Góc VĂN * Tìnhhoàihương * Những Câu Chuyện Tình

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Truyện Tình Dài: Việt Nam Quê Hương - 2

Postby Ái Ưu Du » 19 Jan 2007

HIẾN CHƯƠNG TÌNH YÊU

Chương 15

VIỆT NAM QUÊ HƯƠNG CẨM TÚ


Từ năm 1961 --> đến cuối năm 1974 –
(Những bối cảnh ở thời điểm nầy, hầu như ít thay đổi)

*2b.-

Từ giã Nha Trang, xe xuôi về đèo Rù Rì, Đại Lãnh, đèo Cả, vào vùng Lương Sơn, Phong Thạnh, Hoà Huỳnh. Xe tạm dừng chân ở dưới đèo M'Drack Vạn Giã, Ninh Hoà. Trại cùi Bàu Phong nhìn chéo là Núi Hòn Khô. Gió lùa lá vàng, sương tuyết phủ đầy vai bức tượng, đã sạm màu với thời gian. Nơi đó tạt hình ảnh chiến sĩ Cộng Hòa Việt Nam khá cao, đứng trong tư thế thao diễn nghỉ, do bộ chỉ huy trường Đồng Đế xây đầu năm 1960.
Ở vùng nầy, tập trung rất nhiều loại cây dó Bầu, dó Lưỡi Trâu, dó Cam. Rất nhiều trầm, tích tụ chất nhựa dầu thơm đặc biệt, biến thành màu xanh cổ vịt, màu trắng có vân lóng lánh, đó là lúc trầm đã biến thân thành Kỳ Nam. Người đi tìm trầm nói:
- "Nhất bạch, nhì thanh, tam huỳnh, tứ hắc". "Trầm nơi Vạn Giã, hương tỏa sơn lâm".
Hoài nghe nói, người ngậm ngãi đi tìm trầm, nhưng ngậm quá lâu ngày, bị lạc mất trong rừng, không tìm thấy lối ra, người ấy bỗng hóa thành cọp. Nghe sao hoang đường, ớn lạnh thế!
Đúng là phong cảnh tuyệt tác, hữu tình. Bầu trời vần vũ mây xám đục, bàng bạc, hơi nước đan trong sương giá mờ mờ. Núi rừng trùng trùng điệp điệp, khí trời toả lạnh mát rượi, man mác, phơn phớt vàng, thoang thoảng mùi thơm thơm. Thật dễ chịu.
Xe chạy chậm, quanh co trên con đường hẹp, trơn trượt như bôi mỡ. Má tựa đầu vào hông xe, chật như nêm, chân tay co quắp, ngủ gà ngủ gật. Nhìn mẹ già thiêm thiếp mệt nhọc, lòng Hoài trào dâng nỗi buồn phiền, và sự ân hận dày vò, khiến nàng ứa nước mắt.
Đèo Giã trùng điệp ngút ngàn, núi non cheo leo uốn lượn quanh co. Mưa tầm tã, gió lồng lộng suốt đến Tu Bông. Đại Lãnh xa Nha Trang chừng 80km. Phong cảnh nơi đây thật hữu tình, bên trái là dốc đá núi đèo, cheo leo hiểm trở, bên phải là đại dương mênh mông bát ngát biếc xanh lấp lánh dưới ánh bình minh rạng rỡ, hay hoàng hôn tuyệt diễm. Làng mạc nên thơ, ven bờ hàng trăm ghe thuyền nhấp nhô đậu san sát. Nhà cửa bao bọc bởi hàng thùy dương, những hàng dừa, hàng cau chen cánh.
Làng chuyên về nghề: "Chồng chài. Vợ lưới. Con câu" trên những cánh buồm trắng, nhỏ li ti như hạt đậu phụng, bồng bềnh trôi đi trôi về . Ngư thuyền có thân hình vạm vỡ, cánh tay lực lưỡng tung vó bắt cá. Như vị thủy thần lão luyện, từng trải trên biển cả. Cồn cát trắng tưới nắng vàng hanh, phơi đầy loại lưới cá, trông xa như những mạng nhện khổng lồ: Lưới Đăng, lưới Rút, lưới Rồng, lưới Rê, lưới Văng, lưới Rẽo.
Hảo Sơn, Phú Hiệp, Đông Tác. Tuy Hoà. Nhạn Tháp xây bên bờ bắc sông Đà Rằng, tháp có hình tứ giác bốn tầng. Chân tháp bệ vệ nhưng càng lên cao, chóp tháp càng thu nhỏ, như hình chóp nón. Cửa hình vòm cung nhọn, có tượng hình Linga, hơi giống tượng Pônagar, đầu quái vật ở trên đỉnh, như một phế tích u trầm. Là một Tỉnh miền Nam Trung bộ, trên tọa độ 12 độ 53’ - 13 độ14’ vĩ độ bắc, l08 độ37’ – 109 độ l3’ kinh độ đông.
Dọc chiều dài phương tây, có dãy núi thấp, nhiều đồi xen kẽ ruộng đồng, cây cỏ xanh um, cồn cát trắng. Con sông rộng mênh mông, cầu gỗ nâu Đà Rằng (sông Ba) dài ngót cây số, có 21 nhịp, tấp nập người qua lại, xe cộ đông đúc, nối từ các vùng Hoà Đa, Chí Thạnh, La Hai, Phước Lãnh, Vân Canh.
Lưu lượng thủy triều không đều, lúc mạnh lúc yếu, theo khí hậu miền đại dương vùng nhiệt. Gió mùa nóng, mưa ẩm quanh năm nơi vùng sông Cái, sông Bàn Thạch. Lại có các hòn đảo Cô, hòn Đức, hòn Than, hòn Chùa.
Tản đá Hòn Vọng Phu trên cao độ 2.064m, đơn độc, khổng lồ, đứng chênh vênh như nhô một phần chân ra biển. Sừng sững đỉnh núi cô tịch điệp trùng, chập chùng núi tiếp núi, cao chót vót.
Tục truyền rằng thuở xưa khách chinh phu, vì "xã tắc lâm nguy, thất phu hữu trách". Vì nước quên tình nhà, chàng đi chinh an ngoài biên ải, quyết giữ gìn bờ cõi, sơn hà gấm vóc. Chinh nhân hẹn sẽ trở về, khi giặc hết nhà yên. Chinh phụ tháng tháng năm năm, ôm con lên núi, mòn mõi đơn điệu ngóng trông chồng phong sương biền biệt. Nước mắt chinh phụ tuôn trào thấm đẫm toàn thân. Thời gian dài đằng đẵng sô sóng trên luống tóc sầu bạc phơ, họ đã hoá thân thành đá. Ôi! Lòng người vợ hiền Việt Nam thủy chung, bạc phơ mái tóc, vẫn sắt son suốt kiếp trông chờ, là tấm gương sáng chói qúy giá vô ngần.
Đèo Cù Mông luôn hoang vu, trầm mặc, cô liêu và u ám, dẫn đến Tháp Đôi (ở Xã Đống Đa). Gồm có hai tháp: Tháp Một cao 18m; tháp Hai cao 22m đều là hính chóp nón. Qui Nhơn có thành Chà Bàn xa khoảng 26 km, về hướng tây bắc, nơi kinh đô vương quốc Chàm, với vì vua Yangpuku Vijaya ngự trị giữa các tượng voi, rắn, cùng nhiều tượng dị hình khác. Địa hình nghiêng nghiêng, hàm lượng đất phù sa thấp, bạc màu gần chân núi, quanh đầm, vịnh, trôi dần ra bờ biển đông.
Bình Định, có thắng cảnh Ghềnh Ráng đẹp. Tại làng Thị Tứ có lò rèn nổi tiếng. Nam nữ thích múa điệu trống võ truyền thống Tây Sơn. Con nhà võ nổi danh với câu thơ lưu truyền:
Ai về Bình Định mà coi,
Con gái Bình Định cầm roi đi quyền.
Bãi tắm Hoàng Hậu toàn đá xanh nhỏ to xếp từng lớp, nhìn xa như bãi trứng chim khổng lồ. Cạnh đồi là thi nhân mộ phần Hàn mặc Tử. Suối Tiên. Bán đảo Phương Mai, Thị Nại. Thuở xưa, Vua Bảo Đại đã cho đã xây nhà nghỉ hữu tình trên khu đất cao, trông ngôi nhà giống con tàu nhấp nhô lướt sóng đại dương.
Thành Chà Bàn xây bằng đá ong, đường đi lát đá hoa cương. Vào thời triều cuối cùng vua Yangpuku Vijaya (Chàm) Còn gọi tên là Thập Tháp, tháp Cánh Tiên có nhiều hình quái vật, tượng rắn đá trắng, voi đá.
Phú Tài. Cánh đồng Phù Mỹ bao la, đầm Trà Ô. Hoài thấy ngọn Chóp Chài cheo leo, hòn Cao quay ra biển, vô cùng đơn điệu trước biển cả mênh mông. Những nơi nầy nằm trên vị trí giao thông, khá thuận lợi về hai mặt: đường biển và đường bộ. Núi đồi ngút ngàn, chen lấn đồng ruộng ven núi. Nơi nổi danh ba vị anh tài, áo vải cờ đào Lam Sơn Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, sinh ở làng Kiên Mỹ.
Hoàng Đế Nguyễn Huệ lấy hiệu là Quang Trung tài ba, đầy mưu lược, đã cởi voi vào cửa Bắc, thắng quân Thanh ở Phú Xuyên, Hà Hồi, Đống Đa, khiến Tôn Sĩ Nghị chạy bán sống bán chết, vào mùa Xuân 1789, đại thắng lẫy lừng. Ngọc Hân công chúa mười sáu tuổi, con gái thứ hai mốt của vua Lê Hiến Tông, vâng lệnh vua cha kết duyên cùng Nguyễn Huệ vương quyền. Sau nầy vua Gia Long, cho khai quật mồ của Quang Trung, phơi nắm xương khô, trả mối hận thù rối rắm thuở xa xưa. Thù chi mà thù dai. Thù ghê gớm. Thù dễ sợ!
Đường đi càng khúc khuỷu gập ghềnh, xe rung lên từng hồi, xóc mạnh qua ổ gà, gò mô, giật mìn, đất đá sụt lở. Xe đến gần vùng đảo Cù Lao Chàm, Hòn Ông, Hòn Dài, Hòn Tai có nhiều khỉ. Dọc quốc lộ, vô số hàng dừa chen cánh những hàng dừa ngã nghiêng, theo chiều gió đại dương rì rào sóng vỗ.
Hai bên đường, bán đầy hàng quà bánh trái, ngũ gia bì, sa nhân, thiên niên kiện, thổ phục linh, phong kỷ, đều có sản xuất tại xứ nầy. Hàng nước, hàng cơm, người ra vào đông đúc, dưới cơn mưa như trút, gió rét căm căm. Trời đang trở cơn gió bão mịt mù. Bóng tối sớm bao trùm vạn vật, suốt ngày không chút ánh sáng mặt trời.
Xe bị bể bánh, phải ngừng lại hơn nửa ngày, thay dầu nhớt, sửa chữa vài thứ, không hy vọng xong ngay. Nhân đó, vài ba cụ già ở địa phương, tuổi già không sao đếm nỗi thắng năm, trên những lằn nhăn, lún sâu vầng trán hói. Họ đến đề nghị với hành khách trên xe: Ai muốn đi thăm di tích Hận Đồ Bàn, kinh đô Dân Tộc Chàm. Thì bớt xén vài chục, thuê hướng dẫn viên. Nghe thế, khoảng mười mấy người trẻ ngồi chung xe góp tiền, đưa lão trượng.
Muốn vào thành Đồ Bàn, Hoài phải đi qua cửa chánh. Tức cửa Vệ. Vã lại, xe khách bị hư chỉ cách thành hơn cây số, (ở gần cửa nầy). Thành có ba cửa nữa là: Cửa Tả, cửa Hữu, cửa Bắc ở hậu cung. Thành có ba lớp: Thành ngoài, thành trong, tử cấm thành. Thành và tháp đắp toàn gạch tàu nung đỏ, đất sét, đá ong, đá phiến, thỉnh thoảng điểm thêm ít đá tai mèo, dưới chân cột kê đá tảng.
Tháp Cánh Tiên nằm trong thành Đồ Bàn, xưa gọi là tháp Vijaya. Quanh vùng nầy còn sót lại ít di tích tháp Bạc, tháp Bình Lâm, chùa Nhạn Sơn. Tứ bề cây đan cây, cỏ lướt cỏ, cổ thụ chằn chịt, um tùm. Cảnh điêu tàn hoang phế in trên từng bậc thềm loang lổ, mốc meo cạnh bức tường thành, ngôi tháp hư hại đổ nát mấy nơi, chưa được trùng tu, trông càng tiêu điều hoang vu, hết sức đơn điệu buồn bã.
Hận Đồ Bàn và người đẹp hong mái tóc huyền, giặt lụa bên ven sông, vang bóng một thời thuở ấy. Ngày xưa quan hành khiển Trần Khắc Chung vẻ tranh công chúa Huyền Trân, được triều đình trao cho Chế Bồ Đào, mang về Chàm. Có lẽ Huyền Trân và Khắc Chung từng ngao du sơn thủy.
Chiêm cắt hai châu Ô, Lý dâng Vua xứ Việt, làm sính lễ, do quan hành khiển Đoàn Nhữ Hài trấn giữ. Bờ cõi, dân tộc, được mang ra giao hảo: Cho hôn ước Chăm Pa và người đẹp mặt hoa da phấn nghiêng nước nghiêng thành đất Việt. Chế Mân chết. Phong tục Chiêm, hoàng hậu phải hoả táng theo thi hài Vua. Nhà Việt sai Khắc Chung tức tốc sang Chiêm, dùng mưu lược cướp Huyền Trân, đưa công chúa, trở về kinh thành Thăng Long, vào năm 1308.
Người Maoris khi chết, họ cho thủy táng xuống "thủy mộ quan", mong thân xác tắm mát, trôi về phương tây, thuộc quần đảo Hawaiki an nghỉ. Người chết rồi, thôi cũng cho "mát mẽ" đi. Đằng nầy, bắt người sống sờ sờ, phải hoả táng theo, thì "nóng hổi và khủng khiếp", chịu sao thấu! Vương quốc Chế tan rã từ năm 1470. Hoài đã học lịch sử nầy, nỗi sợ hãi như in vào trí.
Xứ dừa Tam Quan và Chế Bồng Nga, ngày ngày cùng đoàn tỳ nữ ca múa thuở nào, bên bờ sông Phú Yên. Trà Ổ có núi Lồi, dân cư sung túc, Phù Cát có yến sào, cua huỳnh đế, có đá granosinite đỏ, mỏ cao lanh, đất sét. Người ta ưa bày bán các vật lưu niện bằng đất nung, khá xinh. Khánh Phước, Phù Mỹ, Văn Phú, Bồng Sơn, Đèo Nhông, đèo Phù Cư. Phía Đông là núi Chóp Chài, rừng dừa to cao, hàng hàng lớp lớp tre nứa nghiêng mình ra giữa lộ, như đón chào khách lữ hành. Cơm Bồng Sơn nổi tiếng ngon, nóng, đậm đà hương vị quê hương, rẻ nhất, con tôm to tươi rói, con cá no tròn bơi lội trong hồ, gà vịt luộc nóng hổi, vừa thổi vừa ăn, ngon ơi là ngon tuyệt!
Chủ quán niềm nở vui vẻ, chào đón khách với khăn nóng, khăn lạnh, thay đổi mỗi mùa. Hàng quán gọn gàng sạch sẽ. Câu mời chào đon đả, ân cần lịch sự, người nghe dù không đói bụng, ngại trời mưa gió, họ vẫn thích làm vui lòng chủ quán, mua giúp các món quà đặc sản.

_ * _



thh
Last edited by Ái Ưu Du on 06 Jun 2011, edited 2 times in total.
Tôi ước mong học hỏi cùng quý vị: *Trau dồi tư tưởng *Mở rộng kiến thức *Nâng cao tâm hồn. Trao nhau niềm thành tín cậy trông. ÁƯD Cám ơn quý vị.
Ái Ưu Du
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $540
Posts: 237
Joined: 16 Jan 2007
Location: U S A
 
 

Truyện Tình Dài: Ch 15 * VIỆT NAM.. 3

Postby Ái Ưu Du » 20 Jan 2007

HIẾN CHƯƠNG TÌNH YÊU

CHƯƠNG [VIỆT NAM QUÊ HƯƠNG CẨM TÚ [/b]

Từ năm 1961 --> đến cuối năm 1974 –
(Những bối cảnh ở thời điểm nầy, hầu như ít thay đổi)

* 3c.-

Bãi biển Sa Huỳnh, nằm sát quốc lộ 1, biển cả gió lùa sóng nước mênh mông, trong veo, bãi cát mịn, độ dốc thoải, cùng hàng thùy liễu reo vui trong gió lao xao.
Má và Hoài đi Hội An thăm chị Huyền, dưới cơn mưa dầm ảm đạm màu xám u tối, giá rét căm căm. Ngày và đêm đan vào nhau, bầu trời nhạt nhòa mưa bão, trông càng thê lương buồn thảm. Sự cực nhọc trên tuyến đường dài, tuy có làm thân xác rã rời. Nhưng Hoài không đau buồn, bằng nhìn má im lặng chịu đựng cực nhọc, vất vả vì con. Một đời cơ cực lam lũ, theo chồng nuôi mười con. Có lẽ má khổ cực suốt đời tần tảo, không ngơi nghỉ. Có khỏe chăng là, khi hai bàn tay má buông xuôi, đôi mắt đã mất vẽ nhìn.
Dù thế nào chăng nữa, má vẫn thương con, không kêu than quở trách, sẵn sàng tha thứ. Má giống con gà mẹ giăng rộng đôi cánh, xù bộ lông ra để ôm ấp đàn con non dại, yếu ớt. Lòng má từ ái bao dung, nhân hậu, khiến Hoài vô cùng ân hận, cắn rứt lương tâm. Má ủ rũ bơ phờ, như con mèo già thấm nước trước gió bão. Nhìn má, lòng Hoài quặn xiết niềm đau đớn, sự nhọc nhằn cùng cơn vùi dập tinh thần, và tình yêu, khiến nàng chết sững, trên suốt một phần tư con đường cái quan.
Bốn ngày ba đêm, vật vã trên chiếc xe chật như nêm. Đường dài vách đứng cheo leo, núi non hiểm trở, biển khơi mù mịt, sông nước mịt mùng. Từ Đại Lãnh ra Hội An, đường luôn trơn trợt, càng gập ghềnh hơn vì bị đắp bờ mô, hào chông, bãi lầy, hố đất. Mọi người phập phồng lo sợ hiểm nguy ập đến. Chẳng biết có an toàn về đến nhà!? Thân thể nảy lên dập xuống, theo từng nhịp xe giồng xóc lắc lư.
Tam Kỳ, Vĩnh Điện. Quảng Nam có núi Bát Tiên, thác nước Cổ Cò, Hòn Kẽm. Dân địa phương thích trồng dâu nuôi tằm. Hội An là một hải phố đặc biệt về tơ lụa ở thời kỳ cực thịnh. Vừa cổ kính, vừa tân thời, nằm gần cửa Đại rừng phi lao ngút ngàn lộng gió. Rừng dừa Cẩm Thanh trĩu trái ngọt lịm. Duy Xuyên ở quốc lộ 1, có cổ thành Chiêm quốc Mỹ Sơn, nằm bên sông Thu Bồn nước trong mát, êm đềm xuôi chảy đến chợ Hội, lăng hoàng hậu Đoàn thị Ngọc.
Phố có nhiều cây cổ thụ mọc lâu đời, Nhà gạch cũ thấp lè tè, đầy rong rêu, bám trên mái nhà xây uy nghi, đồ sộ. Nhất là khu Phố Cổ cứ vào một đêm l5 rằm mỗi tháng, dân phố cổ tắt hết điện đóm, họ chỉ treo lồng đèn đêm, đủ màu sắc trông rất đẹp. Dưới nước họ thả lồng đèn giấy. Lồng đèn giấy lung linh lững lờ trôi suốt dọc hai bờ sông. Người dân thị thành phố cổ mặc áo dài, phong lưu ngồi trước thềm nhà, dưới ánh trăng rằm chơi các loại cờ. Ôi thật nên thơ và huyền diệu!
Nhiều đình, chùa, am, miếu huyền bí, kiến trúc tựa chùa tháp mái cong, sơn son thiếp vàng. Cột lim chạm trổ hình phượng đầu rồng. Cầu gỗ cong cong sơn đỏ sơn vàng. Đâu đâu cũng thấy lung linh ánh đèn nến hiu hắt, hương trầm tỏa khói bay nghi ngút.
Quế Sơn có những mõm núi mica. Hội An nổi tiếng là cửa ngỏ mậu dịch tốt nhất, thuận đường biển quốc tế từ Đông Nam Á lên Đông Bắc Á. Từ Thái Bình Dương qua Ấn Độ Dương. Ven thành là làng gốm Thanh Hà, làng rau Trà Quế, làng mộc Kim Bồng, làng yến Thanh Châu, làng Mực, vân vân...
Thành phố đậm đà di tích lịch sử, do chúa Nguyễn Hoàng xây dựng từ khi tham triều. Hội An hiền hoà dân cư đông đúc, phồn vinh. Món mì quảng, cao lầu, bánh tráng đập, cơm gà Hội An, độc đáo ngon miệng, thu hút khách thập phương quá chừng.
Ở chơi với gia đình chị Huyền vài hôm, hai má con vội vã về quê, lo chuẩn bị Tết nhất. Không ai là không lo, ít nhất năm bảy ngày đầu năm, tươm tất, chu đáo. Trước tiên tưởng nhớ ông bà, cha mẹ họ hàng quá cố, sau sum họp đại gia đình. Thăm viếng chúc tụng nhau, lời nồng thắm tốt đẹp nhất. Thế nên, dù xa xôi bận rộn cách mấy, họ vẫn trở về bên mái gia đình, trong ngày xuân mới.
Đối với Hoài, vì mang trong lòng mối ân hận, buồn đau ray rứt. Tết đến hay Tết đi, chỉ đơn điệu, tẻ nhạt, trống vắng, xót xa, ân hận dày vò, đáng hỗ thẹn. Thôi, ta cứ trở về quê chúc xuân. Thế cũng đành.
Đà Nẵng, thành phố xa hoa, không lạnh bao nhiêu, bởi gió từ phương bắc thổi về, đều bị ngọn Hải Vân chận lại. Phố nằm ở trung độ đất Việt, thuận lợi về nhiều mặt, do hai trục giao thông quốc lộ lA nối đường xuyên Việt, quốc lộ 14 B, nối cảng với Tây Nguyên. Đường bay, đường bộ, đường thủy, đường sắt, nhộn nhịp, ồn ào, đông đúc náo nhiệt bon chen.
Nhiều night club mọc lên như nấm, mời chào những chàng lính Mỹ đầu tiên, vào miền Nam Việt Nam, thành phố ngái ngủ, hầu như bừng sống, chụp giựt sau những năm dài, thao thức gián tiếp hứng chịu nhiều trận bão chung miền, từ tháng 9 trở đi đến cuối năm.
Chợ Hàn nối liền với chợ Cồn, trên đại lộ Hùng Vương dài hun hút. Thánh đường uy nghi. Chùa chiền nhang khói u trầm nghi ngút, rợp bóng cây um tùm. Bến Bạch Đằng tấp nập người đi hóng mát, bán buôn đủ thứ quà bánh linh tinh trên công viên đầy xác phượng vào mùa hè. Bên kia sông Sơn Trà lộng gió, trên sông nào đò ngang đò dọc, những chiếc phà to đưa đón khách.
Biển Mỹ Khê, Tiên Sa, Thanh Bình mỗi biển mang một dáng vẽ đáng yêu khác nhau. Ngũ Hoành Sơn núi đá hoa cương vân ngũ sắc dựng đứng, cao chót vót, nằm kề đại dương bao la. Nơi có loại tảo quý hiếm như: Rong câu chân vịt, rong câu chỉ vàng.
Đường vào chùa Non Nước gập ghềnh khúc khuỷu, bụi đỏ mù bay, nhiều ổ gà lởm chởm, đứng dưới chân núi nhìn lên chùa, mỏi cả cổ. Người bán hàng mời chào du khách mua hàng mỹ nghệ, do chính thợ thủ công đi lấy đá xanh, về đục đẽo, trau chuốc thành những hình tượng tuyệt tác, độc đáo nét văn hiến lịch sử Việt Nam.
Chùa an toạ trên đỉnh núi cao vời vợi, tiền đường vắng lặng, văn uyển đẹp đẽ, như chuyện ngày xưa Lưu Nguyễn, lạc chốn bồng lai tiên cảnh. Đứng trên Non Nước nhìn xuống chân núi, Hoài thấy trời đất như quay cuồng, mà hết hồn hết vía. Trên Chùa cao, vị hoà thượng trụ trì mày rậm mũi cao, khuôn mặt đầy đặn dáng dấp phương phi, mặc áo trúc bâu, một tay cầm gậy ngà, râu dài tới ngực bạc trắng như cước. Ông cầm chuỗi cung kính chắp một tay trước ngực, phong cách mực thước nhưng niềm nở vui vẻ đón chào du khách.
Các chú tiểu đồng, mặt mày hồng hào dễ thương, để chùm tóc trái đào, mặc áo nâu sồng, lon ton hướng dẫn du khách xuống thạch động ẩm ướt giá lạnh. Thạch động ươn ướt màu ngà ngà, đầy ngân nhũ, chen lấn những khe suối róc rách. Con đường trơn hẹp, đi xuống, đi lên. Tượng Phật tạc đá xanh thấp thoáng đó đây. Khe đá nước chảy róc rách, trong veo, uống vào nghe mát từng khúc ruột.
Ngũ Hành Sơn gọi chung có năm ngọn núi: Kim Sơn. Mộc Sơn. Hoả Sơn. Thủy Sơn. Thổ Sơn. Động Linh Nham. Vân Thông. Huyền Không. Tàng Chơn. Ngoài ra có hang Gió, hang Ráy, động Chiêm Thành, Bàn Cờ. Nói chung đa số hang động như một bức tranh thiên nhiên hữu tình phong phú tự nhiên quá đẹp! Nhất là động Huyền Không với giếng tuyền cầm, tự phát ra những âm thanh trầm bổng ngút ngàn véo von đêm ngày. Như tiếng đàn tiếng sáo nhè nhẹ nhã nhạc theo sóng biển lao xao thoảng đưa, êm thật êm.
Ngọn Hải Đăng bóng láng rêu phong cổ xưa. Nơi sinh ra những danh nhân nổi tiếng: Hoàng Diệu, Trần Cao Vân, Trần Qúy Cáp, Thái Phiên. Đặc biệt những thánh thất Cao Đài rất đẹp “Thiên nhân hợp nhất. Thiên chân vô ngã”. Các chức sắc quần áo trắng tinh, trang trọng đến thánh thất, vào bàn thờ Cửu Trùng thờ một con mắt tỏa sáng trên quả địa cầu. Bên trên là thế giới đại đồng: Lão Tử. Phật. Chúa Jésu Kitô Vua. Khổng Tử. Môhamet. Họ cung kính trang nghiêm đi cúng 4 lần một ngày: Sáng. Trưa. Chiều. Tối.
Bà Nà quy tụ bốn mùa kỳ lạ trong một ngày: Buổi sáng Trời thanh thanh tươi tươi. Buổi trưa Trời ấm áp rực rỡ như mùa hè. Mùa Thu buổi tối gió hiu hiu thổi. Mùa đông gây gây rét tuyệt vời với những đồi thông xanh ngắt reo vi vu ngút ngàn. Những rừng cây rì rào lao xao vẫy gọi gió. Tầng mây xôm xốp bồng bềnh lơ lửng suốt ngày đêm. Trên đỉnh cao trời luôn sáng rạng, nhưng mây ưa vần vũ e ấp ôm quanh lưng núi: Chia thành hai tầng lớp sáng chói và bàng bạc tách bạch. Mây không bao giờ vượt lên cao, hay tản mác bay là là trong không gian mơn man lơi lả nơi quê hương cẩm tú.
Bên kia sông Bạch Đằng là bán đảo Sơn Trà biển xanh màu ngọc bích lấp lánh như tráng men sứ. Một con đường hẹp độc nhất vắt vẻo uốn mình bên sườn núi. Núi choài chân ra biển ghép những tảng đá to dầm mình dưới nước hoang dã nguyên sinh thật dễ thương. Vì thế đây là nơi quầng cư vô số loài Vọc Chà Và. Khỉ đuôi dài. Gà mặt đỏ. Bãi biển bằng phẳng cát trắng phau vẫn vắng lặng hoang sơ tự nhiên, nhưng tuyệt đẹp.
Nông Sơn, Lệ Trạch, Thanh Khê, Kim Liên, Bến Ván, Nam Ô, nằm dưới chân đèo Hải Vân, đường đèo chật hẹp đi một chiều, khá quanh co hiểm trở.
Đoàn xe lên từ hai hướng Hải Vân Nam và Hải Vân Bắc, đã gặp nhau trên đỉnh đèo cao chót vót, lồng lộng gió, luôn luôn mây quyện sương, bay là là trên đầu ngọn cỏ. Khi trạm gát dưới hai bên chân đèo, báo hiệu chiếc xe cuối cùng, đã lên đèo, và hết giờ. Thì trên đỉnh đèo, trạm trưởng mở cổng, cho đoàn xe xuống từ hai phía Nam và Bắc.
Trên cao độ 496m, Hoài có thể nhìn phong cảnh thiên nhiên hữu tình, nên thơ tuyệt đẹp mà Thượng Đế hài hoà ưu ái ban tặng: “Thiên hạ đệ nhất hùng quan” là ở nơi nầy. Gió lồng lộng trên đỉnh đèo lả tả mây trắng quyện sương mù vần vũ buông lơi. Trời rất lạnh!
Xuôi đèo về quê, không nơi nào đẹp, giống nơi nào, Hải Vân oai hùng hiểm nguy, không thua gì đèo Ngoạn Mục. Một bên là vách đứng sừng sững cheo leo, một bên là vực thẳm hút tầm nhìn; đại dương mênh mông xanh biên biếc, luôn rì rầm gào thét những cơn cuồng phong bạc đầu, xoáy tít dưới chân đèo. Trào sóng thần phong vút cao, bọt biển trắng xóa phóng lên cao, bắn tung tóe, rồi rớt xuống, cuồng nộ xô đẩy nhau, chạy lui chạy tới những tảng đá to dầm mình trong biển.
Trông thật đẹp mắt những cánh buồm trắng chơi vơi bồng bềnh, nhỏ ly ti khi tỏ khi mờ, nhấp nhô trên sông cả xa thật xa bờ. Con đường đèo chật hẹp khúc khuỷu, uốn lượn theo sườn núi hùng vĩ, như con rắn khổng lồ, uể oải bò trên đèo Rọ Tượng toàn rừng rậm.

*



thh* _
Last edited by Ái Ưu Du on 06 Jun 2011, edited 3 times in total.
Tôi ước mong học hỏi cùng quý vị: *Trau dồi tư tưởng *Mở rộng kiến thức *Nâng cao tâm hồn. Trao nhau niềm thành tín cậy trông. ÁƯD Cám ơn quý vị.
Ái Ưu Du
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $540
Posts: 237
Joined: 16 Jan 2007
Location: U S A
 
 

Truyện Tình Dài: Ch 15 - Việt Nam... 4

Postby Ái Ưu Du » 20 Jan 2007

HIẾN CHƯƠNG TÌNH YÊU

Chương 15

VIỆT NAM QUÊ HƯƠNG CẨM TÚ

- Từ năm 1961 --> đến cuối năm 1974 –
(Những bối cảnh ở thời điểm nầy, hầu như ít thay đổi)

*4d.-

Làng Lăng Cô an lạc giữa đèo Phú Gia và Hải Vân, cạnh quốc lộ 1, nép mình dưới chân núi Bạch Mã hùng vĩ, suốt tháng năm biển xô sóng bạc đầu ì ầm gào thét. Lăng Cô nước trong vắt, cát mịn màng tuyệt đẹp, nổi lên trên ba hướng biển bao bọc, như một cù lao bồng bềnh, nhấp nhô uốn lượn sóng vỗ ngày đêm xôn xao nỗi nhớ thương dìu dặt. Lăng Cô gần giống như chiếc thuyền trăng, trôi đi, trôi về, trong biển cả bao la. Thấp thoáng lọng dừa xanh, hàng thùy dương nhã nhạc dưới bầu trời vần vũ mây trắng.
Xa xa rừng Bạch Mã với đường xe hơi leo lên núi, dài 19km. Nơi đây có khoảng hơn một trăm ba mươi biệt thự được người Pháp xây đựng từ lâu. Khí hậu trong lành thoáng mát.
Mặt trời lóe lên những chùm nắng vàng anh, đan trong biển nước xanh xanh, tạo thành màu xanh cổ vịt lấp lánh. Đôi khi hừng lên màu cánh cam sáng chói, rực rỡ như chiếc cầu vồng. Xe ghé lại, khách lữ hành mua tôm hùm, tôm sú, tôm vằn, tôm đất, mực khô, cua, ghẹ, sò huyết. Các loại cá biển vừa tươi ngon lại rẻ nhất vùng, làm quà biếu.
Thoáng chốc xe đã chạy ngang qua Thừa Lưu, Cầu Hai, Truồi, Hương Thủy. Phi trường Phú Bài, là một trong những phi trường lớn ở miền Trung, cách đất Thần Kinh không xa mấy, khoảng mười bảy, mười tám cây số.
Huế, di sản đặc biệt là tặng phẩm độc đáo của Trời ban, và cũng là sính lễ của vua Chiêm Thành khi cưới công chúa Huyền Trân. Vùng khí hậu nhiệt đới, có 4 mùa rỏ rệt: Mùa xuân mát mẻ lâng lâng. Mùa hè trời nóng kinh hồn. Mùa thu hiu hiu gió mát. Mùa đông ảm đạm, lạnh buốt. Nhắc đến Huế, nghe tên Huế rạt rào rung cảm. Hoài xin nói với Huế, nghĩ về Huế, ghi lại hình ảnh quần thể di tích lịch sử Huế, từ những kỷ niệm và hoài niệm.
Hoài thương Huế khi lần đầu nhìn thấy tổng thể kinh thành Đế Đô, Hoàng Thành là vòng thành thứ nhì. Tử Cấm Thành tách bạch với bên ngoài, là nơi an ngự và làm việc của vua. Cửa chánh khởi đầu là cửa Ngọ Môn bề thế có 5 cửa, hướng về phía nam. Trên vòm cổng là lầu Ngũ Phụng. Cửa Thượng Tứ, cửa Đông Ba, cửa Chánh Tây, Nhà Đồ, cửa Ngăn, cửa Hiển Nhơn, Chương Đức, cửa Hậu.
Trước tiên là kỳ đài, sân đại triều rộng lát đá xanh có cửu đỉnh, là điện Thái Hoà là nơi quan trọng tổ chức các buổi thiết triều. Mái lợp ngói hoàng lưu ly, cột chạm rồng to uốn khúc giác vàng kim nhũ. Trần phi vân. Vách khắc kỳ công, chạm trổ tinh vi. Cửu đỉnh đúc đồng thau kỷ thuật tinh xảo, mỗi đỉnh mang một tên riêng, tượng trưng cho mỗi vì vua. Đỉnh có 18 hoạ tiết phong cảnh, hoa chim, khắc chữ nổi mang tên mỗi đỉnh: Cao. Nhân. Chương. Anh. Nghị. Thần. Tuyên. Dụ. Huyền. Cao đỉnh cao 2m rưỡi, to lớn bề thế nhất. Huyền đỉnh cao 2m,31phân nhỏ nhắn xinh xinh.
Bên phải có miếu Triệu, Thái, Hưng, Thế, Phụng Thiên. Điện Cần Chánh, Đại Cung Môn, dành riêng cho hoàng gia. Càn Thanh là nơi vua nghỉ ngơi, Thái Bình Lâu đọc sách gần vườn Ngự Uyển, có ao sen cầu vồng, hồ cá hòn non bộ.
Hoàng hậu qúy phi ở Không Thái. Duyệt Thường Thị là phòng xem văn nghệ, nơi đặc thù văn hoá kết hợp giữa giao ca dân giã, hài hoà bài bản với giao ca cung đình. Thái Y Viện là trung tâm y tế. Thượng Thiện là nhà bếp. Nội Thành trang nghiêm kín đáo có hai ổ súng thần công: Một bên là: Kim, Mộc, Hoả, Thủy, Thổ. Bên kia là: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Hồ Tịnh Tâm vời vợi tình luyến thương hoài cổ, ngậm ngùi thương cảm một thời hưng thịnh.
Lăng tẩm Đế Đô đất Thần Kinh nghìn năm vang bóng, gồm hai phần chính: Lăng là mộ phần. Tẩm là nơi thờ cúng với: Lăng Gia Long thuộc quận Nam Hoà về hướng nam đơn sơ, xa kinh thành khoảng 16 km, bên bờ Tả Trạch sông nhỏ lặng lờ, trầm mặc buồn thiu. Có hồ bán nguyệt đầy sen. Hai hàng võ sĩ đá đứng thẳng tắp với ngựa, voi. Sân sau rợp bóng cây cổ thụ chằng chịt. Lăng bao bọc núi rừng chen lẫn đồng bằng mài mòn trùng điệp âm u. Cảnh trí hài hoà im lắng, thâm sâu buồn phiền sao đâu.
Bao quanh lăng Minh Mạng có tường thành cao cỡ 3m, có ba cửa vào lăng. Lăng an ngự trong vùng đầm phá đất cổ, có hàng tượng đá phân chia thứ hạng, phẩm trật, quần thần. Quan văn có năm bậc, gọi là ngũ phẩm. Quan vỏ có bốn bậc, gọi là tứ phẩm. Kỳ lân, sư tử, voi, ngựa, chầu thánh điện.
Tự Đức xây trên núi Dương Xuân rừng thông reo vui trong gió ngút ngàn, đất đai phì nhiêu rộng vài chục mẫu. Thành quách cao uốn lượn bao bọc theo địa hình khuôn đất màu mỡ. Trong xây nhiều đền đài nho nhỏ xinh xinh, nhà bia, thủy tạ, hào, cây cảnh hồ sen bạt ngàn.
Khải Định như toà lâu đài hoành tráng hùng vĩ, đồ sộ, theo kiễu đúc bế tông cốt sắt, sành sứ tân thời hơn các lăng kia. Lăng đứng sừng sững ở mé núi Châu Ê, uy nghi trên ngọn đồi cao lồng lộng gió. Từ dưới chân đồi ta phải đi lên 109 bậc cấp lát gạch tàu. Sông núi hố hào bao bọc. Cấp đá hoa cương dẫn lên chính điện, nền láng xi măng xám, tường treo mai, lan, cúc, trúc. Bát bửu. Ngũ phúc. Hoa văn. Trần làm mô hình nổi ghép thủy tinh, sành sứ màu xanh, đá tai mèo. Lăng rộng rãi, nguy nga, tráng lệ nhất.
Đồng Khánh, Thiệu Trị xây hình khối là lăng đơn sơ nho nhỏ, khiêm nhường an phận.
Sông An Cựu mùa nắng nước đục, mùa mưa nước trong, thật kỳ lạ đặc biệt, dễ ghét mà rất dễ thương. Sông Hương trải rộng xanh thẳm uốn lượn giữa kinh thành, nước xuống nước lên, nước chảy lặng lờ êm xuôi về Vĩ Dạ, Bao Vinh. Dãi mây mềm vàng óng, vắt ngang hàng cau, chen cánh những hàng cau, khi hoàng hôn nghiêng bóng, dưới chân núi Ngự phía trước tròn, phía sau méo. Nhiều giọng nói ân tình nghe ríu rít lao xao, theo hồi chuông Thiên Mụ ngân nga vang vọng.
Phú Văn Lâu nổi cao trên mặt thành. Chợ Đông Ba người vô kẻ ra tấp nập, ồn ào huyên náo, đôi khi ríu rít dập dìu như những tiếng chim, như điệu hò mái nhì, nam ai. Hầu hết nhà nhà đều có vườn cây hoa trái tốt tươi. Mặt trời luôn rót nắng vàng hanh, chảy xuống Đại Nội. Mùa xuân xanh tươi. Mùa hạ rực nắng tình hè. Mùa thu heo may lá rụng, gợi nhiều lãng mạn. Mùa đông buồn lặng, đìu hiu ướt át, lụt lội gió bão mịt mù.
Bờ môi Hoài trào dâng vị ngon, tuổi thích mè xững, ô mai xí muội, me chua khế ngọt, ổi đào chấm muối ớt. Dẫu có nhắm mắt, lớn nhanh lên hay đã già, Hoài tin mình vẫn hình dung được, dĩ vãng trôi về trong hiện tại, khi xe đi ngang qua cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp nầy.
Ngày ấy, Hoài, nữ sinh lớp đệ thất, đồng phục trắng, cô đơn, vì chưa hề quen trường mới, bạn mới. Chân Hoài mang guốc vông, nón lá kéo nghiêng, che muôn sợi mưa li ti, bay bay, phủ mờ nhoà thành phố, khi mùa đông mưa gió, lụt lội tràn về. Tóc thề mướt mát, nặng trong gió, Hoài co ro bởi gió rét mưa phùn buốt lạnh, cặp ôm kè kè bên hông run run.
Khi mặt trời nhú dạng trên những lùm cây, Hoài cùng hàng hàng lớp lớp nữ sinh, tâm hồn thanh thản, nhẹ nhàng, bước đi hân hoan dưới vòm cây, lọng dừa lọng cau bao bọc. Tung tiếng cười, giọng nói, tuổi trẻ an vui hồn nhiên, bay theo tiếng ve sầu, trên chùm phượng vỹ cao vời vợi, đỏ thắm vùng trời Đế Đô.
Chỉ vì, cô bé cư dân vùng Dalat hiền hoà thơ mộng nho nhỏ, nay về trong kinh thành Huế rộng thênh thang, bảng lảng trước phách lá hồn hoa: Mộc lan, mẫu đơn, hoàng lan, hoa sen, hoa súng, hoa lục bình, hoa cau, hoa ổi, hoa ngâu, hoa lài, hoa trang, hoa quỳnh, hoa hướng dương, hoa me li ti, hoa phượng rực rỡ.
Huế nên thơ trầm lặng, len lỏi trong lòng cô bé chớm lớn, niềm an thư sạch trong, sáng ngần. Chẳng hụt vơi tình xanh. Cô em cứ tưởng đời mãi mãi là một màu xanh, trên con đường thiên lý xanh xanh ngút ngàn...
*


thh
Last edited by Ái Ưu Du on 06 Jun 2011, edited 2 times in total.
Tôi ước mong học hỏi cùng quý vị: *Trau dồi tư tưởng *Mở rộng kiến thức *Nâng cao tâm hồn. Trao nhau niềm thành tín cậy trông. ÁƯD Cám ơn quý vị.
Ái Ưu Du
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $540
Posts: 237
Joined: 16 Jan 2007
Location: U S A
 
 

Truyện Tình Dài: 15 * Việt Nam... 5

Postby Ái Ưu Du » 22 Jan 2007

HIẾN CHƯƠNG TÌNH YÊU

Chương 15

VIỆT NAM QUÊ HƯƠNG CẨM TÚ


Từ năm 1961 --> đến cuối năm 1974 –
(Những bối cảnh ở thời điểm nầy, hầu như ít thay đổi)

* 5e.-

Tử Hạ, Sông Bô, Thượng An Ngoài, Thượng An Trong, Cầu Quán Rớ, Văn Xá, Hiền Sĩ, Phò Trạch, xe chạy mỗi lúc một chậm hơn, vì có lẽ Hoài cảm thấy nóng ruột, mong chóng đến Mỹ Chánh, Hải Lăng, Hưng Nhơn và Thuận Nhơn, là quê nội và quê ngoại của Hoài
Xe dẫn đến làng quê, trên con lộ chạy dài, dọc theo dòng sông xanh êm mát quanh co, ngoằn ngoèo. Nhìn từ xa như sợi dây dừa uốn lượn, xẻ đồng ruộng, làng mạc ra làm đôi, đất đá lộn xộn, lạo xạo, rạo rực dưới gót giày, khi hai má con mừng rỡ, tươi cười, chen lẫn nỗi bâng khuâng trầm lắng, bước thấp bước cao, vừa đặt chân lên thềm nhà.
Từ nơi nầy, vài tháng một lần, gia đình Hoài khi đi đò, khi đi bộ đường tắt, băng rừng vượt dốc, trùng điệp núi non chập chùng, cỏ tranh ẻo lả lao xao đong đưa. Lau lát lá kép lông chim hoa vàng nhạt, bay bay trong rừng bạt ngàn đến Thánh điạ La Vang!
Dọc hai bên đường, rừng núi cây cối um tùm, chằng chịt, toàn cây sao, kiền kiền, gụ, lim, chen lấn cánh đồng sậy, bông lau trắng xoá nghiêng nghiêng, bay bay, lá tranh khô rạp mình theo chiều gió xô, tạo ra những lượn sóng muộn phiền nhấp nhô. Rừng sim bạt ngàn, cao hút tầm mắt. La Vang giữ vẻ trầm lắng u buồn dâng cao. Hai hàng thùy dương kín đáo chạy dài xuống chính toà thánh điạ, luôn rì rào reo trong gió u trầm, buồn tênh.
Thời kỳ vua Cảnh Thịnh bắt đạo, giết đạo kinh khủng, tàn ác nhất, kéo dài hơn một trăm năm sau. Mặc dù năm 313 đại đế Constantin thành La Mã, ký sắc lệnh bãi bỏ việc cấm đạo Thiên Chúa giáo, cho xây nhiều giáo đường. Nhưng đó là chuyện ở bên trời Tây.
Sau nầy, giáo đường Đức Bà Saigon, và giáo đường La Vang, được chính thức phong lên hàng Vương Cung Thánh Đường. Chính nơi đây Đức Mẹ La Vang đã hiện ra, trìu mến an ủi, đùm bọc, chở che, giúp đỡ người đau ốm, khó nghèo. Người ta tin tưởng tuyệt đối, nhiệt tâm, thành khẩn dâng lên Mẹ, bao sầu đau. Hồi xưa chính tên gọi là Đức Mẹ Lá Vằng. Nhưng vào thời điểm đó, máy đánh chữ chưa có dấu tiếng Việt, nên người Pháp gọi bản địa là La Vang. Thành quen tên.
Mỗi mùa đại hội, cả một vùng đất bao la, muôn triệu người tấp nập suốt ngày đêm chiêm ngưỡng, cung nghinh Mẹ. Họ rất trang nghiêm, yên lặng vô vàn, mặc dù người người đông vô số, hàng hàng lớp lớp, đi bên nhau, tuyệt đối trật tự. Họ từ thập phương trở về, tề tựu rất đông dưới chân Mẹ, khẩn xin Mẹ ban hồng ân.
Người ta đi hái lá vằng, lá vằng không bao giờ hết, trên núi đồi trùng điệp. Nước giếng sạch trong, ngọt ngon, không bao giờ cạn, tựa như lòng Mẹ yêu thương bao la, không bao giờ dứt. Muôn người đặt lá vằng, múc nước giếng, đỗ vào các chai lọ, để cạnh đền đài, dâng Mẹ, xin những ước vọng, dâng những sầu đau, bệnh tật.
Có biết bao người đã từ phương xa ở lại suốt tháng, sớm hôm quỳ bên Mẹ. Người có đạo và người không cùng đạo ở La Vang, họ xiết đổi yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau chí tình, không chút tị hiềm. Dù họ rất nghèo, nhưng có cả tấm lòng từ ái rộng mở.
Nơi quê hương suốt dọc miền Trung từ vùng Quãng Nam về Đông Hà, Đồng Hới, cầu Hiền Lương Bến Hải mãi u trầm, lắng đọng. Nhất là giọng Huế nói nghe ríu rít, bặt thiệp lịch sự, dù ân cần nhưng thoảng buồn lạ lạ phiền phiền. Phụ nữ đa số giữ phong cách đặc biệt kín đáo, nhỏ nhẹ vui vui nhu mì, dè dặt. Dù đi một đổi đò, đi chợ, đi bán hàng rong, đi xóm: Khi ra khỏi nhà, họ luôn luôn mặc áo dài, đoan trang khép nép, e ấp che kín thân.
Ngày xưa ấy, suốt ba tháng hè, cha mẹ, chị Hách, anh Thuyền và Hoài, về thăm bà con làng nước tại Thôn Kẽ Vịnh. Khi đi xe hơi, khi đi bộ, khi đi xe thồ do trâu, bò, ngựa, kéo lạch cạch, lọc cọc trên con đường quê rì rào sóng lúa, qua bao ruộng vườn hồ ao sông ngòi. Đồng quê bát ngát hương hoa tinh tuyền của hoa mít, hoa cau, hoa bưởi, cam, quít.
Lúa chín đầy đồng, thợ gặt tấp nập làm việc ngày đêm. Nhà nhà yên vui qua câu hò điệu hát phong dao trữ tình dân tộc. Trên sân phơi sóng sánh ánh lúa vàng. Bên cối chày giả gạo, bên đôi trâu mập kéo cày vỡ đất làm mùa. Bên thợ khéo tay tinh xảo chằm những bài thơ trên nón lá. Những bữa cơm ngon miệng nghi ngút mùi thơm gạo lức. Cơm đồng quê từ miếng thịt gà, thịt vịt, con cá, con tôm tươi rói, nhảy tưng tưng trong rổ. Người ta mừng rỡ chúc tụng nhau, khuôn mặt chân chất thật thà tỏ lộ nét hân hoan.
Người nông thôn chất phác không nói câu văn hoa bóng bẩy, không thêu dệt ý tình thơ mộng, nhưng đôi mắt ngời sáng tia vui mừng thành thật, nụ cười ấm dịu, đầy tình âu yếm xiết đỗi! Chuyện vui nổ dòn như bắp rang, họ hỏi về Dalat, nơi họ chưa bao giờ có dịp đặt chân đến. Họ là những người dân chân lấm tay bùn, suốt đời quanh quẩn bên lũy tre mộc mạc, vui cảnh điền viên, với vườn sắn nương khoai. Mấy ai phiêu du hải hồ ngang dọc tứ xứ.
Đa số thích bám vào mãnh đất gia tiên, nơi cho họ ba tiếng khóc oa oa chào đời. Nơi chôn nhau cắt rốn. Nơi cột chặt họ với gốc đa bụi chuối, lũy tre làng xanh um bóng mát. Có mồ mã ông cha an nghỉ, gần con sông lặng lẽ êm đềm uốn khúc, giữa hai bờ quê hương, cạnh cồn cát trắng và bầy trâu nghé, chậm chạp về chuồng mỗi buổi hoàng hôn. Sao ngọt ngào cường diệu, vui vẻ ấm áp, đắm thắm tình thân và tình người đến thế.
Ngày lễ Song Thất, Phủ Hải Lăng tổ chức cầu ngư thi quán quân, đoạt giải các bộ môn như: Chèo thuyền đua trải, hát giã trạo. Đánh cờ tam cúc, bài thái, bài ghế, cờ tướng. vật võ. Thi các điệu hò và chằm nón lá. Thi nấu ăn bằng năm cây mía tươi thay củi suốt trong nửa ngày, và một hộp quẹt trên thuyền thúng, vừa nấu cơm, các cô vừa bơi thuyền. Một cô đoạt giải nhất, vì cô khôn ngoan cứ ngồi tà tà róc mía ăn, phơi bã mía chờ khô khô, rồi đủng đỉnh nấu sau cùng.
Cảnh đua thuyền trên sông qui định rỏ ràng, rầm rộ nhất. Ngư thuyền dạn dày kinh nghiệm, lực lưỡng, bắp thịt no tròn rắn chắc, ngực nở vai u, da đen dòn như bức tượng đồng. Thuyền kết hoa lá đủ màu. Ngư thuyền ở trần, mặc xà lỏn cuộn sát háng, nhìn từ xa như đóng khố, đầu chít khăn màu theo từng nhóm thuyền ghi số.
Trên bãi dưới bến, người đi xem đông hơn kiến, chen lấn ồn ào la hét inh ỏi, mỗi khi thuyền ai về nhất. Mái chèo khuấy nước đều đặn, hai mươi cánh tay hùng dũng lướt sóng vút vút, theo câu "hò dô ta" vang dậy góc trời. Thuyền thắng reo hò la hét khàn cả cổ. Thuyền thua buồn rầu kéo thuyền lật ngửa trở lại, lóp ngóp bơi vào bờ, la chửi bạn chèo dở ỏm tỏi. Trên khán đài, tiếng tù và thúc, trống giục liên hồi, dập dồn, bừng bừng niềm vui thích bốc cao.
Quê ngoại Hoài ở làng Thuận Nhơn, không cách xa quê nội là mấy. Cậu mợ Ấm Cửu Ổn qúy mến gia đình Hoài không thể tả. Nhà cậu rất giàu có, ruộng vườn ông bà để lại, cò bay thẳng cánh, nhìn hút tầm mắt. Cậu hào hoa, phong lưu đúng mực công tử, trong làng không ai mà không biết, và kính phục tính hào phóng, rộng rãi với người trên kẻ dưới của cậu.
Cậu yêu thương đùm bọc che chở, tận tình giúp đỡ người cơ hàn, đến nơi đến chốn. Cậu cho giết trâu, bò, heo, gà, vịt, mời bà con họ hàng làng nước đến ăn mừng, chia sẻ niềm vui ngọt bùi với gia đình em gái ruột ly hương, trở về cố quốc. Cậu mợ có năm người con đã chết hết hai, còn ba là chị Hường, anh Trình, và chị Sao.
Thôn Thượng Phước, vào ngày lễ hội từ 13 –> 15 tháng 3 âm lịch, cả làng kéo nhau lên rừng bạt ngàn săn thú. (xã An Đôn, Quận Triệu Phong, thuộc Tỉnh Quảng Trị) Ấy là nơi gia đình ba má Hoài đã sống về nghề ương cây giống, như: Trà, cà phê, cam, quít, dâu, mãn cầu, bưởi đào, bưởi đường, cau, dừa, v.v...
Ba không quản ngại khổ sở, vất vả, nhọc nhằn, đâu có giống cây qúy, tốt, ba lặn lội đến, tuyển về nhà ương trồng, rồi cung cấp hầu hết vùng phụ cận, giá lời nhẹ nhàng, chút đỉnh, gọi là vui cảnh điền viên tuổi già. Có khi ba hào phóng cho không, tặng không, biếu không, chẳng nhận tiền vốn, nói gì đến tiền lời, cho dù tí chút, gọi là.
Quảng Trị đa dạng núi, đổi, cồn cát, đồng bằng, biển. Khí hậu khắt nghiệt, khi khô nóng hừng hực, mùa lạnh lạnh run rẩy. Giọng thổ ngữ âm nặng. Cổ thành Quảng Trị gồm 4 cửa và 4 bờ thành cao kiên cố bao bọc bởi lũy hào sâu hoắm.
Có dòng sông Như Lệ nên thơ uyển chuyển, uốn khúc xuôi về sông Thạch Hãn, giữa hai bờ tre xanh ôm quê hương soi bóng mát.
Trên sông Thạch Hãn nào đò ngang, đò dọc, khua mái chèo. Muôn câu hò tiếng hát tình tứ, thân thương đượm mầu dân tộc, nghe mà lòng chan chứa ngày mai. Ruộng lúa nương khoai, dân cư hiền hoà, chất phác mộc mạc. Sống yên vui, an phận bình yên, bên lũy tre xanh bao bọc.
Hoài yêu rừng sim Khe Sanh hoa tím bạt ngàn, chen cánh rừng lim xanh, gụ, huỳnh, trường, trám, đào, sến, mây song, đót, tràm. Yêu núi đồi Đông Hà trùng điệp bao quanh, dù đất đai rất cằn khô, thiên tai luôn đe dọa, mùa màng thấp kém. Yêu con đường đất đỏ ngoằn ngoèo uốn lượn, giữa hai bờ lúa lao xao, gọi gió lào khắc nghiệt, nóng khô hừng hực, gió nồm phía Nam nồng ẩm đất đai.
Đa Krông ngút ngàn trời mây sông nước thơ mộng, Lao Bảo cách cửa khẩu Lào - Việt chừng 2 km. Rú Lịnh đa số núi rừng già cỗi, đất nâu tím, nâu đỏ, nâu vàng, cả đất đỏ vàng trên phiến đá thạch sét, nhiều gò, đồi, núi trọc, có đá granodiorit hồng, lục đen, trắng lẫn trong đá bazang.
Sông Bến Hải - cầu Hiền Lương – thuộc địa phận Tỉnh Quảng trị. Hiền Lương có 7 nhịp, dài độ 200m lát nhiều ván gỗ tốt. Năm 1954 tên cầu Hiền Lương hiền lành lương thiện “bị lên đoạn đầu đài” bởi sự chia đôi vĩ tuyến 17 ác nghiệt! Lính “biên phòng của hai Thủ Đô” trên chiếc cầu “tai hoạ” nầy, hằng ngày họ vẫn bồng súng đi đi lại lại gát cầu. Lâu ngày thành quen mặt, họ cũng dừng lại giới ranh phân định, hỏi thăm nhau vài câu vớ vẩn. Hoặc chia nhau từng mẫu thuốc lá vặt, hút đỡ lòng lúc giá rét căm căm, qua đêm mưa phùn gió bấc.
Đôi khi đụng chạm chính kiến, họ cũng “đấu võ mồm” chửi nhau nhoi trời đất. Mỗi chính phủ của hai miền Bắc Việt Nam – miền Nam Việt Nam, được chủ quyền sử dụng tự do đi lại ở 447 miếng ván sờn úa trên cầu lộng gió kêu cót két, răn rắc, như lời tự trách thở than não nùng, ai oán.
Thật ra Hoài yêu nhất quê nghèo Quảng Trị với Trầm, Rừng Cấm thượng nguồn, lên ngã Ba Lòng, qua vùng biên giới. Gần giới tuyến có số ít sắc dân Paca, Tà ôi, Bru Vân Kiêu, Kơ Tu, Triêng, Dao, Xudăng, sống rải rác dọc trường sơn đông, trường sơn tây.
Hoài càng yêu hoa sen nở tươi đồng nội xen lẫn hoa súng, hoa lục bình, cỏ lát, cây năng, hoa rau muống màu tím nhạt, bon chen trong cảnh ao tù nước đọng bùn lầy bên mé đình. Yêu ngôi chùa cổ kính cong cong, rêu phủ đầy nóc, qua bao tháng năm phơi mình giữa nắng gió khuya chiều.
Mái trường làng năm căn bé nhỏ, làm bằng rơm với bùn tro, phân trâu phân bò khô, nhào trộn công phu, tô trét kỷ lưỡng. Nhìn xa giống như tường gạch xây, quét vôi vàng sạch sẽ. Nền đất nện công phu, nép mình bên tàng phượng vĩ, hoa đỏ rực đan đầy cành. Đại đa số dân vùng nầy làm ruộng, trình độ học vấn thấp kém, hơn 50% nam, phụ, lão, ấu, chưa thông thạo đọc, viết.
Tiếng ve sầu rền rĩ mỗi độ hè sang, nghe não nùng khúc ca biệt ly. Như thầy Phạm Lộc dạy Văn lớp Hoài, đã làm bài thơ dài thâm thúy, ý nhị, tặng học sinh lớp thầy. Đứng đầu hàng mỗi câu thơ, là tên của một học sinh trong lớp. Trong đó, Hoài thích nhất mấy câu thơ sau:
Từ độ xa nhau ai nỡ khóc.
Thế nhân một chuyến lỡ sông đò.
Hoa nở! Hoa ơi đã mấy lần.
Hương lòng úa lạnh giữa ngày Xuân.
Hường phai sắc thắm trong ngàn lá.
Sen tả tơi hoa, nhụy úa dần.

---

Kính mời quý độc giả xem tiếp
Trân trọng,
Last edited by Ái Ưu Du on 06 Jun 2011, edited 2 times in total.
Tôi ước mong học hỏi cùng quý vị: *Trau dồi tư tưởng *Mở rộng kiến thức *Nâng cao tâm hồn. Trao nhau niềm thành tín cậy trông. ÁƯD Cám ơn quý vị.
Ái Ưu Du
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $540
Posts: 237
Joined: 16 Jan 2007
Location: U S A
 
 

Truyện Tình Dài: Hiến Chương Tình Yêu -

Postby Ái Ưu Du » 23 Jan 2007

HIẾN CHƯƠNG TÌNH YÊU

Chương 16

BÊN ĐỒI HOANG VU


Con đường mòn gập ghềnh, dưới ánh nắng nhạt phai buổi chiều. Cánh đồng khô tiếp nối dãy núi đồi trùng điệp, nhìn mút tầm mắt, đến tận dãy trường sơn. Trước mặt tiền nhà là trăm ngàn núi rừng, cằn cỗi trùng điệp khác. Nhà dựa lưng bên sườn núi, là hàng xương sườn bao bọc bởi dãy núi bạt ngàn.
Hai mẹ con, tay xách tay mang, quà bánh đủ thứ, đi về dưới ngôi nhà tranh, ba gian hai chái thấp lè tè, khiêm nhường dựa lưng vào giữa hai ngọn đồi trọc.
Ba má ở gì chỗ đèo heo hút gió, khổ cực quá không biết! Mỗi buổi sáng Hoài cầm chổi quét nhà, quét sân. Nền sân rộng in đều đều từng hàng chổi tre. Sân bóng láng không một cọng rác cọng rơm, chạy dài thẳng tắp. Bên luống vồng cao, đất vãi phân tro tơi mịn, lú nhú vườn cải xanh um, đơm hoa vàng loáng thoáng.
Phía ngoài khuôn viên đất nhà, vỏ phong hóa trên bazan, phù sa ven sông thấp, có trầm tích biển, toàn sỏi đá, đá ong đủ cỡ, đất khô nứt nẻ sần sùi. Không phải khu đất phì nhiêu phù sa mầu mỡ, mà là những hòn đất, ném nhau bể đầu, cuốc lên mẻ lưỡi, gảy cán.
Chao ôi! Thế nhưng, trời không phụ lòng ba đôn hậu, kiên cường, cần mẫn, dù với đặc thù tự nhiên, thời tiết rất khắt nghiệt vào mùa khô, rất khổ sở trong mùa mưa. Hoài công nhận ba là người cần cù nhẫn nại, trung kiên với đất đai ruộng vườn vô song. Suốt ngày ba chăm bón từng li từng tí, cho cây non mọc lên xanh tốt, giữa cảnh hoang vu uá tàn. Đất cằn khô sau mấy mùa vun xới, nay đãi ngộ người lam lũ, phần nữa ba có kinh nghiệm trồng tỉa, biết lượng tính năm thuận tháng hòa.
Tháng 5 có lúa chiêm, tháng 10 có lúa mùa. Ba tận dụng đất đai trồng thêm khoai, sắn, đậu, bắp, nên bận rộn suốt năm. Trải qua mấy năm đầu lầm than khổ cực, nay ba đã gặt hái kết quả mỹ mãn không ngờ. Nông thôn hò câu ca dao: “Ai ơi bưng bát cơm đầy. Dẽo dai một hột, đắng cay muôn phần”. Rỏ thật vô vàn xúc tích, ý nhị.
Ba má đã già, làm sao cầm vững cái cày cây cuốc, mà gối không chồn chân không mỏi, vun xới từng luống cày, vồng đất, đổi chén cơm chan hoà bụi đỏ, mồ hôi nước mắt. Bao âu lo phiền muộn, lam lũ nhọc nhằn, đắng cay khổ cực, mỗi ngày một chất chồng lên cao, với nỗi buồn đã chín, dưới dấu chân hằn sâu trên mỗi bước đường gian khó.
Giếng nước, cách xa nhà hơn một cây số, gánh nước về, mệt hụt hơi, quảy đôi quai thùng lên vai, Hoài càu nhàu suốt, than thở một mình! Nàng sợ gánh nước, nhưng không gánh, thì ai gánh cho? Không lẽ bắt má gánh? Ngày còn nhỏ tí xíu, Hoài thích quảy quang gánh lên vai, đôi thùng chấm sát đất, Hoài thích thú kéo lê thùng nước mà. Quay lui quay tới, công việc nhà không tên, chẳng lúc nào ngơi tay.
Không ai chia sẻ bớt một phần gánh nặng với mình. Không ai giải quyết tình trạng nan giải. Bởi, mỗi người đều có muôn vàn khốn khó, cay cực, đau buồn, cay đắng riêng. Nơi chốn chó ăn đá gà ăn muối, toàn ruồi muỗi, kiến lửa, rắn, rết, bò cạp núi, to tướng, lỡ dại đạp trúng, nó cắn, nó mỗ, cho một cái, thì khó toàn mạng, có khi bay về âm phủ sớm.
Dẫu sao, nghe mấy chú bác lực điền, khen Hoài xinh đẹp, có ngũ thường: Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, có tứ đức: Công, dung, ngôn, hạnh, và sẽ tiến đến tam tòng: Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử; Hai lỗ mũi Hoài khoan khoái nở to. Ít ra mình còn chút sinh khí ở nhà quê... đáng tự hào. Bái phục. Bái phục.
Ở đây, gia đình Hoài sống biệt lập, với thế giới loài người văn minh. Đứng trên chót đỉnh ngọn đồi trọc sau lưng nhà, nàng nhìn nhà láng giềng trong làn sương xa tít tắp, đất, trời, gần cây cỏ thiên nhiên hơn.
Ba cây tùng chênh lệch nhau về tuổi tác, tầm vóc, thật đáng buồn. Một cây non èo uột mới lớn, giữa đồng khô cỏ cháy. Một cây đã chết nửa thân. Một cây xần xùi già nua, xơ xác, không đếm nỗi tháng năm. Những rễ cái cằn cỗi, khô lông lốc, tróc vỏ, nhô mình lên khỏi mặt đất, thân xù xì, bị bóc từng mảng da khô đét.
ưa kia cây đại trượng phu nầy, hiên ngang oai vệ, đứng trên đỉnh đồi lồng lộng, mặc gió thét mưa gào, nắng táp sương sa. Nay cây tùng bị những vết dao, chém thô vụng, cành cụt chìa chỏi lổn ngổn, lởm chởm, vô duyên nhô ra. Nham nhở quá chừng.
Ba Hoài ra sức nuôi dưỡng, bón phân, tưới nước cho “cha con cây tùng”, may ra chúng có hồi sức chăng! Má nói:
- Ôn điên hay răn, xách chi từng thùng nước, từ dưới leo lên đỉnh đồi, tưới cây tùng, cho khổ cực, mệt rứa!
Ba ngửa mặt lên trời, cười lớn:
- Phải! Điên hết. Chỉ có cây tùng, chứng nhân thời đại, là chưa điên mà thôi.
Trên đỉnh đồi nầy, không khí mát rượi êm êm, trong trong như ngọc thạch. Hoài giơ tay ra đón ngàn mây bay qua kẽ cành, về mở hội phương Tây. Nàng ngắm trăng rừng lạnh lẽo, vươn mình lên khỏi dãy trường sơn âm u trước mặt. Đồi núi ngút ngàn, trùng điệp rừng sim hoa tím buốt giá.
Vĩa hè nườm nượp đón sương, cuồn cuộn bay, ô cửa kính đọng sương mù, thành từng giọt mọng nước, trắng xóa, nhỏ tong tong xuống nền đất hoen màu, tạo thành những lỗ con con, hình chóp cụt. Bầu trời ướt sũng hơi sương, đọng trên cành lá ướt át, dưới ánh mặt trời mệt mỏi, dậy muộn vừa dâng.
Nàng thích ngồi dưới sườn đồi sim, nhìn mây thành giăng mắc, sương chiều phủ kín thung lũng. Xem cá lội nước ngược, xem chim bay biết hướng gió. Hoài có thể đoán, tàn lửa cuối bìa rừng giạt về hướng nào, để lo phòng cháy. Đôi khi nhìn rồng trắng lấy nước, Hoài biết trời sẽ mưa, thấy rồng đen xuất hiện, thì trời nắng. Mây thành ắt có loạn. Tháng bảy heo may, chuồn chuồn bay có bão, chuồn chuồn bay thấp là mưa, bay cao sẽ nắng, bay vừa là giông.
Ở nhà quê Hoài cần biết tiết hạ chí, con nước dâng ban ngày. Tiết đông chí con nước dâng ban đêm, Hoài lo phụ giúp cha mẹ già, quáng xuyến từ trong ra ngoài, trước khi thiên tai đến. Nhớ năm trước, ở nhà chị Khánh, một việc gì dù cỏn con, Hoài làm vẫn dở ẹc. Nay đã khác.
Còn hai đứa con độc thân, bàn tay thư sinh, quen cầm bút chưa quen cầm cày, anh Thuyền đỡ đần ba mấy công việc nhẹ nhàng, anh thiếu kinh nghiệm mùa màng đồng áng, là điều thất sách. Má làm đủ việc trong nhà, ngoài vườn, ngoài ngõ. Hoài phụ má cơm nước, đầu tắt mặt tối, mệt vã mồ hôi hột.
Khu rừng trên chỏm đồi xa tít, ghê rợn xiết bao, đám cháy, tỏa khói mịt mù, đỏ rực ngày đêm. Dân làng tụm năm tụm ba, góc nầy góc nọ, họ chỉ chỏ đụn khói đen sì, như cây nấm khổng lồ. Nào ai biết chiến trận xảy ra ở đâu. Có lẽ ngày mai tim con người ngừng đập, máu huyết không luân lưu trong cơ thể. Bầu trời là biển lửa. Tình trạng ra sao!
Bầu trời vàng cam vang gầm tiếng trái phá. Không có dấu hiệu nào khác, ngoài đôi lúc hiếm hoi, năm ba quân nhân cương nghị, vội vàng, lặng lẽ âm thầm, mệt nhọc, đi tắt ngang qua đồng ruộng khô, quần áo lấm lem bẩn thỉu, thương tật cùng khắp. Ngoài đường cái, đoàn xe GMC, đỗ quân lên ngã Ba Lòng.
Chiến cuộc kề bên nách. Hoài sợ quá. Ngày đêm thấp thỏm âu lo, mỏi mòn run sợ. Vài ba lần cháy rừng, khói lửa ngút trời, kèm theo nhiều tiếng nổ lụp bụp, thật ghê hồn, tàn cây mục, cỏ tranh phựt cháy rất nhanh, hằng triệu cuộn lửa nhấp nháy, tỏa bay theo gió xoáy, cuốn thốc bụi mù, hoa cả mắt, nóng rát, ngứa ngáy khắp người. Thật kinh khủng!
Dân làng thức thâu canh, quần quật dập tắt lửa, bằng những dụng cụ thô sơ, nhưng với sức cần lao bền bĩ, chịu đựng, kiên cường, mọi việc đã yên. Mấy ngày sau, tro đóng thành từng tảng mịn, dẫm chân bước lên con đường mòn cũ. Hai bàn chân Hoài nóng như phải bỏng, bụi tro bốc lên, theo từng bước giày, phụt lên cao quá đầu gối, hắt lên mặt, mũi, dính đầy tro.
Lúc thấy ngôi nhà thờ lú ra trên đầu dốc, cây cầu Mỹ Chánh đen đen, càng gần càng lớn. Hoài mừng rỡ đi trên đường nhựa bóng láng, đỡ cảm thấy sợ, hơn băng rừng lội suối vắng lặng. Đứng trên sân nhà thờ, nhìn về hướng Huế xa bao đồi sim.
Chợ búa một tuần hai lần đi, mua đủ thứ cần dùng, cho người làm nông vai u thịt bắp vạm vỡ ăn. Ngoài ba bữa cơm chính, má lo thêm hai bữa phụ, ăn dặm củ khoai củ sắn, uống ly nước chè xanh nóng, trước khi tiếp tục công việc nặng nhọc. Chợ làng quê, thân quen từng hàng thịt hàng cá. Họ vui vẻ mời chào mỗi khi má con Hoài ghé mua.
Họ thật thà đôn hậu, chất phác bán buôn. Không để muối tắm trong sương. Không nhúng rau vào trong nước. Không cột cục sắt vào bàn cân, cho nặng kí, thiệt người mua, lợi người bán.
Đi chợ có chú lực điền đi theo, gánh thức ăn về. Chợ Mỹ Chánh xa tám cây số núi đồi. Đường đi vắng vẻ điù hiu. Nhiều chỗ cỏ tranh cao lút ngực, Hoài lấy tay vạch tranh giạt ra hai phía, tìm lối đi. Tuy sợ rắn rết, bọ cạp, nhưng biết làm sao? Cánh tay, mặt, mũi, bị cỏ tranh tươi, sắc như dao cau, cắt nát đôi cánh tay, cào xướt rát bỏng, đau xót là thường.
Mỹ Chánh nằm trên quốc lộ 1, nối liền Huế và Quảng Trị, có quốc lộ 9 đi Lào, qua cửa khẩu Lao Bảo, toàn núi đồi trùng điệp, âm u qua khu Khe Sanh, Đa Krông, sát biên giới là hai tỉnh Salavan, Savankhet, (mà tự thuở thanh bình, hồi còn bé, có mấy lần, ba đã dẫn Hoài qua đó, để ba trị bệnh nan y cho Vương Quốc bạn) nối trục đường bộ xuyên Á.
Sông Thu Rơi quanh co huyền nhiệm lững lờ, xuôi về Phá Tam Giang lồng lộng gió. Hoài vội vàng kéo thân áo lạnh che kín ngực, cho khỏi gió lùa, cúi cong người bước nhanh, đôi chân luống cuống, bước đi khó khăn, gió xoáy tít giật vạt áo dài bay phần phật, dưới mặt trời hạ chí, nung rát đôi má cháy nắng, đầy chịu đựng, dưới nắng vàng tươi và hàng phượng đua nở.
Thỉnh thoảng có chiếc xe đò, xe GMC vút qua, nghe một tiếng vù, khiến nàng giật thót mình, tâm trí trở về hiện tại. Cứ ngỡ mình ở tít tọt trong rừng, Hoài đi thênh thang giữa lòng quốc lộ, có ngày tan xác. Chứ chẳng chơi.



thh
Last edited by Ái Ưu Du on 06 Jun 2011, edited 1 time in total.
Tôi ước mong học hỏi cùng quý vị: *Trau dồi tư tưởng *Mở rộng kiến thức *Nâng cao tâm hồn. Trao nhau niềm thành tín cậy trông. ÁƯD Cám ơn quý vị.
Ái Ưu Du
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $540
Posts: 237
Joined: 16 Jan 2007
Location: U S A
 
 

Truyện Tình Dài: Chương 17

Postby Ái Ưu Du » 23 Jan 2007

HIẾN CHƯƠNG TÌNH YÊU

Chương 17

HOÀ ÁI TẠ ƠN



Vào tháng ngày gần cuối đời, có lẽ ba má ngao ngán cảnh ô trọc, nhân tình thế thái lừa lọc, dối dang. Nay ba má chọn nơi Mỹ Chánh nầy làm quê hương thứ hai? Không đi tu ở đâu tốt bằng, tu ở nơi chốn rừng sim bạt ngàn nầy thật! Không niềm vui nào khác ngoài việc nghe radio thường xuyên.
Gia đình bây giờ gồm có bốn người, (ba má, anh Thuyền, Hoài) rất biết ơn người đã chế tạ ra chiếc radio. Người đã nghĩ ra việc thiết lập đài phát thanh. Qua làn sóng điện, chúng ta nghe nhiều chương trình hữu ích.
Dù xa xôi muôn trùng cách trở tận góc núi đầu ghềnh. Dù tay chân bận rộn vôvàn, bên tai vẫn nghe được, bao nhiêu chuyện buồn vui xếp lớp lăn tăn. Nghe giọng ca ấm áp tình người. Cảm ơn các nhạc sĩ, đã phổ lời nhạc vào lòng đời. Cám ơn giọng ca tuyệt hảo, thở vào không gian lẫn thời gian như Duy Trác, Sĩ Phú, Anh Ngọc, Tôn Thất Niệm, Mai Hương, Lệ Thu, Thanh Thúy, Bạch Yến. Giọng ngâm thơ dạt dào âm điệu trữ tình Hồ Điệp.
Nhất là cần thùng thư cũ kỷ nhỏ xíu, nhưng rất quan trọng với gia đình Hoài. Không có thùng thư, không có báo chí, gia đình nàng không liên lạc với ai. Không hề biết tin tức xảy ra trong nước, qua tờ nhật báo, ba đặt mua mỗi ngày. Cám ơn: Sở Bưu-điện. Những người phát thư. Những nhà in ấn báo chí, viết lách đó đây.
Bầu trời hầu như rực lửa, chẳng bao giờ dịu mát lớp da đất. Mùa hè gió phương Nam thổi, từng cơn, nóng khô hừng hực, xoáy theo nhiều con trốt, bốc hốt tất cả thứ gì trong tầm cuốn, tàn phá, cướp giật nhà cửa ít nhiều. Đó là phần cuối con đường đi tìm sự sống. Bên người già nua run rẩy trên luống đất thiếu mầu mỡ. Thiếu tin tưởng. Đó là kết quả một đời lao lực, cần mẫn của mẹ cha, nhỏ từng hàng nước mắt chan mồ hôi, trên luống đất khô cằn.
Ba má không sờn lòng, cấy lại nắm mạ đầu tiên. Với hy vọng bừng lên sóng mắt bờ môi. Không máy cày, con người làm thay trâu bò, vươn vai ưỡn ngực ra kéo, cổ cày vai bừa.
Tạ ơn Chúa cho con người có sức lực bền bỉ, dẻo dai, can đảm phi thường như ba má. Chúa ban cho sự sống ở môi trường nào, mức độ nào, gia đình Hoài vẫn sống kiên cường, trong sạch và danh dự, cố vươn lên với đời. Ba má rơi vào hoàn cảnh cay đắng, Hoài không hiểu ba má có hối tiếc, vì quyết định (có thể sai lầm), khi trở về trên bờ quê nghèo cũ không?
Con đường nào cũng có ánh sáng và bóng tối, có vinh hoa và cơ hàn, điều kiên định dứt khoát duy nhất là, ba má đi trên con đường đó, có khả năng phán quyết sự vật trong bóng tối cơ hàn. Hầu vượt ra ngoài ánh sáng sung mãn không?
Hay, đôi khi ở ngoài ánh sáng, còn bị thất bại. Hoài chẳng thấy ba má thở than, mà có phần cam chịu. Qua nhân cách sống vị tha, ba má coi trọng hạnh phúc, tình thương, phúc lợi người khác, hơn sống cho mình. Ba đúng là vị lương y như từ mẫu.
Vẫn hay, ba má không muốn thổ lộ nỗi niềm, xin người khác nhỏ giọt chút lòng trắc ẩn? Hoài ví ba má như Khuất Nguyên, thời Chiến Quốc lưu loạn liên miên. Cổ nhân là người trí thức hữu ngã, hữu nghì, tài trí, đức hạnh, bậc trượng phu ngay thẳng, gặp Sở Hoài Vương bất tài, nghe lời xu nịnh, Khuất Nguyên bị lưu đày, chết thảm trong ngục thất.
Hoàn cảnh cổ nhân ngày xưa, và ông thầy thuốc sắp đến tuổi "cổ lai hi" nầy, không khác chi mấy, có khác chăng là ở chỗ, biết vận nước đến thời kỳ tha hóa, ba tự giam mình trong góc núi, lánh xa bể đời luân lạc, mong phục hồi mảnh đất trống, khô cằn sỏi đá, đã bị đời vùi dập tơi tả, chính phủ chưa cần trưng dụng, lịch sử bỏ quên. Quên Đất Nước, quên Con Người.
Nhưng, có hai người không quên ba; Một người chú em ba: Trần văn Lý, người làng Cây Đa, Phủ Hải Lăng, chú đã đứng ra lập Hội Đồng Chấp Chánh tại Trung Kỳ. Chú làm Thủ Hiến Trung Việt năm 1948.
Thứ hai là ông Trần văn Hữu, người lập ra Quân Đội Quốc Gia, một chính khách lỗi lạc. Công dân quý trọng ông, đồng tiền thời đó có giá trị cao, tương xứng với mức cần lao. Đồng bào, được đãi ngộ xứng đáng. Hai ông đã mời ba tham chính. Ba chỉ mỉm cười hoà nhã cám ơn, ái ngại lắc đầu. Xin không.
Ngày xưa ba má cho Hoài tung tăng đến trường, vô tư hồn nhiên, như cánh bướm đầu xuân gặp nắng mới, Hoài không biết lo đói khát, nhọc nhằn, vất vả, âu sầu. Vật chất không làm Hoài lo toan phiền muộn.
Còn bây giờ? Vấn đề quan trọng là, làm sao có tiền mua thức ăn, cho tám người lực điền, trả công nhật cho họ, vào chiều thứ bảy? Thu gom đống củi khô vào chất bên chái hiên nhà, để ngoài sân cơn mưa rào bất chợt, bị ướt, làm sao nấu thổi? Hoài biết ơn họ đã ra sức làm lụng vất vả, nhọc nhằn. Để người chủ và nông dân cùng chia sẻ cơm ăn áo mặc.
Tìm đâu có gạo, mắm, lương khô dự trữ mùa đông? Khi cơn mưa phùn gió bấc, cơn rét rừng lạnh xé ruột da, không có áo ấm che thân. Sung sướng thay! Khi mình không phải chạy lo từng ngày. Nếu vườn nhà ai gần hơn, có lẽ anh Thuyền, và sẽ có Hoài theo anh, hái trộm rau cải, cây trái làm món ăn.
Thật thế! Vấn đề giáo dục, trí dục, đức dục, đạo đức ở học đường, qua sách vở, từ chương. Nay trở thành khôi hài đen, trước nỗi cùng khổ. Thì, giờ giáo huấn công dân, "Tủ sách Học Làm Người", là con số không rỗng tuếch. Sách vở, bút viết, giấy trắng mực xanh, mà làm gì, nếu mình "đói rã ruột".
Khi sự đói khát, đẩy con người đến cao độ, Hoài tưởng tượng, thèm miếng ăn kinh khủng, mơ mình giàu sang, ăn toàn cao lương mỹ vị. Chỉ cần nghĩ đến thôi, nước miếng đã ứa ra đầy miệng, là khát khao, cố tìm mọi cách, để có món ăn. Dù là món ăn đạm bạc nhất.
Anh Thuyền bẫy hụt con chim hoàng anh rất đẹp, anh sợ nắm chặt, nó sẽ chết. Nên anh nắm nhẹ quá, nó mỗ vào tay, vùng ra thoát thân. Hai anh em đứng dưới cây tùng cụt cành, tiếc ngẩn người nhìn theo con chim, hoảng hốt bay vút về chân núi. Trên tay anh vương lại vài lông ống, có tí máu hồng tươi.
Hoài đem lông vào nhà, cắm trong lọ sứ nhỏ trên bàn học, vẫn vơ buồn suốt mấy ngày. Thời gian trôi qua, giữa bến bờ yên lặng kéo dài, cánh lông không còn tươi màu vàng sáng, sắc nét như xưa. Gợi lòng Hoài buồn phiền hơn.
Ít lâu sau, Hoài lấp ló nơi song cửa, nhìn hai con sáo làm tổ, dưới nhánh chạc ba cây * sữa, cạnh góc hiên nhà. Anh không dám bẫy bắt chim nữa. Cạnh cây dừa, chim ác là là thân đen nhánh, có khoan trắng ở ức, không biết làm tổ, rình tổ trống, vào đẻ trứng nhờ.
Hoài lắng nghe anh chị chim líu lo trò chuyện, nhẹ nhàng thánh thót. Hoài đoán nghĩ hôm nay chúng vui hoặc buồn. Nàng cười vu vơ, dõi mắt nhìn công việc xây tổ diễn tiến đến đâu.
Một hôm, Hoài ngồi nhặt rau bên hiên nhà, nghe tiếng chiêm chiếp, ríu rít non nớt trên tổ, Hoài đứng dậy nhìn lên.
Hai đầu lơ thơ vài sợi lông, mỏ vàng mở lớn, ngóng cổ dài đưa qua đưa lại, run run, chờ mẹ mớm mồi. Sau đó ít lâu, nàng thấy bố mẹ làm huấn luyện viên, cho bầy con nhỏ chuyền cành, bay từng đoạn ngắn. Khi mọc đủ lông cánh, chim bay đi xây dựng tổ ấm riêng. Thỉnh thoảng quyến luyến quay lại chốn xưa, xôn xao, ríu rít ân tình.
Lạ thay, lúc trưởng thành quay trở về chốn cũ. Chim rủ thêm nhiều bạn bè thân thuộc, nội ngoại hai bên, hội hè đình đám suốt tháng. Chúng cất cao tiếng hót thâm tình lảnh lót bay xa. hân hoan hòa ái, không biết mỏi mệt. Chúng tri ân nơi chúng đã chào đời. Cây * sữa càng đông vui. Má vãi gạo lúa ra sân cho chim ăn. Chim có đàn cất tiếng hót thật hay. Như thể tạ ơn người đãi ngộ.
Tháng ngày dần qua, trong niềm tiếc nhớ không cùng về dĩ vãng, đậm mầu, đã một thời đượm nét phong phú hân hoan. Một mình Hoài len lỏi trên con đường mòn vắng khuất, nghe tiếng lá khô trở mình. Tiếng lá tranh xào xạc lùa trong gió. Tiếng vạc kêu đàn lẻ loi. Tiếng còi tàu buồn bã rúc trong sương chiều phủ sớm. Con tàu đi xa khuất, còn để lại một dải khói trắng đục cuồn cuộn, kéo dài đến tận chân mây, trôi trong bầu trời bàng bạc. Nhìn con tàu kéo theo dải lụa xám đục, lòng Hoài buồn bã vô hạn.
Tiếng bước chân Hoài quạnh hiu, cô lẽ dẫm trên sỏi đá. Mùa hè gió Lào thổi qua dãy trường sơn, nóng muốn lột da. Mùa đông gió Bắc thổi về, lạnh run cầm cập. Cảnh vật thảm sầu, cây cối tàn tạ bật gốc, ngả nghiêng. Phiền úa. Chao đảo.
Tất cả... Hoài nghe rõ, như tiếng lòng vang vọng. Buồn thiu. Còn đâu nữa những ngày yên vui bên mái trường xưa. Nơi có chuỗi cười hồn nhiên, giòn tan vỡ toang cổ họng! Còn đâu tháng ngày tung tăng dạo bước, cùng bạn bè qua bao thác mộng hồ mơ! Đâu còn ngày cũ vai kề vai, tay trong tay, mắt nhìn mắt, môi tìm môi. Hai người chụm đầu bên nhau, ngắm nhìn mặt trời êm ả, gửi muôn tia nắng vàng rạo rực, thương tặng trái đất!?
Còn đâu suối gần đồi xa, cánh đồng cỏ nâu vàng, êm mịn như nhung, lấp ló ngàn tia nắng lung linh, đuổi nhau trên lá cỏ. Mặt trời âu yếm nhảy nhót, trên hai mái đầu xanh chụm lại. Ta đọc cho nhau nghe bức thư tình thắm thiết. Tìm đâu thấy con đường đất đỏ, ngoằn ngoèo uốn lượn, xẻ sườn đồi ra làm đôi. Đâu đêm đông buốt giá xứ lạnh Đà Thành.
Dưới bầu trời đầy sương mù, có đôi bạn nhìn lên chòm cây, tìm đếm các vì sao, e lệ qùy gối bên nhau, nép mình bên đài mây. Ngắm nhìn đời sống phù dung trần thế. Còn đâu buổi trưa hè rạo rực tình thư. Ngày mùa thu xôn xao nỗi nhớ. Chiều mùa đông ấm áp mật ngọt tình hồng, cạnh lò sưởi!
Ôi! Quá khứ xa xôi, tưởng đã tàn phai theo tháng năm, nào ngờ bừng dậy, theo bước thấp bước cao, về trong đời sống khổ hạnh, lắm ưu phiền. Cái tình nho nhỏ chia xa, Hoài tưởng chừng ít sợi tóc đã rụng. Thật ra, đây là một cái đầu đầy tóc rụng! Thực tế khổ đau. Thực tế buồn lắm! Kỷ niệm chẳng thể phôi pha.
Hoài đóng khung cuộc đời mình nơi khu rừng già hoang vắng. Không ai biết mặt biết tên. Giản dị âm thầm, chất phác nghèo nàn. Như cô thôn nữ đồng nội, được số phận an bài. Cuộc đời bình thản, không khùng câu mồi, bằng miếng bả phù vinh, hầu đạt đỉnh chung, trong hoàn cảnh quá ư khắc nghiệt.
Tuy nhiên, rảnh rang đôi chút, mở lại xấp thư cũ, nhìn ảnh chụp chung với Hoàng ở Dalat, nàng xót xa tự hỏi " Ơ! Có một thời xa xôi nào, mình sung sướng vô tư, vui vẻ hồn nhiên đến thế sao? Một Hương Hoài tươi thắm giữa vườn hoa học trò, có người yêu hào hoa phong nhã, anh sống sang giàu nơi chốn phồn vinh sao? Thật đúng là, Hoài đã sống những ngày qua. Chứ không là mơ?"
Chính tháng ngày sống gian khổ nầy, cho Hoài biết bao đấu tranh, với từng cơn bão lòng. Ngắm ảnh Hoàng cất trong album, bên góc va ly, rồi nhìn mặt mình, từ phiên gương nhỏ phai mờ, chiếu rọi lại. Nàng thấy nhói buốt từng cơn đau trong tim. Ước gì đằng sau tấm gương rạn nứt nhiều miếng, Hoàng chứng kiến Hoài, có cuộc sống thế nầy. Anh sẽ cười vui, chìa tay ra đón em. Hay Hoài chỉ thấy phản ảnh tấm gương lạnh lùng!? Lòng Hoài chợt nao nao, xót xa, nhớ nhung, ưu phiền man mác, ấy mà nhớ ơn tình bất tận.
Một áo lạnh nhung mầu vàng mơ, kỷ niệm ngày ấy, do Hoàng ân cần trao tặng. Chiếc áo sao gợi biết bao nỗi buồn phiền, không vui thích. Tại sao? Có phải Hoài chỉ có một chiếc áo mong manh, nói lên phận nghèo, sự tàn phai theo tháng ngày, đong đưa nỗi nhớ thương, mến tiếc trên nhánh thời gian?
Lắm lúc, nằm vắt tay lên trán, nhìn mái tranh thủng lỗ, đem ánh mặt trời xuyên qua, nhảy nhót trên nền đất nện mốc meo. Nghe tiếng kèo cột rít khô khan, vặn mình răn rắc. Mỗi lần gió mưa chuyển mùa, bao nhiêu dự tính tốt đẹp của cô gái, phơi phới nét xuân thì, chợt tiêu tan theo mây khói.
Cổ nhân đã nói "Thứ nhất vợ dại trong nhà, Thứ hai nhà dột, Thứ ba nợ đòi". Gia đình mình, hội đủ ba yếu tố đáng buồn chăng? Dẫu sao, Hoài vẫn xin cảm ơn mái nhà tranh, nơi đã từng là chốn an vui thanh bạch. Ấy vậy mà ấp ủ đầy tình yêu thương mẹ cha, con cái nồng nàn. Và là bếp lửa sưởi ấm gia đình mình trong ngày đông giá rét.

_ * _


thh
Last edited by Ái Ưu Du on 06 Jun 2011, edited 1 time in total.
Tôi ước mong học hỏi cùng quý vị: *Trau dồi tư tưởng *Mở rộng kiến thức *Nâng cao tâm hồn. Trao nhau niềm thành tín cậy trông. ÁƯD Cám ơn quý vị.
Ái Ưu Du
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $540
Posts: 237
Joined: 16 Jan 2007
Location: U S A
 
 

Truyện Tình Dài: Chương 19

Postby Ái Ưu Du » 25 Jan 2007

HIẾN CHƯƠNG TÌNH YÊU

Chương 19

LỜI CUỐI



Hoài cố dập tắt mặc cảm, hoài nghi muộn phiền, ray rứt xót xa, bình tâm ngồi viết thư gửi Hoàng. Muốn viết thư dài, thật dài - Mong Hoàng hiểu rỏ: Cuộc sống của Hoài, từ nay đầy gian nan cay đắng, muộn phiền, nghèo hèn bên túp lều tranh. Buồn là thế. Nhưng, một ngọn lửa quắt quay nhóm bừng lên, ngọn lửa nội tâm ray rứt băn khoăn, bâng khuâng, lóe sáng từ khoé mắt. Ôi! Đó là ngọn lửa gì?
Biết nói gì bây giờ? Nói gì đây, khi ta một nơi người một nẽo. Khi hai thái cực còn ngăn cách. Hoàng, một Hoàng giữa Saigon xa hoa, được bạn bè mến thương, quý trọng. Người ta quý trọng anh, một phần dựa trên tư cách, lịch lãm quần áo, thanh lịch, ăn nói nhã nhặn tế nhị, vui vẻ bặt thiệp. Phần khác dựa trên thanh thế ba má giàu sang, có tiếng tăm trong giới thượng lưu.
Còn Hoài, bây giờ là cô gái quê nghèo hèn. Sống giữa núi rừng hoang dại, suốt ngày lam lũ, nhọc nhằn, mệt mỏi. Cay đắng với niềm đắng cay, đã trở thành sự thực. Mấy thằng học trò cũ, có lần nói Hoài là con bé lọ lem, đèo bồng yêu hoàng tử. Quả thật, chính lúc nầy mới là rất đúng. Không nên!
Không gian, thời gian, lẫn biên giới vô hình, như vô tình xô đẩy hai người, về hai ngã. Dù tình yêu hai ta cố gắng đan chặt vào nhau, dưới vòm trời đầy sao quê hương. Kỷ niệm vây chặt lấy Hoài, như loài kênh kênh bao vây xác chết. Nàng cười mỉa mai, chua xót, chế nhạo mình. "Một người đẹp" ngồi nghỉ mệt, bên hai thùng nước đầy, dưới gốc cây xoan.
Công việc chất chồng lên đầu, lên cổ. Thân thể nhễ nhại mồ hôi, đôi má rám nắng, tay chân chai, khô cứng. Một nữ kỵ sĩ không giữ lại gì, ngoài làn da nâu tươi. Nụ cười rụt rè, méo mó. Đôi mắt ánh lên tia vui mừng tàn nhẫn, khi trút gánh nặng đè vai. Đầu óc Hoài là một môi trường đặc biệt, các ý nghĩ xuyên qua đó, trở thành nghẹn ngào, chua xót, đắng cay. Làm rung khẽ cánh buồm yêu thương, mê đắm trong lòng.
Vô tình tự trong tiềm thức, câu nói Hoàng vang khe khẽ: "Hương Hoài! Kỷ vật dù bé nhỏ, nó có giá trị về tương lai, hạnh phúc một đời anh. Hãy cảm ơn Chúa, đã cho chúng ta gặp nhau, anh yêu em kinh khủng..."
Nếu anh biết rằng: Hoài không có gì, ngoài gian khổ, nghèo hèn, cô đơn và xấu xí. Liệu anh còn trồng cây si, trước cửa nhà tranh rách nát không? Đau khổ cùng cay đắng nào, đã làm Hoài khẽ nhếch mép mỉm cười chua cay, cặp lông mày nhíu lại, gần nhau đến thế!
Bóng dáng yêu kiều hoa mộng cũ, mất đi những nghi thức sống, xóa sạch đường ra hiện tại. Không lùi bước. Thì, Hoài tập can đảm tiến lên, qua bao chông gai khốn khó. Đừng tiếc nuối nhìn về dĩ vãng nữa. Phải hãnh diện, vì cảnh khốn cùng nầy, gia đình mình sống, dứt khoát sạch trong, cương trực, danh dự và cầu tiến.
Có thể vượt thắng mọi gian nan khốn khó, với công việc hằng ngày... Tất cả rồi quen đi, qua đi. Nhưng... Hoài không dễ dàng quên, chuyện tình đẹp và thắm thiết. Nàng đớn đau tự hỏi: "Làm sao mình có thể quên Hoàng, vô cớ đến thế? Khi cả hai không có lỗi gì. Không làm buồn lòng nhau. Còn yêu nhau, nghĩ về nhau, bằng tình cảm dịu êm, thân ái nhất".
Hoài lại băn khoăn nhủ lòng: "Thôi! Phải can đảm đoạn tuyệt với Hoàng, vì hoàn cảnh rất phức tạp và tế nhị nầy. Bây giờ còn yêu nhau, xin cho nhớ nhung thật bé. Mai sau ly tan, chia cách rồi. Có đau lòng vẫn thoảng, có buồn vẫn nhẹ. Cố gắng chấm dứt đi".
Nàng che dấu buồn phiền, không tỏ lộ điều đau đớn. Khiến ba má lo buồn, lại mắng chửi Hoài, thì điếc con ráy hơn. Bởi, khi nàng không còn suy nghĩ, bằng đầu óc, mà bằng miếng cơm manh áo. Nhất là ba má đã quá mỏi mệt, già nua, đau khổ ưu phiền. Thì mọi vấn đề giải quyết cuộc sống, dễ đốt giai đoạn lắm.
Hoàng không hay biết gì, sao có thể biết thêm về Hoài hơn chứ. Nên anh ung dung, ngây thơ, vô tình, hỏi thăm nàng về sức khỏe, việc học, niềm an vui buổi xuân thì? Hoàng viết đều đều, mười ngày một lá thư. Lời trao yêu như ngọn sóng vô hình, xuyên xoáy qua trái tim nàng. Hoàng hỏi..."Sao Hoài lười, chẳng chịu viết thư!? Nơi quê xưa, hẳn là em vui nhiều? Có còn là Biển Nhớ của anh không? Có bạn bè cũ mới, tri kỹ hội ngộ bên nhau. Em còn nhớ, hay đã quên người anh, ở phương trời xa thẳm rồi? hở Hoài? Em ơi. Có điều gì băn khoăn, lo lắng. Cho anh biết đi. Anh mong thư em vô cùng. Hay là...Hoài đã thay đổi? Hãy cho anh biết...
Nhận thư Hoàng, Hoài lo sợ toát mồ hôi, vội cất dấu thật kỹ, núp núp, lén lén, lút lút, đem ra bờ ao, góc giếng. Hoài ngồi hụp xuống bên bụi lau, khuất tầm mắt ba má, vội vội vàng vàng, run run, mở thư ra đọc. Đọc đến đâu, Hoài khóc đến đó, hai hàng nước mắt tự động lăn dài trên má.
Mười tháng trời ròng rã trôi qua, Hoài viết cho anh bốn lá thư, báo tin dời đổi địa chỉ, thăm hỏi hời hợt. Chẳng bù cho lúc ở Dalat, bảy ngày Hoài viết một lần thư. Trách sao Hoàng chả nói là “Hoài đã đổi thay”!
Hoài không thể chịu đựng đau đớn thêm, khi thể xác mỏi mệt, lẫn tâm hồn u uẩn, đắm mình trong dòng sông đau thương. Hoài đã quyết định. Mặc những lá thư đầy ắp ân tình. Không nhất định phải đau đớn, nhớ thương thêm. Phải đến lúc quên, không gợi lại niềm cay đắng, đã trở thành giọt nước mắt, nhỏ trên mỗi lời thư trao yêu.
Tuổi mười bảy non nớt trên đôi vai còng xuống, nhiều công việc nặng nhọc hằng ngày. Tim Hoài mềm, nhưng thân xác, đầu óc khô cứng. Hàng lệ nhớ thương ưu phiền nầy, không quật ngã ý chí cương quyết, của người em nhỏ. Hoài hạ bút viết lá thư đoạn tuyệt:

Mỹ Chánh ngày 01 Tháng 11 năm l961

Anh Hoàng,
Liên tiếp mười tháng nay, em rất vui mừng, khi nhận tất cả là: 29 lá thư anh gửi, qua các địa chỉ, em tạm dừng chân: Hội An, Đà Nẵng, Mỹ Chánh. Trước tiên, cho em kính lời thăm hỏi đại gia đình anh, được an mạnh, hạnh phúc. Em mừng.
Hoàng! Em rất mừng, rất vui, đã buồn, đã nghẹn, đã khóc, khi đọc thư an. Em cảm thấy mình sống lại, trên lời thư ân cần, nồng nàn, khéo mô tả ấy. Anh siêng viết thư quá nhỉ! Ngày trước em cũng thế. Bây giờ nghĩ lại thấy không tiện, sợ anh bảo em giàu tình cảm chăng! Hẳn nhiên, Anh và Em vẫn đồng ý với thiên hạ là: Đôi khi người ta không muốn giữ trong tay, một kho tàng, địa vị, hay một danh vọng, hoài bão; mà chỉ muốn lưu lại hình ảnh một kỷ niệm, khi dáng chiều chợt phai, trên con đường đầy bóng thông, cùng nhạc thông reo muôn thuở. Và, anh từng nói với em là: Kỷ niệm dù bé nhỏ đến đâu, chúng ta vẫn yêu mến, trân trọng, nâng niu, giữ gìn.
Thế nhưng bây giờ, em xin lỗi anh nhiều. Vì, thú thật, lòng em đã lạnh, lạnh hơn đống tro tàn anh à. Mỗi lần nhận thư anh, tình cảm được dịp cháy bùng lên; Cháy bùng lên như khô rơm chốc lát, để rồi trở lại hoang tàn.
Thư nầy viết cho anh, trước hết không phải là lời tâm sự, cùng bạn tri âm, mà là câu xin lỗi, với anh thân thương. Em thành thật xin lỗi, vì em mà anh băn khoăn lo lắng, ray rứt muộn phiền, chờ tin người em nhỏ. Nếu anh hiểu rỏ hiện tại em sống ra sao. Vui thú thế nào. Sung sướng trên ngọn đồi hoa sim tím nầy, với ai. Hẳn anh không mỏi mắt chờ tin đâu. Em xin lỗi không dám nói lên sự thật đau lòng. Nếu biết, anh sẽ đau lòng hơn. Thôi đành thế! Rồi sau nầy anh sẽ hiểu rỏ.
Quả đất dù tròn, đường đời lắm chông gai, hiểm trở. Em hy vọng sẽ gặp lại người xưa, vào tháng năm cuối đời. Biết đâu, đất Thần Kinh sẽ là nơi an nghỉ, của cánh chim giang hồ, đã mỏi cánh. Còn bây giờ...Hoàng! Em van anh. Hãy quên em đi. Mong anh đừng tìm gặp HH làm gì. Vô ích. Một lần nưã, tha thiết mong Hoàng hãy quên. Quên HH như quên một chiếc lá cuối mùa. Một giọt sương cuối phố. Tình yêu giữa Anh và Em, xin chấm dứt nơi đây.
Chúc anh như ý và hạnh phúc. Khi anh nhận thư nầy, em đã ...
Chào vĩnh biệt.
Hương Hoài.

Nửa tháng sau, kể từ khi gửi thư đi. Một hôm ôm củi về chất sau hiên nhà, người đưa thư đến hỏi tên Hoài, yêu cầu ký vào sổ lưu xong, ông trao nàng bức điện tín, từ Saigon đến "Kính thăm toàn gia đình, chúc bình yên. Xin vui lòng cho cháu biết, Hương Hoài có mạnh khỏe, an vui không? Mong tin lắm. Hoàng"
Non tháng sau, người đưa thư lại đến, lúc Hoài giặt quần áo bên bờ giếng. Bức điện thứ hai ghi: "Vui lòng cho cháu biết, HH có an vui không? Hạnh phúc không? Riêng nhắn Hoài, dù ở cảnh ngộ nào, Hoàng vẫn yêu Hương Hoài. Chúc em vạn sự như ý."
Tận cùng niềm nuối tiếc, Hoài đọc đi đọc lại dòng chữ, trên bức điện nhiều lần. Nó không là dòng chữ, bình thường nho nhỏ. Mà nhảy múa qua màn lệ mỏng, rưng rưng, lung linh. Tình yêu mang dấu ấn, nay trở thành dấu lặng, dấu sắc / dấu huyền \ to tướng, sắt lạnh nhọn hoắt, đâm suốt trái tim Hoài, đau đớn kinh khủng! Nước mắt đã tuôn trào.
Nàng quyết định cho mối tình nên thơ, chết đi đột ngột, oan ức tội nghiệp. Hoài không muốn dùng dằng, càng thêm đau khổ. Dù Hoàng không hiểu lý do tại sao chia tay nhau? Nàng nhờ anh Thuyền đi đánh một bức điện thượng khẩn, hồi âm tàn nhẫn: "Hãy quên Hương Hoài đi. Không việc gì đến anh. Mong Hoài sẽ sống yên ổn. Xin đừng quấy rầy. Chào vĩnh biệt "
Anh Thuyền kinh ngạc, hết nhìn em, lại nhìn hàng chữ xiêu vẹo, tự tay em mình viết. Mặc dù, lúc bình thường chữ viết của Hoài rất đẹp. Anh mặc quần áo ra đi, lẩm bẩm:
- Con nhỏ nầy... điên đến nơi rồi.
Ba tuần sau, Hoài nhận hai lá thư Hoàng. Hai phong thư viền sọc xanh đỏ, có đóng dấu ngày đi, dấu ngày đến. Thoáng nhìn, Hoài hình dung người đã đặt bút viết dòng chữ đẹp nầy. Bàn tay dễ thương kia, đã bóp nát trái tim em, hại nó đập bao nhịp cuồng quay, yêu thương đắm đuối, đau đớn đến hụt hơi, từng tháng ngày qua. Và, anh bị Hoài bóp nát lại, nhiều hay ít. Vì dù sao, Hoàng đã buồn phiền. Nếu Hoài không cự tuyệt, hai lá thư nầy sẽ quyến rũ, hấp dẫn xiết bao.
Nàng cương quyết chối từ. Tự trong thâm tâm, tình yêu phản kháng lại hành động, hàng nước mắt lăn tăn chảy dài trên má. Lúc hai lá thư niêm kín, không được mở ra, mà đốt vào lò lửa. Nhìn từng tờ thư phừng cháy, lụi tàn trong bếp lò. Giống như Hoài đốt tàn tuổi thanh xuân, trên từng đống công việc, nặng nhọc chất chồng hằng ngày, mút chỉ cà na.
Hoài ngồi bất động trong bếp, mắt lướt nhìn vô định qua bên kia sườn đồi. Triệu lá tranh cao, mảnh dẻ ngả mình nằm bẹp bên nhau, theo chiều gió xô. Bầu trời hạ thấp xuống theo mây thành, cuộn từng lọn trên đồi. Cảnh vật hoang vắng, càng ảm đạm. Buồn da diết bởi tiếng gà, vịt, ngỗng, ngan, chó, mèo, heo, trâu, bò, kêu la inh ỏi, ở góc chuồng nhà xa khuất.
Nhiều điều đã mất, cùng nỗi ân hận, và niềm luyến tiếc đọng mãi trong trí. Chẳng phai mờ. Thâm tâm Hoài hằng ao ước, trông chờ, hy vọng, sẽ trúng tấm vé số độc đắc, mình sẽ xây mộng vinh quang, trên toàn điện gia đình, và riêng mình. Hoặc hy vọng hão huyền có cánh buồm thần tiên, đưa đến biến cố hạnh phúc bất ngờ, đổi thay lý thú, mang gia đình Hoài ra khỏi chốn nầy. Nàng liên hệ cánh buồm, với nhân vật tưởng tượng, trong cổ tích, đầy văn nhã và cười như... điên.
Ba đan rổ rá trên bộ ván gụ, ba hút nửa ngọn thuốc vấn, còn nửa ngọn dụi tắt, rồi dán lên tường gỗ. Những đuôi thuốc quên hút tiếp, xếp hàng dọc, dính hoài không rớt. Má gỡ đuôi vất đi.
Nghe tiếng Hoài cười một mình trong bếp lò, ba quay nhìn con gái, qua vành trên chiếc mục kính trắng, bể mất một tròng, đôi mắt đẹp lão dưới hàng mi dài, dày và cong. Mái tóc bạc phơ trước tuổi, phơi cái trán quá cao, rộng. Khuôn mặt xạm nắng gió khuya chiều vất vã, nhọc nhằn, gầy ốm ít nhiều. Khiến mũi dọc dừa cao hơn, bộ ria mép bạc lốm đốm, che bớt đôi môi rộng, dày, tấm lưng dài hơi khom khom. Ba tằn hắng lấy giọng, rồi nói:
- Tối rồi, con không nấu cơm nước chi răn. Ngồi đó cười một mình. Qủy thiệt chớ. Ôn ưng nện một trận ghê.
Ba muốn các con nên người, làm bộ nói vậy, cho Hoài sợ, đi làm việc. Cách đây năm mười năm, các con quấy rầy, hư thân, lười biếng, ba đánh các con. Bây giờ tuổi tác cao, ba trầm tĩnh, nhược điểm tăng, trở thành cố tật. Ba vị tha, bác ái, yêu thương càng nhiều. Ba dễ dãi không khó khăn, trái lại vui vẻ như hiền phụ. Thuở xưa, các con sợ ba lắm, vì các con "hư thân quá chừng".
Ba như bóng cây tùng cha, trên lưng núi trọc sau nhà, cho tùng các con tựa vào. Dù các con lớn nhanh, như nước ròng chảy mau về biển cả. Ba chỉ "hù, dọa" thôi. Anh em Hoài đủ sợ danh ông thầy thuốc, nổi tiếng thanh liêm, tận tụy, cần mẫn với nghề mà.

*


thh
Last edited by Ái Ưu Du on 06 Jun 2011, edited 1 time in total.
Tôi ước mong học hỏi cùng quý vị: *Trau dồi tư tưởng *Mở rộng kiến thức *Nâng cao tâm hồn. Trao nhau niềm thành tín cậy trông. ÁƯD Cám ơn quý vị.
Ái Ưu Du
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $540
Posts: 237
Joined: 16 Jan 2007
Location: U S A
 
 

Chuyện Tình Dài: Hiến Chương Tình Yêu

Postby Ái Ưu Du » 26 Jan 2007

HIẾN CHƯƠNG TÌNH YÊU

Chương 19

PHIẾN U HOÀI



Cùng với không gian u trầm, thời gian mòn mõi, trôi qua bao đau thương, buồn nhớ. Tủi hận lẫn ngọt dịu, xen lẫn vào tâm tư Hoài nỗi khắc khoải, nhiều dư vị đắng cay. Cuộc sống chẳng còn gì! Thật chẳng còn gì, ngoài bộ máy hoen rỉ khô khan, suốt tháng vang lên cung điệu buồn bã, tiếng kêu não nuột tự đáy lòng. Kéo lê nhau theo tấm thân lam lũ, mệt nhọc rã rời, như kẻ mất hồn. Như người mộng du.
Một ngày kia, Hoài đã trọng bệnh, khi gió mùa đông bắc, xua những cơn rét rừng vào bếp lửa. Hoài mê man trên giường, bao nhiêu ngày sốt lạnh, ngủ không tròn giấc. Yếu đuối. Mệt lả bởi cái rã rời đớn đau, từ thể xác đến tinh thần. Hy vọng tàn phai. Tình yêu tan nát. Gian khổ xiết chặt, trên tấm thân cúi còng xuống, muôn phần cố gắng, mệt nhoài.
Hoài bừng tỉnh cơn mê, khi đám mây trắng bay ngang qua cửa sổ, in bóng xuống quả đồi. Đám mây bay dần khuất, cái bóng mờ biến tan theo, không ghi lại dấu vết gì. Nàng chống tay ngồi dậy, ngỡ ngàng nhìn ngôi nhà xa lạ: Nhà ngói tường vách, quét vôi trắng. Mới mẽ quá! Nhìn đồ đạc bày biện trong phòng, Hoài rất mừng, tim đập nhanh trong lồng ngực. Nàng thò chân xuống giường, quơ quơ tìm đôi dép, vịn tay lần từng bước theo góc tường, chân run run, đầu nặng trịch như đội đá, mắt nổi hoa sao, khi thấy ngôi nhà mới, cất trên khu đất cao, che nắng che mưa, sưởi ấm lòng người cơ cực, ngày đông tháng giá. Nhà cũ, nay làm bếp, làm kho chứa lúa rộng, ngũ cốc, mắm muối, có cả khu chăn nuôi gia súc.
Con chó Lu mập ú nù, đi từng bước nặng nhọc, xơ xác lông, không phải lông xù kiểu chó Nhật, mà xù lông bởi già nua. Ba má nuôi con Lu mười bốn năm, từ ngày nó mở mắt, đi chỗ nầy chỗ nọ vẫn mang nó theo. Có một lần dời nhà đi xa quá, ba má để lại cho chủ mới, họ cột Lu ít ngày, rồi thả ra. Một hôm má đến thăm nhà cũ, con Lu mừng rỡ, chạy ra chồm lên người má, nó rên ư ử trong mũi, đuôi ngoắt lia lịa, bỗng vụt chạy ra ngoài ngỏ, núp trong bụi cây.
Má về đến nhà, nửa ngày sau thấy con Lu chạy lui, chạy tới, ngửi ngửi chỗ nầy, chỗ nọ, ngoài sân, nó suả lên nhiều tiếng. Má mở cửa kêu vào, nó mừng không thể tả, chạy loăng quăng khắp nhà. Sợ thím chủ nhà buồn, tưởng má cho chó rồi, còn tiếc của, đến dụ về, nên lấy sợi dây cột cổ, dắt nó đem đi. Chẵng những không chịu đi, nó nằm lăn dưới chân bàn, kéo ghì lại, dùng mõ cắn đứt sợi dây, rồi chui tọt vào gầm gường. Dụ dỗ cho đồ ăn ngon thế nào, nó cũng không chịu ra. Gặp lúc thím Tạ đi chợ, má mời vào nhà chơi, nhân thể chỉ con Lu cho thím xem. Ba má đành mua con chó khác, đem xuống đổi.
Gia đình di chuyển từ Dalat về Huế, nó ngồi trên xe xuôi về quê. Sau nầy già rồi, đi đứng khó khăn, chậm chạp. Nhà nuôi thêm nhiều con chó khác, lúc trước khỏe mạnh, con Lu là xếp sòng, cai quản bầy chó, nay bị bầy chó nhỏ tha hồ ăn hiếp, giành ăn với nó. Ba má quý Lu hơn hết. Nó thông minh, biết phân biệt cầm thú gia chủ, không cắn hại, mà ra sức bảo vệ. Nó biết săn bắt chim, gà rừng, chuột đồng, tha về cho chủ. Nay già yếu, nó quanh quẩn bước đi chậm chạp, bên chuồng gia súc, lâu lâu sủa cụt lủn từng tiếng, như nhắc nhở đàn em: "Vừa phải thôi. Hãy coi chừng. Còn ta đây."
Ngoài thềm rộng treo chiếc lồng cu gáy, sơn son thiếp vàng, đang gù gáy bạn đời, nghe thật hay. Lồng bên cặp cưỡng đen tuyền nhảy nhót, tiếng hót líu lo. Cạnh chuồng trâu, bò, là mười bốn chú heo lứa mập ú, giống Yorkshire, với bầy thỏ, gà, vịt, ngỗng, ngan, ăn luá bên hông nhà.
Rau muống ngóng mình dưới ánh mặt trời, hoa màu tím chứa đầy nước, long lanh dưới nắng như chiếc chuông lụa mềm. Loại rau thật dễ chịu, dễ sống quá chừng. Anh Thuyền thả vài bó rau, nay mọc đầy, lấn lướt cả ao sen, cắt hoài không hết, cứ mọc trồi lên mãi. Ba đã tận dụng thả thêm rau cần nước, rau xà lách xoon. Hoa súng, cây năng, tự đâu chen sống. Má ưa cắt rau mang cho các nhà láng giềng.
Má cho năm con gà mái dầu ấp trứng gà, bốn con gà Tàu ấp trứng vịt. Mẹ gà "túc túc tục tục" cho gà con ăn tấm, một tháng sau vịt con "chít chít" dành ăn trong sọt tre đan thưa. Mẹ gà dẫn con đi ăn, bầy vịt thấy nước khoái chí, cả đàn nhảy xuống ao, bơi lội lặn ngụp thoả thích, mặc các mẹ gà, chạy lui chạy tới, quay quắt cào bới trên bờ, cục tát om sòm. Mẹ gà sợ con vịt chết chìm.
Bó rau lang cầm tay, má mê mãi nhìn, mấy con heo húc mõm vào mán ăn, giành nhau từng miếng. Chúng tợp cái ăn, vỗ vào mõm kêu bộp bộp, thật vui tai. Thấy Hoài thập thò nơi cửa sổ. Má vội quăng bó rau xuống đất, tất tả chạy lại dìu con về giườngï. Khuôn mặt má càng tiều tụy hốc hác hơn, vì nuôi con bệnh, lo con bệnh, lo đầy ắp công việc nặng nề. Nhìn má, Hoài càng mũi lòng, quay mặt đi, che dấu hàng nước mắt, tự nhiên ứa ra.
Tẩm dầu dừa ướt lên mái tóc Hoài, má cầm từng lọn tóc quấn vào ngón tay trỏ, gở thật nhẹ, sợ làm động chân tóc, con đau đầu. Mái tóc Hoài rối bù, như tơ vò đằng sau gáy. Nàng nằm trên giường bệnh lâu lắm, không nhớ là mấy tuần rồi. Mất cả ngày, má mới gở mái tóc Hoài xong. Mái tóc ước nhẹp dầu dừa, má thắt hai con rít, cột đuôi tóc bằng sợi cao su, thả ra trước ngực, nằm cho khỏi rối.
Má nấu cháo lòng thả, gồm: Lòng heo, bún tàu, nấm rơm, nấm mèo, huyết heo, dưới đáy tô, má đập hai tròng đỏ trứng gà so, rau tía tô, hành ngò xắt nhỏ, tiêu ớt, chút nước mắm. Aên xong tô cháo tuyệt ngon, mồ hôi toát ra đầm đìa. Má thay áo cho Hoài, tươi cười nói:
- Aên lòng heo, nghe nói độc lắm. Ơ, lấy độc trị độc. Con hè.
Chẳng hiểu do món lòng thả, hay do bàn tay ân cần chăm sóc, đầy tình yêu thương trìu mến của mẹ già, Hoài bình phục hoàn toàn, khi thời gian làm tuổi tác má, một sớm một chiều, héo hon nhanh đến thế. Chính sự khốn khó vây bọc, buồn tủi lo âu, đắng cay đau thương cuộc sống, đã sớm nhuộm màu đen trên mái tóc má, sớm bạc mầu mưa nắng gió sương, môi nhạt má phai, răng hạt huyền đen nhánh, dáng vóc bơ phờ, trán in vết âu lo, mắt luôn cúi nhìn, đôi lông mày xích lại gần nhau đến vậy. Lòng Hoài gợn lên nỗi bâng khuâng mênh mông, thấm thía, bờ mi trĩu nặng giọt nước rưng rưng, mọng mọng.
Lúc mặt trời vắt mình trên đồi, đụn lửa nơi góc núi, trông hừng hực hung hăng, ngày dần tàn, có vẻ như dịu đi, sau lớp khói đen dày. Làng quê yên lặng vô vàn. Lẽ sống gia đình Hoài giờ đây, dính liền với đất đai, ruộng vườn, làng mạc, ao bèo, rẫy sắn nương khoai. Không bám vào đâu ngoài đất. Đất ! Đất quê em nghèo lắm ! Như bài ca "Tiếng sông Hương" của nhạc sĩ Phạm đình Chương ghi đúng “Mùa đông thiếu áo, mùa hè thiếu cơm. Trời hành cơn lụt mỗi năm, khiến đau thương thấm tràn ..."
Lụt. Sáu ngày qua trời mưa gió bão bùng, gió xoáy cấp tám, cấp chin, thổi tung nóc nhà, vận tốc kinh hoàng, từ 65 đến 85 km/giờ, kèm lụt lội, thối đất thối đai. Cơn lạnh thấm qua thân hình co quắp, không đủ áo ấm che thân. Gió tạt vào tấm phên thưa lõng lẽo, mưa lọt qua vách cót hở ướt sũng. Ướt át cùng khắp. Một cái gì lạnh toát, rần rần chạy khắp thân thể, làm tê cóng toàn thân. Lạnh thấu xương.
Từ mùa thu, dọc Phan Thiết, Phan Rang, chạy dài ra Huế, có ngọn gió mùa Tây Bắc, thường mưa dầm gió bấc, mưa phùn suốt ngày đêm rả rích, có khi suốt tháng, thối đất thối đai. Từ tháng bảy mưa ngâu, mưa suốt đến tháng giêng, hai, không chừng. Tục truyền Ngưu Lang chăn trâu gặp Ngọc Nữ giáng tiên. Họ yêu nhau say đắm và cưới nhau, suốt ngày quấn quít, không chịu làm việc. Ngọc Hoàng giận, đày hai người ở hai bên sông Ngân Hà, (Milky Way) Mỗi năm Ngọc Hoàng cho phép họ gặp nhau vào tháng bảy, do chim quạ chắp cánh, nối liền hai bờ sông, làm cầu Ô Thước. Hai người khóc thương thảm thiết, đến nỗi nước mắt lưng trời, thành mưa dầm gió bấc, bão lụt luôn luôn.
Mấy bác nông dân, ôm lồng ấp đựng than hồng vùi tro nóng. Họ ngồi như co lại, vây quanh bếp lửa, dưới mái nhà rét mướt, hong đôi bàn tay gân guốc, khô khan cằn cỗi ra sưởi ấm,. Họ nướng củ khoai, luộc nồi sắn, ăn chén chè, chén bắp hầm, thơm nóng. Kể cho nhau nghe kinh nghiệm đồng áng. Đủ thứ chuyện nắng gió trở trời, vui buồn, nổ như bắp rang. Trời mưa lụt, ăn rồi ngồi một chỗ, họ cảm thấy bực bội, khó chịu. Suốt đời lam lũ lầm than vất vả, chẳng hề mở miệng kêu than, oán trách Trời bất công, cay nghiệt phủ chụp xuống đời. Họ than thở trời mưa lụt không có việc làm, buồn chán quá. Thật lạ. Nhiều tháng sống thân cận với người bình dân giản dị, chất phát hiền lành, xuề xoà, vui vẻ, đơn sơ chân chất, bỗng dưng lòng Hoài gợn lên chút tình thương thương, mến mến, vui vui, lo lo nơi lồng ngực đau đau, êm êm, mà dễ chịu.
Bây giờ Hoài hiểu, vì sao ba má làm nhà trên lưng chừng đồi. Mất công đi gánh nước xa giếng. Tha đôi nước về đến nhà, mệt hụt hơi, dù giếng có nước ngọt và trong veo, mạch ngầm phun lên từng bông hoa nước, trào ra thành khe suối nhỏ uốn quanh sườn đồi, trong khu đất vườn nhà. À thì ra... nay nước lụt mênh mông, đã lấp ló lên tới nửa cây dừa. Lụt to kinh khủng! Sau ngày nước rút đi. Lớp bùn lầy đục ngầu, là phù sa mầu mỡ, lưu lại nơi đất đai ruộng vườn.
Ba, anh Thuyền, tát ao tát đià từ hai tháng trước, cá tôm đủ loại, đủ thứ. Má phân chia cá biếu mấy chú bác nông phu, biếu bà con lối xóm. Ở nhà lớp kho nấu, lớp làm mắm, làm khô. Hai ba lu vại đầy, dự trữ mùa đông tháng giá. Tát xong cá, ấy là lúc ba và anh chuẩn bị sơn tréc chiếc ghe gỗ. Ba cùng vài người làm, hạ chiếc ghe úp sau chái hè xuống.
Đi quan sát một vòng lân cận, xem họ cần giúp đỡ gì không, coi tình hình con nước, thấp cao thế nào. Giăng lờ, đó, bẫy, chơm, bắt cá tôm, khi cơn nước rút cạn dần dần, đi chơm nhiều cá lớn bé, con mắc cạn, con vướng cây cối bụi bờ lau lách, không thoát kịp theo dòng nước.
Bỗng nhiên Hoài nhớ chuyện ông Noah, có con tàu khổng lồ trong cựu ước, với trận hắc hải đại hồng thủy, bên bờ eo biển Bosphorus, ngăn cách bởi Đại Trung Hải và Hắc Hải rùng rợn kinh khủng thuở xa xưa.
Vườn nhà khang trang. Đứng trên sân cao, nhìn xuôi về vườn cau, dừa, trồng đúng hàng lối thẳng tắp, như ngàn chiếc lọng xanh, cao nghều nghệu. Bốn cây rơm khổng lồ, là món ăn béo bở cho gà, vịt, chim cò bới móc. Thực phẩm cho trâu bò, và phương tiện thổi nấu thay củi ở đồng quê.

*


thh
Last edited by Ái Ưu Du on 06 Jun 2011, edited 1 time in total.
Tôi ước mong học hỏi cùng quý vị: *Trau dồi tư tưởng *Mở rộng kiến thức *Nâng cao tâm hồn. Trao nhau niềm thành tín cậy trông. ÁƯD Cám ơn quý vị.
Ái Ưu Du
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $540
Posts: 237
Joined: 16 Jan 2007
Location: U S A
 
 

Truyện Tình Dài: Hiến Chương Tình Yêu - Ch 20

Postby Ái Ưu Du » 27 Jan 2007

HIẾN CHƯƠNG TÌNH YÊU
Chương 20

XA XĂM...



Sau ngày bình phục, ba má quyết định cho Hoài vào Đà Nẵng, ở với anh chị Thương Huyền. Anh Thuyền đi Dalat. Nơi đây chưa biết cuộc chiến xảy ra lúc nào. Thế là hai anh em sắm sửa lên đường. Lòng mừng vui cuống quít, mong trời mau sáng, để đừng bị bỏ rơi lại nơi mảnh đất già nua, cằn cỗi quạnh hiu. Dù hai anh em đã sống quá lâu, trong đau thương xiết nặng. Xa...
Cha mẹ già ở lại giữa cảnh đồng quê, hoang vắng buồn tênh. Ba má đã sống đớn hèn, thầm lặng trong bốn mùa thương khó, âm thầm với tháng năm trầm thống loạn ly, từ Thành xuôi về Tỉnh, về Xã, Ấp, trên con đò quê hương. Qua bao thăng trầm trĩu nặng hai vai gánh gồng, còm cõi, vất vả ngược xuôi. Khuôn mặt ba má già nua trước tuổi, không đếm xuể tháng năm, đã xúc động trào giọt lệ, từ đôi mắt héo hon trong giờ chia tay. Mẹ con bịn rịn mãi không rời, trên cánh đồi hoa sim tím bạt ngàn. Má dặn dò con đủ thứ chuyện.
Ba má đã giao việc cho mấy người bà con, ở Làng lên trông coi. Ba má quá mệt mỏi, vì vật chất của cải phù vân, không muốn gì. Thú vui duy nhất của ba là thích mở mang đất đai. Quy tụ bà con, cháu chắt, xóm làng, ai không có công ăn việc làm, về ở một chỗ. Ba lo cho họ có cuộc sống khá hơn, là niềm ước mong canh cánh bên lòng. Với ý chí kiên cường, bác ái, ba đã đưa hai mươi lăm gia đình lên vùng nầy. Làm ăn sinh sống thoải mái, đầm ấm và thành công.
Trên khu Phu văn Lâu, bến xe phức tạp đủ mọi thành phần, đon đả mời chào bán mua, đánh lộn, giành giựt, chửi thề. Tốt hơn hết, Hoài xách va ly ra khỏi một đoạn khá xa, rồi lên đoàn xe đi Đà Nẵng, đi Hội An.
Hoài phóng tầm mắt nhìn quanh một vòng. Kinh Thành Huế có lũy thành chu vi độ 10 kilômét, cao 6m6, dày 2m1, có 24 pháo đài, nhìn trên phi cơ xuống, giống hình cánh sao tuyệt đẹp. Dưới cơn mưa bụi mù bay, dòng sông Hương gợn sóng lăn tăn, uốn mình qua cầu Trường Tiền, mờ mờ ảo ảo. Ở một đầu cầu, về phía tả ngạn, là nơi đúc tiền bạc thuở xưa, nên gọi là Trường Tiền. Ngày xưa cầu bằng gỗ, bị trận bão lớn thổi bay cầu. Năm l945 kháng chiến chống Pháp, cầu bị Việt Minh giật sập. Sau nầy, cầu đúc xi măng, sáu vài mười hai nhịp, màu trắng tuyệt đẹp.
Nước cống bên đường đục ngầu, cuốn theo rác rưỡi hôi hám. Một người hành khất già, khoát áo tơi mưa lá dừa chằm bằng tay, mục rách, gầy ốm, ngồi co ro dưới lề đường. Cạnh cái rỗ sứt vành, có đồng bạc cắt in hình bông lúa. Nước chảy dưới gối. Ông chìa chân ra đường. Nam nữ chạy xe đạp từng hàng ba, hàng tư, chạy như điên, tạt nước cống lên ngực ông già tư lự, run lập cập.
Cuộn mây xám bềnh bồng lững lờ trôi, giữa ngày mùa đông ảm đạm. Huế ướt sũng nước mưa. Huế giá lạnh, u buồn da diết. Nam nữ, thích mặc áo lạnh dầm nước, đi lên đi xuống, chen lấn nhau trên đường Trần Hưng Đạo, Phan Bội Châu. Họ lại đi xuống rồi đi lên từng cặp, từng nhóm. Nhất là ngày nước lụt, hai đại lộ nầy đông nghẹt người đứng, xem người khác lội nước say sưa. Họ làm quen, chọc ghẹo nhau, bàn tán ồn ào, cười đùa vui vẻ.
Bước chân Hoài cô độc, đã hững hờ lang thang qua nhiều nơi chốn xa lạ, lạnh lùng. Nơi đâu cũng thấy buồn, thấy chán. Nàng chỉ khóc thầm, giọt lệ không tiếng nấc, âm thầm lăn dài trên má. Không thể vơi nguội lòng phẫn uất, làm bừng bừng đôi má đỏ.
Đúng lúc đó, Thứ và vài bạn trai, đạp xe từ hướng cầu Trường Tiền đến. Thứ ra dáng vẻ thanh niên thật sự, cao lớn hẳn ra, khuôn mặt không già. Bốn năm rồi ấy nhỉ! Thứ thích đi lượn phố, tán gái lắm.
Không ngờ gặp, Hoài chưa kịp lờ đi, chàng vòng xe lại, ngồi trên yên, một chân chống xuống đất. Hai người kia ngồi cách Hoài, xa khoảng ba thước. Trước mặt Hoài, Thứ tươi cười chào hỏi nồng nhiệt. Đáp lại, Hoài gật nhẹ đầu, gương mặt lạnh lùng, không nhếch môi. Khiến họ cụt hứng, ngẩn tò te giây lát, rồi kêu Thứ đi. Không hiểu hai bạn kia nói gì, họ quay lại nhìn nàng. Ngập ngừng phút chốc, Thứ lại đến, cười gượng:
- Có lẽ, Hoài quên Thư rồi?
- Quên. Rồi thì sao?
- Tưởng Hoài nhớ, ghé dự sinh nhật chị Gái Nhỏ luôn.
Thứ nhìn chiếc va ly da ướt mèm nước mưa, cạnh chân nàng, mỉm cười:
- Hãy quên, chuyện hiểu lầm cũ đi.
- Chuyện gì không đáng nhớ, tôi đã quên hết, từ lâu.
Cùng với câu nói, là cái nhún vai, đôi môi Hoài bĩu ra, khá bất lịch sự. Thà nói được như vậy còn hơn cứ ấm ức, bực tức điều không thể nói ra. Thứ thấy quê với hai bạn. Nên đạp xe đi, không ngoảnh lại. Như thế mà hoá ra hay đấy!
Gia đình chị Huyền ăn cơm trưa, thấy em, cả nhà vui vẻ chào hỏi. Hoài lấy thêm chén đũa, ngồi vào bàn ăn qua loa. Em lấy quà ba má gửi gia đình. Hoài kể tình cảnh cha mẹ già, ở chốn đèo heo hút gió cho anh chị nghe, rồi nói:
- Theo em thấy, với số vốn liếng ba má đã bỏ ra lâu nay, phá đồi vỡ núi đó, tốn tiền bạc và sức lực nhiều quá. Chi bằng ba má mua một cái nhà nhỏ, con cái, ai hiếu thảo, mỗi tháng tài trợ vài ngàn. Ba má sống yên ổn. Không thích ở với ai, thì như vậy. Chứ "giàu nhà quê không bằng ngồi lê thành phố" Ba má già rồi, khổ cực với ruộng vườn vất vả. Làm việc quên ăn quên ngủ, vẫn không hết việc. Suốt đời cơ cực. Có nhiều tiền thật, nhưng chẳng mấy khi an nhàn.
Anh chị Thương, Huyền, đồng ý điểm nầy, hẹn đầu tháng sẽ ra thăm ba má, bàn chuyện đó. Chị Huyền cười, nói với anh:
- Nhiều khi thấy ba má quá tội. Cha mẹ nuôi mười con. Mười con không nuôi nỗi cha mẹ là vậy. Cứ mua nhà cho ôn mệ an cư, tự do. Có lẽ tốt.
Các cháu Châu, Trân, Vân, đã đi học trường dòng Tabert. Sơn đi nhà trẻ. Anh Thương đổi về làm ở Tiểu đoàn 52, trong nhà tất cả là chín người, mỗi mình anh đi làm việc, đồng lương Thượng-sĩ, không thiếu hụt, không dư dả! Anh đi làm, chị Huyền đưa Hoài bốn lá thư của Hoàng.
Có thư cách đây bảy tháng, năm tháng, hai tháng. Mỗi thư đều có hình phong cảnh, đoá hoa ép khô, vài cánh bướm rực rỡ, mà ngày tháng đã điểm lên dung nhan thầm lặng, nét ưu buồn héo hắt, tàn phai ít nhiều. Gợn lên trong quá khứ, chúng trở thành khác sắc, phôi pha, kém duyên đi. Tuy thế, nhìn kỷ vật đó, Hoài thấy lòng mình vụt bay về khoảng trời xanh trong vắt mênh mông.
Kỷ niệm êm ả một thời trẻ dại, xôn xao đắm say cũ, chính nàng tàn nhẫn bóp chết bất ngờ, vô tội vạ. Nay tình cờ mở lại tầng số đúng nhịp tim. Gợi về chuỗi ngày bâng khuâng, yêu dấu, luyến thương thầm nhớ vô vàn. Đôi khi quá nhớ và còn yêu Hoàng say đắm, Hoài thầm ước mong phải chi mình có đủ tiền xe, ăn ở, đi và về. Hoặc nhà anh ở gần bên, thì Hoài đã...
Lòng dạt dào trìu mến, đối với người cầm bút viết nhiều lá thư, ân cần nồng nhiệt thăm hỏi, lo lắng cho sức khoẻ, tương lai và hạnh phúc của Hoài. Lá thư sau cùng, lời lẽ chân thành săn sóc, nhưng xa cách buồn bã lời vĩnh biệt. Cứ như lá thư Hoài viết năm cũ, Hoàng ngỡ là nàng đã có chồng. Những lá thư mầu xanh êm ái, như tỏa ra khắp căn phòng, mùi hương kỷ niệm đậm đà dịu êm. Như chứa đựng cả đại dương nhớ nhung, âu yếm tình hồng.
Hoài ấp thư vào ngực, nhắm mắt lại hồi lâu, hàng lệ tuôn trào. Niềm xúc cảm, rung cảm, thương cảm bùng lên. Rồi từ từ lắng dần, lắng dần... dưới đôi hàng lệ âm thầm tuôn chảy, tự lúc nào! Được dịp khơi lại đống tro tàn, tìm phiến than hồng héo hon, Hoài đã khóc nhiều. Cánh cửa ngăn tuyến nước mắt vở vụn, bao đau thương buồn nhớ bấy lâu, được dịp tuôn trào. Đầu óc nàng là một môi trường đặc biệt, các suy nghĩ xuyên qua đó, trở thành hỗn tạp, mất niềm tin tưởng, không hy vọng có thể đến với Hoàng.
Con đường xa thẳm từ Hội An, Đà Nẵng, đi Saigon ngút ngàn, hơn chín trăm cây số núi đèo sông biển. Tình đôi ta cũng xa xăm dịu vợi thế thôi. Hạnh phúc bé nhỏ ngắn ngủi xa bay. Không thể làm tim nàng hồi sinh duyên tình ấm nồng trở lại. Cuộc đời thương đau trôi đi. Một lần nữa không chứng thực lới anh nói, trong hoàn cảnh tế nhị, đắng cay. Hoài phải chấm dứt với Hoàng thôi.
Bài ca "Lá thư" của Đoàn Chuẩn, Từ Linh có câu nầy, Hoài rất thích..."Anh quay về đây, đốt tờ thư, quên đi niềm ân ái ngàn xưa... Tình người nghệ sỹ phai rồi...
Tình người nghệ sỹ phai rồi! Nhưng tình Hoài chưa tàn phai theo thời gian. Nhất là những buổi chiều trời mưa vần vũ. Đầu đại lộ Phan Chu Trinh xám ngắt, như cuộc đời người con gái nhớ người yêu. Hoài nhớ Hoàng. Hoài yêu Hoàng, lòng Hoài cố gắng gượng, để khỏi thổn thức giữa cơn buồn. Cuộc tình chết đi đột ngột, đầy vô cớ, cất tiếng chào vĩnh biệt. Xé rách tấm màn yêu thương dĩ vãng. Phai mờ dấu chân kỷ niệm, một thời gắn bó nồng say trên lối cũ. Chia xa thật rồi. Không còn gì cho nhau, đã hết. Dù tình chưa tàn phai.
Thôi. Đã tự quyết định dứt khoát, thì cố quên đi, tình đầu nồng thắm tuổi hoa niên. Quên kỷ niệm vàng son một thời non dại. Quên tất cả. Hoài nhé! Hai ta như hai hố mắt của chiếc gáo dừa lăn lóc, ghi khắc lại mối tình sâu xa, một đời gắn bó. Nay đã mất vẻ nhìn ấm áp, trìu mến và trân trọng. Sẽ mãi hững hờ. Xa xăm...
Cắp sách đi học lại, Hoài bận túi bụi với bài vở khó, quá dốt, nhưng nào còn ai ở bên cạnh, chỉ dạy cho? Trường lạ, lớp mới. Không có một người bạn hỏi thăm, dù câu chào hỏi xã giao lạt lẽo, ngắn nhất. Thật buồn, chẳng có gì vui.
Hoài tự đóng khung cuộc đời mình giữa bốn bức vách, khép kín nụ cười, đóng cửa trái tim đau thương vào cuối ngăn kéo vô hình. Hoài xếp thư từ hình ảnh, tặng vật lưu niệm. Niêm phong vào túi xách, cất dưới đáy va ly, chờ có dịp thuận tiện, chính tay mình sẽ hoàn lại cố chủ.
Cuộc chia biệt dẫu không hề có lý do, ít nhiều đã phụ tình nhau rồi. Hơn nữa thời gian cách ly quá lâu, không thư từ liên lạc gắn bó. Không gian vời vợi cách trở, xa xôi biền biệt, ít nhiều gì, tình cảm cũng nhạt phai trong lòng mỗi người. Hoài muốn trở thành cánh chim hạc bay thẳng về miền Nam, đứng xa xa nhìn thấy Hoàng hạnh phúc. Thầm nhớ anh, yêu mến anh, như người thân quen nhất. Thua thiệt có về mình, Hoài xin nhận chịu.
Anh Thương đổi ra Đà Nẵng, cả nhà lại dọn đi, đời lính nay đi mai ở, vợ con lính chẳng mấy khi yên ổn một nơi. Chị Huyền đã sanh thêm một cháu trai. Tất cả năm cu cậu! Chị mong kỳ nầy có một "công nương". Khi thấy mặt bé khôi ngô lạ, chị không muốn gì hơn. Về nhà, chị lo xông hơ rất kỹ. Gừng muối, nghệ, riềng, giã nhỏ, mỗi loại một hũ, ngâm rượu chôn dưới đất bách nhật, đào lên. Thứ thoa mặt, thứ thoa thân thể. Nằm trên vạt giường, dưới đốt hai lò lửa, chị lăn qua trở lại như con cá nướng. Chị luôn xức dầu gió, gội đầu bồ kết, trùm kín mền, xông nước lá hương nhu, lá sả, lá bưởi, lá cam, quít, ổi, vân vân...
Căn nhà nhỏ lúc nào cũng tối mù, luôn luôn thiếu ánh sáng. Không có gió và không khí, chị kiên gió nằm trong phòng kín. Cả nhà ngột ngạt, vì mùi hỗn hợp trên. Thật khó ngửi. Thấy chị ở cử, Hoài sợ đến rùng mình. Bà mẹ chồng chịu thương chịu khó, lo cho con dâu và cháu nội chu đáo, mặc dù nay cụ gần chín mươi tuổi. Do chẳng có ánh sáng, mắt không tỏ, cụ sơ ý chưa lau sạch nước, cuống rốn cháu bị lở.
Khi chị phát hiện thì đã muộn. Từ bác sĩ công, tư, bất cứ nghe ai mách bảo thầy hay thuốc giỏi, anh chị đều đi chữa trị cho cháu, có người bày tìm gà ác, hay cóc đen còn sống, mổ bụng úp con vật lên ngực cháu trong bảy ngày. Anh chị tốn tiền kinh khủng.
Sau cùng cháu nằm trong Tổng Y Viện Duy Tân, suốt hai tháng hè. Tại đây trung úy y sĩ Ngọc độ ba mươi tuổi, ở Saigon mới đổi ra làm việc, ông rất tận tâm, chu đáo. Ông ngồi hằng giờ bên giường bệnh nhân, theo dõi từng diễn biến nhỏ nhặt. Có lẽ sự nghiêm nghị, đứng đắn và lo lắng, khiến khuôn mặt trắng trẻo có nếp nhăn, đeo kính cận, mắt đỏ hoe, trân trân nhìn từng cử động cuả cháu, ông giàu lòng nhân ái, chứng kiến nhiều cảnh thương tâm bi lụy, nước mắt sẽ tuôn chảy nhiều.
Mỗi lần lên cơn động kinh uốn ván, cháu khóc thét, tay chân co giật, bụng ưỡn ra, đầu ngửa về sau lưng, mắt dại thần sắc. Cháu càng ngày càng gầy trơ xương, trông quá thảm. Ông viết giấy cho cháu về nhà. Hai giờ sau cháu tắt thở. Cháu ra đi êm ái, như ru đời vào giấc mộng tiên, không vặn mình la khóc, làm kinh, như khi còn sống. Cháu nằm giữa hai hàng bạch lạp sáng ngời.
Chính tay cha đóng quan tài cho con, mà mắt như lạc thần. Người ta nói văn thi sĩ tả chuyện đau buồn ai oán chia ly, thêm thắt trời mưa gió bão bùng, lụt lội tơi bời, cho ly kỳ hấp dẫn. Nhưng tháng nầy là mùa mưa, vài hôm nay mưa lớn. Mưa ngoài trời thật. Mưa cả trong lòng.
Nhiều người đến thăm viếng, chia buồn. Chị Huyền phân công mấy đứa con lớn canh chừng xác, từ tám giờ tối đến mười một giờ. Anh chị thức đến ba giờ sáng. Hoài và con bé người làm, coi chừng từ ba giờ đến sáu giờ sáng. Ba giờ sáng!
Hai phụ nữ non đời chết nhác, tim đập thình thịch, quặn thắt từng cơn đau điếng trong lồng ngực, ngồi co ro nơi góc ghế. Nhắm mắt lại sợ ma, mở mắt ra nhìn, cháu nằm trơ trọi trên giường lạnh lẽo, nước mắt Hoài tuôn trào. Hoài nhìn đâu đâu cũng sợ ma. Sợ kinh khủng! Hoài run sợ đi vặn đồng hồ báo thức cả nhà dậy lúc bốn giờ hơn. Hoài không dám vô phòng ngủ, sợ ma đi theo mình. Em bị chị la một trận, vì tội vặn đồng hồ lên lếu láo.
Chị Huyền không biết, khi anh Tư bị tai nạn xe hơi khá nặng, phải chở vào bệnh viện Dalat cấp cứu. Chị Khánh gọi Hoài lên coi chừng anh, (cho chị ngủ trưa một chút). Thấy anh Tư đầu băng trắng, trán, hàm dưới bị bể, mặt mũi sưng húp, tím bầm méo mó, tay chân đầy máu, hơi thở phì phò khó nhọc, phun ra máu mũi. Hoài sợ đứng tim, ngất xỉu. Đủ ba lần, mỗi lần đến là xỉu. Chị Khánh phải gọi y tá, mời bác sĩ đến chích thuốc.
Chị Khánh tức bực vô cùng, có đứa em yếu bóng vía, khi đụng chuyện, cần nhờ giúp đỡ một tay. Chẳng những em không nên trò trống gì, khiến chị lo lắng, vất vả mệt nhọc hơn. Các chị không biết rằng, Hoài rất nhạy cảm, thương cảm, đầy xúc động trước cảnh thương tâm, không cầm nỗi lòng trước đớn đau của người khác.
Trời mưa không lúc nào tạnh, khi nặng hạt, khi mưa phùn gió bấc. Mặc dù thế, lúc đưa cháu đến nơi an nghỉ cuối cùng, bạn bè thân nhân đi rất đông. Ba má vào trước vài ngày, toàn gia đình chụp chung vài tấm ảnh lưu niệm. Chị Huyền kêu khóc thảm thiết, người chị mềm nhũn như cọng bún, đi không vững. Kể từ khi chị mang bầu cháu đến bây giờ, chị tốn rất nhiều tiền, sức lực cạn kiệt hết.

_ * _



thh
Last edited by Ái Ưu Du on 06 Jun 2011, edited 1 time in total.
Tôi ước mong học hỏi cùng quý vị: *Trau dồi tư tưởng *Mở rộng kiến thức *Nâng cao tâm hồn. Trao nhau niềm thành tín cậy trông. ÁƯD Cám ơn quý vị.
Ái Ưu Du
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $540
Posts: 237
Joined: 16 Jan 2007
Location: U S A
 
 

Truyện Tình Dài: HIến Chương Tình Yêu - Ch 21

Postby Ái Ưu Du » 30 Jan 2007

HIẾN CHƯƠNG TÌNH YÊU

Chương 21

TÌNH GIA TỘC

Khi ngọn đồi còn ẩn hiện dưới làn sương mờ mờ đục. Ngày ngày bốn chị em thả bộ vào rừng hái sim ăn thỏa thích. Trái sim no tròn mọng chín, ngọt lịm thơm phức, họ hái say sưa, ăn đã đời, môi người nào người đó tím ngắt, cổ họng rát bỏng, khô khé. Có ngày họ xuống thăm ruộng nhà, hái dưa gan ruột đỏ au, thật ngọt và dòn chắc, ăn vào đâu mát đến đó.
Lúa mới trổ đòng đòng xanh mởn mượt mà, đan kết lại với nhau thành tấm nệm nhung óng ánh, nhấp nhô sóng lúa rì rào khi gió lùa qua, trông đẹp vô cùng. Ớt chín rộ đỏ rực cả khu vườn rau, nhân công mồ hôi đầy lưng thu hoạch suốt tuần, phơi ớt giã thành bột. Ớt cay nóng, người ta hách xì, nước mắt nước mũi tha hồ chảy, trông thật ngao ngán. Vườn rau không kịp hái, cải úa vàng trên luống, mặc đàn gà năm ba chục con tha hồ bới móc.
Đêm đêm anh Thương, anh Thuyền đi săn thú rừng, thịt rừng ăn thật ngon. Cánh phụ nữ đi lưới cá rất vui. Đủ mọi thứ cá, tôm tươi ngon nhảy tưng tưng trong lưới. Cả nhà rủ nhau đi đặt lờ chơm cá trê, cá lóc, lươn, ếch. Gia đình có đủ mọi thứ ngon lành. Khi thời cơ đến công việc làm ăn thuận lợi phát triển đều đều như nước chảy xuôi, mua bán tấp nập. Nhà phát tài kinh khủng. Ba biết thích ứng với cuộc sống mới, có óc sáng tạo, có kế hoạch làm ăn chu đáo. Mùa màng trúng lớn, kho vựa đầy ngũ cốc. Cha mẹ dư tiền mua năm con trâu, hai chục con bò Cam Lộ. Người chủ chỉ bán cả bầy ba mươi chín con. Ba phải làm giấy vay tiền ông cố mua thêm bò. Cuộc sống gia đình Hoài, khá an thái thanh bình, dưới lũy tre xanh bao bọc được bao năm.
Cha mẹ bỏ làng quê xa xôi đầy tai biến chiến chinh, vào miệt Mỹ Chánh mua đất khai hoang, Vết hằn sâu trên trán như đường cày đã tố khổ nhiều tháng năm lao đao lận đận. Nữ chợt nhớ cảnh vườn quê mới, bóng dáng cha mẹ già nua thấp thoáng sau bụi chuối vườn tiêu, chăm bón từng vồng khoai nương sắn. Cây mít bên góc nhà có ríu rít chuồng chim bồ câu sơn xanh sơn đỏ ? Cả chuồng cúc cu gù gáy bao mùa mưa nắng?
Chị Sáu Huyền nuôi khoảng năm mươi con gà, lúa ở trong kho, chị lấy ra vãi đầy sân, cho gà ăn thoải mái. Cứ vài ba ngày chị làm thịt một con gà mái tơ, cho con chị ăn. Chị sống vị kỷ nên mấy em út không ưa. Vài lần, chờ chị bưng thau quần áo xuống sông Như Lệ tắm, giặt rất lâu. Ở trên nhà nầy, chị hách nấu sẵn nồi nước sôi, anh thuyền lo đi bắt gà, cắt cổ nhổ lông. Hoài nhỏ xíu đứng dưới giàn hoa thiên lý, canh chừng chi Sáu Huyền lên chưa. Ba chị em luộc gà vừa chín tới, chắm muối tiêu, ăn ngon lành. Chị em Hoài ghét tính chị Sáu vị kỷ, chứ không phải thèm khát gì. chỉ biết có mình và chồng con, mặc dù ở chung nhà, cơm nước cha mẹ nuôi, mà chị còn phân biệt đối xử như vậy!
Chị Huyền nấu ăn ngon cở nhà hàng Hồng Kông. Tính tình chị nhẫn nha, từ tốn điềm đạm thành chậm chạp, không nghiêm khắt như chị Tư. Duy có điều chị nói chuyện dai như đỉa. Một chuyện vui buồn nào, chị nhắc đi nhắc lại hoài. Hoài vui lây hoặc buồn lây vì chuyện của chị. Chị luôn trách cha mẹ, đã nài ép duyên, khiến đời chị trôi nổi rày đây mai đó, khi lên voi lúc xuống chó.
Bây giờ chị đang lên voi, vòng vàng xuyến nhẫn, đeo trên người năm bảy lượng, của chìm của tư không kể. Nhưng trách chị vẫn cứ trách, chị vô cùng tiếc nuối về mối tình đầu:
Chị và anh Cư yêu nhau âm thầm kín đáo, không ai biết suốt bốn năm trời. Bỗng một hôm cha mẹ biết, ngăn cản chị quyết liệt. (Bởi vì, trước khi yêu chị Năm, anh Cư đi hỏi vợ là chị Hồng, làm rể với gia đình cậu ruột, anh của mẹ. Sau đó, cả gia đình cậu từ hôn, vì anh Cư rất cà tửng, bốc đồng không chịu nỗi, có dòng máu điên điên).
Buồn tình và thất vọng tràn trề, anh rời thôn làng nơi đã chém nhát dao đầu tiên vào bờ ngực phải tươi vết máu. Anh Cư đi Dalat lập nghiệp, ban đầu làm công cho ông Đội Có giàu nhất nhì ở Dalat. Anh trồng hoa tươi, theo xe đò đem hoa về Saigon bỏ mối bán cho các sạp hoa ở đường Charner. Anh săn sóc cẩn thận mấy con chó bẹc rê, theo chủ đi bán giá rất cao cho khách xộp. Thỉnh thoảng anh Cư diện bộ complet tân thời, áo popeline trắng, quần polyester trắng, veston trắng, giày trắng, đầu chải tóc "tăng gô Si Noa" hai mái rẽ giữa với dầu brillantine láng coón, xức dầu thơm hiệu Charlie thơm phức.
Anh đến thăm gia đình o dượng Bộ Lại Thượng Thư, là em ruột của cô vợ hụt. Gia đình Hoài ân cần tiếp đón anh, như qúy khách. Do đi đây đi đó, tin tức nóng bỏng từ làng quê xa xôi, được anh chuyển đạt đến gia đình Hoài, từ khóm trúc bụi tre, cây đa đầu đình đến ruộng lúa nương khoai, bà con làng trên thôn dưới, từ ông A đến bà Z anh đều biết, kể rành mạch, đúng sự thật, không mảy may thiếu sót điều gì. Câu chuyện vui nổ dòn như bắp ran mỗi chiều thứ bảy, ngày chủ nhật. Anh ăn ở trong nhà như con cháu ruột.

Cha mẹ Hoài yêu thương anh, đáp ứng mọi nhu cầu vật chất và tinh thần gia tộc, ngoại trừ việc anh Cư yêu chị Sáu, cha mẹ nói dù anh Cư không thành chồng của chị Hồng, cũng xem như con rể nhà cậu, không lý chi thành duyên với con mình. Cha mẹ Hoài quyết liệt ngăn cản, không chấp nhận dù bất cứ giá nào. Trong gia đình họp khẩn, thông báo anh Cư biết, yêu cầu anh đoạn giao với chị Năm, đồng thời ngăn cấm chị Năm triệt để.
Một lần nữa thêm nhát dao chém trên bờ ngực trái của anh, lần nầy xoáy sâu vào con tim dại khờ vì yêu, buồn tình đau khổ và thất vọng, khiến anh như cái xác không hồn bỏ ăn bỏ ngủ, đi lang thang thất thểu ca hát, rong chơi, như kẻ mộng du bất cần đời. Một anh Cư duyên dáng thị dân, với bộ áo quần tây trắng nõn, là ủi thẳng nếp cao sang ngày xưa, nay trở thành một ông hề, ca hát không có tiền, lố bịch, khiến người khác sợ, với bộ đồ cháo lòng nhàu nát, hôi hám và tơi tả.
Cha mẹ đi tìm anh về, săn sóc thuốc men chu đáo, ở trên lầu ba. Thế mà, không hiểu sao, một hôm anh lẽn xuống lầu, tỉnh táo thu dọn ít đồ đạc cá nhân, chuồng đi biệt tích giang hồ lúc nào, không rỏ. Gia đình Hoài khổ công tìm kiếm anh, khắp mọi nơi. Nghe đồn anh bỏ vào chiến khu, không biết sống chết ra sao.
Chả hiểu chị Sáu có tiêm nhiễm dòng máu điên khùng của anh Cư không? Từ khi anh Cư biệt dạng, thì chị lầm lì ít nói ít cười, có người muốn đi bỏ trầu cau, dạm hỏi chị. Chị tự ý đi Saigon tìm kiếm anh Cư. Saigon rộng mênh mông như biển cả, làm sao tìm cho ra? Chị chưa biết Saigon ở đâu, mà dám bạo gan bạo phổi quá chừng. Sau vài tháng, chú Lý gửi thư cho biết, chị Sáu đang ở nhà chú. Ba tức tốc đi tìm chị về.
Đôi ba lần, chị làm lỗi hoặc cải lời cha mẹ, ba bắt chị nằm xuống ghế dài, lấy roi mây đánh chị. Chị gan lì, không hề khóc hay kêu rên, mặc dù tươm máu đít. Lần sau cùng cha đánh chị, Hoài lớn khôn, biết chút ít. Gần kề ngày cưới, anh chị lên nhà thờ, chị giở quẻ không chịu. Ba giận vì chị không muốn, sao không nói trước. Đến ngày, thiệp mời đã gửi đi, tiệc tùng bày biện. Cha mẹ biết ăn nói sao với họ hàng, làng nước? Ngày cưới chị, là ngày đưa tang khối tình sầu, chôn sâu xuống tuyền đài, mọi người bắt chị nghỉ tu.
Anh Thương khổ sở vô cùng, không hiểu vì sao chị không ưa anh, trong khi anh vô tư, hiền lành, chuyên cần chăm chỉ, nhờ vẻ ngăm ngăm đen, anh đẹp trai vì mũi cao, miệng rộng, răng trắng, nhất là nụ cười tươi, vui vẻ hoạt bát. Anh được lòng tất cả mọi người. Chỉ có tội anh ít học. Tuy vậy, anh chịu khó đi học thêm Bình Dân Học Vụ. Có mấy cô ở lứa tuổi chị, mê anh tít thò lò. Thế mà chị Sáu bị đòn, vì không ưa anh. Thế mới biết trái tim có lý lẽ riêng.
Bây giờ, mỗi mùa hè, gia đình chị thường đi biển hóng gió, picnic cho các con tự do thoải mái nô đùa ngoài thiên nhiên. Ngồi trên bãi cát vàng nhìn ra cửa biển Mỹ Khê, lòng Hoài bâng khuâng, ưu phiền vô hạn, khi thấy người đông như kiến, thoải mái tung tăng chạy nhảy nô đùa trên sóng nước. Trai gái dập dìu sánh bước bên nhau, hồn nhiên cười nói ồn ào, như chỗ không người.
Đi hóng biển nhìn người khác tắm thì thích, duy có điều bắt Hoài phơi bày thân thể, một phần kín ba phần hở ra giữa ban ngày ban mặt, chắc là ngượng ngùng chết. Ai chê Hoài cù lần, quê mùa, không có óc cầu tiến, thiếu thẩm mỹ nghệ thuật. Hoài công nhận, nhưng, bảo Hoài tắm sông tắm biển (vả lại mình có biết bơi đâu mà ham. Nàng xin chịu thôi.
Hoài thường dõi đôi mắt nhìn theo muôn cánh chim biển bay lượn trên vách núi, vào buổi hoàng hôn dần tắt ở đường chân trời. Chúng bay chụm lại khi tản mỏng ra rồi bay thành hàng dọc, hoặc ngoằn ngoèo như muôn sợi tơ bỗng chốc nở xoè ra như bông hoa trời, chúng vẽ đường bay lả lướt bay bướm vô cùng như những chàng phi công lão luyện trong bầu trời thênh thanh.
Chúng lao xuống nước rồi vút lên cao chớp mắt trông thật ngoạn mục, miệng không ngớt ríu rít gọi đàn, phát ra tiếng hót chiêm chiếp lanh lãnh trầm bỗng, hòa cùng tiếng sóng vỗ ầm ầm, tiếng gió reo bên hàng thùy dương. tiếng quà bánh rao bán hàng bánh trái, bán hột vịt lộn, bánh bò, bánh mì nóng, mía xâu, chè đá lạnh, đậu phộng rang, tiếng chuông cà rem lắc leng keng, tạo thành một âm thanh sống động, dập dồn, không ngớt hào hùng, cuồng quay và dữ dội.
Hoài nghe người ta nói bồ câu và yến là loài chim thông minh, biết yêu trọng gia đình và chung thủy nhất. Vào độ đầu thu, yến lấy lông tơ, nước miếng và thứ rong biển mịn, để xây tổ, trên khe vách đá cao cheo leo. Thường bị người ta dựng thang tre, cao vài chục mét, lấy tổ, đem về nấu ăn rất bổ phổi và hiếm qúy. Chúng cặm cụi xây lại, dù bị mất luôn luôn, không tổ, chẳng có con, nước bọt đã khô cạn trong hơi tàn kiệt sức. Vợ chồng yến không thiết ăn uống, bay lượn trên không suốt ngày, rồi bất thần đập đầu vào vách đá, chết tươi.
Có ba loại tổ: Tốt nhất là yến trắng, có dây tơ như tế nhân ngư. Yến vàng có chỉ hồng. Yến đen không bằng hai loại trên. Ở Việt Nam có loại yến quý mang tên Aerodramus Fuciphagus. Thế là các tay săn bắt chim, gỡ tổ, lại có dịp gỡ yến nhặt về, cho thiên hạ ăn nhậu thỏa thuê. Ôi loài yến sao biết yêu thương gia đình, thủy chung và tội nghiệp đến thế!
Suốt mười ngày, gia tộc họp mặt đông đủ tại nhà cậu ấm Cửu Ổn. Không bút mực nào tả hết nỗi đau thương tiếc nhớ cậu vào giờ phút lâm chung. Cậu ra đi êm đềm an thái, không buồn quay lại thế trần. Chị Sao đôi mắt sưng vù, khóc khàn cổ ngất xỉu mấy lần bên quan tài cha. Đám tang cậu lớn kinh khủng! Mỗi ngày mợ làm một con heo. Ngày đưa đám cậu, mợ làm một trâu, một bò, một heo, gà vịt ê hề. Bà con làng nước họ hàng đông như kiến.

_ * _


thh
Last edited by Ái Ưu Du on 06 Jun 2011, edited 1 time in total.
Tôi ước mong học hỏi cùng quý vị: *Trau dồi tư tưởng *Mở rộng kiến thức *Nâng cao tâm hồn. Trao nhau niềm thành tín cậy trông. ÁƯD Cám ơn quý vị.
Ái Ưu Du
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $540
Posts: 237
Joined: 16 Jan 2007
Location: U S A
 
 

Truyện Tình Dài: Noel Rồi Đó Ư

Postby Ái Ưu Du » 03 Feb 2007

Chương 22

NOEL RỒI ĐÓ Ư?!




Ồ! Chẳng lẽ ... Noel đã về rồi đó ư ?
Người ta hân hoan, ríu rít, xôn xao ân tình, gửi cho nhau quà giáng sinh, cánh thiệp nồng ấm, thắm thiết tình người. Đối với Hoài, Noel không còn nữa, như Nhất Tuấn đã có bài thơ: "Mimosa Thôi Nở" Trong đó có những câu thơ Hoài rất thích:
NOEL xưa anh nhớ:
Khi hãy còn yêu nhau
Nhà thờ nơi cuối phố
Thấp thoáng sau ngàn dâu
Anh chờ em đi lễ
Chung dâng lời nguyện cầu
MIMOSA, MIMOSA, bừng nở …
Ðẹp như tình ban đầu
Mới bốn mùa thu qua
MIMOSA, MIMOSA, vẫn nở...
Sao mối tình đôi ta
Ai làm cho dang dở ?
Đêm nay Noel đây,
Nhưng em không về nữa
Ðường khuya mưa bay bay
MIMOSA, MIMOSA, thôi nở …
Trong hồn anh đêm nầy …
Tháng ngày thấm thoát trôi qua nhanh, như bóng chiều câu qua song cửa. Thế là năm mới sắp đến rồi. Mới ngày nào Hoài "bị đưa lên xe về Huế", bây giờ cũng nhằm tháng chạp đây. Tháng ngày trôi qua nhanh, cho mình nếm trọn đủ, nỗi niềm cay đắng, đớn đau. Cùng cực buồn nhớ, thầm lặng, sao Hoài chẳng hết ngẩn ngơ lòng! Điệu buồn êm nhẹ, hẫng trên hàng mai vàng lốm đốm khoe sắc. Nắng cuối đông sót lại, nét hoen sầu, rả rích giọt mưa phùn bay bay.
Hoài thấy nhớ những cánh thiệp tươi mầu, dưới đáy va ly, muốn mở ra xem một lần, một lần rồi thôi. Chao! Nào có ích gì? Bạn bè chẳng có ai, nhất là "anh ấy" chắc hẳn đã quay về hướng khác; có nghĩa lý gì, chuyện tình trẻ dại hôm xưa. Hoài rất yêu bài thơ dài của Triều Hoa Đại, trong đó có câu:
Nửa bước em về, chiều nay tư lự.
Nửa bước em về, ngày xưa tháng cũ.
Bước đi bây giờ làm sao lam lũ!
Bước đi bây giờ buồn thế sao em!?
Ở tình bạn, cũng như ở tình yêu, có điều gì mong manh, chơi vơi, lẻ loi, khiến Hoài thầm nhớ khôn tả. Cuộc đời mình, như một hoang đảo ngoài khơi chói nắng, quanh năm toàn thấy đại dương mênh mông, bát ngát. Con tàu, lục địa, bờ biển, thì ở xa -rất xa- Tất cả dừng chân lại nghỉ ngơi, thân ái nồng nhiệt, (đôi khi có phần ích kỷ và ganh tị, nhưng tươi cười về sự phản bội đó) giây lát, rồi lặng lẽ nhổ neo đi. Hoài không giận, vì cho đó là sự kiện không quan trọng. Tình bạn non đời, sống có chiều rộng, nhưng chưa có chiều sâu.
Do vậy tình bạn dễ chịu, tình cờ, đơn sơ, như một túp lều, muốn cất lên bên sườn dồi, dưới rặng tre xanh, bên nương sắn, cạnh ao bèo, đặt nơi nào cũng được. Nó không phân biệt giai cấp sang hèn, học thức thấp cao. Chính vì thế, nó mong manh, dễ tan vỡ, chẳng mang vết buồn đau thầm nhớ da diết!
Hoài quan niệm tình yêu chân thật, thường kết thúc bằng cánh thiệp hồng, báo tin vui. Vì thế, họ cần nhiều dụng cụ, xây dựng nền móng gia đình, có mái nhà, hạnh phúc bền lâu. Mà, chính thân Hoài còn thiếu nhiều thứ. Kể cả tuổi đời. Kiến thức. Trí thức. Tiền tài. Kinh nghiệm sống.
** Cô Ba Thuận, năm nay ngoài bốn mươi tuổi, cùng bạn là cô Nga, hai cô bạn già suýt soát tuổi nhau, thân thiết dịu dàng rất mực, sớm đi mỗi người một ngả, tối chung nhau một phòng. Họ là hàng xóm, qua chơi nhà, xin phép chị Huyền cho Hoài đi phụ cô, trông coi cửa tiệm. Cô cười:
- Tiền! Tiền! Có tiền mua tiên cũng được. Hết sẫy! Chị đồng ý cho em Hoài, ra ngoài xã hội vui vẻ, thi thố "tài lăng" bé nhỏ mí đời, chị nhé!
Đại lộ Hùng Vương ồn ào, nhộn nhịp, tấp nập, đông đúc, người người chen lấn đi mua sắm tết. Cô và Hoài bận rộn, suốt từ sáng đến tối, chưa ăn cơm trưa, không ngơi tay. Nhưng Hoài cảm thấy vui, và hoà theo lòng phố thị huyên náo, không gợn chút ưu phiền.
Trong tiệm chỗ tụm năm tụm ba, người mua cái nầy, người mua cái nọ. Hai người lăng xăng rối rít, bán không ngừng tay. Bận rộn quá chừng. Bốn giờ chiều, hai chị em chia phiên nhau, vào góc phòng ăn cơm trưa, chứ đói chịu không nỗi. Nhà hàng mang cơm phần đến, từ mười một giờ trưa, thức ăn đã nguội, mỡ đóng váng trên mặt. Hoài ăn chẳng ngon lành, vì mệt quá.
Ngày thứ nhì, trước khi đi làm, Hoài ghé tiệm ảnh Phụng Ký, ở đường Đồng Khánh, lấy mấy tấm ảnh. Buổi tối về nhà, Hoài kinh ngạc, khi nhận được thiệp xuân của Phú, Đông, chị Hạnh, và vài người thân. Phú giới thiệu Đông gửi thư cho Hoài, (Hoài không quen biết Đông). Thật quá lạ. Phú nghĩ gì về Tôi? Tự thâm tâm, có nhiều điều quá đắng cay, đau buồn, đến nỗi Hoài không nhớ mấy về ai, và quên mất, là mình đã quen thân Phú.
Hoài mừng rỡ cầm mấy phong thư vào phòng bật điện, ngồi lên giường, mở thư Phú ra đọc trước tiên. Phú cho biết khi đậu tú tài toàn, nhập ngũ, nay làm việc tại Biên Hòa. Phú đi nghỉ phép ở Dalat, đến thăm chị Khánh, xin điạ chỉ Hoài.
Thoáng thời gian ngắn ngủi qua nhanh, Phú có biết bao thay đổi, hứa hẹn ở tương lai. Còn ta? Mình không có gì, ngoài mớ đau thương chất chồng, bao khốn khó quằn xiết lấy tấm thân mảnh dẽ, với cuộc tình đầu gãy đổ, trên hai bàn tay trắng, và tấm bằng không làm cho đời sống riêng mình tươi hơn.
Hoài thấy có cái gì sắt cạnh, đâm sâu trong lồng ngực vở vụn ra, đau nhói. Một cái gì tê buốt, bàng hoàng. Mà, trước kia nàng tưởng là, không có ai, có thể bóp nát trái tim đầy tin yêu nầy.
Thuở xa xưa ấy, Hoài gặp Phú, quen và nếu... yêu Phú, có lẽ đời mình bớt gian truân, sóng gió! Thuở đó, trái tim Hoài như cuộn giấy trắng tinh, chưa thâu nhận bóng hình ai. Hoài thấy Phú đẹp trai, phong nhã đa tình, và, sao mà lãng mạn, “lả lướt” quá đi! Hoài sợ.
Ngày thứ ba, hai người rảo bước trên phố thật sớm. Hoài mặc áo lạnh lông xù màu cánh sen, cổ quàng khăn voan màu tím hoa sim, quần tây đen, mang giày bít. Má mua cho Hoài đủ mọi thứ cần thiết, từ đồng tiền lao nhọc của gia đình. Hoài vui lạ! Có ai từ nhỏ đến lớn, không có năm bảy lần, mặc áo mới đẹp nhất, khi họ đã đi qua hầu hết quãng đời mình, mà không vui thích mỉm cười, không nhỉ?
Tiệm đông nghẹt khách mua hàng. Hoài đứng sau quầy, niềm nở cười cười, vui vui, bán bán, trao trao. Bất ngờ và quả thật rất tình cờ, Hoài nhìn theo mãi, người con trai ngồi sau chiếc xô lếch, do bạn chở. Họ đã chạy vòng lui vòng tới, bốn năm lần trước cửa tiệm. Nhìn vào tiệm, họ cười hoài. Hai anh chàng cứ thích cánh, liếc mắt đưa tình, cười đùa với nhau. Chưa dám dựng xe, vào trêu ghẹo con bé áo tím, mặc cô Thuận đon đả mời chào và, sẽ nói huỵch toẹt ra, nếu ai có ý lã lơi với nàng, khiến khách đỏ mặt, mà bước nhanh. Tính cô thẳng như ruột ngựa là gì!
Chàng thanh niên ngồi sau lưng bạn, có dáng dấp thư sinh, mày rậm mũi cao, trắng trẻo, thanh tú, đôi mắt sáng ngời, đẹp như mắt chim phượng, khuôn mặt càng xinh trai hơn, với đôi má lúm đồng tiền sâu hoắm, nụ cười tươi mát đến ngã lòng người, với chiếc răng khểnh, khép nép bên khóe môi hơi hồng hồng. Chàng nhìn Hoài đăm đăm, quay lại tươi cười, vẫy tay với mình nữa kìa! Ôi Lạy Chúa! Quả thật, họ đã để ý đến con người tội nghiệp nầy rồi!
Dựng xe trước cửa tiệm, họ vào mua mười hộp mứt, năm lố thuốc lá 555 International, hạt dưa, rượu Martin. Hộp quẹt. Dao cạo râu. Dây nịt đủ kiểu. Dép đàn ông mang trong nhà. Hai mươi áo thun trắng, mỗi cặp có hiệu khác nhau. Quần soọt cũng vậy. Trong khi Hoài gói hàng, cô Thuận loay hoay soạn giỏ xách nhựa mới, hào phóng tặng họ, để mang quà về.
Chờ Hoài ngẩng lên, chàng thư sinh Bắc Kỳ beau trai, khoe má lúm đồng tiền, chiếc răng khểnh, đá lông nheo "kịch kịch" với nàng vài cái, mới chịu ra về. Hoài mắc cỡ, vội vàng cúi xuống tủ kính, vờ xếp lại đồ đạc bên trong. Hoài "không có đồng tiền nào" làm sao dám khoe với ai! Ơ hay! Lại gật đầu, vẫy vẫy tay chào thân thiết, nheo nheo mắt ướt. Hai anh to nhỏ điều gì, khúc khích cười mãi nữa kìa!
Hoài thấy vui, khi cô Thuận qua nhà đưa tí tiền. Nửa đùa nửa thật, cô nói:
- Em Hoài giúp tôi mấy hôm nay, thú thật, đỡ đần tôi rất nhiều. Chị và em đừng ngại gì sớt. Mỗi ngày, tôi trả em năm chục đồng, còn nửa tháng cuối, mỗi ngày một trăm, vì sẽ thức khuya bán chợ đêm. Ăn uống tôi lo hết. Vất vã đấy. Ra giêng, nếu em còn ở nhà, giúp tôi bán hàng, mỗi ngày dăm ba chục. Chỗ chị em, tôi hay nói thẳng, chị Thương và em Hoài, không giận tôi nhá.
- Em ở nhà, chưa có việc làm, ra giúp cô cho vui. Chứ tiền nong gì. Cô.
- Ấy chết. Ai lại thế bao giờ. Chị biết không? Hoài có duyên bán hàng ra phết nhé. Tiệm đắt hẳn lên. Hôm nay có mấy cậu vào mua, hỏi đến đâu mua đến đó, chả mặc cả gì sớt. Buôn bán chỉ trông chờ khách xộp, điệu nghệ thế chứ. Tôi nhờ hai cậu ấy, ra Giêng mở hàng khai xuân đầu năm. À, nhớ cho em Hoài đỡ tôi, một tay nhá.
- Việc đó tùy em tôi thôi. Đôi khi nó không thích, làm sao tôi dám hứa.
Liên tiếp mấy hôm sau, hai chàng trai thả bộ trên phố, rồi vào tiệm cô mua cái nầy, lúc mua cái nọ. Có lần, “anh chàng đẹp giai” nhờ Hoài chọn hộ cà vạt. Hoài biết chàng ăn mặc lịch sự, tươm tất, lẽ dĩ nhiên sẽ chọn đúng thời trang, chứ mình có tài cán gì, mà chọn! Chẳng qua chàng muốn gợi chuyện làm quen. Thế thôi.
Hoài thấy sợ! Mặc dù quen, với tính cách là người khách mua bán hàng quen thuộc. Có thể chỉ là bạn, là anh trai, hơn hẳn mình về tuổi đời, kinh nghiệm sống. Không thể đi xa hơn. Hoài như con chim non lìa đàn, sớm bị thương, nay đậu cành mềm sợ gãy cánh. Sợ cơn đau buồn điếng lặng khác ập đến.
Nửa tháng cuối năm, chiều nào cũng thế, chỉ còn một mình chàng thơ thẫn, solo trên phố, như chờ đợi ai. Sau đó, chàng tạt vào tiệm, phụ cô Thuận treo đồ đạc khách chê, vứt bừa bãi trong góc phòng. Một hai giờ khuya, chờ cô dọn dẹp xong, chàng mời chị em đi ăn. Gì chứ về cái món ăn uống "chùa", khỏi chi địa, cô Thuận khoái khẩu, vui vẻ hẳn lên. Chuyện gì cũng tốt, nhưng việc tiền nong, thì ... "Tôi là Bắc Kỳ dón, vắt cỗ chày ra nước, mà lị". Cô Thuận vẫn nói thế, với ông chủ cho thuê nhà.
Có người khách không mời, bỗng dưng ngày ngày đến giúp một tay, chả mất tiền công, lại được việc, còn hào phóng mời nhiều bữa ăn tối, ăn khuya, hậu hĩ quá chừng. Họa có mà điên hay sao, không nhận lời. Chuyện trò vui vẻ "thoả mái" thế nào ấy. Vui vẻ tử tế quá đi. Đôi khi, cô cũng mời lại "con người tốt bụng" tô bún bò giò heo, hoành thánh mì, chén chè, đĩa xôi. Vã chăng, cô thấy ăn hoài của người ta, nó hơi kỳ kỳ, ngượng ngùng sao ấy!
Vì phép lịch sự, Hoài vờ lắng nghe chàng giới thiệu tên, nhưng không rỏ tên gì. Hoài nhút nhát không dám hỏi lại, e bất lịch sự. Sợ chàng nghĩ mình điếc, thì buồn năm phút. Hoài đi theo họ, như chiếc bóng âm thầm, chẳng mấy khi chuyện trò, khiến cô Thuận nhăn mặt, nói nhỏ bên tai Hoài:
- Người đâu mà kém xã giao đến thế. Sao em ngu tệ, chả biết.
Trời đất ơi! Cô chê con nhà quê, vừa thập thò ra ngưỡng cửa thành phố đó. Thế, cô tưởng Hoài "ngây thơ vô tội" chưa biết trộm yêu, thầm nhớ và đau khổ chắc?
Hoài ngập ngừng gượng gạo cười nói, như gã hề đeo mặt nạ méo mó, trông thật kỳ. Lúc còn lại hai người trước cổng nhà, cô ân cần nói:
- Cậu ấy là người khá lịch sự, dễ thương, đứng đắn, em nên vui, cười một tí nha. Suốt buổi ăn, em xụ mặt xuống, thật khó coi, bất lịch sự đấy. Nhớ nhá!
Hôm sau, quên lời cô dặn, Hoài vẫn lặng thinh, cô húc một cái vào hông. Giật mình, Hoài vội nhăn răng ra, cười rỏ tươi. Trong khi chàng bình luận chuyện chính trị đứng đắn, không có gì vui, cho nàng cười, như reo thế.
Ngạc nhiên, chàng im bặt nhìn Hoài. Có lẽ chàng cho Hoài có dòng máu khùng khùng, lãng lãng, điên điên, chi đó.
Cô Thuận quay sang Hoài, bấm vào đùi em, nói nhỏ:
- Đừng có dỡ hơi thế chứ. Im nào!
Nỗi buồn xưa quanh quẩn đâu đây. Đêm đêm, giấc mơ hoa lảng vảng bay trên đầu cây ngọn cỏ. Không! Hoài chẳng muốn gợi nhớ, dù kỷ niệm nhỏ nhặt, gợi lên hình ảnh cố nhân. Em không muốn, cùng "chàng" sánh bước vui vẻ trên đại lộ khuya, làm bừng sống giấc mộng bạc bẽo nơi người con gái, trước ngưỡng đời hụt hơi, đến đắng cổ.
Mùa đông cũ trôi tuột mất rồi, chẳng bao giờ tìm thấy nữa! Thời gian và không gian, chìm sâu từng ngày, từng ngày vào kỷ niệm. Hoài đã đi từ Dalat, xuôi qua mọi miền, về vùng trời Hội An, Huế, Mỹ Chánh, Quảng Trị, La Vang ra tới Bến Hải. Đi thênh thang giữa lòng đô thị Đà Nẵng. Có thể suốt đời, Hoài vẫn nhớ nhung, nâng niu, trân trọng giữ gìn kỷ niệm, dịu êm một thuở.
Còn Hoàng? Kỷ niệm đó, thoáng mắt nhớ nhung đó, nụ cười đó, không gian và thời gian ngày cũ, có in bóng dáng Hoài trong tâm tư Hoàng? Theo Hoàng đi đến chân trời góc bể, nơi Hoàng đã sống? Hoàng vui? Hoàng buồn? Có mòn mõi, khát khao nỗi nhớ niềm mong, hay đã quên hết rồi? Hỡi anh!
Đám bụi dày bị cơn gió đông cuốn hút theo cuồng quay, khiến khách bộ hành phải quay lưng lại, đi thụt lùi, hai tay che mặt, đầu rụt sâu vào cổ áo lạnh kéo cao. Hoài đi giữa lòng phố thị, nghe đì đùng tiếng pháo đón giao thừa, nổ liên tục từ mọi ngỏ nhà.
Người ta vội vã, hấp tấp quét dọn sạch sẽ, những ụ rác to tướng, đổ trên xe chở rác, ở ngả tư, ngả năm đường phố. Họ lau chùi nhà cửa, bàn ghế tươm tất. Chuẩn bị tiễn đưa năm cũ, hân hoan nồng nhiệt, vui vẻ đón chào năm mới tưng bừng, háo hức, trên những cành mai vàng tứ qúy, nở hết cánh.
Hoài âm thầm, nhỏ bé, như loài hoa cỏ may tầm thường, mọc bên lề viả hè, trong thành phố xa hoa. Bao lo âu, buồn bã, nhớ nhung, làm úa vàng ngăn kéo kỷ niệm vàng son một thuở...

_ * _


thh
Last edited by Ái Ưu Du on 06 Jun 2011, edited 1 time in total.
Tôi ước mong học hỏi cùng quý vị: *Trau dồi tư tưởng *Mở rộng kiến thức *Nâng cao tâm hồn. Trao nhau niềm thành tín cậy trông. ÁƯD Cám ơn quý vị.
Ái Ưu Du
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $540
Posts: 237
Joined: 16 Jan 2007
Location: U S A
 
 

Thăng Hoa

Postby Ái Ưu Du » 08 Feb 2007

Chương 23

THĂNG HOA



Giao thừa và Tết Nguyên Đán đến.
Hoài không còn thú vui tụm năm tụm ba, với bạn bè, trong tà áo hoa màu rực rỡ, lượn quanh phố chợ cười vui, ánh mắt chan hòa tình mến, lòng phơi phới nét xuân thì. Mất đi niềm hạnh phúc ấu thơ, xum xoe bộ cánh mới, cổ đeo kiềng vàng chạm trổ hoa mỹ, hai tai lủng lẳng bông vàng lắc lư, theo từng cử động vui mắt. Trước thềm năm mới, hồi nhỏ theo ba má đi khắp nơi, chúc tết cô bác họ hàng, mong được nhiều tiền lì xì thơm mùi giấy mới, cất trong bóp đầm màu trắng, có dây quai quàng qua ngực, lòng vui mừng khấp khởi hoan ca. Ôi! Tuổi hoa ngày đó vụt xa bay qua tầm tay, nhanh quá đỗi.
Ngày mồng hai tết, Hoài ghi tên dự thi Hoa Hậu, tại Hội chợ Cây Mùa Xuân Chiến Sĩ, bên Sơn Trà. Đúng tám giờ tối, cuộc thi bắt đầu. Giàn nhạc trỗi dậy âm giai, lên bổng xuống trầm tuyệt diệu, khi hùng dũng như vũ bão, khi lả lướt êm đềm, nhẹ nhàng, lâng lâng như mây khói mong manh.
Đó là thứ từ trường mãnh liệt, tiết tấu hài hòa, đầy rung cảm, tạo thành âm điệu tuyệt vời, do Ban văn nghệ Sư Đoàn 2 điều khiển, phủ chụp lên tâm hồn Hoài đa cảm, những dòng âm thanh rì rào lâng lâng, ngất ngây, run rẩy. Sự huyên náo khuyấy đảo tâm hồn chưa yên tĩnh, khiến Hoài càng bối rối, lo sợ.
Tuy vậy, nhờ sự hổ trợ mật thiết, tương đắt của chị Sáu Huyền, các cháu, Châu, Trân, Vân, Sơn, năm bảy người bạn mới, cũ, cùng khán giả nồng nhiệt cổ võ. Hoài vững tin, cố gắng hết mình, khuôn mặt tự nhiên Hoài không hề dùng chút phấn son trang điểm. Xiêm y kín đáo hài hoà, thấm đượm tình cảm thiên nhiên, mang nặng tính cách dân tộc miền núi thượng nguồn Việt Nam, qua vũ khúc Dămbalada. Vũ điệu sôi động, đầy tính chất buông làng, rừng núi thâm u hiểm bí, đã khích động khán thính giả nồng nhiệt hoan ca rất nhiều.
Sau vũ điệu, Hoài phải hát một bài tự chọn "Nắng chiều" của Lê Trọng Nguyễn, vì khá mệt trong điệu nhảy sôi động, Hoài ca dỡ ẹc, đồng thời trả lời mười câu trắc nghiệm, thi những vấn đáp hóc búa, cùng thi các thích ứng “thông minh” mau lẹ khác.
Hoài lo mình kém tài, gây nên cảnh lố bịch, đến các bậc đàn anh, đàn chị cười chê, châm chọc, thì thật ngượng ngùng hết chỗ nói, hổ thẹn với bạn trẻ biết mấy! Đứng trên sân khấu, chờ đợi ban giám khảo phê duyệt rất lâu. Hoài hồi hộp lo lắng, bẽn lẽn, sợ bị ném cà chua, trứng thối, đuổi xuống khán đài, trong chín mươi bảy người tham dự, thì thật quê một cục, mất mặt, xúi quẫy cả năm, chứ chẳng chơi.
Giờ phút quyết định đã đến. Cuộc đời Hoài như thăng hoa, từ khi đại diện ban giám khảo, đội vương miện lên đầu, cổ quàng hoa tươi đeo hàng chữ Hoa Hậu - Cây Muà Xuân Chiến Sĩ năm 1962. Giải thưởng là chiếc xe đạp đầm Pháp, model mới nhất, màu xanh. Bó hoa liz cầm tay và mười ngàn đồng. Ôi! Tuyệt vời xiết bao!
Lòng hân hoan kinh khủng, Hoài mừng vui không thể tả nỗi. Mọi người đến chúc mừng Hoài, bất kể lạ hay quen. Họ chen lấn, đứng bên Hoài chụp ảnh. Chị Huyền, các cháu và mấy bạn phải đứng gần, đưa hai tay che chắn bớt số người ngưỡng mộ, chen lấn quá đông. Trái tim Hoài bừng sống, bay lên tận mây xanh, nàng cười liên miên, vui mừng, cảm ơn mọi người ưu ái, đã gửi đến Hoài lời chúc tụng nồng nhiệt.
Ồ! Định mệnh đã đưa đến những gì cao qúy, tươi đẹp nhất trong đời, Hoài tưởng không bao giờ với tới, chạm tới đáy hạnh phúc. Không ngôn ngữ nào, có thể diễn đạt hết tâm tư Hoài, mừng vui cuống quít kinh khủng lúc nầy. Thì ra ông Trời rất nhân hậu, từ ái, có chừa cho Hoài, một kẽ hở vô cùng niềm nở, tuyệt vời, thân yêu nhất. Hoài không biết, để tri ân và tạ ơn Ngài.
Hoài nhón gót nhìn quanh, tìm kiếm xem trong số khán giả đông đúc, còn ngồi dưới khán đài, có "ai quen" lẫn lộn ở đó thì... vui vẻ, hãnh diện, tự hào biết bao. Quả thật, “chàng trai sơ giao”, đến chúc mừng vinh quang bè bạn.
Lần đầu tiên, bây giờ, nàng có dịp nhìn kỹ anh, trong bộ quân phục đại lễ mùa đông oai hùng. Bảng mica màu xanh gắn trên túi áo, mang tên Đ. Toàn Thắng. Hai bên cầu vai đỏ, một bông mai vàng lấp lánh dưới ánh đèn. Tay cầm chiếc nón casket. Nhìn anh quân nhân trẻ, mũ mão cân đai chỉnh tề, oai vệ, đứng nói chuyện, bên mấy người quen mặc cevil, Hoài thấy họ, như hai thái cực tách rời, chênh lệch nhau quá. Anh gật đầu chào Hoài, cười thân ái:
- Thân chào Hương Hoài. Ngồi làm khán giả, tôi nghĩ, thể nào Hoài cũng đạt được ngôi vị cao nhất. Rất hân hạnh, đến chúc mừng, Hoài nhé.
- Hoài cảm ơn anh. Không ngờ anh có mặt ở đây, và là... một sĩ quan he.
- Như tôi, đã quen Hoài, thế có ngờ đâu, mình hân hạnh quen hoa hậu kìa.
- Ban giám khảo thấy Hoài tội nghiệp, sắp mít ướt tới nơi. Họ cho nhầm.
- Ấy. Ở đời muôn sự đều giả dối, và nhầm lẫn. Chỉ có sự thực, mới đáng qúy trọng. Dù ở cảnh ngộ nào, tôi thích tôn trọng sự thực hơn.
- Điều đó quý lắm chứ.
- Là thế. Mong Hoài giữ mãi niềm vui, hạnh phúc ngọt ngào như hôm nay.
- Hoài cảm ơn anh nhiều.
Thắng nhìn Hoài, cười thân ái. Thoáng giờ phút rực rỡ huy hoàng nhất đời mình, đã để lại trong lòng Hoài, tuyệt phẩm cao đẹp với cuộc đời. Hoài lâng lâng xúc động, ngất ngây niềm vui thành công chói sáng, hiển đạt không dám ngờ. Tim Hoài rung lên từng hồi, theo nhịp đập trong lồng ngực cuồng quay, đến hụt hơi, khiến Hoài hoa mắt, môi luôn nở nụ cười toại nguyện.
Tạ ơn Chúa! Ngài đã ban cho mình đặc ân tốt lành. Có điều thực tế nhất, là từ nay, Hoài có thể phụ ít tiền, cho gia đình chị bớt khó khăn, sau ngày cháu mất. Xin cám ơn Đời đãi ngộ. Cám ơn sự ưu ái, nồng nhiệt vô vàn của khán giả. Cám ơn Ban Tổ Chức cho mở cuộc thi. Cám ơn Ban Giám-khảo. Cám ơn gia đình chị chị Sáu Huyền, các cháu Châu, Trân, Vân, Sơn, và bạn hữu thân quen.
Trên đường về, ngoài số khán giả ngưỡng mộ đông đúc, đông rất đông, còn có anh em Trịnh Trầm, Mai Nương, Thu Tuyền, Lan, Ngọc, đã đưa chị em Hoài từ bến Sơn Trà, lên phà qua sông, về đến tận ngỏ nhà.
Đêm bây giờ tuyệt đẹp. Đêm không u sầu. Đêm không hoang liêu. Đêm không ủ dột. Đêm không lo âu. Đêm không còn hãi hùng đau thương, đói khát, nhường cơm chia áo cho nhau. Đêm không đơn điệu. Mà, là đêm đầy tuyệt vời. Đại lộ Phan Chu Trinh nở ra dưới đêm đầy sao, lấp lánh huyền diệu, trên bến Ngân Hà.
Dù không có Thắng, tiễn đưa Hoài về nhà như mọi ngày. Anh phải ở lại trực trong Sư Đoàn. Không có "anh". Nhưng, đêm càng về khuya, càng thơ mộng và tuyệt diệu dường bao!
_ * _


thh
Last edited by Ái Ưu Du on 06 Jun 2011, edited 1 time in total.
Tôi ước mong học hỏi cùng quý vị: *Trau dồi tư tưởng *Mở rộng kiến thức *Nâng cao tâm hồn. Trao nhau niềm thành tín cậy trông. ÁƯD Cám ơn quý vị.
Ái Ưu Du
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $540
Posts: 237
Joined: 16 Jan 2007
Location: U S A
 
 

Bửu Đan

Postby Ái Ưu Du » 13 Feb 2007

BỬU ĐAN


Sau ngày đạt danh hiệu rực rỡ: Hoa Hậu Cây Mùa Xuân năm 1962 tại Vùng 2, Đà Nẵng. Hoài được mời vào làm việc tại Sư-đoàn 2. Phòng 5.
Một chiều bất ngờ, Đan tìm đến Hoài, khi nàng đọc quyển "Một lần gặp nhau" của Châu Trang Long.
Dưới bóng mát ven khu rừng già, phía trước mặt là ruộng lúa mênh mông, thân lúa kết quả đơm bông vàng rực, óng ánh dưới nắng, oằng cong ngọn nằm ngã lên nhau, trĩu hạt no tròn. Nhờ màu xanh cây lá bên bìa rừng, mà cảnh vật đỡ tiêu điều, hoang vu và cô quạnh. Cành cây không rậm lá, lộ ra khoảng trời xanh êm mát mênh mông, lọt qua kẽ cành đong đưa, theo gió rì rào, lao xao.
Anh đưa hoa lên môi hôn, rồi tặng Hoài cánh sen, còn tươi rói làn môi. Có lẽ Đan vừa hái ở đâu đó, cuống hoa và cánh hoa mọng nước, sắc hồng điểm màu trắng nhạt ven cánh. Trông tuyệt diệu, dưới ráng chiều dắt vàng chan hòa trên cỏ cây, nơi vùng hoang dã.
Hoa sen ở Huế trồng dồi dào nhất. Người ta ưa thích nó về nhiều mặt. Cánh sen ướp với trà, cắm hoa. Hạt sen nấu chè, hầm nấu các món ăn, làm bánh mứt. Thân non làm gỏi ngó sen, lá sen dùng gói hàng. Sen là loại thực phẩm vừa ngon, vừa đắt, tận dụng, tiện dụng và hiếm quý.
Có lẽ khi Việt Câu Tiễn dâng nàng Tây Thi, cô gái nước Việt, sắc nước hương trời, đẹp tuyệt trần (của chàng Phạm Lãi) sang Tàu triều cống Ngô Phù Sai, mục đích làm Ngô Vương say mê đắm đuối. Khiến mụ vợ Việt Câu Tiễn, ghen ghét Tây Thi vô cùng.
Khi hoa sen cùng người đẹp Tây Thi, xuất thân đến xứ người, dân Đế Đô ngàn năm cổ kính đất Thần Kinh, yêu thích luyến thương hoài nhớ Tây Thi, trồng nhiều sen hơn. Thì phải!
Hoài vui mừng và sững sờ, bỏ quyển sách xuống nệm cỏ xanh, hỏi:
- Ồ. Chào anh. Anh đến, có việc gì gấp không? Anh!
Đan lắc đầu, mỉm cười không đáp. Ngồi xuống bên cạnh nàng, anh lấy gói Pallall ra, gài điếu thuốc lá lên môi, mồi lửa, thở ngụm khói nhỏ. Khuôn mặt trầm tư nén bớt vẻ khắt khổ, màu đen trên mái tóc pha màu khói lam, đôi mắt đẹp sáng long lanh nép dưới hàng mi cong vút, rung nhè nhẹ. Anh chỉ ghiền hút thuốc không đầu lọc và uống cà phê đen đậm không đường. Hoài thắc mắc nhìn anh mỉm cười, hỏi:
- Sao anh biết em ở đây, mà tìm thấy?
- Nơi thanh vắng thế nầy hợp với em. Cũng như chỉ có Hoài, mới quyến rũ bước chân hồ hải của anh thôi.
Vẻ thanh lịch của Đan, có thể nói, toát ra từ cử chỉ, dáng dấp ung dung, thư thái vô hình trung, tác động đến nàng. Tim Hoài bỗng nhiên đập rộn ràng trong lồng ngực. Đan cầm quyển sách lên. Vô tình phong thư viết chưa kịp gửi, rơi xuống.
Có một giây, trái tim Hoài co xiết cuồng quay, dường như ngừng đập, dõi mắt nhìn từng cử chỉ thái độ Đan thế nào, hầu xác định mối liên lạc tương lai, giữa Hoài và..."hai anh bạn: Thắng, Đan". Nàng ấp úng:
- Anh nầy, có nghĩa là anh... trai của Hoài.
Đan nhìn phong thư ghi KBC, nheo mắt, mỉm mỉm, cười cười, rất dễ... ghét:
- Lính kèn hả? Hay là lính kiểng?
- Ô! Em không hiểu anh muốn nói gì? Vả lại, em hỏi điều nầy, anh đừng trợn mắt lên à nha - Lính kèn, Lính kiểng - là thế nào ha?
- À, là Lính thành phố, thổi vào tim em bản tình ca muôn thuở. Là Lính cảnh, đưa em đi dạo phố phường, trước sự chiêm ngưỡng mến phục của mọi người. Đó em!
- Ơ... Cái anh nầy.
- Coi em bẽn lẽn, rụt rè, ngập ngừng khiếp vậy?
- Anh không làm việc, mà đến nơi nầy?
- Làm gì nỗi bây giờ? Em!
- Sao vậy anh?
- Anh buồn và nhớ... lạ lùng.
Tất cả quá khứ tình yêu buồn đau thoáng chốc trở về, như tia chớp sáng lòa, làm choáng ngợp đầu. Chân trời nầy, sẽ trở lại rạng rỡ vui tươi, mời mọc, chào đón; Hay thê thảm buồn tênh hơn? Nàng biết rằng: Tình yêu thật kỳ diệu, nó đang mang hương nồng mới đến. Và, xóa nhòa đi tất cả dĩ vãng ưu phiền.
Hoài chợt nhớ đến chùm hoa “Forget Me Not” màu tím nhạt âm thầm, rụt rè khoe sắc trước mùa đông xưa cũ. “Ai đó” đã cài đoá hoa bẽn lẽn, lên mái tóc nàng, anh nói câu gì ấy nhỉ? Hoài quên bẵng, theo tháng ngày mệt nhọc, niềm nhớ bâng khuâng, buồn bã cơ khổ, lao đao theo chiến cuộc nơi chốn tha phương, ở xứ lạ quê người rồi sao?
Hai người nhìn nhau, không chớp mắt.
Bỗng Hoài phì cười. Tiếng cười trong veo, như mạch suối rừng hoang dại. Đan khẽ mỉm cười, lắc đầu nhè nhẹ, thở dài kín đáo. Dụi tắt điếu thuốc trên thân cây, rồi vứt đi, anh nói:
- Em còn trẻ con không chịu được. Anh nói anh buồn, anh nhớ. Mà em cười anh. Hở?
- . . .
- Ngày đầu tiên, khi lội qua sông Nghĩa Phú, anh mong làm quen với em. Em nhớ không?
Hoài nhớ. Nhớ đến nỗi, nàng e dè cúi mặt xuống, vì bẽn lẽn, thẹn thùng, bối rối. Anh xoay Hoài như xoay dế. Hoài không bối rối sao được. Bởi vì, điều mới lạ đã xảy ra, êm ái mở hội trong trái tim, muốn bừng lên hơi thở ngất ngây, say nồng lẫn dịu ngọt, trìu mến lạ thường...
- Bây giờ cũng vậy. Có khác chăng, là ngày ấy, anh lội qua sông sâu nước lạnh, dò tìm... Giờ đây, anh băng rừng vượt dốc, đến bên em. Anh sẵn sàng trả giá cao, để được sống giờ phút êm dịu, ngọt ngào, mà anh đã chọn.
- Em... Hương Hoài thấy thế nào?
- Chỉ sợ em không có diễm phúc đạt được ước mơ. Làm sao em biết được, ước mơ nầy, sẽ có thật, đến mức độ nào... Anh à.
- Vấn đề là còn tùy... ở em đó.
Khu rừng bảng lảng ánh hoàng hôn. Gió thì thào trên đầu ngọn cây phong, như ươm vàng dưới ánh chiều nhợt nhạt. Từng bè mây xám đục chen lẫn mầu huỳnh tía, ngả sang màu ven đêm. Bầu trời lấp lánh vì sao hôm lác đác, trong cảnh hoang tàn tươi nguyên dấu vết. Một cái gì rờn rợn. Lành lạnh, lồ lộ vàng phai trên bình nguyên, in lằn đạn bom tai biến.
Hai người thu xếp túi xách, về phố nhỏ ăn cơm. Ráng chiều theo dòng men bia 33 rót vào lòng ly. Hôm nay Đan có vẻ ưu tư hơn mọi ngày. Thỉnh thoảng vầng trán rộng in nếp nhăn. Tiếng thở dài nhè nhẹ vang lên. Hoài dè dặt nhìn anh dò hỏi:
- Trông anh có vẻ buồn?
- Một tuần nữa, chúng ta chia tay. Không biết bao giờ mới gặp lại. Anh muốn xin đổi về hậu cứ... gần em.
Hoài không biết trả lời sao cho phải, nụ cười sâu sắc, nguyên vẹn tình nồng. Anh xin Hoài tấm ảnh, Hoài được anh tặng lại hai tấm ảnh, cùng một phong thư, anh đã viết sẵn:
- Lát nữa về Đoàn, em hãy đọc nhé.
- Em đọc ngay... bi giờ kia.
Tính mở ra đọc thật, nhưng thấy mặt Đan đỏ bừng, như người uống rượu quá say. Cô quân nhân binh nhì, lính mới tò te mới nhập ngũ, thấy thương chàng sĩ quan từng trải, không nở trêu phá anh. Nên Hoài cất thư vào quyển sách. Ngồi đối diện, Đan chống một tay lên cằm, nhìn Hoài nói:
- Em hãy đọc thư anh một lần. Mong sẽ mang đến cho nhau, niềm vui tràn ngập.
- Em biết nói gì bây giờ?
- Anh không muốn em nói gì, khi chưa đọc thư anh.
Hoài nhìn rỏ đâu đây trong quá khứ xa xôi, nhạt nhòa niềm hạnh phúc, đau khổ, buồn rầu nào, qua bóng dáng lung linh, trong khói thuốc vờn bay. Buổi chiều nắng yếu ớt chiếu xiên, hắt lên hai cái bóng mờ mờ, chập chờn rung rinh trên tường. Hoài bỗng thấy lòng trào dâng lên nỗi buồn lâng lâng, man mác. Bởi tại đâu? Hay tại tiếng tơ lòng băn khoăn, xao xuyến vấn vương, xếp lớp lăn tăn dạt dào giao động?
Trở về phòng, chưa kịp thay quần áo, Hoài vội vàng ngồi xuống ghế bố, tay run hơn bao lần khi mở thư ra đọc. Hoài đọc đi đọc lại lá thư mầu xanh, có nét chữ nghiêng nghiêng, đều đặn rỏ ràng và đẹp của Đan. Trong căn phòng ngủ vắng lạnh, nàng đi đi lại lại nhiều lần, cuối cùng ngồi phịch xuống ghế bố, nhắm mắt hồi lâu.
Hai bàn tay Hoài lạnh toát mồ hôi. Trái tim đập thình thịch, khi toàn thân nàng nóng ran, như bị lửa đốt. Có lẽ cánh thư đầy ắp ân tình trìu mến vừa qua, là sức mạnh đích thực, làm cán cân tình cảm nghiêng về một phía, mà trước đó Hoài do dự giữa ngả ba đường: Phú. Đan. Thắng.
Hoài bối rối, băn khoăn, ray rứt giữa ba hình ảnh đó thật. Nói rằng nàng "có số đào hoa". Có đúng không!? Nhưng lúc nầy, Hoài như cánh hoa rừng vừa chớm nở, không nhiều thì ít, vẫn có hương vị mùa xuân đằm thắm ngọt ngào, quyến rũ chân thật, dịu êm. Mà ai ai cũng kinh qua một lần, trong thời kỳ mới lớn khôn.
Không sững sờ run rẩy sao được! Khi chính Đan viết thư tỏ tình: "Nếu Hoài đồng ý, không từ chối, anh sẽ về phép vào tháng tới, bàn tính cùng gia đình, xin cưới hỏi Hoài, trong dịp Tết năm nay.
Ôi! Thật sự như thế sao? Hoài như con chim bị thương nhốt trong lồng, bỗng nhiên được trả tự do, đâm ra choáng váng ngỡ ngàng, lúng túng, rụt rè nhìn lại ô cửa quá khứ buồn đau. Quên mình có đôi cánh tung bay, tự do giữa biển trời lồng lộng. Chính cách xử thế khác nhau, của mỗi một người trai đoan chính thân quen, đã cho đời sống và tình yêu của nàng, hạnh phúc ít hay nhiều.
Hoài sống trong âu lo, run sợ, đau khổ do chiến tranh tàn khốc, chết chóc gần kề, giữa hai lằn đạn diệt vong. Nay nhận nơi Đan nụ cười ấm dịu thân mật. Tình yêu đằm thắm, ngọt ngào, êm ái ngất ngây. Dù giữa Đan và Hoài chưa có một lần tay nắm nhẹ bàn tay. Đan chưa hề hôn lên mái tóc phiêu bồng như gợn sóng của Hoài. Nhưng... Hạnh phúc xiết bao!
Mùa hè nơi đây, không nắng gắt oi nồng. Có từng đợt gió chiều thoảng nhẹ, gợi lên trong lòng Hoài nhiều nhớ nhớ. Thương thương. Mến mến. Say say. Nàng nghĩ nhiều đến Đan, và thấy lòng bình yên, đỡ quạnh hiu, buồn vu vơ biết mấy!

_ * _


thh
________________________
Last edited by Ái Ưu Du on 06 Jun 2011, edited 2 times in total.
Tôi ước mong học hỏi cùng quý vị: *Trau dồi tư tưởng *Mở rộng kiến thức *Nâng cao tâm hồn. Trao nhau niềm thành tín cậy trông. ÁƯD Cám ơn quý vị.
Ái Ưu Du
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $540
Posts: 237
Joined: 16 Jan 2007
Location: U S A
 
 

Văn * Ưu Du > Truyện Vui >> Con Thuyền

Postby Ái Ưu Du » 15 Feb 2007

(Mùa xuân về, Ưu Du xin cung-hiến độc giả thân mến chuyện Tết vui có thật.
Một cảm tình trân qúy, đã xảy ra trong đời tôi).
****
CON THUYỀN HOA XUÂN

Nền trời phơn phớt xanh lơ, điểm những lọn mây vàng xám, ươm hồng, lơ lững trôi về nơi vô định. Xa xa xuất hiện đàn chim én, bay qua kẽ mây trôi từ phương Bắc về.
Tiết trời giá lạnh, run rẩy, đang yên ắng lạ thường. Bỗng nhiên, tiếng đàn, tiếng trống, vọng ra từ căn nhà xinh xinh bên sườn dốc, ban nhạc đánh rất hay, ngón đàn điêu luyện, chơi vơi trong bầu trời đẫm sương mù, vươn lên đỉnh thông, rồi lặng lẽ tan đi, trong ráng chiều dần dần phai nắng.
Vào giờ phân giới giữa ánh rạng rỡ của ngày đầu năm, và bóng tối xuân về, thốt nhiên Anh Thư cảm thấy ngập tràn niềm vui, như cỡi trên con thuyền hoa hạnh phúc bất tận. Cũng phải thôi. Mai đám cưới Anh Thư và Bảo mà!
Anh Thư là con gái đầu lòng, ba me cô tuy gốc gác miền Trung, nhưng rời quê hương khá lâu, lên Đà Lạt làm việc với Pháp, nên mọi việc từ trong ra ngoài, họ lo cho con chu tất, toàn vẹn theo lối phương Tây. Bảo, con trưởng nam dòng họ vương tôn, giàu có và thanh lịch. Gia đình đôi bên, có đủ yếu tố xây dựng gia thất cho con, để dòng họ thêm nở mày, nở mặt.
Ngoài kia, họ nhà gái huyên náo lạ thường, đàn ca, nhạc sống, vui vẻ hết biết. Suốt đêm Anh Thư không dám nằm ngủ, cô sợ xẹp mái tóc đánh rối bới cao, sẽ bù xù, mất thẩm mỹ đi. Mấy phù dâu xúm lại trang điểm, trông cô đẹp tuyệt vời. Bực mình vì đôi giày cao gót, cô chọn nhầm, da giày cứng, dày như da voi, cô vừa mang đi lui đi tới mấy vòng, gót giày tàn nhẫn “xơi tái” mấy miếng da, rát bỏng, đau điếng. Mỗi lần cử động, nó đau lên thấu tim, dù Anh Thư se sẽ lê tấm thân phì lũ, đi nhè nhẹ, cà nhắc, cà nhót. Chín giờ sáng! Nhà trai đã có mặt trước sân hồng. Hai gánh đi đầu là cặp ngỗng trắng, nhốt trong lồng mây, luôn hoác mỏ, khàn khàn, kêu khọt khẹt. Con heo mọi mập ú, ụt ịt quay lui quay tới trong cái cũi sơn đỏ, cột nơ hồng. Vò rượu cẩm chôn bách nhật xủi tăm. Tiếp theo là tám khay mâm quả, phủ nhiễu đỏ, viền tua vàng, do những chàng trai mặc áo xanh đỏ, đội nón lá mười vành, trang-trọng bưng. Hai bên có những người đồng cổ phục, cầm cán lọng dài màu vàng, che nắng. Chàng rể mặc áo thụng màu xanh biển, chữ Phước, chít khăn đóng, quần dạ trắng, mang giày thô, còn cho chú tiểu-đồng-hầu xách theo bộ đồ “tuxedo” nữa. Chàng rể đi giữa hàng thân quyến cùng quý ông bà, mệnh phụ phu nhân, bạn bè, bà con gia tộc.
Hai người bên họ nhà trai bưng khay trầu rượu, vào trước sân hồng, ra mắt, xin họ nhà gái, cho nhập gia tùy tục. Đại diện họ nhà gái đứng trên thềm hoa, nhận lời. Mọi người vào phòng nghinh tân. Ông mai bà mối nói năng lưu loát, nên vui vẻ cả làng. Các mâm sính lễ đặt trên chiếc bàn dài, cặp ngỗng và “chú hợi” để dưới sân, gần cửa chính.
Nghi thức diễn tiến tốt đẹp, đến lúc Anh Thư hồi hộp, rụt rè, được me vén bức màn nhung, dìu con ra phòng nghinh-tân. Bỗng chốc vài mệnh phụ đài các, chụm đầu xì xào, chỉ chỏ bộ cánh “xê-rê” trắng trắng, có tấm voan mỏng che mặt, đuôi áo dài lê thê sau gót cô dâu, găng tay trắng dài lên tới cánh, cô đội vương miện lóng lánh, kiễu nữ hoàng Anh. Có người bên nhà trai nói trổng:
- Y như con ma chết trôi. Thấy ớn lạnh hè.
Nhà gái tái mặt, vội cười xuề xòa:
- Đồ trắng, tượng trưng cho sự trinh bạch mà.
- Ngày cưới xin, nói chi bậy bạ quá!
- Ui xà!
- Miệng mồm ăn mắm ăn muối.
Lời qua tiếng lại thật khổ! Khổ nhất là ông tơ bà nguyệt, cứ chạy qua bên nầy, chạy lăn xăn về bên kia, năn nỉ ỉ ôi. Hai họ mích lòng nhau, thấy sợ, khi pháo nổ rền trời. Hoài đi phù dâu, cô sợ cháy áo quần, nên vén váy áo ngồi thụp xuống nền nhà, bưng hai tai. Khi nghe nhiều tiếng kêu rú thất thanh vang lên, Hoài đứng phắt dậy, ngơ ngác nhìn quanh:
Hai con ngỗng nghe pháo nổ đì đùng, chúng hoảng sợ, tống cửa lồng, một con bay lên bàn, đạp đỗ bình hoa, lễ vật, ly tách, bánh rượu, trái cây. Khi người đàn ông túm bắt được, vặn ngược cổ nó lui sau lưng, thì trên bàn không còn gì ráo. Con ngỗng kia nhướng cổ, quạt cánh rượt theo mấy khuê nữ, khiến mọi người xô đẩy, đạp lên nhau mà né chạy. Con heo mọi ụt ịt hoãng sợ, hất chiếc cũi ngã ngửa ra, hét tướng lên, kêu eng éc, rồi cạp nắp đậy, nó sổng cũi, vừa chạy vừa ị ra lung tung.
Hầu hết mọi người sửng sốt, ngây người, chết trân, ngơ ngác nhìn trước cảnh tượng khá bất ngờ.
Người đau khổ nhất, là Anh Thư. Cô đứng chịu trận hơn một giờ, do những thủ tục nhập-gia rườm rà, đôi chân càng lúc càng sưng húp, vì những vết thương cọ xát vào đôi giày mới, mạch máu giật tưng tưng từng cơn. Cô mệt đừ, mồ hôi vã ra như tắm, mặt mày tróc dần phấn son, trông lem luốc, như con mèo vá, tự dưng bụng đói cồn cào, cô hoa mắt, chóng mặt, và bất tỉnh nhân sự.
Hai phù dâu hoảng hốt, vội nâng cô dậy, Mây và Hoài đều gầy ốm, so với “Thư tán phẩm”, họ vẫn cố sức làm tròn nghĩa vụ phù dâu. Mỗi người kéo một cánh tay của Anh Thư, quặc vào cổ mình, kẹp cô ở giữa, ra sức kéo lôi cô xềnh xệch vào “the-phòng”. Các bạn gái không ngớt xoa dầu, cạo gió, giật tóc mai.
Anh Thư hồi tỉnh lại. Thật uổng công mái tóc “búp Ănglê” mà Anh Thư sợ hư, đã ngủ ngồi suốt đêm, giờ đây bù xù như tổ quạ. Anh Thư vội bảo Hoài ra phòng khách, lấy hộ hộp quần áo sính hôn vào, vì giờ đi lễ sắp đến. Các bạn gái, mỗi người một tay, lo chải chuốt, trang điểm cho Anh Thư. Ba me cô muốn Anh Thư diện bộ cánh thời trang nhất. Mặc! Về nhà chồng, cô cần lấy lòng bên họ nhà chồng chứ.
Lễ vật nhà trai sang trọng lắm. Nào là vòng xuyến, dây chuyền, bông tai, nhẫn, toàn nhận kim cương, còn kiềng chạm, dây chuyền trên năm lượng vàng y 24k. (không kể quà bà con chú bác) Anh Thư đội khăn đóng vành dây đỏ mạ vàng, chín tầng quá rộng, thỉnh thoảng Anh Thư phải lấy tay đẩy lên, vì mạ của chàng không ngờ, bây giờ cô ốm hơn ngày mạ đi đám hỏi cô. Anh Thư lo chuyện cưới hỏi, nên đã sút mất mươi cân! Áo quần mạ may từ ba tháng trước, rộng thùng thình! Cô mặc áo dài nhung đỏ, may tà Bắc, quần sa tanh trắng “rô-đê” gấu, khoát ngự uyển bên ngoài.
Chuyện áo quần rộng, không thành vấn đề, cô chỉ buồn, khi đội khăn đóng và mang đôi hài đỏ. Hôm ấy, Bảo viết số đo chân của Anh Thư, gửi về cho mạ, đi đặt đôi hài cườm thêu hai con rồng vàng uốn khúc, mạ thích tự ý diện cho con dâu mà! Mạ nói:
- Viết cái chi mà lem dem ri hè? Viết không rỏ ràng nơi, số 40 hay 46 hỉ? Dâu mình có da, có thịt, phúc hậu rứa, cứ đặt cho con số 46 hỉ! Số lớn số nhỏ chi, cũng bằng từng nớ tiền. Chi bằng, mình cứ đóng số lớn, thì rẻ, cho tiệm giày hắn lỗ luôn.
Thành thử đôi hài rộng rinh, ẻo qua, ẻo lại, khó khăn khi Anh Thư cất bước đi. Tuy được một điều, là đôi hài không cứa mấy vết thương rát bỏng kia.
Mọi xáo trộn rồi cũng dần qua. Thay vì cho đám rước đi bộ trên đoạn đường ngắn, để thiên hạ ngắm nhìn, đoàn người hộ tống cô dâu che tán vàng, tán tía như dự tính; Mạ sợ cô dâu lăng đùng ra lần nữa, thì nguy to. Nên cha mạ, họ nhà trai đồng ý gấp với họ nhà gái, cùng nhau leo lên những chiếc xe hoa, nối đuôi chạy dài dài đến giáo đường.
Dưới những chòm thông xanh reo vi vu, giáo đường Chính Tòa màu gạch viền trắng uy nghi, sừng sững, tọa lạc trên vùng đất phóng khoáng, tháp chuông cao vút, có hình con gà vươn lên trời xanh mênh mông.
Đi trên mặt bằng, Anh Thư còn có thể kéo lê “đôi hia một dặm” theo bàn chân, cố dí sát vào đầu mũi hia, cô dồn toàn lực, bấm mười đầu ngón chân giữ lại. Nhưng, khi cô giở đôi chân, để bước lên những bậc cấp cao, thì “lực bất tòng tâm”, mười đầu ngón chân mỏi mệt, ương ngạnh, không tuân phục theo ý cô. Chiếc hài rời chân, rơi lông lốc xuống cuối bậc cấp. Mây vội vàng xắn quần áo đẹp, chạy xuống nhặt “hia” lên. Xỏ được chiếc nầy, thì chiếc khác lăn đi.
Anh Thư cúi đầu xuống nhìn, để xỏ chân vào hia, báo hại chiếc khăn đóng rộng vành, che sụp xuống tận mũi. Không thấy đường, cô đạp phải vạt áo dài lết bết, trên bậc cấp, đứt hàng khuy nút bóp, để lòi * mớm ra. Cô quơ tay kéo ngự uyển đậy lại.
Trong lúc mắc cỡ muốn độn thổ, Hoài lúng túng lo cho bạn, đã hụt chân trên bậc cấp, ôm bạn té lăn xuống, đủ hai vòng. Thế là bộ giò cô dâu bị trặc mất rồi!
Hai phù dâu lại một phen nữa, mệt toát mồ hôi hột, xốc nách cô, họ quàng cánh tay Anh Thư, vắt qua cổ mình, để lôi lên bậc cấp, cho chắc ăn. Mặt mày cô dâu, chú rể đỏ bừng, như con gà lôi, chuyển sang tái méc. Mà người tiếp nhận tái méc nhanh nhất, là mạ chồng!
Hai họ đứng chết trân, thừ người, kinh ngạc há hốc miệng. Bỗng chốc, mọi người đồng loạt cất tiếng cười ngất. Họ quên lửng “bộ đồ vía” gây ra nông nỗi tệ hại kia, do họ cất công mua sắm. Lúc nầy, hai cô phù dâu quá mệt, không còn hơi sức đâu mà cười. Cười cái gì? mà buồn cười nhỉ!
Vào an tọa trong nhà thờ, nhưng ai ai cũng lo ra, nên thỉnh thoảng nhiều tiếng cười khúc khích, nổi lên đây đó. Khiến cha chủ tế người Pháp, đứng trên bục giảng ngạc nhiên, từ tốn mở lời:
- Hôm nay, "dứng" trước quý ông bà, anh chị em, và cô "dau" chú rể, tôi xin "cào" chúc anh chị trăm năm "hạn phút", răng "lông" tóc bạc suốt đời. Hãy nhìn xem: Trên bàn thờ, có hoa mai, hoa lan, hoa hệ và hoa cứt...
Nhiều tiếng cười vang dậy khắp đó đây. Ngài ngạc nhiên, nhìn xuống, rất vô tư, dõng dạc tiếp:
- Anh chị em "cưới" cái gì? Có muốn "cưới nhau", thì ra ngoài sân mà cưới. Ở trong nầy, chỉ làm "lễ cười". "Lễ cười", thì có gì mà "cưới" chứ??
Ụi. Trời đất ơi! Cả nhà thờ ôm bụng cười vang, cười ngất, cười ra nước mắt. Chịu không thấu. Rất may, có một vị trung niên bước lên bục giảng, ông dùng tiếng Pháp xin lỗi cha, giải thích về việc ngài phát âm hơi lệch lạc, nên từ ngữ bị sai sót.
Á, thì ra...! Khi hiểu nguyên nghĩa, ngài không ngớt xin lỗi, và đã cười thoải mái quá chừng!
Sau lễ, hai hàng xe hơi chạy lên sát cửa chính tòa, chứ không đậu giữa sân, dưới những bậc tam cấp hồi nãy. Tất cả mọi người mệt đừ, vì kiệt sức hay vì cười ngất? Chả biết nữa. Hai họ nhà gái, nhà trai, quên chuyện giận hờn nhau, đã thân mật xiết bao, vui vẻ cả làng.
Thượng khách ngồi vào bàn, nhâm nhi sơn hào hải vị: Nấm đông cô, tóc tiên, mực khô, bát trân, bào ngư, vi cá, yến xào, đùi heo, tôm hùm, do đầu bếp số một, bên Thượng Hải đảm nhận. Họ nâng ly chúc tụng nhau vui vẻ, nét mặt cường diệu, hân hoan. Bác phó nhòm Châu, thừa thắng xông lên, tha hồ chụp ảnh...
Đã gần bốn mươi năm rồi đó, Trầm Mây và Hoài nhỉ! Mặc dù ít có cơ may gặp lại nhau; Nhưng, mỗi lần mở tập album ra, trong lòng Anh Thư dậy lên ngọn sóng dạt dào tình luyến nhớ, hoài mong, ngây ngất nỗi khát khao tìm về thời niên thiếu, đã vụt xa bay trong tầm tay với, khi tuổi đời đã nhuộm vàng hanh mái tóc phong sương, trên dòng đời phai nắng...

_ * _
Tôi ước mong học hỏi cùng quý vị: *Trau dồi tư tưởng *Mở rộng kiến thức *Nâng cao tâm hồn. Trao nhau niềm thành tín cậy trông. ÁƯD Cám ơn quý vị.
Ái Ưu Du
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $540
Posts: 237
Joined: 16 Jan 2007
Location: U S A
 
 

Postby Ái Ưu Du » 22 Feb 2007

Hiến Chương Tình Yêu

Phần Thứ Ba
Chương 25

ƯỚC HẸN NĂM XƯA


Mặt trời yếu ớt, đã tắt hẳn ở phương Tây, bầu trời dìu dịu, vàng ửng, nhàn nhạt. Những cơn gió từ dãy Ngũ Hoành Sơn lùa về, buốt giá, ngây ngất và ớn lạnh. Thời gian len lén đến, lấy thêm những tháng, những ngày nữa trong đời người. Một ngày tàn lặng lẽ, chậm rãi trôi qua, không buồn quay đầu lại nhìn, tạo thành dĩ vãng trong cuộc sống.
Đứng trước bàn thờ, thành khẩn chắp hai tay lên ngực, với niềm tin tưởng tuyệt đối và hy vọng, Hoài thầm cầu xin Chúa, ban cho nàng những ước mơ tốt đẹp. Việc Hoài cầu xin nầy, đúng hay sai đây, hở anh? Khi niềm hy vọng mong manh tắt dần, theo buổi chiều phai nắng trên đỉnh me xanh. Gần như tuyệt vọng, lúc kim đồng hồ treo trên tường, chỉ sáu giờ tối. Thời gian chậm chạp trôi qua.
Bỗng, có mấy tiếng gõ cửa bên nhà cô Thuận, kèm theo giọng thanh niên hỏi:
- Xin lỗi bác, làm ơn cho tôi hỏi thăm, có phải nhà cô Hương Hoài, ở gần đây?
Hoài quay phắt lại, vội vàng chạy ra, mở tung cánh cửa lớn, khi cô Thuận chưa kịp trả lời. Hai người nhìn nhau không chớp mắt. Hoàng đang đứng trước mặt nàng, anh gỡ kính mát ra, thở dài. Cả hai người cùng sửng sốt, nghẹn ngào, xúc động mất vài phút. Chiếc valy da màu xám trĩu nặng hành trang, bám bụi đường xa, áo sơ mi màu vàng nhạt, kẻ ô nhỏ, quần tây gabardin, đôi giày da màu trắng.
Trải qua năm tháng ray rứt, dằn vật, tức tưởi, lẫn khổ đau, vì cuộc tình gãy đổ rất vô cớ, đã rèn luyện anh, đổi thành một chàng trai thoáng ưu phiền, trên vầng trán in vài nếp nhăn, nhưng nét rắn rỏi càng kiên nghị, trầm tỉnh hơn. Chỉ riêng đôi mắt - đôi mắt vẫn như xưa, đôi mắt ánh lên ngọn lửa tình long lanh, nồng nhiệt, đôi mắt đó không giống bất cứ ai, mà Hoài đã gặp, đôi mắt ánh lên ngọn lửa trìu mến, thiết tha, không có gì có thể dập tắt được!
Ký ức tưởng đã nhạt nhòa, tưởng đã lãng quên theo tháng năm, chợt bừng lên từ đôi mắt, dĩ vãng xa xôi một thời vàng son, trong sáng. Từ quá khứ đó, giờ là hành trang cuộc sống, tràn đầy ân tình.
Như sựt tỉnh trong vị trí xác định gia chủ, nàng run rẩy nép mình qua một bên, giọng nói yếu ớt, lạc hẳn đi:
- Mời anh... vào nhà.
Hoài lảo đảo đi xuống nhà bếp, như người say rượu, nàng lấy hai cái tách pha nước trà. Tay Hoài run rẩy, run lập cập, đến nỗi dĩa và tách chạm nhau, kêu lanh canh, lách cách hoài, những giọt nước sóng sánh văng tứ tung. Đôi bàn tay lạnh giá, cố ghì chặt lấy tách trà. Hoài lờ đờ bưng lên phòng khách, đặt trước mặt anh.
Cách nhau một cái bàn vuông nho nhỏ. Hoàng ngồi đó. Hoài ngồi đây. Cả hai hoàn toàn im lặng và bất động. Mãi lâu, Hoàng lại thở dài, anh lấy điếu thuốc Salem, gài lên môi, quẹt lửa, nhả từng ngụm khói lam mong manh, khói thuốc vờn quanh trước mặt hai người. Điếu thuốc thứ hai tàn, lại điếu thuốc thứ ba bắt đầu nhả khói.
Hoài biết Hoàng rất đau đớn, mới hút nhiều thuốc đến thế, hút chết bỏ mà! nhưng anh không hề rời mắt khỏi khuôn mặt nàng. Anh nghĩ là Hoài đã thay đổi. Ít ra là trên má phấn môi son kia.
Còn Hoài, chống tay lên cằm, nàng nhìn đăm đăm gói thuốc đặt trên bàn. Đầu óc Hoài hoàn toàn rổng tuếch, tê liệt, hụt hẫng. Hoài không thể chịu dựng sự lặng thinh đầy thách đố, sự giận hờn làm kiệt lực, nỗi bi thương tràn lên khóe mắt, làm trào hủ mật đắng lên miệng, lời lẽ vì thế đắng cay theo:
- Anh còn về đây... tìm gặp em, làm gì nữa?
- Hoài đã thay đổi, không còn như ngày xưa, rồi ư?
- Chuyện ngày xưa. Ôi, ngày xưa...
- Anh nào... có tội tình gì đâu!
- Trời! Em đau đớn quá!
- Chưa biết ai đau đớn, hơn ai.
- Biết vậy, sao anh về tìm em, làm gì?
- Anh xin lỗi, vì ngỡ rằng em... còn nhớ đến anh.
- Nếu không còn gì, thì sao?
- Anh muốn trả lại em, tất cả thư từ, hình ảnh của chúng mình.
- Em không có gì trả lại anh. Tình cảm cho đi, chẳng bao giờ đòi lại được.
- Về phần anh, kỷ vật nầy, anh muốn trao trả lại em.
- Anh trả nhầm người rồi. Không phải là kỷ vật của em.
- Giữa anh và em, không còn gì để nói nữa. Chào em...
Câu nói đột ngột của Hoàng, cũng như sự gặp gỡ bất ngờ, làm xót xa, ân hận, quặn thắt lòng Hoài xiết bao! Nét diễm kiều, duyên dáng của một hoa hậu, năm 1962, trên vùng trời hoa Đà biến mất. Khiến Hoàng không nhận thấy, con ong xinh đẹp, dấu cái nọc độc ở đâu, quá đỗi tài tình.
Hoàng xô ghế đứng bật dậy, trong khi Hoài nhìn thẳng vào mặt anh, nói gần như hét:
- Anh ngồi xuống. Không đi đâu hết.
Sau một lúc lưỡng lự, Hoàng chậm rãi ngồi phịch xuống ghế, tay chống lên cằm, anh lặng lẽ thở dài, nhìn Hoài đăm đăm. Có cái gì níu giữ anh chịu khó ngồi lại thế nầy? Có lẽ anh vẫn còn yêu say đắm. Có lẽ anh còn nhớ nhung, đau khổ, dày vò, ray rứt, bởi những nguyên cớ rối rắm, không chút lý do chính đáng? Hết sức phi lý, khi cuộc tình quá đẹp, như quỳnh hoa sớm nở lại chóng tàn.
Hay có thể, trong anh còn sót lại ít tức tưởi, băn khoăn, ưu phiền, ngại ngần? Nếu anh bỏ đi ngay, khi câu chuyện chưa ngả ngũ ra sao, chưa ra môn ra khoai, thì ra cái điều... anh trở về đây tìm nàng, chỉ vì... chuyện nhỏ mà!
- Anh tàn nhẫn lắm!
Như có bàn tay vô hình, vừa cất đi khối đá đè lên tuyến nước mắt, đã từ lâu Hoài ngăn giữ, đè nén lại. Cổng đập đau thương đã mở toang, cho hàng nước mắt trào lên mi, nàng úp mặt lên đôi cánh tay trần, vòng đặt trên bàn. Hoài khóc, khóc, như chưa bao giờ được khóc.
Hoài biết mình quá vô lý, khi nói “anh tàn nhẫn lắm”!
- Ủa, vậy chứ anh tàn nhẫn ở điểm nào thế? Anh có làm gì nên tội, trong chuyện chia tay nầy? Thật là rối rắm.
Hoàng ngồi im sững, không thốt nên lời. Không hiểu anh tàn nhẫn ở chỗ nào, trong thời gian chia biệt đã qua?
Lúc đó, chị Năm ở trong phòng, chị đã nghe hết những mẫu đối thoại của hai người. Chị biết rỏ chuyện Hoàng-Hoài, từ ngày em theo má về Huế, nên chẳng ngạc nhiên, khi Hoàng trở về tìm gặp Hoài. Chị bước ra phòng khách, Hoàng vội đứng dậy chào. Chị chào lại, rồi nhẹ nhàng đặt tay lên vai em, vỗ về:
- Em làm gì mà ồn ào vậy! Việc gì rồi từ từ, bình tĩnh nói chuyện, hãy vào nhà, đi tắm, rửa mặt cho tỉnh táo đi, rồi ra đây, giải quyết vấn đề khúc mắc nào. Đi đi.
Hoài đứng dậy, nàng vâng lời chị, lui vào sau nhà, lấy khăn đi tắm rửa. Chị năm ngồi tiếp chuyện Hoàng khá lâu. Sau đó, chị gọi Hoài lên nhà, ôn tồn nói:
- Hai em ngồi đây nói chuyện vui vẻ nghen, để chị xuống nhà bảo cái Lí làm cơm.
Chị mời Hoàng ở lại dùng cơm tối, nhưng anh nhất định từ chối, xin hẹn lại dịp khác. Chị Năm cười cười, nói:
- Không sao! Còn nhiều dịp mà em. Cứ tự nhiên.
Hoài bình tĩnh đôi chút, ngồi vào ghế cũ. Thẳng thắng nhìn vào khuôn mặt anh, nàng nhỏ nhẹ hỏi:
- Anh định về đây, đòi lại thư từ, hình ảnh của anh. Phải thế không?
Hoàng chống tay lên cằm, đăm đăm nhìn vào khuôn mặt đã xóa hết phấn son. Anh nhẹ lắc đầu, không nói. Lòng Hoài dịu hẳn đi, nàng ngẩn người giây lát, nước mắt trào quanh mi, rồi run run nói tiếp:
- Bây giờ, em không nên lưu giữ kỷ niệm cũ, phải gửi trả lại anh. Là đúng.
Nàng nhớm người, toan bước đi, Hoàng đưa hai tay ra phía trước, lắc đầu quầy quậy, vội vàng nói:
- Hoài à! Anh về tìm em, không phải vì lý do đó.
- Vậy, anh đi tìm em. Có việc gì, cần báo nữa?
- Anh tìm em, để thỏa lòng nhớ nhung. Để biết rỏ là... anh chẳng còn hy vọng gì. Để khẳng định một điều là: Niềm đắng cay, đã trào lên bờ môi tình phụ. Để bị xua đuổi.
- Chưa biết là ai phụ ai. Anh ác thật.
- Hãy tìm câu nào nặng hơn, để nói cho anh nghe đi. Tuy nhiên, anh không thể biết được, anh đã tàn nhẫn, và ác với em, ở điểm nào thế?
Bỗng dưng, Hoài úp mặt xuống hai tay, òa lên khóc thật to. Khóc như trẻ thơ đòi bánh.
Hoàng vòng qua bên mép bàn, anh lặng lẽ đặt tay lên vai Hoài, nhẹ nhàng vuốt mái tóc bồng bềnh quá dài, xõa trên bàn, phủ kín khuôn mặt yêu dấu. Anh biết Hoài rất đau khổ khi gặp lại mình. Nhưng anh không thể hiểu vì sao? Hoàng lấy chiếc mouchoir trong túi quần, anh nhẹ nâng cằm Hoài lên, từ tốn lau hai hàng lệ tuôn trào, ướt đẫm cánh tay trần.
- Xin lỗi anh. Đừng buồn vì những lời em nói.
- Có nghĩa là... Hoài vẫn là... em yêu của anh?
- Với Hoàng, em còn cả quá khứ, hiện tại, tương lai, cuộc đời đang ở phía trước.
Đúng lúc nầy, Ngọc Trúc dừng xe jeep trước sân, cô chạy xộc vào nhà, miệng la ơi ới:
- Đi lấy sự vụ lệnh, Hoài ơi. Mai đi theo phái đoàn, ra Quảng rồi.
Trúc đứng khựng lại trước mặt Hoàng, Hoài. Hoài lúng túng đứng dậy, giới thiệu Trúc với anh. Trúc “À” lên một tiếng, cô cười rất xinh. Do Hoài tâm sự, nên Trúc biết khá rỏ về mối tình của Hoàng-Hoài, biết nỗi đớn đau của Hoài, khi nàng tự ý chia-biệt anh. Trúc thoải mái, líu lo nói chuyện với Hoàng, tự nhiên như đã từng quen biết, thân thiết với anh từ thuở nào.
Hoài vào sau nhà, thay áo quần, định đi theo xe Trúc lấy sự vụ lệnh. Hoài chưa kịp trang điểm gì, Trúc chạy vào phòng ngủ, chào Hoài. Trúc đi một mình. Cô đang vội, vì sắp hết giờ làm việc, tài xế đang chờ ngoài đường. Trúc nói:
- Thôi. Anh Hoàng về tìm Hoài, là phải. Nên hòa với nhau đi. Hoài ở nhà kỳ nầy, để mình xin phép anh Phước, cho Hoài nghỉ một tuần. Nha.
- Hòa gì nỗi. Mình phải đi làm việc.
- Đừng có dở chứng lên thế. Hoài khóc sưng cả mắt rồi, bộ không biết sao?
- Ớ, anh Đan sắp đi đám hỏi mình rồi. Hòa với hiếc gì!
- Mình tin rằng “cô cậu” vẫn còn yêu nhau da diết, nhất là giữa Hoài và Đan, chưa có một ràng buộc mật thiết nào, chưa có một lần tay nắm bàn tay. Vậy hãy dẹp cái chuyện lấy chồng lẩm cẩm kia đi. Nha.
- Sao hôm trước, chính Trúc bảo mình: Nên nhận lời lấy anh Đan đi, hở khỉ!
- May chứ, hôm đó, Hoài mà gật đầu một cái là... chết tui rồi!
Nói xong, Trúc cười toe, vụt chạy ra ngoài phòng khách. Hoàng hỏi dồn:
- Hoài cùng đi với Trúc sao?
- Đời nào. Trúc cho phép nó ở nhà, đó anh.
Nói xong, Trúc lại cười tít mắt, chào anh rồi vụt ra cửa. Trúc nhảy lên xe jeep, cuốn theo lớp bụi khói bay theo gió rì rào.
- Em ở nhà, ngày mai đi ra Huế, với anh, em nhé.
Hoài muốn từ chối lời đề nghị đó. Nhưng, thật là khó chối từ nỗi, trước ánh mắt thiết tha, nụ cười khả ái, lời nói chân tình, lôi cuốn của “người ấy”. Trước sự quyến rũ dường bao của Hoàng, mà tuổi đời, trình độ kiến thức, tri thức, cung cách tao nhã, lịch thiệp, sự cao sang, đều hơn hẳn Hoài. Người mà Hoài đã yêu rất nhiều.
Người đã y lời hẹn ước năm xưa, sẽ trở về miền Trung, tìm lại Hoài. Dù bất cứ giá nào, dù trước chông gai và thách đố, như anh đã hứa.

_ * _

Kính mời độc giả xem tiếp: Chương 26
Trân trọng,
Ưu Du
Tôi ước mong học hỏi cùng quý vị: *Trau dồi tư tưởng *Mở rộng kiến thức *Nâng cao tâm hồn. Trao nhau niềm thành tín cậy trông. ÁƯD Cám ơn quý vị.
Ái Ưu Du
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $540
Posts: 237
Joined: 16 Jan 2007
Location: U S A
 
 

PreviousNext

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 36 guests