cùng Bạch Vân thiền sư rời phòng!
Phương tri huyện năm nay đã sáu mươi, làm quan được ba chục năm, thạo nghề giữ sắc diện để làm vui lòng quan trên. Dẫu mẹ sắp chết, lão cũng có thể tươi cười đón tiếp Tri phủ Hà Nam, huống hồ gì là việc che mắt Trương Sĩ Hạo?
Thế là Phương Khiên vui vẻ bảo Sĩ Hạo :
- Bỗn chức mê tranh cổ hơn cả vợ con, làm mất thời giờ của Trương thiếu hiệp! Thôi thì chúng ta ra sân tiến hành ngay việc tỷ võ cho xong.

Hai phe đi sang mảnh sân rộng cạnh đình Đạt Ma. Đây là nơi luyện võ hàng ngày của đệ tử Thiếu Lâm.
Ngoài sư sãi, trong chùa lúc nào cũng có gần ngàn đệ tử tục gia, từ bốn phương đến học võ. Thiếu Lâm tự là trường dạy võ lớn nhất, nỗi tiếng nhất Trung Hoa!
Nền của sân luyện võ được lát bằng những viên đá núi. Sau mấy trăm năm, bàn chân người đã làm mòn lớp đá sù sì, có chỗ còn lõm hẳn xuống, trở thành điểm đánh dấu đường lối bộ pháp cho những người mới nhập môn!
Lúc này, trên sân tụ tập rất đông người. Họ cổ vũ cho hai kẻ đang đánh nhau chí chóe!
Một bên là nhân sư trọc đầu, tuổi gần bốn mươi, to lớn, vạm vỡ, sử dụng trường côn. Bên kia là một tăng nhân cao lớn, y phục thùng thình, lem luốc, râu ria rậm rạp và mái tóc bù xù xoã dài.
Thật khó xác định người này có phải hòa thượng hay không?
Song vì gã mặc tăng bào xám, nên chúng ta cứ xem như sư sãi!
Gã ta không xử dựng vũ khí mà ngang nhiên dùng quyền cước chống cự với cây côn gỗ cứng rắn, đen bóng.
Pho quyền pháp mà nhà sư tóc dài thi triển chính là Kim Cương Phục Hổ quyền của Thiếu Lâm.
Đôi tay dài thượt của gã đôi lúc biến thành trào hổ, dũng mãnh uy hiếp lồng ngực đối phương. Còn hai cước thì liên tục búng ra những đòn đá chớp nhoáng, tấn công từ bụng đến gối kẻ địch. Quyền phong vù vù xé không gian, biểu hiện một sức mạnh phi thường!
Nhà sư đầu trọc cũng lợi hại không kém , trường côn vun vút bay lượn, đòn nào cũng nặng nghìn cân!
Thế mà, nhà sư toc dài vẫn đủ sức vừa đánh vừa la hét :
- Đại Lực sư huynh không làm gì được tiểu đệ đâu, mau nhường chỗ cho Vô Dụng Sa Di này thôi.
Té ra nhà sư không tóc là Đại Lực, vì ông ta khỏe như voi, còn người tóc dài, râu rậm là Sa Di Vô Dụng.
Thấy Phương trượng Bạch Vân và khách xuất hiện, Vô Dụng tấn mạnh một trảo, đánh bạt trường côn ra rồi nhảy lùi, quì xuống gọi :
- Sư Bá Chưởng môn! Xin người cho phép đệ tứ được đấu với gã kiếm khách mặt trắng kia! Nếu để Đại Lực sư huynh xuất trận, chắc chắn sẽ bại thôi!
Đại Lực cũng quì lạy :
- Bẩm sư phụ! Gã điên này không chấp hành mệnh lệnh của Chưởng môn, cứ lằng nhằng tranh giành với đệ tử? Đã tên là Vô Dụng thì còn làm gì được nữa?
Vô Dụng nghe xong, bất ngờ vung quyền đấm vào vai, khiến đối phương lăn ra!
Đại Lực giận dữ thọc cước trả đũa, song Vô Dụng đã nhảy lùi cười hể hả :
- Sư huynh có giỏi thì ra đây đấu tiếp.
Đại Lực chụp côn nhảy đến đánh liền. Gã không còn nương tay nên Vô Dụng liên tiếp phải khoá hậu, miệng oang oang kêu đau!
Quần tăng đứng ngoài ôm bụng cười ngất trước cảnh náo nhiệt. Đất Phật trang nghiêm, có bao ggờ họ được chứng kiến màn kịch khôi hài thế này đâu?
Bạch Vân thiền sư cũng cười, nhưng phải bóp bụng quát :
- Dừng tay!
Ông quay sang nhìn Sĩ Hạo, hài lòng khi thấy ánh mắt gã có lửa giận.
Họ Trương biết phái Thiếu Lâm bày trò hí lộng mình, nhưng không đoán ra chủ ý. Gã cố nhẫn nhục vì tin vào bản lãnh siêu việt của mình.
Trong lúc Bạch Vân rời chỗ, đi quở mắng hai đệ tử thì Phương tri huyện trổ tài cài bẫy :
- Nhà sư quái dị đầu tóc bù xù kia là đệ tử của Bạch Hải thiền sư, đã quá cố! Gã bị mang pháp danh Vô Dụng cũng vì tính nết gàn dỡ, điên khùng, võ nghệ thì không sánh bằng Đại Lực! Phái Thiếu Lâm chắc chắn sẽ chọn Đại Lực chứ không chọn Vô Dụng!
Phía xa xa, cái giọng oang oang của Vô Dụng cứ vang lên :
- Xin Chưởng môn sư bá giữ đạo công bằng cho! Để đệ tử đánh với Đại Lực sư huynh xem ai xứng đáng đại diện bổn tự?
Nói dứt lời, gã lén đá vào mông Đại Lực rồi bỏ chạy!
Đương nhiên, Đại Lực lại rượt theo!
Bạch Vân thiền sư bối rối, thở dài tỏ vẻ bất lực. Người ngoài sẽ tưởng ông niệm tình sư đệ đã chết nên không dám nặng tay với gã sư diệt điên khùng!
Thực ra, ông bối rối vì không quen diễn kịch, và thầm hổ thẹn.
Ở đây Phương tri huyện nhẹ nhàng thọc mũi đao mưu kế vào sâu hơn :
- Thiếu hiệp tính sao? Trời đã sắp trưa rồi hay là thiếu hiệp cứ lần lượt đả bại từng người cho phái Thiếu Lâm phải tâm phục khẩu phục? Thú thực là bổn chức cũng chẳng ưa gì họ.
Năm ngoái tiên mẫu từ trần, bổn chức đến nhờ họ lập trai đàn, ma chay thì họ từ chối khéo rằng mình là Thiền Tông chứ chẳng phải Tỉnh Thổ Tông!
Trương Sĩ Hạo dù là kẻ cơ trí bậc nhất võ lârn cũng phải lầm trước thủ đoạn của một lão quan già! Quan trọng còn khốc liệt hơn chốn giang hồ bội phần!
Trương Sĩ Hạo suy nghĩ một lúc, gật đầu đồng ý.
Phương tri huyện cao giọng gọi :
- Mời Phương trượng đến đây. Trương thiếu hiệp đã đồng ý lần lượt tỷ đấu với Đại Lực và Vô Dụng.
Bạch Vân thiền sư liền quay lại.
Hai đệ tử cứng đầu kia cũng lót tót treo sau!
Ông ngượng ngùng nói :
- Khí độ rộng rãi của Trương thí chủ khiến lão nạp phải hổ thẹn! Chỉ vì lão nạp dạy dỗ đệ tử không chu đáo nên mới có cảnh rối rắm này. Thôi thì, lão nạp sẽ cho Đại Lực đánh trận đầu, nếu gã thua, Vô Dụng sẽ đánh trận thứ hai! Trương thí chủ toàn thắng cả hai, bổn tự nhận bại! Giữa hai trận, thí chủ có quyền nghỉ ngơi bao lâu cũng được.
Sĩ Hạo điềm đạm đáp :.
- Nếu đệ tử có lỡ tay, mong đại sư lượng thứ cho!
Không hiểu sao, Bạch Vân thiền sư lại nghe rợn người! Ông thở dài, ra hiệu cho Đại Lực, lòng lo lắng không nguôi!
Vì thanh danh của Thiếu Lâm, ông mong mỏi Đại Lực thắng trận, không cần đến bàn tay của Nam Cung Giao. Song giờ đây, ông linh cảm rằng mình đã quá cố chấp! Đại Lực không những thua mà còn có thể tàn phế hay bỏ mạng, dưới lưỡi kiếm của Sĩ Hạo.
Gã không còn là người khi đã hòa lẫn với thanh thép lạnh lẽo trong tay! Và thép thì không có lòng nhân!
Thay vì dặn dò đệ tử phải tận lực thắng, Thiền sư lại nghiêm giọng bảo :
- Đại Lực! Con không được hiếu thắng mà uổng mạng! Nếu thấy nguy thì phải bãi chiến ngay. Tấm bảng sắc phong kia tuy quí nhưng không thể sánh với mạng người!
Đại Lực là con của đôi vợ chồng tiều phu dưới chân núi Thiếu Thất. Năm gã mười tuổi, song thân bị cây ngã đè chết, được Bạch Vân thiền sư đem lên núi nuôi dạy.
Đại Lực tuy lỗ mãng nhưng rất hiếu thuận, chẳng bao giờ dám trái ý sư phụ.
Gã gật đầu hứa :
- Ân sư yên tâm! Đồ nhi cần phải lành lặn để sau này phụng dưỡng người!
Đại Lực cầm côn đi đến trước mặt Trương Sĩ Hạo, xuống tấn thủ rồi nói :
- Thí chủ là khách, xin mời xuất thủ trước!
Sĩ Hạo chỉ khẽ gật đầu, chậm rãi rút kiếm. Thân kiếm bóng loáng như gương, phản chiếu ánh dương quang, rọi vào gương mặt đẹp của Sĩ Hạo. Gã đưa hai ngón tay vuốt dọc lưỡi kiếm, ánh mắt đầy vẻ đắm say.
Bạch Vân thiền sư và các cao tăng chấn động và hiểu rằng họ Trương đã tiến rất xa trong kiếm đạo. Kẻ mới qua cửa chẳng thể nào đạt đến trình độ say mê một thanh thép vô tri!
Nam Cung Giao cũng biết điều ấy, tự nhủ rằng sau ba năm xa cách, trình độ kiếm thuật của Sĩ Hạo đã vượt xa sự ước lượng của Kính Thanh.
Chàng đánh giá họ Trương còn cao hơn cả Khương Thư Hàn.
Lúc này, Ngọc Diện Thần Kiếm đã xuất thủ. Thân hình gã chỉ còn là một bóng trắng lượn lờ giữa lưới côn vũ bão của Đại Lực.
Trường côn thường có chiều dài bằng độ cao từ đất đến chân mày, vì nếu dài hơn, đầu côn sẽ vướng mặt đất trong những đòn đảo luân. Lúc ấy, tay người võ sĩ đặt ở điểm trường côn và khi ấn nó quay tít như bánh xe. Thủ pháp này dùng để chống đỡ ám khí, tên nỏ rất hữu hiệu!
Nhà sư Đại Lực vóc người vạm vỡ, khí lực dồi dào, lại khổ luyện pho Thiếu Lâm Trường côn đã hơn hai chục năm nên bản lãnh cao cường nhất trong đám đệ tử đời thứ hai.
Lần này, được giao phó trọng trách, Đại Lực đem hết sở học ra thi thố, quyết dành vinh dự về cho môn phái. Lòng nhà sự chất phác này vẫn không tin rằng mình có thể thua được.
Lúc nãy đánh với Vô Dụng, Đại Lực chưa dồn hết sức, giờ mới thực sự là quyết đấu. Thanh Trượng trong tay gã biến hóa phi thường, sống động như Thần Long chứ chẳng phải là khúc gỗ chết.
Đòn Hoành Tảo thì mãnh liệt như sóng dữ, đòn Điểm Nhãn hiểm ác hơn Độ Xà, đòn Áp Đỉnh nặng tựa núi đổ.
Thế nhưng, Ngọc Diện Thần Kiếm Trương Sĩ Hạo vẫn ung dung chống đỡ, rồi phản công ngay chứ chẳng hề nhượng bộ.
Tiếng thép chạm gỗ vang lên không dứt, và xem ra cây côn dài, nặng kia chẳng hề chiếm ưu thế trước thanh kiếm mỏng manh.
Đường kiếm của họ Trương nhanh như chớp giật, kiếm ảnh sáng bạc bay lượn quanh thân gã, chận đứng những đường côn ngời sáng, và xuyên qua màn côn ảnh dầy đặc mà uy hiếp thân trước đối thủ.
Lạc Ca kiếm pháp của Phổ Đà tự quả danh phù kỳ thực! Lúc thủ thì như búp sen kín đáo, lúc công kiếm ảnh vươn dài tựa những hoa sen xòe nở, trông cực kỳ diễm lệ!
Mỗi lần Sĩ Hạo tiến lên thì Đại Lực phải thoái bộ, giữ khoảng cách để phát huy uy lực của Trường côn. Nếu để đối phương nhập nội thì gã sẽ bị hạ phong ngay!
Nam Cung Giao, trong vai Sa Di Vô Dụng, chăm chú quan sát đường kiếm tuyệt luân của Trương Sĩ Hạo, ánh mắt đắy vẻ say mê, hứng khởi.
Kiếm pháp kia cũng toàn bích, mỹ miều như bản thân họ Trương vậy!
Đã hơn trăm chiêu trôi qua, mà vẫn chưa phân thắng bại, song mồ hôi đã ướt đầm trán và lưng áo Đại Lực.
Gã đã phải dốc toàn lực mới cầm cự nổi đến giờ này. Trong lúc ấy gương mặt đẹp tuyệt thế của Sĩ Hạo vẫn an nhiên, tươi tắn, cứ như nãy giờ gã chẳng hề dùng đến sức lực.
Cho rằng biểu diễn như thế đã đủ, Trương Sĩ Hạo mỉm cười lạnh lẽo, đảo bộ lao vút vào lưới côn.
Thanh bảo kiếm của gã đâm chém liền hàng trăm thế, kiếm ảnh trùng trùng điệp điệp,
khóa chặt trường côn và ập vào người Đại Lực!
Chiêu kiếm kỳ tuyệt vô song này đã khiến Bạch Vân thiền sư rụng rời tay chân, quát vang :
- Đại Lực lui mau!
Tiếng gọi của ông quá muộn màng vì mũi kiếm đã chạm vào người Đại Lực.
Vai và bụng của gã trúng bốn kiếm sâu hoắm, và ngực trái dường như là mục tiêu cuối.
Quần tăng chết điếng người, miệng há hốc chẳng kịp kêu la, chứ đừng nói đến can thiệp. Song xem ra mạng của Đại Lực còn dài nên trước đó đã có bóng người bay vút vào, nắm áo gã giật ngược lại, và vung kiếm điểm liền chín nhát vào mặt và ngực Sĩ Hạo.
Họ Trương đành phải bỏ lỡ cơ hội giết Đại Lực, xoay kiếm bảo vê bản thân, rồi thoái hậu.
Quần tăng hoan hỉ reo hò như sấm dậy vì thấy Sa Di Vô Dụng đã kịp cứu mạng Đại Lực. Có năm sáu người đã nhanh chân chạy đến đỡ kẻ bị thương khiêng vào chăm sóc.
Bạch Vân thiền sư vốn thương yêu Đại Lực như con mình nên đích thân xem xét thương thế.
Ông mừng đến ứa nước mắt vì biết bốn vết thương kia không thể giết được đồ đệ mình.
Đạ Lực buồn rầu nói :
- Sư phụ! Đồ nhi đã tận lực nhưng không địch lại đối phương!
Thiền sư vỗ về :
- Ngươi còn sống là tốt lắm rồi!
Trong lúc ấy, Sa Di Vô Dụng đang cười nói huyên thuyên.
Gã vòng tay xá thật lâu, vui vẻ nói :
- Mong thí chủ lượng thứ cho hành động của bần tăng! Nếu để gã Đại Lực kia chết đi thì chẳng còn ai cùng bần tăng lén xuống núi uống rượu nữa. Vả lại, trước cửa Phật mà sát sinh thì tội lỗi vô cùng!
Trương Sĩ Hạo mỉm cười gật đầu, tra kiếm vào vỏ, đi về phía nột gốc cây, ngồi xuống vận công điều tức.
Sau lần chạm kiếm với Vô Dụng, Trương Sĩ Háo đã phát hiện gã sư điên khùng kia tuy râu ria bờm xờm nhưng tuổi chưa quá tam thập, mà lại sở hữu không dưới ba mươi năm công lực! Đồng thời, chín nhát kiếm lúc nãy ảo diệu tuyệt luân, chẳng thể xem thường!
Sĩ Hạo lờ mờ hiểu rằng Vô Dụng mới là đối thủ chính của mình. Vì thế, gã quyết định điều tức thật lâu, phục hồi trọn vẹn công lực mà đối phó với nhà sư điên.
Người đời không thể biết rằng Ngọc Diện Thần Kiếm cũng có khuyết điểm, đó là sự hiếu thắng và tự tôn, dù bề ngoài gã rất khiêm cung, rộng lượng!
Sĩ Hạo không bao giờ chấp nhận thất bại hoặc thua kém ai, trừ những cao thủ thành danh như Đông Hải thần tăng, Chu Sơn đảo chủ, Long Giác Thần Quân.
Họ Trương còn có vài tật xấu khác nữa là say máu, và say mê chính bản thân mình!
Sĩ Hạo đã xuất thủ là muốn được nhận thấy máu của đối thủ nhuộm đỏ kiếm của mình và nhỏ từng giọt tươi thắm xuống mặt đất.
Gã tự tôn nên chăm chút bản thân thành một người toàn mỹ, và tin rằng vượt lên trên đồng loại!
Sĩ Hạo thầm tiếc rằng mình chỉ có bốn mươi năm chân khí, nếu được tròn hoa giáp, gã sẽ khiêu chiến với gã Long Giác Thần Quân, Chu Sơn đảo chủ, đả bại họ mà trở thành Đệ nhất cao thủ!
Ngoài ra, Sĩ Hạo còn nuôi một mơ ước nho nhỏ nữa, đó là trở thành Hoàng Đế Trung Hoa! Ngai vàng mới là chiếc ghế vừa vặn với con người siêu việt như gã!

Ba khắc sau, Sĩ Hạo mở mắt đứng lên, bước ra sân chờ đợi.
Vô Dụng đang huyên thuyên với đám sư sải trẻ, đủng đỉnh vác kiếm đi tới.
Gã khom lưng chào và nói :
- Bần tăng tuổi nhỏ hơn thí chủ, xin được phép ra tay trước!
Sĩ Hạo gật đầu, hai tay nắm chặt chuôi, dựng đứng trường kiếm trước mặt và lệch về bên hữu mà chờ đợi.
Đây là tư thế khởi đầu đặc trưng của kiếm thuật Phù Tang!
Họ Trương đứng im bất động như tượng đá, trầm ổn vững vàng tựa Thái Sơn, đối phương chưa động thì gã không động!
Nam Cung Giao, tức Vô Dụng phát hiện thức kiếm kia tuy thông thường, đơn giản nhưng cực kỳ kín đáo và dàn dụa sát cợ Trường. kiếm của họ Trương đánh bằng hai tay sẽ mạnh như chẻ núi chứ chẳng chơi...
Chàng định chọc ghẹo khiến đối phương phân tâm, song lại thôi.
Trong tư cách kiếm sĩ họ Trương là người đáng kính phục. Chàng sẽ giao đấu với gã bằng bản lãnh chân chính của mình!
Nam Cung Giao cong tay, chĩa lưỡi kiếm về phía trước, thẳng băng như mũi tên nằm trên dây cung , hai ngón trỏ và giữa của tay tả đặt xéo trước ngực.
Trong tư thế ấy, thân hình chàng lướt đi bằng hai đầu bàn chân, vươn trôi về phía đối phương.
Bên kia, Sĩ Hạo cũng đã động thân, lao đến đón đầu, nhãn quang lập lòe sát khí.
Diễn tả thì lâu nhưng sự việc xảy ra chỉ trong thời gian vài cái chớp mắt.
Trường kiếm của Nam Cung Giao vươn hết tầm tay điểm liền ba mươi sáu thức khống chế vùng mặt, ngực, bụng họ Trương.
Sĩ Hạo chặt xéo một kiếm sấm sét vào màn kiếm ảnh của kẻ địch, rồi nối tiếp hằng mười bảy thế nữa. Mười tám thế thức này nhanh như thiểm điện và ảo diệu phi thường.
Với công lực thâm hậu hơn, Sĩ Hạo đã đánh bật được trường kiếm của Nam Cung Giao, và kết liễu bằng cách thọc kiếm vào ngực chàng.
Song, khi mũi kiếm của gã vừa chạm vào lớp vải áo thì Nam Cung Giao đã biến mất bằng một bộ pháp thần kỳ.
Trong chớp mắt, chàng đã rời xa tầm kiếm của Sĩ Hạo, và từ vị trí mới ập vào tấn công.
Sĩ Hạo thấy đối thủ thoát được chiêu kiếm tuyệt diệu của mình lòng rất khâm phục và cao hứng. Bản lãnh nạn nhân càng cao siêu thì chiến thắng của gã càng vinh quang!
Ngọc Diện Thần Kiếm buông tay tả khỏi chuôi, vung kiếm phải phá giải chiếu kiếm của Nam Cung Giao.
Tiếng thép chạm nhau gay gắt, song phương quấn quít như tình nhân, liên tiếp tung ra những đường kiếm ác liệt.
Kiếm quang lấp loáng,
pass to joine phim : Kim_Bang_2
longnu
Múi Mít
Múi Mít
 
Tiền: $122,632
Posts: 1046
Joined: 14 Mar 2005
Location: đến từ nơi xa lắm
 
 

Postby longnu » 08 Apr 2005

[color=red][b]10...
Tiếu Ngạo Trung Hoa Nguyên tác : Ưu Đàm Hoa




Hồi 10 Tử sinh hữu mệnh long thiên phụng
Thu dạ anh hùng trợ nhạc gia
Nam Cung Giao đánh xe rời khu rừng thưa, ra đường quan đạo nhỏ, song không về lại trấn Vũ Lộ mà rẽ trái, ngược lên hướng Bắc.
Khi bình minh hé dạng thìchàng gặp đường lớn Đông Tây nối với Trịnh Châu và Từ Châu.
Nam Cung Giao ghé phạn điếm nơi ngã ba ấy mua một bọc bánh bao, rồi lại đi tiếp, vừa ăn vừa dong xe.
Xế trưa, chàng đã cách xa núi Trịnh Sơn gần trăm dặm, chẳng còn phải sợ nữa.
Thấy xa xa thấp thoáng bóng dáng một thành quách cao lớn, chàng tần ngần dừng cương, suy nghĩ một lúc rồi rẽ vào con đường mòn của khu rừng mé tả.
Chàng sẽ giấu xác Tử Phượng ở đây vào thành mua áo quan, mai táng người yêu ngay cánh rừng này!
Đường mòn bị cắt ngang bởi một giòng suối nhỏ, và mảnh đất mé hữu, cạnh bờ suối là thảm cỏ xanh mơn mởn, cao ráo, cây cối thưa thớt, rải rác đó đây là những tảng đá hình thù lạ mắt.
Nam Cung Giao thầm khen phong cảnh chốn này, quyết định chôn cất người yêu ở tại đây. Sau này có cơ hội, chàng sẽ cải táng, đưa về nhà mình ở Cảnh Đức trấn!
Chàng mở mui xe, bồng thi thể Tử Phượng đặt trên thảm cỏ, sau khi đã trải áo choàng.
Gương mặt lem luốc, tiều tụy và cái bụng to kia khiến chàng thương tâm vô hạn, bật khóc ồ ồ!
Nam Cung Giao vô cùng hối hận, tự nguyền rủa mình đã quá ngu dại, tin vào giấc mộng vớ vẩn kia mà đến trễ một bước. Dù rằng, đến rằm tháng bảy là cơ hội tốt nhất để chàng xâm nhập Hồ bang!
Chàng quì cạnh xác người yêu úp mặt vào ngực nàng khóc mãi, nỗi thống khổ ngập tràn tâm trí, đến mức chàng chỉ muốn tự sát chết theo!
Trong trạng thái mộng mị ấy, Nam Cung Giao bỗng mơ hồ nghe như có tiếng động đều đều và rất nhỏ vọng vào tai mình.
Lúc đầu chàng không để ý song những âm thanh ấy đã dần đánh thức ngũ quan của chàng.
Nam Cung Giao giật mình ngồi bật dậy, ngơ ngác suy nghĩ một lúc mới nhận ra những tiếng động kia là nhịp đập của trái tim.
Chàng vội cúi xuống áp tai vào ngực trái Tử Phượng lắng nghe.
Nỗi hân hoan bùng lên, choáng ngập tâm hồn chàng.
Nam Cung Giao mừng như điên dại, thò tay thăm mạch. Chàng cuống cuồng dựng Tử Phượng ngồi lên, áp tay hữu lên Mệnh Môn, trút chân khí vào.
Luồng nội lực hùng hậu của chàng thúc đẩy khí huyết nạn nhân lưu chuyển mỗi lúc một nhanh hơn, và chỉ sau hai khắc, Tử Phượng khẽ rên và thều thào :
- Nước! Nước!
Nam Cung Giao thở phào, thôi không truyền chân khí nữa, kéo Tử Phượng ngã vào lòng và ôm chặt lấy.
Tử Phượng đã tỉnh táo hơn, mở mắt ngỡ ngàng nhìn cảnh vật xa lạ trước mặt, và phát hiện việc mình đang bị kẻ nào đó ôm ấp.
Nỗi hổ thẹn của nữ nhân đã khiến nàng kinh hãi, giãy giụa để thoát ra, miệng la hét, song chẳng ra lời :
- Ngươi có buông ta ra không?
Vòng tay to khỏe kia vẫn xiết chặt quanh ngực, và nam nhân kia cười khà khà, thì thầm vào tai nàng :
- Nương tử hôi quá! Để ta tắm cho nàng!



Mười ngày sau, cỗ xe độc mã xấu xí lóc cóc vào thành Từ Châu.
Song gã xà ích đội nón rộng vành sùm sụp kia lại thản nhiên đánh xe đi qua cổng tòa khách sạn sang trọng, đắt giá nhất thành là Tứ Hải đại lữ điếm!
Gã tiểu nhị thấy xe dừng lại trên sân trước, vội chạy ra khom lưng chào, song lại tế nhị nhắc nhở :
- Bẩm đại gia, giá phòng ở đây rất cao, mong đại gia đừng trách tiểu nhân không báo trước!
Hán tử đánh xe hất ngược vành nón, tủm tỉm đáp :
- Hồ tiểu cẩu! Ta đây mà!
Gã tiểu nhị mừng rỡ reo vang :
- Nam Cung công tử! Thế mà tiểu nhân tưởng gã kiết xác nào?
Nam Cung Giao cười mũi, xuống xe, mở bạt phía sau, đỡ một nữ lang bụng nhô cao, dìu vào sảnh!

Ngay đêm ấy, có kẻ nào đó đã đột nhập Kim Diện cung, cắm một thanh tiểu đao vào cửa khách sảnh.
Sáng ra, bọn nô tỳ trong cung phát hiện, liền báo cho Cung chủ Tiền Phong Vân biết.
Họ Tiền gỡ lá thư quấn quanh chuôi đao.
Đọc xong, lão cho mời Yên Đài song sát và các cao thủ đến bàn bạc.
Đại Sát Thân Công Hải nghiêm giọng :
- Tuy bức thư này không thự danh. Song dựa vào nét bút, lão phu có thể nhận ra y là một nam nhân tuổi dưới ba mươi, ít học, tính tình phóng khoáng, hào sảng. Còn về võ nghệ thì khỏi nói cũng biết, vì y đã vào ra Kim Diện cung một cách dễ dàng!
Nhị Sát Tiêu Xuân Oanh cướp lời chồng :
- Lão thân linh cảm y chính là rể quí của chúng ta. Mấy tháng trước, Nam Cung Giao có ghé qua Từ Châu. Sau đó, tiếp tục ngược Bắc. Có thể trên đường về, y đi lối Trịnh Châu, nghe được tin này nên đến cảnh báo chúng ta.
Tiền cung chủ cau mày :
- Sao y đến đây mà không vào bái kiến lão phu?
Nhị Sát cười nhạt :
- Cung chủ không nhớ mình đã cư xử thế nào ư?
Yên Đài song sát vì giao tình với sư phụ của Tiền Phong Vân nên mới nhận lời đến giúp. Họ chẳng hề ngán sợ nể nang Tiền cung chủ, thích thì ở, buồn thì đi.
Tiền Phong Vân hổ thẹn biện bạch :
- Khi biết Vân Mi được lão phu đồng ý cho xuất cung đi tìm chồng, đáng lẽ Nam Cung Giao phải hiểu ra, chứ sao lại còn giận mãi?
Hôm này, Tiền Phong Vân không mang Kim Diện, để lộ gương mặt dài khá đẹp lão, song chiếc mũi ưng và cặp mắt dài nhỏ khiến lão trông có vẻ gian hùng!
Hộ cung Đệ nhất Kiếm sứ Phạm Quan Hồ lên tiếng :
- Theo ý kiến của lão phu thì chúng ta chẳng cần phải quan tâm đến việc người gởi thư là ai? Tin tức của y rất quan trọng, nên tin là có. Bổn cung sẽ tăng cường phòng thủ để đề phòng Vô Thanh cốc và Hồ bang!
Nhị kiếm sứ Dư Kinh Hoa cũng tán thành :
- Chẳng ai rỗi hơi mà vào tận đây trêu ghẹo Kim Diện cung! Nếu có là tin giả thì chúng ta cũng chẳng mất mát gì!
Tiền cung chủ gật đầu :
- Bổn tọa cũng nghĩ vậy. Tam kiếm sứ mau triệu tập môn nhân, phổ biến tin này!
Tưởng Phi Diện vòng tay nhận lệnh, đứng lên đi ra ngoài gõ trống.
Vợ chồng Yên Đài song sát cũng dời sảnh, xuất cung đi tìm Nam Cung Giao. Họ nóng lòng muốn gặp chàng để hỏi thăm tình hình của Thần Nữ Tiền Vân Mi!
Vào đến thành Từ Châu, Song sát ghé Thanh Tâm trà thất.
Gã chủ quán trà thất này tên gọi Trịnh Phương Đình, là người chỉ huy mạng lưới trinh sát của Kim Diện cung trong thành. Chính gã đã báo cho Song sát biết việc Nam Cung Giao ghé Từ Châu hồi giữa tháng tư, nhưng lại sau khi chàng đã rời khỏi!
Họ Trịnh khom lưng chào :
- Thuộc hạ bái kiến Nhị tướng!
Song sát có chức danh Hồng Y nhị tướng trong Kim Diện cung.
Nhị Sát Tiêu Xuân Oanh lạnh lùng bảo :
- Ngươi mau huy động thủ hạ, tìm cho ra Nam Cung thiếu gia! Lão thân nghe nói y đã đến đây!
Trịnh Phương Đình gãi đầu ấp úng :
- Bẩm lão nhân gia! Thuộc hạ nghe báo cáo rằng chiều qua có một cỗ xe độc mã tồi tàn đi vào Tứ Hải đại lữ điếm, lòng rất nghi hoặc song chưa có thời gian thẩm tra lại!
Đại Sát Thân Công Hải mỉm cười :
- Chỉ có gã tiểu quỷ Nam Cung Giao mới hành động quái dị như thế! Ngươi mau cho người đến đấy hỏi lão chưởng quỹ họ Tề xem sao. Hãy bảo lão Tề Thanh Hải ấy rằng nếu không thực thà khai báo thì hãy coi chừng Kim Diện cung đuổi cổ khỏi Từ Châu đấy!
Trịnh Phương Đình khúm núm vâng dạ.
Để thuộc hạ đích thân đi cho chắc ăn. Lão già ấy năm xưa từng nổi danh là Sơn Tây Thiết Hán, chẳng hề xem bọn đệ tử cấp thấp của bổn cung ra gì!
Song sát ngồi uống trà chờ đợi, chỉ hơn khắc sau đã có tin.
Trịnh Phương Đình hớn hở báo cáo :
- Bẩm nhị vị lão gia. Quả đúng là Nam Cung thiếu gia đang trọ ở Tứ Hải đại lữ điếm. Dường như chàng ta cũng đoán ra việc nhị vị sẽ đi tìm, dặn dò họ Tề trước. Thiếu gia ngỏ lời mời nhị đến đấy hội ngộ!
Phương Đình dừng lời, bối rối một lúc mới nói tiếp :
- Thiếu gia còn dặn thuộc hạ không được báo cho Cung chủ biết rằng y đã đến. Việc này khiến thuộc hạ rất băn khoăn, không biết tính sao?
Nhị Sát Tiêu Xuân Oanh cười nhạt :
- Cung chủ không nhận rể, cần gì phải biết tin này? Ngươi cứ việc câm miệng lại, có gì lão thân sẽ chịu trách nhiệm!
Mặt trời xa không nóng bằng đống lửa gần, do vậy bọn đệ tử Kim Diện cung sợ hãi Yên Đài song sát hơn cả Cung chủ! Nhất là khi bà già khó tính và nóng nảy này lại phụ trách Hình đường!
Họ Trịnh chỉ còn cách cúi đầu tuân mệnh!
Thân Công Hải gật gù bảo vợ :
- Giao nhi sợ lộ nên cứ ru rú ở Tứ Hải lữ điếm! Thôi thì chúng ta chịu khó đến đấy thăm gã vậy!
Tiêu Lão Thái thở dài :
- Lão thân đâu hẹp hòi đến mức trách y thất lễ! Lỗi này là do Tiền cung chủ cơ mà.
Song sát lên ngựa đi đến Tứ Hải đại lữ điếm, quá trưa mới về Kim Diện cung, sắc diện u ám, nặng trĩu âu lo.
Phần Nam Cung Giao thì cứ ẩn mình trong cơ ngơi của Sơn Tây Thiết Hán Tề Thanh Hải, quấn quít với Đinh Tử Phượng và tranh thủ luyện kiếm.
Bào thai đã được hơn năm tháng nên hai người không ân ái với nhau, song những nụ hôn và động tác vuốt ve âu yếm cũng đã khiến tình vợ chồng thêm thắm thiết.
Họ luôn miệng nói về đứa con sắp ra đời, đố nhau rằng trai hay gái!
Tề Chưởng Quỉ đã kể cho Nam Cung Giao nghe cái chết đầy nghi vấn của Đông Thành Bá Vệ Cảnh! Nha môn Từ Châu đã khẳng định họ Vệ treo cổ tự vẫn, vì không hề có dấu vết nào của người ngoài trên hiện trường, hay trên cơ thể Đông Thành Bá. Điều khó hiểu là tại sao Vệ Cảnh lại tự treo cổ khi mới mua về một ả kỹ nữ tuyệt đẹp, và đang xây thêm nhà mới trên mảnh đất mới đòi lại của đám Giao Chỉ lưu vong.



Trưa mùng một tháng tám, Tử Phượng lục lọi tủ gỗ, tìm y phục bẩn của Nam Cung Giao cho gia nhân lữ điếm giặt giũ, thì nhớ đến bọc vải đựng tài sản của Hồ bang. Nam Cung Giao hơi mắc cỡ vì hành vi trộm cắp này nên đã không nhìn đến.
Tử Phượng hiếu kỳ mở ra xem thử. Nàng không hề động lòng trước số châu báu và ngân phiếu, trị giá đến sáu vạn lượng vàng, vì chúng vốn là của nàng! Sài Tuấn lấy Tử Phượng cũng vì tài sản kếch sù của Đinh Gia trang đất An Dương!
Song Tử Phượng lại hân hoan khi nhìn thấy lọ sành đựng thuốc và hai ống đồng.
Nàng ra lan can, vẫy gọi Nam Cung Giao, chàng đang luyện kiếm dưới vườn hoa.
Nam Cung Giao lên đến, thấy tang vật ngổn ngang trên giường, ngượng ngùng nói :
- Ta tưởng nàng đã chết nên vét sạch tủ, khiến Sài Tuấn vừa mất vợ vừa phá sản. Tội nghiệp cho gã!
Tử Phượng phì cười :
- Tướng công đừng nhân hậu kiểu đàn bà như thế! Chàng vét nhẵn ngân quỹ Hồ bang tức là đã chặn đứng âm mưu thống trị võ lâm của Sài Tuấn và Hồ Ly song tiên, sao lại phải áy náy trả lại, số tài sản vốn là của thiếp, và chỉ mới là một nửa gia tài mà cha thiếp đã để lại!
Nam Cung Giao tròn mắt :
- Thực thế sao? Vậy mà ta cứ áy náy mãi!
Tử Phượng mỉm cười nói đùa :
- Giờ thiếp đã có của hồi môn để yên tâm về làm dâu họ Nam Cung! Cảm tạ tướng công!
Nam Cung Giao ngồi xuống cạnh giường, xoa chiếc bụng tròn trĩnh của nàng và bảo :
- Của hồi môn đáng giá nhất là cái này đây! Vàng bạc thì có đáng gì?
Tử Phượng liếc chàng tình tứ, cầm lọ sành đưa cho chàng và nói :
- Tướng công! Trong này có mười viên Tái Sanh đan, trị thương rất thần hiệu, nối xương liền thịt, bồi bổ nguyên khí, chàng hãy giữ lấy mà phòng thân! Thiếp đang mang thai không thể dùng được.
Nam Cung Giao đổ ra lòng bàn tay những viên thuốc đỏ như chu sa, nhỏ bằng hạt đậu và thơm mùi sâm!
Chàng đổ trở lại vào lọ sành, rồi đặt xuống giường, tay vơ lấy hai ống đồng, miệng hỏi :
- Phượng muội đã mở hai cái ống quỷ quái này ra xem chưa?
Tử Phượng không đáp mà hỏi lại :
- Thế Tướng công lấy chúng ở chỗ nào?
Nam Cung Giao cười khanh khách :
- Ta mổ bụng hai vật tổ trên bệ thờ của Song tiên không ngờ lại tìm ra những vật này!
Tử Phượng nguýt chàng :
- Tướng công suốt đời chỉ làm liều, song lại luôn gặp may! Đây chính là tuyệt học của Câu Trầm chân nhân, thời nhà Nguyên, sư tổ của Hồ Ly song tiên!
Chân Nhân có tục danh là Bổng Hoa Phát, học đạo Lão Trang từ nhỏ, đến tuổi sáu mươi thì thành lập giáo phái ở núi Mân Sơn, Tứ Xuyên, tự xưng là Câu Trầm Thượng Cung Thiên Hoàng Đế giáng phàm làm Giáo chủ Câu Trầm giáo!
Chân nhân rất giỏi võ và pháp thuật siêu việt nên mê hoặc được người đời, có đến hàng vạn tín đồ.
Năm Chí Nguyên thứ hai mươi sáu đời vua Nguyên Thế Tổ, Chân nhân khởi binh đánh chiếm Thành Đô.
Song đoàn quân ô hợp của ông đã bị kỵ binh thiện chiến của Mông Cổ đánh tan.
Chân nhân phẫn chí lên núi Kỳ Liên ẩn dật, thu nhận đệ tử Hồ Ly song tiên chính là hậu duệ của Câu Trầm giáo.
Nam Cung Giao cười xòa :
- Nàng dài dòng chi cho mệt xác, để ta mở ra xem thử!
Chàng bóp bể lớp sáp quanh đường tiếp giáp, vặn nắp ống đồng, đổ ra một quyển sách mỏng, bìa ghi mấy chữ : Câu Trầm chân kinh, quyển thượng, và trong ống thứ hai chính là quyển hạ!
Quyển thượng dạy nội công, quyền pháp, đao pháp và khinh công.
Quyển hạ gồm toàn toa thuốc và những câu thần chú, phương pháp luyện linh đan...
Nam Cung Giao bỏ qua tất cả song lại bị hấp dẫn bởi những trang cuối. Đoạn này có sáu hình vẽ một người đang đứng, trên thân đầy những vạch đã biểu thị kinh mạch.
Chàng đọc kỹ những đoạn khẩu quyết dẫn giải, miệng lẩm bẩm :
- Công phu Thần Âm Chấn Phủ này quả là lợi hại! Ta phải học mới mong toàn mạng khi gặp Hồ Ly song tiên!
Tử Phượng cười khúc khích :
- Tướng công làm gì mà nói một mình như ma ám vậy? Chàng thấy võ học trong kinh thế nào?
Nam Cung Giao đăm chiêu đáp :
- Tất cả đều lợi hại, song chẳng thể học trong vài ngày, Vả lại, ta đang tập trung rèn luyện chiêu kiếm Vô Thủy Vô Minh! Song công phu Thần Âm Chấn Phủ lại có thể dùng âm thanh bất ngờ tấn công phủ tạng đối phương, nên ta phải cố học, ít ra cũng tự bảo vệ được mình trước Song tiên!
Nói xong, chàng cầm quyển hạ rời phòng, tìm chỗ vắng vẻ mà luyện tập.
Chiều mười sáu, Yên Đài song sát cho thủ hạ đến báo với Nam Cung Giao rằng Kim Diện cung đã phát hiện hàng trăm kẻ khả nghi vào thành Từ Châu. Có lẽ phe địch sẽ tiến công nội trong đêm nay!
Đại Sát Thân Công Hải viết rằng :
- Tuy bổn cung đã chuẩn bị chu đáo, song vẫn không đủ cao thủ để đối phó với Long Giác Thần Quân và Hồ Ly song tiên. Mong Giao nhi niệm tình Vân Mi mà đến giúp một tay!
Nam Cung Giao đã nhắn lời phúc đáp :
- Không phải vì Thần Nữ, mà là vì tấm lòng yêu thương của nhị vị nhân gia, Giao này sẽ có mặt!
Yên Đài song sát nghe được câu này, nở từng khúc ruột, và rất yên tâm! Họ không hề nói gì với Cung chủ Tiền Phong Vân, để sự xuất hiện bất ngờ của Nam Cung Giao sẽ làm cho lão sáng mắt ra!



Cuối canh ba đêm ấy, bốn trăm Hắc y nhân tựa như đám oan hồn từ chân núi lướt nhanh về phía Kim Diện cung, chia nhau vây kín ba mặt, và phía sau là vách núi!
Họ áp sát bức tường vây cao hơn trượng chờ đợi. Hơn chục tay khinh công cao cường nhảy lên bám lấy cạnh tường, ló đầu quan sát.
Kim Diện cung có chu vi đến hai dặm, hình chữ nhật vuông vức. Nếu trừ đi cạnh hướng Bắc là vách núi thì chiều dài tường vây ba cạnh còn lại cũng ngót ngót dặm rưỡi.
Chẳng thể nào đủ người canh gác suốt quãng đường dài thườn thượt ấy, nên Kim Diện cung đã phòng thủ theo phương châm : Co cụm để không hở, địch sáng mà ta tối!
Nghĩa là, các công trình kiến trúc đều nằm gọn ở chính giữa, giáp vách núi, song lại cách tường vây một khoảng cách là mười lăm trượng!
Trên khoảng trống này, hoàn toàn không có cây cối, chỉ trồng cỏ và hoa. Rải rác khắp nơi là những cột gỗ tròn, thẳng, cao hơn trượng, được bào nhẵn và sơn đỏ cẩn thận. Trên đầu cột được lắp một chóp hình nón bằng đồng lá, có tác dụng che mưa cho những cây đèn bão.
Đây là một loại đèn có bóng pha lê thắp bằng dầu mỏ, mua của người Bồ Đào Nha, dù gặp gió lớn cũng không tắt. Phải giầu nứt đố đổ vách như Kim Diện cung mới dám mua hơn trăm cây đèn loại này về thắp hàng đêm!
Mỗi buổi chiều, bọn đệ tử Kim Diện cung dùng sào tre móc lên đầu cột, sáng lại đưa xuống để châm dầu, hoặc thay bấc nếu cần!
Vậy là bất cứ tên đạo tặc nào vượt tường, tiến vào cũng đều phơi mình dưới luồng ánh sáng vàng vọt của những cây đèn. Còn toán võ sĩ phòng vệ chỉ cần ngồi tại cửa cổng quan sát được một phạm vi rất rộng!
Bọn trinh sát của Vô Thanh cốc đã đến đây từ mười ngày trước, đêm đêm điều nghiên địa hình, tìm hiểu quy luật phòng thủ của Kim Diện cung.
Đêm nay, cảnh vật cũng yên tịnh như mọi đêm, các cơ ngơi kia vẫn ngủ say sau hàng rào hoa Mộc Cẩn.
Thấp thoáng đó đây là vài ánh đèn lồng leo lét của toán tuần tra ít ỏi.
Vùng không gian sáng sủa của bải cỏ không hề làm nản lòng Long Giác Thần Quân và Hồ Ly song tiên.
Họ đến đây với một lực lượng hùng hậu, dùng chiến thuật sét đánh không kịp bưng tai, bất ngờ tập kích lúc Kim Diện cung không phòng bị. Họ sẽ vượt bãi trống kia với tốc độ của vó ngựa và tha hồ tàn sát! Người trong cung có muốn trở tay cũng đã muộn!
Bọn trinh sát trên đầu tường yên tâm phất tay ra hiệu, và cả đoàn quân nhất tề nhảy lên bám cạnh tường.
Sau tín hiệu thứ hai, bốn trăm sát thủ áo đen đồng loạt tung mình qua tường vây, rơi xuống đất và lướt đi như gió về phía trung tâm.
Song, từ sau hàng rào Mộc Cẩn tối tăm kia bỗng vang lên tiếng dây cung bật tanh tách và trận mưa tên bay ra, phủ kín bọn Hắc y!
Phe Kim Diện cung bắn theo lối liên hoàn, kẻ ra tên, người bắn nối, chỉ sau vài đợt đầu đã hạ gục một phần ba quân số phe địch.
Tiếng rên la xé nát màn đêm! Hơn trăm người trúng tên, có độ hai ba chục là đệ tử Vô Thanh cốc, đám sát thủ kiêu dũng ấy đều là học trò của Long Giác Thần Quân, gọi lão bằng sư phụ. Thế cho nên, Khương lão ma đau lòng khôn xiết, gầm vang!
- Tiến lên!
Phương châm của Vô Thanh cốc là giết sạch, cướp sạch và luôn giấu mặt.
Do vậy, bản thân lão cùng Hồ Ly song tiên và toàn thể bọn Hắc y đều trùm kín mặt, chỉ để lộ hai con mắt!
Phe Kim Diện cung chỉ có thể nhận ra các cao thủ đầu não của phe địch dựa vào võ công, hoặc vũ khí!
Đêm nay, Long Giác Thần Quân và Hồ Ly song tiên cùng tiến vào theo hướng cổng chính.
Thứ nhất là vì địa vị của họ, thứ hai là tạo thành mũi nhọn sắc bén, tập trung đánh thủng phòng tuyến đối phương. Hai mặt còn lại do các Hộ Pháp Hồ bang thống lãnh!
Tuy mất yếu tố bất ngờ và từ đầu đã tổn thất hơn trăm người, song Khương lão quỷ vẫn tự tin rằng phe mình sẽ thắng. Với bản lãnh của lão và Hồ Ly song tiên thì chẳng ai địch lại.
Cứ giết xong Kim Diện cung chủ và Yên Đài song sát là hàng ngũ đối phương sẽ như rắn mất đầu, tán loạn ngay thôi. Hơn nữa, mỗi kiếm thủ Vô Thanh cốc lợi hại bằng ba bốn gã môn nhân ăn hại của Kim Diện cung.
Vũ khí của Khương Quang Bật là kiếm và Song tiên là đao. Ba người này công lực phi phàm, ẩn mình sau màn lưới thép dầy đặc, lướt đi dưới trận mưa tên, chỉ phút chốc đã đến được hàng rào Mộc Cẩn.
Lập tức có người đón tiếp, đó là Kim Diện cung chủ Tiền Phong Vân và Yên Đài song sát.
Tuy danh tiếng, tuổi tác của Khương Quang Bật và Song tiên đều hơn hẳn, song chưa chạm trán họ lần nào nên ba cao thủ Kim Diện cung vẫn còn chút tự tin.
Tiền cung chủ giở pho Kim Long kiếm pháp chặn đường Long Giác Thần Quân. Còn Song sát múa quải trượng tấn công Hồ Ly song tiên.
Tiền Phong Vân mê vàng hơn cả vợ con nên ngay thanh kiếm cũng dát vàng chói lọi. Song đằng sau vẻ hào nhoáng, phàm tục ấy là một con người có thực tài và cơ trí rất thâm trầm.
Đường kiếm của họ Tiền nhanh, độc vàchuẩn xác, biểu hiện một trình độ kiếm thuật cao siêu. Nếu không thì lão đã chẳng đả bại được Chưởng môn hai phái Võ Đang và Hoa Sơn.
Long Giác Thần Quân có phần kinh ngạc trước bản lãnh của đối thủ, lão vốn chẳng xem Tiền Phong Vân ra gì.
Khương lão quỷ tăng thêm công lực cố kết liễu kẻ địch cho sớm.
Vô Thanh kiếm pháp quả danh bất hư truyền, bảo kiếm loang loáng dưới ánh đèn, lẳng lặng công phá màn kiếm ảnh vàng đóng của họ Tiền, âm thầm xuyên qua sơ hở, đâm vào mặt Tiền Phong Vân.
Đáng lẽ họ Tiền không tránh được nhát kiếm quỷ dị này, song chiếc mặt nạ vàng đã làm mũi kiếm của Long Giác Thần Quân chậm lại một sát na, vừa đủ để Tiền Phong Vân thoát chết.
Kim Diện rơi xuống đất, để lộ khuôn mặt gian hùng của lão.
Long Giác Thần Quân cười nhạt :
- Mi may mắn đấy!
Và lão ập đến tấn công quyết liệt quyết không tha cho họ Tiền.
Song từ sau bụi Mộc Cẩn đã có hai bóng người nhảy ra, chia tả hữu tập kích Khương Quang Bật, đỡ đòn cho Tiền cung chủ.
Họ là hai lão nhân áo trắng, tóc hoa râm, khăn trắng che nửa mặt, sử dụng một cây búa thép dài ba xích, sơn đỏ như máu.
Thượng Thần quân múa kiếm đánh bạt ra, miệng quát vang :
- Thì ra là Huyết Phủ hội!
Tiền Phong Vân rảnh tay lên tiếng :
- Đúng là họ đấy. Để xem hôm nay Long Giác Thần Quân còn tác oai tác quái được nữa không!
Long Giác Thần Quân dù võ công quán thế, cũng nhất thời không sao áp đảo được ba kẻ địch lợi hại kia.
Lão điên tiết phối hợp kiếm pháp và khinh công Vô Thanh, tả xung hữu đột.

Còn mặt trận của Hồ Ly song tiên và Yên Đài song sát thì sao?
Song sát thua Song tiên chỉ bốn, năm tuổi, từ lâu vốn không phục, nay gặp dịp quyết so tài cao thấp.
Đại Sát Thân Công Hải đánh với Hồ Tiên Cổ Huyền Minh, chừa Ly Tiên Bàng Thu Liên cho Nhị Sát Tiêu Xuân Oanh.
Song tiên sử dụng đao, và tất nhiên đao của Ly Tiên mỏng hơn, nhẹ hơn. Nữ nhân rất hiếm khi học đao pháp, họ thích hợp với kiếm, vì kiếm nhẹ và có hình dáng đẹp!
Có thể nói rằng Ly Tiên Bàng Thu Liên là người đàn bà giỏi đao pháp nhất trong giới quần thoa.
Thoạt đầu, hai cây quải trượng dài và nặng nề của vợ chồng Song sát có vẻ chiếm ưu thế.
Trượng kình vù vù chấn động không gian, lực đạo mạnh như bão tố. Nhưng Hồ Ly song tiên danh phù kỳ thực, ngang nhiên dùng đao va chạm và chẳng chút kém thế.
Điều này chứng tỏ công lực họ cao hơn Song sát một bậc!
Câu Trần Đao pháp biến hóa khôn lường, chiêu thức dồn dập như bão táp mưa sa. Lại thêm khinh công của Song tiên vô cùng quỷ mị, tiến thoái nhanh tựa gió, mỗi lần nhập nội đều gây khó khăn cho đối thủ.
Được gần trăm chiêu, Hồ Tiên bỗng quát lớn một âm thanh vô nghĩa :
- Hu!
Lập tức, Đại Sát Thân Công Hải nghe lá lách đau nhói, khí lực giảm bớt nhiều. Thế là Hồ Tiên Cổ Huyền Minh ập vào, đánh bạt quải trượng và thọc đao uy hiếp vùng ngực Đại Sát.
Thân lão kinh hoàng ngửa người theo thế Thiết Bản Kiều, búng chân bay ngược về phía sau.
Đại Sát thoát chết song ngực rách một đường dài bắn máu.
May mà vết thương không sâu.
Bên kia, Nhị Sát Tiêu Xuân Oanh cũng gặp hoàn cảnh tương tự.
Sau tiếng “Su” của Ly Tiên Bàng Thu Liên.
Tiêu mẫu nhói vùng gan, chân khí trì trệ, lập tức bị Ly Tiên áp sát, rạch một đao trên đùi trái.
Song sát khiếp vía trước tà pháp quái dị, múa tít thiết trượng, thủ nhiều hơn công, liên tiếp bị đẩy lùi.
Nếu kéo dài tình trạng này, họ khó thoát được tai ương!
Nhưng đúng lúc ấy, hai lão nhân tóc bạc, võ phục trắng, mặt quấn khăn, xách búa nhảy vào trợ chiến.
Họ tấn công phía sau Song tiên, tạo thành thế gọng kềm, giảm nhẹ áp lực cho Song sát.
Hồ Tiên cười nhạt :
- Thì ra tàn dư Huyết Thủ Hội được Kim Diện cung thu nạp!
Lão già lão cầm búa chẳng thèm ậm ừ chỉ cật lực đánh dồn.
Vượt trên đỉnh núi Kim Sơn phát ra tiếng nổ rất lớn, và một cột pháo hoa tỏa sáng rực rỡ. Đấy là tín hiệu của Kim Diện cung cầu cứu quân triều đình!
Tiền Phong Vân phấn khởi quát vang :
- Long Giác Thần Quân! Đêm nay lão là cá trong rọ rồi!
Nào ngờ Khương Quang Bật cười khanh khách :
- Lão phu đã tính trước cả rồi! Ngươi thử nhìn về phía Từ Châu xem!
Tiền cung chủ điếng hồn khi thấy xa xa có khói lửa bốc lên ngút trời. Như vậy là phe đối phương đã cho thủ hạ phóng hỏa những công trình trọng yếu trong thành để cầm chân quan quân.
Khi kho lương thảo, hoặc quan huyện đường bốc cháy, chắc chắn quan Tổng binh sẽ phải lo chữa cháy, bỏ mặc Kim Diện cung dù lão đã nhận trước ngàn lượng bạc.
Tiền Phong Vân càng thêm choáng váng khi những tiếng kêu lìa đời, trong cuộc loạn chiến chung quanh, đa số là phương ngữ vùng Giang Nam.
Nghĩa là đệ tử Kim Diện cung thương vong khá nhiều.
Dù đã nói ra rả suốt cuộc sinh tồn, song khi chết, người ta vẫn cố vớt vát phát ra vài tiếng kêu than, hoặc những âm thanh biểu thị sự đớn đau, tiếc nuối! Đương nhiên, trừ những kẻ bị chặt bay đầu!
Ưu thế đang thuộc về Liên quân Vô Thanh cốc - Hồ bang, vì họ đã đem đến đây những thủ hạ kiêu dũng nhất.
Toán Bạch Y cận vệ của Kim Diện cung tuy cũng kha khá, song chỉ có mười tám người, và bản lãnh chẳng thể sánh với đám sát thủ chuyên nghiệp, lão luyện của Vô Thanh cốc.
Tóm lại, nếu quan quân không đến, chắc chắn Kim Diện cung sẽ bị tận diệt.
Yên Đài song sát nghe lòng nóng như lửa đốt mong mỏi Nam Cung Giao xuất hiện. Vì sao cuộc chiến đã xảy ra gần nửa canh giờ mà gã tiểu tử khốn kiếp kia vẫn chưa chịu đến? Phải chăng gã sợ chết, bỏ mụ vợ bụng bầu nên đã làm lơ quay mặt?
Thực ra, Nam Cung Giao đã bị trách oan! Chàng đến rất sớm, nấp trên ngọn cây Du cổ thụ phía ngoài bức tường mé Tây.
Chàng phải ở đây vì Cung chủ Phu nhân, mẹ ruột của Vân Mi đang dưỡng bệnh trong hậu viện.
Nhạc mẫu chàng thân thể yếu đuối liên tục bệnh hoạn suốt năm năm qua.
Nam Cung Giao chỉ nghe kể và biết mặt bà qua bức vẽ chân dung mà Thần Nữ đã mang theo!
Với chàng, tất cả những bà mẹ đều tuyệt diệu và vĩ đại, do đó, Nam Cung Giao phải lo cho bà trước, mặc xác lão nhạc phụ khó ưa kia!
Mũi hướng Đông cũng có thể uy hiếp khu hậu viện, song Quỷ Côn Đường Cổ Ngư lại tiến vào từ hướng này.
Vóc dáng cao lớn và cây côn thép trong tay đã tự tố cáo lai lịch, dù họ Đường đã trùm kín mặt.
Nam Cung Giao đã từng va chạm với lão Phó bang chủ Hồ bang này, và hiểu rằng từ Yên Đài song sát hoặc Tiền Phong Vân, trong Kim Diện cung không có ai đủ sức cầm chân Quỷ Côn.
Quả đúng như thế, loạn tiễn của phe chủ nhà đã giết liền mấy chục tên Hắc y, song không ngăn được bước tiến của Quỷ Côn và hai lão Hàm Đan kiếm khách.
Họ mở đường máu, đưa thủ hạ vào đến tận hàng rào Mộc Cẩn. Đón đánh ba hung thần này là ba vị Hộ cung Kiếm sứ và một lão già Bạch Y bịt mặt cầm búa.
Lát sau, có một chàng trai tuổi đôi chín, võ phục vàng rực, óng ánh chỉ kim tuyến, từ trong chạy ra tham gia.
Nam Cung Giao đoán gã là Tiền Thanh Giám, em vợ của mình.
Thiếu cung chủ Kim Diện cung chỉ giỏi nghề ve vãn gái tơ chứ võ nghệ chẳng bao nhiêu.
Gã vừa nhập cuộc đã bị Quỷ Côn quét văng ra, nếu không có Đệ nhất Hộ cung Kiếm sứ Phạm Quan Hồ thọc kiếm giải vây thì Thanh Giám đã tiêu rồi.
Gã khiếp đảm chẳng dám xông vào nữa! Nhưng nếu rút lui thì sau này mặt mũi nào thay cha cai quản Kim Diện cung? Thế là gã thập thò vòng ngoài, thỉnh thoảng đánh lén một chiêu rồi thoái hậu ngay!
Nam Cung Giao móc khăn tay màu trắng cột ngang mặt, nhảy xuống đất vượt tường, phi thân qua bãi trống, tấn công vào sau lưng hai gã kiếm thủ Vô Thanh cốc.
Bọn học trò của Long Giác Thần Quân đều ở độ tuổi trung niên trở lên, công lực thâm hậu, tai mắt tinh tường, nên phát hiện ra kẻ đánh lén, một tên quay lại đối phó.
Nhưng tiếc rằng, gã không phá nổi chiêu kiếm thần tốc, ảo diệu của đối phương, ngã gục và bị đâm thủng ngực.
Nam Cung Giao sấn tới, giết luôn gã thứ hai, và gã đang phải đối phó với Đội trưởng đội Bạch Y cận vệ của Kim Diện cung là Cam Bố Cốc.
Họ Cam từng chạm kiếm với chàng hồi năm ngoài, khi đến Cô Tô đại tửu lâu bắt Mộc Kính Thanh.
Sau này, khi chàng thượng đài tỷ võ tranh giành Thần Nữ, gã cũng được mục kích.
Do vậy, họ Cam nhận ra chàng ngay, nhờ chiêu kiếm và thanh Lạc Điểu kiếm dài ngoằng, gã mừng rỡ reo lên :
- Nam Cung thiếu gia!
Nam Cung Giao gật đầu hỏi lại :
- Nhạc mẫu ta có được bảo vệ chu đáo hay không?
Cam Bố Cốc trấn an :
- Thiếu gia yên tâm Cung chủ phu nhân đã được đưa xuống mật thất, và ở ngoài có mười tay kiếm sẵn sàng xả thân bảo vệ.
Nam Cung Giao nghiêm giọng đáp :
- Thế cũng tốt! Song, trong trường hợp hậu viện bốc cháy, ngươi phải cõng bà ấy chạy vào hang phía sau núi ẩn trốn! Nếu ngươi không bảo vệ được an toàn cho phu nhân thì đừng trách ta!
Họ Cam vội vòng tay hứa :
- Thuộc hạ quyết chẳng dám phụ lòng phó thác của Thiếu gia.
Nam Cung Giao vỗ vai gã, phi thân vào sâu trận địa, trên đường đi chàng tiện tay đâm chém bọn Hắc y.
Xác người nằm la liệt dưới đất, mùi màu tanh lên nồng nặc, và tiếng kêu than vang lên không ngớt, khiến lòng Nam Cung Giao xốn xang.
Chàng nhớ lời dạy bảo của sư phụ là Thiền Sơn trưởng lão nên hạn chế việc giết chóc, chỉ đả thương cánh tay cầm vũ khí của đối phương, để loại chúng khỏi vòng chiến.
Bang chúng Hồ bang sử dụng đao, còn bọn Sát thủ Vô Thanh cốc thì dùng kiếm, rất dễ phân biệt.
Nam Cung Giao khá nhẹ nhàng với đám đao thủ Hồ bang, song lại cố chặt đứt cánh tay cầm kiếm của những sát thủ Vô Thanh cốc, hoặc giết luôn!
Tội ác của chúng ngập đầu, không tha cả đàn bà con trẻ, có chết cũng là đáng lắm!
Sau khi học được Hư Ảnh Thần Bộ, bản lãnh Nam Cung Giao tăng tiến hơn xưa đến hai ba bậc. Chẳng có gì khó hiểu, vì giờ đây đối thủ không thể đâm trúng một cái bóng!
Diệu dụng Hư Ảnh Thần Bộ là ở chỗ hoán vị nhanh đến mức hình ảnh cũ vẫn còn lưu lại trong mắt đối phương!
Đả thương thì ít tốn công sức và mau chóng hơn giết người, do vậy, Nam Cung Giao tiến lên rất nhanh và thu hoạch cũng nhiều.
Có không dưới ba chục gã Hắc y trúng kiếm của chúng!
Nam Cung Giao không ngờ lòng nhân của mình đã trở thành vô ích, vì gã họ Cam đã đi theo chàng, lạnh lùng hạ thủ giết tất cả những kẻ được Thiếu gia tha chết.
Nạn nhân đã thọ thương, hoặc cụt mất tay cầm đao kiếm, thì làm sao sống nổi dưới lưỡi kiếm phẫn nộ của Cam Bố Cốc!
Mỏ vàng Kim Sơn do Tiền Phong Vân tìm ra, song lão không có quyền độc chiếm mà phải nộp một nửa cho quốc khố.
Kim Diện cung khai thác được quặng vàng, phải đưa đến Bắc Kinh tinh luyện, đúc thành vàng nén, rồi nhận phần mình đưa về!
Dù có quan quân Từ Châu theo hộ tống, song đội Bạch y Cận vệ cũng đã nhiều phen vào sinh ra tử để giữ vàng.
Trong suốt mười mấy năm Cam Bố Cốc đụng hàng trăm trận, giết người đã quen nên lòng không mềm như Nam Cung Giao!

Đấy là chuyện của họ Cam, chúng ta hãy quay lại với gà nhà là Nam Cung Giao!
Chàng đã đến được trận địa khốc liệt gần hàng rào Mộc Cẩn, song hơi muộn!
Trước đó, Hàn Đan Nhất Kiếm Mạc Vi Hầu đã kịp đâm thủng cổ Hộ cung Đệ tam Kiếm sứ Tưởng Phi Diêu.
Và hiện tại Quỷ Côn Đường Cổ Ngư đã quét văng trường kiếm lẫn búa thép của Phạm kiếm sứ, cùng lão già Huyết Phủ hội, xông về phía Tiền Thanh Giám.
Đường lão biết gã trai diêm dúa, sợ chết kia là nam tử duy nhất của Cung chủ Kim Diện cung. Nếu bắt được gã làm con tin thì sẽ khống chế cục diện. Tiền Phong Vân lẽ nào lại không thương con?
Chàng Thiếu cung chủ nhà ta đang đứng sát hàng rào hoa Mộc Cẩn, thấy cả thân hình to lớn, đen thui của Quỷ Côn hung hãn lao đến, chẳng còn hồn phách gì, tay chân mềm nhũn, miệng há hốc, mắt lạc thần vì hãi hùng!
Gã không biết rằng Quỷ Côn chỉ muốn bắt sống mình chứ không giết ngay lúc này!
Người ở gần Tiền Thanh Giám nhất chính là Đệ nhất Kiếm sứ và lão già Huyết Phủ hội! Nhưng lúc này, họ đang ngã chỏng gọng, tay đau nhức, vũ khí chẳng còn, thì làm sao cứu nổi ai?
Thanh Giám sợ đến nỗi bĩnh cả ra quần, đứng chết trân, không sao quậy nổi!
Đúng là hổ phụ sinh khuyển tử! Cha cọp đẻ con chó, thật oái oăm thay!
Song, khi còn cách con mồi tội nghiệp và hôi thối kia nửa trượng, Quỷ Côn phải đình bộ, quay ngoái lại chống đỡ chiêu kiếm ác liệt của một người áo lam xậm, mặt cột chiếc khăn trắng.
Gã này không hiểu từ xó nào xuất hiện, uy hiếp hậu tâm của Quỷ Côn!
Kiếm kình rít lên như tiếng lụa xé, biểu hiện một công lực thậm hậu, khiến Đường lão quỷ không dám xem thường, phải bỏ Thanh Giám, bảo vệ cái mạng già trước đã!
Nhưng động tác quay mình cũng đủ để Quỷ Côn mất tiên cơ, chậm chạp vài sát na, và không kịp dồn hết lực đạo vào Thiết Côn.
Đường Cổ Ngư múa tít vũ khí công phá màn kiếm ảnh mờ mờ như mây mù và điểm những chấm đen.
Tiếc rằng chiêu Cô Điểu Nhập Vân chỉ toàn ảo ảo và chỉ có duy nhất một đường kiếm là thực. Mũi kiếm của Nam Cung Giao không hề bị chặn lại, vươn tới điểm vào vai phải họ Đường.
Chàng có thể chọn ngực trái lão, song sẽ bị cản trở bởi bàn tay tả đang thủ thế, dù có thành công cũng bị Thiết Côn trả đòn. Do vậy, Nam Cung Giao đã lách mũi kiếm, đâm thủng huyệt Vân Môn vai phải, ở bờ dưới đầu ngoài xương đòn.
Thế là cánh tay cầm côn của họ Đường rũ liệt, đau đớn vô cùng.
Lão thét lên, nhảy chếch sang tả, co chân đào tẩu, bỏ cả côn sắt lại!
Với vết thương này, phải ít nhất ba tháng, Đường lão mới có thể cầm vững côn.
Nam Cung Giao không đuổi theo, tung mình về phía Hàn Đan Nhất Kiếm Mạc Vi Hầu.
Lão ta đang cùng Mạc Quan Tung vây đánh Hộ cung Đệ Nhị kiếm sứ Dư Kinh Hoa, sắp sửa lấy mạng họ Dư.
Tiếng rên và hành động bỏ của chạy lấy người của Quỷ Côn đã lọt vào tai mắt của Song kiếm, nhưng họ chưa kịp có chủ ý thì gã áo lam bịt mặt kia đã đến nơi, từ khoảng cách hơn trượng ập vào như cơn lốc.
Mạc Vi Hầu vội để bào đệ một mình với Dư Kinh Hoa, quay sang đón đầu kẻ địch.
Lão nghiến răng dồn hết tu vi vào chiêu Kiếm Sơn Áp Đỉnh, bốc lên không trung, bủa lưới xuống đầu gã áo lam.
Năm ngoái, Mạc lão đại đã từng dùng chiêu này đánh Nam Cung Giao ở gần Hổ Khâu, ngoài thành Tô Châu!
Ngày ấy, chàng đối phó bằng chiêu Lạc Điểu Hoan Nguyệt, tuy chiếm ưu thế nhưng cũng bị thương nhẹ, lần này, chàng quyết định phản ứng bằng cách khác.
Nam Cung Giao chờ hơi thép lạnh phà vào da mặt mới đảo bộ biến mất.
Mạc Vi Hầu hụt mục tiêu sa xuống đất, kinh hãi múa kiếm phòng thân, nhưng kẻ thù đã từ phía sau ập đến!
Tuy họ Nhạc đã kịp phát hiện quay lại ngay, điểm liền mười sáu thức kiếm cố chặn đứng đòn tập kích, song chỉ hoài công.
Gã tiểu tử kia còn ở ngoài tầm kiếm của Mạc Vi Hầu, vậy mà lão lại nghe ngực mình đau đớn khủng khiếp.
Trước lúc lìa đời, lão chợt hiểu ra nguyên do, thều thào nói :
- Té ra.. là.. ngươi!
Rồi lão gục ngã, chết vì tim đã thủng!
Mạc Quang Tung, trước đây đứng hàng thứ ba trong Tam kiếm sau thăng chức thành Nhị kiếm, vì Mạc lão nhị đã bị Nam Cung Giao giết ở Tô Châu.
Giờ thì lão có thể bỏ chạy và xưng là Nhất kiếm, sau cái chết của Mạc Vi Hầu!
Nhưng lão có muốn thế cũng chẳng được vì tay cao thủ Huyết Phủ hội đã nhặt búa lên hỗ trợ Nhị kiếm sứ Dư Kinh Hoa!
Còn Hộ cung Đệ nhất Kiếm sứ Phạm Quan Hồ đang cùng Nam Cung Giao đứng cạnh Thiếu cung chủ Tiền Thanh Giám.
Nghe mùi hôi thối từ thân thể Thanh Giám bốc ra nồng nặc, Phạm lão cau mày, mỉa mai :
- Thật là đẹp mặt! Giá mà Cung chủ được chứng kiến cảnh tượng này!
Thanh Giám thẹn đỏ mặt van nài :
- Mong Phạm kiếm sứ đừng kể lại cho cha ta biết!
Gã quay sang nói với ân nhân của mình :
- Bổn thiếu gia quyết đền ơn cứu mạng một cách trọng hậu! Và mong các hạ cũng đừng tiết lộ việc đáng xấu hổ này!
Nam Cung Giao cười khanh khách :
- Sao lại phải xấu hổ? Ngươi cứ để nguyên thế này mà chạy một vòng trận địa, biết đâu phe đối phương nghe mùi lăn ra ngất xỉu cả lũ, thế là phe ta toàn thắng!
Nghe giọng giễu cợt, Thanh Giám giận dữ nạt :
- Ngươi đừng ỷ có công cứu mạng ta mà giở giọng phạm thượng!
Đệ nhất Kiếm sứ cười nhạt :
- Người này chính là Nam Cung thiếu gia, tỷ phu của công tử đấy.
Thanh Giám giật mình, bẽn lẽn vái dài :
- Té ra là tỷ phu! Xin lượng thứ cho tiểu đệ.
Nam Cung Giao gật gù :
- Không sao! Ngươi mau vào trong bảo bọn nô tỳ rửa đít cho, và đừng ló mặt ra ngoài nữa! Ta sẽ không nói gì với nhạc phụ đâu!
Họ Tiền mừng rỡ quay gót, khệnh khạng rón rén bước đi, cố giữ cho nỗi nhục nhã nằm im trong đũng quần!
Nam Cung Giao tủm tỉm cười, bảo Phạm lão :
- Phạm đại thúc ở lại trấn giữ mặt trận này, tiểu điệt ra phía trước xem sao!
Dứt lời, chàng phi thân về hướng Nam.
Phạm Quan Hồ nhìn theo tự nhủ :
- Gã này võ nghệ siêu quần bạt tụy, tính tình lại phóng khoáng và khiêm tốn, xứng đáng thừa kế cơ nghiệp Kim Diện cung, chứ chẳng phải tên Thanh Giám hèn mạt, kiêu căng kia!
Tuy sự việc mạn Tây được diễn tả dài giòng luộm thuộm, song lại xảy ra chẳng lâu!
Khi Nam Cung Giao ra đến tiểu đình thì cuộc chiến ở đấy vẫn chưa ngã ngũ, còn nguy ngập hơn.
Long Giác Thần Quân và Hồ Ly song tiên đã giết được hai cao thủ Huyết Phủ hội, đả thương Kim Diện cung chủ và Yên Đài song sát.
Song vẫn chưa thể kết thúc ngay lập tức được.
Nam Cung Giao nhận ra Song sát đã thọ thương, vội lao vào hỗ trợ. Mục tiêu của chàng là Hồ Tiên Cổ Huyền Minh.
Cổ lão ma thấy có người tấn công vào mé tả, vội đảo bộ, bỏ Đại Sát, xông đến đón đánh kẻ mới đến.
Lão rất khôn ngoan, quyết định tiêu diệt ngay đối phương trong một chiêu đầu để rảnh tay đôi phó với Đại Sát Thân Công Hải.
Hồ Tiên thi triển công phu Thần Âm Chấn Phủ, bất ngờ quát :
- Khơ!
Lão tin chắc rằng tâm mạch đối phương sẽ đau nhói, chân khí đứt đoạn, chẳng thể nào đỡ nổi chiêu đao tiếp theo của mình.
Nào ngờ, gã tiểu tử kia dường như bị điếc, chẳng hề lảo đảo hay khựng lại, cứ thế mà lướt đến.
Chính sự bất ngờ này đã khiến Hồ Tiên gặp nguy.
Do quá tin tưởng vào tuyệt kỹ thần bí của mình, Hồ Tiên đã thi triển một chiêu đao ác độc, chỉ toàn những thức công, không có một thế phòng thủ nào. Thủ làm gì khi chắc chắn rằng kẻ địch sẽ bị tê liệt, kháng cự yếu ớt!
Sai một ly đi một dặm! Rốt cuộc thì một kẻ gian xảo bậc nhất cũng có lúc bị hố. Chiêu đao của Hồ Tiên thủ công nên có khá nhiều sơ hở, và mũi kiếm của Nam Cung Giao đã len qua một trong những chỗ hở ấy, đâm vào ngực của Hồ Tiên.
Cổ Huyền Minh công lực thông thần, phản ứng nhanh nhẹn tuyệt luân, vừa phát hiện bóng dáng tử thần đã nghiêng người né tránh.
Nhưng Nam Cung Giao là Đại Hành Gia trong nghề khoái kiếm, động tác cực kỳ mau lẹ, khẽ uốn cổ tay, đưa mũi kiếm lệch đi, đâm thủng bắp thịt, chấn gãy xương cánh tay trái của Hồ Tiên!
Người càng xảo quyệt thì càng sợ chết, Cổ Huyền Minh đau đớn thét lên, tung mình ra xa, quát miệng gọi mụ vợ già đào tẩu!
Tuy cánh tay cầm đao vẫn còn nguyên vẹn, song với sự xuất hiện của một tay kiếm thượng thừa và không sợ Thần âm như gã bịt mặt kia, thì cục diện đã xoay chuyển hẳn.
Gã mà liên thủ với Song sát thì Song tiên khó địch lại.
Ly Tiên nghe chồng gọi, và thấy Đại Sát Thân Công Hải hùng hổ múa trượng xông tới, chột dạ bỏ chạy luôn.
Yên Đài song sát hứng chí đuổi theo, để sau này có thể tự an ủi rằng mình đã từng rượt Hồ Ly song tiên chạy cong đuôi!
Lúc này, Nam Cung Giao đã nhảy sang trọng địa của Long Giác Thần Quân và cha vợ mình.
Khương Quang Bật đã phát giác việc Hồ Ly song tiên đào vong, và gã kiếm thủ đáng sợ kia đang phi thân về hướng mình. Song lòng cao ngạo, tự tôn của một kẻ quen chiến thắng không chấp nhận bỏ cuộc một cách dễ dàng.
Lão nhảy xổ vào Kim Diện cung chủ, quyết gỡ gạc cho đủ vốn.
Nhưng Tiền Phong Vân cơ trí thâm trầm, đoán trước được ý đồ của con quỷ già hung ác kia, sớm tung mình ra thật xa.
Khương Quang Bật đâu dễ buông tha, thi triển thân pháp kỳ diệu mà truy sát.
Lão già cầm búa vội đuổi theo, định bụng sẽ tấn công vào phía sau Thần quân để hỗ trợ Tiền cung chủ. Nhưng không ngờ, Hồ Tiên nhảy qua hàng rào Mộc Cẩn dầy đặc, khiến Khương lão ma nản lòng, quay lại tấn công kẻ phía sau.
Xét về bản lãnh, nếu đơn đấu thì ngay Tiền Phong Vân cũng không qua nổi trăm chiêu của Khương Quang Bật, huống hồ gì lão già cầm búa! Và khi họ Khương đã hạ sát thủ với tất cả công lực và lòng phẫn nộ thì khó có ai toàn mạng!
Lão nhân Huyết Phủ hội đang thuận đà tiến, không kịp tránh né, đành cắn răng cử búa đón chiêu, thầm than rằng số mình đã tận!
Quả đúng vậy, Vô Thanh Kiếm Pháp không ồn ào mà quái dị, hiểm ác như độc xà, lại thêm công lực hơn hoa giáp của Thần quân nên nạn nhân chỉ có cách chờ chết.
Lão nhân áo trắng nghe thân búa chấn động mãnh liệt khi chạm vào mạn kiếm ảnh lạnh lẽo, và đường búa lệnh đi.
Lão chìm trong tuyệt vọng, trợn mắt nhìn mũi kiếm của Thần quân đâm vào trán mình.
Nhưng, trong lúc lão Bạch y đang đứng trước ranh giới tử vong, thì Nam Cung Giao đã kịp thời can thiệp.
Chàng dồn toàn lực xuất chiêu Tiêu Lôi Hậu Vũ (Sấm trước mưa sau), tấn công vào gáy Khương Quang Bật. Chiêu này chủ ở trên cao đánh xuống.
Đúng như tên gọi, trường kiếm rung hàng trăm lần, kình lực chấn động không gian, tạo thành những tiếng ì ầm như sấm vọng.
Điểm này tương tự với Lôi Chiêu kiếm pháp của Lôi Phong Sơn chủ Bạch Tuấn Hào!
Tiếng động tuy chỉ là thị uy, song cũng đã khiến Thượng Thần quân phải quay lại đối phó, và biết rằng tiểu tử áo lam bịt mặt kia đã đến nơi. Gã đả thương được Hồ Tiên, dọa lão phải chạy dài thì bản lãnh chẳng thể xem thường!
Thần quân chủ động bốc lên chân đầu Nam Cung Giao, so kiếm trên không, vì sợ lão cầm búa sẽ tập hậu mình!
Khương Quang Bật loang kiếm công phá màn kiếm ảnh đầy những chấm nhỏ như giọt mưa kia.
Thép chạm nhau vang rền, Nam Cung Giao kém thế bị đánh văng ra xa, cổ tay tê chồn, song không hề bị thương.
Chàng thầm ngao ngán trước công lực và kiếm thuật của họ Khương!
Nhưng Long Giác Thần Quân không xông đến đánh thêm mà lại quay lưng bỏ đi, vì Yên Đài song sát và Kim Diện cung chu đã sắp đến nơi.
Mãnh Hổ Nan Địch Quần Hồ, ở lại chỉ thiệt thân.
Khương Quang Bật rú vang, ra lệnh rút quân.
Cổng chính đã bị Hồ Ly song tiên chặt gãy thanh ngang, đang mở rộng, nên bọn Hắc y thoát ra dễ dàng.
Thần quân hiên ngang đứng lại đoạn hậu cho đệ tử rút lui.
Nhưng Kim Diện cung chủ không hạ lệnh truy sát, vì biết rằng hổ dữ cùng đường rất đáng sợ! Nhất là, đối với Long Giác Thần Quân thì dẫu cả bọn liên thủ cũng không giết nổi lão. Tuy chưa thể gọi là Kim Cương Bất Hoại, song da thịt của họ Khương được cương khí che chở, huyệt đạo dời chỗ nên có bị thương cũng không nặng Lão mà đã chịu liều, chấp nhận thương tích thì đối phương không thể sống!
Nhị Sát Tiêu Xuân Oanh trúng đao rách thịt, xót xa cho làn da vốn đã nhăn nheo của mình, nên giận dữ chửi vang :
- Khương Quang Bật! Sau trận thảm bại này lão còn mặt mũi nào mà sống nữa? Hãy chết quách đi cho đỡ nhục!
Suốt cuộc đời ăn cướp, không bao giờ Thuợng Quan Bật mở miệng nhận mình là Long Giác Thần Quân. Do vậy, lão chỉ ngửa cổ cười dài, tiếng cười chất ngất nỗi căm hờn và niềm phẫn nộ, hàm ý sẽ còn quay lại tận diệt Kim Diện cung.
Tiền Phong Vân lạnh gáy, thở dài lo lắng cho mai hậu.
Khương lão quỷ và thủ hạ đã rút sạch, mang theo xác những tay kiếm Vô Thanh cốc và để lại thi thể của bọn Hồ bang.
Có gần trăm gã học trò của Thần quân đã bỏ mạng đêm nay, còn số tử vong của Hồ bang nhiều hơn vài chục.
Nam Cung Giao lột khăn, vòng tay thi lễ :
- Tiểu tế xin bái kiến nhạc phụ!
Tiền Phong Vân cười lạnh :
- Ngươi xem ta là nhạc phụ, sao không đến sớm mà chờ bọn lão phu thập phần khốn đốn mới chịu xuất hiện?
Nam Cung Giao thản nhiên vái dài thi lễ :
- Tiểu tế bận chút việc riêng nên chậm trễ mong Nhạc phụ đại nhân lượng thứ.
Tiền Phong Vân trợn mắt nói :
- Chỉ vì chút việc vặt mà ngươi xem thường cả sự an nguy của Kim Diện cung ư?
Yên Đài song Sát cũng giận Nam Cung Giao nên không thèm bênh vực.
Nhưng Thiếu cung chủ Tiền Thanh Giám nghe chiến trận tàn đã lót tót chạy ra, nghe vậy liền hăng hái biện minh cho tỷ phu :
- Phụ thân sai rồi! Tỷ phu đã sớm có mặt ở hướng Tây, đuổi chạy lão Quỷ Côn, cứu mạng cho hài nhi! Công ơn to lớn ấy, phụ thân không khen mà lại còn mắng chửi được ư? Hay là phụ thân cho rằng cái mạng của hài nhi chẳng đáng giá một xu nào?
Tiền cung chủ chết điếng, hổ thẹn đến mức chỉ muốn chui xuống đất.
Lão ấp úng nói :
- Có việc ấy ư? Vì tỷ phu ngươi không nói ra nên làm sao ta biết được!
Lão quay sang bảo Nam Cung Giao :
- Lão phu hồ đồ, lỡ trách oán hiền tế. Mong Giao nhi lượng thứ cho. Không có ngươi thì họ Tiền nhà ta đã tuyệt tự rồi!
Giám nhi! Ta đã ra lệnh cho ngươi ở trong hậu viện bảo vệ mẫu thân, sao lại ra ngoài làm gì cho mang họa?
Nam Cung Giao tủm tỉm đỡ đòn cho em vợ :
- Bẩm nhạc phụ! Thanh Giám cốt cách anh hùng, thấy cường địch vào đến tận cửa tất không chịu nổi liền xông ra tử chiến, làm gương cho thủ hạ Kim Diện cung. Y tả xung hữu động vô cùng anh dũng, hào khí ấy đáng khen chứ không đáng trách. Còn việc gặp nguy trước một đại cao thủ như Quỷ Côn là chuyện thường tình, họ Đường quá lợi hại nên Thanh Giám khó mà địch lại!
Chàng nói một hơi toàn những lời tán dương khiến Thanh Giám mát mặt, mũi nở to, quên cả việc mình đã ôm quần chờ chết!
Gã khoan khoái nói :
- Tỷ phu quá lời khiến tiểu đệ thêm hổ thẹn! Tiểu đệ sẽ xem tỷ phu là tấm gương để noi theo!
Lòng gã thầm nghĩ :
- Anh rể ta quả là chơi được, thế mà phụ thân lại ghét bỏ.
Tiền cung chủ đứng sát con trai, phát hiện quái sự.
Lão nhăn mũi bật thốt :
- Sao chỗ này lại thoang thoảng một mùi thum thủm thế nhỉ?
Ai cũng hít thử, không để ý đến gương mặt tái mét vì hổ thẹn của Thanh Giám.
Nam Cung Giao chỉ cười ruồi, còn Hộ cung Đệ nhất Kiếm sứ bất ngờ lao vút đi ra xa mới ôm bụng cười sặc sụa.
Tiền Thanh Giám nhân cơ hội này đổ vạ :
- Phạm kiếm sứ quả là người không biết lễ, phóng trung tiện bừa bãi lại còn cười!



Trưa hôm sau, Nam Cung Giao mới quay về Tứ Hải đại lữ điếm.
Vì cửa thành đóng chặt để quan quân truy lùng bọn hung thủ đã phóng hỏa kho lương thảo!
Thấy chàng vẫn lành lặn, Tử Phượng mừng đến sa lệ :
- Thiếp tưởng tướng công đã gặp chuyện chẳng lành, lòng vô cùng lo lắng!
Nam Cung Giao hôn lên má nàng :
- Nương tử trang điểm cho thật đẹp rồi cùng ta đến Kim Diện cung bái kiến song thân của Vân Mi! Chiều nay họ sẽ cho người rước sang ăn tiệc!
Tử Phượng bối rối đỏ mặt :
- Thiếp mắc cỡ lắm! Tướng công đi một mình đi.
Nam Cung Giao cười khà khà :
- Bầu bì là chuyện thiên kinh địa nghĩa, sao lại phải xấu hổ? Vả lại, đâu ai biết nàng là vợ của Sài Tuấn?
Tử Phượng nhất quyết không chịu đi, bắt chàng đi tắm rồi kể lại trận chiến đêm qua.
Xế chiều, kiệu của Kim Diện cung đến rước Tử Phượng phải về không, chỉ có mình Nam Cung Giao sang dự yến mừng chiến thắng.

Môn nhân ăn nhậu ngoài sân, trong sảnh chỉ có những cao thủ chủ chốt.
Uống được vài chung, Tiền Phong Vân nói :
- Hiền tế hãy về rước song thân và Vân Mi đến đây? Lão phu sẽ cho tổ chức hôn lễ thật linh đình!
Nam Cung Giao vòng tay đáp :
- Đa tạ nhạc phụ. Song gia mẫu đã xem xét số tử vi của tiểu tế, bảo rằng phải cuối thu sang năm kết hôn mới tốt, Bà là người kiên quyết, không ai lay chuyển nổi, mong nhạc phụ lượng thứ!
Chàng đã khôn ngoan đưa mẹ mình ra đỡ đòn, khiến Tiền lão chẳng thể nào ép nổi.
Lão bực bội cằn nhằn :
- Lúc ấy phỏng chừng bụng Mi nhi cũng to tướng như cô ả họ Đinh kia, còn cưới xin gì nữa?
Thanh Giám cười khanh khách :
- Có bầu còn đỡ, chỉ sợ đại thư tay bế, tay bồng mà lên xe hoa đấy thôi? Cả Mã tiểu thư chắc cũng thế!
Ý gã nhắc đến Hoàn Cơ.
Viễn cảnh do gã gợi nên đã khiến mọi người bật cười!
Tiền Phong Vân không cười, nhăn mặt trách móc :
- Giao nhi tính nết lăng nhăng, lắm thê nhiều thiếp khiến con gái ta phải chịu thiệt thòi!
Thanh Giám lại bênh vực anh rể :
- Trai anh hùng năm thê bẩy thiếp! Ngay phụ thân cũng có đến bốn tỳ thiếp, sao lại trách Nam Cung tỷ phu?
Tiền cung chủ tức lộn ruột, mắng :
- Sao ngươi cứ bênh vực y chằm chằm thế? Lão phu đâu có hỏi ngươi?
Thanh Giám được cưng chiều nên chẳng hề sợ cha, cười hì hì đáp :
- Hài nhi có cốt cách anh hùng hiệp sĩ, thấy chuyện sai trái chẳng thể nào đứng ngoài! Chính phụ thân mới là người lắm lời, khó chịu như một lão già tám mươi!
Tiền Phong Vân biết con mình đã say mê, tôn sùng anh rể, đứng hẳn về phía Nam Cung Giao, lão cố nén bực bội, cười giả lả :
- Lão phu vì hạnh phúc của Vân Mi nên hơi quá lời.
Đại Sát Thân Công Hải cười xòa, hỏi sang chuyện khác :
- Không hiểu tháng mười một tới, Khương Thư Hàn có đến phó ước hay không nhỉ?
Tiền Phong Vân trở lại là một tay thủ lĩnh đa mưu túc trí, nghiêm giọng phân tích :
- Theo ý lão phu thì chắc chắn y sẽ đến. Vì nếu vắng mặt thì khác nào công nhận Vô Thanh cốc đã bội ước, tấn công Kim Diện cung đêm qua? Hơn nữa, Long Giác Thần Quân chưa hề mở miệng công nhận mình là ai?
Mọi người gật đầu khen phải.
Nhị Sát Tiêu Xuân Oanh hậm hực nói :
- Nay bản lãnh Giao nhi đã cao siêu hơn trước, đả thương được cả Hồ Tiên, chẳng lẽ Khương lão quỷ lại để con mình đến chịu chết?
Cử tọa lại gật đầu công nhận là có lý.
Nam Cung Giao vui vẻ giải thích :
- Đêm qua, nhờ yếu tố bất ngờ nên vãn bối mới đắc thủ, đâm gãy tay trái Hồ Tiên. Nhưng khi chạm trán với Long Giác Thần Quân thì lại rất thua sút. Khương Quang Bật không xem trọng vãn bối, tất sẽ cho Khương Thư Hàn đến phó hội để bảo toàn thanh danh trước ngàn ngàn hào kiệt võ lâm đến quan chiến. Cùng lắm thì Thần quân cũng đi theo để bảo vệ Thư Hàn, nếu thấy y gặp nguy?
Hộ cung Đệ nhất Kiếm sứ đau lòng vì cái chết của Tam đệ Tưởng Phi Diên nên nghiến răng nói :
- Nếu đúng vậy thì hôm ấy chúng ta sẽ liên thủ giết cho được lão Quỉ họ Khương!
Nam Cung Giao lắc đầu, tư lự :
- Vô ích thôi! Dẫu nhờ đến quan quân Từ Châu cũng chẳng thể nào bắt hay giết được Thần quân.
Lão đã luyện thành cương khí hộ thân, võ lâm đương đại không có cao thủ nào sánh nổi! Tốt nhất là chúng ta cứ tảng lờ, đừng nhắc đến cuộc tập kích đêm qua, có thế lão mới phập phồng, không dám quay lại nữa.
Tiền Phong Vân hoan hỉ vỗ đùi tán thưởng :
- Hiền tế nói rất hợp ý lão phu.
Phạm Quan Hồ thở dài than :
- Chính khí lu mờ nên một kẻ đại ác như Khương Quang Bật lại sống dai và chẳng hề bị trừng trị.
Nam Cung Giao mỉm cười :
- Phạm đại thúc chớ bi phẫn, kẻ ác trước sau gì cũng bị quả báo thảm khốc!
Trong bàn tiệc chiều nay có cả bảy lão nhân Huyết Phủ hội. Họ đã để lộ chân diện mục, tuổi đều quá sáu mươi, sắc mặt kém tươi, có lẽ vì cái chết của hai đồng môn đêm qua!
Tiền cung chủ đã giới thiệu họ với Nam Cung Giao, nhờ vậy, chàng biết vị Hội chủ đời thứ ba tên gọi Mộc Đông Sơ. Ông ta cũng chính là lão nhân cầm búa đã được chàng cứu mạng đêm qua.
Cái tên Huyết Phủ hội tuy sặc mùi máu me, khủng bố, song tổ chức này lại rất hiền lành.
Huyết Phủ hội ra đời cách nay tám chục năm, cứ địa là vùng rừng rậm bạt ngàn, ở sườn Bắc rặng Nam Lĩnh.
Dòng họ Mộc khu vực này chuyên nghề khai thác lâm sản như gỗ quí, mật ong, cánh kiến, nấm, thảo dược..
Sản phẩm của họ xuôi theo hai giòng sông Trường Giang và Cẩm Giang, đến Trường Sa và Nam Xương, và từ hai chốn đô hội này tỏa đi bốn phương!
Lúc đi ít khi bị cướp, song lúc về vàng bạc đầy túi, gia tộc họ Mộc thường phải đối phó với cả sơn tặc lẫn thủy tặc.
Nội tổ của Mộc Đông Sơ có nghề đánh búa rất lợi hại, liền dạy cho con cháu và người trong họ.
Ông có máu khôi hài nên đã nghĩ ra cái tên Huyết Phủ hội đáng sợ để dọa bọn cường đạo!
Từ đấy, những cây búa đều được sơn đỏ.
Gia sản ba đời của họ Mộc tích lũy được rất lớn. Do vậy, hai năm trước, vào một đêm đông lạnh giá, có ba trăm sát thủ vây chặt Mộc gia trang, giết sạch bốn mươi sáu người trong gia đình.
Hôm ấy, Mộc Đông Sơ cùng tám vị huynh đệ theo áp tải thuyền gỗ trắc đến Nam Xương nên không có nhà.
Tuy biết chắc hung thủ là Long Giác Thần Quân, nhưng Huyết Phủ hội còn lại chẳng mấy người, sức đâu mà báo phục? Vả lại, họ cũng chẳng biết Vô Thanh cốc ở đâu mà tìm?
Hai tháng trước, Mộc Đông Sơ nghe đồn đại về việc năm ngoái Thiếu cốc chủ Vô Thanh cốc Khương Thư Hàn đến Từ Châu tranh vợ, bị đã thương, đã hẹn ngày tái đấu. Cho nên, Mộc Đông Sơ liền đưa tám cao thủ đến Kim Diện cung chờ đợi!
Họ Mộc đã cảnh báo Tiền cung chủ về khả năng bị Long Giác Thần Quân tập kích, song họ Tiền không tin, khi nhận được thư của Nam Cung Giao, lão mới ngã ngửa ra.
Mộc Đông Sơ được Nam Cung Giao cứu mạng, lòng rất cảm kích, v
pass to joine phim : Kim_Bang_2
longnu
Múi Mít
Múi Mít
 
Tiền: $122,632
Posts: 1046
Joined: 14 Mar 2005
Location: đến từ nơi xa lắm
 
 

Postby longnu » 08 Apr 2005

[color=blue][b]11...
Tiếu Ngạo Trung Hoa Nguyên tác : Ưu Đàm Hoa




Hồi 11 Duyên Sơn sơn thượng phùng Long Giác
Nhân hữu từ tâm mệnh đắc trường
Sáng hôm sau, Nam Cung Giao và Tử Phượng rời Từ Châu, xuôi Nam.
Chàng đã nhờ chủ nhân kiêm chưởng quỹ Tứ Hải đại lữ điếm mua giùm một cỗ xe song mã thật tốt, đóng theo kỹ thuật của người Tây Dương, có bộ phận giảm xốc bằng những thanh thép lá, nên khá êm ái.
Để phòng bất trắc dọc đường, Nam Cung Giao đã yêu cầu lót đồng dầy quanh vách và mui. Khi đóng chặt các cửa lại, thùng xe kiên cố như tù xa để bảo vệ Tử Phượng!
Nhưng đường đi lại rất bình thường chẳng hề xảy ra sự cố gì.



Sau mười ngày, hai người về đến Nam Kinh, vào trọ trong Kim Lăng đại khách điếm.
Không tiện đưa Đinh Tử Phượng đến phủ Thượng thư, Nam Cung Giao liền đi một mình.
Bọn cấm quân gát cửa phủ mừng rỡ đón chào, song có vẻ gì gượng gạo, lo âu!
Nam Cung Giao tinh ý nhận ra, cau mày hỏi :
- Nơi đây xảy ra việc gì mà mặt các ngươi khó coi thế?
Một gã hạ giọng thì thầm :
- Bẩm thiếu gia! Thất vương gia đang ở trong khách sảnh, cùng Mã đại nhân trò chuyện! Đám tỳ nữ nghe lén được đã kháo rằng Mã thượng thư sắp phải về kinh chịu tội vì không tìm ra được Tứ Hải hội! Cả Tổng bộ đầu Lưu Cát cũng vậy!
Ăn cây nào, rào cây nấy! Bọn cấm quân này ở phủ Thượng thư được hậu đãi no cơm ấm cật, nên thực lòng lo lắng cho nhà họ Mã! Nếu Thượng thư mất chức, vị quan khác về thay, biết có đối xử tốt hay không? Hơn nữa, đội cấm quân này chính là thủ hạ cũ từng theo Mã Xuân Trác trấn giữ quan ải, tình nghĩa rất thâm sâu!
Nam Cung Giao mỉm cười :
- Các ngươi cứ yên tâm, đừng lo bể nồi cơm! Bổn thiếu gia đã tìm ra Tứ Hải hội rồi!
Trong lúc bọn họ mừng rỡ và kinh ngạc, Nam Cung Giao đi thẳng vào trong.
Hai cỗ kiệu phủ gấm vàng của Thất vương gia và Vương phi đang nằm trên sân gạch.
Chàng cười với bọn thị vệ Hành cung rồi bước lên thềm, đẩy cửa khách sảnh.
Không khí nặng nề bên trong lập tức bị phá vỡ bởi những tiếng gọi hân hoan :
- Giao nhi! Tướng công!
Thất vương gia Chu Nghiêm cười ha hả :
- Nam Cung hiền khanh về đúng lúc dầu sôi lửa bỏng này, khiến bổn Vương linh cảm có điềm lành! Mau vào đây!
Mã Hoàn Cơ đang đứng sau lưng Vương phi, vội chạy ra đỡ bọc hành lý, sa lệ trách móc :
- Tướng công đi biền biệt hơn bốn tháng trời khiến thiếp héo mòn vì lo lắng!
Ánh mắt ướt rượt chan chứa yêu thương của nàng khiến Nam Cung Giao bất nhẫn và áy náy! Song chàng không để lộ ra mà chữa cháy bằng một cách nheo mắt cười :
- Ta sợ không đủ tiền cưới nàng nên đã phải đi thật xa, cướp bóc cho đủ số mới dám về!
Nghe nhắc đến đám cưới, Hoàn Cơ quên ngay hờn giận, sung sướng nguýt chàng :
- Tướng công chẳng bao giờ nói được một câu nghiêm chỉnh, chỉ toàn bỡn cợt thiếp thôi!
Nam Cung Giao cười khà khà, tiến vế phía mọi người, vòng tay thi lễ.
Mã thượng thư buồn rầu bảo :
- Giao nhi về quả đúng lúc! Ngày mai, lão phu sẽ cho tổ chức ngay một đám cưới đơn giản, để Hoàn Cơ yên bề gia thất trước khi quá muộn.
Nam Cung Giao biết tỏng, song giả vờ ngơ ngác :
- Vì sao nhạc phụ lại nói thế?
Mã Xuân Trác bùi ngùi kể :
- Hôm qua, Khâm sứ triều đình đã từ Bắc Kinh đến Hành cung, mang theo Thánh chỉ.
Thánh thượng hỏi về vụ án Tứ Hải hội sát hại mệnh quan triều đình ở các phủ phía Nam, như Binh bộ Thượng thư Quách Tường An, Giang Tô tri phủ Mạc Tôn Long, Tri huyện Hàng Châu Dịch Thủy Tân!
Nếu chưa có manh mối gì về hung thủ thì lão phu và Lưu tổng bộ đầu phải lập tức theo Khâm sứ về kinh chịu tội!
Nam Cung Giao thản nhiên nói :
- Sao nhạc phụ không phúc đáp rằng đã tìm ra lai lịch Tứ Hải hội, nhưng chưa biết sào huyệt, và xin Thánh thượng gia hạn nửa năm!
Thất vương gia phì cười :
- Khanh là kẻ bạt mạng, chẳng biết sợ là gì nên mới suy nghĩa như vậy! Dối vua tội càng nặng hơn, chẳng thà nhận ngay lúc này, cùng lắm chỉ mất chức mà thôi!
Chu Nghiêm nói xong, Lưu tổng bộ đầu hắng giọng tiếp lời.
Lão rầu rĩ nói :
- Quan Khâm sứ họ Tiết kia vốn là người của Đô Sát viện. Có bà con với chuyết thê. Tối qua, ông ta đã tiết lộ rằng do lời sàm tấu của Thái Bảo Liễu Di Phu nên Thánh thượng nổi lôi đình. Triển thái sư đã cố khuyên giải nhưng không thành công. Tóm lại, dẫu chúng ta có đưa ra được bằng chứng hay manh mối thì cũng khó xin gia hạn thời gian phá án!
Thất vương phi nãy giờ quan sát sắc diện của Nam Cung Giao, phát hiện chàng chẳng chút lo âu, liền trách :
- Ai gia đoán trúng Nam Cung hiền khanh đã có lương sách nên mới vui vẻ thế kia?
Bà chỉ nói móc, không ngờ chàng gật đầu, vòng tay đáp :
- Vương phi nhãn quang sắc bén, nhìn thấu cả lòng người, khiến thảo dân phải đệ đầu báo phục! Thảo dân đã may mắn tìm ra lai lịch của Tứ Hải hội!
Cả nhà mừng rỡ, ngoác miệng cười.
Mã thượng thư run giọng :
- Thế thì hay quá! Ngươi mau nói ra xem!
Nam Cung Giao chậm rãi nhấp hớp trà, đắc ý khoác lác :
- Mấy tháng qua! Tiểu tế phải dầm sương dãi nắng, gian khổ lặn lội khắp nơi để điều tra. Cuối cùng thì tiểu tế đã biết rõ Tứ Hải hội chủ tên gọi Trương Sĩ Hạo, năm nay ba mươi bốn tuổi, nổi danh Ngọc Diện Thần Kiếm. Gã ta lại chính là cháu ruột của Đông Hải thần tăng, trụ trì chùa Phổ Đà trên ngọn núi Lạc Ca sơn, thuộc quần đảo Chu Sơn!
Thất vương gia kinh hãi :
- Thực thế sao? Nhưng Đông Hải thần tăng đạo hạnh cao thâm, danh tiếng lẫy lừng, lại nằm trong hội đồng Tăng thống của Phật giáo Trung Hoa, nhiều lần thượng kinh thuyết pháp cho Thái hậu, Thánh thượng và Hoàng gia nghe. Khanh mà nói càn thì mang họa lớn đấy!
Nam Cung Giao cười ruồi :
- Thảo dân đâu dám nói chắc rằng lão hòa thượng ấy có liên quan đến Tứ Hải hội hay không? Có thể lão ta không biết, và cũng có thể lão ta dung dưỡng cháu mình. Nay ta cứ dựa vào thanh danh, địa vị của Đông Hải thần tăng, xin thêm thời gian phá án. Thánh thượng chẳng thể từ chối được!
Mọi người khen phải.
Song Lưu tổng bộ đầu vẫn băn khoăn :
- Tiết Khâm sứ cho biết rằng quan Thái Bảo Liễu Di Phu đã quyết hại Mã thượng thư, đưa tay chân của mình về Nam Kinh thay thế! Lão phu e rằng họ Liễu cùng phe cánh, sẽ cực lực bác bỏ kết quả điều tra của Nam Cung công tử! Nếu Triển thái sư và bá quan không bênh vực được thì chúng ta nguy mất!
Thất vương gia thở dài :
- Triều qui không cho phép đàn bà tham chính, nếu không, bổn vương sẽ gởi thư, nhờ Mẫu Hậu nói giùm một tiếng.
Nam Cung Giao hờ hững nói :
- Mấy năm trước, thảo dân đến thành Đại Lý tỉnh Vân Nam du ngoạn, tình cờ quen với gia đình một thiếu nữ tên gọi Đàm Tự Cơ, sau này, nghe nói nàng ra được tiến cung? Giá mà Tự Cơ được Thánh thượng yêu mến thì thảo dân có thể viết thư, nhờ nàng giúp đỡ!
Thất vương phi kinh ngạc :
- Có chuyện may mắn đến thế ư! Gia phụ mới nhờ Khâm sứ chuyển thư đến. Ông kể rằng hiện nay Thánh thượng sủng ái nhất là Tây Cung quí phi Đàm Tự Cơ. Nàng ta nhan sắc phi phàm, thân thể có mùi thơm hăng hắc như chồn xạ, khiến Thiên tử đắm say đến nỗi cạn kiệt nguyên dương suýt chết. Nhưng sau khi được một vị đại phu trong đoàn Sứ thần An Nam cứu mạng. Thánh thượng càng bội phần yêu mến Đoàn quí phi. Vì nàng ta đã có long thai trong bụng!
Nam Cung Giao khoan khoái, chỉ muốn nói toạc ra rằng mình chính là vị đại phu kia, và cái thai rồng nọ là giọt máu họ Nam Cung! Nhưng tất nhiên chàng chẳng dại gì mở miệng.
Mã Hoàn Cơ cất giọng thánh thót, dễ nghe, nhưng móng tay cắm sâu vào vai Nam Cung Giao :
- Té ra tướng công đã từng có duyên tương ngộ với Tây Cung quí phi! Nếu mối giao tình năm xưa vẫn chưa phai, chắc rằng Đoàn quí phi sẽ tận tình làm theo yêu cầu của tướng công!
Nàng đứng sau lưng Nam Cung Giao, còn Mã Kim Khu cũng đứng hầu Vương gia, theo đúng chức trách của mình, gã cười hăng hắc :
- Thoát nạn là tốt lắm rồi! Sao hiền muội lại ghen cả với chuyện ngày xưa như vậy? Ngươi ghen quá không chừng gã sợ mà bỏ trốn đấy!
Cả bàn tủm tỉm cười trước vẻ thẹn thùng của Hoàn Cơ.
Mã thượng thư thận trọng hỏi lại :
- Giao nhi có chắc rằng Đoàn quí phi sẽ nể mặt ngươi hay không?
Nam Cung Giao trấn an :
- Nhạc phụ yên tâm! Tiểu tế với Tự Cơ là bạn tri âm, tình cảm thân thiết. Chắc chắn nàng ta sẽ không tiếc công thỏ thẻ vào tai Thánh thượng vài câu! Nhạc phụ cứ xin gia hạn một năm, cho người mang thư của Tiểu tế hồi kinh trước Khâm sứ, nhờ người thân tín chuyển vào cung.
Thất vương phi tán thành :
- Mã hiền khanh cứ cho đem thẳng đến phủ Thái sư! Gia mẫu sẽ mượn cớ vào cung thăm Quí phi, trao cho nàng ta!
Đại họa xem như đã qua, vì không có vị vua nào từ chối những yêu cầu của mỹ nhân, khi đang đắm đuối trong hoan lạc!
Đàn bà không được tham chính, nhưng họ đã chi phối những triều đại ngay trên long sàng!
Vợ chồng Thất vương gia và Lưu tổng bộ đầu Lưu Cát về rồi, bàn tiệc chỉ còn lại Nam Cung Giao và cha con Mã thượng thư!
Mã Phu nhân ngất xỉu ngay tối hôm qua, khi nghe Lưu Cát đến báo hung tin, hiện nằm liệt trong phòng!
Nam Cung Giao xin phép vào thăm Nhạc mẫu thì Mã Xuân Trác cản lại.
Lão đuổi hết bọn tỳ nữ ra ngoài rồi nghiêm giọng :
- Giao nhi! Việc Ngọc Diện Thần Kiếm Trương Sĩ Hạo là Hội chủ Tứ Hải hội có đúng sự thật hay không?
Nam Cung Giao gượng cười :
- Dường như Nhạc phụ không còn tin tưởng tiểu tế nữa? Tiểu tế xin thề rằng chẳng hề nói sai nửa lời!
Mã Thương Thư gật đầu :
- Thế thì tốt! Lão phu sẽ dốc sức truy tầm Tứ Hải hội, dù chưa chắc rằng họ có phải là hung thủ hay không?
Nam Cung Giao chột dạ, thầm đoán lão đã nghi ngờ mình.
Mã Xuân Trác nhìn thẳng vào mắt chàng và nói tiếp :
- Cơ nhi nóng ruột vì việc ngươi về thăm nhà quá lâu không trở lại, nên đòi đi Cán Châu tìm. Lão phu liền cho dịch tốt kiên trình ngày đêm đến thành Cán Châu hỏi thăm. Và rốt cuộc thì lão phu phát hiện ta rằng gia đình ngươi chưa bao giờ cư trú ở đây!
Ông tức tối đến nghẹn lời, dừng một lúc mới nói được :
- Giao nhi! Nhà họ Mã liên tiếp chịu đại ân của ngươi, song lão phu là người thẳng thắn, không chịu được sự lừa dối. Hôm nay, ngươi hãy nói hết ẩn tình ra đi!
Hoàn Cơ cũng bật khóc :
- Chẳng lẽ chàng cũng chỉ giả đối với thiếp?
Nam Cung Giao buồn rầu đáp :
- Ta rất yêu mến nàng! Nhưng xem ta đôi ta không duyên nợ! Mong nàng lượng thứ cho Giao này!
Hoàn Cơ đau đớn gục xuống bàn khóc vùi.
Chàng quay sang nói với Mã Xuân Trác :
- Đại nhân! Thảo dân chính thực là hung thủ đã giết mệnh quan triều đình. Nay mối gia thù đã báo xong thảo dân xin thú tội, mong đại nhân tha mạng để thảo dân về quê phụng dưỡng huyên đường!
Mã Xuân Trác chết điếng trước lời thú nhận của chàng rể quí kiêm đại ân nhân.
Ông bối rối hỏi :
- Căn nguyên của việc này ra sao?
Nam Cung Giao cười buồn :
- Chuyện rất khó nói, thảo dân chẳng tiện tiết lộ!
Chàng rời ghế, quì xuống lạy :
- Thảo dân không được làm rể họ Mã, song lòng lúc nào cũng kính yêu đại nhân như cha mẹ. Nếu đại nhân không bắt tội, thảo dân xin phép cáo từ!
Hoàn Cơ nghe thấy thế nhào xuống ôm mặt Nam Cung Giao, mắt lạc thần, miệng lảm nhảm van xin như điên dại :
- Tướng công đừng bõ thiếp!
Mã Xuân Trác bi phẫn nói :
- Hai con đứng lên đi! Dù sau này sự việc bại lộ, lão phu phải rơi đầu thì cũng nhận Giao nhi là rể. Cùng lắm, lão phu nhân việc Tứ Hải hội mà xin từ quan ngay, tìm chỗ thanh nhàn mà ẩn dật!
Lão bước xuống đỡ hai trẻ lên, mặt đằm đìa nước mắt.
Hoàn Cơ mừng rỡ gạt lệ, nũng nịu bảo Nam Cung Giao :
- Phụ thân đã thương chàng đến thế, sao chưa nói lời tạ ơn?
Nam Cung Giao vẫn ủ rũ lắc đầu :
- Đại nhân rộng lượng khiến ta càng thêm hổ thẹn, vì sợ không mang lại hạnh phúc cho nàng. Số ta lắm thê nhiều thiếp, tính nàng lại hay ghen, chẳng khổ lắm sao? Chẳng thà chia tay nhau lúc này, Mã Gia tránh được tai họa, còn nàng cũng không phải thiệt thòi!
Hòan Cơ sợ hãi níu tay chàng :
- Đã là số mệnh thì thiếp còn ghen làm gì! Dẫu chàng có đa mang cũng chẳng sao, quí hồ một lòng yêu thương thiếp là được rồi! Thiếp thề có hoàng thiên chứng giám đấy!
Nam Cung Giao mỉm cười :
- Nàng quả là người vợ tốt nhất trên đời! Ta rất biết ơn!
Chàng quay sang nói với Mã lão :
- Xin nhạc phụ đừng ưu phiền về tai họa mai sau nữa! Dẫu ẩn tình bị phát hiện thì Thánh thượng cũng chẳng dám chém cái đầu nhỏ bé này! Tiểu tế không bị xử thì chẳng có ai bị liên lụy cả!
Dứt lời, chàng móc một vật ra trao cho nhạc phụ.
Mã thượng thư rú lên :
- “Miễn tử kim bài”! Làm sao ngươi có được vật này!
Chàng cười khà khà :
- Chẳng phải là của ăn trộm đâu! Tiểu tế có cả sắc chỉ ân tứ đây này!
Chàng bảo Hoàn Cơ đưa tay nải, lấy ra một cuộn mạ vàng.
Mã Xuân Trác cầm lấy lẩm nhẩm đọc :
“Phụng thiên thừa vận Hoàng Đế chiếu viết :
Nay trẫm khâm ban “Miễn tử kim bài” cho hiền thần là Nam Cung Giao, hai mươi ba tuổi, quê quán Quảng Đông, để thưởng công Nam Cung hiền khanh đã đem tài y thuật cứu mạng trẫm. Dẫu Nam Cung Giao có phạm tội đáng chém cũng đươc tha mạng ba lần!
Khâm thử”
Tại sao sắc chỉ không đề tên Đặng Chiếu mà là tên thật của chàng?
Ấy là vì thánh chỉ này do Đoàn quí phi ngự bút, và Minh Anh Tòng đã ấn ký sau khi nghe nàng đọc lại!
Lúc ấy, Đoàn quí phi đứng sát long nhan, mùi hương da thịt thơm ngát, khiến Đức Vạn Tuế rạo rực, mê mẩn, chẳng còn tâm trí đâu mà kiểm tra!
Mã thượng thư trút được gánh nặng ngàn cân trong lòng, cười ha hả :
- Giao nhi quả là thần thông quảng đại! Ngươi mau ngồi xuống kể lại cuộc thượng kinh cho lão phu nghe!



Ba ngày sau, Nam Cung Giao đánh xe song mã rời Nam Kinh.
Lần này, trong xe có đến hai nữ nhân, và cạnh xe là hai gã Trịnh Tháo, Trịnh Mãng.
Còn xa xa phía trước phía sau xe ngựa là hai toán lái buôn.
Gọi lái buôn là do y phục chứ phong thái của họ rất đáng ngờ. Không phải do họ mang vũ khí, bởi đấy là chuyện bình thường, trong một đất nước nhiều cường đạo, mà vì ánh mắt họ sáng quắc và lạnh lẽo.
Hai toán người này gồm bẩy cao thủ Huyết Phủ hội và mười ba tay đao Thế Thiên hội.
Do Mã Hoàn Cơ nằng nặc đòi về Giang Tây ra mắt cha mẹ chồng, nên Mã thượng thư đã bắt Nam Cung Giao phải mang theo hộ vệ.
Dù máu ghen vẫn sôi sục, song Hoàn Cơ đã chấp nhận việc đa mang của phu tướng, đành phải vui vẻ với Đinh Tử Phượng! Và bản chất nhân hậu đã khiến Mã Tiểu thư thương xót thân phận nghiệt ngã của Tử Phượng, đỡ đần cho kẻ đang mang nặng bào thai!



Một tối gần giữa tháng hai, Nam Cung Giao bồi hồi gõ cửa nhà mình.
Nam Cung Bột vừa ló ra đã bị vị khách cao lớn kia ôm chặt lấy nhắc bổng lên.
Lão Bột nhà ta kinh hãi, định vung quyền giáng vào đầu đối phương thì nghe được tiếng cười sảng khoái, hồn nhiên của con trai.
Lão mừng rỡ nói :
- Tiểu quỷ! Người có buông lão phu xuống không?
Nam Cung Giao nhẹ nhàng đặt ông xuống, quay lại nói :
- Đây là cha ta! Hai nàng hãy mau ra mắt!
Tử Phượng và Hoàn Cơ vội nghiêng mình :
- Tức nữ bái kiến lão gia!
Nam Cung Bột ngỡ ngàng hỏi con :
- Giao nhi! Sao lần nào cũng một cặp và có ả bụng to như thế này?
Nam Cung Giao cười khà khà :
- Đúng vậy! Lần sau cũng sẽ có một cặp nữa y hệt hai lần trước!
Nam Cung Bột thở dài hỏi lại :
- Thế có ả nào biết nấu ăn không? Hai ả trước nấu cơm thì khét, nấu canh cá thì để nguyên vẩy và không làm ruột! Lão phu chịu hết nỗi rồi!
Nam Cung Giao bật cười :
- Chắc phụ thân lại phải xuống bếp chứ gì! Nhưng lần này thì khác, Mã Tiểu thư đã là thánh thủ trong nghề bếp núc!
Đặng Trinh Tâm từ trong nói vọng ra :
- Đã về sao không vào mà còn đứng đấy nói xàm?
Bốn người đi xuyên cửa hàng thuốc đầy những kệ gỗ, qua một mảnh sân nhỏ, vào đến khách xá, cũng là nơi quây quần tụ họp của cả nhà.
Lộc Nhi, Hà nhi chạy ùa ra ôm lấy đại ca mà vòi quà.
Nam Cung Giao bồng chúng lên, hôn hít và nói :
- Hai ngươi mau lớn quá!
Vào đến nơi, chàng buông chúng quì xuống, hớn hở nói :
- Gia thù đã báo xong, hài nhi mới dám về bái kiến từ mẫu!
Chàng lết đến, ôm gối mẹ nhìn không chớp gương mặt thân yêu, lệ mừng ướt mắt.
Trinh Tâm cũng khóc vì nỗi hân hoan rằng ái tử đã lành lặn trở về.
Suốt thời gian Nam Cung Giao vắng nhà, đêm nào bà cũng khóc thầm, hối hận vì đã đẩy con trai vào cuộc báo thù đầy nguy hiểm! Nếu chàng có mệnh hệ gì chắc bà không sống nổi!
Trinh Tâm cố nén lòng, vuốt tóc con và nói :
- Ta chẳng còn quan tâm đến thù hận cũ nữa! Con về được nhà là ta vui lắm rối!
Nam Cung Giao mỉm cười :
- Cũng nhờ vào sanh ra tử nên hài nhi đã trưởng thành và mang về cho mẫu thân toàn những giai nhân tuyệt thế!
Chàng đứng lên, gọi Tử Phượng và Hoàn Cơ.
Họ đang đứng khép nép với Sở Nhu và Vân Mi vội bước đến.
Lúc này, Nam Cung Bột đã chễm chệ ngồi cạnh vợ, nhận lễ của hai nàng dâu mới.
Lão xua tay :
- Con bé bụng to kia khỏi phải lạy, tội nghiệp cho cháu nội của lão phu!
Nhưng Tử Phượng vẫn run rẩy cúi lạy.
Cha chồng nói thế nhưng mẹ chồng thì sao?
Trinh Tâm ngắm nghía dung nhan hai nàng, hài lòng nói :
- Hai con đều là người nhân hậu, có tướng vượng phu ích tử, xứng đáng làm con dâu của lão thân! Hãy đứng lên đi.
Lộc nhi cười hăng hắc :
- Mẫu thân không trách đại ca, việc ba hóa thành bốn hay sao? Đại ca đã hứa rồi mà?
Trinh Tâm mỉm cười :
- Trách móc gì nữa! Số tử vi của đại ca ngươi ghi rõ là y có đến sáu vợ! Nghĩa là còn thiếu hai người nữa!
Nam Cung Bột vỗ đùi cười ha hả, còn bốn nàng dâu nhìn nhau ngơ ngác.

Hôm sau, Nam Cung Giao bàn bạc với song thân về việc tương lai.
Chàng kể rõ mọi ân oán trong thời gian qua, xin phép họ cho mình được xuất đạo lần nữa, diệt xong bọn tà ma mới dừng chân.
Nam Cung Bột thì tán thành ngay, vì lão quan niệm rằng làm trai phải có công danh sự nghiệp!
Trinh Tâm thì trầm ngâm suy nghĩ rất lâu, thở dài nói :
- Số con có Thiên mã thủ mệnh, chẳng phải là kẻ chịu an phận thủ thường! Ta không ngăn cản nhưng Giao nhi phải hứa với ta một điều.
Nam Cung Giao nghiêm nghị đáp :
- Mẫu thân cứ dạy.
Trinh Tâm chậm rãi nói :
- Đó là trong bất cứ hoàn cảnh nào con cũng không được quyền thí mạng, dẫu tàn phế cũng phải sống mà trở về!
Nam Cung Giao gật đầu :
- Hài nhi quyết chẳng để phụ mẫu và thê tử phải đau lòng! Hài nhi không xem trọng cả thanh danh lẫn lợi lộc, hà tất phải chịu chết oan!
Nam Cung Bột thở dài :
- Giao nhi. Người vợ thứ năm của ngươi chắc chắn là Lâm Bảo Thoa, con gái Chu Sơn đảo chủ! Nhưng người thứ sáu chẳng lẽ lại là Tây Cung quí phi Đoàn Tự Cơ?
Trinh Tâm cười mát :
- Cũng tốt thôi! Lão thân rất vui khi được làm mẹ chồng của một Quí phi.



Đầu tháng mười, Nam Cung Giao đưa Vân Mi và Hoàn Cơ quay về Nam Kinh.
Mười ba tay đao Thế Thiên hội đã ở lại Cảnh Đức trấn, cùng anh em họ Sở bảo vệ nhà Nam Cung!
Những người này giả làm khách phương xa đến, tung vàng mua sạch những cơ ngơi tiếp giáp với Tế An đường, xây dựng lại rất kiên cố và đầy đủ tiện nghi.
Người ngoài không thể biết rằng những công trình mới này thông với Tế An đường, và thực chất là tài sản của nữ đại phu họ Đặng.
Ngay cả dãy nhà phía trước, đối diện tiệm thuốc cũng vậy. Sau này, mười lăm đao thủ trong Hành cung Nam Kinh cũng sẽ về Cảnh Đức trấn và ở đấy.
Như vậy, hiện chỉ có anh em họ Trịnh và bảy lão nhân Huyết Phủ hội tháp tùng vợ chồng Nam Cung Giao ngược Bắc.
Hoàn Cơ giờ đây tươi như hoa vì đã được cha mẹ chồng công nhận là dâu trưởng, và được cả nhà tán thưởng tài nấu ăn!
Nàng đắc ý vì ba nàng kia dốt đặc việc thêu thùa, may vá, bếp núc.
Sở Nhu có khá hơn nhưng cũng chỉ nấu được những món bình dân thông thường, trong khi Hoàn Cơ thông thạo hằng trăm món sơn hào hải vị.
Người già thường thích ăn ngon, nhất là Nam Cung Bột. Do vậy, lão ta lộ rõ sự thiên vị, luôn miệng khen ngợi Hoàn Cơ!
Nhưng Trinh Tâm thì khác, bà luôn giữ đạo công bằng, yêu thương các nàng dâu như nhau, dù xấu xí, nghèo khổ như Sở Nhu hay duyên phận lỡ làng như Tử Phượng. Do vậy, bốn nàng đều hài lòng và hết đã tôn kính mẹ chồng!
Trịnh Tháo và Trịnh Mãng thay phiên nhau làm xà ích để chủ nhân ở trong xe hú hí với hai nữ nhân.
Họ xa nhau đã lâu, tất nhiều chuyện để hàn huyên.
Thùng xe rộng rãi, có cả băng ghế lẫn phản trải nệm để ngã lưng.
Mặc kệ cảnh mùa thu tiêu điều, ảm đạm. Nam Cung Giao ngồi giữa hai người vợ trẻ đẹp như tiên, lim dim hưởng thụ cảm giác khoan khoái, cho rằng Hoàng đế cũng chẳng sướng hơn.
Nhưng khi nghĩ đến cha, chàng tự nhủ rằng ông mới thực sự là người hạnh phúc,vì lấy được một nữ nhân tuyệt diệu như mẹ mình.
Liệu trong sáu ả tố nga mà chàng sở hữu, ai sẽ yêu chàng như Trinh Tâm đã yêu Nam Cung Bột? Vậy thì tính trăng hoa của chàng nào có ích lợi gì?
Nam Cung Giao cố xua tan nỗi băn khoăn bằng cách kéo hai nữ nhân vào lòng, hôn lên má họ!



Về đến Nam Kinh không thấy Mộc Kính Thanh đến như đã hẹn, lòng chàng rất lo lắng, song tự an ủi rằng gã đợi mình ở Kim Diện cung!
Nam Cung Giao rút mười lăm đao thủ Thế Thiên hội ở Hành cung, bảo họ đi ngay Cảnh Đức trấn.
Gần cuối tháng mười chàng khởi hành đi Từ Châu. Tất nhiên, Thần Nữ Tiền Vân Mi cũng theo để về thăm phụ mẫu.
Mã Hoàn Cơ không đi vì Mã thượng thư phu nhân lâm bệnh.
Đoàn nhân mã vượt Bắc lần này có thêm Cẩn Nhục Đầu Đà và Cuồng Vũ Đao Sách Hán Xương!
Họ Sách đã chán cảnh an nhàn nơi phú quí, vác đao theo hầu Nam Cung Giao!
Mưa thu thanh thoảng ập xuống đầu lữ khách, và nắng sẽ làm cháy làn da mịn màng của nữ nhân, vì vậy Thần Nữ Tiền Vân Mi cứ ru rú trong xe, trời mát mới ló ra.
Nam Cung Giao chế diễu nàng :
- Mi muội học võ nghệ quả là vô ích! Nắng không ưa, mưa không chịu, thì còn hành hiệp thế quái nào được?
Thần Nữ ranh mãnh đáp
- Thiếp giữ gìn nhan sắc này là vì tướng công đấy thôi! Chẳng lẽ cứ phải nám đen như cột nhà cháy thì mới là hiệp khách? Hơn nữa, bổn phận của nữ nhân là thờ chồng nuôi con, quán xuyến nhà cửa, chứ đâu phải việc vác gươm chạy rông, lo chuyện thiên hạ như chàng!
Nam Cung Giao phì cười :
- Xem ra nàng còn khoác lác hơn cả ta! Đến nỗi cơm cũng không biết nấu mà đòi quán xuyến nhà cả!
Vân Mi xấu hổ, giấu mặt vào ngực phu tướng.
Nam Cung Giao xiết nhẹ thân hình mượt mà, tươi mát của nàng mà vỗ về, an ủi.
Hạnh phúc ôn nhu, ấm áp dọc đường thiên lý chỉ kéo dài được sáu hôm.



Xế chiều ngày mùng hai tháng mười một, bọn Nam Cung Giao đến chân núi Duyên Sơn.
Từ bìa rừng, một gã áo đen tuổi tứ tuần bước ra, chặn ngay đường cao giọng quát :
- Dừng lại! Tại hạ có việc quan trọng muốn bái kiến Nam Cung công tử!
Trịnh Tháo ghì cương xe song mã, cau mày hỏi :
- Túc hạ muốn gì?
Hán tử nọ nhất định bước đến thì Trịnh Mãng nạt :
- Đứng yên tại chỗ! Không được đến gần xe!
Hán tử cười nhạt :
- Tại hạ không mang theo vũ khí mà các hạ cũng sợ sao?
Trịnh Mãng quắt mắt :
- Đừng nhiều lời, có gì cứ nói lớn lên, chủ nhân ta ở trong xe sẽ nghe thấy!
Lúc này, bảy lão họ Mộc của Huyết Phủ hội đã lên đến, nhảy xuống vây chặt lão Hắc y.
Gã nhăn mặt, tháo tay nải lụa đen trên vai, quăng cho Mộc Đông Sơ và nói :
- Lão hãy đưa cho Nam Cung Giao xem!
Họ Mộc cẩn thận mở ra, chỉ thấy vài bộ võ phục, một sợi nhuyễn tiên cuộn tròn và một phong thư dán kính, yên tâm ném cho Trịnh Tháo.
Gã xà ích bất đắc dĩ này đưa qua ô cửa sổ thùng xe sau lưng mình.
Nam Cung Giao tái mặt nhận ra cây roi thân thiết và y phục của Mộc Kính Thanh.
Chàng xé vội phong thư ra đọc :
“Nam Cung tiểu tử!
Lão phu may mắn bắt được một con cáo nhỏ tên gọi Mộc Kính Thanh, hiện đang giam giữ ở gần đây! Nếu ngươi muốn cứu gã thì cứ đi theo đệ tử của lão phu, không được đem theo bất cứ người nào nữa!
Để ngươi không trách lão phu ỷ già hiếp trẻ, chỉ cần ngươi qua nổi hai trăm chiêu là lão phu sẽ tha cho cả hai! Lão phu xin đem danh dự tổ tiên họ Khương ra đảm bảo lời hứa này!
Long Giác Thần Quân Khương Quang Bật cẩn bút!”
Đọc xong, nét mặt Nam Cung Giao đanh lại, song ánh mắt lại tràn ngập nỗi ưu tư. Dù biết đây là một cái bẫy chết người, song chàng vẫn phải đi vào tìm cách cứu cho được họ Mộc.
Chẳng phải vì lời thề đồng sinh, đồng tử mà bởi chàng yêu thương gã như chính bản thân mình! Chàng không để Kính Thanh phải chịu cảnh tra khảo dã man và chết dưới bàn tay tàn độc của lão ác ma họ Khương!
Thần Nữ sợ hãi hỏi :
- Chẳng hay trong thư viết gì mà sắc diện tướng công đáng sợ như vậy?
Nam Cung Giao nghiến răng đáp :
- Long Giác Thần Quân đã bắt được Mộc Kính Thanh! Lão đòi ta đi một mình đến gặp!
Chàng đau lòng không nói thêm được nữa, trao thư cho Thần Nữ xem.
Vân Mi đọc nhanh, hốt hoảng nói :
- Đây là bút tích của nữ nhân, dù đã cố ngụy tạo những nét phóng khoáng, cứng cáp của đàn ông, nhưng không qua mắt được một người sành thư pháp như tiện thiếp! Điều này chứng tỏ lão ta chẳng hề thực lòng!
Nam Cung Giao thở dài :
- Long Giác Thần Quân đâu dại gì để lại tang chứng! Dù biết lão giả trá nhưng ta vẫn phải đi! Nàng hãy về Từ Châu trước, đừng lo lắng cho ta!
Nếu không cứu được Kính Thanh, ta cũng cố bảo toàn tính mạng để sau này trả thù cho gã! Ta đã hứa với mẫu thân, quyết chẳng sai lời!
Nghe giọng kiên quyết, Thần Nữ sa lệ gật đầu :
- Mong tướng công bảo trọng! Chàng có mệnh hệ gì thì bọn thiếp chết mất!
Nam Cung Giao hôn lên vầng trán thanh khiết của ái thê để từ giã, rồi lấy kiếm và ít vật thiết thân, mở cửa xe bước xuống!
Chàng mang theo cả tay nải của Kính Thanh!
Nam Cung Giao nghiêm giọng nói với phe nhà :
- Long Giác Thần Quân đã bắt được nghĩa đệ của tại hạ là Mộc Kính Thanh! Lão đòi tại hạ phải một mình đến gặp! Vậy chư vị hãy cấp tốc rời khỏi chốn này, về thẳng Từ Châu, tại hạ sẽ đi về sau!
Chàng không nhắc gì đến Thần Nữ Tiền Vân Mi, hi vọng đối phương không biết mà làm hại đến nàng!
Anh em họ Trịnh và bảy lão họ Mộc đều là kẻ lão luyện giang hồ, hành sự quyết đoán, liệu việc rất nhanh. Họ nhất tề gật đầu, đánh xe, phóng ngựa đi ngay.
Cẩn Nhục Đầu Đà lén nháy mắt với Nam Cung Giao, hẹn sẽ quay lại.

Hán tử áo đen dõi mắt nhìn theo, đề phòng bất trắc. Chờ đoàn người ngựa kia đi khá xa, gã bất ngờ lao vút vào rừng.
Nam Cung Giao vội bám theo.
Gã sát thủ Vô Thanh cốc luồn lách, đổi hướng liên tục như để đánh lạc hướng những ai muốn đuổi theo!
Thu về, lá rụng nhiều, trải dầy lên mặt đất, vỡ vụn dưới chân người. Song, việc tìm dấu vết trên thảm lá khô bội phần khó hơn trên đất.
Thỉnh thoảng, gã Hắc y bất ngờ ngoái lại để xem Nam Cung Giao có tìm cánh đánh dấu đường đi hay không? Và gã lạnh lùng cảnh cáo :
- Các hạ đừng bao giờ nghĩ đến việc vẽ đường cho thủ hạ đuổi theo, hoặc bắt ta mà tra khảo! Hãy nhìn lên ngọn cây sẽ thấy người của Vô Thanh cốc có mặt ở khắp nơi!
Nam Cung Giao mỉa mai :
- Thế mà nãy giờ ta cứ lấy làm lạ tự hỏi rằng chẳng lẽ trên đời lại có loài khỉ lông mầu xanh lục!
Hán tử áo đen giận tím mặt, nhưng không dám phát tác, sợ làm hỏng sứ mạng dẫn con ruồi vào cạm bẫy.
Đối với một cao thủ có hạng như Nam Cung Giao, trừ phi rơi vào tuyệt địa mới không đào thoát nổi. Khi chàng đã quyết chí bỏ chạy thì đến Long Giác Thần Quân cũng khó mà bắt được! Cho nên, trước khi dụ chàng vào địa thế hiểm nghèo, dù bị chửi cha mắng mẹ, gã Hắc y cũng phải nhịn nhục.
Sau gần nửa canh giờ băng rừng lội suối, gã ta đưa Nam Cung Giao đến chân núi Duyên Sơn. Gã giao chàng cho một lão già áo xanh, tuổi độ sáu mươi, mặt đầy sẹo trông rất dữ tợn. Và gã lăn ra nằm ngửa trên bãi cỏ mà thở hổn hển!
Cuộc chạy đua đã rút kiệt sức lực của gã!
Đây cũng là một phần trong kế hoạch của Long Giác Thần Quân. Lão muốn chàng phải mệt mỏi rã rời khi đối diện với mình, và chẳng còn sức mà đào tẩu!
Nhưng Khương Quang Bật không biết rằng Nam Cung Giao đã trở thành đệ tử của Thiền Sơn trưởng lão, và được truyền thụ pho Tâm pháp nội công vô thượng của Phật môn là Liên Hoa thần công!
Không phải ngẫu nhiên mà Thiếu Lâm tự luôn là Thái Sơn Bắc Đẩu của võ lâm. Tuyệt học của Đạt Ma tổ sư uyên ảo, huyền diệu hơn hẳn các phái trong thiên hạ.
Liên Hoa tâm pháp được ngài Đạt Ma sáng tạo ra vào những năm cuối đời. Trước lúc nhập Niết Bàn, Thiền sư chép lại khẩu quyết đồ hình, và dặn dò rằng :
- Tâm pháp này gần với phép Thiền Định hơn cả, chỉ dành cho những người có căn cơ thượng phẩm, tâm địa trong sáng như gương! Kẻ nào gân cốt tầm thường lòng dạ nhiều vọng niệm thì chớ luyện mà mang họa. Do vậy, đa số đệ tử Thiếu Lâm tự đều luyện Vô Tướng thần công, khi có được ba bốn chục năm tu vi mới dám chuyển qua nghiên cứu Liên Hoa tâm pháp, song chẳng phải ai cũng thành công.
Ví dụ như Quản sự Tăng Bạch Giác. Tuy lão là sư đệ của Chưởng môn, vai vế rất cao, song lại bó tay trước pho nội công này!
Bạch Giác thông minh tuyệt thế, cơ trí hơn người, đầu óc đầy ắp kiến thức, sở đắc mà không buông, thuộc dạng thanh văn, duyên giác, chẳng thể nào giác ngộ nổi chân lý cao siêu của Phật Như Lai, cũng như Liên Hoa tâm pháp.
Tất cả những pho nội công khác đều theo nguyên tắc dẫn khí qua hai mạch Nhâm Đốc, tụ lại ở Khí Hải.
Người hành công phải chăm chú giữ cho luồng chân nguyên đi đúng đường, sai là bỏ mạng!
Tâm pháp Liên Hoa lại khác hẳn!
Hành giả phải đưa chân khí qua đủ mười bốn hành kinh, theo một thứ tự rất phức tạp. Thời gian cho mỗi vòng chu thiên dài gấp năm lần bình thường!
Hiệu quả thu hoạch chỉ thế thôi, nhưng khả năng tái tạo chân nguyên rất nhanh chóng!
Khó khăn đến thế thì tại sao Nam Cung Giao lại vượt qua được?
Điều này xuất phát từ huệ căn của chàng! Phật tánh cũng như lòng nhân, kẻ nhiều, người ít, chẳng đồng đều.
Tóm lại, giờ đây sức lực của Nam Cung Giao bền bỉ hơn xưa rất nhiều. Tựa như giếng khơi có nguồn trong lòng đất nên vơi lại đầy ngay!
Lão già mặt sẹo thấy chàng vẫn ung dung, tươi tỉnh sau một cuộc hành trình cấp bách và vất vả, lòng rất khâm phục.
Chàng lại còn vui vẻ vòng tay chào hỏi :
- Lão bá chờ tai hạ đã lâu chưa? Lỗi là do vị huynh đài kia cứ chạy vòng vèo nên mới lâu như vậy!
Lão nhân mặt sẹo kinh ngạc, không ngờ đối phương vẫn còn cười được và thủ lễ trong hoàn cảnh này!
Chẳng ai có thể gắt gỏng với một người như thế, lão gượng cười đáp :
- Lão phu cũng mới xuống đến! Mời công tử thượng sơn, Thần quân đang đợi!
Lão quay lưng phi thân lên sườn núi thoai thoải, dẫn đường cho khách.

Sơn đạo đã mọc dầy cỏ dại, chẳng còn rõ lối, chứng tỏ từ lâu không ai sử dụng.
Núi Duyên Sơn chỉ cao độ năm chục trượng và không dốc lắm.
Lên đến nơi, Nam Cung Giao nhận ra đỉnh núi khá bằng phẳng mọc lác đác vài chục cây cổ thụ.
Dưới bóng mát của tàn cây cao nhất có căn thảo xá khá lớn, cỏ lợp mái còn xanh, bởi mới dựng được vài ngày!
Nam Cung Giao dừng chân ngay mép bình đài vận công nói lớn :
- Mời Khương Thần quân đưa Kính Thanh ra cửa cho tại hạ biết y còn sống! Nếu y đã chết thì chẳng cần thương lượng nữa, tại hạ sẽ bỏ đi ngay!
Lão nhân mặt sẹo bước thẳng vào thảo xá chắc là để cảnh báo Khương Quang Bật về tài khinh công và luồng chân khí thâm hậu, dồi dào của chàng!
Lát sau, một lão già áo đỏ viền vàng, thêu con Kim Long rất sống động, chậm rãi bước ra.
Giai khối u ở góc trán là danh thiếp của họ Khương. Chẳng cần phải mở miệng xưng danh tánh.
Lão ta cũng có đôi mắt Tứ Bạch như con trai mình, nhưng mũi lân, miệng rộng, râu rồng, trông rất oai phong. Đôi tai lão lớn, thùng châu rất dầy, hèn gì sống đến tám mươi, dù bị cả thiên hạ oán hận, nguyền rủa!
Nam Cung Giao không có thời gian quan sát kỹ, lão mặt sẹo đã cùng năm lão áo xanh nữa khiêng Kính Thanh ra.
Gọi là khiêng vì gã bị nhốt trong một cũi gỗ rất chắc chắn, chỉ có thể ngồi chứ không thể nằm hay đứng được!
Nam Cung Giao đau lòng gọi vang :
- Mộc hiền đệ!
Long Giác Thần Quân giơ tay ra hiệu, và lão mặt sẹo thò tay qua song củi nhét vào miệng Kính Thanh một viên thuốc nhỏ màu trắng.
Thì ra gã đang mê man vì thuốc mê!
Kính Thanh tỉnh lại, ngơ ngác nhìn quanh, nhận ra bóng dáng quen thuộc của Nam Cung Giao, mừng rỡ hô hoán :
- Có phải đại ca đấy không?
Nam Cung Giao hỏi ngay :
- Ta đây! Công lực ngươi thế nào?
Kính Thanh rầu rĩ đáp :
- Tiểu đệ bị bắt hồi sáng sớm, chưa được ăn gì nên đói đến bủn rủn tay chân!
Gã chợt thức ngộ ra rằng Nam Cung Giao vì mình mà đến đậy nộp mạng!
Gã bật khóc, thét lên :
- Đại ca mau chạy đi, đừng bận tâm đến tiểu đệ nữa!
Nam Cung Giao bình thản quay sang nói với Long Giác Thần Quân :
- Tại hạ suốt đời làm gì cũng chắc ăn, chẳng hề chịu thiệt thòi! Nếu chết mà không cứu được nghĩa đệ thì thà bỏ mạng, về Nam Kinh huy động mười vạn quân Hồ Nam, mang cả đại pháo đến Ngũ Lĩnh Nguyên trả thù!
Tôn giá muốn lấy mạng tại hạ thì phải thả Kính Thanh ra trước!
Long Giác Thần Quân nhếch mép cười ngạo nghễ :
- Khẫu khí ngông cuồng kia chỉ là để che giấu sự sợ hãi mà thôi! Bỗn Thần quân đã viết lời trọng thệ, lẽ nào lại nuốt lời?
Nam Cung Giao cười mũi :
- Đấy là nét chữ của đàn bà, hoặc một kẻ bán nam bán nữ, chẳng thể lừa được Giao này. Lão sợ phong thư ấy trở thành bằng chứng. cho tội giết ta nên nhờ một ả nào đó viết giùm.
Khương Quang Bật ngượng ngùng :
- Không ngờ tiễu tử ngươi, cũng là Đại Hành Gia trong nghề Thư pháp!
Thôi được! Lão phu đồng ý phóng thích gã họ Mộc trước! Nhưng ngươi phải thề độc, rằng sẽ tận tình tiếp lão phu hai trăm chiêu!
Nam Cung Giao gật gù :
- Tốt lắm! Song lão cũng phải thề rằng không đánh quá hai trăm chiêu, như đã viết trong thư!
Hai người lần lượt thề thốt, đem thanh danh giòng họ ra bảo chứng!
Mộc Kính Thanh được thả khỏi cũi loạng choạng chạy đến, ôm Nam Cung Giao khóc vùi!
Chàng vỗ lưng gã thì thầm :
- Bọn Trịnh Tháo đang tiến vào! Ngươi mau xuống núi, hợp lực cùng họ đốt rừng, nhớ chọn hướng sao cho khói bay lên đây, có thế ta mới thoát được!
Xong việc phải đi Từ Châu ngay. Các ngươi ở lại chỉ tổ vướng chân ta mà thôi!
Chàng nhét vào miệng gã hai viên Tái Sanh đan rồi nói với họ Khương :
- Phiền Thần quân cho người đưa Kính Thanh xuống. Khi nào nghe y cất tiếng hú an toàn, hai ta sẽ giao đấu.
Khương Quang Bật gật đầu, bảo lão mặt sẹo :
- Tào Mật! Ngươi hãy cõng tiểu tử họ Mộc hạ sơn! Hãy nhanh chân lên!
Họ Tào vòng tay nhận lệnh, bước về phía anh em Nam Cung Giao.
Kính Thanh lắc đầu :
- Ta còn đi được, lão xuống trước đi!
Gã quay lại dặn dò nghĩa huynh :
- Đại ca phải cẩn trọng đấy! Tiểu đệ quyết không sống thiếu đại ca đâu!
Nam Cung Giao cảm động cười ha hả :
- Hai trăm chiêu nào có đáng gì! Ngươi cứ yên tâm!
Chàng đưa bọc hành lý cho gã, nheo mắt nói :
- Hãy tìm chỗ mà tắm gội, thay y phục! Ngươi hôi hám quá khiến nãy giờ ta phải nín thở!
Kính Thanh vừa thẹn vừa giận :
- Đại ca mà chui vào cái cũi chó ấy thì còn hôi gấp mươi lần tiểu đệ!
Gã vùng vằng theo Tào Mật hạ sơn.

Lúc này, bọn thủ hạ Vô Thanh cốc đã rút cả về, vây chặt một đoạn chân núi Duyên Sơn. Họ đông đến gần trăm, lực lượng rất mạnh!
Cánh rừng này chỉ sâu độ trăm trượng, nếu đi thẳng thì chỉ mất chừng hai khắc, chứ không lâu như lúc Nam Cung Giao được dẫn vào.
Chàng thản nhiên quay về Tây ngắm cảnh tà dương tím lịm của mùa thu, khoan khoái vì gió thu lồng lộng. May thay, núi Duyên Sơn lại nằm ở mé Đông đường quan đạo.
Thời thơ ấu, Nam Cung Giao thường vào rừng Lam Sơn, trên đảo Hải Nam, luyện võ, nhận mặt được khá nhiều chủng loại thảo mộc.
Lúc đi xuyên cánh rừng này, chàng đã thấy san sát những loài cây cho dầu. Chúng sẽ cháy khá nhanh, tỏa khói mù mịt, chưa kể đến thảm lá thu này!
Trong hoàn cảnh ấy, lợi thế sẽ thuộc về Nam Cung Giao. Chàng rất giỏi thủy tính, thời gian bế khí dài gấp bốn lần người khác, kể cả Khương lão quỷ! Cộng với thân pháp Hư Ảnh Thần Bộ, chàng sẽ qua khỏi hai trăm chiêu rất dễ dàng!
Nghe tiếng hú thánh thót của Kính Thanh vọng lên. Chàng nghiêm giọng nói với họ Khương :
- Đã đến lúc so tài, nhưng nếu bọn thủ hạ của lão mà đặt chân lên bình đài đỉnh núi này thì tại hạ sẽ bỏ cuộc đào tẩu ngay.
Thần quân cười khẩy :
- Lão phu thừa sức giết ngươi, đâu cần đến bọn chúng.
Lão bảo các đệ tử :
- Các ngươi ra đứng ngay rìa đỉnh núi, không cho bất cứ ai lên.
Nam Cung Giao hài lòng, chậm rãi bước về phía đối phương.
Nãy giờ, hai người đứng cách xa nhau đến chín mười trượng!
Thần quân cao giọng ra lệnh :
- Tương Thuật. Ngươi hãy bước lại gần đây làm trọng tài, đếm theo số chiêu do lão phu đánh ra!
Họ Tương trao kiếm cho đồng đảng vội vã chạy đến, đứng cách trận địa hai trượng.
Long Giác Thần Quân rút kiếm, mắt sáng rực ý niệm giết chóc, ngay từ đầu đã hạ sát thủ. Thân hình lão bay vút đến, kiếm quang phớt hồng vì ánh tà dương.
Khương Quang Bật có hơn bẩy mươi năm công lực, khi dồn đủ hai thành chân khí thì đòn ra như lôi giáp, nát đá tan vàng.
Nhưng đối thủ của lão khó mà biết được vì Vô Thanh kiếm pháp lặng lẽ, âm hiểm, chẳng hề ồn ào, lộ liễu.
Nam Cung Giao cũng lướt đến đón chiêu, mũi kiếm vẽ nên hàng ngàn bóng ảnh mờ mờ. Có vẻ như chàng đang thi triển chiêu Lạc Điểu Nam Phi, quyết cùng kẻ thù đổi mạng.
Long Giác Thần Quân khấp khởi mừng, tự tin chỉ một chiêu này là phân thắng bại!
Nào ngờ, khi song phương vừa giáp mặt, vũ khí chưa kịp va chạm thì Nam Cung Giao đột ngột xê dịch sang mé tả tựa vì sao đổi ngôi, thoát khỏi chiêu kiếm nặng như núi đổ của họ Khương!
Thần quân mất mục tiêu, theo đà bay thêm hơn trượng mới gượng lại được và quay lại đón đường kiếm của Nam Cung Giao.
Lão chột dạ trước bộ pháp khoáng cổ tuyệt kim của đối thủ, cắn răng thi triển tuyệt học Vô Thanh Kiếm pháp chống đỡ những loạt đòn liên tiếp.
Nam Cung Giao dùng phép khoái kiếm ra đòn như chớp giật, chiêu nọ nối chiêu kia, liên miên bất tuyệt.
Chàng bám sát Thần quân không rời. Cố tận dụng ưu thế chiều dài của Lạc Điểu Thần kiếm mà chiếm thượng phong.
Nhưng hỡi ơi! Vô Thanh kiếm pháp quỷ dị khôn lường, kiếm kình âm nhu mềm mại như tơ nhện, lần lần níu chặt đường kiếm của chàng!
Sau bốn mươi mấy chiêu, Long Giác Thần Quân đã dành lại ưu thế, liên tiếp đẩy lùi đối thủ.
Nam Cung Giao phải thi triển đến mức chót của Hư Ảnh Thần Bộ mới thoát được những thức kiếm ác độc của Thần quân.
Chàng biết khói lửa sắp bốc lên vừa đánh vừa lùi về mép núi hướng Đông, chuẩn bị đào tẩu.
Lão trọng tài cũng đi theo!
Long Giác Thần Quân nhếch mép cười bí ẩn, ung dung dồn gã tiểu tử kia vào tuyệt địa.

Nam Cung Giao đã toại nguyện là đến được nơi mình muốn, song lại kinh hoàng vì sườn Đông núi Duyên Sơn dốc đứng, hợp với đỉnh bên cạnh thành một lòng chảo sâu hun hút và mờ mịt sương núi!
Long Giác Thần Quân phá lên cười :
- Huyệt mộ của ngươi đấy! Giờ thì đừng hòng đào tẩu nữa!
Nam Cung Giao ngao ngán hỏi :
- Thế lão có còn nghĩ giới hạn hai trăm chiêu nữa không?
Thần quân dõng dạc đáp :
- Tại sao lão phu lại nuốt lời? Còn đến hơn trăm chiêu nữa, chẳng lẽ Khương mỗ không giết được ngươi?
Dứt lời, lão lao vào tấn công quyết liệt, dồn đối phương xuống vực thẳm.
Đúng lúc này, khu rừng dưới chân núi bốc cháy một đoạn độ hai chục trượng. Gió Tây đưa lửa lan nhanh và thổi khói về hướng đỉnh núi Duyên Sơn.
Bọn thủ hạ Võ Thanh Cốc sợ hãi chạy cả lên núi, ôm ngực ho sặc sụa.
Chúng ùa đến, vây quanh trận địa, nhìn Nam Cung Giao bằng ánh mắt căm thù.
Khương Quang Bật giận giữ quát vang :
-Ngươi bảo thủ hạ đốt rừng thì lão phu có quyền hủy lời thề!
Nam Cung Giao không ngờ mình chỉ tính sai một nước cờ mà phải chết oan. Chàng tưởng sườn Đông cũng thoai thoải như sườn Tây nên dự định mượn khói mù mà thoát thân bằng lối ấy.
Giờ đây, vòng vây đã khép kín và dầy đặc, chàng chỉ còn cách liều mạng với Thần quân. Có đả thương được lão, chàng mới mong rảnh tay phá vây chạy xuống lối sườn Tây!
Khói đã mịt mờ đỉnh Duyên Sơn, song phương phải căng mắt mới thấy đường mà so kiếm.
Nam Cung Giao đã sớm hít đầy một phổi dưỡng khí, dồn toàn lực vào chiêu Vô Thủy Vô Minh.
Trong giờ phút hiểm nghèo này, chàng chỉ còn biết trông cậy vào chiêu tuyệt kiếm của Phật môn!
Chàng không đủ công lực để tạo nên cảnh Thiên Hôn Địa Ám, trời đất tối tăm, nhưng may thay, hiện giờ khói đen đang mù mịt đấu trường, Do vậy, Long Giác Thần Quân kinh hoàng vì bị nhốt gọn trong màn kiếm ảnh mờ mờ, u ám, cứ như lạc vào cõi âm ty, mà chẳng thấy đối phương đâu.
Lão vội múa tít đường kiếm bảo vệ châu thân rất nghiêm mật, đề khí bốc lên cao.
Với công lực hùng hậu, Khương lão quỷ đã phá được màn kiếm ảnh hắc ám trên đầu, nhưng đùi trái trúng một kiếm đau thấu trời.
Từ trên độ cao hai trượng, lão điên cuồng bủa lưỡi kiếm xuống đầu gã tiểu tử khốn kiếp kia.
Nam Cung Giao mỉm cười thụ mệnh, lộn người ra phía sau, rơi thẳng xuống triền núi mờ sương!
Long Giác Thần Quân hạ thân xuống đất ngửa cổ cười đắc thắng, ra lệnh rút quân.
Lúc trưa, lão đã xem xét rất kỹ địa hình sườn Đông biết rằng nó gần như dựng đứng và chẳng có cây cối gì. Với độ cao cả trăm trượng, trừ phi biết bay thì Nam Cung Giao mới thoát chết được.
Lòng chảo này thụt sâu hẳn xuống, thấp hơn chân núi ít nhất cũng vài chục trượng nữa, ngay lúc chính Ngọ mà ánh thái dương cũng không soi rõ được đáy vực!
Song Long Giác Thần Quân không biết một điều là thanh Lạc Điểu kiếm bền chắc khác thường, dù bị uốn cong đến tận chuôi cũng không hề gãy. Và Nam Cung Giao lại có đôi cánh tay rất mạnh mẻ.
Chàng đã cố tình nhảy xuống sát sườn núi hai tay nắm chặt chuôi kiếm, cắm phập vào vách đất.
Thanh kiếm bị sức nặng của Nam Cung Giao rút tuột khỏi lớp đất mềm, song đà rơi cũng chậm lại.
Nam Cung Giao liên tục thọc kiếm thêm mấy lần nữa, dừng lại rồi rơi xuống tiếp.
Lưỡi kiếm Lạc Điểu cong oằn khi rời lớp đất, nên thân hình Nam Cung Giao luôn nằm sát sườn vực chứ không đến nỗi văng ra xa!
Cuộc đấu tranh sinh tồn, tưởng chừng như tuyệt vọng này, cuối cùng cũng có kết quả, rốt cuộc, Nam Cung Giao rơi xuống đáy vực sâu, khi dừng lại vài sát na ở độ cao tám chín trượng.
Lần này, chàng chẳng còn chỗ bám víu và vách vực đột nhiên lõm vào ở ngoài tầm tay.
Và với tư thế bật ngửa, Nam Cung Giao gieo mình xuống đáy vực đầy lá mục.
Dường như đầu chàng đã chạm phải một vật cứng nào đó, nên lập tức hôn mê bất tỉnh.

Trưa hôm sau, Nam Cung Giao mới hồi tỉnh, chói mắt bởi vầng dương chính Ngọ.
Chàng mỉm cười với ánh nắng vì biết mình vẫn còn sống!
Không vội ngồi dậy, Nam Cung Giao vận công, lưu chuyển chân khí, kiểm tra kinh mạch. Tất cả hoàn toàn thông suốt, chỉ hơi bải hoải và đau nhức ở đầu và lưng!
Chàng phấn khởi ngồi dậy, đưa tay sờ cục u to tướng ở hậu chẩn, ngoái lại nhìn nhánh gỗ to bằng bắp vế, đang nằm lẫn với lá khô. May thay, nó không phải là một tảng đá, và đã mục rỗng nên dập nát thay cho cái sọ của chàng!
Nghe bụng sôi lên vì đói, chàng nuốt liền một viên Tái Sanh đan, được bào chế bằng thuốc quí như Sâm, Nhung, Hà thủ ô... nên năng lượng khá nhiều.
Nam Cung Giao nhặt trường kiếm, đi rảo vòng quanh đáy vực, trước tiên là tìm nước uống. Chu vi nơi này chỉ độ gần dặm, vách dựng ngược, chỗ thấp nhất cũng cao đến ba chục trượng.
Chàng là người lạc quan nên tự an ủi :
- Sức lực như ta lẽ nào lại chịu thua bức vách cheo leo kia? Cứ nghỉ ngơi cho lại sức rồi tính sau!
Nam Cung Giao vác ngược kiếm trên vai, miệng hát nghêu ngao cho đỡ tịch mịch, thẳng thắn bước về hướng Đông, nơi mà miệng vực không cao, để xem địa thế.
Mặt nước lấp loáng như sương khiến chàng mừng rỡ rảo bước. Thì ra dưới chân vách có một chiếc ao khá lớn, chứa đầy nước trong veo! Cạnh ao cỏ mọc xanh biếc và có cả một tảng đá bằng phẳng, trông tựa chiếc giường!
Nam Cung Giao khoan khoái ngồi xuống bờ ao, vốc nước uống và rửa mặt. Chàng tỉnh táo ra, định thần nhìn sâu xuống đáy ao, cố tìm bóng dáng của loài cá.
Chàng đói rã ruột nên ăn cả cá sống. Đối với dân ngư phủ, việc này rất thường tình khi lênh đênh giữa biển khơi đầy sóng gió.
Lạ thay, dưới ao chàng hề có một sinh vật nào, dù là một con nòng nọc!
Nam Cung Giao sợ hãi thử kiểm tra cơ thể, song không thấy hiện tượng trúng độc. Chàng thở phào, xách kiếm đi loanh quanh khắp nơi, dùng mũi kiếm bới lá mục, may ra có được con gì chăng!
Sau nửa canh giờ, chàng uể oải trở lại, nằm dài trên thạch bàn, nhìn lên vòm trời xanh mà lẩm bẩm :
- Chắc hẳn nơi đây phải có một con vật rất háu ăn, mà chính nó đã xơi tái tất cả chuột bọ, rắn rít, ếch nhái, cá tôm chẳng chừa cho ta một thứ gì cả! Không ăn thì lấy sức đâu mà trèo lên!
Chàng quất thêm một viên Tái Sanh đan, ngồi cầm cự với cái đói.
Trong trạng thái tĩnh lặng, cơ thể chàng sẽ tiêu hao với rất ít năng lượng.
Tám viên linh đan chỉ giúp chàng cầm cự được bốn ngày.

Sang đến trưa ngày thứ năm, chàng nhảy xuống ao tắm gội sạch sẽ, rồi trở lại Thạch bàn ngồi kiết già.
Ngay cả nỗi thống khổ vì tuyệt vọng cũng đã qua đi. Nam Cung Giao thanh thản đi vào cõi chết.
Chàng sẽ tọa công cho đến lúc cơ thể mõi mòn và tim ngừng đập vì thiếu dưỡng chất. Trong lúc khốn cùng này mới biết ai là kẻ có huệ căn nơi hang sâu!
Nam Cung Giao chìm dần vào vô thức, chân khí tự lưu chuyển ngoài sự kiểm soát của ý thức.
Đây chính là yếu quyết cao siêu nhất, khó khăn nhất của Liên Hoa tâm pháp, là cái ngưỡng mà những kẻ căn cơ thấp kém không vượt qua được. Phải là người vô sở đắc, phá được cả cái không chấp, mới qua được cảnh giới này!
Nhưng chưa kịp vong ngã hoàn toàn thì Nam Cung Giao chợt phát hiện ra rằng có một vật mềm lại chạm vào tay mình. Chàng hé mắt nhìn thử thì thấy một con chồn nhỏ xíu dài độ gang tay, lông đen tuyền, dầu có vằn trắng, đang tò mò hít ngửi.
Đang sắp chết đói, Nam Cung Giao chụp ngay cổ con vật đáng thương, khiến nó rít lên chói tai! Và lập tức dưới thạch bàn có những tiếng rít hốt hoảng lo âu của mẹ nó vang lên.
Một con chồn đen khá lớn cuống cuồng chồm lên nép tảng đá, phát ra những âm thanh bi ai, thê thiết.
Chồn mẹ nhìn Nam Cung Giao với ánh mắt sợ hãi, và dường như cầu khẩn vai.
Nam Cung Giao động lòng trắc ẩn, tự nhủ :
- Dẫu ta có ăn thịt con chồn nhỏ bé này cũng chỉ sống thêm được một vài ngày, chứ không đủ sức vượt vách núi. Vậy hà tất làm cho chồn mẹ phải đau khổ vì mất con!
Phải là kẻ đại nhân, đại dụng, đại huệ mới thắng nội bản năng sinh tồn, giữ được lòng từ bi.
Thường thì người đời chẳng bao giờ chịu chết sớm dù chỉ một khắc. Họ sẽ níu kéo mãi mạng sống trong tâm trạng hãi hùng, tuyệt vọng!
Nam Cung Giao mỉm cười, nói với chồn mẹ :
- Té ra chính ngươi đã chén sạch mọi thứ, khiến ta phải chết đói. Nhưng dẫu sao thì ta chỉ là khách, còn ngươi mới là chủ nơi này!
Chàng nhẹ nhàng thả chú chồn con ra, cho nó chạy về phía mẹ.
Ả chồn cái ngoạm ngay lấy đứa con nghịch ngợm, phóng đi thật nhanh về hướng Bắc.
Thì ra hang của nó ở phía ấy, thế mà Nam Cung Giao chẳng thể tìm thấy!
Chàng bâng khuâng nhìn theo, nhớ đến mẹ hiền. Bà sẽ đau xé ruột gan khi biết con trai minh mãi mãi chẳng trở về!
Nam Cung Giao thở dài, cố trút sạch muộn phiền, giữ lòng hư tĩnh mà tọa công!
Song chỉ lát sau, chàng lại nghe có tiếng lá khô sột soạt, ngày càng gần hơn. Chàng mở mắt ra nhìn, phát hiện con chồn mẹ đang tha đến một vật dài ngoằng, to độ cổ chân, có mầu đỏ rực như lửa.
Khi nó đến trước thạch bàn chàng mới biết đấy là một con rắn rất lớn, nặng không dưới tám cân.
Số thực phẩm bổ dưỡng này đủ để giúp chàng hồi phục hoàn toàn.
Nam Cung Giao vui mừng khôn xiết, cười khà khà nói :
- Không ngờ ngươi thông minh đến mức hiểu được lời nói của ta! Xin đa tạ!
Con chồn mẹ nhả chiếc đầu hình tam giáp đáng sợ của độc xà ra, rít lên những tiếng khó hiểu rồi chạy về hang!
Nam Cung Giác vội rời tảng đá, xách kiếm và rắn ra bờ ao. Thân rắn còn ấm, chứng tỏ nó mới bị chồn mẹ bắt không lâu! Chàng là con nhà thầy thuốc, biết máu rắn độc rất bổ, liền chặt chót đuôi, kê miệng hút ngon lành.
Sau đó, chàng chặt phăng đầu rắn, cạo vẩy, rửa thật sạch, món rắn nướng này chàng đã từng ăn nhiều lần với cha, nên động tác rất thuần thục.
Gỗ mục, cành khô chẳng thiếu, chàng bỏ thêm vô đống than còn lại đêm qua, thổi bùng lên, chờ lửa được mới nướng.
Từng khúc thịt dài hơn gang, xỏ vào trường kiếm, tỏa mùi khét lẹt trên ngọn lửa, song với chàng thì thơm phưng phức.
Tuy nướng hết cả con, nhưng Nam Cung Giao chỉ ăn từng ít một. Kẻ bị đói lâu ngày, nếu tham ăn sẽ chết!
Chàng nhai kỹ đến nỗi thịt rắn trong miệng nhuyễn như cháo rồi mới nuốt. Có thế thì cái dạ dày lép kẹp yếu đuối kia mới tiêu hóa nổi!
Nam Cung Giao nghỉ ngơi một canh giờ mới ăn thêm. Cứ rỉ rả như thế, đến chiều hôm sau là hết thịt.
Rắn càng độc càng bổ, mà con quái xà này lại thuộc hàng vua độc vì có lớp da đỏ rực, hiếm có trên đời. Do vậy sức lực của Nam Cung Giao hồi phục rất nhanh.
Tối hôm ấy, theo thói quen, chàng ngồi điều tức, cho chân khí sung mãn để sáng mai vượt núi.
Đến nửa đêm, chàng đang định xả công thì nghe đan điền nóng rực, và một luồng chân nguyên hùng mạnh bùng lên, như muốn phá vỡ huyệt Khí Hải.
Nam Cung Giao vội tiếp tục hành công, dùng tâm pháp Liên Hoa đưa luồng khí lạ kia lưu chuyển khắp bốn kinh mạch!
Cứ sau mỗi vòng chu thiên, áp lực lại giảm đi vì bị dung hòa vào cơ thể Nam Cung Giao, đến trưa hôm sau thì viên mãn.
Chàng mở mắt, đứng lên rú vang, biểu lộ nỗi vui mừng vì có thêm khoảng hai mươi năm nội lực!
Nam Cung Giao chạy về phía vách Bắc, để từ giã mẹ con nhà chồn.
Chúng đã quen với chàng nên thản nhiên đùa giỡn trước hang, chẳng thèm ẩn mặt nữa!
Hang của chúng nằm khuất sau một bụi cây, nên mới đầu Nam Cung Giao không nhìn thấy. Nhận ra chàng, chúng dương mắt nhìn chăm chú và cảnh giác, nhưng không bỏ chạy vào hang.
Nam Cung Giao ngồi xuống, vui vẻ nói :
- Cảm tạ Hồ nương đã tặng cho ta rắn quí. Xin cáo biệt! À! Mà sao không thấy Hồ lão huynh nhà ta đâu cả nhỉ?
Chàng đoán rằng hang chồn này thông với bên ngoài nên chúng mới có mặt ở đây!
Nhưng một gã có thân hình vạn vỡ như chàng sẽ khó mà chui lọt cái hang nhỏ bé kia!
Chồn cái rít lên và bất ngờ chạy vào hang, bỏ con ở lại bên ngoài.
Lát sau nó tha ra một chiếc hộp đồng nhỏ, dài độ hơn gang rộng chỉ nửa gang, dẹp độ ba lóng tay.
Ả ta thả xuống đất, ngoài tầm tay của Nam Cung Giao rồi dẫn con vào hang!
Nam Cung Giao tò mò cầm lên xem, nhận ra có hoa văn mờ mờ trên nắp đã bị lớp gỉ xanh che phủ.
Chàng dùng kiếm cạo sạch lớp nhựa cây gắn quanh mép nắp, rồi cậy ra!
Trong hộp chỉ có quyển sách khá dầy, bẩy mảnh mặt nạ da người rất tinh xảo và một thanh chủy thủ đen thui!
Nam Cung Giao mở quyển sách ra xem trước vì ngoài bìa có bốn chữ rất hấp dẫn: Trường Hồng kiếm kinh.
Tim chàng đập mạnh vì biết đây là tuyệt học thượng thừa của Trường Hồng kiếm khách Thẩm Tư Nhân!
Chàng không hiểu vì sao họ Thẩm tung hoành và chết ở Tây Hạ mà sở học lại lọt vào đến tận đây?
Nhưng trong hộp không hề có di thư, chàng đành xếp mối nghi ngờ, đọc những trang bên trong!
Mở đầu kiếm kinh là một đoạn văn luận về kiếm đạo, ý tứ xâu xa, siêu việt chàng chẳng dễ hiểu ngay được.
Phần còn lại là khẩu quyết và đồ hình của ba mươi sáu chiêu Trường Hồng kiếm pháp, xếp theo thứ tự khó dần.
Nam Cung Giao giật mình vì nhận ra những nét tương tự giữa hai pho Trường Hồng và Lạc Điểu kiếm pháp.
Tuy nhiên, sở học của họ Thẩm toàn mỹ, ưu việt hơn hẳn!
Chàng đoán rằng hai pho kiếm này có cùng xuất xứ, nhưng không rõ nguồn gốc ở Giao Châu hay Trung Hoa.
Có lẽ nên thiên về giả thuyết rằng Trường Hồng kiếm pháp theo chân đoàn quân Đông Hán mà truyền sang An Nam, lọt vào tay tổ phụ họ Đặng!
Do không có nguyên bản kiếm phổ nên chiêu thức nhiều sai sót! Tuy nhiên, trong Trường Hồng kiếm kinh lại không có yếu quyết Phiên Dực Tung Phi!
Nam Cung Giao chẳng hơi đâu mà nghĩ mãi cho mệt óc, chàng bỏ kiếm kinh vào hộp, mang thử một chiếc mặt nạ, chạy trở về ao nước xem đẹp xấu thế nào!
Có vài chỗ chưa dán sát da mặt, được chàng sửa sang lại.
Nam Cung Giao phá lên cười khi thấy mình biến thành mộ
pass to joine phim : Kim_Bang_2
longnu
Múi Mít
Múi Mít
 
Tiền: $122,632
Posts: 1046
Joined: 14 Mar 2005
Location: đến từ nơi xa lắm
 
 

Postby longnu » 08 Apr 2005

12...
Tiếu Ngạo Trung Hoa Nguyên tác : Ưu Đàm Hoa




Hồi 12 Phì nữ hí Khương gia
Trường Hồng danh tứ hải
Trưa mười hai, Nam Cung Giao đến đại trấn An Xuyên, định tìm phạn điếm dùng cơm rồi lại đi ngay.
Lúc đến giữa trấn, chàng phải chậm lại vì một đám đông đã lấn từ lề phải ra đến tận giữa đường. Chẳng hiểu họ đang xem trò vui gì mà cười hô hố rất vui vẻ?
Nam Cung Giao hiếu kỳ, cho ngựa đến sát, nghểnh cổ nhìn vào trong.
Chàng đang ngồi trên lưng tuấn mã nên cao hơn đám đông.
Thì ra, trên vệ đường có một nữ nhân béo phì, tuổi độ hai mươi ba, hai mươi bốn, mặc tang phục, đang quì sau một mảnh liếp tre, trên dán giấy và có ghi hai dòng chữ: “Mại thân táng mẫu”.
Tuy đa số người Trung Hoa theo Phật giáo, song trong việc ma chay, nghi lễ của Đạo giáo tuôn tồn tại!
Người chết mà không được hưởng những thủ tục cúng kiếng của phép Tế nhuyễn, thì khi xuống âm phủ chẳng thấy đường đi, và sẽ đầu thai làm thú vật!
Vì thế, những người con hiếu thảo đều phải cố gắng mời các đạo sĩ đến tụng niệm, chay đàn, đốt bùa chú vài đêm, rất là tốn kém!
Nhà nghèo quá thì chí ít cũng phải có cỗ quan tài và một lễ tế sơ sài!
Do đó, hiện tượng bán thân để chôn cha mẹ rất phổ biến trong xã hội Trung Hoa thời xưa.
Vậy thì đáng lẽ phải tán dương lòng hiếu thảo của người con gái chí hiếu kia, thì sao khách quan chiêm lại cười cợt?
Ấy là vì nàng ta mập như một con heo, nặng gần trăm rưỡi cân, mắt lộ, mũi lân, miệng rộng, răng thưa, vừa xấu xí vừa lộ rõ bản tính ngốc nghếch, hậu đậu.
Không những thế, thỉnh thoảng, nàng ta lại ngừng khóc lóc, kể lể, thò tay vào chiếc rổ đựng đầy bánh bao bằng bột xấu, bốc bỏ miệng nhai ngấu nghiến vài cái rồi nuốt chửng!
Vừa xấu người vừa phàm ăn tục uống như thế thì chẳng ai dại gì mà mua về?
Chưa hết, cạnh nàng ta còn có một con chó mực khá to, đôi lúc sủa inh ỏi như chửi những người đang cười cợt chủ mình. Và khi ấy, nữ lang béo phì lại nạt nó bằng một thứ ngôn ngữ lạ tai.
Nhưng đối với Nam Cung Giao thì tiếng ấy vô cùng thân thuộc và êm ái!
Chàng biết rằng cô gái xấu xí, đáng thương kia có cha hay mẹ là người Giao Chỉ.
Nam Cung Giao xúc động, xuống ngựa, len qua đám đông, vào đến tận bên trong, nghiêm giọng bảo :
- Tại hạ không cần nô tỳ, nhưng sẽ giúp cô nương một số bạc để chôn cất từ mẫu!
Chàng đã đổi ngân phiếu ở tiểu trấn gần núi Duyên Sơn nên trong tay nải có vàng nén, liền lấy ra năm thỏi mỗi thỏi mười lượng, đặt xuống trước mặt nữ nhân chí hiếu.
Mọi người ồ lên kinh ngạc và ganh tỵ với số đỏ của nàng ta!
Đám ma ở vùng này, chỉ cần mười lượng vàng là đã quá linh đình.
Nào ngờ nữ lang béo phì kia lắc đầu từ chối, ỏn ẻn nói :
- Cảm tạ đại hiệp! Song tiểu nữ vì di ngôn của tiên mẫu nên không thể nhận suông được! Người đã dặn tiểu nữ đi theo hầu hạ ân nhân, để sau này, người ấy sẽ kiếm chồng cho.
Đám đông phá lên cười sặc sụa, có kẻ độc mồm nói ngay :
- Thì ngươi cứ lấy quách vị ân nhân của mình là xong!
Nữ nhân bẽn lẽn cúi đầu nói lí nhí :
- Nếu người ấy không chê thì tiểu nữ cũng nguyện nâng khăn sửa túi, chẳng dám chối từ!
Nam Cung Giao nghe tóc gáy dựng ngược, còn những người kia thì ôm bụng cười ngất, ngã lăn cả ra đường!
Nam Cung Giao không ngờ mình lại bị rơi vào hoàn cảnh dở khóc dở cười này, cố tìm cách gỡ, rồi chàng nghiêm giọng :
- Tại hạ có đến năm sáu người vợ nên không thể lấy cô nương. Còn việc thu nạp tỳ nữ thì cũng chẳng tiện, tại hạ là khách giang hồ, sống trên đầu gươm ngọn giáo, chẳng thể cưu mang một nữ nhân chân yếu tay mềm như cô nương được.
Nữ nhân toét miệng cười, ngắt lời chàng :
- Đại hiệp đừng lo, tiện nữ cũng rất giỏi võ, sức lực như mãnh hổ, từ lâu mơ ước được tung hoành chốn võ lâm!
Dứt lời, nàng cung quyền giáng xuống, khiến viên đá xanh lót đường bị lún xuống và nứt làm đôi!
Đám đông tròn mắt kinh ngạc, chẳng còn cười nổi nữa.
Cũng may nãy giờ nàng ta không nổi giận nên sọ của họ chưa vỡ ra!
Nam Cung Giao thầm khen, tủm tỉm hỏi :
- Cô nương danh tính là gì, và học nghệ ở chỗ nào vậy?
Nữ lang yểu điệu đáp :
- Tiện nữ tên gọi Sở Mai, học nghệ của tiên phụ là Trư Hiệp Sở Liễm.
Nam Cung Giao vốn xa lạ với võ lâm, nhưng nhờ chuyện trò với Kính Thanh và anh em họ Trịnh, nên biết tiếng Sở Liễm.
Ba chục năm trước, họ Sở vác thanh đao nặng bốn chục cân ngang dọc giang hồ, sức lực như thần, đả bại rất nhiều cao thủ thành danh.
Do ông ta quá to béo nên có biệt hiệu là Trư Hiệp.
Tung hoành được chục năm thì Sở Liễm lại biệt tăm, không ngờ lại về qui ẩn ở vùng An Xuyên này.
Thế là đã rõ, Trư Hiệp kết hôn với một người đàn bà gốc Giao Châu và sinh ra Sở Mai!
Nam Cung Giao lưỡng lự một lúc rồi nói :
- Thôi được! Tại hạ đồng ý thu nhận Sở cô nương làm tỳ nữ, sau này cô nương sẽ đi theo canh giữ các bà vợ của ta.
Sở Mai mừng rỡ lạy liền chín lạy, đứng lên dẫn chủ mới về nhà mình, ở chân ngọn đồi nhỏ, cách cửa Đông của trấn An Xuyên vài dặm!
Đến nơi, Nam Cung Giao ngơ ngác khi thấy căn nhà. tranh vắng vẻ kia chẳng hề có ai, cả người sống lẫn người chết! Và cạnh nhà có hai ngôi mộ nằm song song, mộ chí ghi rõ ràng danh tính của Trư hiệp, và một nữ nhân tên Lê Thị Hoa!
Sở Mai cười khúc khích :
- Xin chủ nhân đừng giận! Gia mẫu đã từ trần cách đây bốn tháng, và người đã dặn tiện nữ đúng ngày này ra quì bên đường chính trong trấn An Xuyên!
Nam Cung Giao kinh ngạc trước tài thần bốc của người đàn bà An Nam kia.
Chàng không hề giận mà còn tán thưởng :
- Té ra lệnh đường lại là một kỳ nhân có tài bốc tiên tri! Tiểu Mai hãy mau thu xếp hành lý, ta đói lắm rồi!



Chiều mười sáu, hai chủ tớ đến Từ Châu.
Trong mấy ngày đường vừa qua, Tiểu Mai tỏ ra rất cần mẫn, siêng năng và chu đáo chứ không đến nỗi rách việc như bề ngoài. Tính nàng vui vẻ thích bông đùa nên rất thích hợp với Nam Cung Giao.
Chàng đã để lộ mặt thật và nói ra danh tính, cùng Tiểu Mai bàn bạc kế hoạch hí lộng Long Giác Thần Quân.
Cô ả béo phì này trông dễ coi hơn trong bộ võ phục lụa hồng diêm dúa, áo cừu trắng, tóc thắt hai bím đong đưa, lưng đeo bảo đao trông rất oai vệ.
Thích y phục đẹp và trang sức là bản chất của mọi nữ nhân trong thiên hạ.
Gặp chủ nhân rộng rãi, chủ nhân mua sắm, nên giờ đây thùy châu lủng lẳng đôi hoa tai vàng cẩn đá quí, và trên bộ ngực đồ sộ như hai trái dưa hấu kia là chuỗi ngọc trai.
Được đổi đời Sở Mai luôn nhoẻn miệng cười tươi như hoa, tay vuốt ve con chó mực trong lòng!
Nàng đã năn nỉ Nam Cung Giao cho phép mang theo con Tiểu hắc, người bạn tốt nhất của mình! Và chàng đã không nỡ từ chối!

Theo thói quen, Nam Cung Giao tìm đến Tứ Hải đại lữ điếm!
Khi Chưởng quỹ Tề Thanh Hải hỏi tên, chàng liền đáp :
- Sở Tà Huy, ba mươi sáu tuổi, quê đất Tây Hạ!
Tề Thanh Hải thận trọng nói :
- Phòng ở đây có cả loại hai, dành cho gia nhân. Sở đại hiệp tính sao?
Nam Cung Giao bác ngay :
- Không cần phải thế! Lão cứ cho dọn hai phòng thượng hạng. Tuy Tiểu Mai là nô tỳ nhưng được tại hạ xem như em gái!
Trưa đến, chàng gọi một mâm cơm rượu, mời cả họ Tề lên hàn huyên.
Sở Mai ăn khỏe như hùm, khiến Tề chưởng quỹ phải lác mắt.
Nam Cung Giao nâng chén mời, cạn rồi ung dung nói :
- Tại hạ là truyền nhân của Trường Hồng kiếm khách nơi quan ngoại, nay vào Trung Nguyên mong tạo lập chút thanh danh. Khi đến Trường An thì nghe đồn đại về một kiếm khách trẻ tuổi họ Nam Cung! Xin Tề lão chỉ giáo đôi điều về chàng trai ấy!
Tề Thanh Hải rất quí mến Nam Cung Giao nên kể một hơi những thành tích của chàng, và cuối cùng lão thở dài rầu rĩ :
- Trưa hôm kia, Thần Nữ Tiền Vân Mi, ái thê của Nam Cung thiếu hiệp, cùng mười hai người nữa đã về đến Từ Châu. Nàng ta khóc lóc, tố cáo với quần hùng rằng Long Giác Thần Quân Khương Quang Bật đã bày mưu giết hại chồng mình. Bằng chứng của nàng là lá thư và nhân chứng là Mộc Kính Thanh, nghĩa đệ của Nam Cung Giao!
Nhưng khổ thay, Long Giác Thần Quân và con trai đã có mặt ở đây từ sáng ngày chín, trọ trong Từ Châu lữ điếm, được nhiều người xác nhận. Do vậy, chẳng ai tin lời nàng, cũng như lá thư mang bút tích nữ nhân kia!
Nam Cung Giao mỉm cười :
- Thuật cải trang của võ lâm Trung Nguyên rất kỳ diệu, cho người thế thân đến đâu trước đâu phải việc khó đối với Khương Quang Bật?
Tề lão tán thành :
- Lão phu và mọi người cũng nghĩ vậy nhưng không đủ sức lột mặt nạ lão quỷ họ Khương! Tuy nhiên, nếu sáng mười tám mà Nam Cung Giao không xuất hiện thì Kim Diện cung và Thập Bát La Hán cùng Thiếu Lâm sẽ vây đánh Long Giác Thần Quân.
Nam Cung Giao sửng sốt :
- Sao người của Thiếu Lâm tự cũng kéo đến đây?
Tề chưởng quỹ đắc ý đáp :
- Đây là một tin rất bí mật, mong Sở đại hiệp giữ kín cho! Lão phu nhờ quen với hai gã họ Trịnh, thủ hạ thân tín của Nam Cung thiếu hiệp nên mới biết!
Thì ra chàng trai ấy là đệ tử tục gia của phái Thiếu Lâm, đứng vai sư đệ của Bạch Vân phương trượng!
Do vậy, Thủ tòa La Hán đường là Bạch Võ thiền sư mới dẫn mười tám đại cao thủ đến đây quan chiến, và đề phòng Long Giác Thần Quân bất ngờ ám hại Nam Cung Giao!
Sở Tà Huy nheo mắt cười :
- Đã là tin mật thì sao Tề lão lại nói cho ta biết làm gì?
Tề Thanh Hải gượng cười :
- Thứ nhất là do tướng mạo đường chính của túc hạ. Thứ hai lão phu cũng muốn nhờ đại hiệp giúp một tay để tiêu diệt Khương lão quỷ.
Trong võ lâm, ai cũng biết Trường Hồng Kiếm Pháp là khắc tinh của Vô Thanh kiếm pháp!
Sở Tà Huy cười ha hả :
- Tại hạ rất vui lòng! Đây cũng là cơ hội hiếm có để dương danh. Mong Tề lão thu xếp cho ta một chỗ rộng rãi để luyện kiếm!
Tề Thanh Hải hân hoan nói :
- Trong vườn sau có một bãi cỏ nhỏ, được vây kín bằng những rặng cây thùy dương, xin đại hiệp cứ tùy tiện sử dụng!

Nguyên ngày hôm sau, Nam Cung Giao nỗ lực rèn luyện, chuẩn bị cho cuộc chiến sáng mai.
Cuối canh hai chàng chuẩn bị đi ngủ thì Sở Mai bước vào, mặt đỏ như gấc, ấp a ấp úng nói :
- Chẳng hay chủ nhân có cần nô tỳ hầu hạ gối chăn hay không? Nô tỳ vẫn còn là trinh nữ, chưa hề để nam nhân nào chạm vào!
Nam Cung Giao nghe da dẻ mọc ốc và chỉ muốn lăn ra giường mà cười cho đã, song chàng cố nén lại, dịu giọng bảo :
- Ta đã có rất nhiều vợ, và họ đều dữ như cọp cái! Nếu ta thu nạp thêm nàng tất sẽ bị họ xé xác, còn nàng cũng phải ra đi!
Do vậy, chúng ta cứ giữ danh phận chủ tớ, rồi sau này ta sẽ tìm cho nàng một người chồng tốt!
Thủ hạ của ta ở Giang Tây có đến gần ba chục gã chưa vợ!
Sở Mai nhoẻn miệng cười vái dài :
- Cảm tạ chủ nhân đã hết dạ lo toan! Nô tỳ rất sợ cơn ghen của các phu nhân. Lúc ấy chỉ có cách dắt Tiểu hắc lội bộ trở lại An Xuyên.
Tiểu Mai õng ẹo rời phòng, lắc lư đôi mông to tướng như mông voi.
Nam Cung Giao vội khép cửa phòng, úp mặt vào gối để phóng thích những nụ cười!
Nhưng chàng lại không cười nổi và một ý niệm :
- Chẳng lẽ một nữ nhân béo phì lại không có quyền yêu và hưởng hạnh phúc như những người bình thường sao? Ta phải kiếm chồng cho Tiểu Mai mới được!
Chàng nhớ đến gã đao thủ Thế Thiên hội họ Ngô. Gã cũng rất to béo, quả xứng đôi với Sở Mai.



Sáng mười tám, hơn ngàn hào kiệt võ lâm tụ tập trước lôi đài gỗ dưới chân núi Kim Sơn.
Do có cuộc phó ước này nên lôi đài tỷ võ chiêu phu không bị bỏ dở, và còn được sửa sang lại như mới.
Lần này, ngoài Bạch Võ thiền sư và Thập Bát La Hán, còn có khá nhiều nhân vật lão thành đến quan chiến, nên Kim Diện cung đã cho sắp hàng trăm chiếc ghế gỗ ở phía trước lôi đài, trời khá lạnh nhưng tuyết chưa rơi nên chẳng cần phải dựng rạp.
Phe chủ nhà vẫn ngồi trên đài, y như lần trước, song nhân cốc thì đông hơn, vì có thêm Cẩn Nhục Đầu Đà, Mộc Kính Thanh và Cuồng Vũ Đao!
Chưởng quỹ Tứ Hải đại lữ điếm đưa Sở Tà Huy và Sở Mai đến rất sớm, giới thiệu với Kim Diện cung.
Nghe nói đến truyền nhân của Trường Hồng kiếm khách sẽ giúp đỡ phe mình, Kim Diện cung chủ vô cùng phấn khởi, xếp ba người ngồi vào hàng ghế danh dự, quanh lôi đài, bên cạnh Thập Bát La Hán!
Sở Tà Huy đã bàn rằng :
- Nếu Nam Cung thiếu hiệp chậm bước, hoặc không đến được, tại hạ sẽ tìm cách khiêu khích và đấu với Khương Thư Hàn trước! Tại hạ sẽ cố gắng bắt sống họ Khương, uy hiếp lão ác ma khai ra sự thực!
Yên Đài Nhị Sát Tiểu Xuân Oanh tỏ ý nghi ngờ :
- Sở túc hạ có thiện ý, nhưng chỉ sợ không đủ sức thực hiện! Bản lĩnh của Thư Hàn rất cao cường, chỉ kém Long Giác Thần Quân chừng vài bậc!
Sở Tà Huy lạnh lùng đáp :
- Rồi tiền bối sẽ thấy! Tại hạ còn sẵn sàng khiêu chiến cả với Khương Quang Bật.
Chàng đi rồi, Đại Sát Thân Công Hải trầm ngâm đáp :
- Lạ thực! Gã họ Sở này ở đâu chui ra thế nhỉ? Một kẻ tài cao như vậy đâu dễ chịu làm kẻ vô danh đến tên tuổi ba mươi sáu?
Cả nhà xuống núi, thượng đài chờ đợi Nam Cung Giao, ánh mắt nặng trĩu ưu tư.

Giữa giờ Thìn, Long Giác Thần Quân và con trai đến nơi.
Lát sau cả Hồ Ly song tiên cũng xuất hiện, giả vờ không hề có giao tình với họ Khương, chỉ chào hỏi qua loa rồi tìm chỗ khác mà ngồi.
Đầu giờ Tỵ, Khương Thư Hàn nhảy lên lôi đài vòng tay tươi cười :
- Dám hỏi Tiền cung chủ vì sao lệnh hiền tế lại không có mặt? Phải chăng y sợ chết nên đã trốn mất rồi?
Quần hào cũng thất vọng vì cuộc chiến chưa chịu mở màn, đồng thanh thét vang :
- Nam Cung Giao đâu!
Bỗng có đến hai bóng người từ hàng ghế đầu nhảy lên lôi đài. Họ gồm một nam nhân tam tuần anh tuấn, oai vệ trong bộ võ phục gấm màu nâu, áo choàng đen, và một thiếu nữ áo xanh, tóc thắt bím, thân hình nung núc những mỡ và thịt.
Hán tử áo nâu chỉ vào Khương Thư Hàn và hỏi ả béo :
- Mai nhi! Phải chăng chính gã này đã làm nhục ngươi?
Thiếu nữ phì nộn kia gật đầu lia lịa, nức nở nói :
- Bẩm chủ nhân! Đúng là gã khốn kiếp này đã dụ dỗ nô tỳ đấy ạ!
Quần hùng giật mình ồ lên và cười sặc sụa.
Khương Thư Hàn điên tiết quát :
- Con heo nái này sao dám lăng mạ bổn thiếu gia?
Cô ả bật khóc nức nở, rung rinh cả đôi * vĩ đại tràn bờ mông quá khổ, quay xuống phân bua với mọi người :
- Kính cáo chư vị thúc, bá, huynh đệ. Tiểu nữ là Sở Mai tỳ nữ của Sở gia trang, ở trấn An Xuyên, trưa mùng bốn vừa rồi, tiểu nữ về thăm mộ song thân ở ngoại thành thì gặp Khương công tử đây đi dạo. Chàng bèn buông lời ong bướm, trêu hoa ghẹo nguyệt! Thư Hàn hết lời tán dương tiểu nữ là nữ nhân mình đẹp, * to, mông nở, hấp dẫn phi thường!
Vừa kể, Sở Mai vừa diễn tả bằng cách vỗ mông và nâng hai bầu * đồ sộ lên.
Quần hùng ôm bụng cười ngất, còn Khương Thư Hàn tức đến nỗi thở phì phào. Song gã vô cùng giảo hoạt nên cố nhịn, chờ xem diễn biến thế nào.
Sở Mai gạt lệ nói tiếp :
- Bẩm chư vị! Khương công tử còn khoe mình là ái tử duy nhất của Ngưu Giác Thần Quân, cao thủ số một của võ lâm.
Có người thét lớn sửa ngay :
- Long Giác chứ sao lại Ngưu Giác?
Sở Mai gật đầu :
- Phải! Phải! Tiểu nữ nhớ lộn! Nhưng sừng rồng hay sừng trâu thì cũng thế thôi, có gì quan trọng đâu?
Quần hùng lại cười vang, còn Khương Quang Bật thì giận tím mặt.
Sở Mai leo lẻo kể :
- Khương công tử hứa rằng sẽ cưới tiểu nữ về làm chính thất, cùng hưởng giàu sang trên đống vàng cao ngất của Vô Thanh cốc! Tiểu nữ vốn ngây thơ chất phác, nghe theo lời đường mật của y, nên đã dại dột hiến thân!
Toàn trường rống lên cười như điên dại vì tưởng tượng đến cảnh ái ân của một gã đàn ông nhỏ bé với một nữ nhân nặng trăm rưỡi cân như Sở Mai!
Có ai đó khoái trá vận công nói lớn :
- Tuyệt diệu thật! Cái cảnh thằn lằn ôm cột đình này, lão gia sẵn sàng bỏ ra trăm lượng vàng để được xem!
Khương Thư Hàn đột nhiên nói :
- Vậy phải chăng hôm nay nàng đến đây để bắt ta phải cưới làm vợ?
Ai cũng tưởng Sở Mải gật đầu, nào ngờ nàng lắc đầu bĩu môi nói :
- Lấy ngươi làm quái gì! Cái thứ nam nhân yếu xìu trên giường như ngươi chẳng đáng một xu! Biết thế bổn cô nương đè ngươi chết ngạt cho rồi!
Đàn ông tối kỵ bị chê bai là bạc nhược trong ân ái, nên Khương Thư Hàn không còn nhịn được nữa, nhảy xổ đến, vung kiếm chém Sở Mai.
Nhưng hán tử họ Sở kia đã chặn gã lại bằng một luồng kiếm quang đỏ rực và có hình dạng của một chiếc mống cầu vồng!
Khi va chạm, Khương Thư Hàn có cảm giác nội lực đối phương còn kém mình một bậc, nhưng chiêu thức rất linh diệu.
Nhận ra kẻ thù lâu đời, Khương Thư Hàn thận trọng lùi lại, quát hỏi :
- Phải chăng ngươi là truyền nhân của Trường Hồng kiếm khách?
Quần hùng cũng sửng sốt, chăm chú lắng nghe.
Gã Sở công tử kia đã gật đầu xác nhận :
- Đúng vậy! Lão nhân gia họ Thẩm chính là sư tổ của Sở Tà Huy này! Nay ngươi dám làm nhục nô tỳ của nhà họ Sở thì phải đền tội!
Và gã quay phắt xuống, chỉ mặt Long Giác Thần Quân, lạnh lùng nói :
- Lão cứ ngồi yên đấy, chờ đến trận thứ hai!
Quần hùng reo hò như chợ vỡ, phấn khởi vì có người dám khiêu chiến với đại ác ma họ Khương!
Thần quân đã khổ công tài bồi cho con trai, giúp gã có đến hơn bốn mươi năm công lực và đạt tám thành hỏa hầu Vô Thanh kiếm pháp, nên không tin rằng một gã ba mươi mấy tuổi như Sở Tà Huy lại thắng được Thư Hàn?
Lão chỉ e ngại Nam Cung Giao, song chàng ta đã chết mất xác rồi!
Khương Quang Bật ngửa cổ cười ghê rợn, ra lệnh :
- Hàn nhi! Con hãy bằm xác gã họ Sở ra cho ta!
Khương Thư Hàn gật đầu hứa :
- Phụ thân yên tâm! Gã còn kém xa hài nhi!
Sở Tà Huy bảo Sở Mai lùi ra xa đến đứng ở góc lôi đài rồi cử kiếm thủ thế.
Họ Khương thi triển Vô Trần thân pháp lao vút đến như gió thoảng, kiếm kình lặng lẽ nhưng kiếm ảnh mịt mù sát khí.
Sở Tà Huy vẫn đứng im, vung thanh kiếm dài sơn đỏ, vẽ nên những chiếc mống hồng, đón lấy đường kiếm của đối phương.
Khương Thư Hàn nghe thân kiếm chấn động mạnh, và hơi thép lạnh tỏa vào mặt, kinh hãi lùi mau.
Té ra bản lãnh họ Sở khá hơn gã tưởng. Song gã có muốn hối tiếc cũng không được vì Sở Tà Huy tấn công tới tấp, chiêu thức ác liệt vô song.
Vả lại, Khương Thư Hàn rất cao ngạo nên chẳng thể chịu thua dễ dàng.
Gã tận lực thi triển kiếm pháp gia truyền phối hợp với thân pháp Vô Trần, đẩy lùi họ Sở.
Gã phát hiện ra một điều là Sở Tà Huy rất ít chịu di chuyển, dường như chỉ giỏi kiếm pháp chứ khinh công thì không.
Do vậy, Thư Hàn tận dụng pho thân pháp lừng danh, liên tục hoán vị, chạy quanh Sở Tà Huy, tấn công từ mọi hướng.
Họ Sở đối phó bằng cách xoay tròn như chong chóng, thực hiện chống đỡ chứ không thèm rời chỗ.
Đến chiêu thứ hai trăm thì Khương Thư Hàn mới thức ngộ ra rằng Sở Tà Huy đang sử dụng mình như một người luyện kiếm. Rõ ràng cùng một chiêu nhưng lần sau hoàn thiện hơn lần trước.
Khương Thư Hàn chột dạ, không dám kéo dài trận đấu, đánh một đòn quyết liệt rồi rút lui, nhường địch thủ lợi hại này cho cha mình.
Gã dồn toàn lực vào thân kiếm đánh chiêu Trinh Hiện Vô Ngân, vẽ nên muôn ngàn ánh sao lặng lẽ, trùm kín Sở Tà Huy.
Chiêu này công thủ có đủ, vừa mãnh liệt lại vừa kín đáo, là một trong những chiêu kiếm đắc ý nhất của Long Giác Thần Quân.
Nhưng gã họ Sở lại mỉm cười, loang kiếm tạo nên những chiếc mống tủa tủa như vuốt đồng, chụp thẳng vào màn sao trước mặt.
Chiêu này có tên là Hồng Thượng Hữu Long, ảo diệu tuyệt luân.
Hai màn kiếm quang chạm nhau Thư Hàn nghe hổ khẩu đau nhói, trường kiếm bị đánh bạt, và kinh hoàng trợn mắt nhìn mũi kiếm của đối phương bay vào cổ họng mình.
Nhưng mũi kiếm đã lệch đi, lướt trên vai gã, và Sở Tà Huy ập đến điểm liền bốn huyệt, biến họ Khương thành tượng gỗ cứng đơ và câm lặng!
Diễn biến bất ngờ này khiến Long Giác Thần Quân và quần hùng ngơ ngác.
Nãy giờ, rõ ràng Khương Thư Hàn luôn chiếm ưu thế mà?
Khương Quang Bật đứng phắt dậy, sợ hãi quát :
- Không được hại mạng con ta!
Sở Tà Huy đã tra trường kiếm vào võ để giấu những nét sơn bị tróc.
Chàng rút lưỡi trủy thủ đen sì ở thắt lưng ra, kề vào cổ Khương Thư Hàn rồi nói :
- Khương lão quỷ! Nếu lão không thành thật trả lời những câu hỏi của ta thì từng mảnh thịt của tiểu tử này sẽ rời khỏi thân thể đấy!
Vừa dứt lời, họ Sở vạch ngay một đường trên má con tin, khiến máu tuôn lả chả.
Long Giác Thần Quân tuy là ác ma nhưng lại rất thương con, lão đau lòng khôn xiết, rít lên :
- Đừng hành hạ Hàn nhi nữa! Lão phu thề sẽ trả lời tất cả!
Sở Tà Huy gật gù :
- Hay lắm! Đây là câu thứ nhất! Lão có công nhận mình đã bày mưu hại chết Nam Cung Giao ở núi Duyên Sơn hay không?
Họ Sở đặt lưỡi chủy thủ vào vành tai hữu của Thư Hàn chờ đợi.
Khương Quang Bật rụng rời, nghiến răng đáp
- Có! Lão phu đã giết hắn rồi!
Thần Nữ Tiền Vân Mi thét thất thanh, ngất xỉu ngay trên ghế dựa.
Quần hùng thì phẫn nộ, ngoác miệng chửi bới Long Giác Thần Quân.
Sở Tà Huy vận công hỏi tiếp câu thứ hai :
- Lão có thú nhận mình đã cướp Dịch Cân kinh của Thiếu Lâm tự hơn ba mươi năm trước hay không?
Bí mật trọng đại này không được tiết lộ khỏi chùa, nay bể ra khiến toàn trường sửng sốt. Cả Bạch Võ thiền sư và Thập Bát La Hán cũng băn khoăn, không hiểu vì sao gã họ Sở này lại biết!
Long Giác Thần Quân cười nhạt :
- Đúng là lão phu đấy!
Mười chín vị cao tăng Thiếu Lâm đứng lên, thiền trượng sẵn sàng, quyết không để họ Khương chạy thoát.
Sở Tà Huy nghiêm giọng :
- Vậy lão hãy hoàn lại cho chùa Thiếu Lâm!
Khương Quang Bật cau mày :
-Tiếc rằng lão phu không mang theo, xin thề sẽ hoàn trả lại sau ba tháng! Thiếu Lâm tự cứ việc giữ Hàn nhi!
Sở Tà Huy lập tức hớt đứt nửa vành tai của Thư Hàn, cười hì hì bảo :
- Ta đâu phải trẻ con! Lão mà không đưa ra ngay thì ta cắt phăng cái vật lòng thòng trong đũng quần con trai lão đấy!
Nói là làm, gã vòng tay kê lưỡi chủy thủ vào hạ thể nạn nhân!
Trước tiên, cắt vạt áo và giải quần.
Thì ra Long Giác Thần Quân muốn mượn việc Dịch Cân kinh để hoãn binh. Lão chợt nghĩ để con mình bị chùa Thiếu Lâm giam giữ, sau này trao đổi. Còn giờ đây, chắc gì gã khốn kiếp họ Sở kia đã chịu tha chết cho Thư Hàn?
Khương Thư Hàn chỉ còn quần ngắn, nghe hơi lạnh của chủy thủ thấm vào dương vật, hồn vía lên mây ngay!
Sở Tà Huy biết vậy, giải Á huyệt cho gã và nói :
- Cha ngươi khá cứng đầu! Không chừng sẽ vì tiếc của mà lại hy sinh ngươi đấy! Hãy khuyên giải lão ta và câu!
Thư Hàn sợ hãi gọi vang :
- Phụ thân! Cha hãy trả quách quyển kinh ấy cho rồi, đã luyện xong thì còn giữ làm gì!
Thực ra thì pho kinh Trấn Sơn của phái Thiếu Lâm được viết bằng chữ Phạn, phải có bậc cao tăng tinh thông ngôn ngữ này mới dịch nổi. Và dù đã được dịch sang Hán ngữ thì cũng cực kỳ uyên thâm, có nhiều từ, nhiều ý niệm thuộc về Phật pháp. Vì thế, sau ba mươi mấy năm mà Long Giác Thần Quân chỉ luyện thành có một môn Cương Khí Di Huyệt đại pháp!
Lão lại ỷ y, không hề sao lại nên giờ đây mới tiếc nuối. Và đúng là khi rời Vô Thanh cốc, lão luôn luôn mang theo bảo vật này! Kẻ đã quen ăn cắp thì thường sợ mất của!
Nhưng không ngờ, gã Sở Tà Huy kia hành sự cực kỳ bá đạo và quyết liệt khiến Thần quân đành phải bó tay.
Lão hậm hực lấy trong bụng áo ra một túi lụa dầy, quẳng cho Bạch Võ thiền sư.
Thủ tòa La Hán đường mừng đến run tay, lóng ngóng mở ra.
Lão hoan hỉ hô lớn :
- A Di Đà Phật! Xin cảm tạ Sở thí chủ!
Khương Quang Bật van nài :
- Sở Tà Huy! Lão phu đã thực hiện hết những yêu cầu của ngươi, xin hãy thả Hàn nhi ra!
Họ Sở cười khanh khách :
- Chưa hết đâu, ta biết lão đã liên kết với Hồ bang, cùng Hồ Ly song tiên mang đến đây rất nhiều thủ hạ, có đúng thế không?
Còn gì để giấu giếm nữa, Thần quân gật đầu xác nhận.
Hồ Tiên đứng lên cười lạnh :
- Ngươi đoán đúng đấy! Thủ hạ của Vô Thanh cốc và Hồ bang tổng số hiện diện hơn bốn trăm người. Ngươi làm gì được bọn ta?
Sở Tà Huy thản nhiên vẫy Sở Mai đến và dặn dò :
- Ngươi hãy kê đao vào cổ tiểu tử này, khi nghe lệnh ta thì giết ngay!
Chàng quay xuống bảo họ Khương :
- Nếu lão giúp chúng ta giết được Hồ Tiên và Ly Tiên thì ta thề có Hoàng thiên chứng giám sẽ thả Thư Hàn ra ngay!
Ly Tiên kinh hãi nói :
- Khương lão huynh đừng trúng kế ly gián của gã!
Long Giác Thần Quân vuốt râu cân nhắc, bất ngờ quát vang :
- Đệ tử đâu, không được để Song tiên chạy thoát!
Tức thời, trong số quần hùng quan chiến có hai trăm người rút kiếm vây lấy Hồ Ly song tiên.
Ngược lại, cũng có độ bốn chục người ùa đến bảo vệ Thái Thượng giáo chủ!
Thì ra Hồ Ly song tiên mang theo rất ít thủ hạ.
Mọi người vội giãn ra để xem cảnh tượng sát giữa hai phe tà ma!
Yên Đài song sát cũng nhập cuộc giúp đỡ Long Giác Thần Quân.
Kim Diện cung chủ và mười chín cao tăng trấn thủ vòng ngoài, quyết không để Song tiên đào tẩu! Chưa kể đến những cao thủ khác như Cẩn Nhục Đầu Đà, Mộc Kính Thanh, Cuồng Vũ Đao, anh em họ Trịnh, bảy người Huyết Phủ hội!
Thực ra, họ chờ đợi giây phút tiêu diệt Long Giác Thần Quân! Kế hoạch của Sở Tà Huy, tuy đơn giản nhưng cực kỳ lợi hại!
Yên Đài song sát liên thủ giáp công Ly Tiên, đương nhiên chiếm thượng phong. Chấn Thủ Thần Âm chỉ có tác dụng với một người, nay đối phương đủ cặp, tấn công như bão táp, khiến Ly Tiên chỉ còn cách dựa vào đao pháp kỳ tuyệt mà đối phó!
Hai cây quải trượng của Song sát phối hợp rất nhịp nhàng, ăn ý, vì họ là phu thê, tâm ý tương thông, áp lực mỗi lúc một tăng, trượng kình vù vù như cuồng phong, vây chặt lấy Ly Tiên Bàng Thu Liên!
Sau hàng trăm lần va chạm, cây loan đao của Ly Tiên bị sứt mẻ khá nhiều. Bà ta biết thế đã cùng, liền tính kế đổi mạng với đối phương!
Ly Tiên đảo bộ lao thẳng vào lưỡi trượng của Nhị Sát Tiêu Xuân Oanh, thi triển Chấn Thủ Thần Âm quát lớn :
- Khơ!
Nhưng Song sát đã được Nam Cung Giao truyền cho phương pháp hóa giải nên Tiêu mẫu không hề hấn gì, múa tít quải trượng đón chiêu đao của Ly Tiên.
Bàng Thư Liên bị chặn lại và lãnh nguyên một trượng như trời giáng của Đại Sát vào lưng!
Cột sống dập nát và đứt đoạn, Ly Tiên thét lên văng xa hơn trượng, co giật vài cái rồi chết!
Hồ Tiên Cổ Huyền Minh đang bị Long Giác Thần Quân đánh cho xấc bấc sang bang, nghe tiếng kêu bi thiết của vợ liền phân tâm!
Long Giác Thần Quân là cao thủ thượng thặng trong kiếm đạo, lập tức nhận ra cơ hội, thọc kiếm đâm thủng ngực Hồ Tiên!
Mấy chục đệ tử Hồ bang cũng đều chết sạch, dưới tay những kiếm thủ Vô Thanh cốc!
Sở Tà Huy đã trở lại lôi đài, giải huyệt cho Khương Thư Hàn nhưng lại ngấm ngầm phong tỏa chân khí của gã!
Long Giác Thần Quân quát vang :
- Song tiên đã chết, mau thả con trai ta ra!
Sở Tà Huy gật đầu :
- Hãy đón Iấy!
Rồi chàng nắm cổ và thắt lưng Thư Hàn, quăng xuống cho Khương Quang Bật!
Đúng lúc này, Kim Diện cung chủ Tiền Phong Vân quát vang :
- Giết!
Thế là nhân thủ Kim Diện cung xông vào chém giết phe Vô Thanh cốc!
Cả Thần Nữ Tiền Vân Mi cũng hung hăng như hổ đói, quyết trả thù chồng!
Nàng đã luyện được tám thành pho Kim Long kiếm pháp, bản lãnh cũng kha khá, song là nữ nhi nên sức lực yếu kém! May mà có Trịnh Tháo, Trịnh Mãng theo sát một bên để bảo vệ.
Trong dám quần hùng cũng có những người hiệp tâm bồng bột, rút vũ khí tham gia, góp phần tảo trừ tai họa cho võ lâm.
Do vậy vòng vây dầy đặc, kiến chui chẳng lọt!
Nhưng hai trăm gã sát thủ già dặn, thiện chiến của Vô Thanh cốc đã sớm lập trận Kiên Bích, kề vai sát cánh chống trả rất hữu hiệu.
Họ vừa đánh vừa rút lui theo bước chân của Long Giác Thần Quân!
Cả đoàn người biến thành khối thép vững chắc, kiên cố, hiên ngang chịu đựng phong ba bão táp.
Người này ngã xuống thì kẻ phía sau lấp chỗ ngay, không để thế trận tan vỡ.
Binh pháp Tôn Tử có câu: “Binh quí hồ tịnh, Bất quí hồ đa”, áp dụng trong trường hợp này quả chẳng sai!
Bọn kiếm thủ Vô Thanh cốc đều ở độ tuổi trung niên trở lên, công lực thâm hậu, lại được Long Giác Thần Quân tận tình truyền dạy Vô Thanh kiếm pháp, nên bản lãnh mỗi người tương đương với một cao thủ nhất lưu trong võ lâm!
Khương Quang Bật sở cậy vào đội quân bách chiến bách thắng dưới trướng nên mới nhận lời giết Song tiên.
Lão thừa thông minh để hiểu rằng phe mình sẽ bị vây đánh.
Thần quân đã giao con trai cho lão già mặt sẹo tên Tào Mật cõng đi giữa trận, để rảnh tay mở đường máu!
Do quân số phe nhà quá đông, nhưng ô hợp và hỗn loạn, nên Kim Diện cung chủ không sao điều động nổi. Tuy họ hoàn toàn chiếm ưu thế, nhưng lại không ngăn được bước tiến của đối phương!
Diệu dụng của Kiên Bích trận là thế liên hoàn và rất linh hoạt, có thể nở ra hoặc co vào!
Do vậy, khi Sở Tà Huy chặn đường Long Giác Thần Quân thì lập tức bị lọt vào trận, phải chống đỡ cả tả hữu lẫn sau lưng.
Khi so kiếm với một cường địch tối lợi hại như Khương Quang Bật thì không được phép phân tâm. Dù Trường Hồng kiếm pháp có là khắc tinh của Vô Thanh kiếm pháp, thì lão vẫn hơn chàng hai mươi mấy năm công lực!
Long Giác Thần Quân vô cùng căm hận Sở Tà huy nên hạ sát thủ ngay.
Lão trợn mắt xuất mấy chiêu Bạo Vũ Lê Hoa, kiếm ảnh gồm hàng vạn đóa hoa trắng nhỏ phủ mờ không gian.
Sở Tà Huy khôn hồn đề khí bốc lên cao, lộn hai vòng thoát ra ngoài, hạ thân xuống phía sau Yên Đài song sát.
Nếu đơn đấu thì chàng không hề sợ Khương lão quỷ, nhưng trong trường hợp này sinh cường chỉ thiệt thân!
Họ Sở hợp lực cùng Yên Đài song sát công phá trận thế, cố cầm chân Long Giác Thần Quân.
Các cao tăng Thiếu Lâm tự cũng dàn hàng ngang, thiền trượng quét ra những đòn mãnh liệt, chặn đứng bọn kiếm thủ Vô Thanh cốc.
Nhưng Long Giác Thần Quân đã bỏ đoạn đê quá kiên cố này, lẩn sang mé tả, đưa thế trận chạy về hướng khác.
Kẻ trấn giữ khu vực này là bảy cao thủ Huyết Phủ hội. Họ căm thù Khương Quang Bật và Vô Thanh cốc nên chiến đấu rất hung hãn, giết được mười mấy tên.
Nhưng Long Giác Thần Quân võ công vô địch, lúc lâm nguy càng bội phần lợi hại, chỉ một chiêu đã đâm thủng vai Mộc Đông Sơ, Hội chủ Huyết Phủ hội.
Hai em của Đông Sơ phải liều chết xông vào mới cứu được lão kéo ra ngoài.
Thần quân tiến lên như vũ bão, đánh bạt bốn cây búa thép, giết liền sáu đệ tử Kim Diện cung, phá thủng vòng vây!
Kiên Bích trận như đốm nước loang trên mặt gương, tràn qua khe hở, rút sạch ra ngoài, để lại năm sáu chục tử thi!
Tất nhiên quần hùng truy sát ráo riết, song đối phương đã chạy cả vào cánh rừng phía Đông núi Kim Sơn, rồi mất dạng.
Khinh công Vô Trần thân pháp của Long Giác Thần Quân vốn chẳng phải tầm thường! Hơn nữa binh pháp có câu: Giặc cùng chớ đuổi!
Kim Diện cung chủ cao giọng cảm tạ quần hùng, mời mọi người thượng sơn, dự tiệc mừng vì trời đã trưa!
Sở Tà Huy đảo mắt nhìn quanh tìm tỳ nữ Sở Mai song chẳng thấy đâu.
Lúc nãy, ả múa cây đao gia truyền, cùng Cẩn Nhục Đầu Đà tấn công Kiên Bích trận từ hướng Tây, đả thương được khá nhiều địch thủ. Với thần lực thiên sinh, cô nàng béo phì kia có đường đao nặng như núi, khiến đối phương phải khiếp sợ.
Sở Tà Huy lững thững đi theo Thập Bát La Hán lên núi. Chàng thấy Bạch Võ thiền sư đầy vẻ buồn rầu lo lắng, liền hỏi :
- Dường như, ngoài việc thương tâm trước cái chết của Nam Cung thiếu hiệp, đại sư còn ưu tư vì một vấn đề nào đó?
Bạch Võ thở dài :
- Sở thí chỉ quả là tinh mắt! Lão nạp nhận mệnh sư thúc và chưởng môn đến đây mời Nam Cung sư đệ đối phó với Đông Hải thần tăng! Lão ta đã gởi thư, hẹn rằm tháng ba sẽ đến so tài cao thấp với phái Thiếu Lâm.
Tiếc thay, Nam Cung sư đệ chẳng may đã về cõi Phật lúc tóc còn xanh!
Sỡ Tà Huy nhận ra đôi mắt vị Thiền sư bộc trực này ướt rượt, liền cảm động thú nhận :
- Sư huynh chớ bi ai làm gì! Tiểu đệ vẫn còn sống đây!
Bạch Võ thiền sư giật mình dừng bước, ngỡ ngàng, tưởng như nghe không rõ!
Sở Tà Huy lột nhanh mặt nạ, để lộ chân tướng rồi mang lại ngay!
Bạch Võ không nén được vui mừng xiết chặt hai vai Nam Cung Giao, bật cười ha hả!
Thập Bát La Hán cũng xúm lại mừng sư thúc. Họ đều ở tuổi ngũ tuần, vai vế chữ Tuệ, là học trò của các cao tăng hàng chữ Bạch, giống như Đại Lực vậy.
Thực ra Đại Lực chỉ là cái biệt hiệu hàm ý bông đùa, pháp danh của gã là Tuệ Lực.
Việc truyền chức phương trượng không giống việc truyền ngôi vua, nghĩa là đại đệ tử của phương trượng cũng bình đẳng với những đồng môn cùng vai.
Trước khi phương trượng đương nhiệm từ trần, người kế vị đã được chọn sẵn, thông qua một kỳ thi rất gắt gao, không phải về võ nghệ mà là đạo hạnh và kiến thức về kinh, luật, luận.
Vậy là có thể sau này, trong Thập Bát La Hán sẽ trở thành Chưởng môn phái Thiếu Lâm. Song lúc này, họ vẫn chỉ là sư điệt của Nam Cung Giao.
Chàng vui vẻ chào họ và nói :
- Xin sư huynh đệ và các sư điệt đừng tiết lộ bí mật của Giao này! Thanh danh làm lụy người chứ chẳng có ích gì!
Bạch Võ khen ngợi :
- Thiện tai! Thiện tai! Không ngờ sư đệ lại thông hiểu Phật pháp đến mức này! Thật là hiếm có!
Nam Cung Giao cười khà khà :
- Sư huynh quá khen khiến tiểu đệ thêm xấu hổ! Giao này nửa câu kinh cũng chẳng thuộc, thua cả một chú tiểu trong chùa.
Thiền sư cũng cười :
- Vạn pháp giai thông! Kinh kệ chỉ là phương tiện, chân như mới thật cứu cánh! Ngươi là một Thiền sư bẩm sinh, ngộ được cái vô ngôn của Phật pháp, chẳng cần phải tụng niệm!
Nam Cung Giao chẳng hiểu ất giáp gì, cười ha hả bỏ đi trước!

Trên bãi cỏ thẳng hàng trăm chiếc bàn tròn đã được dọn ra, và quần hùng đang uống rượu suông với lạc rang, thịt khô, trong lúc chờ cơm nước!
Mọi người hồ hởi vẫy gọi Sở Tà Huy. Ai cũng muốn được đồng hành với chàng kiếm sĩ anh hùng, mưu lược này!
Sau trận vừa rồi, thanh danh của Sở Tà Huy sẽ vang dội võ lâm!
Nam Cung Giao nhã nhặn từ chối, vào khu hậu viện để chọc ghẹo ái thê và người thân!
Chàng đi thẳng đến khuê phòng của Vân Mi và gõ cửa!
Thần Nữ ra mở cửa, mắt vẫn chưa ráo lệ. Nàng nghiêng mình thi lễ :
- Chẳng hay Sở đại hiệp giá lâm có việc gì?
Nam Cung Giao bước vào, cười khanh khách :
- Sở mỗ vừa gặp nàng đã xiêu hồn lạc phách, nguyện thay thế Nam Cung Giao để hầu hạ nàng, ý mỹ nhân thế nào?
Chàng cứ ngỡ Vân Mi sẽ buông lời mắng nhiếc, nào ngờ nàng lặng lẽ đi thẳng xuống giường, ngồi xuống và yểu điệu nói :
- Trong phòng không có ghế, mời đại hiệp ngồi đỡ trên giường này.
Nam Cung Giao choáng váng trước tính nết lăng loàn của vợ mình.
Chồng vừa mới chết đã mời trai lên giường!
Song chàng cố nén cơn thịnh nộ đóng tiếp vai kịch để xem lòng dạ Vân Mi khốn nạn đến mức nào?
Nam Cung Giao bước đến, ngồi xuống thành giường, sát bên Thần Nữ, cố nặn ra một nụ cười phóng đãng, rồi vươn tay ôm lấy nàng!
Vân Mi chẳng hề phản kháng, ngã đầu vào vai chàng rồi thủ thỉ :
- Dung mạo và võ nghệ của đại hiệp đã khiến lòng thiếp vô cùng ngưỡng mộ! Nay đại hiệp không chê thân gái góa, thiếp nguyện hiến dâng phút hương thừa!
Nam Cung Giao nghe như đất trời sụp đổ, đau lòng vô hạn, thẫn thờ hỏi :
- Té ra nàng không hề yêu gã Nam Cung Giao khốn khổ kia sao?
Thần Nữ lắc đầu, cười khúc khích :
- Gã tiểu tử ấy tính tình lăng nhăng, quen thói trăng hoa, chỉ được cái tài bẻm mép, ai mà thèm yêu!
Nam Cung Giao đờ đẫn như tượng gỗ, chìm vào hố sâu tuyệt vọng.
Chàng để yên cho Vân Mi kéo mình ngã ngửa ra giường mà hôn hít vuốt ve.
Thần Nữ dường như bị kích động bởi cơn khát tình, áp đôi nhũ phong mơn mởn của mình vào mặt Nam Cung Giao!
Chàng là người nhân hậu, dù phẫn nộ cũng chỉ tự trách mình chứ không hề nghĩ đến chuyện đánh đập, chửi nắng Vân Mi. Nhưng cử chỉ dâm đãng này đã khiến chàng chịu hết nổi, phát vào mông của nhần Nữ tới tấp, rung rinh cả giường.
Vân Mi chợt cười dòn giã, và dưới gầm giường chợt vọng ra tiếng la oai oái :
- Chủ nhân làm gì mà dữ dội thế, nô tỳ sắp bị đè chết rồi!
Đấy chính là giọng nói của Sở Mai!
Nam Cung Giao bừng tỉnh, thức ngộ rằng ả béo phì kia đã thố lộ với Vân Mi, và cùng Thần Nữ bày kế hại mình!
Chàng bực bội nhưng lại mừng vì thoát cảnh nhục nhã, đắng cay bởi người vợ trắc nết!
Nam Cung Giao cười hì hì, xoa đôi mông bị đòn oan của Thần Nữ và hôn nàng thật ngọt!
Vân Mi ngượng ngùng sửa lại áo, vì biết trượng phu đã động tình, trong lúc Sở Mai vẫn còn ở dưới gầm giường!
Ả béo đã lết ra, đội cả giường lên mới chui lọt!
Sở Mai phủi bụi, ngượng ngùng nói :
- Nô tỳ thấy phu nhân khóc lóc nên không nỡ giấu! Mong chủ nhân lượng thứ!
Nam Cung Giao mỉm cười :
- Tội ấy tính sau, giờ thì làm ơn đi chỗ khác chơi để ta hỏi tội phu nhân!
Sở Mai che miệng cười khúc khích, ngoe nguẩy rời phòng!
Nam Cung Giao đi theo, cài then cẩn thận rồi nói với Thần Nữ :
- Cơm còn lâu mới chín! Sở mổ sẽ ăn thịt nàng cho đỡ đói!



Xem tiếp hồi mười ba
pass to joine phim : Kim_Bang_2
longnu
Múi Mít
Múi Mít
 
Tiền: $122,632
Posts: 1046
Joined: 14 Mar 2005
Location: đến từ nơi xa lắm
 
 

Postby longnu » 08 Apr 2005

[color=blue][b]13...
Tiếu Ngạo Trung Hoa Nguyên tác : Ưu Đàm Hoa




Hồi 13 Thiết tâm tiết phụ ma nan khuất
Trúc mã thanh mai khấp cố nhân
Tối hôm ấy, Thần Nữ đưa Nam Cung Giao vào vấn an thân mẫu.
Cung chủ phu nhân không hiểu mắc quái bệnh gì mà á khẩu, si dại, chẳng còn nhận ra người thân, suốt năm năm qua. Tuy chưa hẳn là liệt giường, liệt chiếu, song tứ chi bà run rẩy, yếu ớt, chỉ quanh quẩn trong phòng.
Hồi đầu tháng tám, sau khi đánh đuổi liên quân Vô Thanh cốc - Hồ bang, Nam Cung Giao có xin phép được chẩn bệnh cho mẹ vợ, nhưng đã bị từ chối.
Tiền cung chủ rầu rĩ nói :
- Hiền tế có lòng hiếu thảo như vậy cũng tốt. Nhưng lão phu đã tốn mấy ngàn lượng vàng, mời hết danh y trong thiên hạ đến mà cũng chẳng được tích sự gì! Âu đó cũng là số trời thôi!
Do vậy, Nam Cung Giao chưa có dịp trổ tài y đạo. Lần này, chàng nhân lúc Tiền Phong Vân đang trò chuyện với Bạch Võ thiền sư, Yên Đài song sát, rủ Vân Mi đến thăm mẹ vợ.
Người chăm sóc Tiền phu nhân là Tứ nương, ả tỳ thiếp thứ tư của Tiền cung chủ.
Họ Tiền có đến bốn tiểu thiếp, nhưng lão bắt họ phải thay nhau hầu hạ phu nhân, khiến mọi người thán phục!
Tuy người vợ nào cũng xưng là thiếp với chồng, nhưng thực ra, họ lại không hề thuộc hàng thiếp!
Thê là vợ mà người đàn ông cưới về với đầy đủ sính lễ, nghi thức hôn nhân!
Còn thiếp là người được mua về, không có hoặc không đủ nghi lễ hôn nhân!
Hàng thiếp lại gồm đến ba đẳng cấp là Nhị phòng, Di nương và Thông Phòng A Đầu.
Nhị phòng là bậc thiếp cao nhất, có những nghi thức như đốt ngựa giấy, tế trời đất, và có quyền xưng chị em với Chính thất.
Di nương và Thông Phòng A Đầu thì thấp kém hơn, chỉ là nơi cung cấp thú vui xác thịt cho các đức ngài no cơm rững mỡ.
Con cái do Thiếp sinh ra phải xem người vợ cả là Đích Mẫu (mẹ ruột), còn họ cũng chỉ như kẻ mang bầu giùm mà thôi!
Bốn ả tiểu thiếp của Tiền Phong Vân đều ở đẳng cấp Di nương. Tuy mang tiếng bà dì mà thực chất vẫn là nô tỳ. Do vậy, Tứ nương Dịch Vi Châu phải cung kính chào con gái và rể của họ Tiền :
- Nô gia bái kiến thiếu gia và Tiểu thư!
Vân Mi gật đầu :
- Tứ di nương! Mẹ ta thế nào rồi?
Dịch Vi Châu đáp :
- Phu nhân mới uống thuốc xong và đã ngủ say.
Nam Cung Giao cau mày :
- Không sao! Ta chỉ vào thăm qua, không làm kinh động nhạc mẫu đâu! Phiền Di nương nhường đường!
Dịch Vi Châu gượng cười, mời chàng và Thần Nữ vào.
Quả thực Tiền phu nhân đã ngủ say. Gương mặt xanh xao, hốc hác của bà khiến Nam Cung Giao vô cùng thương xót. Trước đây, bà đẹp chẳng kém gì Vân Anh.
Thần Nữ ứa nước mắt nói :
- Mẫu thân đã yên giấc, tướng công cứ lạy ba lạy để từ biệt là đủ rồi!
Nam Cung Giao nghe lời nàng, lạy xong, chàng cùng Vân Mi rời khỏi phòng bệnh nhân.
Tứ di nương tiễn hai người ra rồi khép cửa lại.
Sau khi có thêm hai mươi năm công lực, tai mắt Nam Cung Giao cực kỳ tinh mẫn, như vậy tiếng thở phào nhẹ nhõm của Dịch tứ nương đã bị chàng nghe thấy!
Nam Cung Giao lấy làm lạ, tự hỏi :
- Vì sao mụ vợ bé của Tiền nhạc phụ lại mừng rỡ khi thấy ta đi khỏi nhỉ? Và tại sao lão ấy lại không muốn ta chẩn bệnh cho nhạc mẫu?
Mối nghi ngờ mơ hồ kia cứ lớn dần và ám ảnh tâm trí của chàng!
Khi đưa Vẩn Mi về đến phòng riêng, chàng định lui gót thì bị giữ lại.
Thần Nữ e lệ nói :
- Mới gần cuối canh hai, sao tướng công không ở lại đây trò chuyện cùng thiếp thêm một lát. Chúng ta lại sắp phải chia tay rồi!
Nam Cung Giao nheo mắt cười cười :
- Ta là rơm, nàng là lửa, gần nhau là bốc cháy ngay, có bao giờ hàn huyên được lâu đâu?
Vân Mi thẹn đỏ mặt, liếc chàng bằng ánh mắt sắc như dao, giận dữ đi thẳng vào giường.
Nam Cung Giao cười khà khà, bỏ đi sang phòng Mộc Kính Thanh.
Chàng mừng rỡ khi thấy có cả anh em họ Trịnh ở đây!
Nam Cung Giao liền nói rõ mối nghi ngờ của mình, và có ý định đột nhập khuê phòng của Tiền phu nhân để tìm hiểu!
Trịnh Mãng hồ hởi đáp :
- Thuộc hạ có loại mê hương rất thần diệu, dễ dàng hạ thủ mụ Di nương kia. Sau nửa canh giờ mụ ta tỉnh dậy sẽ tưởng mình ngủ quên!
Kính Thanh đăm chiêu nói :
- Tiểu đệ chỉ sợ đại ca quá đa nghi đấy thôi! Tiền cung chủ không có lý do hay động cơ gì để ám hại vợ mình cả! Có lẽ lão coi thường y thuật của đại ca đấy thôi!
Nam Cung Giao sượng sùng đáp :
- Ngươi có lý, nhưng dẫu sao thì ta cũng phải chẩn mạch cho nhạc mẫu một lần mới an tâm. Bệnh chứng này, gia mẫu đã từng chữa khỏi cho nhiều người! Có kẻ liệt đã ba năm mà bà còn cứu được, nay Tiền nhạc mẫu chưa đến mức ấy, lẽ nào phải chịu chết?
Trịnh Tháo tán thành :
- Vậy công tử cứ về ngủ, đầu canh tư ra tay.
Nam Cung Giao gật đầu :
- Hay lắm! Hai người về phòng đi! Đêm nay ta ngủ với Kính Thanh, rồi cùng đi luôn!
Trịnh Mãng cười hì hì :
- Thuộc hạ khuyên công tử nên suy nghĩ lại! Thần Nữ mà tìm đến thấy cảnh âm dương hỗn độn thì sẽ cắn lưỡi chết ngay đấy!
Kính Thanh thẹn chín người nạt :
- Ngươi nói gì mà âm dương hỗn độn? Ta tát cho gãy răng bây giờ!
Nam Cung Giao giả đò cản ngăn, bất ngờ vỗ mạnh vào mông gã rồi chạy mất.
Anh em họ Trịnh cũng chuồn thẳng vì sợ ăn đòn, tiếng cười vang vang khu hậu viện

Nam Cung Giao quay lại phòng Vân Mi đẩy cửa bước vào, cài then thật kỹ.
Thần Nữ đã thay xong áo ngủ, thân hình ngà ngọc khêu gợi kia lồ lộ dưới lớp sa mỏng manh. Nàng là người đẹp nhất trong số thê thiếp của Nam Cung Giao!
Vân Mi bước đến vòng tay đu cổ trượng phu, tò mò hỏi :
- Tướng công và bọn họ làm gì mà cười vui như vậy?
Nam Cung Giao không dám bồng nàng đặt lên giường nằm xuống bên cạnh rồi hạ giọng :
- Mi muội! Chẳng hay các đại phu chẩn đoán nhạc mẫu mắc bệnh gì vậy?
Vân Mi thở dài :
- Lúc gia mẫu ngã bệnh thì thiếp đang học khinh công và quyền cước ở núi Tây Hà, không biết gì cả? Khi hay tin liền trở về và nghe gia phụ bảo rằng bà bị chứng liệt chân, không bao giờ hồi phục được nữa!
Nam Cung Giao lặng người suy nghĩ, một lúc sau mới nói :
- Nếu đúng là chứng liệt chân thì ta cũng đành bó tay! Song dường như những triệu chứng kia không giống lắm! Đêm nay, ta sẽ lén vào chửa bệnh cho nhạc mẫu!
Vân Mi sợ hãi :
- Chẳng lẽ tướng công lại nghĩ rằng trong việc này có ẩn tình?
Nam Cung Giao trấn an :
- Chưa thể nói chắc được điều gì cả! Ta chỉ nghi ngờ thế thôi?
Nỗi hoang mang khiến hai người thao thức đến tận cuối canh ba.
Nam Cung Giao trỗi dậy, mặc y phục đi sang phòng Kính Thanh.
Anh em họ Trịnh cũng có mặt.
Bốn người nhảy lên mái ngói, êm ái chuyền nhanh đến phòng của Tiền phu nhân. Cửa chính được khóa chặt bằng loại ổ khóa chìm rất mắc tiền từ Hà Lan. Song với tài nghệ của Mộc Kính Thanh thì chẳng có gì khó mở.
Trịnh Tháo vào trước, lướt đến chiếc giường nhỏ, búng thuốc mê vào mũi Tứ di nương Dịch Vi Châu, rồi vẫy ba người kia vào!
Mộc Kính Thanh chụp chiếc đèn tọa đăng, đứng cạnh Nam Cung Giao, soi sáng cho chàng!
Nam Cung Giao thử lay gọi, nhưng Tiền phu nhân vẫn không hề lai tỉnh. Chàng cau mày, bưng chén thuốc còn ít cặn trên bàn nhỏ cạnh giường nếm thử, và xem xét cả bã thuốc!
Chàng đã xác định đây là thuốc bổ thông thường và có nhiều vị an thần. Trong trường hợp này, mạch sẽ rất nhẹ khó mà chuẩn đoán chính xác được.
Nam Cung Giao liền nhờ Mộc Kính Thanh đỡ Tiền phu nhân ngồi dậy, rồi dồn chân khí qua mệnh môn để kiểm tra kinh mạch.
Có tất cả sáu chỗ bị bế tắc, đó là hai huyệt trung phủ ở hai vai (thuộc kinh phủ Thái âm Phế), hai huyệt cơ môn trên đùi (thuộc kinh Túc Thái âm tỳ) và hai huyệt Cường Gian, Á Môn ở hậu chẩn (thuộc mạnh Đốc).
Nam Cung Giao vén y phục, vạch tóc bà lão tội nghiệp ra để kiểm chứng, phát hiện ngay những vết châm cứu.
Lỗ châm hơi lớn, chứng tỏ người ta đã lấy loại kim lớn rỗng ruột, đùng phép thủy châm bơm chất độc vào đáy huyệt! Vì thế mà nạn nhân bị khẩu si ngốc và run rẩy chân tay!
Chàng biết rằng mình không đủ khả năng giải trừ chất độc trong sáu huyệt đạo kia, nên quyết định mang nhạc mẫu về Giang Tây nhờ mẹ mình điều trị!
Nhưng việc này phải được chuẩn bị hết sức chu đáo, bí mật và không thể thực hiện ngay đêm nay!
Bốn người xóa dấu vết, mau chóng ra ngoài, khóa cửa lại như cũ.

Nam Cung Giao về đến phòng thì Vân Mi vẫn chưa ngủ. Nàng hồi hộp hỏi :
- Tướng công! Chẳng hay kết quả thế nào?
Nam Cung Giao trầm giọng kể lại những gì mình đã phát hiện.
Thần Nữ rưng rưng nước mắt vì thương mẹ, thẩn thờ hỏi :
- Tướng công định thế nào? Sáng mai chúng ta hỏi thẳng phụ thân chứ?
Nam Cung Giao cân nhắc :
- Không được! Ta vẫn chưa đoán ra ẩn tình bên trong của việc này thế nào! Có thể nó quan trọng đến mức Tiền cung chủ sẽ sát nhân diệt khẩu! Vì vậy, sách tốt nhất là âm thầm mang nhạc mẫu về Giang Tây, nhờ mẫu thân ta chữa trị. Khi bà hồi tỉnh, kể rõ căn nguyên rồi sẽ tính sau!
Chàng liền nói sơ kế hoạch cho ái thê nghe.

Sáng ra, trong bữa điểm tâm Nam Cung Giao xin phép đưa Thần Nữ về Cán Châu ăn tết và dự đám giỗ ông nội chàng!
Thực ra thì chẳng có giỗ chạp gì cả, và nhà chàng cũng không ở Quảng Đông! May thay, Nam Cung Giao và Thần Nữ chưa hề nói cho Tiền Phong Vân biết địa chỉ Tế An đường.
Tiền cung chủ nghe nói giỗ kỵ không tiện phản đối, chỉ yêu cầu chàng sang xuân phải tiến hành lễ cưới.
Tất nhiên, Nam Cung Giao chẳng tiếc gì một lời hứa.
Đoàn người rầm rộ xuôi Nam, vừa đi vừa bàn bạc.
Lúc này, bọn Cẩn Nhục Đầu Đà và bảy lão họ Mộc mới biết lý do của sự khởi hành vội vã này!
Đầu Đà than trời :
- Bần tăng học được mấy thành Ma Y Thần Tướng, thế mà không nhận ra bản chất sâu hiểm của Tiền Phong Vân, thật đáng hổ thẹn!
Mộc Kính Thanh bỗng hỏi Vân Mi :
- Đại tẩu! Chẳng hay trong Kim Diện cung có vật quí giá nào đột nhiên biến mất hay không?
Mọi người sửng sốt chẳng hiểu vì sao gã lại hỏi một câu tréo ngoe như vậy?
Họ Mộc đắc ý giải thích :
- Tại hạ không bài bác giả thuyết của chư vị, cho rằng Tiền Phong Vân hiện nay là kẻ giả mạo, bị Tiền phu nhân phát hiện nên mới hạ thủ! Nhưng vì cớ gì mà lão ta lại lưu giữ mạng của bà suốt năm năm nay? Phải chăng phu nhân có được cái mà lão giả mạo kia mong muốn? Đó có thể là bí kíp võ học, hoặc bản đồ, chìa khóa của một kho tàng khổng lồ nào đấy?
Cả đoàn khen phải.
Nam Cung Giao cười khà khà :
- Không ngờ một kẻ đầu nhỏ đít to như ngươi mà cũng thông minh đáo để!
Mọi người phá lên cười, và Trịnh Mãng bồi thêm một câu :
- Nguy thực! Không hiểu Nam Cung công tử đã làm gì mà cả ngực của Mộc công tử cũng ngày càng to ra!
Kính Thanh ngượng chín người, vung roi quất vào lưng họ Trịnh, nhưng gã đã thúc ngựa chạy trước.
Lúc này, Thần Nữ thò đầu khỏi cửa sổ trên thùng xe bên tả, thánh thót nói với Nam Cung Giao :
- Tướng công! Thiếp đã nhớ ra rồi! Gia phụ có một chiếc chìa khóa bằng ngọc xanh dài độ gang tay rất tinh xảo. Mỗi lần người đi theo áp tải quặng vàng lên Bắc Kinh đều giao cho gia mẫu giữ gìn, cất vào một hốc bí mật. Nhưng từ sau khi gia mẫu lâm bệnh, thiếp không nhìn thấy gia phụ đeo chiếc chìa khóa ấy trên ngực nữa!
Mộc Đông Sơ hỏi ngay :
- Phải chăng chiếc chìa khóa ấy có mặt đầu rồng với hai mắt cẩn ngọc đỏ?
Vân Mi gật đầu xác nhận :
- Đúng vậy! Nhưng sao Mộc lão tại biết rõ như thế?
Mộc Đông Sơ gật gù, hỏi mọi người :
- Chư vị có nhớ truyền thuyết về Ngọc Long cung hay không?
Sách Hán Xương giật mình :
- Có! Nhưng chẳng lẽ chuyện ấy lại có thực?
Cẩn Nhục Đầu Đà tiếp lời họ Sách :
- Bốn mươi năm trước, bần tăng có tham gia cuộc tìm kiếm, dẫm nát cánh rừng Thiên Nam Lĩnh, phí sức mấy tháng trời mà không có kết quả gì!
Nam Cung Giao ngơ ngác :
- Chuyện ấy là thế nào? Mong các vị nói rõ ra xem?
Mộc Đông Sơ liền kể :
- Vào cuối thời nhà Tống, ở Trường Sa có một nhà đại phú họ Tư Mã, sanh được nam tử tên Thuật.
Tư Mã Thuật thân thể khôi vĩ, sức mạnh như Hạng Võ thuở trước, lại giỏi thương pháp nên tự xưng là Ngọc Long Thần Thương. Khi quân Mông Cổ vây thành Tương Dương (Hồ Nam), Tư Mã Thuật chiêu binh mãi mã, hợp lực với quân Tống để kháng Mông.
Nhờ lực lượng của ông ta ở ngoài quấy phá mà thành Tương Dương giữ vững được mấy năm.
Quân Mông Cổ tức giận, gọi thêm viện binh, tập trung tiêu diệt Ngọc Long Thần Thương trước.
Tư Mã Thuật phải rút về phía núi Nam Lĩnh cố thủ, một năm sau thì bị tiêu diệt. Do vậy mới có truyền thuyết rằng Tư Mã Thuật đã xây dựng Ngọc Long cung trong rừng núi Nam Lĩnh cất giấu số tài sản kếch sù của mình!
Bốn mươi năm trước, tin này đã làm xôn xao võ lâm khiến mấy ngàn người kéo nhau đến Nam Lĩnh tìm kiếm, và thất vọng trở về!
Mộc Kính Thanh phì cười :
- Dù Tư Mã Thuật có giàu cách mấy thì cũng đã sạt nghiệp vì đã nuôi quân mấy năm trời, còn đâu mà cất nữa?
Mộc Đông Sơ mỉm cười :
- Công tử nói cũng phải! Nhưng nhà Tư Mã sở hữu hai mỏ Lam Bảo Ngọc ở Quảng Tây và Phúc Châu gia sản lớn gấp trăm lần Kim Diện cung! Dẫu chỉ còn lại một phần mười cũng đủ để thiên hạ phát điên lên!
Mộc lão rất có lý vì bảo ngọc quí gấp ngàn lần Hoàng kim!
Trong hàng ngũ châu báu, người ta dùng cái mỹ danh Bảo Thạch Tam Tỷ Muội (Ba chị em đá quí) để chia ra ba loại ngọc hiếm nhất, quý giá nhất là: Lục Bảo Ngọc, Lam Bảo Ngọc và Hồng Bảo Ngọc.
Trung Hoa chỉ có Lam Bảo Ngọc ở các tỉnh Quảng Tây, Phúc Kiến, An Huy, Vân Nam. Hồng Bảo Ngọc là sản phẩm đặc hữu của Miến Điện, Xiêm La.
Còn Lục Bảo Ngọc đến Trung Hoa qua tay bọn thương nhân người Tây Ban Nha!

Trưa hôm ấy, bọn Nam Cung Giao đã rời xa Từ Châu được năm mươi dặm, ghé vào cánh rừng bên tả bàn bạc lần cuối.
Sau đó, Nam Cung Giao, Cẩn Nhục Đầu Đà, Mộc Kính Thanh và anh em họ Trịnh cải trang quay lại Tế Châu. Họ mang những chiếc mặt nạ kỳ diệu của Trường Hồng kiếm khách nên không sợ bị phát hiện.
Những người còn lại vào trấn Kỳ Vân gần đấy nghỉ trọ!
Tai mắt của Kim Diện cung rải đầy các khách sạn trong thành, chỉ trừ Tứ Hải đại lữ điếm! Sơn Đông Thiết Hán Tề Thanh Hải quen biết với Nam Cung Giao tất sẽ báo cho Kim Diện cung biết tin về những kẻ khả nghi!
Nhưng dĩ nhiên họ Tề phải đứng về phe Nam Cung Giao khi chàng cần đến!
Năm người gởi ngựa ở một nông xá ngoài cửa Nam Thành, đi bộ đến Tứ Hải đại lữ điếm!
Gã tiểu nhị họ Hồ thấy khách nghèo đến mức chẳng có ngựa mà cỡi, tay nải cũng không, liền nhăn nhó, chỉ vào bảng giá trên tường, sau quầy quỹ :
- Mong ngũ vị đại gia lưu ý giùm, bổn điếm đã có giá mới, chẳng giống lúc trước đâu!
Gã nói khéo thế thôi chứ biết chắc rằng năm tên kiết xác này chưa bao giờ đến đây lần nào!
Nam Cung Giao lạnh lùng nói :
- Bọn ta là bằng hữu của Tề lão, từ Sơn Đông đến! Ngươi mau vào gọi lão ấy ra, nếu không bổn vương đốt sạch cái ổ chó này bây giờ!
Nghe khách tự nhận là ăn cướp, Hồ Tiểu Cửu run bắn người, vâng dạ liên hồi, chạy vào trong.
Lát sau, Tề Thanh Hải ra đến, nhìn bốn người lạ mặt, nhíu mày hỏi :
- Ngũ vị là ai mà lại mạo xưng là bằng hữu của lão phu?
Mộc Kính Thanh cười khanh khách :
- Tề đại ca quả là chóng quên! Hai mươi năm trước, anh em chúng ta chẳng từng cùng nhau đánh cướp dinh Tri phủ ở Tế Châu đấy sao?
Bí mật tày trời này Tề Thanh Hải chỉ thố lộ với mình Nam Cung Giao trong lúc say mèm, nay bị đối phương nói ra oang oang, khiến lão bủn rủn tứ chi, miệng lắp bắp :
- Sao ngươi dám vu oan giá họa cho lão phu như vậy!
Dáng điệu hoảng hốt, sợ hãi của lão làm bọn Nam Cung Giao cười ngất.
Chàng không vận công biến đổi giọng nên Tề Thanh Hải đã nhận ra tiếng cười hào sảng, quen thuộc. Ião mừng rỡ hỏi :
- Phải Nam Cung công tử đấy không?
Chàng lột mặt nạ tủm tỉm nói :
- Bọn tại hạ biết tháng này sanh ý của quí điếm ế ẩm nên đến quấy rầy!
Tề lão sửng sốt :
- Sao lão phu nghe nói công tử đã rời Từ Châu sáng nay rồi mà?
Nam Cung Giao gật đầu, vui vẻ nói :
- Tại hạ định làm vài vụ cướp nên đến mượn Tề lão ít đồ nghề!
Lần trước, Nam Cung Giao đột nhập Kim Diện cung, để gởi thư, qua mặt bọn đệ tử tuần tra. Nhưng sau lần ấy, Kim Diện cung chủ đã cho dựng rào chắn rất kiên cố và phòng thủ chặt chẽ. Do vậy, lần này, chàng chỉ còn cách lên bằng đường vách núi hướng Bắc, cao đến mười lăm trượng, và dựng ngược.
Chính vì cho rằng khỉ vượn cũng khó mà trèo, nên đoạn này chỉ có một chốt gác do ba tên kiếm thủ trấn giữ.
Trời lạnh như cắt da, chúng ngồi co ro quanh bếp lửa trong tòa nhà gỗ, chẳng dại gì mà đi tuần để hứng ngọn gió Bắc lạnh lùng!
Ngay đầu canh hai, Nam Cung Giao đã có mặt nơi chân vách đá, toàn thân hắc y đen kịt, đầu trùm kín bởi túi vải.
Nam Cung Giao đã mượn dụng cụ đạo chích quí báu của Sơn Đông Thiết Hán, là hai cặp Hổ Trảo bằng thép luyện.
Loại Hổ Trảo này quấn vào bàn tay, bàn chân, làm tăng cường công phu Bích Hổ của khách dạ hành.
Nam Cung Giao cắm phập những chiếc vuốt thép nhọn hoắt và cứng rắn vào vách núi, hoặc bấu lấy những mỏm đá lồi lõm, nhanh chóng trèo lên.
Bốn người phía dưới căng rộng một tấm lưới đánh cá bền chắc, hồi hộp chờ đợi giây phút Nam Cung Giao rơi xuống.
Nhưng vách đá này chẳng thấm thía gì so với vực thẳm Duyên Sơn, và Nam Cung Giao lại được trang bị tốt hơn nên đã vượt qua được sau nửa canh giờ.
Chàng ở cách xa căn nhà gỗ nhỏ đến hàng chục trượng nên yên tâm tìm chỗ cột dây chão.
Anh em họ Trịnh ở lại chân vách canh gác. Chỉ có Mộc Kính Thanh và Cẩn Nhục Đầu Đà theo dây chão mà lên hợp lực với Nam Cung Giao.
Ba người chuồn êm về phía sườn núi phía sau Kim Diện cung.
Ở đây, sợi dây chão thứ hai được thả xuống, và sau khi Nam Cung Giao cùng họ Mộc xuống rồi, Cẩn Nhục Đầu Đà thu dây ẩn mình vào bụi rậm.
Nhân số Kim Diện cung đông đến ba trăm, nay mỏ vàng đã cạn, chẳng lẽ để thủ hạ ngồi không mà ăn cho mau sạt nghiệp. Vì vậy, Tiền Phong Vân đã mua hết ngàn mẫu ruộng quanh chân núi Kim Sơn để trồng ngũ cốc. Còn trên bình đài sau cung và trong những hang hốc của mỏ vàng cũ, ông cho nuôi rất nhiều lợn gà.
Anh em Nam Cung Giao vượt qua dãy chuồng lợn dài dằng dặc và hôi hám, vượt qua khu bếp tiến vào hậu viện.
Đêm đông lạnh giá, ai cũng trùm mền ngủ say như chết, cả bọn tuần tra cũng ngáp ngắn ngáp dài, ngồi dựa vách mà gật như gà!
Họ có quyền ngủ vì làm gì có ma nào đột nhập vào được?
Dãy phòng hậu viện ngăn cách với bếp và khu nhà ở của gia nhân, tỳ nữ bằng một vườn hoa um tùm, thơm ngát. Chắc là để dung hòa mùi hôi thối của phân gia súc, gia cầm, thỉnh thoảng theo gió bay lên!
Mặt trước của Kim Diện cung rất uy, lộng lẫy nhưng mặt sau thì hơi khó ngửi.
Lúc này mới là đầu canh ba, và trong phòng của Tiền cung chủ vẫn còn sáng đèn.
Phòng của lão và mụ Đại di nương ở cách phòng bệnh vài căn.
Bà ta có nhũ danh là Phan Thế Phụng, tuổi độ bốn mươi hai, nhan sắc thuộc hàng thượng thặng, tính tình trầm lặng, ít nói, ăn mặc giản dị, và rất siêng năng, cần mẫn trong việc chăm sóc Tiền phu nhân.
Tuy Vân Mi hết lời tán dương, song Nam Cung Giao lại có cảm giác là lạ khi đối diện Phan nương.
Chàng tò mò, rũ Kính Thanh lần đến ô cửa khép kín, nhìn qua khe.
Tiền Phong Vân và Phan di nương đang ngồi trên ghế trường kỷ, trước bàn trà nhỏ, nét mặt đầy vẻ nghiêm trọng.
Họ cách xa cửa sổ đến hai trượng, nhưng nhờ thính lực tinh tường, cộng với những cử động của đôi môi hai người ấy, nên Nam Cung Giao đã đoán ra được nội dung cuộc đối thoại, bởi họ nói không lớn.
Phan nương nghiêm nghị, nói :
- Nay Giáo chủ đã ra hạn chót là hết năm nay, sư huynh tính sao?
Tiền Phong Vân thở dài :
- Ta đã dùng hết mọi cách khảo tra mà bà ấy vẫn không chịu khai ra chỗ cất giấu Long Đầu Ngọc Thực! Có lẽ phải xin Giáo chủ đích thân giá lâm dùng Nhiếp Tâm đại pháp mà hỏi thôi!
Phan Thế Phụng quắc mắt :
- Giáo chủ tọa quan đến tận đầu xuân sang năm mới luyện xong lớp chót của Thiên Y thần công, đâu thể đến đây được. Sao! sư huynh không đem sinh mạng của Tiền Thanh Giám ra mà uy hiếp mụ ta. Cứ cắt dần từng mẩu thịt của con là mẹ phải khai thôi!
Tiền Phong Vân cười nhạt :
- Thế là sư muội chưa biết rõ bản chất cương liệt của Tất Liên Thành rồi.
Lão phu đã từng hăm dọa nhưng bà ấy bảo rằng : Họ Tiền Anh đông đúc, chẳng sợ tuyệt tự, muốn giết thì cứ giết! Bà ấy căm thù ta đến mức sẵn sàng hi sinh con cái, quyết không để ta toại nguyện!
Phan Thế Phụng cười khẩy :
- Chứ không phải là sư huynh đã lỡ yêu thương mụ chó chết kia nên không nỡ hạ thủ? Là nam nhân mà sao bụng dạ mềm như đàn bà vậy?
Tiền Phong Vân khổ sở biện bạch :
- Làm gì có chuyện ấy! Ngu huynh suốt đời chỉ yêu có mình sư muội mà thôi!
Rồi lão vươn tay kéo Thế Phụng vào lòng mà hôn hít, vuốt ve.
Thủ đoạn của lão thật cao cường, lão luyện, chỉ loáng cái đã khéo léo lột được áo ngắn và yếm đào của Thế Phụng.
Phan nương chống cự yếu ớt và rồi đầu hàng, để cho họ Tiền bồng mình lên giường.
Kính Thanh hổ thẹn trước cảnh tượng diễm tình kia, đấm vào sườn Nam Cung Giao, lôi chàng đi và hạ giọng trách :
- Đại ca định xem cho đến sáng hay sao? Thật là xấu hổ!
Chàng kề tai gã cười hì hì :
- Ngươi mới cần xem chứ đâu phải ta! Mấy mụ vợ của ta còn hấp dẫn hơn bà già họ Phan kia nhiều!
Mộc Kính Thanh bẽn lẽn tức tối rảo bước, chẳng biết nói sao!

Mãi đến giữa giờ Thìn sáng hôm sau, người hầu hạ Tiền phu nhân là Tam di nương Mai Thư Tiệp mới hồi tỉnh, và la làng khi thấy bệnh nhân biến mất.
Hung thủ đã để lại một tờ hoa tiên trên gối Tiền phu nhân, nội dung như sau :
“Tiền cung chủ nhã giám!
Bổn giáo đang cần ngàn lượng để khởi nghiệp, nên đã mời quí phu nhân đi chơi một chuyến. Đầu tháng ba sang năm, phiền tôn giá mang mười vạn lượng vàng ròng đến núi Thuần Sơn, phía Nam thành Thụ Dương để rước phu nhân về!
Giáo chủ Cực Lạc giáo bái bút”.
Tiền Phong Vân gầm vang như hổ dử, ánh mắt đầy vẻ hoang mang, lo lắng hơn là bi ai.
Lão hết lời chửi mắng bọn thủ hạ là lũ ăn hại để kẻ địch vào cung bắt người dễ như trở bàn tay!
Yên Đài song sát cố khuyên giải nên họ Tiền tạm nguôi cơn thịnh nộ, cho triệu tập một cuộc họp những cao thủ chủ chốt!
Đại Sát Thân Công Hải trổ tài phân tích thư pháp :
- Đây là nét bút của một nữ nhân tuổi độ lục tuần, tính tình cương nghị, nóng nẩy và dử dằn, quen thói chỉ huy!
Thân lão nhận xét không sai, vì lá thư này do vợ của Sơn Đông Tiết Hán viết giùm Nam Cung Giao. Bà ta dữ đến nỗi Tề Thanh Hải tuy giàu có vẫn không hề dám nạp thiếp, và lúc nào cũng phải lải nhải tán dương mụ vợ già của mình là nữ nhân tuyệt diệu nhất thế gian!
Tề nương giỏi võ hơn chồng nên Tề lão đành chịu lép vế!
Nhị Sát Tiêu Xuân Oanh cau mày :
- Lạ thực! Trong đám quần thoa của võ lâm, đâu còn ai đủ tài sức để khai tông lập giáo?
Tiền Phong Vân gằn giọng :
- Không cần phải bàn nữa, phía Đông và Nam Từ Châu chẳng có tổ chức hay nhân vật nào đáng kể. Vậy là bọn hung thủ phải đi về hướng Tây!
Chuyết thê lâm bệnh tất phải được chở bằng xe ngựa, tốc độ lượng không nhanh! Chúng ta cố rượt theo, may ra bắt kịp!
Thế là đoàn nhân mã của Kim Diện cung rầm rộ phi nước đại về hướng Tây.
Do kiên trình không tiếc sức ngựa nên ba ngày hôm sau họ bắt kịp đoàn tăng lữ Thiếu Lâm tự.
Các nhà sư vốn đầy lòng nhân nên đi chậm cho ngựa đỡ mệt. Họ khẳng định với Tiền cung chủ rằng chẳng có cỗ kiệu hay xe ngựa mui kín nào vượt qua cả!
Phe Kim Diện cung lủi thủi trở về, tổng cộng mất toi bảy ngày công sức.
Nhưng khi về đến nhà, Tiền Phong Vân suýt nữa thì hóa điên vì nghe báo rằng Đại di nương Mai Thư Tiệp và toàn bộ số châu báu ngân phiếu trị giá đến bốn chục vạn lượng vàng đã biến mất!
Hung thủ đã tìm ra hầm ngầm trong phòng của lão. Lần này thì có manh mối, vì hai vị Hộ cung Kiếm sứ và đội trưởng Bạch Y cận vệ đã vắng mặt!
Vụ án này xảy ra ngay đêm hôm sau vụ bắt cóc Tiền phu nhân! Nghĩa là Tiền cung chủ đã trúng kế Điệu Hổ Ly Sơn!
Đất đai, cửa hiệu ở các nơi còn nhiều, nhưng các nơi hầu như sạch sẽ, Tiền Phong Vân chỉ còn cách tuyên bố giải tán Kim Diện cung.
Nhưng các môn nhân không tán thành, xin ở lại mà chẳng cần lãnh lương.
Tiền Thanh Giám cũng cực lực phản đối, vì sợ sau này trở thành một vị Cung chủ mà chỉ có vài gia đinh và tỳ nữ!
Hôm sau, Tiền Phong Vân gom góp số vàng còn sót lại, dẫn ba mụ vợ nhỏ ra đi.
Lão ta gởi gấm cơ nghiệp lại cho Yên Đài song sát, bảo họ rằng mình lên kinh đô cầu cứu bằng hữu!
Sang xuân sẽ quay lại lo việc cho Tiền phu nhân!
Thực ra lão sẽ chẳng bao giờ trở về nữa, Giáo chủ của lão sẽ không bao giờ tha cho cái tội để mất Tiền phu nhân và Mai Thư Tiệp, cùng số của cải để dựng nghiệp của giáo phái!
Vả lại nếu Mai Thư Tiệp khai ra, hoặc Tiền phu nhân hồi tỉnh, thì quan quân sẽ kéo đến ngay!
Không hiểu vì lý do gì mà lão lại linh cảm rằng chính Nam Cung Giao là thủ phạm!
Chỉ có kẻ đã từng trèo lên từ đáy thẳm mới có thể vượt bức vách hướng Bắc của núi Kim Sơn! Và chỉ có chàng ta mới thu phục được Đội trưởng Cam Bố Cốc và hai vị Kiếm sứ! Và cũng chỉ có chàng rể quí ấy mới biết vị trí của hầm châu báu, vì Vân Mi cùng biết.
Yên Đài song sát và các môn nhân Kim Diện cung bàng hoàng trước sự sụp đổ quá nhanh chóng của một cơ đồ hùng mạnh, giầu có nhất võ lâm.
Tiền Thanh Giám nhớ mẹ, rầu rĩ nói :
- Nhị vị lão gia! Chúng ta phải đi Nam Kinh báo gấp tín này cho tỷ phu biết! Chỉ có chàng ta mới cứu được gia mẫu mà thôi! Vả lại gia phụ đã vét sạch, chúng ta lấy gì mà sống?
Yên Đài song sát khen phải chuẩn bị lên đường.
Nhưng tên môn nhân gác cổng đã thét lên :
- Thiếu gia và tiểu thư hồi cung!
Hai vợ chồng Nam Cung Gia ung dung bước vào trong sự ngỡ ngàng của Song sát, vì theo sau họ là nhị vị Hộ cung Kiếm sứ và Đội trưởng Bạch Y cận vệ.
Đại Sát choáng váng, ngẩn ngơ hỏi :
- Chính ngươi đã làm việc này sao?
Nam Cung Giao gật đầu, điềm đạm hỏi lại :
- Chẳng lẽ nhị vị không biết lão Cung chủ kia là kẻ giả mạo ư?

Đến trưa thì mọi việc sáng tỏ, và Tiền Thanh Giám vênh mặt vì trở tHành cung chủ Kim Diện cung.
Phu thê Nam Cung Giao rời Kim Sơn trở về trấn Kỳ Vân với đồng đạo và Tiền phu nhân.
Chiều mùng sáu tháng chạp, đoàn người về đến phủ Thượng thư ở Nam Kinh!
Mai Thư Tiệp vừa nhìn thấy những hình cụ tra khảo trong đại lao đã nhũn cả người, khai ra hết.
Kẻ giả mạo Tiền Phong Vân tên Hà Viên, cùng bốn ả vợ nhỏ đều là đệ tử của Tùy Hải chân nhân Mao Tùng Thanh ở vùng Thanh Đảo, Sơn Đông.
Họ Mao quen biết với sư phụ của Tiền Phong Vân là Nhật Chiếu Thần Tẩu, thấy họ Tiền có dung mạo giống đại đồ đệ của mình nên mới nghĩ đến chuyện thay mận đổi đào.
Năm năm trước, Tiền Phong Vân đi áp tải quặng vàng thượng kinh, một mình ghé núi Nhật Chiếu thăm mộ ân sư, liền bị bắt và Hà Viên thế vào.
Lúc về đến Kim Diện cung, họ Hà không kềm được lòng ham muốn trước nhan sắc tuyệt trần của Tiền phu nhân nên đã giao hợp ngay trước khi cầm chắc Long Đầu Ngọc Thực!
Tiền phu nhân phát hiện ngay sự khác biệt liền bị Hà Viên hạ thủ và khống chế bằng phép Thủy Châm mê hồn pháp.
Bà nhất định không khai ra nơi cất giấu bảo vật, nên mới còn sống đến ngày nay!
Mấy hôm sau, Nam Cung Giao cùng Sở Mai, Kính Thanh và anh em họ Trịnh lên đường đi Giang Tây.
Những người khác đều ở lại Nam Kinh đón xuân, vì Cẩn Nhục Đầu Đà đã mời được bằng hữu là Vu Hồ Quốc Thủ đến chữa trị cho Tiền phu nhân!

Chiều hai mươi lăm tháng chạp, bốn người về đến Cảnh Đức trấn.
Người mở cửa là Lộc nhi. Cô bé hét toáng lên và ôm lấy đại ca!
Nam Cung Giao bồng em lên, sải bước vào trong, bốn người kia rụt rè theo sau.
Nam Cung Bột và Trinh Tâm đang ngồi uống trà, trò chuyện, còn Tử Phượng và Sở Nhu vì mới sanh nên không ra được.
Nam Cung Giao quì xuống! Chưa kịp thỉnh an song thân thì đã thấy cha há hốc mệng mắt trợn tròn chỉ Sở Mai, mà nói lắp bắp :
- Giao nhi! Chẳng lẽ.. ngươi lại lôi cả con heo kia về.. làm dâu nhà này?
Nam Cung Giao định gật đầu để đùa giỡn, nhưng sợ cha già lăn ra chết tại chỗ, nên đành thôi!
Chàng lắc đầu lia lịa :
- Không phải đâu! Xin phụ thân cứ bình tâm! Sở Mai chỉ là tỳ nữ mà thôi.
Sở Mai mau mắn quì xuống lạy, nói bằng tiếng An Nam :
- Tiểu tỳ bái kiến nhị vị lão nhân.
Ngôn ngữ quê hương khiến Trinh Tâm rùng mình vì xúc động, bà bước đến đỡ Sở Mai lên, và bảo Lộc nhi đưa ả béo vào hậu sảnh!
Nam Cung Bột cười ha hả :
- Té ra lần này Giao nhi không đưa thêm vợ về, lúc nãy ngươi làm lão phu hết cả hồn!
Nam Cung Giao quì lạy và ba người kia cũng làm theo. Chàng thò tay ra phía sau, kéo Mộc Kính Thanh ngang với mình rồi vui vẻ nói :
- Bẩm song thân. Đây là Lâm Bảo Thoa con dâu thứ năm của họ Nam Cung.
Nam Cung Bột ngơ ngác dụi mắt, đang định chửi mắng con trai thì nghe bà vợ thông thái của mình lên tiếng :
- Thoa nhi hãy tháo mặt nạ ra để lão thân xem thử?
Mộc Kính Thanh nãy giờ chết điếng vì hổ thẹn và choáng váng trước đòn trời giáng của Nam Cung Giao, chẳng biết phải làm sao. Giờ nghe Trinh Tâm nhắc nhở, gã vội lột mặt nạ, dập đầu run giọng :
- Tức nữ bái kiến lão gia và Nải nương.
Trinh Tâm mỉm cười :
- Con tưởng Giao nhi ngu đến mức không nhận ra con là gái giả trai hay sao? Nó đã nói cho ta nghe từ lâu rồi!
Trịnh Mãng nhăn nhó lẩm bẩm :
- Mình đúng là con lừa mới tin vào chuyện gã bị vỡ ngọc hành nên mông * nở ra!
Cả nhà phá lên cười nắc nẻ, trong lúc Lâm Bảo Thoa thẹn đến nỗi úp mặt xuống đất, chẳng dám ngẫng lên! Và nàng xém ngất xỉu khi nghe giọng trong trẻo, ngây thơ của cô bé Hà nhi :
- Đại ca! Ngũ đại tẩu đây là đàn bà mà sao có ngọc hành còn tiểu muội thì không?
Nam Cung Bột cười vui đến nỗi tuột khỏi ghế, lăn đùng xuông nền nhà!
Trinh Tâm ôm bụng bỏ chạy vào trong, úp mặt xuống gối mà cười cho thỏa thích.
Lâm Bảo Thoa trở lại làm nhi nữ, hết lòng bầu bạn với Tử Phượng và Sở Nhu.
Nàng là người tinh ranh, lém lỉnh, khéo bông đùa nên nhà lúc nào cũng đầy ắp tiếng cười!
Nam Cung Bột rất hài lòng với cô con dâu thứ năm vì hợp tính nết. Hai ả bụng to kia hiền như bụt, cười cũng chẳng dám cười lớn, thật là chán ngắt.
Mấy hôm sau, Bảo Thoa có dịp ngồi riêng với Nam Cung Giao liền dò hỏi :
- Tướng công nhận ra thiếp cải trang từ lúc nào?
Nam Cung Giao cười khà khà :
- Sau khi vỗ mông nàng lần đầu tiên là ta đã sinh nghi, để ý rình rập, và khám phá ra ngay.
Bảo Thoa vừa thẹn vừa tức giận, đấm lên hồi vào ngực trượng phu.
Chàng liền kéo nàng vào lòng mà hôn hít mãi không thôi!
Bảo Thoa cố xô ra rồi nghiêm giọng :
- Tướng công! Thiếp đã phát hiện cái bướu trên trán Sở Nhu là giả. Phải chăng ngay vị trí ấy có dấu vết gì cần phải che đậy?
Nam Cung Giao chẳng hề ngạc nhiên nhưng ánh mắt nặng trĩu ưu tư :
- Không phải là dấu vết mà là con mắt thứ ba! Sở Nhu đã cho ta và gia mẫu xem!
Bảo Thoa giật mình kinh hãi, lắp bắp nói :
- Té ra Sở Nhu chính là Thánh Nữ của Thiên Nhãn giáo đất Cách Nhĩ Mộc tỉnh Thanh Hải! Hơn hai chục năm nay, họ ráo riết truy tìm một bé gái có ba con mắt, người được chọn làm Giáo chủ đời sau của Thiên Nhãn giáo!
Nam Cung Giao gật đầu :
- Đúng vậy! Mẹ của Sở Như đã mang con chạy trốn về Trung Nguyên, đến bờ sông Gia Lăng trên đất Tứ Xuyên thì lâm trọng bệnh và qua đời. May thay, Xảo Xảo thư sinh Sở Nam Vu đi ngang qua, đem đứa bé gái quái dị kia về nuôi dưỡng.
Bảo Thoa ứa lệ than :
- Thật tội nghiệp cho Sở thư! Nếu ở lại Thanh Hải thì đến năm ba mươi tuổi cũng bị thiêu sống để tế thần!
Nam Cung Giao an ủi :
- Chỉ còn vài năm nữa là Sở Nhu qua tuổi tam thập, chẳng còn sợ ai truy bắt nữa.
Bảo Thoa chợt nhớ ra, ngập ngừng hỏi :
- Tướng công! Nếu lần sau Sở thư sanh con gái và cũng có dị tướng như nàng thì sao?
Nam Cung Giao phì cười :
- Dị tướng kia nào phải dễ có, trong mấy ngàn năm mới xuất hiện một lần. Đâu phải mẹ ba mắt là con cũng thế?
Tuy nói cứng vậy nhưng trong lòng chàng cũng không tự tin lắm.
Chàng không sợ Thiên Nhãn giáo mà chỉ sợ con gái mình sẽ ế chồng! Trừ chàng ra, liệu trên đời còn có ai dám lấy một người vợ quái dị đến thế hay không! Nếu mang bướu để che thì cũng chẳng khá hơn.



Hồi giữa tháng chạp, Sở Nhu đã hạ sanh một nam hài, hai mắt bình thường. Và trước đó nửa tháng, Tử Phượng cũng đã lâm bồn, cho ra một bé gái xinh đẹp kháu khỉnh.
Sau Tết Nguyên Đán, Nam Cung Giao cùng mẫu thân nghiên cứu Trường Hồng kiếm kinh, bổ khuyết cho Lạc Điểu kiếm pháp, nhưng cố không làm mất đặc tính riêng của nó.
Hai mẹ con bàn luận, cân nhắc, so sánh từng thế thức, tìm ra phương thức tối ưu.
Mặt khác, Nam Cung Giao tìm hiểu Câu Trần chân kinh của Hồ Ly song tiên. Chọn ra tám chiêu lợi hại dạy cho bọn họ Trịnh, họ Sở và các đao thủ Thế Thiên hội.
Sở Mai cũng tham gia vì chàng trai to béo họ Ngô.
Nam Cung Giao đã giữ lời hứa, se duyên cho họ.
Nam Cung Giao định ở nhà cho đến cuối tháng hai để an ủi hai bà vợ vừa vượt biển, và gần gũi con thơ.
Nhưng chỉ mới đầu tháng hai, thì dịch tốt đến trao thư hỏa tốc của Mã thượng thư.
Tin thứ nhất là việc Tổng Trấn Quân Vụ Tích Giang, tức Minh chủ võ lâm Vương Trung Hưng, đã bị giết ngay trong đêm mùng sáu tháng giêng!
Hung thủ bịt kín mặt, kiếm thuật rất cao siêu, chỉ sau vài chiêu đã đâm thủng ngực Vương tổng trấn.
Thích khách phá vây thoát đi rất dễ dàng sau khi giết ba mươi mấy quân sĩ triều đình.
Tin thứ hai là việc Lưu tổng bộ đầu đã phát hiện sào huyệt Tứ Hải hội ở núi Võ Di Sơn, phía Bắc huyện Tam Bình, thuộc tỉnh Phúc Kiến!
Dãy Võ Di Sơn là danh thắng nổi tiếng Trung Hoa, gồm ba mươi sáu đỉnh núi có rất nhiều hang động. Tứ Hải hội đã chiếm cứ ngọn Tùng Vân ở phía Đông.
Ngọn núi này thấp, nhỏ nhưng hiểm trở có rừng rậm bao quanh nên ít người lui tới! Quan quân Phúc Kiến gần ba ngàn người, đã vây chặt núi Tùng Vân, tiêu diệt được hầu hết bọn thủ hạ Tứ Hải hội, nhưng lại để sổng gã Hội chủ và hai lão già nữa. Cả ba kẻ ấy đều bịt khăn ngang mặt nên không thể xác định có phải là Ngọc Diện Thần Kiếm và Địa Thượng Song Lôi hay không?
Tổng cộng hơn năm trăm gã cường đạo Tứ Hải hội đã chết. Chẳng một ai sống sót để khai báo, vì những tên bị thương hay bị bắt đều cắn vỡ thuốc độc trong miệng mà tự sát!
Trong số những tang vật thu được có cả sơ đồ và vị trí phòng ốc trong Hành cung Nam Kinh, phủ Hình Bộ Thương Thư và doanh trại của Vương tổng trấn.
Như vậy, có thể suy ra rằng kẻ giết Vương Trung Hưng chính là Trương Sĩ Hạo, và gã còn định hành thích cả Thất vương gia lẫn Mã thượng thư.
Do vậy, Mã Xuân Trác vô cùng lo ngại, yêu cầu chàng rể tài ba trở về Nam Kinh gấp.
Nam Cung Giao cấp tốc lên đường, chỉ đem theo Lâm Bảo Thoa và anh em họ Trịnh.
Chàng dùng Ngân bài Đô Sát viện, bắt các dịch trạm dọc đường thay ngựa tốt nên chỉ sau bốn hôm kiên trình đã đến Nam Kinh, vào chiều ngày mùng chín tháng hai.



Cố đô của nhà Minh giờ đây được canh gác cẩn mật, quân tuần tiểu qua lại nườm nượp trên đường phố.
Bọn khách giang hồ qua cửa thành bị xét hỏi gắt gao, và phải gởi vũ khí lại mới được vào.
Đám công sai kiểm tra từng quán trọ, bắt ngay những kẻ không có thẻ đinh.
Tối đến, mới đầu canh một là bốn cửa thành đã đóng chặt và chỉ mở ra lúc cuối canh năm!
Các cơ quan đầu não trong thành, nhất là Hành cung và dinh Hình Bộ được phòng vệ nghiêm mật, không khí nặng trĩu âu lo.
Sự xuất hiện của Nam Cung Giao đã đem lại sinh khí cho nhà họ Mã.
Chàng là chỗ dựa vững chắc, là dũng sĩ bất bại trước mọi khó khăn, với nụ cười luôn nở trên môi!
Lâm Bảo Thoa thẹn thùng ra mắt các trưởng bối và hai người chị chung thuyền là Hoàn Cơ và Vân Mi. Khi biết nàng chính là Mộc Kính Thanh, mọi người phá lên cười ngất!
Tiệc tẩy trần được dọn ngay, có cả Tiền phu nhân tham dự. Bà đã hồi phục hoàn toàn, nhìn con rể bằng ánh mắt yêu thương.
Không có Nam Cung Giao thì bà sẽ phải chết âm thầm, hay sống lê lết trong cảnh bại liệt và đau đớn vì sự tra khảo của kẻ thù.
Sáng hôm sau, Nam Cung Giao theo nhạc phụ sang Hành cung bái kiến Thất vương gia. Các đại thần cũng tề tựu đông đủ.
Chu Nghiêm cười ha hả :
- Thấy mặt Nam Cung hiền khanh là bổn Vương nhẹ cả người! Hãy mau ngồi xuống rồi trình bày diệu kế của mình!
Nam Cung gao vui vẻ đáp :
- Thảo dân chỉ là kẻ võ biền thô lỗ, binh pháp không biết một chữ, làm gì có kế mưu gì! Xin các vị đại nhân cứ dạy bảo, Giao này sẽ tận lực thi hành!
Các quan có vẻ hài lòng trước sự khiêm tốn của chàng.
Phạm tổng binh hắng giọng trình bày nội dung và qui mô của cuộc phòng thủ Nam Kinh.
Rồi đến Tổng bộ đầu Lưu Cát báo cáo sơ tình hình trị an.
Thất vương phi thấy Nam Cung Giao mỉm cười, liền cau mày phán :
- Sao Nam Cung hiền khanh lại cười?
Nam Cung Giao nhoẻn miệng cười tươi hơn, vòng tay nói :
- Khải bẩm Vương phi! Thảo dân đang thử tính xem nếu sau một năm nữa mà thích khách vẫn chưa xuất hiện thì bá quan và sĩ tốt thành Nam Kinh sẽ xực mất mấy ngàn cân thịt và mỡ? Không chừng chúng ta chỉ còn lại những bộ xương biết đi!
Mã Kim Khu phá lên cười hô hố :
- Không sao! Không sao! Phần lớn các quan Nam Kinh đều rất nặng cân, nếu ốm đi một chút cũng tốt thôi!
Thất vương gia tủm tỉm hỏi :
- Khanh nói cũng có lý, nhưng đâu còn cách nào khác? Hay là khanh đã có chủ ý hay hơn?
Nam Cung Giao gật đầu đáp :
- Theo thiển ý của thảo dân, ngay ngày mai chúng ta sẽ khôi phục sự sinh hoạt trong thành như không hề có chuyện gì. Rút hết cấm quân, công sai về, cho mặc thường phục, làm công việc trinh sát là chính! Bẫy có mở thì ác thú mới dám vào!
Lưu tổng bộ đầu băn khoăn :
- Nhưng nếu không phòng vệ nghiêm mật thì hung thủ sẽ vào được thành, và với bản lãnh cao siêu ấy, cấm quân làm sao ngăn nổi? Vụ án Vương tổng trấn đã chứng minh điều này!
Các quan đều tán thành ý của họ Lưu!
Nam Cung Giao thản nhiên nhắp hớp trà rồi hỏi lại :
- Nếu Lưu đại nhân là hung thủ, khi vào trong thành Nam Kinh và phát hiện ra rằng có đến năm sáu vị Thất vương gia, hoặc Hình bộ Thượng thư ung dung đi lại thì liệu đại nhân có dám ra tay không?
Thất vương phi tỏ ra thông minh hơn hết, sảng khoái vỗ đùi, giơ ngón cái khen liền :
- Hảo diệu kế! Nam Cung hiền khanh quả có tài thần cơ diệu toán!
Chu Nghiêm và các quan giờ mới hiểu ra, hết lới tán dương Nam Cung Giao!
Lưu Cát đứng lên vòng tay vái :
- Cảm tạ công tử đã cất hộ gánh nặng trong lòng lão phu nửa tháng nay, Lưu mỗ thức trắng vì lòng lo ngay ngáy!

Hôm sau, cáo thị dán đầy cửa thành và chợ búa, thông báo sự việc khôi phục giờ mở cửa thành như cũ, trấn an bách tính cứ yên chí làm ăn.
Quân tuần tra, hoặc xét hỏi ở cửa thành cũng biến mất. Nhưng thay vào đó mỗi quán trọ, tửu điếm, đổ trường, nhà thổ đều có thám tử túc trực.
Công việc này rất nhàn hạ nên ai cũng xung phong làm! Hạnh phúc nhất là được trà trộn vào kỹ viện, vừa trọn việc công, vừa sướng thân còm mà không mất xu nào!
Người vô tâm thì không thấy, song kẻ hữu ý sẽ nhận ra quái sự, là trong thành giờ đây có đến sáu Thất vương gia, bốn Hình bộ Thượng thư, nghi vệ giống nhau, xuất hiện khắp nơi!
Lưu tổng bộ đầu đã ngủ yên giấc để ban ngày điều động guồng máy trinh sát. Nhờ không phải lo lắng cho an nguy của Thất vương gia, nên họ Lưu đủ minh mẫn và sức lực để hành sự, cuối cùng đã có kết quả.
Tối mười sáu tháng hai, Lưu Cát đến phủ Hình Bộ, hồ hởi báo cáo :
- Bẩm đại nhân, các thám tử đã phát hiện có người đi vào tháp Đại Báo Ân tự, và không thấy trở ra. Tuy mặt đối phương bị nón che, khó nhận dạng, nhưng dáng vóc thì rất giống Trương Sĩ Hạo. Ty chức đã cho hơn trăm công sai vây chặt ngôi chùa ấy rồi!



Tháp Đại Báo Ân tự là một trong những ngọn tháp đẹp nhất Trung Hoa, mới được xây dựng xong vào năm Tuyên Đức thứ sáu, đời vua Minh Tuyên Tông.
Tháp này cao độ mười trượng, gồm chín tầng, năm mặt đều có kính pha lê, treo một trăm hai mươi quả chuông đồng đủ loại. Trong tháp còn có tượng Phật Như Lai rất lớn.
Mã thượng thư mừng rỡ, ra lệnh cho Phạm tổng binh điều ngay ngàn quân đến chùa Đại báo ân.
Các cao thủ võ lâm như Nam Cung Giao, Bảo Thoa, Cẩn Nhục Đầu Đà, Hoàn Cơ, Cuồng Vũ Đao, anh em họ Trịnh và bảy lão già họ Mộc cũng đi theo quan Thượng thư, quyết diệt trừ tai họa cho Nam Kinh.
Quan quân lặng lẽ xiết chặt vòng vây, ẩn mình dưới rặng cây. Cách tường chùa Đại Báo Ân năm sáu trượng, chờ lệnh mới hành động.
Nam Cung Giao và anh em họ Trịnh vào trước để do thám. Họ phải biết chắc đối phương là ai, để khỏi làm trò cười cho thiên hạ.
Ba người chia nhau vượt tường ở ba hướng Bắc, Tây, Đông vì hướng Nam là cổng Tam Quan, không có tăng xá.
Trăng mười sáu vằng vặc đằng Đông, soi rọi dáng vóc uy nghi, diễm lệ của tòa tháp, được những cánh cửa pha lê của chín tầng tháp phản chiếu, lấp loáng như dát bạc.
Trong chùa có đến hơn trăm tăng lữ, sư trụ trì là Thanh Hoa đại sư, theo phái Thiên Thai Tông, giống như Phổ Đà tự vậy!
Phật Giáo Trung Hoa có tám tông phái chính, đều thuộc hệ Đại Thừa gồm: Tam Luận Tông, Thiên Thai Tông, Hoa Nghiêm Tông, Pháp Tướng Tông, Luật Tông, Tĩnh Thổ Tông, Mật Tông và Thiền Tông.
Thiên Thai Tông do hòa thượng Trí Khải đời Tùy lập ra. Cuối đời, ngài sống trên núi Thiên Thai, Chiết Giang, viết sách hoàn thiện học thuyết của mình. Do vậy ngài được gọi là : Thiên Thai đại sư.
Thiên Thai Tông dựa vào kinh Pháp Hoa nên còn tên là Pháp Hoa tông, phát triển rất rộng rãi, được truyền bá sang cả những nước phía Đông như Nhật Bản, Triều Tiên.
Còn Thiền Tông xuất xứ từ ngài Bồ Đề Đạt Ma, tổ sư Thiếu Lâm tự.
Nghĩa là, chùa Đại Báo Ân chẳng dính dáng gì đến chùa Thiếu Lâm cả!
Ngọc Diện Thần Kiếm Trương Sĩ Hạo không biết gã Sư Điên Vô Dụng là Nam Cung Giao, vì cũng chẳng ngờ chàng đã khám phá ra vai trò Hội chủ Tứ Hải hội của mình, nên mới đến tá túc ở chùa đại Báo Ân này!
Chính Nam Cung Giao đã nhắc nhở Lưu tổng bộ đầu giám sát các chùa chiền trong thành Nam Kinh, nên đã phát hiện ra kẻ khả nghi!
Trống sang canh ba đã điểm mà tăng xá của phương trượng Thanh Hoa vẫn còn sáng đèn, trong khi các phòng khác đều tối tăm.
Nam Cung Giao lẻn đến cửa sổ phía sau, ghé mắt nhìn qua khe, nhận ra Trương Sĩ Hạo đang uống trà, đàm đạo với một lão hòa thượng râu bạc, pháp tướng trang nghiêm, có lẽ là Thanh Hoa đại sư.
Trịnh Tháo không tìm được gì nên lần đến với chàng.
Nam Cung Giao hạ giọng dặn dò gã, và họ Trịnh ra ngoài, thông báo cho Mã thượng thư và Lưu tổng bộ đầu biết.
Trịnh Tháo trở lại ngay, và lát sau, ngoài cổng chùa có tiếng người.
Lưu Cát và mười gã công sai cầm đuốc đến gọi cửa rất lớn :
- Bổn chức là Lưu Cát, Tổng bộ đầu Nam Kinh có việc muốn bái kiến Phương trượng!
Trong đêm thanh vắng, giọng của lão rõ mồn một, vọng vào đến tận phòng của Thanh Hoa đại sư.
Nam Cung Giao nhận ra Sĩ Hạo vẫn bình thản, lòng rất khâm phục.
Thanh Hoa đại sư chắc không biết gì về lai lịch cũng như mục đích của Sĩ Hạo nên hiền hòa bảo gã :
- Trương sư điệt cứ ngồi lại đây dùng trà, lão nạp ra xem có việc gì? Lưu thí chủ cũng là chỗ quen biết. Chắc sẽ bỏ qua việc ngươi đến bổn tự mà không khai báo! Gần đây, trong thành truy bắt đạo tặc nến mới có những cuộc kiểm tra đột ngột thế này!
Sĩ Hạo mỉm cười :
- Sư thúc cứ bảo họ rằng có cháu của Đông Hải thần tăng đến làm khách vài hôm!
Thanh Hoa đại sư gật đầu, bước ra ngoài.
Lúc này, cổng chùa đã được một tiểu tăng mở ra, và bọn Lưu Cát đã vào đến sân gạch phía trước bảo tháp.
Lưu Cát vái thật sâu, nói với Thanh Hoa :
- Mong Thần tăng lượng thứ cho! Ty chức vì công vụ nên phải mạo muội đến quấy nhiễu đất Phật! Nghe nói quý tự có tiếp một vị khách lạ?
Thanh Hoa đại sư thật thà đáp :
- A Di Đà Phật! Quả đúng là có. Người khách ấy là sư điệt của lão nạp. Tên gọi Trương Sĩ Hạo, ở chùa Phổ Đà đến thăm. Y có lai lịch rất tốt vì là cháu ruột của Đông Hải thần tăng.
Lưu Cát vui vẻ nói :
- Nếu thế thì không sao! Nhưng để cho đúng thủ tục, phiền Thần tăng mời Trương thiếu hiệp ra cho ty chức diện kiến. Từ lâu, ty chức vẫn ngưỡng mộ uy danh của Ngọc Diện Thần Kiếm.
Thanh Hoa đại sư gật đầu, bảo gã tiểu tăng đứng sau lưng :
- Con mau vào phòng ta, mời Trương thí chủ ra đây!
Tiểu tăng rảo bước đi ngay.
Nam Cung Giao và anh em họ Trịnh vì rình sau phòng Phương trượng, chứng kiến cảnh nhà sư trẻ bước vào.
Sĩ Hạo nghe nói mình được mời ra, cau mày hỏi :
- Toán công sai có đông không?
Tiểu Tăng không hiểu ý, nhưng vẫn đáp :
- Bẩm thí chủ!! Chỉ độ mười người!
Trương Sĩ Hạo suy nghĩ một lúc, đứng lên đi ra. Hông gã lủng lắng thanh trường kiếm thiết thân.
Là kiếm sĩ thượng thừa. Họ Trương yêu kiếm đến nỗi đi ngủ cũng chẳng rời!
Lúc này, Nam Cung Giao mới nhận ra bàn tay tả của gã mang một bao da đen bóng, đầy đủ năm ngón.
Song các ngón và cả bàn tay có vẻ dầy, lớn hơn bình thường.
Trịnh Tháo cũng thấy thế, thì thầm vào tai chàng :
- Công tử nên lưu ý! Thuộc hạ cho rằng gã họ Trương kia đã tháp thêm những ngón tay thép vào chỗ bị cụt!
Nam Cung Gian gật đầu, kéo hai thủ hạ phi thân lên nóc tăng xá, chuyền sang sân trước, bám theo sau Trương Sĩ Hạo.
Họ Trương không hề hay biết, vẫn ung dung nện gót, chậm rãi tiến vế phía sân gạch rộng rãi trước mặt tòa bảo thấp. Gã có dáng đi rất đẹp, độ dài mỗi bước chân đều như nhau chẳng hề sai lệch dù chỉ một ly!
Lúc Trương Sĩ Hạo còn cách hai trượng, Lưu Cát bỗng quát vang!
- Tiến vào!
Thế là từ ngoài, bọn công sai ùa qua cổng, nhảy qua tường, vây lấy con mồi.
Và rồi ngoài kia hàng ngàn ngọn đuốc được đốt lên sáng rực, át cả ánh trăng.
Có hơn trăm quân sĩ cầm giáo và đuốc chạy vào, tạo thành vòng vây thứ hai.
Thanh Hoa đại sư kinh hãi hỏi :
- Lưu thí thủ! Thế này là thế nào?
Lưu Cát cười nhạt :
- Trương Sĩ Hạo chính là Hội chủ Tứ Hải hội, trọng phạm số một đang bị triều đình truy nã! Đại sư đừng đến gần gã mà mang họa!
Họ Trương ngửa cổ cười khanh khách :
- Các ngươi lấy bằng cớ đâu mà dám vu oan giá họa cho ta?
Lưu Cát cao giọng :
- Trong số tang vật tịch thu được ở Võ Di sơn, có đầy đủ y phục và bút tích của ngươi! Phường may Xảo Tú Châu ở Hàng Châu xác nhận đã may thêu số quần áo đó cho ngươi! Còn bút tích thì chẳng sai với nét chữ của bài thơ mà ngươi đã viết trên vách Hoàng Hạc lâu!
Sĩ Hạo cau mày :
- Nhưng sao lão lại dám khẳng định ta có lưu một bài thơ trên lầu Hoàng Hạc?
Lưu Cát cười khẩy :
- Tên chữ của ngươi là Mạnh Đức, ý học theo thói gian hùng của Tào Tháo. Do vậy, dưới bài thơ ấy thự danh Trương Mạnh Đức! Xui xẻo cho ngươi là có người biết được bí mật này!
Trương Sĩ Hạo không ngờ mình chỉ sơ suất một chút mà sự nghiệp tan tành. Nhưng còn nước còn tát, gã sẽ thoát khỏi nơi này trước đã rồi sẽ tính sau. Gã còn trẻ, lo gì không dựng lại được cơ đồ?
Họ Trương lạnh lùng nói :
- Phế ngôn! Ai bảo lão rằng tên chữ của ta là Mạnh Đức?
Từ ngoài vọng vào tiếng thánh thót và trong trẻo :
- Ta nói đấy!
Vòng vây phía ấy dãn ra, nhường chỗ cho một lão tướng giáp trụ oai phong và ba nàng hiệp nữ sắc nước hương trời!
Sĩ Hạo nhận ra một trong ba nữ nhân ấy, choáng váng thét lên :
- Lâm hiền muội!
Bảo Thoa cười nhạt :
- Ta đã nói thì chắc các hạ không thể chối được rồi!
Sĩ Hạo quắc mắt :
- Năm xưa, lệnh tôn đã hứa với ta rằng suốt đời sẽ bắt nàng mang bộ mặt xấu xí, cho đến lúc tìm được người chồng có bản lãnh cao hơn ta! Nay vì sao nàng lại dám vi phạm điều ước ấy?
Bảo Thoa tủm tỉm hỏi lại :
- Thế bốn ngón tay của Trương các hạ là do bị kẻ nào chặt vậy?
Sĩ Hạo hổ thẹn quát :
- Nói láo! Ta không tin gã sư điên ấy là chồng của nàng!
Nhưng từ trong đám quân vây sau lưng gã có tiếng cười khanh khách, và rồi vang lên giọng ồm ồm :
- Sao lại không phải! Bộ ngươi tưởng rằng Sa Di Vô Dụng ta không lấy được vợ đẹp hay sao? Chẳng những là Bảo Thoa mà cả hai ả tiên nữ kia nữa đấy!
Sĩ Hạo kinh hãi quay lại, thấy một chàng trai áo lam sậm, dáng vóc lớn như Vô Dụng, tay cầm thanh kiếm dài quá khổ!
Họ Trương đã ngờ ngợ hiểu ra, cay đắng nói :
- Phải chăng ngươi là Nam Cung Giao, kẻ mới nổi tiếng mấy năm nay?
Nam Cung Giao gật gù :
- Đúng thế! Để ngươi khỏi phải chối cãi mà thêm nhục chí trượng phu, ta bảo cho biết rằng chính Địa Thượng Song Lôi đã vô tình tiết lộ lai lịch Tứ Hải hội chủ của người đấy!
Trương Sĩ Hạo giận run, song cố trấn tĩnh tìm cách bảo toàn sinh mạng.
Gã tự nhủ rằng, với bàn tay tả bọc thép, may ra sẽ bất ngờ đả bại và khống chế được Nam Cung Giao, dùng làm mộc thoát thân. Thắng trận đấu năm ngoái, họ Trương biết rõ công lựcđối phương kém xa mình, chỉ thắng nhờ bộ pháp ảo diệu.
Sĩ Hạo ngạo nghễ nói :
- Chuyện Tứ Hải hội ta chẳng chối làm gì, nhưng nếu ngươi có dám cùng ta tái đấu hay không? Ngày ấy, ngươi dùng quỷ kế nên ngươi mới chiếm được thượng phong, chứ thực ra bản lãnh còn kém ta vài bậc!
Nam Cung Giao nghiêm giọng :
- Ta vốn luyến tiếc cho một kẻ tài hoa xuất chúng, nhưng ngươi lại nhẫn tâm giết hại cả cột trụ của giang sơn là Tổng Trấn Quân Vụ Vương Trung Hưng. Vì vậy, đêm nay ta quyết lấy đầu của ngươi đấy.
Nói xong, chàng rút kiếm, lướt đến tấn công ngay.
Sau hơn tháng cùng mẫu thân hợp lực nghiên cứu Trường Hồng kiếm kinh, kiếm pháp của Nam Cung Giao đã tinh thục hơn trước bội phần.
Hai mẹ con đều thông minh hơn người, dung hòa cả hai pho Trường Hồng, Lạc Điểu làm một, mỗi chiêu đều giữ nguyên hình thức, kiếm ý, song hoàn mỹ hơn trước.
Giờ đây, Nam Cung Giao thi triển chiêu Bách Điểu Tranh Thanh trong Lạc Điểu kiếm pháp, kiếm kình rít gió tựa ngàn tiếng chim, và kiếm ảnh lấp loáng dưới ánh trăng, thập thò những mống cầu vồng sáng bạc.
Trương Sĩ Hạo cũng dồn toàn lực vào chiêu Bạch Liên Toàn Tiếu, y phục trắng muốt hòa với kiếm thành đóa sen nở rộng, đổi đòn với đối thủ.
Đà tiến của chiêu Ngự Kiếm này rất mãnh liệt, nếu Nam Cung Giao dùng Hư Ảnh Thần bộ mà né tránh, thì gã đã lướt xa, thoát khỏi chiêu thứ hai của chàng.
Nhưng lần này Nam Cung Giao ngang nhiên chống cự. Tiếng thép chạm nhau gay gắt, và Sĩ Hạo rú lên đau đớn vì chót mũi và gò má phải bị hớt đứt!
Nếu không có bàn tay tả bọc thép che chắn tâm thất thì ngực gã cũng thủng rồi!
Sau chiêu đầu, họ Trương đã nhận ra công lực đối phương còn cao hơn mình, lòng vô cùng khiếp sợ. Nhưng dung mạo bị tàn phá, gã không còn thiết sống nữa, điên cuồng xông vào đổi mạng.
Gã yêu quí, say mê vẻ anh tuấn thần thánh của mình, nên giờ đây hoàn toàn sụp đổ.
Dũng khí của kẻ liều mạng thật đáng sợ, nhất là khi kẻ ấy là một kiếm thủ thượng thừa như Sĩ Hạo!
Gã bất cần thân thể, công nhiều hơn thủ, khí thế cực kỳ hung hãn và ác liệt.
Nhưng giờ dây, bản lãnh Nam Cung Giao đã cao hơn đối phương đến vài bậc, cả về công lực lẫn kiếm thuật.
Chàng ung dung giải phá những chiêu kiếm vũ bão của họ Trương, mỗi lần phản kích đều lưu lại vết thương trên người Sĩ Hạo.
Đối phương dùng bàn tay thép bảo vệ mặt cổ, ngực, bụng rất chắc chắn nên khó thọ trọng thương. Những thương tích ở cánh tay và đùi thường không đáng kể.
Nhưng vấn đề ở chỗ là máu chảy ra rất nhiều và mang theo sức lực.
Sĩ Hạo tấn liền hơn trăm chiêu mà không chạm được đến khéo áo đối thủ, ngược lại còn bị trúng đến tám chiêu kiếm, lòng vô cùng chán nản!
Trong hoàn cảnh tuyệt vọng này, họ Trương chẳng cam tâm chịu chết, bất ngờ bỏ cuộc, lao ngược về phía Lưu Cát và Thanh Hoa đại sư
Trụ trì chùa Đại Báo Ân đạo hạnh cao thâm, kinh kệ làu thông, nhưng chỉ biết có vài đường quyền dưỡng sinh.
Còn bản lãnh của Lưu Cát thì cũng khá, song không thể đỡ nổi chiêu kiếm quyết tử của họ Trương.
Lưu tổng bộ đầu vội cử đao, hợp lực cùng bốn gã công sai đứng bên, xông ra chặn đường Sĩ Hạo, bảo vệ Thanh Hoa đại sư.
Nếu để Sĩ Hạo kê kiếm vào cổ Thanh Hoa, bắt làm con tin thì nguy to!
Nhưng Lưu Cát lại quên rằng mình cũng là một con tin rất đáng giá.
Năm thanh đao vừa chạm vào luồng kiếm quang dầy đặc quanh người họ Trương, lập tức bị dạt ra, và Sĩ Hạo xấn tới đưa tay tả khóa chặt lưỡi đao của Lưu tổng bộ đầu, thọc mũi kiếm vào ngực lão
Lưu Cát rụng rời chân tay trước diễn biến b
pass to joine phim : Kim_Bang_2
longnu
Múi Mít
Múi Mít
 
Tiền: $122,632
Posts: 1046
Joined: 14 Mar 2005
Location: đến từ nơi xa lắm
 
 

Postby longnu » 08 Apr 2005

14...
Tiếu Ngạo Trung Hoa Nguyên tác : Ưu Đàm Hoa




Hồi 14 Lư Châu phùng si nữ
Hoàng Ưng tảo quần Hồ
Trung Hoa là đất nước có lãnh thổ rộng lớn, mùa xuân từng bước đi từ Nam lên Bắc, và khí hậu cũng lạnh dần theo.
Tháng ba, ở Hoa Nam đã chớm hạ, nhưng Bắc Kinh vẫn còn xuân. Và con một điều nữa là càng xa biển càng rét mướt!
Trưa mùng hai tháng ba, thầy trò Nam Cung Giao đến thành Hợp Phì, cách Nam Kinh sáu trăm dặm về hướng Tây.
Thời Tống, Hợp Phì có tên là Lư Châu! Nơi đây thành thị chỗ chôn nhau cắt rốn của một nhân vật lịch sử rất lừng danh là Bao Thanh Thiên!
Thuở ấy, kinh đô nhà Bắc Tống đặt ở Khai Phong, tức thành Biện Lương, nằm cạnh bờ sông Hoàng Hà!
Bao Chửng được phong Hàm Long Đồ Đại Học Sĩ, chấp chưởng Phủ Doãn phủ Khai Phong.
Tài xử án của họ Bao lẫy lừng kim cổ, khi chết được hậu thế lập đền thờ.
Ở Khai Phong có một đền và tại quê hương có cái thứ hai. Chẳng những thế con đường có miếu của họ Bao tọa lạc cũng được mang tên ông. Đấy là do bách tính đặt ra cho dễ nhớ, chớ thường thì các triều đại Trung Hoa cổ không có thói quen dùng tên danh nhân để đặt tên đường xá hoặc đô thị!
Tại sao lại phải nhắc đến Bao Chửng ở đây? Vì đối diện miếu thờ họ Bao, trong thành Hợp Phì, có một tửu quán rất nổi tiếng mang tên Bao Gia đại tửu lâu.
Nghĩa là nó thuộc về con cháu của Bao Công. Có lẽ vì nhờ danh tiếng của tổ phụ nên quán nhậu này rất đắt khách! Và giờ đây, nó được vinh dự tiếp đón chàng trai họ Nam Cung của chúng ta, cùng hai gã thủ hạ!
Được hóa thân làm người khác là niềm vui khó tả, do vậy, đám nhi đồng rất khoái mang mặt nạ.
Nam Cung Giao, một gã đàn ông mang bản chất trẻ thơ, tận dụng món đồ chơi ưa thích là bẩy chiếc mặt nạ da người.
Hôm nay, chàng đóng vai một hán tử tứ tuần thô mỹ, mày rậm, mũi ưng, râu mép xanh rì, da mặt sần xùi, kha khá giống cường sơn, thảo khấu.
Trịnh Tháo đã dùng thuốc mầu dặm thêm rất kỷ, nên dù ai tinh mắt cách mấy cũng không phát hiện nổi giả chân!
Ba người chậm rãi ăn uống. Nhâm nhi chén rượu đặc sản của giòng họ Bao!
Bao Chửng chưa hề nổi tiếng sành rượu, sành ăn, thế mà con cháu lão lại phát tài bằng nghề ăn uống, quả cũng là lạ.
Nam Cung Giao bâng khuâng nhìn sang bên đường, quan sát miếu thờ Bao Chửng! Các bậc trung lương, hiền tài, khi chết đi, đều được phong làm phúc thần. Đền thờ của họ là chốn để bách tính đến cầu khẩn khi đau ốm, khó khăn. Do vậy, dù không phải ngày sóc vọng, miếu của Bao Công cũng nghi ngút khói hương, lác đác người ra kẻ vào.
Chùa và miếu là hai nơi kinh doanh ngành quán trọ đầu tiên trong lịch sử Trung Hoa, có trước cả dịch trạm.
Ngoài chính Điện để thờ cúng, chùa miếu còn có những công trình phụ dành cho tín đồ phương xa nghỉ lại.
Các chàng học trò nghèo thường trọ ở chùa, miếu để dồi mài kinh sử cho rẻ và yên tĩnh. Khách lỡ độ đường, và hầu bao quá nhẹ, cũng tìm đến các chùa hay miếu.
Nam Cung Giao nhãn lực tinh tường thoáng nhận ra một vóc dáng quen thuộc trên sân gạch của miếu thờ họ Bao.
Người này chắp tay sau lưng đi lại. Ngắm nghía những cành mai nở rộ.
Mùa xuân vùng Trung Hoa đến khá âm thầm vì tết Nguyên Đán đã qua từ lâu.
Nhân vật tao nhã ấy là một lão già tuổi lục tuần, trường bào vải xanh mộc mạc, không đeo vũ khí trông rất hiền lành.
Nhưng Nam Cung Giao đã nhận ra lão ta là một trong những hộ pháp của Hồ bang. Chàng nhìn thấy đối phương chỉ một lần khi đột nhập Ngọc Lan Cốc để cứu Tử Phượng.
Nam Cung Giao dặn dò hai thủ hạ, gởi kiếm và hành lý cho họ, rồi rời tửu lâu đi sang miếu để kiểm chứng, cuối cùng xác định rằng mình chẳng hề lầm.
Chàng trở lại bàn rượu, cau mày bảo Trịnh Tháo, Trịnh Mãng :
- Chẳng lẽ Hồ bang biết Sở Nhu là vợ của ta, và định tấn công Sở Gia trang, bắt gia Nhạc mẫu để uy hiếp?
Trịnh Tháo bàn rằng :
- Sự đời bất trắc, khó mà lường được! Công tử cứ đến Sở Gia trang trước anh em thuộc hạ sẽ trà trộn vào miếu để giám sát hành vi của đối phương. Có tin gì, Trịnh Mãng sẽ về báo lại ngay!
Nam Cung Giao đồng ý, xuống lầu lên ngựa phi về hướng Đông Thành.

Chưa gặp con rể lần nào, song Sở mẫu đã nhận thư của các con nên biết việc mình có chàng rể tên gọi Nam Cung Giao.
Sở Gia trang trông tươm tất, khang trang hơn nhà của hai gã họ Trịnh, và cũng đông đúc hơn.
Trên sân trước, một lũ tiểu đồng áo bông sáu bẩy đứa, đang nô đùa vui vẻ.
Thấy có khách dừng cương nơi cổng bọn chúng chạy ùa ra xem, và sợ hãi trước bộ mặt cô hồn của gã đàn ông cao lớn.
Một đứa chạy ngược vào nhà gọi mẹ!
Lát sau, vợ của Sở Tích Vũ ra đến.
Nam Cung Giao đoán thế vì nghe kể nàng dâu thứ ba nhà họ Sở tuổi chỉ độ hai mươi bốn, có nốt ruồi duyên trên miệng, tên gọi Từ Thanh Phụng.
Chàng vòng tay nói :
- Tiểu đệ là Nam Cung Giao, xin bái kiến đại tẩu!
Nữ nhân giật mình bối rối :
- Các hạ có gì để chứng minh điều ấy?
Nam Cung Giao mỉm cười, đưa ra một chiếc hỏa tập bằng đồng rất tinh xảo. Đây là sản phẩm đặc biệt do Xảo Xảo thư sinh Sở Nam Vu làm ra để tặng Sở Nhu.
Để xóa tan sự nghi hoặc, chàng hạ giọng nói :
- Sở Nhu cổ hai nốt ruồi son trên đùi trái, chẳng hay đại tẩu có nhớ hay không?
Thanh Phụng với Sở Nhu cùng trạc tuổi nên rất thân cận, biết được dấu vết kín đáo này. Nàng cố nén tiếng thở dài, thầm thương cho em chồng lấy phải người chồng thô mãng, xấu xí!
Từ Thanh Phụng hờ hửng nói :
- Mời Tứ muội phu theo ta vào trong bái kiến Lão thái!
Bọn trẻ đã sớm chạy vào ton hót rằng có Tứ cô trượng đến thăm, nên Sở lão phu nhân và hai nàng dâu kia đã chờ sẵn nơi khách sảnh!
Sở lão thái tuổi đã bảy mươi hai, buồn vì chồng bị giết nên tóc bạc trắng như sương, song ánh mắt vẫn sáng rực và đầy vẻ uy nghiêm.
Nam Cung Giao quì xuống, cẩn thận lột mặt nạ ra, rồi nói :
- Tiểu tế ra mắt nhạc mẫu!
Sở Lão Thái thấy con rể nghi biểu đường chính, tuấn tú, hoan hỉ cười bảo :
- Hiền tế hãy bình thân! Ngươi cải trang khiến lão thân phải một phen hú vía, tưởng rể của mình là tướng cướp!
Cuối canh hai, Trịnh Mãng đến Sở Gia trang báo tin :
- Bẩm công tử! Mục tiêu của Hồ bang không phải Sở Gia trang, mà là Hoàng Ưng bảo, dưới chân núi Ưng Phong, cách cửa Bắc Thành độ mười dặm!
Dường như Hồ bang đã dốc toàn lực lượng đến đây, có cả Quỷ Côn và Bang chủ Sài Tuấn!
Nam Cung Giao tư lự, nhớ đến gương mặt rắn rỏi, kiên nghị của Hoàng Ưng bảo chủ Tổ Nam Phi, người đã thượng đài tranh giành Thần Nữ Tiền Vân Mi, bị Khương Thư Hàn dọa khiếp nên phải bỏ cuộc!
Tục ngữ có câu “Anh hùng tương thức”, Nam Cung Giao thấy mến cốt cách của Tổ Nam Phi, quyết định đến Hoàng Ưng bảo giúp đỡ một tay!
Chàng vào trong cáo từ Sở lão Thái, nhân dịp nêu lên thắc mắc :
- Bẩm Nhạc mẫu! Chẳng hay Hoàng Ưng bảo sở hữu vật báu gì mà lại kích động lòng tham của Hồ bang!
Sở lão Thái đăm chiêu một lát rồi đáp :
- Bẩy năm trước, lão Bảo chủ Tổ Kỳ Long tình cờ nhặt được một thanh cổ kiếm có hình dạng và kích thước của loại trường kiếm thời chiến quốc. Do bị chôn vùi lâu năm, vỏ bị rỉ sét, dính chặt vào lưỡi kiếm. Tổ Kỳ Long liền mang đến đây, nhờ Tiên Phu lấy ra giùm. Té ra, đấy chính là Thanh Thần Kiếm Thái A lừng danh cổ kim! Giòng họ Tổ chuyên về đao pháp nên chỉ giữ lấy làm bảo vật gia truyền chứ không sử dụng. Có lẽ Hồ bang biết được việc này nên đến chiếm đoạt?
Nam Cung Giao bán tín bán nghi vì Sài Tuấn cũng là một đao thủ, đâu cần thần kiếm làm gì? Chàng không nói ra nghi vấn ấy, bái lạy nhạc mẫu để cáo biệt.
Chàng sẽ ngược Bắc luôn chứ không quay lại nữa.
Sở Lão Thái nghiêm giọng :
- Giao nhi! Hoài Giang Thần Thương Tần Dũng Nhuệ còn giữ của nhà họ Sở một số bảo vật, con hãy đến đấy mà lấy lại! Lão thân tặng hết cho người, xem như lễ hồi môn của Sở Nhu.
Bà sai con dâu trưởng lấy văn phòng Tứ bảo, thảo nhanh một phong thư trao cho Nam Cung Giao.
Chàng nhận lấy, thu xếp hành lý, cùng Trịnh Mãng rời thành Hợp Phì, phi ngựa về hướng Ưng Phong!
Lúc trưa, Nam Cung Giao đã dâng tặng Sở lão thái ba ngàn lượng vàng để tỏ lòng hiếu kính. Tất nhiên, cử chỉ rộng rãi này đã khiến bà lão và cả nhà hết lòng yêu mến chàng rể quí!
Gần giữa canh ba, Nam Cung Giao còn cách Hoàng Ưng bảo nửa dặm thì gặp Trịnh Tháo.
Gã đã bám theo bọn Hồ bang đến đây!
Trịnh Tháo cười hỏi :
- Chắc công tử định nhân dịp này mà vào Hoàng Ưng bảo hốt của! Nhà họ Tổ giầu có nhất nhì phủ Huy Châu này đấy!
Biết gã nói đùa, Nam Cung Giao cười khà khà :
- Cần gì phải làm trò trộm cắp cho mệt? Chúng ta cứ giúp Hoàng Ưng bảo đánh đuổi Hồ bang, sau đó muốn bao nhiêu mà chả được? Nếu Tổ Nam Phi có em gái, chị gái không chừng sẽ gả cho ngươi đấy!
Trịnh Mãng nhăn nhó :
- Nghe nói cố Bảo chủ Tổ Kỳ Long có người thiếp cực kỳ xinh đẹp, năm nay tuổi mới gần bốn chục. Hay là công tử lấy quách mụ ta cho đủ bộ Cẩn Nhục Thất Bảo? Bọn thuộc hạ sợ bị kìm kẹp nên đã thề không lấy vợ!
Nam Cung Giao phì cười :
- Đừng nói nhăng nữa, đi thôi!
Ba người giấu ngựa rồi tiến về phía Hoàng Ưng bảo.

Bảo là một dạng kiến trúc khá đặc biệt, khác với Gia trang, vì xem nhẹ phần thẩm mỹ mà chú trọng đến phương diện phòng thủ!
Trung Hoa loạn lạc liên miên, những dòng họ giầu có đã tự bảo vệ bằng cách xây dựng nhà cửa chen chúc trong bốn bức tường kiên cố.
Bảo chính là một loại thành nhỏ có tường xây bằng đất, hoặc gạch nung, cao đến ba trượng, trên có dịch lâu để quan sát, canh phòng.
Hoàng Ưng bảo đứng sừng sững dưới ánh sao đêm, trông như một nhà tù bằng đá vĩ đại. Trên dịch lâu thấp thoáng ánh đèn lồng của bọn tráng đinh gác đêm, nhưng chỉ là hình thức vì vùng không gian quanh bảo tối đen như mực.
Và từ trong bóng đêm, phe Hồ bang bắt đầu cuộc tấn công của mình.
Bốn chục gã Hắc y khiêng một thân cây dài ba trượng đường kính hai gang, chạy hết tốc lực, công phá cửa Bảo.
Hai cánh cửa gỗ dầy, đai sắt, cao hơn trượng, không chịu nổi cú đập mấy ngàn cân, gẩy thanh ngang, mở toang ra ngay.
Chiêng báo động gõ vang trời nhưng đã quá muộn vì quân Hồ bang tràn qua cửa Bảo như thác lũ!
Trong chiến tranh, yếu tố bất ngờ có vai trò quan trọng hàng đầu. Vì vậy người trong Bảo hoàn toàn bị động. Họ nhếch nhác trong bộ áo ngủ, xách đao chạy ra, tinh thần thì hốt hoảng ngỡ ngàng.
Đuốc của cả hai phe được đốt lên sáng rực, soi rõ giòng máu tuôn ra từ những vết thương, nhận diện chủ nhân của những tiếng thét lìa đời bi thảm.
Tiếng kêu rên, quát tháo, hòa cùng tiếng thép chạm nhau ghê rợn tạo nên cảnh tượng của một đấu trường đẫm máu.
Nam Cung Giao cùng hai gã họ Trịnh đã trèo lên nóc dịch lâu, trên cổng Bảo, quan sát cuộc chiến.
Chàng nghe thoang thoảng có tiếng khóc ré của một đứa bé nào đó, liền chạnh lòng thương xót, dẫn hai thủ hạ lướt nhanh trên đỉnh tường, tiến về phía trong.
Bọn môn nhân Hoàng Ưng bảo đã xuống cả dưới sân để kháng địch nên trên này chẳng còn ai ngăn cản bước hay hỏi han khách lạ.
Vào đến trọng điểm của đoạn tường phía Đông, Nam Cung Giao nghe rõ tiếng khóc thất thanh của lũ trẻ con, ở khu trung tâm Bảo, liền nhảy xuống đất, chạy về hướng ấy.
Nhà cửa trong Hoàng Ưng bảo được xây cất trật tự dọc những con đường rộng hai mươi bước chân, lót đá phẳng phiu.
Giờ đây, trên những con đường ấy tràn ngập bọn Hắc Y. Chúng đang cố tiến về phía tòa đại sảnh ở giữa Bảo, nơi cư trú của gia đình Bảo chủ Tổ Nam Phi.
Ngược lại, đệ tử giòng họ Tổ cũng ráng sức ngăn cản bước tiến của quân thù. Vì tòa đại sảnh hai tầng đồ sộ kiên cố kia là nơi tập trung đàn bà, con trẻ, những lúc có biến.
Tất nhiên, tài sản của Hoàng Ưng bảo cũng được cất giữ trong ấy!
Trên đường đi bọn Nam Cung Giao tiện tay chém giết bọn đao thủ Hồ bang, giúp cho những toán môn nhân lẻ loi bên ngoài phòng tuyến chính, chung quanh đại sảnh.
Từ ngày thoát chết dưới vực sâu Duyên Sơn, lòng nhân hậu của Nam Cung Giao càng rộng rải hơn. Khi đứng trước ngưỡng cửa của tử sinh, dọn mình chờ chết, chàng đã thức ngộ được nhiều điều trong đạo lý nhân sinh.
Chàng yêu biết bao nhiêu cuộc đời này, thì kẻ khác cũng vậy! Do đó, trừ những kẻ thù kỳ hung cực ác, thường thì chàng chẳng muốn giết ai cả!
Với công lực hiện tại, trình độ kiếm thuật của Nam Cung Giao cao siêu hơn xưa vài bậc, khiến tùy tâm nhi phát, nhanh và cực kỳ chuẩn xác, chỉ một hai thế thức chàng đã điểm hoặc hớt đứt gân vai cánh tay cầm đao của đối phương!
Khả năng hành ác không còn, may ra, chúng sẽ trở về với cuộc sống thiện lương!
Anh em họ Trịnh thì khác hẳn, thứ nhất là do họ không đủ bản lãnh để làm như thế trong giao đấu, nương tay với kẻ thù là tự hại mình. Thứ hai, bản chất của hai gã rất hung hãn và tàn nhẫn.
Nam Cung Giao đã tận tình chỉ điểm thêm kiếm pháp, và dạy cho hai thủ hạ pho Hư Ảnh Thần Bộ. Vì vậy, giờ đây, võ công của Trịnh Tháo và Trịnh Mãng cũng lợi hại hơn trước bội phần!
Niềm vui lớn nhất của người võ sĩ là thấy bản lãnh mình tăng tiến rõ rệt. Nay được Nam Cung Giao hết dạ tài bồi, hai gã hung thần vô vàn cảm kích, tôn thờ chàng như sư phụ.
Ba người sánh vai tiến lên với khí thế chẻ tre, để lại sau lưng những thi thể không còn lành lặn.
Tiếng kêu than ai oán của đám đao thủ Hồ bang khiến lòng Nam Cung Giao bất nhẫn, chàng liền tung mình lên nóc nhà, đi trên mái ngói để tránh việc giao tranh.
Hai gã họ Trình cũng vội theo hầu!
Nhà cửa trong bảo xây dựng thành dãy cách nhau chỉ chừng một đến hai trượng, chẳng thấm thía gì so với sức nhảy xa của những cao thủ giỏi khinh công.
Không có ai cản lối, bọn Nam Cung Giao mau chóng tiến được trận địa khốc liệt nhất là khu trung tâm.
Tòa đại sảnh hai tầng, trụ sở chính của Hoàng Ưng bảo, được vây quanh bởi một vòng sân gạch rất rộng, và giờ đây, người trong Bảo đã lập phòng tuyến dầy đặc trên mảnh sân ấy.
Điểm lợi hại của chốt phòng thủ trọng yếu này nằm ở hàng lan can lầu.
Từ đây, các cung thủ Hoàng Ưng bảo rải mưa tên xuống đầu phe đối phương.
Do vậy, họ tạm thời ngăn được bước xâm nhập của quân thù.
Thầy trò Nam Cung Giao ngồi xuống mái ngói quan sát cuộc hỗn chiến. Chờ cơ hội giáng đòn sấm sét vào bọn đầu sỏ Hồ bang! Chỉ cần diệt trừ được Sài Tuấn là cuộc chiến sẽ kết liễu ngay.
Lúc này, họ Sài đang đấu với Hoàng Ưng bảo chủ Tổ Nam Phi!
Nam Cung Giao nhận ra gã nhờ dáng vóc và đao pháp Câu Trần, vì Sài Tuấn cũng bịt kín đầu như thủ hạ!
Theo lời tiết lộ của Đinh Tử Phượng thì Sài Tuấn được Hồ Ly song tiên cho uống kỳ trân dị dược. Sở hữu đến hơn bốn mươi năm chân khí.
Gã lại thông minh tuyệt thế, gân cốt thuộc hàng thượng phẩm nên học một biết mười, đao pháp linh diệu chẳng kém gì Song tiên. Không những thế Sài Tuấn còn tham luyện một loại công phu thần bí dường như là sở học gia truyền của giòng họ Sài, ngay Tử Phượng cũng không biết chính xác tên gọi và nội dung. Nàng chỉ hiểu đại khái rằng công phu tà môn ấy, liên quan đến chất độc. Giờ đây có lẽ đã đại công cáo thành nên Sài Tuấn mới xuất chinh, dẫn quân đến Hoàng Ưng bảo!
Nam Cung Giao đã tìm hiểu Câu Trần Chân Kinh, nhưng không vì thế mà hoàn toàn chiếm được thượng phong, bởi chàng chẳng phải là đao thủ.
Trong bí kíp có chép rõ khẩu quyết của bẩy mươi hai chiêu đao căn bản, song trong khi giao đấu, những chiêu thức ấy biến hóa, hòa huyện vào nhau thành hàng ngàn chiêu. Chàng chỉ có lợi thế khi Sài Tuấn thi triển phép Ngự Đao, tôn trọng đủ các thế thức trong chiêu gốc.
Do vậy, lúc này Nam Cung Giao say mê thưởng thức tài nghệ của họ Sài, cố nắm bắt được tinh túy trong đấu pháp. Chỉ sau ngàn chiêu, chàngsẽ moi sạch vốn liếng của đối phương,không phải để sử dụng mà để chế ngự Câu Trần đao pháp.
Thanh bảo đao của Sài Tuấn loang loáng dưới ánh đuốc, đao ý cực kỳ xảo diệu và độc ác, hoàn toàn áp đảo Hoàng Ưng bảo chủ.
Song có lẽ Tổ Nam Phi vì cuộc phó ước với Khương Thư Hàn mà dày công khổ luyện nên bản lãnh tiến bộ hơn xưa. Gã ngoan cường chống trả kịch liệt, chẳng hề chịu khuất phục.
Hoàng Ưng đao pháp của giòng họ Tổ cũng là tuyệt học lẫy lừng tứ hải chứ chẳng phải tầm thường. Hai thanh đao chạm nhau tóe lửa, đòn nào cũng mãnh liệt và nhanh tựa sao băng!
Tổ Nam Phi mang bản chất anh hùng hiệp sĩ, hào khí ngút trời xem thường sanh tử, nhờ vậy thêm sức mạnh mà cầm cự, dù bản lãnh kém họ Sài một bậc!
Thêm vào đó, Tổ Nam Phi được sự hỗ trợ của một tay thần sạ trên lan can lầu. Thỉnh thoảng, người này buông một mũi tên thần tốc vào người Sài Tuấn.
Dĩ nhiên họ Sài phải chống đỡ hoặc né tránh nên bị phận tâm, tạo cơ hội cho Hoàng Ưng bảo chủ phản kích.
Chiến thuật phối hợp này được áp dụng cho hầu hết những cặp tử đấu khác, và rất có hiệu quả.
Không thấy bóng dáng khôi vĩ của Quỷ Côn Đường Cổ Ngư, Nam Cung Giao thầm lo ngại, biết rằng lão đang chỉ huy mủi tấn công hướng Tây hoặc hướng Đông.
Thực ra, tuy họ Đường chỉ là Phó bang chủ, song với thần lực kinh nhân, lão còn lợi hại hơn cả Sài Tuấn.
Nếu phe Hoàng Ưng bảo không có ai ngăn nổi bước chân của Quỷ Côn thì phòng tuyến hướng ấy sẽ vỡ ngay.
Nghĩ đến thủ đoạn cướp sạch, giết sạch mà Hồ bang đã thực hiện đối với đoàn sứ thần. An Nam năm nào, Nam Cung Giao chợt lo lắng cho đám đàn bà trẻ con trong đại sảnh.
Thế trận ở phía sân trước có vẻ khá quân bình, chưa thể ngã ngũ ngay được, Nam Cung Giao quyết định tìm Quỷ Côn mà trừ khử hắn!
Chàng cùng hai gã họ Trình chuyền mái ngói, tiến sâu vào trong theo hướng Tây của đại sảnh.
Quả nhiên, lão quỷ Đường Cổ Ngư đang tung hoành ở chốn này.
Tuy nhiên, họ Đương đã bị cầm chân bởi một đối thủ rất quái dị và thú vị.
Người này là nữ nhân tóc dài rối bời, mặt mũi lem luốc, y phục trắng nhàu nát và thiếu chỉnh tề. Cụ thể là nàng ta không có giải thắt lưng nên vạt áo mở toang, để lộ yếm đào bó sát cặp nhũ phong rất lớn, gấp rưỡi người thường!
Vũ khí của nàng là một thanh kiếm hơi ngắn, tỏa ánh thép rực rỡ, có lẽ chính là thanh Bảo kiếm Thái A.
Thần vật này quả là danh bất hư truyền, ngang nhiên va chạm với Thiết Côn mà không gẩy, và còn hớt đứt vài mẩu thép trên đầu ngọn côn của họ Đường!
Thân pháp của nữ lang cực kỳ ảo diệu, phiêu hốt như ma mị, còn kiếm pháp thì bội phần đáng sợ.
Song dường như nữ lang này tâm trí bất thường, đang đánh nhau mà lại phá lên cười khanh khách.
Lúc ấy, chân khi dồn vào kiếm không đủ, rất dễ gặp nguy. Nếu không nhờ dám môn nhân Hoàng Ưng bảo liều chết đỡ đòn giùm thì nàng ta đã nát xác dưới đường côn của họ Đường.
Trên lan can lầu vọng xuống tiếng quát mắng thánh thót :
- Dung nhi! Con còn cười nữa thì mẫu thân đánh đòn đấy!
Cô gái điên le lưỡi tỏ vẻ sợ hãi, không dám cười lớn nửa, nhưng đôi môi vẫn nở hoa.
Trịnh Mãng tít mắt nói với chủ nhân :
- Công tử! Con bé điên kia có bộ ngực thật đáng nể, vừa to vừa tròn trịa, hiếm có trên đời.
Nam Cung Giao cười nhẹ :
- Ta bắt đầu nghi ngờ rằng ngươi cũng thường xuyên nhìn trộm mấy mụ vợ của ta rồi phê phán!
Trịnh Mãng sợ hãi biện bạch :
- Công tử chớ ngờ oan cho thuộc hạ! Đối với các phu nhân thì Mãng này một lòng tôn kính, dẫu nửa mắt cũng chẳng dám liếc nhìn.
Nam Cung Giao lạnh lùng dồn ép :
- Không nhìn sao ngươi biết ngực họ nhỏ hơn ả điên kia?
Trịnh Mãng bối rối trước cơn ghen bất tử của chàng, lúng túng nói :
- Thuộc hạ không nhìn nên đã nhận xét sai. Mong công tử lượng thứ cho!
Nam Cung Giao gật gù mỉm cười :
- Muốn biết đúng sai, chỉ có cách dắt luôn ả về nhà mà so sánh! Lúc ấy ta sẽ nhờ đến pháp nhãn của ngươi đấy!
Nói xong, chàng tung mình nhảy xuống đất, tấn công bọn Hồ bang, mở đường tiến vào trong.
Trịnh Tháo phì cười :
- Công tử nói đùa mà ngươi cũng sợ sao?
Trịnh Mãng ngượng ngùng đáp :
- Quả thực là tiểu đệ có lén ngắm nghía mấy vị phu nhân nên chột dạ, tưởng công tử đã phát hiện ra!
Trình Tháo phá lên cười :
- Ta cũng thế chớ có kém gì ngươi!
Hai anh em vui vẻ rời mái ngói, theo bước Nam Cung Giao.
Bị hấp dẫn bởi cái đẹp là bản chất của con người, chẳng ai kìm chế nổi.
Hai gã độc thân này cũng thế, có điều họ chẳng bao giờ dám nảy sinh lòng tà vọng đối với thê thiếp của chủ nhân. Không phải là lễ giáo, mà là đạo nghĩa giang hồ đã ước thúc lương tâm của họ.
Chẳng mấy chốc, anh em họ Trịnh bắt kịp Nam Cung Giao, vì chàng đã mở lối sẵn.
Lúc này, ba người còn cách xa Quỷ Côn hơn hai trượng.
Tiếng kêu la vì đau đớn hoặc sợ hải của bọn Hắc Y đã khiến Đường Cổ Ngư nóng ruột biết rằng cường địch đã sắp đánh vào đến nơi.
Nãy giờ, không hiểu vì lý do gì mà họ Đường lại nương tay với cô gái điên, song giờ đây, lão bắt buộc phải hạ sát thủ để rảnh tay, quay lại đối phó với ba gã mới đến kia.
Quỷ Côn vận công quát vang như sấm :
- Xơ!
Thì ra họ Đường cũng biết công phu Chấn Phủ Thần Âm của Câu Trần giáo!
Có lẽ, sau lần thọ thương dưới tay Nam Cung Giao, lão đã luyện thêm tà công này để nâng cao bản lãnh!
Nam Cung Giao không biết mà đề phòng, tất sẽ thất cơ!
Nhưng xui xẻo cho Quỷ Côn là đối phương may mắn hiện diện đúng lúc để phát hiện đòn độc của lão! Và chàng cũng hiểu ngay tình thế hiểm nghèo của nữ lang điên dại kia, tung mình đến cứu ngay.
Cô gái tội nghiệp này bị tiếng quát tấn công vào phế phủ, phổi co thắt lại, không thở được nữa.
Nàng yếu ớt vung kiếm chống đỡ chiêu côn mãnh liệt của đối phương, lập tức bị đánh bật ra, loạng choạng lùi lại, và sắp bỏ mạng dưới đường côn kế tiếp của họ Đường.
Tuy si ngốc, song là người luyện võ nên vẫn biết được việc mình đã hoàn toàn thất thế. Ánh mắt nàng lộ vẻ khiếp sợ. Theo bản năng, nàng cố phiêu thân né tránh một cách vô vọng!
Nhưng khi mũi côn của Đường lão quỷ chưa kịp chạm đến yếm đào thì đã phải rút về để đối phó chiêu kiếm của kẻ phía sau đầu.
Kiếm kình của đối phương chấn động không gian, tạo ra những tiếng nổ ầm như sấm dậy, không thể xem thường được. Nếu lão giết cô gái điên tên Dung nhi kia thì mạng già khó bảo toàn!
Quỷ Côn quay phắt lại, tung mình lên không trung, đón đầu gã kiếm thủ lạ mặt.
Lão phát hiện kiếm quang của đối phương lấp lánh ngàn giọt mưa sa và tua tủa những chiếc mống đáng ngại!
Nam Cung Giao đã cố tình xuất chiêu Tiền Bi Hậu Vũ rất ồn ào này để đánh động đối phương, khiến lão sợ mà bỏ mục tiêu trước mặt.
Côn kiếm chạm nhau loảng xoảng, trong lúc song phương cùng rơi xuống đất.
Nam Cung Giao đã dồn hết năm mươi năm công lực vào chiêu Tuyệt kiếm, lại có thế bất ngờ, chủ động nên chiếm được thượng phong.
Xét ra, công lực của chàng vẫn thấp hơn Đường lão!
Một trong những yếu tố khiến kiếm trở thành vua của các loài vũ khí là tính cương nhu hòa hợp. Những loại khác như đao, côn, thương, kích, chùy... đều chủ ở sự cương mãnh, kém phần biến hóa uyển chuyển, nhu hòa.
Đạo lý của trời đất là nhu thắng cương, nhược thắng cường. Nước gió tuy mềm mại nhưng bào mòn đá núi, giật sập cầu cống, nhà cửa. Những hiện tượng tự nhiên ấy là nền tảng cho Triết học của Lão Trang.
Côn sắt cứng rắn, nặng nề, lực đạo muôn phần mãnh liệt, nhưng không nhanh bằng kiếm!
Đường Cổ Ngư lại sai lầm khi rời mặt đất để tránh bị cô gái điên tập hậu.
Khi chân không bám đất, lão bị sức nặng của đường côn chi phối, lộ sơ hở rất nhiều. Và đối với một kiếm thủ thượng thặng như Nam Cung Giao thì như thế là quá đủ.
Mũi kiếm của chàng lập tức xuyên qua màn côn ảnh, trổ ba lỗ trên ngực đối phương, trước lúc lão đặt chân lên mặt đất.
Quỷ Côn nhờ xương cốt to lớn, cứng rắn đã cản bớt đà tiến của mũi kiếm nên chỉ thủng phổi chứ chưa tổn thương tim.
Lão đau đớn gầm lên, phóng côn sắt vào người Nam Cung Giao, rồi đào tẩu.
Quỷ Côn có công lực rất thâm hậu, dù trọng thương vẫn chạy như gió.
Nam Cung Giao nghiêng người né tránh, thiết côn bay vèo ra phía sau lưng chàng, đâm thủng ngực một gã Hồ bang xấu số.
Nữ lang điên loạn kia chạy đến níu áo chàng, cười toe toét :
- Tiểu muội là Tổ Vân Dung, xin cảm tạ đại hiệp đã cứu mạng! Mẹ kiếp, lão già ấy khó chơi thực, chỉ xém chút nữa là lão ta đã đâm thủng * của tiểu muội rồi!
Vừa nói, nàng vừa xoa gò ngọc nhũ nẩy nở của mình.
Nam Cung Giao phì cười :
- Thủng thế quái nào được! Không chừng côn sắt bị văng ngược trở lại gõ bể sọ lão già họ Đường ấy chứ!
Vân Dung tròn mắt ngơ ngác, lát sau chép miệng nuối tiếc :
- Nếu biết vậy thì tiểu muội đã để yên cho lão ta đánh trúng rồi! Không ngờ Ngọc Nhũ thần công lại lợi hại đến thế!
Thấy nàng ta điên hết chỗ nói, Nam Cung Giao ôm bụng cười ngất và nói :
- Ta nói đùa đấy, nàng mà tưởng thực thì có ngày toi mạng!
Vân Dung giận dỗi trách :
- Té ra đại hiệp cũng như bao người khác, luôn chế giễu tiểu muội!
Thấy nàng ứa nước mắt, Nam Cung Giao bất nhẫn, nói câu an ủi :
- Ta chỉ đùa cho vui chớ không có ý diễu cợt! Cô nương rất đẹp, và dễ mến!
Vân Dung nín khóc ngay, cười hỏi :
- Thế đại hiệp có chê ngực tiểu muội quá lớn hay không?
Nam Cung Giao cười khổ, ngượng ngùng đáp :
- Không! Chúng đẹp lắm!
Vân Dung hoan hỉ cười khanh khách, nhìn chàng bằng ánh mắt trìu mến :
- Đại hiệp quả là người sáng suốt, đáng mặt tri âm của tiểu muội. Chúng ta kết làm bằng hữu nhé!
Nam Cung Giao chột dạ than thầm :
- Bỏ mẹ rồi! Ả này mà vác hai trái bưởi kia bám theo ta thì nguy to!
Nhưng không nỡ làm đau lòng cô gái si ngốc đáng thương, chàng đành phải gật đầu :
- Tại hạ rất vinh hạnh! Nhưng chúng ta phải đánh đuổi xong phe đối phương đã!
Vân Dung mừng rỡ nắm taychàng chạy về phía tiền đình, vì mặt trận ở đây đã yên.
Khi Quỷ Côn thọ thương đào tẩu thì bọn thủ hạ cũng mất cả dũng khí, bị đẩy lùi rất xa!
Trên đường đi, Vân Dung hỏi tên ân nhân. Nam Cung Giao không hóa trang nên nói ra tên thực. Hơn nữa, chàng chẳng nỡ lừa dối cô gái bạc mệnh này!
Thực ra, Vân Dung rất đẹp, mắt phượng, mày ngài, mũi thẳng, môi đỏ hồng như đóa anh đào.
Nam Cung Giao đoán rằng nàng bị rối loạn tầm thần vì chính bộ ngực vĩ đại của mình!
Từ thời Tống về sau, nền nho học Trung Hoa đề cao lễ nghĩa, gò bó từng hành vi, cử chỉ của con người, nhất là tiết hạnh nữ nhân!
Thời Đường, y phục mỏng manh, hở hang, tôn vinh nét đẹp của thân xác. Nhưng đến thời Tống, Nguyên, Minh thì áo quần phải che kín tất cả.
Do vậy, việc được trời ban cho hai gò bồng đảo quá khổ đã khiến Vân Dung mang mặc cảm, lại thêm những lời chọc ghẹo của những người chung quanh nên nàng quẫn trí.
Nàng bị ám ảnh rằng lúc nào đôi * của mình cũng đập vào mắt người khác!
Nam Cung Giao đoán đúng một phần, vì còn có nguyên nhân khác nữa.
Bí mật ấy xin để lại hồi sau, giờ chúng ta quay về đấu trường phía trước xem sao!

Khi Nam Cung Giao và Tổ Vân Dung đến nơi thì Hoàng Ưng bảo chủ vẫn còn đứng vững, dù máu loang đầy áo ngủ.
Gã đã trúng đến sáu đao của Sài Tuấn, may mà không phạm vào gân cốt.
Lẽ ra Tổ Nam Phi đã bỏ mạng, song nhờ có hai quới nhân kịp thời xuất hiện, vây đánh đối phương.
Họ chính là Trịnh Tháo và Trịnh Mãng, nhân lúc Nam Cung Giao cù cưa với Vân Dung, chạy ra đây trước.
Anh em họ Trịnh hào hứng thi triển công phu mới học là Hư Ảnh Thần Bộ, chập chờn như hồn ma, đánh cho Sài Tuấn xấc bấc xang bang.
Vân Dung tuy si dại nhưng vẫn chưa đến mức quên bén người thân.
Thấy bào huynh bị thương, nàng vội chạy đến hớt hải nói :
- Đại ca hãy vào trong băng bó, để tiểu muội thay cho!
Tổ Nam Phi biết em gái mình bản lãnh cao cường, nhưng ngây dại, khóc cười bất chợt, chẳng kể gì đến việc đang giao đấu, nên nạt lớn :
- Lui ngay! Ai cho phép Dung muội ra đây?
Chính sự phân tâm này đã tạo cơ hội cho Sài Tuấn. Gã ập đến và quát vang như sấm :
- Suy!
Những lần trước, Tổ Nam Phi đều cảnh giác nhảy lùi, ngay khi đối phương há miệng, nhưng giờ vướng phải em gái sau lưng nên không thoát khỏi phạm vi ảnh hưởng của phép Thần Âm Chấn Phủ.
Hai anh em nghe vùng thận đau nhói, hai chân nhũn ra, chẳng còn chút khí lực nào cả.
Tổ Nam Phi kinh hoàng ném đao vào kẻ thù, ôm Vân Dung ngã xuống đất, cố lăn đi. Nhưng lưỡi đao đã rộng mở, chụp lấy họ.
Tổ Nam Phi trợn mắt nhìn cái chết bay đến.
Nào ngờ một đạo kiếm quang lấp loáng đã lướt qua người hai kẻ thất thế, đón lấy chiêu đao ác độc kia.
Tiếng thép ngân dài, kết thúc bằng tiếng rên ai oán của Sài Tuấn.
Gã đã bị Nam Cung Giao đâm thủng bụng và rạch xéo một đường trên ngực.
Anh em họ Trịnh vừa xông đến để kết liễu đời họ Sài thì gã đã bốc lên cao, tả thủ rải xuống một nắm độc châm nhỏ như sợi lông bò.
Nam Cung Giao vội múa tít thanh Lạc Điểu kiếm, che chắn cho bản thân và anh em họ Tổ.
Hai gã Trịnh Tháo và Trịnh Mãng thì sớm nhảy ra xa để tránh né.
Thế là Sài Tuấn đủ thời gian để đào vong. Gã phi thân ra cổng, miệng hạ lệnh rút lui.
Tiếng reo hò đắc thắng của mấy trăm môn nhân Hoàng Ưng bảo làm chấn động màn đêm tăm tối.
Ở đây, Tổ Nam Phi sững người nhìn gương mặt quen quen của ân nhân, quì xuống vái tạ :
- Không ngờ Nam Cung đại hiệp lại giá lâm chốn này để cứu cái mạng sâu kiến của tại hạ!
Nam Cung Giao vội đỡ gã lên, hiền hòa bảo :
- Đại nghĩa của kẻ cầm gươm là trừ gian diệt bạo, xin Bảo chủ chớ nói lời ân nghĩa làm gì?
Vân Dung cười khanh khách, xen vào :
- Đại ca! Chính Nam Cung đại hiệp cũng đã cứu tiểu muội, và đánh tan mũi tấn công hướng Tây của đối phương đấy! Chàng ta còn khen tiểu muội có đôi bầu * đẹp nữa!
Nam Cung Giao chết điếng người, mặt mũi đỏ gay vì hổ thẹn, chàng nói nên lời!
May mà Tổ Nam Phi lại nạt em gái rồi nói với ân nhân :
- Xin đại hiệp chớ chấp nhặt lời điên dại của gia muội! Năm mười bốn tuổi Vân Dung ra hậu sân chơi, tình cờ lạc vào một hang động, tìm thấy bảo kiếm Thái A và một lọ sành đựng linh đan. Con bé vì đói bụng nên đã ăn viên thuốc đó, công lực tăng tiến vượt bực, nhưng đầu óc rối loạn.
Nam Cung Giao nghe xong, vội cáo từ, không dám lưu lại thêm nữa.
Tổ Nam Phi nghiêm giọng :
- Nếu không có sự tương trợ của đại hiệp thì Hoàng Ưng bảo đã bị tiêu diệt. Phi tôi nguyện dâng tặng thần kiếm Thái A để đền ơn!
Nam Cung Giao thoái thác ngay :
- Cảm tạ tấm lòng của Bảo chủ, song tại hạ không quen dùng kiếm ngắn! Xin cáo biệt.
Dứt lời, chàng quay gót ngay.
Vân Dung cao giọng mời mọc :
- Đêm mai đại hiệp nhớ đến chơi nhé!
Nam Cung Giao không dám ậm ừ, đi thẳng một nước, cùng anh em họ Trịnh lên ngựa phi mau.



Hai ngày sau, bọn Nam Cung đến thành Hoài Nam, vào Tổng đàn Thần Thương hội bái kiến Hoài Giang Thần Thương Tần Dũng Nhuệ.
Việc Tần lão giết sư đệ, là Đoạt Hồn Thương Chu Toại, phải được giữ kín nên Nam Cung Giao đến đây với tư cách khác.
Chàng oai vệ nói với bọn võ sĩ gác cổng :
- Các ngươi hãy vào báo với Tần trang chủ rằng có người của phủ Nam Kinh Hình Bộ đến thăm!
Có một gã vẫn còn nhớ mặt chàng, vội khom lưng :
- Thì ra là Nam Cung đại nhân! Kính thỉnh người nhập trang!
Gã hướng dẫn thượng khách vào sảnh rồi chạy đi bẩm báo.
Lát sau, vợ chồng con cái họ Tần kéo cả ra.
Tần Dũng Nhuệ cười ha hả :
- Sáng nay chim khách hót vang trước nhà, nhưng không ngờ lại là ngọc giá của Nam Cung đại nhân!
Tần phu nhân thì đi bên cạnh và đỡ đần Bạch Thắng Tuyết, ra vẻ rất thương yêu.
Bạch nương phụp xuống lạy :
- Tiện phụ mừng được gặp ân công!
Nam Cung Giao gật đầu, nghiêm nghị hỏi lại :
- Nàng và các con có được đối xử tốt hay không?
Bạch nương thẹn thùng đáp :
- Bẩm đại nhân! Tần Thư rất yêu thương tiện phụ và ba đứa trẻ!
Tần phu nhân đắc ý tiếp lời :
- Đại nhân không tin thì cứ hỏi ba đứa bé kia! Chúng còn nhỏ chẳng bao giờ nói dối cả!
Nam Cung Giao cười mát, vẫy gọi :
- Long nhi hãy lại đây!
Cậu bé lon ton chạy đến nhìn chàng với ánh mắt thích thú, chẳng chờ hỏi đã nói ngay :
- Bẩm đại thúc! Đúng là đại Mẫu rất yêu thương gia mẫu và bọn tiểu điệt! Chỉ có điều là mỗi lần gia phụ đến phòng đều than rằng: “Lão phu vừa nạp xong mãi lộ cho Tần nương, gân cốt rã rời, nàng hãy đấm bóp cho ta!”. Tiểu điệt nghe nói, chỉ có cường đạo mới đòi mãi lộ, sao đại mẫu lại làm như thế?
Tần phu nhân xấu hổ đến mức chỉ muốn chui xuống đất, vì anh em họ Trịnh đã phá lên cười sằng sặc!
Bạch Thắng Tuyết vội nạt con :
- Long nhi chớ nói càn!
Nam Cung Giao tủm tỉm cười :
- Không sao! Long nhi cứ yên tâm! Ta sẽ tặng cha ngươi một toa thuốc quí, thừa sức nộp mãi lộ mà chẳng cần đấm bóp.
Gương mặt méo xệch của Tần lão tươi hẳn lên :
- Nếu được vậy thì lão phu xin đội ơn đại nhân!
Nam Cung Giao đứng lên, nghiêm giọng :
- Tại hạ có việc cần bàn với Trang chủ.
Tần Dũng Nhuệ vội đáp :
- Vậy mời đại nhân đến thư phòng!
Lão đi trước dẫn đường, ba người khách theo sau.
Tới nơi anh em họ Trịnh đứng ngoài gác cửa để hai người kia vào trong!
Cửa đã gài chặt Nam Cung Giao quì xuống, nhưng chỉ khụy một chân, ôm quyền bái một bái :
- Ngu điệt tế xin ra mắt Tần nhị thúc!
Nghi lễ bái lạy của người Trung Hoa cổ có đến chín hình thức. Tư thế mà Nam Cung Giao áp dụng có tên là Kỳ Bái, thường được giới võ sĩ ưa chuộng. Nó gần giống với lối thỉnh an của người Mãn Châu, nhưng không có động tác đập tay áo vào nhau.
Tần Dũng Nhuệ hiểu ra, cười khanh khách :
- Té ra ngươi là trượng phu của con bé Sở Nhu! Hãy đứng lên.
Nam Cung Giao bình thân trao thư của nhạc mẫu cho Tần lão.
Đọc xong, Dũng Nhuệ bước đến giá sách sát tường, lấy độ mươi quyển xuống, để lộ cửa tủ ngầm.
Di vật của Xảo Xảo thư sinh Sở Nam Vu là một túi da nai.
Tần Dũng Nhuệ đổ hết đồ vật ra mặt bàn, buồn rầu nói:
- Chỉ vì những bảo vật này mà lão phu mất đi một nghĩa huynh và một sư đệ!
Thực ra thì số di vật cũng chẳng nhiều, chỉ độ gần trăm viên Lam Bảo Ngọc, một quyển cổ mộ bí kíp, một chiếc vỏ bao chủy thủ bằng đồng đen, và một vốc những khoan sắt nhỏ đan với nhau.
Tần Dũng Nhuệ bốc đám khoen sắt có mầu đen bóng kia lên giũ thì nó lập tức biến thành một chiếc giáp không tay, có thể che kín từ cổ đến hết đan điền.
Họ Tần nghiêm giọng :
- Sở đại ca đã tốn mười năm trời để chế tạo ra chiếc áo Thiết Khuyên Giáp này. Nó cực kỳ bền chắc, chống lại cả những thanh thần kiếm thời thượng cổ, và làm giảm đáng kể lực đạo của những loại vũ khí nặng như chùy, phủ, côn...
Có bảo vật này, Giao nhi chẳng còn phải sợ ai nữa! Ngươi thử mặc vào xem sao!
Nam Cung Giao mừng rỡ cởi áo rồi đưa tay nhận lấy.
Chàng vô cùng ngạc nhiên vì bảo y nhẹ hẫng chứ không hề nặng nề như chàng đã ước lượng. Nó có dạng áo chui, cổ rộng khoét hình thuyền, mặc vào không khó.
May thay, nó rất vừa vặn với thân hình vạm vở của chàng.
Nam Cung Giao thử múa một đường quyền, thấy không hề bị trở ngại, hài lòng mặc áo ngoài vào.
Bảo vật này sẽ giúp chàng toàn mạng dưới tay Đông Hải thần tăng.
Nam Cung Giao sờ đến chiếc vỏ bao chủy thủ, phát hiện nó có vẻ vừa vặn với di vật của Trường Hồng kiếm khách, liền lấy ra thử.
Quả nhiên hai vật xa lạ kia vừa khít với nhau.
Tần Dũng Nhuệ hỏi :
- Lạ thực! Sao lại có sự trùng hợp như thế. Thanh chủy thủ kia ở đâu ra vậy?
Nam Cung Giao bèn kể lại chuyện mình rơi xuống vực thẳm Duyên Sơn!
Tần lão gật gù :
- Trên chiếc vỏ bao kia có khắc hàng ngàn chữ rất kỳ lạ, nét nhỏ tựa đầu kim. Chắc nó rất quí giá nên Sở đại ca mới trân trọng giữ gìn!
Hai người trò chuyện thêm một lúc rồi chia tay.
Bọn Nam Cung Giao vào thành tìm chỗ nghỉ ngơi. Thời gian còn dư dật, họ sẽ ở lại đây một ngày, sáng mai mới lên đường.
Hai gã họ Trịnh muốn ghé thăm bằng hữu là Cầu Nhiêm Tử Trầm Ngũ Lăng.
Ba người vào trọ trong Hoài Châu đại lữ điếm.
Ăn cơm trưa xong hai gã họ Trịnh đi tìm bạn, còn Nam Cung Giao đi dạo.
Vì tinh nghịch, chàng mang chiếc mặt nạ vào hóa thành một gã trai tơ, tuổi đôi mươi, dung mạo anh tuấn phi phàm!
Chi thủ thân bằng thanh chủy thủ nhỏ gọn, Nam Cung Giao chụp nón tre rộng vành lên đầu rồi rời lữ điếm.

Sông Hoài thường xuyên gây lụt lội, tuy hậu quả không tàn khốc như Hoàng Hà nhưng cũng khiến trăm họ Hoa Trung khốn khổ. Song cũng vì thế mà đất đai ở châu thổ này rất phì nhiêu, nhờ lớp phù sa mới.
Ngoài thành ruộng lúa mơn mởn, trong thành cây cối tốt tươi, che mát những con đường lót gạch nung rộng rãi.
Hoài Nam, trong lịch sử, chưa từng giữ vị trí quan trọng, nên không có những thắng tích nỗi tiếng.
Nam Cung Giao đi loanh quanh đến cuối giờ Mùi, nghe khát nước nên ghé vào Huy Châu Đệ Nhất Tửu Lâu.
Trời mát mẻ, chẳng cần thiết phải lên lầu hóng gió, chàng ngồi ngay tầng dưới.
Trước tiên, Nam Cung Giao giải khát bằng trà, sau gọi vò rượu để nhâm nhi với khô bò.
Vừa ngồi được một lát thì nghe xa xa vọng lại tiếng reo hò của lũ tiểu đồng, cùng tiếng cười hô hố đầy vẻ dâm đãng của đám nam nhân.
Đám đông ồn ào ấy từ hướng Nam tiến dần về phía tửu lâu. Và rồi, chàng giật mình khi nghe một giọng nữ nhân thánh thót gọi vang :
- Nam Cung đại ca! Nam Cung đại ca!
Tiếng gọi kia có gì đó đầy vẻ thê lương và tuyệt vọng, sợ hãi. Chàng vội rời bàn ra cửa quán nhìn thử, nhận ra Tổ Vân Dung trên mình ngựa, tóc tai, y phục đúng như lúc chàng gặp ở Hoàng Ưng bảo, nhưng lem luốc, dơ dáy hơn nhiều.
Vậy là nữ lang điên khùng này đã đuổi theo chàng ngay buổi sáng ấy, không hề mang theo hành lý và tiền bạc.
Hình dung nàng như thế, bảo sao không bị thiên hạ chọc ghẹo? Đám nhi đồng thì cho rằng nàng điên, còn bọn nam nhân thì dán mắt vào bộ ngực cực kỳ khêu gợi của Vân Dung!
Nam Cung Giao thoáng nghe lòng dâng lên nỗi xót xa, thương cảm cho thiếu nữ bất hạnh kia? Dù biết mình sẽ phải gánh nhiều phiền toái, chàng vẫn không thể trốn tránh Vân Dung.
Nam Cung Giao bước hẳn ra đường cao giọng gọi :
- Tổ cô nương!
Vân Dung nhìn thấy vóc dáng quen thuộc, mừng rỡ thúc ngựa chạy đến. Ánh mắt hân hoan chợt tắt lịm khi nàng nhìn thấy gương mặt lạ.
Nam Cung Giao vội trấn an :
- Tại hạ là nhị đệ của Nam Cung đại hiệp, có nghe gia huynh nhắc đến cô nương. Giờ tại hạ sẽ đưa cô nương đến gặp người!
Vân Dung cười tươi như hoa, nhưng lại đảo mắt liếc vào tửu lâu, nhăn nhó nói :
- Ta đói quá!
Nam Cung Giao mỉm cười :
- Thế thì chúng ta sẽ cùng ăn, mời cô nương hạ mã.
Thấy nữ lang kia đã tìm được người quen, đám đông liền giải tán.
Vân Dung hớn hở theo Nam Cung Giao vào tửu quán.
Đến bàn ăn, nàng không ngồi mà bật cười khanh khách :
- Ta mắc tiểu quá!
May mà quán rất vắng người, chỉ có vài lão già người địa phương tai nghễnh ngãng.
Nam Cung Giao cười khổ, nhờ tiểu nhị đưa nàng ta đi vào trong.
Hơn nửa khắc sau Vân Dung mới trở ra, tóc và y phục ướt nhem, chiếc yếm đào bó sát vào ngực, càng bội phần khêu gợi.
Nàng ngồi đối diện Nam Cung Giao, đặt thanh bảo kiếm Thái A trên đùi, khoan khoái nói :
- Tắm xong, thân thể mát mẻ, sạch sẽ, ăn mới ngon miệng được!
Nam Cung Giao đã gọi sẵn một mâm cơm thịnh soạn, định bới cho Vân Dung thì bị đối phương dành lấy.
Nàng vui vẻ nói :
- Việc này là của nữ nhân, hiền đệ hãy để ta làm! Ta chuẩn bị xuất giá nên phải tập làm cho quen.
Nam Cung Giao hồi hộp hỏi :
- Cô nương sắp xuất giá, sao còn bõ Hoàng Ưng bảo mà ra đi?
Vân Dung cười ngất :
- Nhị đệ ngu quá, phải đi tìm mới có được trượng phu mà kết hôn chứ!
Nói xong, nàng động đũa, ăn ngấu nghiến vì đói, song cử chỉ vẫn nề nếp, thanh tao. Xem ra, thuở nhỏ nàng được giáo huấn rất tốt.
Nam Cung Giao cũng ăn cho nàng vui, trong lòng miên man suy nghĩ cách thu xếp cuộc đời Vân Dung.
Xong ba chén, nàng buông đủa, rót trà mời mọc.
Nam Cung Giao ướm hỏi :
-Tại sao cô nương lại đi tìm gia huynh?
Vân Dung hồ hởi, tròn mắt kể lể :
- Đêm ấy, khi anh ngươi đi rồi, ta lăn ra ngủ, và nằm mộng thấy Bạch Y Đại Sĩ Quan Thế Âm Bồ Tát hiện ra, phán rằng: “Này Vân Dung, con vốn có duyên tiền định với họ Nam Cung, hãy mau đi lên hướng Bắc mà tìm y!”
Thế là ta trỗi dậy, lên ngựa đi ngay!
Nam Cung Giao rầu thúi ruột, gượng gạo biện bác :
- Trong thiên hạ thiếu gì người là họ Nam Cung? Nay y có đến năm vị phu nhân hung dữ như cọp cái, làm sao dám cưu mang cô nương được?
Vân Dung nghe xong bật khóc ngon lành :
- Ta cũng biết nhiều người họ Nam Cung! Song chỉ muốn lấy lệnh huynh mà thôi! Suốt mấy ngày nay, gương mặt và nụ cười của y lúc nào cũng ám ảnh ta!
Rồi nàng mỉm miệng cười tinh quái :
- Hay là nhị đệ thấy ta lúc điên lúc tỉnh nên không muốn nhận làm chị dâu? Giòng họ Tổ chẳng hề có máu điên, phần ta uống nhầm linh đan nên mới thế này! Gia sư bảo rằng ta chỉ cần lấy chồng là sẽ hết bệnh!
Nam Cung Giao chợt nhớ ra pho kiếm pháp ảo diệu mà nàng đã thi triển, liền tò mò hỏi :
- Chẳng hay lệnh sư là ai vậy?
Vân Dung hạ giọng, ra vẻ bí ẩn :
- Chỗ người nhà nên ta mới tiết lộ, gia sư xưa kia nổi tiếng võ lâm với danh hiệu Lạt Thủ Tiên Tử! Nay người đã xuất gia, ẩn cư trên đỉnh Đông của núi Ưng Phong.
Nam Cung Giao từng nghe Mộc Kính Thanh, tức Lâm Bảo Thoa, kể về mụ nữ Đại ma đầu này!
Chàng bâng khuâng ngắm gương mặt thanh tú, xinh xắn của Vân Dung, nhớ đến năm nữ nhân ở nhà mà bụng dạ rối như tơ vò!
Trước đây, chàng chưa hề từ chối mối nhân duyên nào nên biến thành kẻ đa mang. Hay đã gọi là duyên thì không tránh được?
Chàng đang phân vân thì Vân Dung lên tiếng :
- Sao hiền đệ lại nhìn ta với ánh mắt sỗ sàng như vậy?
Nam Cung Giao bật cười :
- Gia huynh thì nhiều vợ con tại hạ vẫn phòng không. Hay là cô nương lấy quách ta cho xong!
Vân Dung lắc đầu, ứa nước mắt :
- Dù hiền đệ quả là trẻ trung, anh tuấn hơn Nam Cung đại ca, nhưng ta thà trở về Hoàng Ưng bảo, giam mình trên thạch tháp chứ không chịu lấy ai khác!
Dứt lời, nàng đứng lên, định bỏ đi, miệng nghêu ngao một khúc hát buồn của đất Huy Châu!
Nam Cung Giao vội giữ lại :
- Nàng không muốn gặp gia huynh sao?
Vân Dung sững người :
- Ừ nhỉ! Ta đi tìm chàng mà!
Nam Cung Giao thở dài, gọi quán tính tiền rồi mời Vân Dung lên ngựa, dẫn nàng về lữ điếm.
Tới nơi, chàng bõ Vân Dung đứng chờ ngoài cửa để mình vào thỉnh chính mình ra!
Nam Cung Giao lên phòng, lột mặt nạ, thay nhanh áo ngoài, trở xuống gặp khách!
Nhìn thấy gương mặt của người mình yêu đến, Vân Dung hân hoan chạy đến, níu áo chàng mà cười khúc khích :
- Đại hiệp đã hứa cùng tiểu muội kết tình bằng hữu, sao lại không giữ lời? Tiểu muội cực khổ mấy ngày nay mới đến được đây!
Nam Cùng Giao sợ nàng nói năng bậy bạ, vội bảo chưởng quỹ dọn thêm phòng kế bên, rồi đưa Vân Dung lên lầu ngay!
Chiều hôm ấy, chàng dắt nàng đi mua sắm y phục và vật dụng cá nhân.
Khi ăn mặc chỉnh tề, Vân Dung càng bội phần kiều diễm.
Vì mệt nhọc, người đẹp đi ngủ ngay đầu canh một.
Hai gã họ Trịnh về đến, nghe Nam Cung Giao kể lại, ôm bụng cười ngất.
Trịnh Mãng nói :
- Công tử dính vào mối này là nguy to rồi! Năm vị phu nhân kia chắc chắn sẽ xé xác công tử vì tội mê hai trái bưởi mà chê mười trái cam!
Cách ví von ngộ nghĩnh của gã khiến Nam Cung Giao phải phì cười.
Trịnh Tháo thì nói nghiêm túc :
- Thực ra, Tổ tiểu thư đáng được gọi là giai nhân tuyệt sắc, rất xứng đáng để công tử đoái hoài. Tuy nhiên, bệnh loạn trí của nàng ta sẽ là một vấn đề nan giải! Thuộc hạ sợ rằng lão Gia và Lão Thái sẽ không chấp nhận.
Nam Cung Giao ủ rũ đáp :
- Ta cũng biết thế! Song không thể bỏ rơi nàng ấy được!



Xem tiếp hồi mười lăm
pass to joine phim : Kim_Bang_2
longnu
Múi Mít
Múi Mít
 
Tiền: $122,632
Posts: 1046
Joined: 14 Mar 2005
Location: đến từ nơi xa lắm
 
 

Next

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 100 guests