HIẾN CHƯƠNG TÌNH YÊU
Chương 15
VIỆT NAM QUÊ HƯƠNG CẨM TÚ
Từ năm 1961 --> đến cuối năm 1974 –
(Những bối cảnh ở thời điểm nầy, hầu như ít thay đổi)
*2b.-
Từ giã Nha Trang, xe xuôi về đèo Rù Rì, Đại Lãnh, đèo Cả, vào vùng Lương Sơn, Phong Thạnh, Hoà Huỳnh. Xe tạm dừng chân ở dưới đèo M'Drack Vạn Giã, Ninh Hoà. Trại cùi Bàu Phong nhìn chéo là Núi Hòn Khô. Gió lùa lá vàng, sương tuyết phủ đầy vai bức tượng, đã sạm màu với thời gian. Nơi đó tạt hình ảnh chiến sĩ Cộng Hòa Việt Nam khá cao, đứng trong tư thế thao diễn nghỉ, do bộ chỉ huy trường Đồng Đế xây đầu năm 1960.
Ở vùng nầy, tập trung rất nhiều loại cây dó Bầu, dó Lưỡi Trâu, dó Cam. Rất nhiều trầm, tích tụ chất nhựa dầu thơm đặc biệt, biến thành màu xanh cổ vịt, màu trắng có vân lóng lánh, đó là lúc trầm đã biến thân thành Kỳ Nam. Người đi tìm trầm nói:
- "Nhất bạch, nhì thanh, tam huỳnh, tứ hắc". "Trầm nơi Vạn Giã, hương tỏa sơn lâm".
Hoài nghe nói, người ngậm ngãi đi tìm trầm, nhưng ngậm quá lâu ngày, bị lạc mất trong rừng, không tìm thấy lối ra, người ấy bỗng hóa thành cọp. Nghe sao hoang đường, ớn lạnh thế!
Đúng là phong cảnh tuyệt tác, hữu tình. Bầu trời vần vũ mây xám đục, bàng bạc, hơi nước đan trong sương giá mờ mờ. Núi rừng trùng trùng điệp điệp, khí trời toả lạnh mát rượi, man mác, phơn phớt vàng, thoang thoảng mùi thơm thơm. Thật dễ chịu.
Xe chạy chậm, quanh co trên con đường hẹp, trơn trượt như bôi mỡ. Má tựa đầu vào hông xe, chật như nêm, chân tay co quắp, ngủ gà ngủ gật. Nhìn mẹ già thiêm thiếp mệt nhọc, lòng Hoài trào dâng nỗi buồn phiền, và sự ân hận dày vò, khiến nàng ứa nước mắt.
Đèo Giã trùng điệp ngút ngàn, núi non cheo leo uốn lượn quanh co. Mưa tầm tã, gió lồng lộng suốt đến Tu Bông. Đại Lãnh xa Nha Trang chừng 80km. Phong cảnh nơi đây thật hữu tình, bên trái là dốc đá núi đèo, cheo leo hiểm trở, bên phải là đại dương mênh mông bát ngát biếc xanh lấp lánh dưới ánh bình minh rạng rỡ, hay hoàng hôn tuyệt diễm. Làng mạc nên thơ, ven bờ hàng trăm ghe thuyền nhấp nhô đậu san sát. Nhà cửa bao bọc bởi hàng thùy dương, những hàng dừa, hàng cau chen cánh.
Làng chuyên về nghề: "Chồng chài. Vợ lưới. Con câu" trên những cánh buồm trắng, nhỏ li ti như hạt đậu phụng, bồng bềnh trôi đi trôi về . Ngư thuyền có thân hình vạm vỡ, cánh tay lực lưỡng tung vó bắt cá. Như vị thủy thần lão luyện, từng trải trên biển cả. Cồn cát trắng tưới nắng vàng hanh, phơi đầy loại lưới cá, trông xa như những mạng nhện khổng lồ: Lưới Đăng, lưới Rút, lưới Rồng, lưới Rê, lưới Văng, lưới Rẽo.
Hảo Sơn, Phú Hiệp, Đông Tác. Tuy Hoà. Nhạn Tháp xây bên bờ bắc sông Đà Rằng, tháp có hình tứ giác bốn tầng. Chân tháp bệ vệ nhưng càng lên cao, chóp tháp càng thu nhỏ, như hình chóp nón. Cửa hình vòm cung nhọn, có tượng hình Linga, hơi giống tượng Pônagar, đầu quái vật ở trên đỉnh, như một phế tích u trầm. Là một Tỉnh miền Nam Trung bộ, trên tọa độ 12 độ 53’ - 13 độ14’ vĩ độ bắc, l08 độ37’ – 109 độ l3’ kinh độ đông.
Dọc chiều dài phương tây, có dãy núi thấp, nhiều đồi xen kẽ ruộng đồng, cây cỏ xanh um, cồn cát trắng. Con sông rộng mênh mông, cầu gỗ nâu Đà Rằng (sông Ba) dài ngót cây số, có 21 nhịp, tấp nập người qua lại, xe cộ đông đúc, nối từ các vùng Hoà Đa, Chí Thạnh, La Hai, Phước Lãnh, Vân Canh.
Lưu lượng thủy triều không đều, lúc mạnh lúc yếu, theo khí hậu miền đại dương vùng nhiệt. Gió mùa nóng, mưa ẩm quanh năm nơi vùng sông Cái, sông Bàn Thạch. Lại có các hòn đảo Cô, hòn Đức, hòn Than, hòn Chùa.
Tản đá Hòn Vọng Phu trên cao độ 2.064m, đơn độc, khổng lồ, đứng chênh vênh như nhô một phần chân ra biển. Sừng sững đỉnh núi cô tịch điệp trùng, chập chùng núi tiếp núi, cao chót vót.
Tục truyền rằng thuở xưa khách chinh phu, vì "xã tắc lâm nguy, thất phu hữu trách". Vì nước quên tình nhà, chàng đi chinh an ngoài biên ải, quyết giữ gìn bờ cõi, sơn hà gấm vóc. Chinh nhân hẹn sẽ trở về, khi giặc hết nhà yên. Chinh phụ tháng tháng năm năm, ôm con lên núi, mòn mõi đơn điệu ngóng trông chồng phong sương biền biệt. Nước mắt chinh phụ tuôn trào thấm đẫm toàn thân. Thời gian dài đằng đẵng sô sóng trên luống tóc sầu bạc phơ, họ đã hoá thân thành đá. Ôi! Lòng người vợ hiền Việt Nam thủy chung, bạc phơ mái tóc, vẫn sắt son suốt kiếp trông chờ, là tấm gương sáng chói qúy giá vô ngần.
Đèo Cù Mông luôn hoang vu, trầm mặc, cô liêu và u ám, dẫn đến Tháp Đôi (ở Xã Đống Đa). Gồm có hai tháp: Tháp Một cao 18m; tháp Hai cao 22m đều là hính chóp nón. Qui Nhơn có thành Chà Bàn xa khoảng 26 km, về hướng tây bắc, nơi kinh đô vương quốc Chàm, với vì vua Yangpuku Vijaya ngự trị giữa các tượng voi, rắn, cùng nhiều tượng dị hình khác. Địa hình nghiêng nghiêng, hàm lượng đất phù sa thấp, bạc màu gần chân núi, quanh đầm, vịnh, trôi dần ra bờ biển đông.
Bình Định, có thắng cảnh Ghềnh Ráng đẹp. Tại làng Thị Tứ có lò rèn nổi tiếng. Nam nữ thích múa điệu trống võ truyền thống Tây Sơn. Con nhà võ nổi danh với câu thơ lưu truyền:
Ai về Bình Định mà coi,
Con gái Bình Định cầm roi đi quyền.
Bãi tắm Hoàng Hậu toàn đá xanh nhỏ to xếp từng lớp, nhìn xa như bãi trứng chim khổng lồ. Cạnh đồi là thi nhân mộ phần Hàn mặc Tử. Suối Tiên. Bán đảo Phương Mai, Thị Nại. Thuở xưa, Vua Bảo Đại đã cho đã xây nhà nghỉ hữu tình trên khu đất cao, trông ngôi nhà giống con tàu nhấp nhô lướt sóng đại dương.
Thành Chà Bàn xây bằng đá ong, đường đi lát đá hoa cương. Vào thời triều cuối cùng vua Yangpuku Vijaya (Chàm) Còn gọi tên là Thập Tháp, tháp Cánh Tiên có nhiều hình quái vật, tượng rắn đá trắng, voi đá.
Phú Tài. Cánh đồng Phù Mỹ bao la, đầm Trà Ô. Hoài thấy ngọn Chóp Chài cheo leo, hòn Cao quay ra biển, vô cùng đơn điệu trước biển cả mênh mông. Những nơi nầy nằm trên vị trí giao thông, khá thuận lợi về hai mặt: đường biển và đường bộ. Núi đồi ngút ngàn, chen lấn đồng ruộng ven núi. Nơi nổi danh ba vị anh tài, áo vải cờ đào Lam Sơn Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, sinh ở làng Kiên Mỹ.
Hoàng Đế Nguyễn Huệ lấy hiệu là Quang Trung tài ba, đầy mưu lược, đã cởi voi vào cửa Bắc, thắng quân Thanh ở Phú Xuyên, Hà Hồi, Đống Đa, khiến Tôn Sĩ Nghị chạy bán sống bán chết, vào mùa Xuân 1789, đại thắng lẫy lừng. Ngọc Hân công chúa mười sáu tuổi, con gái thứ hai mốt của vua Lê Hiến Tông, vâng lệnh vua cha kết duyên cùng Nguyễn Huệ vương quyền. Sau nầy vua Gia Long, cho khai quật mồ của Quang Trung, phơi nắm xương khô, trả mối hận thù rối rắm thuở xa xưa. Thù chi mà thù dai. Thù ghê gớm. Thù dễ sợ!
Đường đi càng khúc khuỷu gập ghềnh, xe rung lên từng hồi, xóc mạnh qua ổ gà, gò mô, giật mìn, đất đá sụt lở. Xe đến gần vùng đảo Cù Lao Chàm, Hòn Ông, Hòn Dài, Hòn Tai có nhiều khỉ. Dọc quốc lộ, vô số hàng dừa chen cánh những hàng dừa ngã nghiêng, theo chiều gió đại dương rì rào sóng vỗ.
Hai bên đường, bán đầy hàng quà bánh trái, ngũ gia bì, sa nhân, thiên niên kiện, thổ phục linh, phong kỷ, đều có sản xuất tại xứ nầy. Hàng nước, hàng cơm, người ra vào đông đúc, dưới cơn mưa như trút, gió rét căm căm. Trời đang trở cơn gió bão mịt mù. Bóng tối sớm bao trùm vạn vật, suốt ngày không chút ánh sáng mặt trời.
Xe bị bể bánh, phải ngừng lại hơn nửa ngày, thay dầu nhớt, sửa chữa vài thứ, không hy vọng xong ngay. Nhân đó, vài ba cụ già ở địa phương, tuổi già không sao đếm nỗi thắng năm, trên những lằn nhăn, lún sâu vầng trán hói. Họ đến đề nghị với hành khách trên xe: Ai muốn đi thăm di tích Hận Đồ Bàn, kinh đô Dân Tộc Chàm. Thì bớt xén vài chục, thuê hướng dẫn viên. Nghe thế, khoảng mười mấy người trẻ ngồi chung xe góp tiền, đưa lão trượng.
Muốn vào thành Đồ Bàn, Hoài phải đi qua cửa chánh. Tức cửa Vệ. Vã lại, xe khách bị hư chỉ cách thành hơn cây số, (ở gần cửa nầy). Thành có ba cửa nữa là: Cửa Tả, cửa Hữu, cửa Bắc ở hậu cung. Thành có ba lớp: Thành ngoài, thành trong, tử cấm thành. Thành và tháp đắp toàn gạch tàu nung đỏ, đất sét, đá ong, đá phiến, thỉnh thoảng điểm thêm ít đá tai mèo, dưới chân cột kê đá tảng.
Tháp Cánh Tiên nằm trong thành Đồ Bàn, xưa gọi là tháp Vijaya. Quanh vùng nầy còn sót lại ít di tích tháp Bạc, tháp Bình Lâm, chùa Nhạn Sơn. Tứ bề cây đan cây, cỏ lướt cỏ, cổ thụ chằn chịt, um tùm. Cảnh điêu tàn hoang phế in trên từng bậc thềm loang lổ, mốc meo cạnh bức tường thành, ngôi tháp hư hại đổ nát mấy nơi, chưa được trùng tu, trông càng tiêu điều hoang vu, hết sức đơn điệu buồn bã.
Hận Đồ Bàn và người đẹp hong mái tóc huyền, giặt lụa bên ven sông, vang bóng một thời thuở ấy. Ngày xưa quan hành khiển Trần Khắc Chung vẻ tranh công chúa Huyền Trân, được triều đình trao cho Chế Bồ Đào, mang về Chàm. Có lẽ Huyền Trân và Khắc Chung từng ngao du sơn thủy.
Chiêm cắt hai châu Ô, Lý dâng Vua xứ Việt, làm sính lễ, do quan hành khiển Đoàn Nhữ Hài trấn giữ. Bờ cõi, dân tộc, được mang ra giao hảo: Cho hôn ước Chăm Pa và người đẹp mặt hoa da phấn nghiêng nước nghiêng thành đất Việt. Chế Mân chết. Phong tục Chiêm, hoàng hậu phải hoả táng theo thi hài Vua. Nhà Việt sai Khắc Chung tức tốc sang Chiêm, dùng mưu lược cướp Huyền Trân, đưa công chúa, trở về kinh thành Thăng Long, vào năm 1308.
Người Maoris khi chết, họ cho thủy táng xuống "thủy mộ quan", mong thân xác tắm mát, trôi về phương tây, thuộc quần đảo Hawaiki an nghỉ. Người chết rồi, thôi cũng cho "mát mẽ" đi. Đằng nầy, bắt người sống sờ sờ, phải hoả táng theo, thì "nóng hổi và khủng khiếp", chịu sao thấu! Vương quốc Chế tan rã từ năm 1470. Hoài đã học lịch sử nầy, nỗi sợ hãi như in vào trí.
Xứ dừa Tam Quan và Chế Bồng Nga, ngày ngày cùng đoàn tỳ nữ ca múa thuở nào, bên bờ sông Phú Yên. Trà Ổ có núi Lồi, dân cư sung túc, Phù Cát có yến sào, cua huỳnh đế, có đá granosinite đỏ, mỏ cao lanh, đất sét. Người ta ưa bày bán các vật lưu niện bằng đất nung, khá xinh. Khánh Phước, Phù Mỹ, Văn Phú, Bồng Sơn, Đèo Nhông, đèo Phù Cư. Phía Đông là núi Chóp Chài, rừng dừa to cao, hàng hàng lớp lớp tre nứa nghiêng mình ra giữa lộ, như đón chào khách lữ hành. Cơm Bồng Sơn nổi tiếng ngon, nóng, đậm đà hương vị quê hương, rẻ nhất, con tôm to tươi rói, con cá no tròn bơi lội trong hồ, gà vịt luộc nóng hổi, vừa thổi vừa ăn, ngon ơi là ngon tuyệt!
Chủ quán niềm nở vui vẻ, chào đón khách với khăn nóng, khăn lạnh, thay đổi mỗi mùa. Hàng quán gọn gàng sạch sẽ. Câu mời chào đon đả, ân cần lịch sự, người nghe dù không đói bụng, ngại trời mưa gió, họ vẫn thích làm vui lòng chủ quán, mua giúp các món quà đặc sản.
_ * _
thh