Vân Hải Ngọc Cung Duyên - Lương Vũ Sinh

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Vân Hải Ngọc Cung Duyên - Lương Vũ Sinh

Postby tuvi » 05 Feb 2023

Image

Vân Hải Ngọc Cung Duyên

Tác giả : Lương Vũ Sinh

Dịch giả : Cổ Nguyệt


Vân Hải Ngọc Cung Duyên là một truyện kiếm hiệp đầy sức hấp dẫn , lạ lẫm nhưng không hề nhàm chán .

Tưởng chừng như những câu chuyện về võ thuật , về những bí kíp võ công , những điều thú vị này sẽ khiến bạn lạc vào thế giới giang hồ vô cùng hiểm ác ...Nhưng cũng là hành trình khám phá , phiêu lưu đầy mạo hiểm .

Một câu chuyện đôi lúc hòa trộn sự nhẹ nhàng đến bất ngờ làm độc giả không khỏi xao xuyến ...!

Từng chương , từng chương truyện như một quyển sách sống động và chân thực dưới ngòi bút của tác giả ...Liệu còn điều gì thú vị đang tiếp nối tiếp truyện, còn những gì mở ra trước mắt nữa ... còn bí ẩn gì ở đây... câu trả lời ở đâu

Mời bạn đọc Vân Hải Ngọc Cung Duyên để cảm nhận rõ được điều này
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng tuvi từ: Que Huong

Re: Vân Hải Ngọc Cung Duyên - Lương Vũ Sinh

Postby tuvi » 05 Feb 2023

Hồi thứ nhất
Tay Phóng Đạn Băng Xua Kẻ Địch ..Nào Ngờ Tên Độc Cắm Lên Mình

Tháng ba rực nắng vàng,

Oanh ca lừng hoa viên.

Nhà ai vui vẻ tưng bừng thế?

Say cảnh Giang Nam mờ khói sương,

Còn nhớ thảo nguyên mênh mông miền Tái Bắc,

Ngũ Lăng công tử sao còn tung tăng

Có nhớ bộ dạng tiều tụy của gã ăn mày giả điên tháng ngày lang thang?

Mây nhàn thấp thoáng biển ngời sáng,

Dường có dường không bên trời quang

Kìa chợ nước Ngô tiếng tiêu lang hòa khúc hát Ngọc cung duyên.

(Theo điệu “Trích trích tinh”)

Tháng ba cuối mùa xuân, miền Giang Nam cỏ non mơn mởn, cây cối đâm chồi, muôn hoa khoe sắc, chim hót líu lo. Từ xưa đến nay mùa xuân Giang Nam vẫn thế, không biết bao nhiêu kẻ tao nhân mặc khách còn ngơ ngẩn, huống chi là một chàng thanh niên lần đầu tiên đến Giang Nam, giữa tiết trời “mưa phùn chưa đủ ướt áo ai, gió thổi cành dương chẳng rét người”, chàng ta đương nhiên càng mê mẩn.

Chàng trai ấy tuổi khoảng đôi mươi, khuôn mặt non nớt, tánh vẫn còn như đứa trẻ, lúc này chàng đang đứng trên sườn đồi đưa mắt nhìn xung quanh, huơ chân múa tay kêu lên rằng: “Khi lão gia còn ở Tát Ca, ngày nào cũng muốn về nhà, té ra Giang Nam là nơi đẹp thế này, Giang Nam thật đẹp!”

Một lũ trẻ kẻo rồng rắn phía sau chàng, một đứa chợt bắt nhịp cho cả bọn hát rằng: “Không biết xấu hổ, không biết xấu hổ, mèo khen mèo đài đuôi!”

Chàng trai giả vờ tức giận kêu lên: “Sao các người lại bảo ta là mèo?”

Lũ trẻ kêu lên: “Chẳng phải huynh đang tự khen mình hay sao? Rõ ràng huynh bảo Giang Nam thật đẹp, Giang Nam thật đẹp, chẳng phải mèo khen mèo dài đuôi là gì?”

Chàng trai cười lớn nói: “Ý ta muốn nói miền Giang Nam thật đẹp, nhưng Giang Nam ta đây cũng đâu phải xấu!”

Té ra chàng trai ấy vốn tên là Giang Nam. Chàng là thư đồng của Trần Thiên Vũ, con trai của Tuyên úy sử Trần Định Cơ ở Tát Ca miền Tây Tạng. Trần Định Cơ bị biếm đến Tây Tạng đã hơn mười năm, sau đó vì có công lớn, lại được một người bà con làm quan trong trí t cầu xin nhà vua, ông ta mới về kinh làm lại chức Ngự sử, nhưng Trần Định Cơ thấy quan trường đen tối, về kinh được hai năm thì cáo lão hồi hương. Quê ông là một ngôi làng nhỏ có tên Mộc Độc cách Tô Châu năm sáu mươi dặm, mặt quay về phía Thái Hồ, phong cảnh rất đẹp. Lần đó vì Giang Nam có công đem thư vào kinh cho chủ nhân, Trần Định Cơ nhận chàng làm nghĩa tử.

Chàng xuất thân là một thư đồng, cho nên chẳng hề phách lối, chưa đầy hai tháng mà đã rất thân thiết với lũ trẻ quê này.

Lúc này Giang Nam vừa cười vừa phát kẹo cho lũ trẻ hỏi: “Thế nào, Giang Nam ta đây cũng không tệ chứ?” lũ trẻ không trêu chàng nữa, khen rằng: Giang Nam thật tốt Giang Nam thật tốt!”

Giang Nam chợt hỏi: “Này, trong làng của các người có một cô nương biết thổi Hồ Ca hay không?” Lũ trẻ cười ầm lên, có vài đứa còn trêu chàng:

“Hi hi, Giang Nam ca muốn đại cô nương!” Giang Nam nói: “Vớ vẩn, này, ta nói thực đấy, ai nói cho ta biết, ngày mai ta sẽ đến Tô Châu mua cho một con quay bằng đồng.”

Lũ trẻ nghe thế đều mừng rỡ, nhưng chẳng đứa nào biết, chỉ hỏi: “Hồ ca là gì, Hồ Ca trông như thế nào?”

Giang Nam bèn dùng tay diễn tả: “Là một ống thổi được cuộn bằng một ống trúc rất dài, khi thổi lên phát ra âm thanh nghe véo von.”

Lũ trẻ lại hỏi: “Lá trúc có hình dạng như thế nào?” “Thổi có vui không?” “Chúng tôi chưa từng thấy thứ quái quỷ này.”

Hồ Ca là một nhạc cụ của người Hồ ở miền tái ngoại, lũ trẻ ở Giang Nam dĩ nhiên chưa từng thấy, Giang Nam nói thế nào bọn chúng cũng chẳng hiểu, cho nên bọn chúng kể ra một lô một lốc những cô gái thích thổi địch, thổi tiêu, khiến Giang Nam vừa bực mình vừa buồn cười, thầm nghĩ: “Thật kỳ lạ, dù cho mình có nghe nhầm, công tử cũng không thể nghe nhầm, đêm qua rõ ràng là nghe như có tiếng Hồ Ca!”

Đột nhiên có tiếng nhạc từ xa vọng tới, tựa như tiếng vượn hú trên chốn núi rừng, tiếng cú kêu trong đêm khuya, âm thanh nghe rất chói tai mà lại thê lương, cả lũ trẻ cũng nghe rất rõ ràng, Giang Nam giật mình, từ nhỏ chàng đã quen với tiếng Hồ Ca, không thể nào nhầm được, chàng vội vàng chạy về nơi ấy, chợt thấy dưới chân núi có hai thớt ngựa chạy tới Lũ trẻ kêu vọng theo chàng: “Giang Nam ca, đừng gây sự với chúng, chúng là đả thủ của Vương Lão Hổ”

Giang Nam đến đây đã gần hai tháng, biết Vương Lão Hổ là một ác bá của huyện Ngô, còn là hương chủ của một bang hội nào đó, nhưng Giang Nam lại là người háo sự, chàng chẳng hề xem Vương Lão Hổ vào đâu chàng đang muốn đi tìm y, huống chi chàng thấy hai kẻ này đang phóng ngựa đuổi theo cô gái thổi Hồ Ca.

Đối với Giang Nam, núi non ở miền Tô Châu chẳng qua chỉ giống như cái bánh mãn đầu bằng đất, chàng đề một ngụm khí phóng vọt xuống, chỉ trong chớp mắt đã đến chân núi, nhưng lúc này chàng không phải đang tìm cách đối phó với hai tên đả thủ kia mà đang lấy làm lạ vì không biết cô gái thổi Hồ Ca này ở đâu ra. Chàng chợt nhớ lại canh ba đêm qua, chàng và Trần Thiên Vũ đang ngồi nói chuyện về Kim Thế Di, cả hai vẫn chưa buồn ngủ, chợt nghe loáng thoáng tiếng Hồ Ca, nhưng trong khoảnh khắc âm thanh ấy đã biến mất. Giang Nam nghi thần nghi quỷ tưởng rằng Kim Thế Di đã tới, nhưng Trần Thiên Vũ rất giỏi âm luật, bảo rằng tiếng Hồ Ca nghe thê lương buồn bã, người thổi Hồ Ca ắt hẳn là một cô gái, không thể là Kim Thế Di. Lúc đó Giang Nam định chạy ra xem, Trần Thiên Vũ sợ kinh động đến cha cho nên mới cản lại. Vì thế hôm nay trời vừa sáng thì Giang Nam đã chạy ra dò hỏi, nay vừa gặp thì quả nhiên là một cô gái.

Nhưng cô gái ấy đã che mặt bằng vải đen, Giang Nam càng nghi càng thấy lạ.

Khi Giang Nam chạy đến chân núi, hai thớt ngựa đã đuổi kịp theo cô gái. Hai thớt ngựa ấy phóng lướt qua mặt Giang Nam, một tên đả thủ cười gằn rồi phóng ra một cây cương trảo đánh vù một tiếng, chụp vào cô gái che mặt!

Kẻ này cứ tưởng rằng có thể chụp trúng cô gái, ngay trong khoảnh khắc ấy, chợt nghe có người cười hì hì, tên đả thủ dùng lực giật lại, chợt cảm thấy bàn tay đau nhói như dao cắt, té lăn xuống ngựa, thì ra Giang Nam đã khéo léo xoay người chụp lấy cây cương trảo của y rồi tròng lên gốc cây bên đường.

Tên kia thấy thế thì cả kinh. vội vàng xuống ngựa đỡ đồng bọn dậy, kẻ bị té kêu lên oai oái, nhe răng cười: “Ngươi tự ngã, liên quan gì đến ta, ai bảo người chụp gốc cây, gốc cây có thù oán gì với ngươi? Hừ, hừ, ngươi mắng ai thế?”

Tên kia có vẻ thận trọng hơn, chặn đồng bọn lại rồi hỏi Giang Nam: “Này, ngươi là bằng hữu phương nào?”

Giang Nam lắc đầu nói: “Ta không biết các người, sao có thể gọi là bằng hữu?”chàng giả vờ ngờ nghệch không trả lời câu hỏi của y.

Kẻ ấy trầm giọng nạt: “Tên nhãi ranh nhà ngươi có biết ta là thủ hạ của Vương hương chủ bang Hải Dương hay không?”

Giang Nam nói: “Không biết.”

Kẻ ấy bảo: “Ngươi có hiểu quy củ giang hồ không? Ả này lai lịch bất minh, Vương hương chủ phải bắt ả tra hỏi, tại sao ngươi ngăn cản?”

Giang Nam nói: “Thật quái lạ hương chủ là thứ gì? Có phải là một chức quan không? Ta đã gặp không ít quan, nhưng chưa bao giờ nghe nói có chức quan như hương chủ, cũng chưa bao giờ nghe nói vì lai lịch không rõ ràng nên bị bắt tra hỏi.”

Kẻ ấy hừ một tiếng rồi nói: “Ngươi là đồ khốn kiếp ở đâu ra?”

Giang Nam nói: “Ta cũng ở nơi khác đến, hương chủ các người có cần tra hỏi không?” kẻ bị ngã lúc nãy đùng đùng nổi giận, bảo tên đồng bọn: “Thằng nhãi ranh này rõ ràng có ý bôn cột không cho y nếm đòn, y cũng không biết lợi hại, đừng nói nhiều, xông lên!”

Giang Nam nói: “Ngươi vừa tới đã mắng ta là khốn kiếp, lại còn mắng ta là nhãi ranh, đại trượng phu không thể nhịn được nữa, xem đây!” vừa nói hai chữ “xem đây” chàng đã lách người tới tát hai tiếng bốp bốp vào mặt của hai kẻ ấy.

Đến lúc này cả hai tên đả thủ đều biết bản lĩnh của Giang Nam hơn bọn chúng, nhưng cả hai vẫn chưa biết sợ, bèn xông thẳng tới Giang Nam, Giang Nam chỉ nhẹ nhàng kéo gấu áo của chúng, lại nghe thêm hai tiếng bốp bốp nữa, té ra cả hai đã vung quyền đấm vào nhau.

Giang Nam cười hì hì nói: “Các người đã tự đánh nhau, đừng trách ta đấy nhé!”

Cả hai tên đại hán đều sưng vêu mặt mày, trợn mắt há mồm, Giang Nam nói: “Các người còn đứng trân đó ra làm gì? Chắc là vẫn đánh nhau chưa đã, có cần đánh thêm với ta một trận không?” rồi chàng đột nhiên quắc mắt, cả hai tên đả thủ vội vàng co giò chạy mất. Lúc này chợt nghe có tiếng cười ha hả vang lên!

Giang Nam quay đầu nhìn lại chỉ thấy trên đường có một đám người, ai nấy đều mang theo binh khí, Giang Nam ngạc nhiên tưởng rằng đó là bọn người của bang Hải Dương, nhưng một hán tử có vẻ là người dẫn đầu bước tới cung tay nói: “Thiếu niên anh hùng, quả thật đáng ngưỡng mộ!”

Giang Nam chưa bao giờ được người ta khen ngợi như thế, nghe y nói thì lòng hoa nở rộ, cười hì hì: “Tôi đâu có phải là anh hùng gì, công tử nhà tôi và những người bạn của người mới đúng là đại hiệp đương thế!”

Hán tử ấy nghiêng đầu, tựa như đang suy nghĩ chuyện gì, chợt cung tay nói: “Thất kính, thất kính! Thiếu hiệp khoan hãy nói, để tôi đoán thử công tử của thiếu hiệp là ai? Ồ, chắc chắn đó là Trần Thiên Vũ!

Còn thiếu hiệp là Giang Nam!” Giang Nam mừng rỡ nói: “Chẳng sai tí nào, sao ông biết?”

Hán tử ấy nói: “Tôi và Trần công tử là bạn hữu đã nhiều năm, sao không biết?” y ngập ngừng rồi lại nói tiếp: “Chúng tôi cũng quen biết những người bạn của Trần công tử, trong số đó có một người thân thiết nhất với chúng tôi tên gọi Đường Kinh Thiên.”

Giang Nam nói: “Đúng, đúng, Đường đại hiệp thân thiết với công tử chúng tôi chả nó khác gì huynh đệ, không ngờ ông ta cũng là bằng hữu của các vị, này các người có quen Kim Thế Di không?”

Hán tử ấy nói: “Ồ, Kim Thế Di? Đúng thế, có gặp vài lần.”

Giang Nam vội vàng hỏi: “Lần cuối cùng gặp y là khi nào?”

Hán tử ấy nói: “Chúng tôi đến núi Đường Cổ Lạp cho nên gặp y ở đấy, sau đó chúng tôi về Giang Nam, chuyện này xảy ra cách đây nửa năm về trước.”

Giang Nam cả mừng nói: “Nói như thế Kim Thế Di vẫn chưa chết?”

Hán tử ấy nói: “Kim Thế Di tuy lớn tuổi, nhưng tinh thần vẫn còn tốt, tôi thấy ít ra ông ta có thể sống mười năm nữa, sao có thể chết được?”

Giang Nam ngạc nhiên, thầm nhủ: “Kim Thế Di cũng trạc tuổi công tử nhà mình, sao lại bảo y hơi lớn tuổi? nhưng chàng chợt hiểu ngay: “Đúng rồi, Kim Thế Di rất thích cải trang. Nhưng sao mình không nhận ra những người này?”

Hán tử ấy tựa như biết chàng nghĩ gì, thế nên mới nói: “Năm xưa chúng tôi đã từng giúp Trần công tử một lần cho nên mới quen biết y!”

Giang Nam nói: “Lần đó đáng tiếc Trần công tử không dắt tôi theo, rất nhiều kì nhân dị sĩ ở bốn phương đều đến. Té ra các vị đã quen với công tử của tôi như thế, chả trách gì tôi không biết các vị.” Rồi chàng nhìn kỹ lại, đám người này có đến khoảng mười ba người, ai nấy mặt mũi phong trần, nhìn cách ăn mặc thì cũng giống từ miền tái ngoại đến.

Giang Nam suy nghĩ một hồi, hán tử cầm đầu nói: “Thiếu hiệp tuy không biết bọn tôi, nhưng bọn tôi đã nghe đại danh của thiếu hiệp.”

Giang Nam lại cười hì hì: “Sao? Chắc chắn là công tử đã nhắc đến tôi, người vẫn thường thích khen tôi!”

Hán tử ấy nói: “Đúng thế, Trần công tử bảo thiếu hiệp là thư đồng đắc lực nhất, vừa thông minh vừa lanh lợi, đúng là thập toàn thập mỹ.”

Nghe khen một hồi, Giang Nam thấy lâng lâng trong lòng, nói: “Các vị vẫn còn chưa biết, lúc này tôi không còn là thư đồng nữa, được công tử xem trọng, chúng tôi đã kết thành huynh đệ.”

Hán tử ấy vội vàng cung tay nói: “Trần nhị công tử, thất kính, thất kính.”

Giang Nam hớn hở nói: “Các vị từ xa đến, có cần tôi giúp gì không?” chàng nghe người ta gọi mình là “công tử”, cũng ăn nói nhã nhặn theo lối của một chủ nhân.

Hán tứ ấy nói: “Đang muốn nhờ công tử dẫn đường, Trần đại công tử có ở nhà không?”

Giang Nam nói: “Có, chắc chắn là đang ở nhà, hai tháng trước lão gia từ quan chúng tôi mới theo người về đây, tin tức của các người cũng nhanh nhạy lắm!”.

Thế rồi chàng toan đi trước dẫn đường, vừa mới bước được một bước thì chợt nhớ một chuyện, hỏi: “Các vị hãy chờ một chốc, cô gái thổi Hồ Ca đâu rồi?”

Đám người ấy nghe Giang Nam kêu lên mới đưa mắt nhìn quanh, quả nhiên không thấy cô gái ấy, hán tử cười nói:

“Chắc nàng sợ nên đã bỏ chạy. Trần nhị công tử tìm nàng ư?”

"Chuyện này không khó tí nào, đợi sau khi chúng tôi gặp Trần đại công tử, sẽ chia nhau đi tìm giùm cho công tử.”

Giang Nam cảm thấy hơi ngạc nhiên, ở đây là nơi đất bằng phẳng, phía sau có một ngọn đồi nhỏ, nếu cô gái ấy chạy lên đồi, đám người này có lý nào lại không thấy, nếu chạy về phía trước thì chàng cũng sẽ phát hiện, nhưng bây giờ lại chẳng thấy bóng đáng đâu, trừ phi cô gái cũng biết khinh công, nhân đang nói chuyện thì bỏ chạy, nếu không thì rất khó giải thích.

Đám người ấy theo Giang Nam vào trong làng, Giang Nam vốn hơi bất an, nhưng nghe đám người ấy cứ khen mình thì không còn lo lắng điều gì nữa.

Chàng hỏi: “Các vị có biết công tử nhà tôi và Đường đại hiệp là bà con không?”

Hán tử cầm đầu hỏi lại: “Thế ư?”

Giang Nam nói: “Phu nhân của công tử là thị nữ của Đường phu nhân. Đường phu nhân có ngoại hiệu Băng Xuyên thiên nữ. Tuy thiếu phu nhân có thân phận là thị nữ, nhưng Băng Xuyên thiên nữ vốn là một công chúa, thiếu phu nhân của tôi cũng là con gái của một vị đại thần. Thiếu phu nhân không những thông hiểu sách vở, lại còn tinh thâm kiếm thuật. Băng Xuyên thiên nữ đã ban cho thiếu phu nhân Băng phách thần đạn!”

Giang Nam từ nhỏ đã có thói quen thích nói chuyện, khi còn ở Tát Ca, bọn sai dịch trong nha môn đặt cho chàng một cái ngoại hiệu là “Giang Nam lắm lời” nay tuy đã lớn nhưng tật lắm lời vẫn chưa bỏ.

Hán tử cầm đầu nháy mắt với đồng bọn, mỉm cười nói: “Thế à, hay lắm!” giống như ngạc nhiên, đang định hỏi y tại sao bảo là hay lắm, nhưng lúc này đã đến trước cửa, già Vương trông cửa thấy Giang Nam dắt về một đám người thì kinh ngạc, bước tới hỏi, Giang Nam bảo: “Mau thông báo với công tử rằng có một đám bằng hữu của người ở tái ngoại tới.” Chàng ta đang hớn hở, không đợi Trần Thiên Vũ bước ra đón khách mà dắt cả đám người vào trong sân, đang bước lên bậc cấp thì chợt thấy Trần Thiên Vũ đã đứng ở trên, sắc mặt rất kỳ lạ!

Hán tử cầm đầu cười ha hả: “Trần công tử, không ngờ chúng tôi đến bái phỏng nhanh như thế phải không?”

Trần Thiên Vũ tức giận nói: “Triệu Ninh Quân, ngươi muốn gì?”

Hán tử cầm đầu nói: “Ngươi có Đường Kinh Thiên chống lưng, bọn ta không dám làm gì đâu, chẳng qua chỉ muốn mời ngươi nếm thử mùi vị bị đâm vào xương tỳ bà mà thôi.”

Giang Nam kinh ngạc quát: “Té ra các ngươi là kẻ thù của công tử nhà ta!” rồi chàng phóng vọt người lên đâm vào cổ họng hán tử ấy, hán tử tung ra một cú phi cước, Giang Nam kêu: “Lợi hại lắm!”

Khi người đang ở trên không trung, chỉ nghe bốp một tiếng, mông của Giang Nam đã bị y đá trúng, may sao chàng xoay người nhanh, nếu bị y đá trúng ngực thì đã toi mạng. Thì ra Triệu Ninh Quân là chưởng môn của phái Không Động, sáu năm trước, bên ngoài thành Trát Luân ở Tây Tạng, bọn chúng đã vây đánh chưởng môn của phái Võ Đang là Lôi Chấn Tử. May có Trần Thiên Vũ và U Bình bắt gặp, Trần Thiên Vũ rút đao tương trợ, U Bình đùng Băng phách thần đạn đả thương mắt của Triệu Ninh Quân, sau đó Đường Kinh Thiên cũng tới, phóng ra mười ba mũi Thiên Sơn thần mang, đả thương Triệu Ninh Quân và mười hai sư đệ của y, thần mang đâm vào xương tỳ bà của bọn chúng, võ công của bọn chúng đều bị phế bỏ cho nên phải rút lui ra khỏi Tây Tạng.

Nếu xương tỳ bà bị đâm trúng dù được chữa trị cũng phải mất mười năm trở lên mới khôi phục lại võ công, nhưng gặp cơ duyên cho nên đã mua được Thiên niên đoạn tục của thương nhân người Ba Tư, lại được một trưởng lão võ công cực cao của trong phái nối lại xương, giúp bọn chúng khôi phục lại võ công, không đầy năm năm thì đã khỏe lại hoàn toàn, võ công còn có phần hơn trước. Đó là một mối nhục lớn của phái Không Động, bọn chúng đương nhiên không thể quên. Sau khi khỏe hẳn thì đã muốn trả thù, chỉ vì vợ chồng Đường Kinh Thiên võ công quá cao, bọn chúng không dám gây sự, vì thế mới chọn người kém hơn để ra tay, bọn chúng tìm từ bắc xuống nam đến một năm, cuối cùng được Giang Nam dẫn đường cho nên tìm đến Trần Thiên Vũ.

Giang Nam bò dậy, Trần Thiên Vũ và đám người kia đã ra tay, chỉ thấy kiếm khí ngang dọc, ánh đao chói lòa, tiếng kim khí giao nhau loảng xoảng nghe nhức cả tai, Trần Thiên Vũ thì giữ chặt phía trên không để cho bọn chúng tấn công. Đang lúc kịch chiến chợt nghe soạt một tiếng, Trần Thiên Vũ đã đâm trúng một tên, tiếp theo lại một tiếng soạt nữa, Triệu Ninh Quân đã xé vạt áo của Trần Thiên Vũ. Giang Nam lo lắng vội vàng chạy ra hậu viện gọi thêm người.

Kiếm pháp của Trần Thiên Vũ tuy tinh diệu, nhưng hai quyền khó địch bốn tay, huống chi lúc này kẻ địch là mười ba cao thủ của phái Không Động, trong khoảnh khắc chàng lại bị Triệu Ninh Quân đánh một chướng, Trần Thiên Vũ đùng đùng cả giận, thế là chém soạt ngang một tiếng, Triệu Ninh Quân đội vàng né tránh, nhát kiếm này đã vạch đốt ngón tay của một người ở phía sau Triệu Ninh Quân. Triệu Ninh Quân nhân lúc này đẩy ra một chưởng, Trần Thiên Vũ đứng không vững, một kẻ địch khác lại bồi thêm một đao, đao ấy trúng vào vai chàng cho nên máu đỏ tuôn trào như suối.

Chợt nghe một giọng nói già nua cất lên: “Bọn cẩu tặc các người...” nói chưa xong thì người ấy đã đổ xuống đất, té ra người đó chính là Trần Định Cơ, cha của Trần Thiên Vũ, ông ta thấy con trai của mình bị thương vừa lo vừa giận, vừa mắng được một tiếng thì đã ngã sầm xuống đất.

Triệu Ninh Quân cười ha hả: “Ngươi dám mắng ta, đáng đời. Được, ta cũng sẽ đâm xương tỳ bà tên giặc già này!”

Trần Thiên Vũ mình đầy máu tươi, không chặn đỡ nổi cho nên đã có mấy người lướt qua người chàng phóng lên bậc cấp. Trần Thiên Vũ nổi giận mắng lớn, bọn này đang muốn chàng nổi giận cho nên càng cười lớn.

Chợt nghe có tiếng mắng: “Ai dám hại công công của ta!” rồi thấy ánh hàn quang chói mắt, khí lạnh tỏa ra, bọn người ấy chưa kịp khép miệng lại thì quai hàm đã cứng đờ. Té ra, bọn chúng tuy đã phòng bị trước nhưng U Bình phóng ra quá nhanh, trong khoảnh khắc không kịp trở tay mỗi người bị bắn vào mồm một viên Băng phách thần đạn, thế là lạnh đến nỗi miệng cứng đờ. U Bình đóng sầm cánh cửa, phóng ra tiếp mấy viên Băng phách thần đạn, lần này Triệu Ninh Quân đã kịp thời ra tay, chỉ nghe tiếng ám khí kêu lên loạt soạt trong không trung, tiếp theo là những tiếng tanh tách vang lên, chỉ thấy khí lạnh tản ra, tựa như có một bức màn sương từ trên buông xuống.

Để chống đỡ loại Băng phách thần đạn có một không hai trên đời này, mấy năm qua Triệu Ninh Quân đã luyện ám khí mai hoa châm, loại ám khí này có thể đánh vở Băng phách thần đạn ra. Với công lực của bọn Triệu Ninh Quân, nếu bị băng đạn đánh trúng huyệt đạo, khí lạnh công tâm, đương nhiên khó chống cự, nhưng nếu mau chóng đánh vỡ nó ra thì bản thân bọn chúng vẫn có thể chống cự nổi cơn lạnh của băng đạn phát ra. Triệu Ninh Quân thấy có hiệu quả thì cười ha hả: “Ngươi còn bao nhiêu băng đạn? có cần xin tiếp hay không?”

Té ra Băng Xuyên thiên nữ đã lấy băng từ hố băng ngàn năm ở băng cung để luyện ra loại Băng phách thần đạn này, khi U Bình xuống núi, nàng có đem theo mấy trăm viên, sau nhiều năm chỉ còn lại hai mươi tám viên, vừa rồi đã dùng mất mười viên, chỉ còn lại không quá hai mươi viên. Nhưng kẻ địch đến mười ba người, U Bình lo lắng, nghĩ bụng phải để lại băng đạn để phòng thân, nàng chỉ hơi chần chừ thì đã bị kẻ địch bao vây. U Bình quát lớn một tiếng, rút ra thanh trường kiếm lạnh lẽo sáng loáng, thanh kiếm này không phải vàng cũng chẳng phải sắt, đây là cây Hàn ngọc kiếm được ngâm trong suối lạnh vạn năm, tuy không bằng Băng phách hàn quang kiếm của Băng Xuyên thiên nữ, nhưng khi múa cũng có một luồng khí lạnh phát ra, nếu người chưa luyện qua nội công thì chắc chắn sẽ không chống đỡ nổi. U Bình múa ra chiêu thứ nhất là Vạn lý phi sương, tiếp theo là một chiêu Thiên Sơn lạc diệp, hai chiêu này có uy lực rất lớn, tựa như sương tuyết tung bay, khí lạnh phát ra cắt da khiến cho ai nấy đều nổi da gà! Triệu Ninh Quân vội vàng tiến lên phía trước, phất ống tay áo, quạt cây băng kiếm của U Bình ra, nhưng Trần Thiên Vũ thừa cơ phản công, đã phóng tới hợp với U Bình. Hai vợ chồng sánh vai tác chiến, dũng khí tăng lên, cả hai thi triển Băng xuyên kiếm pháp liên thủ chống địch, lúc này bọn Triệu Ninh Quân cũng không thể nào áp tới được nữa. Nhưng công lực của U Bình vẫn còn kém, chỉ nhờ vào cây Hàn ngọc kiếm, vả lại không dám sử dụng băng đạn nữa, trong lúc bị vây đánh thì nàng không thể phát huy được uy lực của Hàn ngọc kiếm, thời gian cứ kéo dài ra thì dần cảm thấy hơi đuối sức.

Trần Thiên Vũ công lực tuy có nhỉnh hơn nhưng chàng đã bị thương trước, khổ chiến một hồi lâu thì đã thở hổn hển, mồ hôi tuôn ra như suối, kẻ địch lại ùa tới tấn công một lượt, bọn họ phải lui thêm hai bậc cấp nữa, U Bình đâm ra một kiếm, chỉ thiếu có nửa tấc thì đã trúng Triệu Ninh Quân. nhưng lại bị một người phe kia thừa cơ quét một chưởng. May mà U Bình né tránh lanh lẹ, chỉ bị cạnh chưởng của y chạm trúng vai nhưng cũng vì thế mà thối lui thêm hai bậc cấp.

Triệu Ninh Quân lạnh lùng nói: “Các người muốn bị đâm vào xương tỳ bà hay muốn bị cắt đầu?” Trần Thiên Vũ và U Bình nhìn nhau, cả hai vợ chồng tâm ý tương thông, vừa nhìn thì đã hiểu được đối phương, cả hai cùng nghĩ: “Bất quá là chết, có gì phải sợ?”

Thế là cả hai liều chết chống địch, chỉ trong khoảnh khắc ánh hàn quang quét xuống, kiếm khí như cầu vồng, đẩy bọn Triệu Ninh Quân lui xuống trở lại một bậc cấp.

Cả hai vợ chồng tuy đồng tâm hợp lực, cùng nhau chống địch nhưng đáng tiếc lúc này đã đuối sức không được bao lâu thì bọn Triệu Ninh Quân đã dồn lên trở lại. Lúc này Trần Thiên Vũ chợt cảm thấy trong không trung có mùi hương lạ, hít vào thì người lâng lâng như say rượu.

Trần Thiên Vũ nghĩ thầm: “Sao lại có mùi hương của ma quỷ thế này?”

Khi ở Tây Tạng, chàng đã nghe một bậc dị sĩ có võ công cao cường tên gọi Long Linh Kiều nói, trong băng cốc ở Hy Mã Lạp Nhã có một loại hoa tên gọi A Tu la, trong tiếng Phạn “A Tu la” có nghĩa là ma quỷ, cho nên hoa A Tu la cũng gọi là hoa Ma quỷ. Người bình thường hít phải mùi hương của loại hoa này sẽ lập tức hôn mê. Dù người có căn cơ nội công, hít mãi loại hương hoa này thì gân cốt rã rời, tựa như bị say rượu, dù có võ công giỏi đến mức nào cũng không thể phát huy được. Có một lần Long Anh Kiều hít phải hương hoa này cho nên đã bị võ sĩ nước Nề Bách Nhĩ bắt sống.

Lúc này Triệu Ninh Quân cũng phát hiện có điều lạ cười lạnh: “Té ra Trần công tử cũng biết dùng mê hương! Nhưng các ngươi đã sai rồi, bọn ta chẳng phải là bọn sợ mê hương!”

Nói chưa dứt lời chợt nghe Trần Thiên Vũ kêu: “Mau phát Băng phách thần đạn!” U Bình xoay người nhảy vọt lên, dùng thủ pháp Thiên nữ tán hoa phóng một nắm băng đạn về phía bọn người kia, Triệu Ninh Quân vẫn dùng mai hoa châm để đánh băng đạn, nhưng băng đạn tuy bị vô, khí lạnh lại tăng thêm mấy lần, công lực của Triệu Ninh Quân cao nhất cho nên vẫn nghiến răng chống cự, tuy vậy y vẫn cảm thấy da thịt rét buốt, những kẻ có võ công kém thì đã nằm cứng đờ, Triệu Ninh Quân cả kinh, không biết sao công lực của mình lại đột nhiên giảm xuống. Té ra bọn chúng sau khi hít phải hương của hoa ma quỷ, chân khí trì trệ, cho nên cảm thấy khí lạnh tăng lên.

Trần Thiên Vũ và U Bình đã được Băng Xuyên thiên nữ truyền tâm pháp, vì thế không sợ khí lạnh, vả lại họ đã chuẩn bị trước cho nên vừa phóng ra băng đạn thì lập tức nín thở phóng xuống bậc cấp lia kiếm tấn công.

Lúc này bọn Triệu Ninh Quân kẻ đã bải hoải chân tay, người thì run bần bật, nào có thể chống cự được nữa, chỉ trong khoảnh khắc đã có bốn năm kẻ trúng kiếm ngã xuống đất, Triệu Ninh Quân cũng bị chặt đứt hai ngón tay. Y vội vàng kêu đồng bọn rút lui. Những kẻ chưa bị thương và bị thương nhẹ đỡ những người đã bị thương nặng vượt tường tháo chạy, Trần Thiên Vũ và U Bình tuy đã toàn thắng nhưng họ cũng chẳng biết tại sao mình đã thắng!

U Bình đút kiếm vào vỏ, phất ống tay áo quạt khí âm hàn ra, xé một mảnh áo băng vết thương cho chồng rồi nói:

“Không biết là cao nhân phương nào đã ngầm giúp chúng ta? Chàng có đau không?”

Trần Thiên Vũ nói: “May mà không trúng xương. Không biết mùi hương hoa A Tu la từ đâu tới!”

U Bình định hỏi hoa A Tu la là gì, chợt thấy Giang Nam tập tễnh bước ra, mặt lộ vẻ lo lắng, nói: “Công tử, tôi đã dắt nhầm kẻ thù đến nhà, công tử hãy xử phạt.”

Trần Thiên Vũ nhíu mày nói: “Từ rày về sau phải cẩn thận hơn! Mau kêu người nhà rửa sạch vết máu dưới sân. Chuyện lúc nãy đừng nói ra ngoài.”

Giang Nam vâng một tiếng, chàng chợt ngẩn người ra, lúc này sương lạnh của Băng phách thần đạn đã tan theo gió, U Bình nhìn theo ánh mắt Giang Nam, chỉ thấy dưới gốc hòe trong sân có một thiếu nữ che mặt đang ngồi, trên tay nàng là một đóa hoa đã khô. Đóa hoa có hai màu đỏ và trắng trông rất kỳ lạ. Trước kia khi còn ở trong băng cung, U Bình đã thấy rất nhiều loại hoa kỳ lạ, nhưng chưa bao giờ thấy loại hoa này!

U Bình giật mình: “Chả lẽ đây là hoa A Tu la?” nhưng chợt thấy thiếu nữ ấy cúi đầu, tóc tai rối bời, run lên bần bật, từng cánh hoa rơi lả tả xuống đất, tựa như nàng ta không chịu nổi cơn lạnh. Giang Nam đứng thộn mặt ra, lạc giọng kêu lên: “Chính là nàng, người đã thổi Hồ Ca!”

Trần Thiên Vũ kêu “Ồ” một tiếng, U Bình vội vàng chạy đến, lấy ra một viên Dương hòa hoàn có tác dụng chống lại khí lạnh, dịu dàng nói: “Đa tạ cô nương đã giúp chúng tôi đánh lui kẻ địch.”

Lúc này U Bình rất cảm kích, đang định vạch mạng che mặt giúp nàng uống thuốc. Nàng thiếu nữ chợt phóng vọt người dậy, phát ra tiếng cười quái dị, còn U Bình thì kêu thảm một tiếng, ngã ngửa xuống đất, trên ngực cắm một mũi tên ngắn đen bóng, đuôi tên vẫn còn rung bần bật! Trong khoảnh khắc ấy Trần Thiên Vũ kinh hoảng đến ngây người ra, chỉ nghe nàng thiếu nữ cười rú lên: “Thứ ta không lấy được cũng mãi mãi chẳng giữ được!”

Trần Thiên Vũ phóng vọt người lên chụp vào vai của thiếu nữ ấy, gằn giọng quát: “Ngươi... ngươi là ai? Tại sao hạ độc thủ như thế?”

Sau cuộc ác chiến, chàng lại hít phải mùi thơm của hoa A Tu la, lúc này vốn đã đuối sức. Chàng phóng vọt lên nhảy bổ tới khiến cho vết thương trên vai vỡ ra, đứng không vững chân cho nên kéo thiếu nữ ấy cùng ngã xuống đất. Thiếu nữ chợt kéo mạng che mặt xuống, đôi mắt long lanh tựa khóc mà không phải khóc, như cười mà cũng chẳng phải cười, nàng nhìn Trần Thiên Vũ sững sờ, Trần Thiên Vũ kêu lên lạc giọng như gặp phải ma quỷ: “Ngươi... ngươi là Tang Bích Y?”

Thiếu nữ ấy đột nhiên cười rú lên, rồi nàng nói tiếp: “Đúng thế, ngươi đã nhận ra ta, vị hôn thê của ngươi đã đến tìm ngươi, chúng ta cùng đi thôi!” rồi đột nhiên nàng rút ra thêm một mũi tên ngắn, đâm vào cổ họng Trần Thiên Vũ, Giang Nam kêu hoảng.

Trần Thiên Vũ mặt xám ngoét như xác chết, lòng thầm than: “Oan nghiệt, oan nghiệp” rồi chàng nhắm mắt chờ chết, chợt nghe soạt một tiếng, Trần Thiên Vũ mở mắt nhìn lại thì ra mũi tên ấy không phải đâm vào cổ họng của mình mà là đâm vào ngực của nàng thiếu nữ.

Chỉ nghe nàng thiếu nữ thở dài, thều thào nói: “Thiên Vũ, ngươi hay lắ! Ngươi không chịu đi cùng ta có phải không? Dẫu sao ta cũng đã giết ả, một mình ngươi sống trên đời sẽ rất đau lòng. Thiên Vũ, ngươi hãy để ta cột lại dây giày cho ngươi.”

Giọng nói càng lúc càng nhỏ, rồi người cũng đổ ập xuống dưới gối của Trần Thiên Vũ, hai tay thì nắm giày của chàng. Nàng thiếu nữ che mặt chính là con gái của Thổ Ti Tát Ca. khi Trần Định Cơ làm Tuyên úy sứ ở Tát Ca, bị Thổ Ti của Tát Ca uy hiếp, đành phải hứa cưới con gái của Thổ Ti cho con trai của mình. Lâu nay Trần Thiên Vũ không hề thừa nhận hôn sự này, chàng cũng đã chạy trốn. Sau này Thổ Ti đã bị một thiếu nữ người Tạng là Chi Na đâm chết, thế là hôn sự cũng ta vỡ. Không ngờ sau khi Trần Thiên Vũ trở về Giang Nam, Tang Bích Y đã vượt đường xa muôn dặm tìm chàng. Nàng vốn muốn đâm chết Trần Thiên Vũ, nhưng khi xuống tay thì đột nhiên không nỡ lòng, cho nên trở ngược mũi tên đâm vào ngực mình. Trần Thiên Vũ đẩy nhẹ Tang Bích Y ra, thì ra dây giày của mình đã bị xổ, té ra theo phong tục của Tây Tạng, thiếu nữ buộc dây giày cho một người đàn ông nào đó thì có nghĩa là trái tim của nàng đã thuộc về người ấy, trước đây Tang Bích Y đã từng buộc dây giày một lần cho Trần Thiên Vũ, lúc đó Trần Thiên Vũ không biết phong tục này. Tang Bích Y vẫn nhớ mãi hôn ước, cho đến chết vẫn muốn làm vợ của chàng, vì thế trước khi ra đi nàng vẫn muốn buộc dây giày cho Trần Thiên Vũ.

Trần Thiên Vũ rút chân ra, đưa tay sờ thì thấy Tang Bích Y đã đứt hơi. Trong không khí thê thảm ấy, máu chàng tựa như đông lại, chàng vội vàng chạy đến bên cạnh U Bình, nhưng U Bình đã nhắm tịt hai mắt, mặt không hề có sắc máu. Mảnh áo trên vai nàng đã bị Tang Bích Y xé rách, cả bờ vai của nàng bị bầm đen, chàng thấy mũi tên độc cắm vào ngực của U Bình, nghĩ bụng chắc nàng không thoát khỏi cái chết. Trần Thiên Vũ đứng ngẩn người ra, rút soạt thanh kiếm, trở mũi kiếm lại toan đâm vào yết hầu của mình. Trải qua biến cố lần này, chàng quả thật không muốn sống một mình trên đời để đau lòng nữa.

Giang Nam đang đứng bên cạnh, thấy thế thì tung ra một cước, đá bay thanh kiếm của Trần Thiên Vũ, kêu lên: “Công tử, xem kìa, đầu của thiếu phu nhân còn cử động được!”

Trần Thiên Vũ nhìn lại, mái tóc của U Bình đang phất phơ theo gió, thần trí của nàng hơi tỉnh hơn, chàng nghĩ thầm: “Đúng thế, mình phải cố hết sức.”

Vì thế mới kêu Giang Nam vào trong lấy cao đơn hoàn tán giải độc ra, chàng không dám rút mũi tên độc, chỉ nắm chặt hai tay của U Bình, cảm thấy mạch đập của nàng mỏng manh như sợi tơ, tuy hơi yếu nhưng vẫn chưa đoạn hoàn toàn.

Một hồi sau, Giang Nam đã đem ra tất cả các loại thuốc giải độc, Trần Thiên Vũ chọn hai loại thuốc mà U Bình đã lấy về từ băng cung, rồi vạch áo bôi vào vết thương, sau đó lại nhẹ nhàng xoa bóp, độc khí đã tản mát, qua một hồi lâu sau, U Bình hơi hé mắt, miệng mấp máy, Trần Thiên Vũ kề tai vào miệng nàng.

Chỉ nghe nàng khẽ nói: “Đừng làm khó nàng ta!”

Ý của U Bình là muốn nói Tang Bích Y. Trần Thiên Vũ nhói lòng, nói: “Nàng đã chết!”

U Bình nói: “Chàng đừng căm hận nàng, cứ chôn nàng theo lẽ phu thê. Nếu muội chết, huynh cứ chôn muội bên cạnh nàng!”

Trần Thiên Vũ thổn thức nói: “Không, muội không thể chết được.”

Lúc này bên trong nhà có tiếng người ồn ào, Trần Thiên Vũ lòng rối bời, hỏi Giang Nam: “Lão gia thế nào rồi?”

Giang Nam nói: “Lão gia hoảng quá đến nỗi ngã bệnh.”

Trần Thiên Vũ bế U Bình vào phòng rồi vội vàng đến thăm cha. May mà Trần Định Cơ vì già cả yếu ớt, hoảng quá thành bệnh chứ không hề gì.

Suốt mấy ngày qua Trần Thiên Vũ ngồi bên giường chăm sóc cho vợ, không biết cây tên của Tang Bích Y đã tẩm loại độc gì mà tuy có linh dược của băng cung cũng chỉ có thể ngăn thương thế không mở rộng mà thôi. May mà được Đường Kinh Thiên chỉ điểm tâm pháp nội công chính tông, cho nên mỗi ngày chàng đều đùng nội công thượng thừa phối hợp với linh dược của băng cung trị thương cho U Bình. Lại cũng nhờ U Bình có căn cơ võ công vững chắc, kéo dài được đến ngày thứ tư thì nàng mới có thể ăn uống được một chút, mạch đập cũng hơi mạnh hơn nhưng vẫn còn trong tình trạng nguy hiểm. Trần Thiên Vũ vừa chăm sóc cho cha, vừa trông coi vợ, quả thật rất mệt mỏi.

Hôm nay U Bình đã hơi tỉnh táo, thấy Trần Thiên Vũ sắc mặt tiều tụy thì nàng buồn bã thở dài: “Muội đã liên lụy huynh ra nông nỗi này, chi bằng cứ để muội chết cho xong.”

Linh dược của băng cung cũng không thể giải độc, chắc là không có thầy thuốc nào trị nổi. Mấy năm nay muội được hưởng phước, dẫu cho có chết sớm cũng nhắm mắt.”

Trần Thiên Vũ nói: “Đừng nghĩ càn, muội không thể chết được!” chàng tuy nói cứng như thế nhưng đó chỉ là an ủi cho U Bình, thực ra trong lòng chàng cũng chẳng có cách gì hay.

U Bình chợt nói: “Huynh đã xây mộ cho Tang Bích Y chưa?”

Trần Thiên Vũ nói: “Mấy ngày qua huynh đã bảo Giang Nam đốc công xây xong.”

U Bình nói: “Nàng tuy ra tay ác độc nhưng cũng vì si tình. Huynh đừng đối xử tệ với nàng.”

Trần Thiên Vũ nói: “Huynh đã chôn cất nàng theo lời muội.”

U Bình nói: “Tốt lắm, sau này nếu gặp nàng ở suối vàng, muội cũng yên lòng.”

Trần Thiên Vũ nói: “Muội hãy vì huynh, đừng nói những lời đau lòng ấy được không?” có linh dược của băng cung, lại thêm công lực của bản thân muội đủ cho trong nhất thời không thể khỏe hẳn, nhưng vẫn có thể giữ được lánh mạng.”

U Bình cười thảm nói: “Hàng ngày huynh phải trông coi một người sắp chết như thế này, huynh không phiền muộn nhưng muội thì rất đau đớn!”

Nàng ngừng một lát rồi lại nói: “Có một chuyện muội vẫn chưa cho huynh biết, năm xưa Đường Kinh Thiên lần đầu tiên đến băng cung, đã viết đôi câu đối cho muội: “U cốc hoang sơn, nguyệt sắc tẩy thanh nhan sắc. Bình ngạnh liên diệp, vũ thanh tích toái hà thanh” nghĩ lại muội quả thực chỉ hợp sống ở nơi u cốc hoang sơn, khi theo huynh về nơi trần thế phồn hoa này, trái lại đã khiến huynh đau lòng vì muội suốt một đời!”

Trần Thiên Vũ đang rối bời ruột gan, chàng chợt sực tỉnh, mừng rỡ kêu lớn: “Đúng rồi, sao huynh lại không nhớ ra chứ? Giang Nam, Giang Nam!”

U Bình nói: “Huynh đã nhớ được gì?”

Trần Thiên Vũ nói: “Đường Kinh Thiên, Thiên Sơn tuyết liên? May mà muội nhắc đến ông ta. Thiên Sơn tuyết liên có thể giải bách độc, còn lo gì?”

U Bình cười khổ sở: “Thiên Sơn cách đây bao xa?”

Trần Thiên Vũ nói: “Nếu dùng khoái mã đi và về nhiều nhất không quá nửa năm. Trong thời gian này huynh sẽ điều trị cho muội, có lẽ bệnh tình sẽ không chuyển biến xấu!”

Lúc này Giang Nam đã vội vàng chạy vào, đứng cúi đầu chờ trước giường bệnh, vẻ mặt rất lo lắng. Trần Thiên Vũ nói: “Giang Nam, tôi muốn nhờ ngươi hai chuyện.”

Giang Nam kêu ối chao rồi nói: “Sao công tử lại nói thế? Công tử đối với tôi rất tốt, có chuyện gì thì cứ sai khiến, dù nước sôi lửa bỏng Giang Nam cũng không nhíu mày!”

Trần Thiên Vũ nói: “Làm phiền ngươi hãy đến băng cung một chuyến, xin Đường đại hiệp một đóa Thiên Sơn tuyết liên.”

Vì lần này Giang Nam đã dắt kẻ địch đến, Trần Thiên Vũ tuy không trách, nhưng rất áy náy trong lòng, lúc nào cũng không yên, nay nghe Trần Thiên Vũ bảo đi lấy Thiên Sơn tuyết liên, chàng nghĩ chắc đó là một loại thuốc giải độc, không khỏi cả mừng nói: “Công tử hãy yên tâm, Giang Nam chắc chắn sẽ làm được.”

Trần Thiên Vũ nói: “Đường sá xa xôi, người phải cẩn thận mới được.”

Giang Nam nói: “Đương nhiên, nếu trên đường gặp kẻ cường địch, nếu tránh được thì tránh, không tránh được tôi sẽ liều mạng với bọn chúng.”

Trần Thiên Vũ nói: “Ta không lo diều này. Tuy trên đường nhiều cường đạo, nhưng ngươi chẳng mang theo vật gì đáng tiền, vả lại võ công của ngươi đã có tiến bộ, đủ ứng phó với bọn mã tặc thông thường. Điều quan trọng nhất là đừng gây sự.”

Giang Nam nói: “Được, tôi sẽ giả vờ chẳng biết võ công, dù có bị đánh tôi cũng không trả đòn.”

Trần Thiên Vũ nhíu mày: “Đâu có ai vô duyên vô cớ đánh mắng ngươi. Ngươi không gây chuyện đã là tốt lắm.”

Ngừng một lát rồi trịnh trọng nói: “Ta còn nhờ ngươi một chuyện nữa.”

Giang Nam nói: “Công tử cứ căn dặn, Giang Nam sẽ nghe theo.”

Trần Thiên Vũ nói: “Ngươi phải nhớ kỹ hai câu nói này!”

Giang Nam vội vàng hỏi: “Câu nói gì?”

Trần Thiên Vũ nói: “Đành rằng phải nói chuyện với người khác nhưng không thể vạch áo cho người xem lưng. Trên giang hồ hạng tiểu nhân gian xảo nào cũng có, ngươi phải sửa tật lắm lời.”

Giang Nam đỏ mặt, ngượng ngùng nói: “Khi đi đường người khác hỏi tôi hai câu, tôi sẽ đáp một câu. Người ta hỏi mươi câu tôi sẽ đáp bốn câu. Nếu y có lai lịch bất minh, tôi sẽ giả vờ câm điếc. Quyết không dám làm hỏng chuyện lớn của

công tử.” U Bình nghe chàng nói một hồi thì bật cười, Giang Nam nói: “Bây giờ còn đang ở nhà, tôi có nói thêm vài câu cũng chẳng hề chi. Thiếu phu nhân hãy yên tâm, khi đi đường tôi sẽ kín như bưng!”

Trần Thiên Vũ mỉm cười nói: “Ta rất cảm kích tấm lòng trung thành của ngươi đối với ta. Trước đây ngươi là thư đồng của ta, từ rày về sau đừng gọi ta là công tử nữa.”

Giang Nam nói: “Đợi sau khi lấy được Thiên Sơn tuyết liên thì đổi cách xưng hô cũng được. Công tử có còn căn dặn gì nữa không?”

Trần Thiên Vũ nói: “Chỉ có một việc ngươi có thể dò hỏi ở trên đường đó là tin tức của Kim Thế Di.” Nói rồi lấy ra hai trăm lượng bạc đưa cho chàng làm lộ phí, lại sai người dắt con ngựa tốt giống Đại Uyển ra cho Giang Nam. Trần Thiên Vũ đưa Giang Nam ra khỏi thôn, dặn dò một hồi rồi mới vẫy tay cáo biệt.

Trên suốt quãng đường Giang Nam nhớ kỹ lời đồn của Trần Thiên Vũ, quả nhiên không dám nói nhiều. Chàng phóng ngựa rất nhanh, mỗi ngày sáng sớm đã lên đường, đến trời tối thì tìm nơi tá túc, đến ngày thứ năm thì đã đi hơn một ngàn dặm đường, chàng nhủ thầm: “Đi nhanh như thế này không cần nửa năm, nhiều nhất bốn tháng là

có thể quay về.” Nào ngờ đến ngày thứ sáu thì gặp phải một chuyện bất ngờ, suýt nữa khiến chàng mất mạng.

Đó chính là: “Giang hồ sóng gió xưa nay lắm, vượt qua đâu dễ đã bao người?”
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Vân Hải Ngọc Cung Duyên - Lương Vũ Sinh

Postby tuvi » 05 Feb 2023

Hồi Thứ Hai
Trời Xoay Đất Chuyển Làm Sao Biết -liễu Rậm Hoa Thưa Lại Gặp Người

Hôm nay, cũng như mọi ngày, trời vừa mới hửng sáng Giang Nam đã phóng ngựa lên đường, chạy không dừng vó cho nên đến trưa thớt ngựa của chàng tuy là ngựa tốt giống Đại Uyển cũng đã sùi bọt mép, còn Giang Nam thì thấy khát khô cổ họng, đang định tìm bóng mát nghỉ chân. Trên đường bỗng thấy một tòa lương đình, bên trong còn có người bán trà, Giang Nam buộc chặt ngựa rồi vào đình gọi trà uống.

Nhìn tòa lương đình rất rộng rãi, được xây bằng đá với hai bên là hai cây trụ lớn, lan can làm bằng gỗ đỏ, chàng thầm nhủ: “Trung Nguyên quả thực khác hẳn, tòa lương đình này còn tốt hơn cả nhà của người giàu sang bên Tây Tạng.”

Ông lão bán trà pha cho chàng một bình trà thơm, Giang Nam uống rồi khen ngon, và hỏi: “Đây là nơi nào?”

Ông lão đáp: “Đây là làng Bình Hồ huyện Đông Bình.”

Giang Nam nói: “Ồ, té ra đã đến Sơn Đông, gần đây có một hồ nước rộng đúng không?”

Ông lão nói: “Chắc là tiểu ca từ nơi khác đến?”

Giang Nam giật mình thầm nhủ: “Té ra mình đã đến quê hương của nàng.” Trong lòng chàng hiện ra hình bóng của một thiếu nữ, đó chính là Trâu Giáng Hà, con gái của Dương Liễu Thanh.

Năm ấy Dương Liễu Thanh dắt con gái đến Hồi Cương và Tây Tạng tìm Đường Hiểu Lan, Giang Nam đã quen biết với nàng, tính lại thì cũng đã được năm năm.

Giang Nam nghĩ bụng: “Mấy năm không gặp chắc là tiểu a đầu đã trở thành một cô nương xinh xắn.”

Trâu Giáng Hà nhỏ hơn Giang Nam hai tuổi, lúc hai người quen biết nhau nàng chỉ là một cô bé nghịch ngợm, nhưng khi chia tay nhau nàng cũng đã cho chàng biết chỗ ở của mình.

Giang Nam nghĩ: “Giá mình không có việc thì đã đến thăm nàng.” Chàng định hỏi thăm nhưng lại nhớ lời dặn của Trần Thiên Vũ nên không dám hỏi nhiều. Bèn chỉ im lặng ngồi uống trà.

Giang Nam đã quen thói nói chuyện cho nên tuy im lặng mà trong lòng vẫn bồn chồn. Chàng nhắp một ngụm trà rồi ngẩng đầu lên thấy thớt ngựa vẫn đang thở phì phò, đành đưa mắt nhìn xa xăm. Khi chàng liếc mắt qua cây cột đá ở phía đông thì thấy có dấu một vết đao chém, nhìn sang cây cột phía tây thì thấy trên cột có một dấu chưởng, Giang Nam ngạc nhiên định hỏi nhưng mà cố nén lại, tuy vậy môi chàng vẫn mấp máy.

Ông lão thấy thế cười hì hì bước tới: “Khách quan, chắc là ngài ngạc nhiên khi nhìn thấy vết đao và dấu chưởng kia. Hôm ấy tôi suýt chết khiếp!”

Giang Nam thầm nhủ: “Đấy là ông ta tự nói với mình, coi như mình không phải lắm lời.”

Vì thế chàng mở to mắt nhìn ông ta, đợi ông ta nói tiếp nhưng không ngờ ông lão lại chẳng nhắc đến chuyện ấy nữa mà bảo: “Trà của khách quan đã nguội, có cần tôi châm thêm một bình không?”

Giang Nam nói: “Cũng được.”

Ông lão lại bảo: “Tôi là một người thích nói chuyện, dù khách quan thích nghe hay không, tôi cũng phải nói. Nhưng hai ngày nay có nhiều người hỏi tôi chuyện này.”

Giang Nam không nén được nữa: “Rốt cuộc là chuyện gì? Ông nói mau lên!”

Ông lão cười hì hì rồi nói: “Khách quan, trà của khách quan đã nguội”

Giang Nam sực nhớ, lấy ra một đồng tiền rồi nói: “Tôi trả trước tiền trà, lát nữa pha cũng được.”

Ông lão bán trà nói: “Đa tạ.” Rồi mời từ tốn nói: “Khách quan, hình như ngài là người đi lại trên giang hồ.”

Giang Nam nhớ lại lời Trần Thiên Vũ dặn dò, vội vàng nói: “Ông lầm rồi, tôi chỉ là người buôn bán nhỏ.”

Ông lão hờ hững liếc Giang Nam rồi cười: “Coi như là tôi đã nhìn nhầm, thôi được, người đi qua con đường này, dù là kẻ hành tẩu giang hồ hay người buôn bán thì chắc chắn cũng đều nghe qua một cái tên, đó là một nhân vật lẫy lừng ở huyện Đông Bình chúng tôi vào ba mươi năm trước.”

Giang Nam bật cười nói: “Ba mươi năm trước tôi vẫn còn chưa ra đời!”

Chàng chợt nhớ không nên nói nhiều, thế rồi suỵt một tiếng bảo: “Này, đừng nói vòng vo nữa, kể mau lên.”

Ông lão cười: “Đó không phải là chuyện vớ vẩn đâu, ba mươi năm trước ở huyện Đông Bình có một nhân vật tên tuổi lẫy lừng, người ấy là minh chủ võ lâm năm tỉnh phía bắc, tên là, tên là...”

Giang Nam không nén được: “Thiết chưởng thần đạn Dương Trọng Anh.”

Ông lão cười: “Đúng thế! Cho nên tôi mới bảo ngài chắc hẳn đã nghe cái tên này, quả nhiên không sai!” rồi ông ta phe phẩy cái quạt nan trong tay, tỏ vẻ rất đắc ý.

Giang Nam lại hỏi: “Dương Trọng Anh đã chết nhiều năm, chuyện này có liên quan gì đến ông ta?” chàng vừa nói ra thì mới biết không ổn, bởi vì lúc nãy chàng vừa mới bảo không phải là người đi lại trên giang hồ nhưng sao lại biết chuyện trên giang hồ?

Ông lão vẫn mặc kệ, tiếp tục nói: “Chuyện này có liên quan đến Thiết chưởng thần đạn, Thiết chướng thần đạn tuy dã chết nhưng con gái của ông ta tên là tên là...” lần này thì Giang Nam cố nhịn không cướp lời nữa, ông lão nghĩ một hồi rồi nói: “Tên là Dương Liễu Thanh, nhưng chúng tôi không dám gọi thẳng tên của bà ta, bà ta thích người nhà gọi là đại tiểu thư, tuy đã là một người mẹ, nhưng người trong huyện đều gọi bà là Dương đại tiểu thư.”

Giang Nam thầm nhủ: “Ông lão này thật nhiều lời, nói cả buổi vẫn chưa nhập đề.”

Chàng cứ trách người nhưng không nhớ mình cũng có lỗi ấy. ông lão ngập ngừng rồi lại nói tiếp: “Hôm ấy Dương đại tiếu thư và con gái của bà ta ra ngoài trở về, đã dừng lại ở đây uống trà, tôi quên cho ngài biết, tòa lương đình này là do Dương Trọng Anh đã góp tiền xây dựng nên. Tất cả gạch ngói đều là loại thượng đẳng. Nay tôi có thể kiếm sống ở đây, quả thực rất biết ơn ông ta.”

Giang Nam nghe mấy ngày trước Dương Liễu Thanh và con gái của bà ta đã đi ngang qua đây, tim đập mạnh, rồi chàng mới thúc ông lão: “Sau đó thì thế nào?”

Ông lão nói: “Hai mẹ con bà ta ngồi nói chuyện với tôi ở đây, nhắc đến chuyện Dương Trọng Anh khi còn sống, Dương đại tiểu thư còn hứa giúp cho tôi một số tiền để tu sửa đình này.”

Giang Nam nhíu mày bảo: “Thế à?” ông lão nói tiếp: “Chúng tôi đang nói thì có một hòa thượng xuất hiện, đang lúc tôi cao hứng không biết ông ta bước vào từ lúc nào. Sau đó thấy vẻ mặt của Dương đại tiểu thư không ổn thì tôi mới phát hiện ra. Té ra hòa thượng ngồi trước mặt bà ta, nhìn bà ta với đôi mắt rất gian xảo.

Con gái bà ta nói: “Mẹ, lão hòa thượng trông rất quái dị, mẹ nhìn đôi mắt của lão kìa.”

Dương đại tiểu thư đột nhiên đứng dậy nói: “Lão Vương, tôi sẽ để lại một ký hiệu ở tòa lương đình này của ông!” rồi phóng vù ra một mũi phi đao.

Ông lão kể rất hấp dẫn, Giang Nam giật mình, vội vàng hỏi: “Có phải mũi phi đao của Dương Liễu Thanh đã giết hòa thượng ấy không?”

Ông lão ấy nói: “Không, mũi phi đao của bà ta đã để lại dấu trên cây cột kia.”

Giang Nam thở phào, thầm nhủ: “Bà ta phóng phi đao ra oai, chắc là muốn cho hòa thượng biết lợi hại.”

Vì thế hỏi ông lão: “Hòa thượng ấy thế nào?”.

Ông lão trả lời: “Hòa thượng ấy chẳng nói lời nào, cũng đứng dậy rồi đột nhiên vỗ một chưởng vào cây trụ kia...”

Giang Nam kêu lên: “Ồ, té ra dấu chưởng kia là của lão hòa thượng!”

Ông lão nói: “Hòa thượng đánh xong một chưởng thì mới lạnh lùng nói với tôi: “Ta cũng để lại một dấu hiệu” rồi bỏ đi. Dương đại tiểu thư quát gọi lão ngừng lại...

Giang Nam hỏi: “Thế là đánh nhau?”

Ông lão đáp: “Chỉ cãi nhau.”

Giang Nam hỏi tiếp: “Cãi cái gì?”

Ông già nói: “Họ cứ nói như pháo liên châu, những chữ nghe được thì tôi chẳng hiểu, nào là cái gì lương tử, phiêu nhi, thanh tử... hình như hai người vốn có thù với nhau. Sau đó Dương đại tiểu thư mới nói một câu: “Ta sẽ đợi ngươi ở nhà!” chỉ có câu này là tôi nghe rõ ràng.”

Giang Nam vội hỏi: “Ông có nghe bà ta nói khi nào không?” ông lão trả lời: “Tôi không nghe rõ.”

Giang Nam giật mình, thầm nhủ: “Như thế có nghĩa hòa thượng chắc chắn hẹn ngày với bà ta. Hỏng bét, dấu chưởng này lún sâu vào đá đến ba phân, xem ra công lực của lão hòa thượng hơn Dương Liễu Thanh rất nhiều. Mình có nên đi giúp mẹ con bà ta một tay không?” trong lòng thì cứ thấp thỏm, lúc thì nhớ đến lời dặn của Trần Thiên Vũ, lúc thì lại nghĩ đến mối giao tình giữa mình với Trâu Giáng Hà, chàng vẫn chưa quyết định thì chợt nghe tiếng bước chân, lại có hai người khách qua đường, ông lão ấy tuy đang cao hứng nói nhưng cũng bỏ đi tiếp khách.

Hai người này giắt đao ở hông, vừa vào thì đã lấy ra hai xâu tiền: “Ông già, đây là tiền trà ta thưởng cho ông.”

Hai kẻ ấy ra tay rộng rãi hơn Giang Nam, ông lão cười toe toét, nói: “Đa tạ đại gia thưởng hậu, tôi không đám nhận!”

Người khách ấy nói: “Đừng nhiều lời, hãy nhận lấy. Ta hỏi ngươi, hai ngày trước có ai lạ mặt đi ngang qua đây không?”

Ông già ấy trả lời: “Có một hòa thượng.”

Ông ta đang định kể lại chuyện lúc nãy, người khách lại hỏi: “Ngoài ra còn có ai?”

Ông già nói: “Không có ai khác.”

Người khách trả lời: “Có ai hỏi đường đến nhà họ Dương không?”

Ông lão nói: “Người trong huyện chúng tôi ai mà không biết nhà họ Dương, cần gì phải hỏi đường?”

Người khách ấy ừ một tiếng rồi nói: “Pha cho ta một bình trà.”

Hai người ấy ngồi đối diện với Giang Nam, một người nói: “Ta thật không hiểu, đà chủ chúng ta cần gì phải chuyện bé xé ra to như thế.”

Giang Nam giật mình, chỉ thấy ánh mắt của hai người ấy hình như nhìn về phía mình, chàng vội vàng bưng chén trà lên, hai người thấy Giang Nam chỉ là một gã tiểu tử ngờ nghệch, mới yên lòng trò chuyện bằng tiếng lóng trên giang hồ. Giang Nam cũng hiểu một chút tiếng lóng, chỉ nghe người to béo nói: “Người đàn bà ấy chỉ nhờ có uy danh của cha mình để lại, dâu có gì khó đối phó? Đà chủ của chúng ta đã quá cẩn thận.”

Tên ốm nói: “Đó là bởi vì trước đây cha của bà ta là minh chủ võ lâm năm tỉnh phía bắc, quen biết nhiều người, mấy ngày nay lẽ nào mụ ta không nhờ người giúp đỡ? Thực ra ta cũng lo cho đà chủ, cần gì phải dính vào chuyện này? Nếu bị lão hòa thượng ấy liên lụy, trái lại trộm gà không xong lại mất nắm thóc!”

Tên béo nói: “Huynh có điều không biết, nếu hạ được nhà họ Dương, đà chủ của chúng ta sẽ độc bá miền Sơn Đông. Huynh có biết lão hòa thượng ấy là ai không?”

Tên gầy nói: “Không biết, đang định hỏi huynh.”

Tên béo nói: “Tôi cũng không biết pháp hiệu của lão. Nhưng nghe đà chủ nói, cả Đường Hiểu Lan cũng phải e dè lão ta mấy phần, chắc là một nhân vật lẫy lừng. Huynh hãy xem dấu chưởng lão để lại, quả thực công lực rất thâm hậu!”

Tên gầy nói: “Tuy là vậy, nhưng hậu nhân của Thiết chưởng thần đạn cũng chẳng dễ đối phó, chúng ta phải chia nhau đi mời người giúp đỡ!”

Hai hán tử ấy vội vàng uống trà rồi lên ngựa, một người đi về hướng đông, một người đi về hướng tây. Lúc này Giang Nam đã quyết ý, thầm nhủ: “Công tử thường nói chúng ta là người học võ công, phải nên hành hiệp trượng nghĩa, huống chi bằng hữu của mình đã gặp nạn, Giang Nam này tuy chưa chắc đối phó nổi lão hòa thượng kia, nhưng ít nhất cũng có thề giúp cho họ.”

Rồi chàng cũng vội vàng uống chén trà, lại hỏi ông lão bán trà đường đến nhà họ Dương.

Ông già cười nói: “Tôi đã đoán ngài quả nhiên đến nhà họ Dương giúp đỡ.”

Giang Nam nói: “Sao ông biết?”

Ông già nói: “Tôi đã từng gặp nhiều người, vừa nhìn đã biết ngài không phải là kẻ xấu, nếu không phải kẻ xấu thì lẽ nào không giúp hậu nhân của Thiết chưởng thần đạn? Thực ra mấy ngày nay đã có rất nhiều người hỏi đường tôi để đến nhà họ Dương giúp đỡ. Tôi thấy hai gã lúc nãy chẳng phải hạng tốt lành gì, cho nên tôi mới không nói thực.” Giang Nam nghe ông ta khen vì thế trả một nắm tiền rồi phóng ngựa lên đường.

Đường đi bằng phẳng, Giang Nam nhìn ra phía xa, chàng thấy hai hán tử ấy đang thấp thoáng phía trước. Giang Nam phóng lên lưng ngựa thầm nhủ: “Tên gầy hình như rất lanh lẹ, mình cứ đuổi theo tên béo.”

Rồi chàng vung roi, thớt ngựa Đại Uyển tung vó lướt nhanh, chỉ trong một tuần trà thì đã đuổi theo phía sau tên béo, Giang Nam gọi lớn: “Này, lúc nãy người đã đánh rơi đồ trong trà đình!”

Hán tử ấy kìm ngựa, hỏi đầy vẻ hoài nghi: “Đồ gì?”

Giang Nam nói: “Người nhìn xem, đây chẳng phải là bọc tiền của người sao.”

Hai thớt ngựa lướt tới gần nhau, Giang Nam bất thình lình mở bàn tay chụp vào bên sườn của y, đó là một chiêu đại cầm nã thủ rất lợi hại mà Đường Kinh Thiên đã dạy cho chàng trong một buổi cao hứng, Giang Nam thấy hán tử ấy chẳng hề để ý thì trong bụng mừng thầm, chỉ nghe soạt một tiếng, chàng đã xé được tà áo của hán tử ấy nhưng không kéo được y xuống ngựa, nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, hán tử ấy lật tay điểm lại Giang Nam đổ sầm xuống đất.

Hán tử ấy cười ha hả: “Tên tiểu quỷ nhà ngươi dám giở trò trước mặt ta, đúng là múa rìu trước cửa Lỗ Ban, đọc sách trước mặt Khổng Tử.” Giang Nam nằm ngửa dưới đất, hai mắt trợn ngược, miệng thì kêu hừ hừ, hán tử ấy cười lạnh nói: “Kém cỏi như thế mà cũng dám ám toán đại gia, hừ, thực là mất mặt. Mau nói thực, ai sai ngươi đến thăm dò tin tức?”

Giang Nam nói rất khẽ, hán tử ấy bảo: “Chẳng qua ngươi chỉ bị ta điểm huyệt đạo, lẽ nào đau đến nỗi nói không ra lời? Nếu ngươi cứ vờ vịt nữa, ta sẽ làm cho ngươi câm luôn! Nói lớn lên!”

Giang Nam vẫn cứ rên lên hừ hừ, lời nói chẳng rõ ràng tí nào. Hán tử ấy cả giận nhảy xuống lưng ngựa, bước tới gần Giang Nam rồi vung tay tóm lấy chàng. Trong khoảnh khắc điện chớp lửa xẹt ấy, Giang Nam đột nhiên vọt người dậy, hai tay búng ra, hán tử ấy nằm mơ cũng không ngờ rằng Giang Nam đã trúng thủ pháp điểm huyệt nặng tay mà vẫn có thể phản công, y chưa kịp kêu lên thì đã ngã xuống đất.

Giang Nam cả cười nói: “Thủ pháp điểm huyệt của ngươi còn kém ta xa lắm!”

Té ra trước đây Giang Nam đã từng bị dị sĩ của phái Không Động là Hoàng Thạch đạo nhân ép làm học trò, đã từng đi theo ông ta bảy ngày, chỉ học được một loại công phu làm thay đổi vị trí của huyệt đạo, võ công của hán tử ấy vốn hơi nhỉnh hơn Giang Nam, thế nhưng y lại dùng công phu điểm huyệt cho nên mới tạo cơ hội cho Giang Nam.

Giang Nam nheo mắt nhìn y cười: “Ai đã sai ngươi đi mời trợ thủ? Mau nói thực, nếu nửa câu giả dối ta sẽ bẻ xương lột da ngươi!” khi nói đến câu cuối cùng thì chàng gằn giọng.

Hán tử ấy tức tối, im lặng chẳng thèm trả lời. Giang Nam nói: “Được, trước tiên ngươi sẽ nếm mùi vị bị ta điểm huyệt đạo. Khi ngươi đã nếm đủ thì ta sẽ lại bẻ xương lột da ngươi!”

Hán tử đột nhiên cảm thấy trong người có vô số con rắn đang cắn xé, đau đến nỗi chết đi sống lại. Số là Kim Thế Di dạy chàng thủ pháp điểm huyệt này. Kim Thế Di học thủ pháp điểm huyệt từ Độc Long tôn giả, đây là loại thủ pháp kỳ quái nhất, lợi hại nhất, tổng cộng có bảy cách điểm huyệt khác nhau, công hiệu khác nhau, Giang Nam vừa mới sử dụng thủ pháp dễ học nhất, người học không cần có công lực thâm hậu nhưng cũng đủ khiến cho đối phương không thể chịu đựng nổi. Giang Nam thấy y lăn lộn ở dưới đất, trong lòng cũng cảm thấy bất nhẫn, nhủ thầm: “Y quả là một trang hán tử cứng cỏi, nếu y không nói mình chỉ đành thả y.

Không biết mình có nên bẻ xương lột da y hay không?” chàng vừa nghĩ thì chợt nghe hán tử ấy kêu lên: “Tôi nói”.

Giang Nam cả mừng, buột miệng bảo: “Đúng là đồ vô dụng!” nhưng sau khi nói ra thì sợ y tiếp tục chịu đựng cho nên vội vàng nói: “Tuy là vô đụng, nhưng có thể ứng biến linh hoạt mới coi như là đại trượng phu!” rõ ràng câu trước với câu sau rất chỏi nhau, ai mà nghe được chắc chắn sẽ cười đến rụng răng, nhưng hán tử ấy quá đau đớn, nào có thể cười y được, vội vàng nói: “Tiểu gia, ngài mau hỏi đi, ngài hỏi một câu tôi sẽ trả lời một câu.”

Giang Nam nói: “Ai sai ngươi đi mời trợ thủ?”

Hán tử ấy bảo: “Là đà chủ của chúng tôi.”

Giang Nam hỏi: “Hừ, ta đâu có biết đà chủ của các người? Y họ gì tên gì?”

Hán tử ấy nói: “Hách Đạt Tam”

Giang Nam kêu ồ một tiếng rồi nói: “Té ra là chưởng môn của phái Thái Sơn!”

Thật ra Giang Nam không hề biết có phái Thái Sơn, càng không biết võ công của Hách Đạt Tam đến mức nào, nhưng trước kia chàng đã từng nghe Trần Thiên Vũ và Tiêu Thanh Phong đàm luận với nhau, hai người ấy bảo rằng, trong võ lâm các môn phái tuy nhiều, nhưng hai phái Thiếu Lâm và Võ Đang là có nhân tài nhiều nhất, tiếng tăm cao nhất. Tiếp đến là các phái Nga Mi, Thanh Thành, ngoài bốn phái này, đệ tử của phái Thiên Sơn tuy không đông nhưng mỗi đời đều có nhân vật kiệt xuất, song phái Thiên Sơn ở miền biên thùy phía tây, rất ít tham dự vào những cuộc đấu đá ở võ lâm Trung Nguyên, cho nên phái Thiên Sơn có thể nói là đứng chơ vơ một mình không xếp vào bốn môn phái lớn.

Giang Nam vừa nghĩ như thế, để tỏ ra mình là người thông thuộc tình hình võ lâm, chàng mới nói bừa thêm một câu: “Chỉ là hạng tép riu ở miền Sơn Đông.”

Thật ra Hách Đạt Tam tuy chẳng thể sánh nổi với chưởng môn của các phái Thiếu Lâm, Võ Đang nhưng ở Sơn Đông cũng là nhân vật lẫy lừng.

Hán tử ấy thấy Giang Nam khinh miệt đà chủ của mình thì quả thực tức giận đến nỗi thất khiếu bốc khói, nhưng cũng không dám nổi giận hay lên tiếng. Chỉ nghe Giang Nam lại hỏi: “Các người đi mời những ai?”

Hán tử ấy nói: “Đà chủ của chúng tôi giao thiệp rất rộng rãi, mời rất nhiều người đến đây, tôi cũng không biết hết.”

Giang Nam nói: “Vậy thì ngươi cứ nói những kẻ ngươi biết.”

Hán tử ấy bảo: “Có Bạch mã Đỗ Bình, Bàn long quải Hứa Đại Hiến, bang chủ của bang Trấn Sơn Triệu Thiết Hán...”

Giang Nam chưa từng nghe những cái tên này, chỉ hừ một tiếng rồi nói: “Toàn là những nhân vật vớ vẩn!” hán tử ấy nói: “Chuyện người hỏi tôi đã trả lời, ôi chao, người... người...” thủ pháp điểm huyệt này nếu để kéo dài không giải thì càng lúc sẽ càng đau, hán tử này chịu không nổi, mồ hôi đổ ra ròng ròng.

Giang Nam thấy thế thì bảo: “Được, ta sẽ hỏi ngươi việc cuối cùng, các người hẹn gặp nhau tại nhà họ Dương vào lúc nào?”

Hán tử ấy bảo: “Ngay đêm nay?” Giang Nam cười hì hì rồi vung tay vỗ lên lưng y, hán tử ấy cảm thấy cơn đau biến mất nhưng vẫn không thể động đậy được, cũng chẳng nói được lời nào. Té ra tuy Giang Nam đã hóa giải thủ pháp điểm huyệt lúc nãy nhưng lại dùng thủ pháp điểm huyệt bình thường điểm vào ma huyệt và á huyệt của y.

Giang Nam giấu y vào chỗ khuất rồi mới cười nói: “Ngươi hãy ngủ một giấc, đợi ta điều tra xem thử ngươi có nói thực hay không rồi sẽ quay trở lại thả ngươi.” Chàng lại dùng cỏ khô phủ lên rồi mới bỏ đi.

Giang Nam vừa đi vừa thầm nhủ: “May mà bọn chúng hẹn nhau đêm nay, vậy dù mình có trễ một ngày cũng chẳng làm hỏng chuyện lớn của công tử.”

Chàng cũng không nghĩ nếu bị thua thì phải làm thế nào, trong lòng chỉ nhớ đến một tiểu cô nương tinh nghịch. Khi trời chạng vạng thì chàng đã đến Dương gia trang, đó là một tòa trang viện rất lớn, được xây dựng dựa theo thế núi. phía trước Dương gia trang là một mặt hồ phẳng lặng, phong cảnh rất đẹp, Giang Nam thầm nhủ: “Chả trách nào tiểu cô nương Giáng Hà lại trông rất tao nhã.”

Đường núi gập ghềnh không dễ đi ngựa, cho nên Giang Nam bỏ ngựa đi bộ. Con ngựa một mình ăn cỏ bên bờ hồ, Giang Nam lẳng lặng trèo lên núi, thầm nhủ: “Nàng chắc không ngờ mình đến giúp. Hà hà, khi hoạn nạn mới biết ai là bằng hữu, Giang Nam này vốn là một trang hán tử!” Chàng nghĩ đến chỗ đắc ý thì suýt nữa đã bật cười.

Giang Nam đang đi thì chợt nghe phía sau lưng có bước chân nặng nề, chàng vội vàng nấp vào bụi cỏ nghiêng tai lắng nghe, chỉ nghe một trong eo éo cất lên: “Tam ca, sao huynh lại bị mắc lừa người ta, bị dúi trong đống cỏ thế? Tôi không tin tên tiểu tử ấy lại có công phu như vậy.”

Giang Nam vừa nghe thì cảm thấy đó hình như là hán tử cao gầy đã gặp ở trà đình, thế rồi mới len lén nhìn ra, chỉ thấy có cả thảy ba người, một hán tử cao lớn sừng sững đi ở phía trước, hán tử béo vừa mới bị chàng tra khảo đi ở giữa còn hán tử cao gầy đi ở cuối cùng. Hán tử béo mặt đỏ ứng, trên người còn dính cỏ; té ra hán tử gầy nghe y rên rỉ cho nên mới cứu y ra. Hán tử cao lớn sừng sững kia chắc là người được tên gầy mời đến giúp đỡ.

Hán tử béo bị đồng bọn trêu ghẹo thì ngượng ngùng, một lát sau mới nói: “Ngươi đừng coi thường y tên tiểu tử ấy đúng là thân mang tuyệt kỹ, công phu điểm huyệt rất thần diệu, trên đời chỉ e không tìm được người thứ hai!”

Y thổi phồng võ công của Giang Nam là để che đậy cho mình. Giang Nam nghe thấy thì sung sướng trong lòng, thầm nhủ: “Gã này cũng có con mắt tinh đời, lẽ ra mình không nên hành hạ y như thế!” Hán tử ốm nói: “Vậy là huynh đã phục y?”

Hán tử béo trả lời: “Tài không bằng người, cái gì mà khâm phục, theo ta thấy, không những chúng ta không phải là đối thủ của y, dù cho bang chủ của chúng ta ra tay cũng chưa chắc thắng nổi y! Khẩu khí của y rất lớn, y bảo bang chủ của chúng ta chẳng qua chỉ là hạng hai!”

Hán tử cáo lớn chính là bang chủ của phái Trấn Sơn Triệu Thiết Hán, y là bạn rất thân của Hách Đạt Tam, nghe thế thì đùng đùng nổi giận, hừ một tiếng rồi hỏi: “Khi tên tiểu tử ấy hỏi ngươi mời những ai, ngươi có nhắc đến tên ta không?”

Hán tử béo nói: “Tôi có nhắc đến tên ngài, y nói... tôi quả thực không dám kể lại.”

Triệu Thiết Hán nói: “Chắc là mắng ta chứ gì? Không liên quan gì đến ngươi, cứ nói đi.”

Hán tử béo nói: “Không mắng nhưng lại nói các vị là hạng vớ vẩn!”

Triệu Thiết Hán cả giận: “Hừ, nếu y gặp phải ta, ta sẽ bẻ xương lột da y!”

Chợt trong bụi cỏ có tiếng người cười khì, té ra Giang Nam nghe hán tử béo tâng bốc mình như thế thì cuối cùng không nhịn được nữa cho nên mới bật cười Hán tử béo kêu lên: “Ồ, chính là hắn!” Triệu Thiết Hán cả giận: “Được, để ta coi ngươi là nhân vật như thế nào?”

Thân người y tuy to lớn dềnh đàng nhưng rất linh hoạt, chỉ vừa quát lên thì đã phóng tới đấm vù ra một quyền, Giang Nam xoay người trở tay điểm lại, cười hì hì nói: “Ngươi có sợ công phu điểm huyệt tuyệt thế vô song của ta không?”chàng chỉ nói đến đấy thì không thể cười được nữa. Số là công phu ngoại gia của Triệu Thiết Hán từ lâu đã lẫy lừng năm tỉnh phía bắc, quyền như búa, chưởng như rìu, y nào để cho Giang Nam tiến sát tới, chàng điểm không trúng huyệt đạo của y, trái lại bị bàn tay của y chém trúng đau như dao cắt. Quần thảo nhau được một hồi, Giang Nam nhanh chóng bị dồn vào thế hạ phong.

Hán tử gầy cười rộ lên, còn hán tử béo thì nói: “Y vẫn chưa thi triển tuyệt kỹ, ngươi xem, y có thể chịu được ba mươi chiêu của Triệu bang chủ, chỉ như thế cũng đã hơn ngươi!”

Thực ra võ công của Giang Nam kém xa Triệu Thiết Hán, nhưng chàng được Đường Kinh Thiên, Kim Thế Di, Trần Thiên Vũ chỉ cho chút ít, tuy không thể sử đụng được toàn bộ, nhưng những thứ chàng học toàn là võ công thượng thừa, đủ có thể dọa dẫm được người khác. Lúc đầu khi mới giao thủ với chàng, Triệu Thiết Hán chưa biết chàng ra sao, chỉ nghe hán tử béo bảo thủ pháp điểm huyệt của chàng rất thần kỳ, trong lòng có hơi sợ, cho nên trong mấy chiêu đầu thì không dám tấn công gấp, chỉ phòng bị không cho Giang Nam áp sát tới.

Đến khi đánh xong ba mươi chiêu, Triệu Thiết Hán đã biết võ công của Giang Nam ra sao, cho nên mới ngạc nhiên thầm nhủ: “Công lực của tên tiểu tử này chỉ xứng là đồ đệ của mình, nhưng thủ pháp của y rất tinh kỳ, còn giỏi hơn cả sư phụ của mình, không biết là tại sao?” lúc này y biết mình hơn hẳn Giang Nam nhưng vẫn còn e sợ những chiêu số kỳ quặc của chàng, đến khi đánh xong ba mươi chiêu chỉ thấy Giang Nam vẫn sử dụng những ngón cũ, y không khỏi cười rộ, thầm nhủ: “Chả lẽ y đã học lén võ công?”.

Tuy cảm thấy lai lịch của chàng kỳ quái nhưng lúc này y chẳng còn e sợ gì nữa, thế rồi mới thay đổi chưởng pháp, tay trái dùng Thôi bi thủ, chưởng như búa lớn mở núi, quyền tựa chùy sắt gõ đá, quyền cước đều mang theo kình phong!

Giang Nam bị y dồn ép đến nỗi thở chẳng ra hơi, lòng thầm nhủ: “Hỏng bét, hỏng bét!”

Nghĩ chưa dứt thì Triệu Thiết Hán chợt vung hai tay mở ra ngoài, hai chưởng của Giang Nam bị chặn lại, trong lúc gấp gáp chàng đã sử dụng một chiêu Loan cung xạ hổ do Trần Thiên Vũ dạy cho, chiêu số thì đã đúng nhưng công lực không đủ, chẳng thể nào đẩy được cánh tay của Triệu Thiết Hán, Triệu Thiết Hán cười ha hả: “Cho ngươi xem bản lĩnh của ta!” thế rồi tay trái đè xuống, giữ chặt hai tay của Giang Nam, tay phải bóp vào cổ họng chàng.

Hán tử ốm cười đồng bọn của mình: “Này, sao không thấy y sử dụng tuyệt kỹ.”

Giang Nam nổi cả gân xanh trên mặt, bị y bóp cổ họng, muốn la cũng không xong. Triệu Thiết Hán cười lạnh nói: “Ngươi dập đầu trước ta ba cái, kêu ta một tiếng ông nội, ta sẽ thả ngươi.”

Giang Nam thầm nhủ: Mình chỉ có một ông nội, nếu kêu ông nội thì sẽ làm nhục cha mẹ, muôn lần không thể được.” Thế là chàng đã quyết cho nên chỉ lắc đầu, Triệu Thiết Hán càng bóp chặt hơn. Giang Nam đã sắp đứt hơi, cả lắc đầu cũng không đủ sức, nhưng mặt vẫn tỏ vẻ cứng cỏi.

Trong lúc Giang Nam đang nguy cấp, chợt thấy Triệu Thiết Hán kêu rú lên, đầu lưỡi thè ra, tuy tay phải vẫn còn bóp vào cổ Giang Nam nhưng đã không còn lực. Giang Nam hít sâu một hơi, thật kỳ lạ, đầu lưỡi của Triệu Thiết Hán càng thè càng dài, cả tóc cũng rối bời, tựa như không phải y bóp cổ Giang Nam mà Giang Nam bóp cổ y, trông bộ dạng như một kẻ bị treo cổ, Giang Nam kêu lên: “Này, ngươi làm gì thế, ngươi dọa ta đấy ư, ta không sợ!”

Chàng tuy nói không sợ nhưng trong bụng thì rất kinh hoảng. Hán tử ốm thấy Giang Nam quả thực đã sử dụng tuyệt chiêu, hoảng sợ đến nỗi kinh hồn bạt vía, vội vàng cùng đồng bọn co giò chạy mất!

Chợt nghe Triệu Thiết Hán lại kêu rú lên một tiếng nữa, hai tay xuôi xuống rồi lăn sầm ra đất, thất khiếu chảy máu trông giống như người chết. Giang Nam kêu lên: “Mẹ ơi!” rồi cũng hoảng sợ đến nỗi ngất xỉu! Giang Nam tựa như mới trải qua một cơn ác mộng, trong mơ hồ chàng cảm thấy người mình nhẹ hẫng rồi bốc lên cao, trước mặt xuất hiện vô số đầu trâu mặt ngựa, chàng kêu không thành tiếng, lòng thầm nhủ: “Hỏng bét, chắc chắn ma treo cổ đã bắt mất hồn mình”

Đột nhiên những ảo ảnh ấy biến mất, và một giọng nói quen thuộc vang lên: “Đừng lo, hôm nay ta sẽ cho ngươi làm một anh hùng vang đanh bốn biển!”

Bên tai tiếng gió kêu lên vù vù tựa như chàng đang cưỡi mây mà đi, rồi bỗng dưng chàng lại cảm thấy như mình rơi xuống từ trên không trung, sau đó tất cả lặng yên trở lại.

Giang Nam thử mở mắt: “Ồ, ở đây là đâu thế?” nhưng chàng lại thấy hình như mình đang bị kẹp giữa hai tấm gỗ, chẳng thể nào xoay chuyển được, lại thấy có ánh sáng chói lòa từ hai bên chiếu tới, Giang Nam ngẩn người ra. Chàng dần đần tỉnh táo trở lại, phát hiện mình đang nằm cuộn sau một tấm biển, huyệt đạo bị phong tỏa không thể nào cử động được.

Bên dưới là một tòa sảnh đường rộng rãi có bày mấy chục cái bàn vuông, trên mỗi bàn có hai bầu rượu, Giang Nam cứ tưởng mình đang nằm chiêm bao, thầm nhủ: “Chả lẽ Diêm Vương mời mình dự tiệc? Chợt nghe một giọng nói trong trẻo vang lên: “Mẹ, hôm nay thật náo nhiệt, có đông người đến như thế sao?”

Giang Nam ngẩn người ra, chỉ thấy có hai phụ nữ bước ra, đó chính là Dương Liễu Thanh và con gái của bà ta Trâu Giáng Hà.

Giang Nam cắn đầu lưỡi, rất đau, rõ ràng không phải chiêm bao. Vậy ai đã đưa mình tới đây? Chàng càng nghĩ càng thấy rối trí.

Chỉ nghe Dương Liễu Thanh thở dài: “Con thật không biết trời cao đất dày, đêm nay là bữa tiệc Hồng Môn, con tưởng là uống rượu mừng sao?”

Trâu Giáng Hà hỏi: “Cha đã mời bao nhiêu người đến giúp đỡ.” Dương Liễu Thanh nói: “Mời thì nhiều nhưng chỉ có mười người đến.”

Trâu Giáng Hà hỏi: “Còn phía bên kia?” Dương Liêu Thanh bảo: “Nhận được cả thảy ba mươi bốn thiệp mời, theo quy củ trên giang hồ, lẽ ra phải có ba mươi bốn người tới. Con hãy đếm lại thử xem có đủ hai mươi bốn bàn hay không?”

Trâu Giáng Hà nói: “Đúng thế, có ba mươi bốn bàn, cha và mẹ ngồi một bàn, chẳng phải là đã dư hai bàn sao?” Dương Liễu Thanh bảo: “Hai bàn ấy là chuẩn bị cho khách không mời mà đến.”

Trâu Giáng Hà nói: “Người của bọn họ họ chẳng phải nhiều hơn chúng ta gấp đôi hay sao?”

Dương Liễu Thanh lại thở dài: “Tình người ấm lạnh, nếu ông ngoại con còn sống, dù chúng ta không gởi thiệp mời, hào kiệt ở các nơi cũng sẽ tự đến. Con hãy xem thử tấm biển kia!”

Giang Nam giật thót tim, tưởng rằng Dương Liễu Thanh đã phát hiện ra mình, chỉ nghe Dương Liễu Thanh nói: “Ta vẫn còn nhớ vào ngày đại thọ sáu mươi tuổi của ông ngoại con, một trăm hai mươi bốn anh hùng ở năm tỉnh phía bắc đã tặng tấm biển này, trên tấm biển đề bốn chữ vàng “Võ lâm thạc vọng”, đến nay đã ba mươi năm, chả lẽ quả đúng như lời xưa nói, ba mươi năm gió bay nước chảy hay sao?” Té ra bà ta đang cảm khái chứ không phải phát hiện Giang Nam.

Trâu Giáng Hà nhíu mày: “Chúng ta tuy người ít thế yếu, nhưng cũng không nên làm mất uy danh của ông ngoại.”

Dương Liễu Thanh bảo: “Đương nhiên, mẹ có bao giờ chịu nhận thua?” Trâu Giáng Hà hỏi: “Vậy lão hòa thượng khiêu chiến với chúng ta là ai?” Dương Liễu Thanh bảo: “Ta chỉ biết tên tục gia của y là Hách Hạo Xương, là đồ đệ của Đại lực thần ma Tát Thiên Đô.”

Trâu Giáng Hà nói: “Đại lực thần ma? Cái tên này nghe thật quen, ồ, con đã từng nghe cha nói, y là đại ma đầu cùng thời với ông ngoại, chẳng phải đã chết rồi ư?”

Dương Liễu Thanh bảo: “Đúng thế, y và các đồ đệ đã chết hết chỉ còn lại một mình Hách Hạo Xương. Đại lực thần ma Tát Thiên Đô có một người anh sinh đôi tên gọi Bát tí thần ma Tát Thiên Thích, giờ đây cũng chỉ còn lại một đệ tử.”

Trâu Giáng Hà nói: “Có phải là Đổng Thái Thanh, kẻ cũng trở thành hòa thượng hay không? Ba mươi năm trước, y đã bị ông ngoại đánh gãy một cánh tay, khi chúng ta đến Thiên Sơn tìm Đường thúc thúc đã gặp y. Ồ, con đã hiểu. Hách Hạo Xương đến báo thù cho sư huynh của y.”

Dương Liễu Thanh bảo: “Năm đó nếu không nhờ Phùng Lâm khuyên giải, mẹ đã móc mắt y, hừ, bản thân Đổng Thái Thanh không dám đến trả thù, trái lại Hách Hạo Xương lại giúp y, thật là buồn cười.” Giang Nam thầm nhủ: “Dương cô cô còn khoác lác hơn cả mình!”

Số là lần đó Dương Liễu Thanh và Đồng Thái Thanh gặp nhau ở quán rượu bên đường, Đổng Thái Thanh dùng một cánh tay đấu với thần đạn của Dương Liễu Thanh, Giang Nam cũng đã chứng kiến, nếu không nhờ Phùng Lâm đến kịp lúc, Dương Liễu Thanh đã thua to.

Giang Nam lại nghĩ “Đổng Thái Thanh làm sao có thể tìm bà trả thù, trừ phi y chui ra khỏi hòm, không, lúc y chết cũng chẳng được nằm vào hòm. Trừ phi y chui ra từ hố băng.” Thì ra Đổng Thái Thanh đã cùng một đại ma đầu khác là Xích Thần Tử lên ngọn Chu Mục Lang Ma ở dãy Hy Mã Lạp Nhã tìm cỏ tiên, đã bị chết cứng ở Băng Xuyên .

Trần Thiên Vũ đã kể lại chuyện này cho Giang Nam nghe, bởi vì lần ấy Đường Kinh Thiên và Kim Thế Di cũng có tham gia, và Kim Thế Di đã mất tích từ đó.

Hình như mẹ con Dương Liễu Thanh không biết chuyện này. Trâu Giáng Hà nói: “Mẹ, mẹ đã quên rồi, lúc đó Phùng a di chẳng phải đã nói không cho Đổng Thái Thanh tìm mẹ trả thù nữa sao? Thật lạ, sao sư đệ của ông ta lại không biết lệnh cấm của Phùng a di, chẳng lẽ Đổng Thái Thanh không nói cho ông ta biết sao? Mẹ, chúng ta đừng sợ, nếu lần này đánh thua, Phùng a di cũng sẽ trả thù cho chúng ta.”

Dương Liễu Thanh nói: “Hà nhi, dù lần này mẹ có bị đánh chết, con cũng không được báo với Phùng Lâm, người nhà họ Dương chúng ta xưa nay không cần ai thương xót, cũng không cần phải nhờ vả người khác.”

Số là Dương Liễu Thanh và Phùng Lâm xưa nay bất hòa, Phùng Lâm cũng không chỉ một lần bỡn cột bà ta, Dương Liễu Thanh đương nhiên không nói cho con gái biết (ba mươi năm trước, Dương Liễu Thanh từng là vị hôn thê của Đường Hiểu Lan. Nhưng Đường Hiểu Lan lại yêu chị gái của Phùng Lâm là Phùng Anh. Vì thế Phùng Lâm thường hay bỡn cợt Dương Liễu Thanh).

Nói đến đây, có một tên gia đinh vào báo: “Bọn chúng đến rồi!”

Dương Liễu Thanh nói: “Ngươi vào bảo lão gia ra đón khách.”

Một hồi sau, chỉ thấy một hán tử mắt to mày rậm, người to lớn dềnh dàng tuổi khoảng năm mươi cùng với một đám người bước ra, người đó chính là chồng của Dương Liễu Thanh tên gọi Trâu Tích Cửu, còn những người kia là đến giúp cho nhà họ Dương.

Trâu Tích Cửu ở rể nhà họ Dương, rất sợ vợ, người tuy thô hào nhưng lại trầm mặc ít nói, ông ta căn dặn người nhà hai câu: “Mở rộng cửa lớn, nghênh đón bằng lễ.” Ông ta không hề tỏ ra hùng hổ như vợ. Cửa lớn mở ra, chỉ thấy một nhà sư cười ha hả bước vào.

Trâu Tích Cửu nói một chữ “mời”, Dương Liễu Thanh thì lạnh lùng nói: “Đa tạ đại sư đã đến, hôm nay quần hùng đều tụ tập ở đây, quả thực khiến tôi thấy vinh hạnh.”

Hách Hạo Xương cười ha hả: “Các nhân vật lẫy lừng ở năm tỉnh phía bắc đa số cũng đều có ở đây, may mắn, may mắn!” Hai người chưa từng giao thủ, trước tiên đã đấu khẩu, Dương Liễu Thanh mỉa mai ông ta dắt theo nhiều người, Hách Hạo Xương cũng trả lại một câu, thừa cơ lấy lòng những nhân vật phía Dương Liễu Thanh, dụng ý là không muốn kết thù với họ.

Số là lần này Hách Hạo Xương có hai mục đích, thứ nhất đương nhiên là muốn trả thù. Thứ hai là muốn dựng cháu của y, bang chủ của bang Thái Sơn Hách Đạt Tam làm lãnh tụ võ lâm năm tỉnh phía bắc. Còn những người đến giúp cho Dương Liễu Thanh, kẻ có võ công thực sự cao cường không nhiều, nhưng ai cũng có tiếng tăm trong võ lâm, Hách Đạt Tam muốn làm lãnh tụ võ lâm đương nhiên không thể xích mích với những người này. Trong số những người đi cùng Hách Hạo Xương, có một nhà sư người Tây Tạng mặc cà sa màu đỏ, thân hình cao lớn, Hách Hạo Xương giới thiệu với hai vợ chồng Dương Liễu Thanh: “Đây là Tàng Linh thượng nhân ở Tây Tạng.”

Tàng Linh thượng nhân chắp tay nói: “Từ lâu đã nghe đại danh của hiền lương mạnh, nay mới có duyên may mắn được gặp.”

Dương Liễu Thanh và Trâu Tích Cửu chỉ cảm thấy một nguồn lực dồn tới, lập tức đầu váng mắt hoa, hơi thở khó khăn, trong khoảnh khắc ấy chợt nghe một tràng cười kỳ quái vọng tới, âm thanh không cao nhưng nghe rất lạnh lẽo, nhất là Tàng Linh thượng nhân nghe càng chối tai hơn, chỉ thấy sắc mặt của y chợt thay đổi, nguồn áp lực cũng giảm xuống.

Lúc này những người quen mặt của cả hai bên đều chào nhau, Tàng Linh thượng nhân và Hách Hạo Xương đưa mắt nhìn đám người nhưng không biết ai đã phát ra tiếng cười, Tàng Linh thượng nhân bất đồ nhớ lại một quái kiệt trong chốn võ lâm, trong lòng rất hoài nghi.

Giang Nam chỉ nghe tiếng cười chối tai này, chàng càng kinh ngạc hơn đám đông, tiếng cười ấy giống như tiếng cười mà chàng đã nghe khi đang mơ hồ, nhưng người đó là ai? Đột nhiên chàng nghĩ tới một người: “Chả lẽ là Kim Thế Di? Đúng thế, khi Kim Thế Di phát ra tiếng cười quái dị cũng chối tai như thế này!”

Nhưng Giang Nam ở trên cao cho nên nhìn xuống rất dễ dàng, chẳng có ai là Kim Thế Di cả! Chủ khách đều đã ngồi vào chỗ, Trâu Tích Cửu nói với Hách Hạo Xương: “Lần này đại sư đến hàn xá không biết có gì chỉ giáo?”

Hách Hạo Xương đứng dậy, cũng nói với Dương Liễu Thanh: “Dương đại tiểu thư, ai đã đánh bại sư huynh của tôi, mời bà hãy nói thẳng ra.”

Dương Liễu Thanh chỉ nghĩ y đến đây là để trả thù việc sư huynh bị đánh gãy tay vào ba mươi năm trước, nào ngờ y không biết Đặng Thái Thanh đã chết, nghe thế thì ngạc nhiên: “Tôi không giết sư huynh của ông.”

Hách Hạo Xương nói: “Dựa vào bản lĩnh của bà thì làm sao có thể giết được sư huynh của tôi. Tôi muốn hỏi là bà đã nhờ ai giết chết ông ta?”

Dương Liễu Thanh nổigiận: “Nếu ta muốn nhờ người giết chết y, thì khi gặp mặt lần đầu tiên ở Tây Tạng tađã không tha cho y.”

Hách Hạo Xương nói: “Tôi biết bà quen biết rất nhiều, bà e ngại sư huynh của ta, nếu không phải bà dùng kế thì đã nhờ người ta giết chết ông ta, được, mặc kệ là ai, tóm lại bà là chủ mưu, nếu bà không nói ra thì món nợ này tôi chỉ đành đòi bà!”

Dương Liễu Thanh vỗ bàn tức giận nói: “Ngươi cứ bảo ta giết người, được, ngươi cứ xông tới, ngươi tưởng ta sợ ngươi?”

Trâu Tích Cửu vội vàng khuyên: “Có lời thì hãy từ từ nói, chủ khách vừa mới gặp nhau, chú nó ta hãy uống ba chén rượu trước đã!”

Nói chưa dứt lời chỉ nghe có người kêu: “Được, ta sẽ đến kính nữ chủ nhân ba chén.”

Người vừa mới lên tiếng chính là Hách Đạt Tam, những người ở phía y quá nửa là do y mời tới, cho nên thân phận của y là khách chính, y ra mặt kính rượu nữ chủ nhân cũng là lẽ đương nhiên, nhưng thủ pháp kính rượu của y rất đặc biệt, chỉ thấy y rót đầy ba chén rượu. Hai ngón tay xoay lên mép chén, ba chén rượu bay ra liên tiếp thành hình chữ phẩm, rượu trong chén chẳng hề đổ ra ngoài. Nhà họ Dương vốn nổi tiếng nhờ Thiết chưởng thần đạn, công phu ném ám khí rất đặc biệt, Hách Đạt Tam dùng thủ pháp ném ám khí kính rượu, là muốn tỉ thí với bà ta.

Dương Liễu Thanh cũng từ tốn rót đầy ba chén rượu, đợi cho ba chén rượu của Hách Đạt Tam bay đến cách mấy thước, bà ta đặt ba chén rượu lên lòng bàn tay, thản nhiên nói: “Tửu lượng của ta rất tệ, ba chén này không uống được, ta cũng xin kính!”

Thế rồi lật tay, ba chén rượu đầy tràn cũng bay vút ra, chạm với ba chén rượu của Hách Đạt Tam, phát ra tiếng kêu lanh canh, chỉ thấy sáu chén rượu tách ra làm hai nhóm. Mỗi nhóm ba chén, ba chén thì bay ngược trở về chỗ Hách Đạt Tam, ba chén còn lại thì bay tới trước mặt đại hòa thượng, phương hướng khác nhau, tốc độ thì nhanh như nhau còn rượu thì không rớt ra một giọt. Thủ pháp ấy cao minh hơn Hách Đạt Tam nhiều, những người đi cùng y đều không khỏi trầm trồ.

Hách Đạt Tam chỉ đành thi triển thủ pháp tiếp ám khí, bưng ba chén rượu uống cạn, đại hòa thượng thì phất ra cây quạt nan trong tay, đánh hờ một chiêu, sau đó lại mở bàn tay ra, chỉ thấy ba chén rượu đầy tràn lần lượt hạ xuống lòng bàn tay của y, tựa như lòng bàn tay của y có một lực hút vô hình. Những người có võ công cao cường đều nhận ra, ba chén rượu này đều bay tới ba hướng khác nhau, hai chén thì bay vào hai bên huyệt thái dương của y, còn một chén bay thẳng vào sóng mũi của y, y chỉ đánh ra một chiêu mà cả ba chén rượu đều bay về một hướng, hạ xuống lòng bàn tay của y, nếu so với Dương Liễu Thanh, y cũng có sở trường riêng, Dương Liễu Thanh giỏi thủ pháp ném ám khí, còn nội công của đại hòa thượng này thâm hậu hơn Dương Liễu Thanh nhiều!

Hách Hạo Xương đặt ba chén rượu xuống, nói: “Ý của ta thì khác hẳn Trâu thí chủ, cứ tính nợ cho rõ ràng rồi uống rượu mới thích. Nữ thí chủ, bà bảo thế nào về cái chết của sư huynh tôi đây?”

Y lại tiếp tục dồn ép Dương Liễu Thanh, Dương Liễu Thanh trợn mắt nổi giận: “Ta đã bảo chẳng phải ta giết, ta cũng không biết ai giết, ngươi cứ đòi tính sổ với ta, ta cũng chẳng biết nói gì! Chỉ có chiếu theo quy củ giang hồ, ta phải thỉnh giáo công phu của đại hòa thượng nhà ngươi trước.”

Trong số người Trâu Tích Cửu mời tới có một ông già tên Trịnh Càn Nguyên nói: “Xin hỏi đại hòa thượng, có phải thực sự sư huynh của ông đã bị người ta giết hay không? Ông đã phát hiện ra xác của ông ta hay có người báo tin? Trên giang hồ cũng thường có chuyện báo tin chết nhầm.”

Hách Hạo Xương nói: “Năm đó sư huynh của ta tìm Dương Liễu Thanh tính sổ, bị bà ta nhờ người phái Thiên Sơn đánh bại, sau đó thì không biết thế nào nữa. Chính Hoàng Thạch đạo nhân đã báo tin sư huynh ta chết, Hoàng thạch đạo nhân là danh túc của phái Không Động, lẽ nào lời ông ta là giả? Ta không hỏi bà ta thì hỏi ai?”

Giang Nam nghe thế thì chợt lo, chàng cứ kêu trong lòng: “Sao ngươi không hỏi Kim Thế Di?” nhưng đáng tiếc chàng không thể lên tiếng được.

Trịnh Càn Nguyên là người dĩ hòa vi quý, ông ta tiếp tục nói: “Nếu năm xưa sư huynh của ông đã bị người của phái Thiên Sơn đánh bại, lẽ ra ông nên hỏi chưởng môn của phái Thiên Sơn là Đường Hiểu Lan mới đúng!”

Nay Đường Hiểu Lan đã là nhân vật lẫy lừng võ lâm, người bình thường càng không thể lên ngọn Nam Cao trên núi Thiên Sơn được, Trịnh Càn Nguyên nói như thế rõ ràng là biết y không dám lên Thiên Sơn hỏi tội Đường Hiểu Lan. Hách Hạo Xương nhìn Trịnh Càn Nguyên rồi nói: “Đây là...”

Hách Đạt Tam nói: “Đây chính là Trịnh Càn Nguyên lão anh hùng.”

Hách Hạo Xương nói: “Trịnh lão anh hùng, đa tạ ông đã khuyên. Nhưng đáng tiếc lời của ông hình như có chút sai lầm, trên giang hồ thường có chuyện tìm thù đòi mạng theo quy củ thì phải tìm người chủ mưu, đâu có lẽ nào lại đi hỏi những kẻ tòng phạm? Huống chi ai ai cũng biết mối giao tình giữa Dương đại tiểu thư với Đường Hiểu Lan, cho nên cần gì phải bỏ gần lấy xa, lên Thiên Sơn hỏi Đường Hiểu Lan? Cứ cho là người của phái Thiên Sơn đã làm chuyện này, hỏi Dương đại tiểu thư cũng chẳng khác gì.”

Năm xưa Dương Liễu Thanh muốn lấy Đường Hiểu Lan nhưng không được, bà ta rất ghét bị người khác nhắc lại chuyện này, bất đồ mặt đỏ ửng nổi giận đùng đùng nói: “Lão lừa trọc nhà ngươi ăn nói vớ vẩn, bịa đặt xằng bậy, ai mà biết sư huynh nhà ngươi đã chết như thế nào? Được, nếu ngươi đã đến đây sinh sự thì cứ coi như là ta đã giết! Hà nhi. Lấy đạn cung của mẹ ra đây!”

Hách Hạo Xương đứng phắt dậy: “Nữ thí chủ, bà nên cẩn thận lời nói, chúng ta đấu võ chứ không đấu miệng!”

Rõ ràng là y đã bới móc Dương Liễu Thanh trước, nhưng nay lại bảo người ta ăn nói cho cẩn thận, Dương Liễu Thanh tức đến nỗi thất khiếu bốc khói, bà ta nhận lấy đạn cung, toan bước ra khỏi chỗ ngồi.

Trong khi kiếm rút cung căng, chợt có một tên gia đinh chạy vào bẩm cáo: “Có người muốn gặp chủ mẫu, y còn mang theo một món lễ vật, bảo rằng muốn nhờ chủ mẫu gởi cho một người tên là Mai Nhược đại sư, Dương Liễu Thanh và Hách Hạo Xương đều ngạc nhiên, té ra sau khi Hách Hạo Xương xuất gia đã lấy pháp hiệu là Mai Nhược, sau khi sư phụ của lão là Đại lực thần ma chết, lão đã ẩn cư gần ba mươi năm, gần đây nghe tin sư huynh đã chết cho nên mới xuống núi trả thù, cũng rất ít người biết chuyện lão trở thành hòa thượng, càng không ai biết lão có pháp hiệu là Mai Nhược.

Hai người đều tưởng rằng đó là bằng hữu của đối phương, Dương Liễu Thanh phần chưa hết tức giận, lập tức bảo: “Mặc cho có bao nhiêu người, nhà họ Dương chúng ta đều có thể tiếp đãi, hãy dắt y vào!”

Tên gia đinh ấy hơi ngạc nhiên, bẩm cáo: “Chỉ có một người đến.” Dương Liễu Thanh quát: “Có nghe chưa? Mau đắt y vào!”

Một lúc sau, tên gia đinh đắt theo một người vào, Dương Liễu Thanh nói: “Ồ, già Vương, té ra là ông.”

Giang Nam nhận ra đó là ông già bán trà, thầm nhủ: “Ông lão này cũng thích lo chuyện bao đồng như mình, chắc là muốn tìm cớ đến đây xem náo nhiệt. Nếu không làm sao cứ chọn lúc người ta sắp đánh nhau lại đến tặng quà.”

Chỉ thấy ông lão ôm theo một cái tráp sắt hình chữ nhật, trên cái tráp có gián tờ giấy trắng ghi rằng “Làm phiền giao cho Mai Nhược đại sư đích thân mở ra.”

Hách Hạo Xương cũng nhận ra ông lão họ Vương bán trà, y ngạc nhiên lập tức giật lấy cái tráp, nói: “Ta chính là Mai Nhược hòa thượng.”

Rồi y cầm cái tráp mà lắc, bên trong hình như có vật bằng sắt, nên có tiếng kêu phát ra, Hách Hạo Xương ngần ngừ một chốc lâu mà vẫn không dám mở ra.

Tàng Linh thượng nhân nói: “Để ta coi thử là lễ lạt gì?”

Người nhận lấy cái tráp từ Hách Hạo Xương, y cậy có võ công cao cường, nhủ rằng dù trong tráp có ám khí cũng chẳng làm gì được y, cho nên mới vận Kim cương chỉ lực bật nắp tráp ra, chỉ thấy trong cái tráp có một cánh tay đen kịt. Hách Hạo Xương kêu thét lên, lấy cánh tay ấy ra gõ lên bàn, cánh tay kêu keng một tiếng, cái bàn cũng mất đi một góc, té ra đó là một cánh tay sắt.

Hách Hạo Xương khóc rống lên rằng: “Sư huynh, quả nhiên huynh đã bị người ta hại!”

Té ra hơn ba mươi năm trước, Đổng Thái Thanh bị cha của Dương Liễu Thanh chặt đứt một cánh tay, y đã lắp vào một cánh tay sắt, luyện thành Thiết tý thần công rồi mới tìm đến Dương Liễu Thanh trả thù. Hách Hạo Xương nhận ra đây là cánh tay sắt của Đổng Thái Thanh.

Tàng Linh thượng nhân nói: “Ồ, hình như trên cánh tay có khắc chữ?”

Hách Hạo Xương cầm cánh tay nhìn kỹ, phía trên quả nhiên có viết bảy tám chữ: “Chết ở Băng Xuyên, chẳng liên quan gì đến ai.” Sau đó còn có hai hàng chữ nhỏ ghi lại việc Đổng Thái Thanh lên ngọn Chu Mục Lang Ma tìm tiên thảo, bị chết cứng trong Băng Xuyên. Hách Hạo Xương kinh ngạc lắm, tóm lấy ông lão họ Vương bán trà hỏi: “Ai đã nhờ ngươi đem cái tráp này tới?”

Ông lão trả lời: “Là Tiểu Tam Tử!”

Hách Hạo Xương nói: “Tiểu Tam Tử là ai?”

Ông lão ấy nói: “Tiểu Tam Tử đấy ư? Ồ, là một đứa trẻ chăn trâu hàng xóm.”

Trâu Giáng Hà bật cười; Hách Hạo Xương tức giận quát: “Ngươi cười gì?”

Ông lão thì bảo: “Thật oan cho tôi quá, già Vương này suốt đời không nói dối nửa câu, nếu không tin thì ngài có thể hỏi Dương đại tiểu thư.”

Hách Hạo Xương nói: “Có đúng là đứa trẻ chăn trâu đã gởi chiếc hộp này tới hay không?”

Ông lão trả lời: “Quả đúng là tôi đã nhận từ trong tay của nó.” Tàng Linh thượng nhân nói: “Ngươi có hỏi rõ ai đã đưa cái tráp này cho nó không?”

Ông lão đáp: “Hắn bảo là một tên ăn mày.”

Tàng Linh thượng nhân biến sắc: “Ăn mày cũng biết tặng quà?”

Ông lão nói: “Ồ, nghe Tiểu Tam Tử bảo, tên ăn mày này ra tay rất rộng rãi, đã thưởng cho hắn một nén bạc.”

Hách Hạo Xương giật mình, thầm nhủ: “Chả lẽ bang chủ của Cái Bang ra mặt chống đối với mình?” rồi y vội vàng hỏi: “Có phải là một lão ăn mày già mặc cái áo rách rưới bị vá nhiều chỗ hay không?”

Ông lão trả lời: “Không, nghe Tiểu Tam Tử nói, đó là một tên ăn mày con môi đỏ răng trắng, tướng mạo của hắn trông rất gọn gàng nhưng không hiểu sao lại làm ăn mày?”

Giang Nam nghe thế thì vừa kinh vừa mừng, thầm nhủ: “Chắc chắn là Kim Thế Di! Ha ha, Kim Thế Di mà đến đây, lão hòa thượng nhà ngươi nếu không biết tiến thì chắc chắn sẽ xui xẻo!”

Hách Hạo Xương thấy không phải là bang chủ của Cái Bang thì yên lòng, đang định lên tiếng thì chợt thấy Tàng Linh thượng nhân biến sắc, tựa như có vẻ hơi khiếp sợ, Tàng Linh thượng nhân vốn là cao thủ thuộc hàng đệ nhất của Mật Tông Tây Tạng, năm nay hơn bảy mươi tuổi, nhưng nhìn ông ta chỉ như năm mươi tuổi, nếu luận về vai vế thì ngang hàng với sư phụ của Hách Hạo Xương.

Hách Hạo Xương mời ông ta đến đây để làm chỗ dựa, thấy ông ta tựa như có vẻ khiếp sợ, không khỏi ngạc nhiên, thầm nhủ: “Chả lẽ Tàng Linh thượng nhân sợ tên ăn mày này?”

Đó chính là: “Thần long thấy đầu không thấy đuôi, có gì ảo diệu nào ai biết.”
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Vân Hải Ngọc Cung Duyên - Lương Vũ Sinh

Postby tuvi » 05 Feb 2023

Hồi Thứ Ba
Hạc Hội Mây Ngàn Chẳng Đứng Yên..Trên Tuyết Hồng Nhan Không Để Dấu

Hách Hạo Xương thấy Tàng Linh thượng nhân cứ săm soi cánh tay sắt, nén không được hỏi: “Có phải đại sư thấy điều gì đáng ngờ không?”

Tàng Linh thượng nhân nói: “Mấy năm nay quả thực không nghe ai nói tin tức của Xích Thần Tử, chả lẽ thật sự đã chết cứng trong Băng Xuyên?”

Trên cánh tay đã ghi rõ Đổng Thái Thanh “Chết ở Băng Xuyên, chẳng liên quan đến ai khác.”

Lại còn bảo y đi cùng Xích Thần Tử, cùng bị chết cứng trong Băng Xuyên. Nay Tàng Linh thượng nhân lại nhắc đến Xích Thần Tử, rõ ràng ông ta đã tin rằng Đổng Thái Thanh đã thực sự chết ở Băng Xuyên.

Hách Hạo Xương vội vàng nói: “Chuyện này nghe rất hoang đường, không thể nào tin được. Vả lại ai đã gởi chiếc tráp này tới, đây là điều rất kỳ lạ, nếu không điều tra ra sự thật thì không thể nào bỏ qua được?”

Tàng Linh thượng nhân trầm ngâm không nói, tựa như trong cánh tay sắt quả thật đã ẩn chứa điều gì rất kỳ lạ, chỉ lật qua lật lai săm soi.

Dương Liễu Thanh cũng nhận ra cánh tay sắt của Đổng Thái Thanh, lòng cũng rất lấy làm lạ, bà ta thấy Hách Hao Xương và Tàng Linh thượng nhân cứ xì xầm bàn bạc, đang định lên tiếng thì chợt nghe Hách Đạt Tam lớn giọng nói:

“Có lẽ chuyện của Đổng Thái Thanh nhất thời không rõ ràng, nhưng hai chuyện xảy ra ngày hôm nay chắc chắn có liên quan đến nhà họ Dương các người!”

Dương Liêu Thanh ngẩn người ra, nói: “Chuyện gì?”

Hách Đạt Tam tức giận nói: “Bọn ta vẫn chưa đến đây, tại sao người của các ngươi đã làm nhục đồ đệ của ta trước?”

Dương liễu Thanh nói: “Có chuyện này ư?”

Hách Đạt Tam vẫy tay nói: “Hàn Siêu, ngươi bước ra đây.”

Giang Nam nhìn lại, té ra kẻ ấy chính là tên béo đã bị chàng đánh cho một trận, mặt mày vẫn còn sưng húp, vết bùn đất trên áo quần vẫn còn chưa khô, Dương Liễu Thanh nói: “Quái lạ, đồ đệ của ngươi bị người ta đả thương thì có liên quan gì đến ta?”

Hách đạt Tam tức giận nói: “Chả lẽlà ta đánh y?”

Dương Liễu Thanh cũng nổi giận, đang định trả đũa thì Trịnh Càn Nguyên lại khuyên: “Hỏi cho rõ ràng rồi bàn cách giải quyết cũng không muộn, ông bảo có hai việc, đó là việc thứ nhất, còn một việc nữa?”

Bàn long quải Hứa Đại Hiến đứng phắt dậy, gằn giọng nói: “Ở đây toàn là những người lẫy lừng võ lâm, xin hỏi hai bên hẹn ngày tỉ võ, có cái đạo lý nào ám toán những người đến giúp cho đối phương, thậm chí giết hại y?”

Y vừa nói ra, tất cả mọi người đều ồ lên, nhao nhao hỏi: “Là ai đã bị ám sát?”

Hứa Đại Hiến nổi giận nói: “Bang chủ của bang Trấn Sơn Triệu Thiết Hán đã bị người của họ ám toán!”

Hứa Đại Hiến và Triệu Thiết Hán là bằng hữu sống chết có nhau, y nhắc đến đấy thì hai mắt đỏ ửng, nước mắt tuôn trào, hận không lao tới xé Dương Liễu Thanh thành hai mảnh.

Trịnh Càn Nguyên vội đứng dậy: “Có ai thấy Triệu bang chủ bị người nào giết không?”

Đồ đệ của Hách Đạt Tam nói: “Kẻ giết chết Triệu bang chủ cũng chính là kẻ đã làm nhục tôi.”

Trịnh Càn Nguyên nói: “Rốt cuộc kẻ ấy là ai?”

Hán tử béo mới nói: “Là một tên tiểu tử tuổi không quá hai mươi.”

Trịnh Càn Nguyên nói: “Ngươi hãy nhìn cho rõ, y có ở đây không?”

Hán tử béo nói: “Không.”

Giang Nam cười thầm: “Đúng là đồ đui, tiểu gia của nhà ngươi rõ ràng là ở đây!”

Chàng vừa cười thầm nhưng cũng hơi lo lắng, không ngờ Triệu Thiết Hán đã bị nhân vật bí hiểm nào đó giết chết, sự việc này đã quá lớn lao, không biết nhân vật bí hiểm ấy có phải là Kim Thế Di hay không?

Trịnh Càn Nguyên nói: “Nếu không có ở đây thì chắc chắn không phải là người của nhà họ Dương mời tới.”

Hứa Đại Hiến kêu lên: “Y đã ám hại Triệu bang chủ còn dám lộ mặt sao? Ta phải tính sổ với ả giặc cái này!”

Dương Liễu Thanh cả giận: “Thật quá đáng, ngươi mắng ai?”

Trâu Tích Cửu vội vàng nhảy ra, Hứa Đại Hiến vung cây gậy sắt quét tới Dương Liễu Thanh đánh vù một tiếng, Trịnh Càn Nguyên vội vàng giở cái ghế lên đỡ cho bà ta, chiếc ghế bị vỡ làm đôi, cây gậy sắt vẫn còn đà suýt nữa đánh trúng vào trán Trịnh Càn Nguyên, lúc này Trâu Tích Cửu đã thực sự nổi giận, đấm bình ra một quyền, Trâu Tích Cửu là hậu duệ của Ngũ Hành quyền, quyền này gọi là Xung thiên pháo.

Hứa Đại Hiến không kịp rút cây gậy về, vội vàng né tránh, dù y né tránh nhanh nhưng vẫn bị trúng một quyền ở vai, y loạng choạng thối lui mấy bước suýt nữa ngã xuống.

Hứa Đại Hiến quát: “Ta liều với ngươi.”

Thế là múa tít cây gậy sắt lao tới, những người gần đó vội vàng lui ra, trâu Tích Cửu chẳng nói lời nào, tiếp mấy chiêu thì đột nhiên hóa quyền thành chưởng, sử dụng một chiêu Thiết trảo, giật lấy cây gậy bàn long của Hứa Đại Hiến.

Tưởng rằng bàn tay ông ta chụp vào cổ tay của Hứa Đại Hiến, đột nhiên một luồng kình phong dồn tới trước mặt, té ra phó bang chủ Thôi Hoằng đã phóng ra một mảnh tiền tiêu, Trâu Giáng Hà giở đạn cung lên định bắn ra, thấy có người ám toán cha mình thì lập tức bật dây cung, ba mảnh đạn bắn ra, mảnh thứ nhất đánh rơi mảnh tiền tiêu, mảnh đạn thứ hai đánh trúng vào trán Hứa Đại Hiến khiến máu chảy ròng ròng, mảnh thứ ba thì bắn về phía Thôi Hoằng, bởi vì khoảng cách quá xa cho nên Thôi Hoằng đã né được, mảnh đạn trúng vào bầu rượu bên cạnh, rượu bay tung tóe, trên bàn có hai người là Bạch Mã Đỗ Bình và Kim đao Trịnh Mậu, đó đều là những bằng hữu của Hách Đạt Tam, lúc này bị rượu bắn cả vào mặt thì nổi giận quát mắng ầm ĩ xông ra.

Trịnh Càn Nguyên quát: “Còn thể thống gì nữa? Muốn tỉ võ cũng phải theo quy củ, chả lẽ ẩu đả như bọn đầu đường xó chợ sao?”

Ông ta thấy khuyên giải không được thì chỉ đành tạm thời dẹp yên cục diện hỗn loạn.

Hứa Đại Hiến nói: “Được, ta báo thù cho Triệu bang chủ, Trâu trang chủ bảo vệ cho phu nhân của ông ta, vậy cứ để ta và Trâu trang chủ phân thắng bại trước!”

Trâu Giáng Hà nói: “Ngươi không xứng tỉ thí với cha ta, để bổn cô nương dậy dỗ cho ngươi.”

Hứa Đại Hiến bị nàng đả thương, chỉ vì nàng là hạng tiểu bối cho nên không tiện khiêu chiến với nàng, không ngờ nàng lại đòi xông ra trước, Hứa Đại Hiến nổi giận nói: “Được, hai cha con nhà ngươi cứ xông lên!”

Trâu Giáng Hà cười lạnh: “Ngươi có cần băng vết thương hay không?”

Câu ấy rõ ràng mỉa mai y đã bị thương mà còn lớn mồm, Trâu Tích Cửu nghĩ mình là thân phận chủ nhân, Hứa Đại Hiến tuy là bang chủ của một bang nhưng không phải là nhân vật đầu não của đối phương, đương nhiên không nên hạ thân phận tỉ thí với y, nhưng sợ con gái mình đánh không lại, đang ngần ngừ thì Thôi Hoằng bước ra: “Giết gà cần gì dao mổ trâu, để tôi thay Hứa đại ca dạy cho ả nha đầu này một bài học.”

Hứa Đại Hiến thấy Trâu Tích Cửu đã lui xuống, đành để cho Thôi Hoằng và Trâu Giáng Hà động thủ. Thôi Hoằng sử dụng một đôi phán quan bút, Trâu Giáng Hà lại dùng một cây thiết cung.

Trâu Giáng Hà nói: “Ngươi là khách, ta nhường ngươi ba chiêu!”

Từ nhỏ Trâu Giáng Hà đã được cha mẹ dạy dỗ, tuy tuổi còn trẻ nhưng vẫn giữ được phong độ của một võ lâm thế gia, theo quy củ giang hồ khi tỉ võ chính thức, gia chủ sẽ nhường cho khách ba chiêu. Nàng nói rất thật tình, quần hào đều nhận ra nét trẻ con trên khuôn mặt của nàng nhưng không ai cười nàng.

Thôi Hoằng là nhân vật có tên tuổi trong chốn lục lâm, có lẽ nào lại cần một thiếu nữ nhường y ba chiêu? Thế nhưng Trâu Giáng Hà đã đưa ra quy củ giang hồ, y cũng đành phải chịu, thế rồi cười lạnh nói: “Được, sau ba chiêu chúng ta chuẩn bị đổi người.”

Y muốn nói trong vòng ba chiêu chắc chắn sẽ hạ được Trâu Giáng Hà.

Trâu Giáng Hà giở cây thiết cung lên trước ngực, nghiêm mặt nói: “Đừng nói nhiều, xin mời ban chiêu!”

Thôi Hoằng cười lạnh rồi tách đôi bút ra, điểm vào hai huyệt kỳ môn ở hai bên hông nàng, Trâu Giáng Hà hạ thấp người xuống, nhân lúc đôi bút của y tách ra, nàng đột nhiên lướt xuống tay của y, Thôi Hoằng hừ một tiếng, nói: “Té ra ngươi cũng biết chút công phu.”

Lúc này y vẫn còn khinh địch, đôi bút vừa phân ra chưa kịp biến chiêu đổi thức thì lập tức đánh ngược trở lại, Trâu Giáng Hà hình như đã đoán được y sẽ đánh chiêu này, đột nhiên thổi vào mặt y, công phu đánh ám khí của nhà họ Dương đã sớm nổi danh trên giang hồ, Thôi Hoằng tưởng nàng phun ra loại ám khí nhỏ bé như mai hoa châm, giật mình bất đồ thối lui. Số là Trâu Giáng Hà không thể nào né tránh được chiêu này của y, nhưng lúc này thì nhẹ nhàng nhảy ra khỏi vòng.

Thôi Hoằng cả giận nói: “Tiểu nha đầu dám sử dụng quỷ kế!”

Trâu Giáng Hà cười khanh khách: “Ta đã bảo không trả đòn, người có thấy ta trả đòn không?”

Nàng chỉ động khẩu chứ chưa động thủ, Thôi Hoằng chẳng làm gì được nàng, thế là lửa giận bốc lên, chiêu thứ ba đã sử dụng sát thủ, cây bút trên tay trái bạt ra ngoài, cây trên tay phải thì thủ thế đợi sẵn, nếu nàng phóng lên né tránh thì cây bút trên tay phải sẽ lập tức đâm vào huyệt thông tuyền của nàng.

Nào ngờ Trâu Giáng Hà lại rất lớn gan, nàng không nhảy lên mà phục xuống đất, đẩy nhẹ cây thiết cung ra, Thôi Hoằng đánh xuống một bút, chạm phải cây tên cung của nàng kêu keng một tiếng, Trâu Giáng Hà lướt ra mấy bước, cây phán quan bút trên tay Thôi Hoằng sắp biến thức thì Trịnh Càn Nguyên đã kêu lớn: “Ba chiêu đã hết, Trâu cô nương không cần nhường nữa!”

Chiêu này của Thôi Hoằng vốn là hai bút sẽ điểm ra liên tục, một chiêu chia thành hai thức, nhưng cây bút trên tay trái của y đã bị Trâu Giáng Hà gạt ra, tuy tay phải chưa kịp phát ra nhưng Trịnh Càn Nguyên lại cho đó là một chiêu, mà Thôi Hoằng là người lớn còn Trâu Giáng Hà là kẻ nhỏ, y làm sao có thể giải thích trước mặt mọi người rằng đây chỉ là nửa chiêu.

Y chỉ đành rút cây phán quan bút trên tay phải lại, trừng mắt nhìn Trâu Giáng Hà, nàng ngạo mạn cười: “Không cần đổi người, ta và ngươi cứ việc tiếp tục.”

Thôi Hoằng cố nén cơn giận, hạ hai bút xuống quát: “Ra chiêu!”

Tiếng quát chưa dứt thì Trâu Giáng Hà đã kéo cây thiết cung, dây cung bật vào mạch môn của y, thủ pháp Kim cung thập bát chiêu là tuyệt kỹ bí truyền của Dương Trọng Anh, mà trên giang hồ lại chưa thấy chiêu số này, bản lĩnh thật sự của Thôi Hoằng tuy hơn Trâu Giáng Hà nhưng trong lúc bất ngờ cũng bị luống cuống tay chân. Giang Nam từ trên nhìn xuống thì mừng rỡ, chỉ tiếc là không thể kêu lên.

Song thủ pháp Kim cung thập bát chiêu tuy kỳ diệu nhưng công lực của Trâu Giáng Hà vẫn chưa đủ, cuối cùng nàng cũng đuối sức. Sau hơn năm mươi chiêu, chiêu số của Trâu Giáng Hà dần dần bị đôi phán quan bút chặn lại, Trâu Giáng Hà thấy thế không xong, thi triển công phu nhảy vọt né tránh, tiếp được vài chiêu thì đột nhiên lấy lùi làm tiến, nàng phóng vọt người ra rồi bật đạn cung, tuyệt kỹ thần đạn của nhà họ Dương quả nhiên danh bất hư truyền, đạn vừa bắn ra thì đã lao thẳng tới các huyệt đạo yếu hại của người ta, may mà Thôi Hoằng cũng là một cao thủ đánh huyệt, vừa thấy đạn bắn ra thì biết mục tiêu của đạn là huyệt vị nào cho nên hoặc dùng đôi bút đánh bay hoặc lướt người né tránh, Trâu Giáng Hà tuy càng đánh càng hiểm hóc nhưng vẫn không làm gì được y, song thế công của Thôi Hoằng cũng bị chặn lại. Hai người giao đấu trong đại sảnh, xung quanh toàn là bàn ghế, ở giữa chỉ có chỗ trống khoảng hai trượng vuông

Thôi Hoằng đuổi sát không buông, Trâu Giáng Hà chỉ có thể né tránh trong một vòng nhỏ, có lúc bị đuổi đến sau lưng không kịp kéo cung bắn đạn, cho nên chỉ đành xoay người tiếp vài chiêu, cứ du đấu được khoảng nửa canh giờ thì đạn của Trâu Giáng Hà cũng đã hết.

Giang Nam nấp sau tấm biển, có vài viên đạn bắn trúng tấm biển kêu lốp bốp, chàng hoảng đến nỗi tim đập thình thịch, nếu bị phát hiện thì chắc chắn sẽ bị bọn Hách Đạt Tam đánh cho một trận. May mà tất cả những người đang có mặt đều chăm chú xem cuộc tỉ thí, không ai nhìn lên tấm biển.

Xung quanh toàn là cao thủ, hễ đạn bay tới đâu thì đều có người tiếp lấy. Hách Hạo Xương cố ý trổ tài, trên tay y cầm một đôi đũa, hễ đạn bay tới thì lập tức kẹp chặt đặt xuống bàn.

Trịnh Càn Nguyên thấy Trâu Giáng Hà dần dần lâm nguy, lên tiếng rằng: “Hai vị đã đánh hơn một trăm chiêu, chi bằng cứ nhường cho người khác?”

Thôi Hoằng lầm lì chẳng lên tiếng, Trâu Giáng Hà chỉ nhớ lời dặn của mẹ: “Không được làm hại uy danh của nhà họ Dương.” Thấy kẻ địch không lên tiếng thì nàng cũng không chịu ngừng tay, vẫn tiếp tục phóng ra đạn, du đấu với Thôi Hoằng.

Đạn càng lúc càng vơi dần, Trâu Giáng Hà chợt phát giác chỉ còn lại hai viên lòng phát hoảng, Thôi Hoằng đuổi sát theo sau, Trâu Giáng Hà trong lúc gấp gáp đã nảy ra kế, nàng lướt ra mấy bước, trở tay búng vào huyệt dương bạch của Thôi Hoằng, Thôi Hoằng vừa giơ bút gạt ra thì mảnh đạn thứ hai đã bay tới, y nghe tiếng thì biết mục tiêu của nàng là huyệt thái dương, thêm vội vàng nghiêng đầu, nhưng không ngờ đâu Giáng Hà đã dùng mẹo, mảnh đạn này tựa như bắn vào huyệt thái dương, nhưng khi bắn ra nàng búng nhẹ ngón tay, viên đạn bay chệch một tí, Thôi Hoằng nghiêng đầu qua, thành thử đã giơ trán đỡ viên đạn.

Trịnh Càn Nguyên kêu lên: “Bây giờ có thể ngừng tay chưa?”

Thôi Hoằng cả giận nói: “Ta vẫn đánh chưa xong, chả lẽ đã phán ta thua sao?”

Theo quy củ, hai bên tỉ võ chắc chắn sẽ có người bị thương trước, chỉ cần người này còn sức phản kháng mà lại không nhận thua thì không ai có quyền bắt y dừng lại. Trâu Giáng Hà đã bắn trúng đối thủ, đảm khí tăng lên, nàng lớn giọng nói: “Được, ngươi không chịu nhận thua thì cứ đánh tiếp!”

Trâu Tích Cửu không khỏi lắc đầu, thầm lo lắng cho con gái của mình.

Trâu Giáng Hà chỉ nghĩ Thôi Hoằng trúng một viên đạn của mình thì uy phong đã giảm xuống, không có gì đáng sợ nữa. Nào ngờ sau khi bị thương Thôi Hoằng tựa như một con mãnh sư, càng đánh càng dữ, đôi phán quan bút múa tít như giông bão, trong chớp mắt đã hoàn toàn chặn Trâu Giáng Hà lại. Trâu Giáng Hà chỉ nhờ vào thân pháp linh hoạt nhẹ nhàng né tránh, tạm thời vẫn chưa bị thương, nhưng vòng chiến càng lúc càng nhỏ, muốn thoát ra thì rất khó khăn.

Dương Liễu Thanh rất lo lắng, muốn bảo con gái nhận thua nhưng không tiện lên tiếng, nếu ra giúp thì sẽ bị người ta chê cưới. Thấy con gái đã có mấy lần nguy hiểm, Dương Liễu Thanh lo lắng như kiến bò chảo lửa, đang ngồi chẳng yên.

Nhưng còn có một người lo hơn cả Dương Liễu Thanh, đó chính là Giang Nam. Chàng không ngừng kêu thầm:
“Hỏng bét, đáng tiếc mình không xuống giúp nàng”

Cuộc đấu bên dưới càng lúc càng gấp, Thôi Hoằng đánh ra một chiêu Trường hồng quán nhật, cây bút trên tay trái đè cây thiết cung của Trâu Giáng Hà lại, cây bút trên tay phải đâm xuyên qua cây thiết cung, Trâu Giáng Hà không thể giật cây thiết cung ra, chỉ đành mở mắt chờ cây phán quan bút của đối phương đâm vào mặt mình! Giang Nam đang lo lắng vô cùng, chàng chợt thấy sau ót hình như bị người ta thổi một luồng hơi lạnh, Giang Nam kêu lên một tiếng quái dị, rơi xuống bên dưới, trong khoảnh khắc này chàng chợt thấy huyệt đạo đã thông suốt, thoải mái vô cùng, tay chân linh hoạt hơn cả lúc bình thường, chàng rơi ngay xuống đầu Thôi Hoằng, Thôi Hoằng đau đến nỗi kêu lên oai oái, y lập tức hạ thấp người, chưa kịp trả đòn thì Giang Nam đã tiện tay điểm tới trúng vào huyệt thiên trụ ở sau ót của y.

Đôi phán quan bút của Thôi Hoằng vuột khỏi tay, còn y thì dập mặt xuống đất. Giang Nam rơi xuống khiến cho mọi người đều nhốn nháo.

Trâu Giáng Hà nhận ra đó là Giang Nam thì ngạc nhiên hỏi: “Ồ, sao huynh ở đây?”

Giang Nam cười hì hì nói: “Trước đây tôi chẳng phải đã nói rồi ư, có chuyện gì cô nương cứ tìm tôi! Nay cô nương đánh nhau với người ta, đương nhiên tôi phải đến giúp cô nương!”

Trâu Giáng Hà che miệng cười cười: “Huynh thật quái dị!”

Giang Nam biết, người quái dị không phải là chàng mà chính là kẻ đã âm thầm đưa chàng tới đây và giải huyệt đạo cho chàng, bản thân Giang Nam cũng không biết người đó đã làm cách nào để giải huyệt đạo cho mình? Điều kỳ lạ hơn là không ai phát hiện ra điều đó! Vậy người quái dị này ở đâu? Y có phải là Kim Thế Di không?

Đôi trẻ chia tay đã lâu nay mới gặp lại cứ tíu tít bên nhau, bọn người Hách Đạt Tam nhao nhao lên tiếng mắng, hán tử béo kêu lên: “Chính là hắn... hắn đã giết chết Triệu bang chủ!”

Hứa Đại Hiến giận dữ gầm lên một tiếng, cầm cây gậy Bàn long vẹt mọi người bước ra, lại có người nói: “Bắt lấy hắn, hỏi ai đã sai khiến hắn?”

Giang Nam cúi người tóm lấy Thôi Hoàng ném ra, nói: “Tiểu gia đến đây giúp đỡ, kẻ này không chịu nổi một chỉ của ta còn trách ai được? Thôi được, các người muốn đánh nhau với ta? Cứ cùng nhau xông lên, ta không sợ!”

Thực ra chàng đang run, nhưng Trâu Giáng Hà đang ở bên cạnh, chàng đánh liều nghĩ “Quá lắm là cũng chỉ bị bọn chúng đánh cho một trận mất tiếng hảo hán mà thôi!”

Bọn người ấy thấy chàng có vẻ dửng dưng chẳng hề sợ gì, trông rất khôi hài kỳ quái, trong bụng thầm lo không biết chàng có lai lịch như thế nào. Nhưng thấy Giang Nam chỉ là một tên tiểu tử miệng còn hôi sữa, nghe chàng nói như thế ai cũng ngại không muốn động thủ với chàng, cho nên chỉ có một mình Hứa Đại Hiến chưa chịu rút lui.

Hách Đạt Tam vẫn còn nửa tin nửa ngờ, trừng mắt hỏi tên đồ đệ: “Hừ, có phải tên tiểu tử này đã dần cho ngươi một trận không?” Hán tử béo sợ sư phụ mắng mình là đồ vô dụng, vội vàng lấp liếm rằng: “Triệu bang chủ chỉ bị y giết trong chốc lát, công phu điểm huyệt của y rất thần diệu!”

Giang Nam nghe thế thì mừng trong bụng, cung tay về phía y nói: “Đa tạ lão ca đã nhiều lần khen ngợi, lần này dù ngươi có phạm ta ta cũng không đánh ngươi.”

Hứa Đại Hiến đùng đùng nổi giận, quát: “Tại sao ngươi ám hại Triệu đại ca!”

Giang Nam vốn muốn nói rõ không phải mình đã giết Triệu Thiết Hán nhưng chàng nghĩ: “Mặc cho kẻ quái dị ấy là ai, dẫu sao y cũng có ơn cứu mạng đối với mình, mình sao có thể khai y ra được? Chi bằng mình cứ nhận là hung thủ!”

Vì thế chàng hiên ngang bảo: “Này, ngươi ăn nói thật hàm hồ, Triệu Thiết Hán tỉ thí với ta, bị ta bóp chết. Sao có thể nói là ám hại, ai bảo y bản lĩnh chẳng bằng người ta?”

Hứa Đại Hiến nổi giận: “Ngươi có bản lĩnh gì? Được, ta và ngươi đơn đả độc đấu theo quy củ võ lâm, quyết sống chết đến cùng, các vị anh hùng ở đây, tôi không phải cậy lớn hiếp nhỏ, tôi chỉ muốn báo thù cho Triệu bang chủ mà thôi!” Y không nói quyết trận thư hùng mà bảo quyết sống chết đến cùng, rõ ràng là có y muốn lấy mạng Giang Nam.

Trâu Giáng Hà biết Hứa Đại Hiến là nhân vật lẫy lừng trong chốn lục lâm tỉnh Sơn Đông, võ công cao hơn Thôi Hoàng, nàng rất lo cho Giang Nam, đang định nhờ cha ra mặt, Giang Nam đã cười hì hì nói:

“Mở tiệm cơm sợ gì kẻ to bụng, đã đến giúp thì ta đâu có sợ đánh nhau! Được! Ngài họ gì? Ta sẽ lãnh giáo!”

Khi hai người đang đôi co bằng miệng với nhau, bọn người do Hách Đạt Tam mời tới vây quanh hán tử béo hỏi chuyện Giang Nam đã bóp chết Triệu Thiết Hán như thế nào, hán tử ấy miệng nói tay chỉ trỏ, lại còn bảo Giang Nam nói họ chỉ là hạng bét ở miền Sơn Đông khiến đám người này nổi giận đùng đùng. Hứa Đại Hiến cũng nghe được câu nói ấy, đang định quát Giang Nam xuất chiêu, nào ngờ Giang Nam lại nhã nhặn hỏi một câu:

“Ngài họ gì?”

Hứa Đại Hiến chỉ đành nén cơn giận, lớn giọng nói: “Ta họ Hứa, tên gọi Đại Hiến, ngươi nhớ lấy, cứ đến chỗ Diêm Vương mà kiện ta. Hãy mau rút ra binh khí chờ chết.”

Khi Giang Nam lên đường, Trần Thiên Vũ sợ chàng đem theo trường kiếm thì sẽ gây chú ý, chỉ cho chàng một cây truỷ thủ hộ thân, Giang Nam thấy cây gậy Bàn long của Hứa Đại Hiến vừa dài vừa to, nghĩ bụng chắc nặng nề vô cùng, chi bằng cứ tỏ ra phóng khoáng không dùng binh khí, nên nghe Hứa Đại Hiến nói xong thì lập tức cười nói:

“Ta chưa gặp phải đối thủ thực sự thì chưa dùng binh khí. Này, ngươi cũng nhớ lấy, ta tên Giang Nam, ta sẽ không đánh ngươi chết, chỉ để lại cái tên để sau này ngươi đến tìm ta trả thù!”

Hứa Đại Hiến bị chàng chọc giận đến nỗi thất khiếu bốc khói, nổi giận quát: “Vậy thì ngươi sẽ chết!” rồi bổ vù một gậy xuống đầu Giang Nam!

Giang Nam kêu lên: “Con bà nó, ngươi muốn lấy mạng của ta?”

Chàng vừa kêu vừa nhảy, Hứa Đại Hiến bổ xuống một gậy mà chẳng trúng. Số là Giang Nam đã học lén loại thân pháp kỳ diệu này từ chủ nhân của mình. Thường ngày hai vợ chồng Trần Thiên Vũ thường luyện Băng xuyên kiếm pháp, loại kiếm pháp này biến hóa rất tinh diệu, dù Giang Nam có lòng học lén nhưng cũng không hiểu sự ảo diệu trong đó, nhưng Băng xuyên kiếm pháp coi trọng sự khéo léo, tránh thực lấy hư, Giang Nam không học được kiếm pháp nhưng học được vài chiêu thân pháp dùng để né tránh những đòn tấn công của đối phương, Hứa Đại Hiến bổ một gậy từ trên đầu xuống, kình đạo tuy mạnh nhưng rất dễ né tránh, Giang Nam cố ý lòe công phu, đợi cây gậy của y cách đỉnh đầu khoảng ba tấc thì đột nhiên cúi đầu xuống người lướt về phía Hứa Đại Hiến.

Đám người phía Hách Đạt Tam tuy căm tức Giang Nam nhưng thấy bộ dạng khôi hài của chàng thì cũng cười ầm lên.

Hách Đạt Tam thì giật mình nghĩ: “Thân pháp của tên tiểu tử này chẳng phải tầm thường, chả lẽ y đúng là thân mang tuyệt kỹ, có ý đến đối chọi với mình?”

Hứa Đại Hiến đánh một gậy chẳng trúng, nghe mọi người cười ầm lên thì tức tối đến nỗi đỏ mặt tía tai, lập tức triển khai phép đánh gậy, càng đánh càng dữ, càng đánh càng gấp, Giang Nam chỉ biết vài chiêu thân pháp né tránh thì làm sao có thể chống dự nổi? May mà chàng khôn vặt, thừa cơ ứng biến lại tránh thêm được vài chiêu nữa, người xung quanh không biết chỉ tưởng chàng quả nhiên cao minh, đang bỡn cợt Hứa Đại Hiến, những người phía Dương Liễu Thanh thì reo hò trợ oai cho chàng!

Hứa Đại Hiến triển khai phép đánh gậy như gió thét mưa gào, càng đánh càng mạnh, y chợt quát một tiếng, cây gây sắt múa tròn tựa như một con rồng từ trên không bổ xuống, trong khoảng trống hai trượng vuông ở giữa sảnh đường toàn thấy trượng ảnh của y! Giang Nam dù cho lớn gan cũng luống cuống chân tay, lòng thầm nhủ: “Hỏng bét! Lần này quả thực mình sắp mất mạng!”

Ngày lúc này, Hứa Đại Hiến chợt cảm thấy cổ tay đau nhói như bị kiến cắn, đầu gậy hơi lệch qua, Giang Nam đang thầm kêu hỏng bét thì chợt thấy cây gậy lướt qua vai chàng, đối phương cũng như mất đà bổ về phía mình, Giang Nam thấy thế thì mừng rỡ chẳng kịp suy nghĩ, tiện tay điểm vào huyệt toàn cơ trước ngực Hứa Đại Hiến, Hứa Đại Hiến đổ sầm xuống đất. Y biết bị người khác ám toán nhưng không nói ra được nữa.

Bạn bè Hứa Đại Hiến vội vàng chạy đến kẻo y về, giải huyệt cho y, nào ngờ đó chính là thủ pháp điểm huyệt độc môn mà Kim Thế Di đã truyền cho Giang Nam, không ai có thể giải được! Hách Đạt Tam đã thấy Hứa Đại Hiến bị điểm vào huyệt toàn cơ, thế là liền giải ở huyệt tương ứng, chẳng những không giải được cho y mà còn khiến cho y đau đớn, mồ hôi tuôn ra ròng ròng, Hách Đạt Tam cả kinh, vội vàng ngừng tay

Giang Nam cười hì hì: “Ta đã bảo chẳng lấy mạng y, sau mười hai canh giờ huyệt đạo của y sẽ tự giải, ngươi đừng lo! Nhưng nếu ngươi giải không đúng cách thì sẽ khiến y mất mạng, lúc đó thì đừng trách ta!”

Hách Đạt Tam cả giận, định nhảy ra giao đấu với y nhưng lại có một người khác đã phóng ra.

Giang Nam nhìn lại thì thay đó là một thư sinh môi đỏ răng trắng, trông có vẻ là một nhân tài, trong tay của y cầm một cây quạt xếp, y mỉm cười nói: “Tiểu huynh đệ, thủ pháp điểm huyệt của ngươi quả thật bất phàm, ta muốn lãnh giáo.”

Giang Nam thấy y trông rất nho nhã, thế là vội vàng ôm quyền nói: “Không dám, không dám!” Giang Nam này chỉ học vài món công phu thô thiển, mong công tử chỉ giáo cho.”

Chàng không hề biết rằng kẻ này bề ngoài trông rất nho nhã nhưng thực ra là một thái hoa đại đạo độc ác có tiếng, tên gọi là Đỗ Bình, công phu dùng quạt điểm huyệt của y thuộc hàng số một ở năm tỉnh phía bắc, lúc nãy y thấy phép điểm huyệt của chàng tuy kỳ lạ, nhưng ra tay không nhanh, nghĩ bụng mình có thể thắng, y có ý muốn lấy gậy ông đập lưng ông, ra oai trước mặt quần hùng, sử dụng công phu điểm huyệt của Giang Nam để lấy mạng chàng.

Phía Dương Liễu Thanh có một lão anh hùng tên gọi Quách Tùng Long, ghét ác như kẻ thù, bình sinh ghét nhất là hạng dâm tặc thái hoa, vừa thấy Đỗ Bình xông ra thì đùng cả giận nhảy bật lên nói: “Sao có thể để hạng đâm tặc hạ lưu trà trộn ở đây?”

Đỗ Bình cười nói: “Ông già họ Quách kia, tôi vẫn chưa đụng tới con gái của ông, cớ gì ông lại nổi nóng như thế?” Quách Tùng Long vỗ xuống bàn bốp một tiếng, râu tóc đều dựng ngược, lớn giọng quát: “Tiểu huynh đệ hãy tạm thời lui ra để tôi dạy cho tên dâm tặc này một bài học!”

Đỗ Bình nói: “Tiểu huynh đệ đã hứa đối chiêu với tôi trước, Quách lão gia, ông là người hiểu qui củ, trận sau cứ để tôi lãnh giáo ông!”

Giang Nam nghe Đỗ Bình là một tên dâm tặc thì thất kinh, thầm nhủ: “Kẻ này bề ngoài trông rất nhã nhặn, sao là một kẻ xấu? Chả trách nào công tử vẫn thường nói không thể nhìn mặt đoán người.”

Tuy Đỗ Bình tạm thời đã đẩy lùi Quách Tùng Long bằng lời nói, nhưng cũng thực sự sợ sẽ khiến mọi người căm phẫn. Y biết người ở phe Hách Đạt Tam muốn bắt Giang Nam cho nên thầm nhủ: “Trước tiên mình đánh ngã tên tiểu tử này để lấy lòng chúng. Thiết sa chưởng của lão thất phu tuy bá đạo nhưng cũng không thắng nổi mình.”

Y đã nghĩ như thế, sợ Giang Nam lui xuống cho nên lập tức dắt cây quạt lên hông, khom người cười: “Tiểu huynh đệ, ngươi xuất chiêu đi!”

Giang Nam thấy y nhã nhặn, tuy ghét y là một tên dâm tặc nhưng lại nhớ đến lời dạy của Trần Thiên Vũ: “Người kính ta một thước, ta kính người một trượng. Đó gọi là có qua có lại.” Vì thế cũng cung kính trả lại một lễ, nói: “Tôi tuổi còn nhỏ, huynh lớn tuổi hơn, xin mời huynh chỉ giáo trước.”

Đỗ Bình nói: “Khách sáo, khách sáo!” Y nói chưa xong thì đầu quạt xỉa tới bê sườn Giang Nam, thủ pháp nhanh như điện chớp, vừa dữ vừa chuẩn, dù cho Giang Nam thi triển hết bản lĩnh cũng không thể nào chống đã nổi, huống chi lúc này chàng chẳng đề phòng được, chỉ nghe soạt một tiếng, huyệt phế du ở dưới bê sườn của Giang Nam bị y đâm một nhát, huyệt phế du là một trong những tử huyệt của con người, Giang Nam bị y đâm trúng không kịp kêu lên một tiếng đã ngã ngửa ra phía sau. Trâu Giáng Hà kêu hoảng, Quách Tùng Long vỗ bàn mắng lớn.

Đỗ Bình cầm cây quạt vái dài, lớn giọng nói: “Đã là tỉ võ chắc chắn có tử thương, sao có thể trách được tiểu đệ?” Y vừa thốt ra hai chữ tiểu đệ thì cảm thấy kình phong quét tới từ phía sau ót, Giang Nam cười hì hì: “Đúng thế, đúng thế, tiểu đệ cũng có ý này.”

Đỗ Bình đang đứng xoay lưng lại với Giang Nam, y không ngờ Giang Nam đứng dậy ám toán mình, trong lúc không đề phòng đã bị Giang Nam đâm thật mạnh vào huyệt kiên tỉnh, y đau đến nỗi kêu lớn lập tức ngất đi, bọn người phía Hách Đạt Tam kéo y về, tuy y đã được cứu tỉnh nhưng xương tỳ bà đã bị Giang Nam bóp nát, coi như võ công đã tiêu tan. Té ra khi ở chỗ Hoàng Thạch đạo nhân, chàng chỉ học được một loại công phu gọi là “điên đảo huyệt đạo”, dù Đỗ Bình điểm trúng vào tử huyệt” của chàng thì cũng coi như gãi ngứa cho chàng, chàng mượn cơ hội này cố ý giả chết, cuối cùng bóp nát xương tỳ bà của Đỗ Bình. Chàng cũng đã dùng thủ pháp này để đối phó với hán tử béo, nhưng hán tử béo cũng ghét Đỗ Bình là hạng dâm tặc cho nên cố ý không nhắc y. Thay đổi bất ngờ ấy khiến cho cả toàn trường đều cả kinh, Hách Hao Xương liếc nhìn Tàng Linh thượng nhân rồi nói: “Lai lịch của tên tiểu tử này thật quái dị.” Tàng Linh thượng nhân không trả lời, chỉ săm soi cánh tay sắt.

Giang Nam đánh thắng toàn nhờ công phu của mình thì rất cao hứng, Quách Tùng Long cung tay nói: “Tiểu huynh đệ đã phế võ công tên dâm tặc này thật hợp với ta! Xin đa tạ.” Giang Nam nói: “Nào dám, nào dám. Tôi chẳng qua chỉ muốn dạy cho y một bài học giùm lão tiên sinh.” Quách Tùng Long vuốt râu cả cười: “Sau khi đánh xong ta và tiểu huynh đệ phải uống một trận cho say.”

Hách Đạt Tam bước ra giữa vòng, nói với Giang Nam: “Ngươi có dám tỉ thí với ta thêm một trận không?”

Giang Nam nói: “Ta là người có trước có sau, đưa Phật phải đưa đến Tây Thiên, đã đến đây giúp đỡ thì có lẽ nào không đánh nhau? Đánh, đương nhiên là đánh!” Trâu Tích Cửu đứng dậy: “Giang Nam, hãy nhường cho ta trận này, ngươi đã đánh hai trận cũng nên nghỉ ngơi.” Té ra Hách Đạt Tam là đệ nhất cao thủ trong chốn lục lâm Sơn Đông, Trâu Tích Cửu nghĩ bụng mình cũng chưa chắc thắng được y, cho nên vội gọi Giang Nam lui ra.

Giang Nam đang cao hứng thì làm sao chịu thôi, chàng cướp lời nói: “Lúc nãy tôi chẳng cần dùng sức mà thắng được hai tên vô dụng, đâu cần phải nghỉ ngơi? Trâu trang chủ, tôi thật lòng đến đây giúp đỡ, ông không thể cấm tôi đánh nhau!” Trâu Tích Cửu lắc đầu, Dương Liễu Thanh hạ giọng nói: “cục diện hôm nay hơi kỳ quái, cứ để Giang Nam thử một lần nữa.” Bà ta đã hơi nghi ngờ, nhưng không biết nhân vật cao minh nào đã dùng thủ pháp kỳ dị gì giúp chàng.

Hách Đạt Tam rút ra một thanh đại đao vàng chói, nói: “Muốn thấy bản lĩnh thực sự tốt nhất phải tỉ thí binh khí, ngươi dùng binh khí gì?” Giang Nam vốn không dùng binh khí, nhưng nghe Hách Đạt Tam nói như thế thì tựa như y muốn bảo hai trận lúc nãy không phải là công phu thật sự thì trong lòng lo lắm. Trâu Tích Cửu lại nói: “Giang Nam, ở đây có đủ mười tám loại binh khí, ngươi cứ đến giá binh khí mà chọn cho vừa tay.”

Giang Nam liếc nhìn về giá binh khí, đột nhiên cười rằng: “Không cần phải chọn nữa, có một món rất vừa tay.” Chàng lắc người lướt tới hai bước, vươn tay rút thanh kiếm của hán tử ốm phía sau lưng Hách Đạt Tam, y là đồ đệ của Hách Đạt Tam, lúc nãy y đã đưa đao tới cho sư phụ, vẫn chưa kịp lui xuống, y không ngờ bị Giang Nam cướp binh khí, vả lại y nhìn mặt Giang Nam, tưởng rằng chàng sẽ chọn một món binh khí trên giá, đang định đi tới lấy, nào ngờ chàng đã bỏ xa lấy gần, bất ngờ cướp kiếm. Thực ra nếu luận về công phu thật sự, hán tử ốm ấy cao hơn Giang Nam một bậc. Hán tử ốm đương nhiên tức giận đến thất khiếu bốc khói, nhưng vì đứng bên cạnh sư phụ nên không dám phát tác, Hách Đạt Tam mắng: “Đồ ngu, lui xuống!” Y nghĩ Giang Nam muốn cố ý làm nhục mình, thế rồi cũng vung đao lên, đầu đao rung lên bần bật, Trâu Giáng Hà vốn là một thiếu nữ chẳng biết sợ trời sợ đất, lúc này nàng cũng không khỏi thầm lo cho Giang Nam.

Nhưng bản thân Giang Nam lại không lo, chàng nhớ lại chàng đã được nhân vật bí hiểm ấy đưa đến đây, người ấy nói bên tai chàng rằng: “Ngươi cứ yên tâm mà đánh, đảm bảo ngươi sẽ nổi danh bốn biển!” Chàng đoán đó là Kim Thế Di, thầm nghĩ “Kim Thế Di âm thầm giúp mình, mình còn sợ ai?” lúc này điều chàng lo lắng chỉ là không biết kiếm pháp gì cả, bởi vì chàng chưa hề học qua một bộ kiếm pháp hoàn chỉnh nào.

Hách Đạt Tam dựng thanh đao lên, quát lớn: “Xuất chiêu!” Giang Nam bị y quát, chàng tựa như giật mình, thế là lúng túng đâm một kiếm vào ngực Hách Đạt Tam.

Thật ra Hách Đạt Tam mới thật sự giật mình, té ra Giang Nam đã sử dụng một chiêu trong Băng xuyên kiếm pháp, năm xưa vợ chồng Quế Hoa Sinh nhìn dòng sông băng mà đã ngộ ra được Băng xuyên kiếm pháp. Trên bề mặt Băng Xuyên kết băng,hầu như không thấy ở bên dưới, nhưng thực sự dưới lớp băng nước chảy cuồn cuộn, sự kỳ diệu của Băng Xuyên là trong cực tĩnh hàm chứa cực động. Giang Nam tuy chưa hiểu được sự ảo điệu của Băng xuyên kiếm pháp, nhưng chàng nhìn lâu thì đánh ra rất giống. Hách Đạt Tam vừa thấy kiếm thế của chàng biến ảo không ngừng, nhẹ nhàng ngưng trọng, cho nên hoảng sợ thối lùi ba bước, lòng thầm kêu khổ: “Không ngờ tên tiểu tử này là đại hành gia kiếm thuật!”

Giang Nam rất đắc ý, lại sử dụng thêm một chiêu Tinh hán phù sai, ánh kiếm lấp lánh chặn đường rút lui của Hách Đạt Tam. Hách Đạt Tam vốn không biết nên chống đỡ thế nào, chỉ đành thi triển đao pháp Tam dương khai thái đắc ý nhất của y, ý là muốn gạt kiếm của Giang Nam ra, Giang Nam sợ y phá kiếm thế của mình cho nên vội vàng nhảy ra né tránh, trong lúc lúng túng lại sử dụng Thanh Thành kiếm pháp mà Tiêu Thanh Phong đã dạy. Chiêu này đơn giản hơn Băng xuyên kiếm pháp nhiều, Giang Nam đã sử dụng rất đúng. Hách Đạt Tam ngạc nhiên: “Võ công của tên tiểu tử rất phức tạp, nhưng tại sao y không sử dụng kiếm pháp thượng thừa nữa?” chiêu kiếm này nửa công nửa thủ, phần hiểm hóc nằm ở phía sau, Hách Đạt Tam chưa biết nguồn cơn, không dám tiến tới, thế là vẫy đầu đao lập tức rút lại. Tuy là như thế, cây trường kiếm của Giang Nam bị cây kim đao đánh trúng suýt nữa đã vuột khỏi tay!

May mà trong kiếm pháp quyền thuật có một chiêu tên gọi Túy bát tiên, trước đây Giang Nam đã thấy Tiêu Thanh Phong sử dụng, chàng cảm thấy thú vị cho nên cũng học thêm vài chiêu, lúc này chàng bị kim đao Hách Đạt Tam đánh cho chấn động, bộ tấn không vững nữa, thừa thế lắc lư sử dụng một chiêu Tùy phong bài liễu, tay chân thì múa may trông giống như một gã say. Hách Đạt Tam không dám tiến tới, những người xung quanh thấy Giang Nam tuổi còn trẻ mà trong khoảnh khắc đã sử dụng nhiều loại kiếm pháp khác nhau đều không khỏi kinh ngạc, không ai nhận ra sơ hở.

Hách Đạt Tam biết công lực của chàng không cao, cho nên cũng bớt e dè kiếm pháp của chàng, thế là cứ đánh hết đao này tới đao khác, kiếm pháp của Giang Nam chỉ có cái vỏ bên ngoài, không dọa được kẻ địch trái lại bản thân lại hoảng lên, Hách Đạt Tam vung đao chém tới, chàng nào dám tiếp đỡ, chỉ đành không ngừng thối lui ra sau, lòng oán trách Kim Thế Di: “Ngươi đang đùa gì thế? Ta đang lo mà ngươi chẳng giúp ta?”

Một hồi sau, Hách Đạt Tam nhận ra kiếm pháp của Giang Nam chỉ được cái vỏ bên ngoài thế là càng yên bụng, cây kim đao vẽ ra một hình vòng cung đột nhiên cuộn Giang Nam vào trong vòng đao quang, ánh vàng lấp lánh, khí lạnh căm căm, Giang Nam kinh hoàng bạt vía, lòng thầm kêu: “Mạng ta đã xong!” đột nhiên chàng thấy Hách Đạt Tam nhô vai, hắt hơi một tiếng, mũi đao lệch qua người Giang Nam.

Giang Nam cả mừng, quát: “Trúng!” chàng đâm soạt ra một tiếng, xuyên thẳng vào cánh tay của Hách Đạt Tam, Hách Đạt Tam đau đến nỗi đành ném kim đao nhận thua. Trận này Giang Nam đã đánh bại Hách Đạt Tam trước mặt mọi người.

Trâu Giáng Hà cười hớn hở, Trịnh Càn Nguyên thì lớn giọng khen hay, vợ chồng Dương Liễu Thanh rất kinh ngạc, bọn Hách Đạt Tam thì co đầu rút cổ, chẳng ai dám khiêu chiến với Giang Nam nữa.

Võ công của Hách Đạt Tam thật ra cao hơn Giang Nam mười lần, nhưng tại sao lại chuyển thắng thành bại? Số là khi sắp bổ xuống đao ấy, trong mũi đột nhiên tựa như có một con sâu nhỏ chui vào, y ngứa ngáy khó chịu, bất đồ hắt hơi một cái, mũi đao lệch qua mấy tấc, thế là bị Giang Nam đâm trúng. Hách Đạt Tam cũng nghĩ mình bị người ám toán, nhưng dẫu sao y cũng là nhân vật thuộc hàng số một trong lục lâm Sơn Đông, bị người ta ám toán mà chẳng hề phát hiện ra là chuyện càng mất mặt hơn. Huống chi trước mặt nhiều người bị người ta đâm trúng, lại bảo là bị ám toán thì ai tin? Bởi vậy Hách Đạt Tam chỉ đành ngậm bồ hòn làm ngọt, chẳng dám nói nửa câu.

Hách Đạt Tam liếc nhìn Tàng Linh thượng nhân. Tàng Linh thượng nhân chẳng hề có ý ra tay, trái lại khuyên Hách Hạo Xương: “Mai Nhược đại sư, theo lão nạp thấy, chúng ta cứ dừng trận tỉ võ này ở đây?”

Hách Hạo Xương nói: “Chả lẽ chúng ta sợ tên tiểu từ miệng còn hôi sữa này sao? Hừ, thật là buồn cười!” Tàng Linh thượng nhân nói: “Không phải là sợ y, tôi thấy sư huynh của ông có lẽ đã chết ở Băng Xuyên, chẳng liên quan gì đến người khác.”

Hách Hạo Xương nói: “Dù rằng như thế, nhưng việc đã đến nước này cũng khó mà ngừng lại, nếu ngừng lại trên giang hồ sẽ bảo chúng ta bị tên tiểu tử này đánh bại.”

Tàng Linh thượng nhân tỏ vẻ ái ngại, xua tay nói: “Thôi được, nếu ông muốn thử thì cứ việc, nhưng phải cẩn thận!”

Hách Hạo Xương giận lắm, y đã mời Tàng Linh thượng nhân đến là để có chỗ dựa, nào ngờ Tàng Linh thượng nhân lại khuyên y thu binh, vả lại trong lời lẽ hình như còn lo y bị Giang Nam đánh bại, Hách Hạo Xương không thể chịu đựng được nữa, y nhảy vọt ra lớn giọng nói: “Nào, nào, ta tỉ thí với ngươi trận cuối cùng, nếu ta thua ngươi thì không những sẽ dừng lại chuyện này mà từ nay trên giang hồ không còn tên ta nữa.”

Giang Nam thấy y gầm thét như sấm dậy, trong lòng buồn cười nhưng tất cả những người có mặt đều thất kinh, số là Hách Hạo Xương có ý lòe võ công, cho nên khi y bước tới, mỗi bước đều để lại một dấu chân, Dương Liễu Thanh vốn là kẻ kiêu ngạo nhưng cũng không khỏi tặc lưỡi, hơn mười nhân vật võ lâm mà bà ta mời tới càng tự thấy không bằng, lúc nãy có người còn muốn bước ra giúp Giang Nam nhưng lúc này thì không dám nữa.

Giang Nam vẫn hờ hững, cười toe toét với Hách Hạo Xương: “Lão hòa thượng, ông tỉ thí thứ gì? Ông cứ việc đưa ra Giang Nam này sẽ chiều theo.”

Hách Hạo Xương thấy chàng tựa như chẳng hề lo sợ trái lại y run sợ trong lòng. Võ công của Giang Nam tuy rất kém cỏi, nhưng hay ở chỗ là hư hư thực thực, rất khó phân minh. Nếu bảo võ công của chàng không cao thì làm sao chàng có thể sử dụng công phu điểm huyệt, Băng xuyên kiếm pháp, Cầm nã tán thủ, dù cho một người có kinh nghiệm như Hách Hạo Xương cũng không thể đoán được hư thực. Y cũng không thể tin rằng Giang Nam đã học được loại công phu Lăng không điểm huyệt đã thất truyền từ lâu!

Hách Đạt Tam thấy Hách Hạo Xương cũng bại một cách không rõ ràng trong tay Giang Nam thì vừa kinh vừa giận, vội vàng chạy tới ứng cứu. Huyệt Tiếu yêu không phải là đại huyệt trong cơ thể con người, vốn rất dễ dàng giải khai. Nào ngờ Hách Đạt Tam điểm vào huyệt đạo tương ứng thì Hách Hạo Xương càng cười to hơn đến nỗi nước mắt nước mũi chảy ròng ròng. Vả lại còn nhảy nhót kêu la, Hách Đạt Tam muốn ôm y, bị y tiện tay tát cho một bạt tai, nửa bên mặt sưng kêu lên, văng ra đến hơn cả trượng, vất vả lắm mới bò dậy được nổi.

Giang Nam vừa nhìn lại thì biết đó là Kim Thế Di đã ra tay, thế rồi chàng cười hì hì bước tới chỉ Hách Hạo Xương nói:

“Ngươi nhảy ra khỏi vòng là ngươi đã chịu thua. ngươi có phục hay chưa?”

Bề ngoài của Hách Hạo Xương tựa như điên cuồng nhưng thực sự trong lòng rất tỉnh táo.

Y toan tận khí giải huyệt nhưng không xong, biết rằng mình bị người ta kiềm chế bằng thủ pháp điểm huyệt độc môn, nếu không được giải thì sẽ cười cho đến đứt hơi mà chết, chỉ đành gật đầu.

Giang Nam cười hì hì nói: “Nếu người đã nhận thua thì ta tha cho ngươi.” Rồi tiện tay cầm một chiếc đũa bước tôi sau lưng điểm nhẹ vào sau ót của y, Hách tạo Xương mới ngừng cười thở phì phà.

Cảnh ấy càng khiến cho quần hùng kinh ngạc, ai nấy đều thầm nhủ: “Té ra tên tiểu tử này biết công phu Lăng không điểm huyệt, không ai có thể giải được huyệt đạo y đã điểm!”

Ngay lúc này, Hách Hạo Xương đã thở được, đột nhiên y gầm lớn vỗ bàn quát: “Tên khốn kiếp nào đã ám toán ta, bước ra đây!” Y càng mắng càng tức, thế là xoay người lấy binh khí phóng thẳng tới Giang Nam.

Bọn Trâu Tích Cửu, Trịnh Càn Nguyên, Lôi âm hòa thượng đều nổi giận, đứng chặn trước mặt Ciang Nam quát: “Ngươi đã nhận thua mà còn làm dữ?”

Phía bên Hách Đạt Tam cũng có người kêu: “Mai Nhược đại sư, không được, không được!”

Khi mọi người đang kêu lên, Khi mọi người đang kêu lên, Hách Hạo Xương lại gầm một tiếng, phóng món binh khí ra, nhưng món binh khí ấy không phải bay về phía Giang Nam mà bay lên mái nhà, ầm một tiếng mái nhà thủng một lỗ lớn.

Té ra Hách Hạo Xương đã biết kẻ ám toán y không phải là Giang Nam mà là người khác, y không phải trúng công phu Lăng không điểm huyệt mà là bị một món ám khí rất nhỏ bé đâm vào huyệt đạo. Y đoán rằng kẻ đã ám toán mình đang nằm phục trên mái nhà. Mái nhà bị thủng. ngói vụn lơi xuống như mưa, đột nhiên có một vật rơi đúng vào tay Giang Nam.

Người trên mái nhà phát ra một tiếng hú dài tựa như hổ rống rồng gầm, mọi người đều nghe ong ong trong tai, Giang Nam lạc giọng kêu: “Kim Thế Di! Kim đại hiệp!”

Rồi chàng toan phóng vọt lên mái nhà, nhưng Hách Hạo Xương càng nhanh hơn, y phóng người lên chui tọt ra khỏi mái nhà, đuổi theo kẻ đã ám toán mình. Nhưng y vừa mới phóng lên thì mọi người lại nghe một tiếng kêu thảm thiết vang lên...

Chỉ thấy Hách Hạo Xương tựa như đã bị một vật gì rất nặng giáng xuống đầu, từ trên không trung y rơi bịch xuống, máu tuôn ra nằm yên chẳng nhúc nhích. Tàng Linh thượng nhân chợt kêu lên: “Độc thủ phong cái, ngươi có muốn gặp mặt ta không?”

Y hành động rất nhanh, mọi người chỉ cảm thấy trước mặt như hiện ra một đám mây đỏ, chỉ trong chớp mắt y đã chui tọt ra khỏi cái lỗ.

Tất cả những sự việc đều diễn ra trong chớp mắt, ai nấy đều há mồm trợn mắt ngẩn người ra. Giang Nam kêu: “Kim đại hiệp, công tử nhà tôi rất nhớ người, Giang Nam còn nhớ người hơn cả công tử, người đợi tôi với!” Rồi mặc cả nguy hiểm, chàng cũng phóng tọt người qua cái lỗ.

Ngay lúc này chỉ nghe Kim Thế Di lớn giọng ngâm rằng: “Đời người có sống được mấy phen? Ích chi mà để lại kiếp thừa? Muốn lên trời xanh hái sao sáng, Đạp bằng sóng dữ nơi biển Đông!” đó là mấy câu thơ Kim Thế Di để lại trên núi Hy Mã Lạp Nhã trước khi mất tích, Giang Nam đã từng nghe Trần Thiên Vũ đọc. Khi Kim Thế Di mới ngâm lên thì nghe như bên tai, đến câu cuối cùng thì nghe lúc được lúc mất, âm thành tựa nhuận ở cách đó mấy dặm.

Giang Nam đứng trên mái nhà nhìn chỉ thấy sao trời lấp lánh, vầng trăng sáng ngời treo trên bầu trời, ở phía xa có một chiếc bóng đỏ, đó là chiếc áo cà sa màu đỏ của Tàng Linh thượng nhân, còn Kim Thế Di thì đã sớm mất dạng, trong khoảnh khắc mảng bóng đỏ ấy đã bị gió thổi đi như áng mây nhẹ.

Giang Nam biết mình không thể nào đuổi theo Kim Thế Di, trong lòng rất ái ngại, chợt nghe phía sau có tiếng nói rất dịu dàng: “Giang Nam ca ca, đêm nay huynh thật là vất vả!”

Giang Nam quay đầu lạ nhìn, té ra Trâu Giáng Hà và Dương Liễu Thanh đã nhảy lên mái nhà. Đêm nay Giang Nam đánh thắng liền mấy trận, trong bụng rất sung sướng, chàng vốn đã chuẩn bị rất nhiều lời để nói với Trâu Giáng Hà nhưng lúc này vì không gặp Kim Thế Di nên chàng trở nên buồn bã, chẳng hề nói nửa câu với mẹ con Dương Liễu Thanh.

Trâu Giáng Hà cười nói: “Giang Nam, huynh đã trở thành bình hồ lô đóng chặt miệng từ lúc nào thế?”

Dương Liễu Thanh bước tới vỗ vai chàng, khen rằng: “Mấy năm không gặp, võ công của ngươi đã tiến bộ rất nhiều!”

Giang Nam ngượng ngùng nói: “Giáng Hà, không dám dấu gì muội, không phải huynh đã đánh thắng, chính Kim Thế Di đã âm thầm giúp huynh.”

Trâu Giáng Hà cười nói: “Tên quái vật Kim Thế Di giúp đỡ huynh, đúng là chuyện không ngờ. Nhưng dù như thế võ công của huynh quả thật đã tiến bộ hơn trước nhiều.”

Giang Nam được nàng khen thì lòng cảm thấy được an ủi, nhưng lại biện hộ cho Kim Thế Di: “Không, y không phải là quái vật, y rất tốt.”

Trâu Giáng Hà hỏi: “Lúc nãy y đưa cho huynh vật gì thế?”

Giang Nam mới nhớ Kim Thế Di đã ném cho mình một cái bình bạc, chàng vội vàng mở ra xem, chỉ thấy trong bình có ba viên thuốc màu xanh lục, Dương Liễu Thanh chợt kêu lên: “Ồ, đây chính là Bích linh đơn của phái Thiên Sơn, loại linh đơn này có thể giải bách độc, giúp gia tăng công lực. Lẽ nào Kim Thế Di đã lên Thiên Sơn đánh cắp? Y tặng cho ngươi ba viên Bích linh đơn, mối giao tình này không đơn giản tí nào! Ngươi thật là may mắn!”

Đó chính là: “May mắn được tặng bích linh đơn, bóng người đã xa trong chớp mắt.”
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Vân Hải Ngọc Cung Duyên - Lương Vũ Sinh

Postby tuvi » 05 Feb 2023

Hồi Thứ Tư
Gió bụi kỳ văn truyền hậu thế...Võ lâm bí sự động hùng tâm

Giang Nam mừng rỡ kêu lên: “Có đúng là Bích linh đơn không?” Dương Liễu Thanh cười nói: “Chả lẽ ta gạt ngươi, hãy mau uống vào, ba viên Bích linh đơn ít nhất cũng có được ba năm công lực! ”

Giang Nam huơ chân múa tay, cười nói: “Ngày mai tôi không cần lên đường nữa! ”

Trâu Giáng Hà ngạc nhiên, hỏi: “Lên đường làm gì? Ồ, té ra huynh đến đây rồi lập tức sẽ ra đi? Mấy năm không gặp mà huynh chỉ ở lại được hai ngày?”

Giang Nam nói: “Muội còn nóng tính hơn cả huynh, muội vẫn chưa hỏi rõ, ta chỉ nói một câu mà muội đã trách ta.” Trâu Giáng Hà bĩu môi nói: “Được, vậy tôi hỏi huynh, huynh sắp phải đi đâu?”

Giang Nam nói: “Đi xin Đường Kinh Thiên một đóa Thiên Sơn tuyết liên.”

Trâu Giáng Hà cười nói: “Huynh nghĩ thật hay ho. Đường ca ca tuy khẳng khái nhưng cũng không tùy tiện cho huynh một đóa Thiên Sơn tuyết liên. Thôi được, nay đã có ba viên Bích linh đơn thì không cần phải đi xin tuyết liên nữa, hãy mau uống vào.”

Giang Nam nói: “Không, tôi phải mang về cho đại tẩu của tôi.”

Trâu Giáng Hà nói: “Huynh có đại tẩu từ khi nào?”

Giang Nam nói: “Tôi gọi công tử của tôi là đại ca, vợ của y chẳng phải là đại tẩu của tôi hay sao?”

Trâu Giáng Hà nói: “Ồ, tôi nhớ ra rồi, công tử nhà huynh là người họ Trần, có phải là Trần Thiên Vũ không?”

Giang Nam nói: “Đúng thế, chúng tôi đã kết bái làm huynh đệ.”

Trâu Giáng Hà nói: "Ồ, té ra là huynh muốn lấy lòng nghĩa huynh với nghĩa tẩu, nhưng cũng đâu cần dùng loại linh đơn diệu dược hiếm có như thế này!”

Giang Nam nói: “Tôi không thể không đem về! Nếu không có Thiên Sơn tuyết liên đại tẩu sẽ mất mạng!”

Dương Liễu Thanh thấy họ càng nói càng rối, cười rằng: “Giang Nam, ngươi cứ từ từ mà nói, Hà nhi con đừng cắt lời.”

Giang Nam nói cả một hồi thì mọi việc mới rõ. Lúc này Trâu Giáng Hà mới biết vợ của Trần Thiên Vũ bị trúng độc tiễn cho nên Giang Nam mới đi xin Thiên Sơn tuyết liên, trong lòng hơi tiếc cho chàng nhưng càng bội phục nghĩa khí của chàng, vì thế mới cười nói: “Vậy huynh không thể uống ba viên linh đơn này được. Võ công còn có thể luyện được. Lúc trước cha của Đường Kinh Thiên là Đường Hiểu Lan là đệ tử của ông ngoại tôi, nay võ công của nhà họ Dương chúng tôi tuy không bằng phái Thiên Sơn nhưng nội công thì hơn họ.”

Dương Liễu Thanh cười nói: “Hà nhi, con đừng nói bừa, bản lĩnh của Giang Nam hơn con rất nhiều, con định muốn nhận hắn làm đồ đệ?”

Nhưng Giang Nam lại vái Trâu Giáng Hà một cái rồi nói: “Sư phụ” rồi quay sang Dương Liễu Thanh nói: “Tiểu diệt không học được công phu căn cơ, nếu được dạy từ đầu thì tốt còn gì bằng!”

Trâu Giáng Hà mỉm cười né tránh đại lễ của chàng, dưới ánh trăng chỉ thấy đôi gò má nàng hơi ửng hồng. Trâu Tích Cửu bước ra sân, ngửa đầu kêu: “Này, các người đứng trên đó làm gì? Hãy mau xuống tiễn khách.”

Dương Liễu Thanh cười nói: “Giang Nam, đêm nay ngươi trấn áp quần hùng, họ đều muốn gặp ngươi, ta sẽ dẫn kiến cho ngươi.”

Giang Nam nói: “Không, tôi không xuống.” Dương Liễu Thanh nói: "Sao, có gì e ngại ư?”

Giang Nam nói: “Không, đêm nay người đánh bại kẻ địch không phải là tiểu diệt, tiểu diệt làm sao có thể xuống nghe họ khen ngợi được!”

Dương Liễu Thanh cười nói: “Đừng như trẻ con nữa.”

Giang Nam lắc đầu quầy quậy: “Không, tiểu diệt phải tìm Kim Thế Di.”

Dương Liễu Thanh nói: “Y lai vô ảnh khứ vô hình, biết tìm ở đâu?”

Giang Nam nói: “Cô cô không biết tánh tình của Kim Thế Di, y biết tiểu điệt thật lòng tìm thì sẽ tự âm thầm đến tìm tiểu diệt.”

Trâu Giáng Hà nói: “Được, muội cũng theo huynh!”

Dương Liễu Thanh lắc đầu, nói: “Hai đứa trẻ này thật ngang bướng, giống lúc ta còn trẻ. Thôi được, dù sao trời cũng đã sắp sáng, sau khi trời sáng mà các con vẫn chưa tìm được tên ăn mày điên rồ ấy thì hãy mau quay về! "

Giang Nam tuy nói có vẻ tự tin nhưng thực sự trong lòng cũng không nắm chắc lắm, chàng và Trâu Giáng Hà ra ngọn núi phía sau, kêu lớn một hồi vẫn không nghe tiếng trả lời, Giang Nam dần nhụt chí, Trâu Giáng Hà cười nói: “Kim Thế Di đã đi xa, có lẽ y không nghe được huynh.”

“Nói không chừng y đang đi sau lưng của tôi. Y chắc chắn sẽ nghe tôi gọi.”

“Nếu y đi sau lưng của huynh, huynh không cần kêu y cũng biết.”

Giang Nam nghe Trâu Giáng Hà nói thế cũng có lý, lòng thầm nhủ: “Có lẽ nào Kim Thế Di đã thực sự đi xa.”

Kim Thế Di không đi xa, nhưng chàng cũng không nghe tiếng Giang Nam gọi.

Lúc đó chàng đang đứng trên ngọn núi cao nhất ở sau hồ Đông Bình buông tiếng hú dài! Giang Nam công lực rất kém, tiếng kêu không vọng tới được ngọn núi ấy nhưng tiếng hú của Kim Thế Di thì đã truyền xuống bên dưới, đáng tiếc gió thổi ào ạt, Giang Nam không thể nghe được.

Kim Thế Di âm thầm trợ giúp Giang Nam, bỡn cợt bọn Hách Hạo Xương một hồi, trong lòng rất sung sướng, mà điều đắc ý nhất là chàng đã cho Giang Nam ba viên Bích linh đơn. Năm xưa Đường Kinh Thiên đã nhờ Băng Xuyên thiên nữ giữ lại cho chàng ba viên linh đơn này. Mấy năm nay chàng vốn định trả ba viên linh đơn cho Đường Kinh Thiên, nhưng chàng sợ gặp Băng Xuyên thiên nữ, bởi vì chàng tự nhận Băng Xuyên thiên nữ là tri kỷ duy nhất trong đời mình, mà nay nàng đã lấy Đường Kinh Thiên.

Lúc nãy chàng trao ba viên linh đơn cho Giang Nam, chàng biết Giang Nam muốn lên Thiên Sơn lấy tuyết liên để cửu U Bình, lòng thầm nhủ: "Ta dùng linh đơn của ngươi cứu bằng hữu của ngươi, ha ha, Đường Kinh Thiên ơi Đường Kinh Thiên, coi như ta không nhận ân huệ của ngươi!”

Một chuyện nữa khiến cho chàng thích thú đó là chàng đã giúp Giang Nam nổi tiếng, lấy được lòng của Trâu Giáng Hà. Thế nhưng trong lòng chàng vẫn có chút bùi ngùi! Đường Kinh Thiên có Băng Xuyên thiên nữ, Trần Thiên Vũ có U Bình. Cả Giang Nam cũng có Trâu Giáng Hà. Còn bản thân chàng? Đến nay chàng vẫn độc lai độc vãng, tìm tri kỷ trong biển người mênh mông! Trong khoảnh khắc ấy hình bóng của Lý Tâm Mai cũng lướt qua trong đầu chàng, chàng biết Lý Tâm Mai đang tìm mình, chàng xem Lý Tâm Mai như áng mây bồng bềnh trên trời cao, còn mình là biển rộng với sóng lớn thét gào. Chàng lớn lên ở hải đảo, biển rộng vô tận, biển và trời nối liền một dải. Chỉ có ở nơi biển và trời liền nhau, mây trắng mới bắt được sóng biếc, tựa như gấm vóc phủ lên mặt biển. Biển cả và mây trời có hai tính cách khác nhau, mây như động nhưng thực sự là tĩnh, còn biển cả, khi bề mặt tĩnh lặng, tâm trạng của nó cũng dạt dào, mây đơn thuần mà biển phức tạp, mây tuy thường kiên nhẫn lắng nghe biển gào thét, nhưng nàng có thể hiểu được bí mật của biển không? Có hiểu được tâm trạng của biển không?

Lý Tâm Mai lớn lên trong tình yêu thương của cha mẹ, nàng chưa bao giờ thấy bộ mặt xấu xa của cõi đời này, cũng chưa từng nếm trải đắng cay của cuộc đời, nàng vẫn là một thiếu nữ vô tư , còn Kim Thế Di?

Tuy Kim Thế Di chỉ lớn hơn nàng năm sáu tuổi, nhưng chàng đã trải qua biển lớn cuộc đời. Chàng cảm kích sự quan tâm của Lý Tâm Mai đối với mình, nhưng chính vì thương hại nàng cho nên chàng mới tránh nàng.

Bởi vì chàng chấp nhận sống cuộc đời phiêu bạt trên giang hồ, tựa như sóng lớn không ngừng dập dềnh trên biển cả. Nếu để Lý Tâm Mai phải sống với chàng như thế, chàng cảm thấy đó là một tội lỗi.

Sắc trời dần dần sáng, sương mù ôm núi, mây trắng vờn quanh, Kim Thế Di đứng một mình trên ngọn núi cao tựa như một hòn đảo giữa muôn trùng biển khơi, chàng phát ra tiếng hú dài, mây trên đầu chàng vỡ ra như kinh hoảng trước tiếng hú của chàng.

Trong sương mù nhẹ bay chợt xuất hiện có một bóng đỏ, đó chính là tấm áo cà sa màu đỏ của Tàng Linh thượng nhân. Kim Thế Di thâu nhiếp tinh thần, chỉ trong khoảnh khắc Tàng Linh thượng nhân đã đến trước mặt chàng.

Kim Thế Di cười ha hả, Tàng Linh thượng nhân cũng lao về phía Kim Thế Di rồi buông giọng cả cười.

Kim Thế Di nện cây gậy sắt xuống đất, lạnh lùng hỏi: “Ngươi cười gì?”

Tàng Linh thượng nhân nói: “Ngươi cười gì?”

Kim Thế Di nói: “Ta cười lúc nãy ngươi không dám động thủ với ta nhưng nay lại đuổi theo, có phải ngươi sợ thất bại trước mặt nhiều người hay không?”

Tàng Linh thượng nhân nói: “Ta cười ngươi sắp gặp phải họa lớn mà không biết?”

Kim Thế Di nói: “Ta chỉ biết người là đệ nhất của Mật Tông Tây Tạng, té ra ngươi còn là một kẻ xem bói nữa!”

Tàng Linh thượng nhân nói: “Mạng của ngươi cần gì phải bói, ngươi chắc chắn đã gặp họa sát thân, ai bảo ngươi có di thư của Độc Long tôn giả? Ngươi lộ điện chỉ e ác ma đòi mạng sẽ theo ngươi!”

Kim Thế Di cười lạnh: “Có phải ngươi muốn lấy mạng ta không? Hay lắm, hay lắm! Ta đã chán sống lắm, ngươi hãy đến thử xem sao.”

Tàng Linh thượng nhân nói: “Ta không phải ác ma, ta chỉ là người giúp ngươi giải nạn, không những có thể khiến người chuyển rủi thành lành mà còn giúp ngươi trở thành tông sư của một phái, cho nên muốn được họa hay phúc thì phải xem ngươi.”

Kim Thế Đi đã đoán trước y sẽ nói những lời gì, nào ngờ y lại nói ra những lờikỳ dị như thế, chàng chỉ đoán được một nửa.

Kim Thế Di biết mấy năm nay, những ma đầu lợi hại trong tà phái đang âm thầm đi tìm mình. Sự phân biệt giữa chính và tà đương nhiên dựa vào hành vi mà phán đoán, mà về cách tu tập nội công, đường lối giữa hai bên cũng rất khác nhau. Nội công của chính phái coi trọng thuần chính hòa bình, nội công càng sâu thì càng có ích đối với bản thân. Nội công của tà phái coi trọng hung tàn mãnh liệt, cái gọi là tàn có nghĩa là có thể khiến cho người ta tàn phế; cái gọi là liệt là có thể âm thầm đả thương người ta, tựa như ma quỷ nhập hồn không thể nào giải thoát được. Cho nên nội công của tà phái dễ luyện hơn nội công của chính phái, nhưng nội công càng cao thì càng có hại đối với bản thân, tẩu hỏa nhập ma cũng là một trong những hiện tượng này.

Kim Thế Di vốn luyện loại nội công thuộc tà phái, may mà khi chàng tẩu hỏa nhập ma đã được Đường Hiểu Lan dùng nội công chính phái của phái Thiên Sơn giải cứu, lại còn cho chàng uống năm viên Bích linh đơn, lúc đó chàng đang ngất xỉu ở dưới chân núi Chu Mục Lang Ma, sau khi tỉnh đậy tuy đã biết là Đường Hiểu Lan cứu mình nhưng không biết ông ta đã cho mình uống năm viên Bích linh đơn cho nên mấy năm vừa qua chàng hoàn toàn không có hiện tượng tẩu hỏa nhập ma, vả lại cảm thấy nội công càng lúc càng tinh thuần, cả chàng cũng hơi ngạc nhiên.

Còn các ma đầu tà phái thì lại không biết, bọn chúng nghe đồn Độc Long tôn giả đã để lại cho Kim Thế Di một quyển Độc long bí kíp, loại võ công trong bí kíp này có thể giúp cho chàng không bị tẩu hỏa nhập ma, bọn họ truy tìm Kim Thế Di là để lấy Độc long bí kíp. Nào ngờ Độc Long tôn giả cũng chết bởi tẩu hỏa nhập ma, võ công trong Độc long bí kíp tuy lợi hại nhưng cũng không có cách nào giúp ông ta tránh khỏi tẩu hỏa nhập ma.

Kim Thế Di biết Tàng Linh thượng nhân là một trong những ma đầu đang đuổi theo mình, nhưng không ngờ Tàng Linh thượng nhân lại bảo giúp chàng. Điều đó khiến cho chàng kinh ngạc.

Tàng Linh thượng nhân nhìn chàng rồi nói: “Ngươi không tin sao? Ta hỏi ngươi, từ xưa đến nay, người không phải xuất thân từ chính phái mà luyện được võ công đến mức cao nhất là ai?”

Kim Thế Di buông giọng cả cười, Tàng Linh thượng nhân nói: “Ta biết ngươi đang cười điều gì, ngươi tưởng rằng ta muốn nói đến Độc Long tôn giả sư phụ của ngươi? Nếu đó là sư phụ của ngươi, ngươi đương nhiên không cần ta giúp đỡ.” Kim Thế Di hừ một tiếng rồi ngạo mạn nói: “Không phải sư phụ của ta thì là ai?”

Tàng Linh thượng nhân nói: “Tôn sư võ công tuy lợi hại, nhưng nhiều nhất là chỉ có thể tránh được cái họa do luyện nội công tà phái. Ông ta có thể dung hợp nội công của hai phái chính tà, luyện thành một loại nội công không phải chính cũng chẳng phải tà, lại vượt hơn hẳn hai phái tà chính hay không?”

Kim Thế Di cười lạnh nói: “Nếu luyện đến cảnh giới đó thì đã đến mức siêu phàm nhập thánh, hơn hẳn các bậc tôn sư võ học từ xưa đến nay!”

Tàng Linh thượng nhân nói: “Đúng thế, ta chính là muốn ngươi trở thành một bậc đại tôn sư như thế! Ta quen biết một người, ngươi có muốn cùng ta bái y làm sư phụ không?”

Kim Thế Di cười lạnh nói: “Ta và ngươi hẹn y tỉ thí, nếu y chịu nổi ba trăm gậy của ta ta sẽ cam lòng bái y làm sư phụ!”

Tàng Linh thượng nhân nói: “Ngươi muốn đánh y ba trăm gậy? Đáng tiếc y đã chết gần ba trăm năm nay!”

Kim Thế Di tức giận nói: “Ngươi lặn lội đường xa từ Tây Tạng đến đây chỉ muốn đùa như thế thôi sao?”

Tàng Linh thượng nhân nói: “Không, không phải là chuyện đùa. Ngươi có từng nghe cái tên Kiều Bắc Minh chưa? Y là người sống vào thời Thành Hóa triều Minh, là lãnh tụ của tà phái đương thời, cả sư phụ của thủy tổ phái Thiên Sơn là Hoắc Thiên Đô cũng từng bại dưới tay y, hành tung của y rất kỳ dị. Tuy thời gian đã khá dài nhưng đến nay vẫn còn lưu truyền!”

Kim Thế Di nói: “Lúc đó y đối chọi với học trò của đại hiệp Trương Đan Phong, từng gây ra cơn sóng gió, sau này bị chính phái võ lâm vây đánh, cuối cùng chết dưới kiếm của Trương Đan Phong. Hoắc Thiên Đô là người khai sáng ra kiếm thuật phái Thiên Sơn, còn Hối Minh thiền sư mới chính thức khai tông lập phái. Võ công của Kiều Bắc Minh đã sớm thất truyền. Ngươi muốn bái một người chết làm thầy? Nói thực, dù Kiều Bắc Minh có sống lại ta cũng không phục y!”

Tàng Linh thượng nhân nói: “Ngươi biết một mà không biết hai. Kiều Bắc Minh không hề chết dưới kiếm của Trương Đan Phong, ông ta chỉ bị trọng thương sau đó chạy đến một đảo nhỏ ở miền Đông Hải. Mặc cho ngươi có phục y hay không, nhưng y đã dung hợp được võ công tuyệt thế của hai phái chính tà, đối với chúng ta, những kẻ không đi bằng đường chính rất có ích!”

“Những kẻ không đi bằng đường chính”mà Tàng Linh thượng nhân vừa mới nói chính là những người trong tà phái,

Kim Thế Di nghe thế thì giật mình, nén không được hỏi: “Tại sao ngươi biết tiếp đó ông ta chạy đến hải đảo? Chuyện này đã xảy ra ba trăm năm trước, sao ngươi lại dám nói chắc chắn như thế?”

Tàng Linh thượng nhân nói: “Sau này có một hải khách gặp sóng gió trên biển, trôi dạt đến hải đảo ấy, lúc đó Kiều Bắc Minh đã quá trăm tuổi, biết không còn sống được bao lâu nữa cho nên đã làm một cỗ quan tài bằng gỗ dày, trong quan tài có chứa hương liệu tốt nhất để thân xác không bị thối rữa, ngươi có biết tại sao ông ta lại coi trọng thân xác của mình không?”

Kim Thế Di nói: “Bởi vì ông ta sống ở hoang đảo quá lâu cho nên một lòng mong muốn trở về cố hương.”

Đó là bởi vì từ nhỏ sống với Độc Long tôn giả ở Xà đảo, chàng mới hiểu được tâm trạng này. Tàng Linh thượng nhân nói: “Đúng thế, khi còn sống, ông ta không thể trở về trung thổ, sau khi chết cũng mong muốn có thể trở về. Lúc đó ông đã hợp nhất nội công của hai phái chính tà, tin rằng từ xưa đến nay không ai bì nổi, nhưng đáng tiếc không có truyền nhân. Mà tuổi thọ của ông ta lại có hạn, lúc đó đã quá già yếu, biết rằng không thể nào vượt biển trở về. Vì thế đã phát lời thề rằng ai có thể đưa quan tài ông trở về Trung Nguyên chôn cất thì coi như đó là đệ tử cách thế của ông ta, lấy được võ công tuyệt thế của ông ta. Đáng tiếc người hải khách ấy là thương nhân, chẳng hiểu gì về võ công, cũng chẳng có ý học võ. Nhưng ông ta đã sống cùng Kiều Bắc Minh trên hải đảo ba tháng trời, nghe Kiều Bắc Minh kể lại nhiều chuyện lạ trong võ lâm, lại còn bảo đã giải quyết xong những vấn đề khó khăn trong võ học. Người hải khách nghe ông ta thao thao bất tuyệt nhớ được rất nhiều lời của ông ta, đương nhiên chỉ là nhớ mà thôi chứ không hiểu được sự ảo diệu trong đó.” Kim Thế Di càng nghe càng thấy li kỳ, nhìn vẻ mặt của y cũng không phải là giả.

Kim Thế Di nửa tin nửa ngờ, hỏi: “Sau này người hải khách ấy như thế nào?”

Tàng Linh thượng nhân nói: “Kiều Bắc Minh giúp y chặt cây kết bè, mùa xuân năm sau gió mùa nổi lên thì ông ta trở về trung thổ.” Kim Thế Di cười lạnh nói: “Ngươi bịa câu chuyện này thật hay, đáng tiếc đã lộ sơ hở.” Tàng Linh thượng nhân nói: “Sơ hở chỗ nào?” Kim Thế Di nói: “Người hải khách trở về nếu bị đắm giữa đường thì bí mật ấy sẽ nằm dưới đáy biển. Dù cho y may mắn có thể vượt biển trở về trung thổ, chắc chắn có thể tung tin ra, người trong võ lâm đương nhiên kẻo tới, có lẽ nào cho đến hơn ba trăm năm sau mà vẫn không ai biết?”

Tàng Linh thượng nhân nói: “Ngươi hỏi rất đúng, nhưng người hải khách ấy không trở về trung thổ mà trôi sang Ba Tư. Sau đó y cưới vợ sinh con, đời sau của y cũng trở thành người Ba Tư, không về Trung Quốc nữa.”

Kim Thế Di nói: “Nếu như thế tại sao ngươi lại biết?”

Tàng Linh thượng nhân nói: “Ba mươi năm trước, ta nhận được lời mời của quốc vương nước Nê Bách Nhĩ, lúc ta ở nước Nê Bách Nhĩ dã quen biết một võ sĩ Ba Tư, ta cùng y đã đến nước A Phú Hán, thuận đường ghé Ba Tư chơi một chuyến. Nhờ thế ta gặp được hậu nhân của người hải khách ấy, cả nhà y đã quên tiếng Trung Quốc, cả chữ Trung Quốc cũng chẳng biết.” Kim Thế Di nói: “Nếu y không biết nói tiếng Trung Quốc, nhưng tại sao có thể nhớ tổ tiên của mình đã từng trôi dạt ở một hoang đảo, gặp một kẻ tên Kiều Bắc Minh?”

Tàng Linh thượng nhân nói: “Người hải khách ấy đã ghi lại nhật ký hải hành, sau khi thoát khỏi hoang đảo đã ghi thêm vào nhật ký. Hậu nhân của người hải khách gặp ta, biết ta từ Trung Quốc đến thì rất vui mừng.”

Kim Thế Di nói: “Do đó y bảo tổ tiên của y cũng là người Trung Quốc, lại còn đưa quyến nhật ký hải hành của tổ tiên y cho ngươi xem?” Tàng Linh thượng nhân nói: “Ngươi đoán không sai tí nào, chính là như thế. Giờ thì ngươi đã tin chưa?” Kim Thế Di nói: “Tin ngươi thì thế nào?” “Kiều Bắc Minh đã hứa rằng, ai có thể đưa quan tài của y trở về trung thổ thì người ấy chính là đệ tử cách thế của y, nói như thế chắc chắn trong quan tài có bí mật, rất có thể y đã cất bí kíp trong quan tài. Nếu không sau khi y chết thì làm sao có thể truyền thụ cho đệ tử?”

Kim Thế Di cười lạnh nói: “Ngươi đã biết bí mật này tại sao không tự mình đi tìm mà lại muốn cùng hưởng với ta? Ta với ngươi đâu có giao tình gì?”

Tàng Linh thượng nhân nói: “Có ba nguyên nhân ta muốn đi cùng ngươi là bởi vì ta không biết đi biển, còn ngươi lại lớn lên trên Xà đảo ở miền Đông Hải; thứ hai ngươi cũng biết nội công của ta không phải tu luyện theo chính phái, giờ cũng đã nguy ngập, trong vòng ba năm lúc nào ta cũng có thể bị tẩu hỏa nhập ma. Ngươi có thể tránh được kiếp nạn tẩu hỏa nhập ma, chắc là đã biết được cách giải cửu trong di thư của lệnh sư, ta không dám mượn sách của ngươi, nhưng mong ngươi chỉ điểm cho ta vượt khỏi kiếp nạn này. Nếu không có thể ta chưa tìm được quan tài của Kiều Bắc Minh thì đã chui vào quan tài trước.”

Kim Thế Di nói: “Làm sao ngươi biết sư phụ đã để lại di thư cho ta?” Tàng Linh thượng nhân nói: “Thật không dám giấu, lúc còn sống Đổng Thái Thanh đã từng nói với ta.”

Kim Thế Di vỡ lẽ ra, cười rằng: “Té ra ngươi chịu đến giúp cho Hách Hạo Xương kỳ thực là muốn xem thử Đồng Thái Thanh đã chết hay chưa.”

Tàng Linh thượng nhân nói: “Nếu không phải vì chuyện này, chả lẽ ta lại đi bức hiếp một người đàn bà như Dương Liễu Thanh sao? Khi còn sống Đổng Thái Thanh đã bảo, y đi tìm một quyển sách của lệnh sư ở Xà đảo, sau đó mới kết giao với ngươi. Theo y nói, Độc long bí kíp là võ công do lệnh sư sáng tạo, mà quyển di thư ông ta trao lại cho ngươi lại có ghi cách phá giải tẩu hỏa nhập ma.”

Kim Thế Di cười thầm, té ra Đổng TháiThanh đến Xà đảo chỉ tìm được một quyển nhật ký của sư phụ chàng, trong đó có một trang quan trọng nhất là dự đoán núi lửa ở Xà đảo sẽ bùng nổ mười năm sau khi ông ta chết, đồng thời ghi lại cách tránh nạn này chứ chẳng phải võ công ảo diệu gì cả.

Còn quyển nhật ký này không phải là do Đổng Thái Thanh đích thân giao cho chàng mà bởi Phùng Lâm cướp được từ tay Đổng Thái Thanh, sau đó Phùng Lâm đưa cho Đường Hiểu Lan, Đường Hiểu Lan gặp Kim Thế Di ở Hy Mã Lạp Nhã mới trao cho chàng. Sở dĩ Đổng Thái Thanh nói dối như thế là muốn xúi giục các đại ma đầu ở tà phái đối đầu với chàng.

Kim Thế Di biết được đầu đuôi câu chuyện nhưng vẫn không vạch trần lời nói dối của Đổng Thái Thanh mà cười ha hả với Tàng Linh thượng nhân: “Té ra ngươi tính toán như thế, nếu Đổng Thái Thanh chưa chết, có lẽ ngươi sẽ tìm đến y.”

Tàng Linh thượng nhân cười ngượng ngùng: “Không, ta chỉ muốn hỏi thăm thử xem chuyện này có đúng hay không.”

Ngập ngừng rồi lại nói: “Kim Thế Di, ngươi cần gì phải đa nghi như thế? Cuộc giao dịch này đều có lợi cho đôi bên chúng ta, ngươi giúp ta phá giải mầm họa tẩu hỏa nhập ma, ta giúp ngươi tìm bí mật trong quan tài của Kiều Bắc Minh, nói không chừng vì thế mà ngươi sẽ trở thành một bậc võ học tôn sư xưa nay chẳng ai bằng!”

Kim Thế Di buông giọng cười rằng: “Đa tạ tấm thịnh tình, nhưng nói như thế ta được lợi hơn ngươi rất nhiều.”

Tàng Linh thượng nhân nói: “Chẳng phải sao?” Kim Thế Di nói: “Ngươi đã nói hai nguyên nhân, còn một nguyên nhân nữa?”

Tàng Linh thượng nhân nói: “Chúng ta liên thủ với nhau thì trên đời này có ai địch nổi? Đó là nguyên nhân thứ ba mà ta tìm đến ngươi.”

Kim Thế Di nói: “Té ra ngươi sợ có người biết phong thanh cho nên muốn ta giúp đỡ.”

Tàng Linh thượng nhân nói: “Ngươi đừng quên rằng, nay đang có vài đại ma đầu âm thầm truy đuổi ngươi, ngươi cần ta giúp đỡ hơn là ta cần ngươi giúp đỡ.”

Kim Thế Di lại cười ha hả, Tàng Linh thượng nhân nói: “Này, vậy ý ngươi thế nào?”

Kim Thế Di nói: “Người đã tốt với ta như thế, lẽ nào ta lại không chấp nhận? Được, bây giờ ta sẽ giúp ngươi trừ mầm họa tẩu hỏa nhập ma.”

Tàng Linh thượng nhân cả mừng, hỏi: “Ngươi có bí quyết gì truyền thụ?”

Kim Thế Di nói: “Không, ngươi hãy cúi xuống.”

Tàng Linh thượng nhân nói: “Cúi xuống làm gì?”

Kim Thế Di nói: “Ta sẽ đánh vào mông ngươi ba cái!”

Tàng Linh thượng nhân thộn mặt ra, đột nhiên cả giận, Kim Thế Di không đợi y lên tiếng đã cướp lời: “Tàng Linh thượng nhân, ngươi cần gì phải nghi ngờ? Võ công của sư phụ ta rất ảo diệu, đánh ba cái vào mông có thể khiến cho trăm huyệt của ngươi thông suốt, chân khí nghịch chuyển từ dưới lên trên, tất cả mầm họa trong người ngươi đều bị tiêu trừ!”

Tàng Linh thượng nhân nửa tin nửa ngờ: “Ngươi có đùa đấy không?” Kim Thế Di nói: “Nếu ngươi không tin thì thôi vậy.” Tàng Linh thượng nhân đành phải phục ở dưới đất, để cho chàng đánh ba cái vào mông.

Kim Thế Di giở gậy lên đập liên tục ba gậy vào mông của y, rồi đột nhiên chàng cười lớn: “Ta đang đùa với ngươi đấy!”

Tàng Linh thượng nhân nổi giận đùng đùng nhảy vọt lên, rút phắt đôi đồng bạt lên, hai cái bạt vỗ vào nhau đánh choang một tiếng, rồi lập tức giáng về phía Kim Thế Di bằng một chiêu Song phong quán nhĩ, Kim Thế Di hất hai cái đồng bạt ra kêu lên: “Ngươi chẳng phải muốn hợp tác cùng ta sao?”

Tàng Linh thượng nhân cả giận mắng: “Sao lại có lẽ này, ta có tấm lòng Bồ Tát mà người lại bỡn cợt ta.”

Kim Thế Di cười lạnh: “Nếu ngươi có tấm lòng Bồ Tát thì ta chính là Phật Tổ đại từ đại bi. Ta đánh ba cái vào mông của ngươi, không thừa cơ đánh chết ngươi thì đã đủ đại từ đại bi rồi chứ? Hừ, Kim Thế Di này độc lai độc vãng, cần gì phải hợp tác với nhà ngươi?”

Tàng Linh thượng nhân múa tít đôi đồng bạt đánh tới, Kim Thế Di thấy y đánh quá mạnh mẽ, chiêu số kỳ diệu thì cũng không dám khinh địch, sau khi chàng né được ba chiêu của y thì quát rằng: “Ta đánh ba cái vào mông của ngươi, nhường ngươi ba chiêu, nếu ngươi đánh nữa thì ta không lưu tình.”

Tàng Linh thượng nhân vỗ hai cái đồng bạt vào nhau phát ra tiếng kêu đinh tai nhức óc rồi lại giáng xuống đầu Kim Thế Di, Kim Thế Di nói: “Ngươi thật đáng ghét!”

Thế rồi chàng giở cây gậy sắt gõ xuống, chỉ nghe tiếng kim khí giao nhau vang lừng cả bốn bên, Tàng Linh thượng nhân lùi bước đột nhiên phóng vọt người lên, hai cái đồng bạt múa ra một cuộn hàn quang rộng đến cả trượng vuông bao trùm Kim Thế Di vào ở giữa, Kim Thế Di cười lạnh: “Ngươi thực sự muốn liều mạng với ta ư?”

Thế rồi chàng kéo cây gậy, rút ra một thanh thiết kiếm, tay phải cầm kiếm tay trái cầm gậy tấn công mạnh mẽ đến nỗi đất trời nghiêng ngả, chỉ trong chốc lát tiếng bạt của Tàng Linh thượng nhân dần dần nhỏ lại, ánh hàn quang cũng bị phá tản mát. Kim Thế Di chợt quát lớn một tiếng. cây gậy sắt vung lên. lại gõ xuống một chiêu Ngũ đỉnh khai sơn, một tiếng choang thật lớn vang lên, đôi đồng bạt của Tàng Linh thượng nhân vỡ ra làm tư, tai mắt mũi miệng đều đổ máu.

Tàng linh thượng nhân cũng thật ghê gớm, đã bị nội thương mà vẫn có thể cất bước chạy như bay, vừa chạy vừa mắng: “Kim Thế Di, nhà ngươi là tên quái vật không thông tình đạt lý, chết đến nơi mà vẫn không biết. Ta không cần trả thù, những kẻ đối địch của ngươi kéo tới thì ngươi có nước chết chắc!”

Kim Thế Di cười ha hả: “Ngươi hãy giữ hơi lại, đừng nổi giận, chỉ e ngươi phải đến gặp Diêm Vương trước.”

Tàng Linh thượng nhân quả nhiên không dám mắng nữa trong chớp mắt đã chạy mất dạng. Kim Thế Di cười rộ lên một hồi, đột nhiên nhớ lại bí mật mà Tàng Linh thượng nhân vừa mới nói, tim đập thình thình, chàng vội vàng chạy xuống núi.

Đó chính là: Võ công tuyệt thế tìm ở đâu? Hãy xem phong ba Đông Hải nổi.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Vân Hải Ngọc Cung Duyên - Lương Vũ Sinh

Postby tuvi » 05 Feb 2023

Hồi Thứ Năm
Ngoài cõi tiên sơn giấu bí mật...Trong động nhi nữ chẳng vô tình.

Giang Nam kiếm trong rừng một hồi mà chẳng tìm thấy Kim Thế Di, đã đến lúc trăng lặng sao mờ, ở đằng đông trời đã hửng sáng.

Trâu Giáng Hà nói: “Nếu Kim Thế Di chịu gặp huynh thì y đã xuất hiện, trời đã sắp sáng đến nơi, hãy mau quay về thôi.”

Giang Nam vẫn không nản chí, nói: “Có lẽ Kim đại hiệp đang thử thách lòng thành của huynh! Hãy đợi một lát nữa xem, khi trời sáng mà vẫn không thấy thì chúng ta hãy quay về.”

Trâu Giáng Hà nói: “Huynh thật là ngốc!” Giang Nam cười hì hì: “Nếu muội sợ Dương cô cô mắng thì hãy quay về.”

Trâu Giáng Hà dẫu môi nói: “Để một mình huynh ở đây, ai mà biết huynh sẽ gây hoa gì? Đành chịu vậy, muội sẽ đợi cùng huynh. Đi thôi, đi tìm Kim Thế Di!”

Giang Nam cười nói: “Hảo tỷ tỷ ơi, tôi biết tỷ tỷ sẽ đi cùng tôi, cũng như tôi biết Kim đại hiệp chắc chắn sẽ gặp tôi!”

Trâu Giáng Hà đỏ mặt, giả vờ giận dỗi: “Ai là tỷ tỷ của huynh?”

Giang Nam định nói vài câu nữa, chợt có người vỗ vai chàng. Giang Nam mừng rỡ kêu lên: “Kim đại hiệp. quả nhiên huynh đã tới, đa... đa tạ huynh, huynh...”

Khi quay đầu nhìn lại, chàng giật thót tim, kêu lớn: “Mẹ ơi! Ngươi... ngươi là ai?”

Người ấy đâu phải là Kim Thế Di, chỉ thấy y mặt dính đầy máu, mắt và mũi vẫn không ngừng chảy máu, một hồii sau Giang Nam mới nhận ra đó chính là tên phiên tăng mặc cà sa màu đỏ.

Trong khoảnh khắc ấy Trâu Giáng Hà cũng hoảng hồn đến sững người ra. Khi nàng rút kiếm thì phiên tăng mặc áo đỏ đã bóp chặt xương tỳ bà của Giang Nam, trầm giọng quát: “Thu kiếm lại, nếu ngươi dám nhúc nhích ta lấy mạng y!”

Giang Nam không thế nào cử động được, rầu rĩ nói: “Này ta đâu có đắc tội gì với ngươi! Ta không dám tỉ võ với ngươi, ta nhận thua được chưa?”

Tàng linh thượng nhân hừ một tiếng rui nói: “Không được” Giang Nam nói: “Lúc nãy ta tuy đánh bạibằng hữu của ngươi, nhưng thực sự là Kim Thế Di đã giúp, ngươi không nên tìm ta trảthù, theo quy củ giang hồ ngươi phải tìm Kim Thế Di mới đúng.”

Tàng Linh thượng nhân tức tối nạt: “Ai nói quy củ giang hồ với ngươi? Nếu ngươi nhiều lời nữa, ta sẽ bóp nát xương tỳ bà, móc mắt ngươi ra!”

Giang Nam hoảng đến nỗi hồn bay phách tán. Trâu Giáng Hà định thần nói:“Tàng Linh thượng nhân, tôi nghe nói ông là bậc tôn sư võ học, cớ gì lại làm khó một kẻ tiểu bối?”

Tàng Linh thượng nhân nói: “Ngươi đã biết thân phận của ta thì phải nghe lời ta!”

Giang Nam hỏi: “Ngươi muốn gì?”

Tàng Linh thượng nhân nói: “Đi theo ta!” rồi y kéo Giang Nam vào trong một sơn động gần đấy, Trâu Giáng Hà cũng vội chạy theo, tay nắm chặt chuôi kiếm, nàng chỉ nghe Tàng Linh thượng nhân thở phì phò, hình như y đã bị thương nặng.

Vào trong sơn động thì trời đã sáng, vài tia nắng ban mai lọt vào trong, chiếu lên khuôn mặt hung dữ của Tàng Linh thượng nhân khiến y trông càng đáng sợ hơn! Chỉ nghe y thở dốc mấy hơi rồi chợt cao giọng nói: “Đưa Bích linh đơn cho ta!”

Giang Nam sững người: “Cái gì?”

Tàng Linh thượng nhân nói: “Tên tiểu tử nhà ngươi đừng vờ vịt nữa, lúc nãy Kim Thế Di đã ném cho ngươi một cái bình, trong đó có phải chứa Bích linh đơn hay không?”

Giang Nam nói: “Ta không thể cho ngươi Bích linh đơn!”

Tàng Linh thượng nhân siết chặt năm ngón tay, cả giận nói: “Không đưa Bích linh đơn thì đưa mạng đây, ngươi muốn thứ nào?”

Giang Nam bị y bóp vào xương tỳ bà đau đến nỗi mồ hôi lạnh chảy ròng ròng, chàng chợt lớn giọng nói: “Nếu ngươi ép buộc ta nữa, ta sẽ đập vỡ cái bình này, Bích linh đơn gặp gió sẽ tan ra, dù ngươi có giết ta cũng chẳng lấy được tính đơn!”

Té ra chàng vẫn hoạt động được một cánh tay, cho nên khi Tàng Linh thượng nhân đang nói thì đã lẳng lặng lấy cái bình nhỏ ra. Tàng Linh thượng nhân thất kinh, không ngờ Giang Nam dám lấy cái chết ra uy hiếp, khiến y phân vân, tuy trừng mắt nhìn Giang Nam nhưng tay vẫn không buông lỏng.

Giang Nam nói: “Ta lấy linh đơn này cứu nghĩa tẩu của ta, nay ta nghĩ ngươi chắc cũng bị trọng thương, đang cần linh đơn. Nếu ngươi không hung dữ như thế thì còn có thể thương lượng được.”

“Nếu ngươi đưa linh đơn cho ta, ta sẽ truyền thụ cho ngươi tất cả bản lĩnh của ta.”

Giang Nam nói: “Ta không thèm võ công của ngươi.”

“Vậy ngươi cần gì?”

“Ta chẳng cần gì cả, ta chỉ thấy ngươi đáng thương!”

Tàng Linh thượng nhân rất bất ngờ, nói: “Ngươi thấy ta đáng thương?”

Giang Nam nói: “Ta nghe nói ngươi là đệ nhất cao thủ ở Tây Tạng, thế mà bị người ta đánh ra nông nỗi này, lại còn chết ở quê người, chỉ có Giang Nam này chôn ngươi, chả lẽ ngươi vẫn chưa đáng thương sao?”

Giang Nam thật sự cũng thương xót cho y, cho nên lời lẽ rất thê lương. Tàng Linh thượng nhân kêu lên: “Đừng nói nữa!”

Giang Nam nói: “Không, ngươi nghe ta nói, ta cảm thấy ngươi đáng thương, cho nên mới muốn cứu mạng ngươi.”

Tàng Linh thượng nhân nói: “Nếu như thế thì còn nói nhiều làm gì, đưa cái bình cho ta.”

Giang Nam nói: “Không, ngươi vẫn phải nghe ta nói...”

Tàng Linh thượng nhân kêu lên: “Được, ngươi cứ nói đi!”

Giang Nam nói: “Ngươi lớn giọng hù dọa ta như thế, ta lại chẳng nói được.”

Tàng Linh thượng nhân giở khóc giở cười, cả giọng bảo: “Tiểu gia của ta ơi, ngươi hãy nói đi.”

Giang Nam nói: “Ta nghe Đường đại hiệp nói, dù bị nội thương nặng đến mức nào, chỉ trừ bản thân tẩu hỏa nhập ma, nếu không thì chỉ cần có ba viên linh đơn là có thể giữ được mạng. Nghĩa tẩu của ta nội công tinh thâm, có hai viên linh đơn cũng đã đủ dùng, nội công của ngươi cao hơn nghĩa tẩu của ta nhiều, chắc là một viên linh đơn cũng đã đủ.”

Tàng Linh thượng nhân nói: “Thôi được, có còn hơn không, ngươi đưa cái bình cho ta, ta chỉ lấy một viên.” Giang Nam nói: “Lúc nãy người đã quá hung dữ, ta không dám tin ngươi. Hà tỷ, hãy cầm cái bình lấy ra một viên thuốc rồi bỏ vào miệng y.”

Tàng Linh thượng nhân âm thầm tính toán, đợi khi họ trao bình cho nhau thì thừa cơ cướp lấy rồi giết họ đi.

Trâu Giáng Hà đến bên cạnh Giang Nam, đang định đưa tay nhận cái bình, chợt nghe một tiếng kêu chối tai theo gió vọng tới, Trâu Giáng Hà cảm thấy âm thanh này như đâm vào lỗ tai rất khó nghe. Còn Giang Nam thì lại nghe được có người dùng tiếng Tây Tạng gọi Tàng Linh thượng nhân, giọng nói này không phải của Kim Thế Di nhưng công phu Truyền âm nhập mật chẳng kém gì Kim Thế Di.

Tàng Linh thượng nhân mở to mắt, ánh mắt hiện vẻ kinh hoàng tột độ chợt kêu lên: “Ta lấy mạng ngươi!” rồi chụp về phía Giang Nam!

Giang Nam thấy vẻ mặt y khác lạ thì âm thầm cảnh giác, nhân lúc y lắng nghe giọng nói ấy thì đột nhiên rút vai hạ người, thoát khỏi bàn tay của Tàng Linh thượng nhân. Chàng lộn người một vòng dưới đất, Tàng Linh thượng nhân không tóm được chàng nhưng đã chụp trúng một tảng đá.

Tàng Linh thượng nhân kêu lên: “Thằng nhãi ranh, ngươi chạy đi đâu cho thoát?” thế rồi hai tay múa loạn lên, Giang Nam hoảng sợ đến cùng cực, chàng thu mình nấp qua một góc, điều kỳ lạ là Tàng Linh thượng nhân hình như không hề thấy chàng.

Số là Tàng Linh thượng nhân đã bị Kim Thế Di đánh chấn thương, tai mắt mũi miệng đều chảy máu không ngừng, lúc này tròng mắt đã vỡ, không thể nhìn thấy được nữa, lại thêm bên ngoài có vọng lại tiếng kêu quái dị, đó là kẻ mà lâu nay y vẫn đề phòng, khi võ công đang tiêu tan y chợt nghe thấy âm thanh này cho nên nhất thời thần trí rối loạn, tính dữ phát tác.

Chợt nghe bình một tiếng, Tàng Linh thượng nhân táng vào một vách đá ngã xuống đất, lạc giọng kêu lên: “Thằng nhãi ranh nhà ngươi dám hại mạng ta!” tiếng kêu nghe rất thê thảm như tiếng gào của con mãnh thú đã bị thương. Giang Nam vừa hoảng sợ vừa ngạc nhiên, thầm nhủ: “Ta muốn cứu mạng ngươi mà ngươi lại bảo ta hại ngươi?” nhưng chàng sợ bộ mặt hung dữ của Tàng Linh thượng nhân cho nên chẳng thốt ra lời. Tiếng kêu gào của Tàng Linh thượng nhân càng lúc càng yếu, chỉ thấy y lăn lộn ở dưới đất, mảnh cà sa bị rách thành từng mảng, một hồi sau tiếng kêu ngừng hẳn, Tàng Linh thượng nhân nằm ngay đơ ra đấy.

Trâu Giáng Hà định thần ngừng một lát rồi rỉ tai Giang Nam: “Hình như y đã chết?”

Giang Nam bạo dạn kêu lên một tiếng “Tàng Linh thượng nhân”, chàng không nghe trả lời thì lại kêu thêm một tiếng nữa, cũng chẳng thấy trả lời, Giang Nam thở dài: “Ồ, y đã chết.”

Trâu Giáng Hà nói: “Muội sợ quá, hãy mau rời khỏi sơn động này về nhà đi thôi!”

Giang Nam nói: “Không, ta đã hứa chôn y, quân tử không thể nuốt lời!”, thế là rón rén đến bên cạnh Tàng Linh thượng nhân, đưa tay sờ mũi, chàng cảm thấy y đã lạnh ngắt, quả nhiên cao thủ đệ nhất Tây Tạng này đã chết không nhắm mắt.

Giang Nam lật người y lại, chợt nghe Trâu Giáng Hà kêu: “Ồ, vật gì thế?”

Giang Nam nhìn lại, chỉ thấy Trâu Giáng Hà nhặt lên một vật, mở ra thì đó là một bức tranh, nàng đưa ra chỗ sáng nhìn cho kỹ, chỉ thấy trong tranh là một hòn đảo nằm giữa biển khơi, trên đảo có núi lửa, miệng núi lửa phun khói dày đặc, Trâu Giáng Hà nói: “Ồ, núi cũng phun lửa ư?”

Giang Nam nói: “Đúng thế, khi ta ở Thổ Lỗ Phiên đã từng thấy núi phun lửa. Cô nương có xem 'Tây du ký' chưa? Tôn Hành Dã mượn quạt ba tiêu của công chúa Thiết Phiến mới dập tắt được ngọn Hỏa Diệm sơn dài tám trăm dặm.” Trâu Giáng Hà nói: “Những loại sách đó cha mẹ không cho đọc.”

Giang Nam nói: “Cô nương thật ngốc, loại sách này cũng rất thú vị. Có thể xem lén cũng được.”

Trâu Giáng Hà nói: “Hãy xem tiếp bức tranh, người này đang cầm cung tên, không biết có ý gì?” trong bản đồ có vẽ hình một người mặc quần áo thời Minh, ôm trong tay cây cung đứng ở dưới núi lửa, cây cung đã lắp tên tựa như muốn bắn núi lửa.

Giang Nam nói: “Ta cũng không hiểu, có lẽ là y căm ghét ngọn núi này cho nên muốn bắn nó.” Trâu Giáng Hà nói: “Huynh chỉ nói vớ vẩn.”

“Không ngờ tên phiên tăng này cũng có nhã hứng mang theo một bức tranh cổ. Tôi nghe nghĩa huynh nói, nếu tranh được vẽ bởi danh gia thì chắc chắn là vật rất quý giá. Chúng ta không thể tự tiện lấy của y, cứ chôn bức tranh này cùng y.”

Trâu Giáng Hà nhìn một lát rồi nói: “Cũng chẳng phải đồ cổ gì, bức tranh này đã bị hun khói, ông ngoại tôi cũng có cất loại giấy ngọc khấu này, có lẽ là vật của ba trăm năm trước.”

Giang Nam nói: “Sao cũng được, đó là vật của Tàng Linh thượng nhân, chắc có uế khí, tôi không cần.”

Trâu Giáng Hà nói: “Tôi cũng không cần, nhưng bức tranh này thật kỳ lạ, một người giương cung lắp tên định bắn núi lửa là có ý gì?”

Giang Nam nói: “Cô nương nói như thế cũng khiến tôi tò mò, thôi được để tôi đem về hỏi nghĩa huynh kem sao, y đọc sách rất nhiều, lại cất rất nhiều tranh chữ, chắc là y sẽ hiểu.”

Rồi chàng lẩm bẩm: “Tàng Linh thượng nhân ơi Tàng Linh thượng nhân, tôi đào mộ chôn ông, lấy bức tranh này coi như là tiền công, chắc là ông chấp nhận chứ?”

Trâu Giáng Hà bật cười: “Cẩn thận đấy, có lẽ y sẽ nguyền rủa huynh ở dưới chín suối. Chúng ta hãy mau chôn y rồi về nhà! Ở đây tối tăm quá, tôi cũng hơi sợ!”

Giang Nam nói: “Tôi cũng thế. Cô nương hãy giúp tôi!”

Hai người tháo kiếm đang định đào mộ, chợt nghe tiếng hú quái dị lại vọng lên, càng lúc càng gần, ở phía sau núi có một giọng nói truyền tới: “Có thể Tàng Linh thượng nhân đã bị người ta hại, hãy xem vệt máu ở dưới đất này!”

Người kia nói: “Không biết có ai đã lấy bức họa của y chưa? Hừ, dù là ai, chúng ta hợp lực chắc chắn sẽ lột da bẻ xương y!”

Hai người này nói với nhau bằng tiếng Tây Tạng, Trâu Giáng Hà chẳng hiểu nửa câu nhưng cảm thấy giọng nói rất chối tai.

Giang Nam lớn lên ở Tây Tạng, đương nhiên chàng nghe rất rõ ràng, thế là giật mình thầm nhủ: “Không xong, không xong! Những kẻ này hung hăng như thế, nếu bọn chúng phát giác ra thì mình nguy mất!” rồi chàng suỵt một tiếng, tỏ ý bảo Trâu Giáng Hà không nên nói lớn rồi cả hai người lăn một tảng đá chèn ở cửa động.

Một hồi sau, tiếng bước chân càng lúc càng gần, cuối cùng thì ngừng lại. Giang Nam ghé mắt nhìn qua khe hở, chỉ thay có ba người trông rất quái dị, một người vừa cao vừa ốm, ăn mặc theo kiểu người Tây Tạng, tóc đỏ như máu, mũi hếch lên trời. Còn một người thân hình cao lớn tựa như dân du mục Hồi Cương, hai tay dài hơn người bình thường, khi đi cứ đung đưa, ngón tay buông đài quá gối. Còn một người nữa là một bà già gầy đét, hai lỗ tai đeo hai xâu khuyên tai, khi đi xâu khuyên tai đánh vào nhau kêu leng keng, cũng ăn mặc như người Tây Tạng.

Ba người này đến trước cửa động, cả ba ngó nghiêng một hồi, người Tạng tóc đỏ nói: “Tàng Linh thượng nhân đã nấp ở đâu rồi?”

Người tay dài bảo: “Ở đây không còn vết máu nữa, lẽ nào y đã leo lên núi?” bà già hừ một tiếng rồi chợt nói: “Chính là ở đây, các người không ngửi được sao?”

Giang Nam thất kinh, thầm nhủ: “Lỗ mũi của lão yêu phụ thật thính!”

Chợt nghe bà già ấy lại nói: “Ta đã ngửi thấy mùi của Tàng Linh thượng nhân, chắc chắn y nấp ở gần đây.”

Người Tạng tóc đỏ kêu lớn bằng tiếng Tạng: “Tàng Linh thượng nhân, bọn ta không có ác ý, mời ra gặp mặt!” kêu liền cả mấy tiếng mà vẫn không ai trả lời.

Người Hồi tay dài nói: “Gần đây lại không có sơn động, y nấp ở đâu?”

Bà già kêu lên: “Tàng Linh thượng nhân, nếu ngươi không ra nữa thì bọn ta đành đắc tội!” rồi quay lại nói với hai người kia: “Chắc chắn y nấp trong kẹt đá, chúng ta lôi y ra!” rồi mụ ta vung tay, một tảng đá nứt làm đôi

Giang Nam cả kinh: “Nếu bị mụ tóm lấy thì chắc sẽ toi mạng!”

Chàng chợt thấy Trâu Giáng Hà đứng sát lại, nàng hơi run rẩy, Giang Nam nắm chặt bàn tay nàng, thì thầm trấn an: “Đừng sợ, bọn chúng làm ồn như thế, Kim đại hiệp chắc chắn sẽ tới.”

Trâu Giáng Hà toát mồ hôi, khẽ kêu hừ một tiếng: “Chờ đến khi Kim đại hiệp của huynh đến thì chúng ta đã rơi vào tay bọn chúng.”

Người Hồi tay dài nói: “Được, chúng ta hãy cùng ra tay!” rồi vung ra một đòn Phách không chưởng, chỉ nghe ầm một tiếng, một tảng đá rơi xuống, người Tạng đỏ nói: “Không có ở đây!” rồi trở tay vỗ ra một chưởng, một tảng đá lớn khác rung rinh, người Hồi bồi thêm một chưởng, một tiếng kêu ầm thật lớn vang lên, tảng đá đã bị bọn chúng đánh bật gốc rơi xuống khiến Giang Nam và Trâu Giáng Hà đều nghiêng ngả.

Người Hồi kêu lên: “Ngươi có phải đã bị trọng thương rồi không? Hãy mau lên tiếng để khỏi hiểu nhầm?”

Bà già nói: “Ta còn ngửi thấy hơi của người sống. Chắc là y bị thương cho nên bị người ta kìm chế.”

Rồi chợt quát lên bằng tiếng Hán: “Kim Thế Di, có gan hãy bước ra đây!”

Ba người đều nghĩ: “Kẻ có thể đánh bị thương Tàng Linh thượng nhân, ngoại trừ Kim Thế Di thì chắc không còn ai nữa.” vì thế nhao nhao quát mắng để khích Kim Thế Di bước ra.

Giang Nam thầm mong Kim Thế Di nghe được tiếng mắng của họ, thầm nhủ: “Bọn chúng cứ mắng càng lớn tiếng càng tốt!”

Ba tên ma đầu mắng một hồi không thấy có tiếng trả lời thì lại bàn nhau một hồi nữa, rồi lại phát ra Phách không chường, chỉ nghe tiếng ầm ầm vang lên không ngớt, đá trên núi bị bọn chúng đánh rơi xuống như mưa!

Giang Nam đang kinh hoảng, chợt thấy có một nguồn lực lớn đẩy tới, tảng đá chèn ở cửa động lung lay, Giang Nam kêu một tiếng “không xong” rồi kéo Trâu Giáng Hà nhảy tránh qua một bên, chỉ nghe một tiếng ầm vang lên, tảng đá đã bị Phách không chưởng của bọn chúng đẩy lăn vào bên trong, đè cả lên người Tàng Linh thượng nhân.

Mụ già cười ha hả: “Đây rồi, đây rồi, Tàng Linh thượng nhân, ngươi còn chưa chịu ra sao?”

Giang Nam và Trâu Giáng Hà hoảng sợ đến nỗi hồn bay phách tán, chỉ thấy ba ma đầu dần dần tiến từng bước vào, cả ba người vừa nhìn thì thấy có hai thiếu niên nam nữ đứng ở trong động, không khỏi cả kinh, cao giọng quát: “Các ngươi là ai?”

Nói chưa đứt lời chợt tung mình nhảy vọt lên mấy trượng, mụ già quát: “Kim Thế Di thật vô sỉ, ngươi nấp trong động ám toán đâu có phải là anh hùng hảo hán gì.”

Giang Nam cả mừng, cả Trâu Giáng Hà cũng tướng Kim Thế Di đã tới. Ngay lúc này chàng chợt nghe tiếng cười lanh lảnh từ trên núi vọng xuống, tiếp theo là có người lớn giọng mắng: “Các người đều đui cả, ta rõ ràng là ở đây, ai nấp trong động ám toán các ngươi?”

Giang Nam kinh ngạc đến nỗi khó hình dung, đó chẳng phải là Kim Thế Di mà là một thiếu nữ. Nàng thiếu nữ đứng trên tảng đá, tà áo phất phới tựa như lướt gió bay tới.

Ba ma đầu này còn kinh hãi hơn cả Giang Nam. Cả ba đều là kẻ có võ công lợi hại, mắt tinh tai thính hơn cả người thường trăm lần, thế nhưng lại không biết thiếu nữ này đã đến từ lúc nào, người Hồi tay dài quát một tiếng rồi vung tay lên, một vật như mũi tên phóng vọt ra, té ra thiếu nữ lúc nãy đã âm thầm bắn một cành cây khô về phía y, đã bị y tóm lấy cho nên lúc này mới trả ngược trở lại.

Người Tạng tóc đỏ và mụ già đánh tiếp ra hai đòn Phách không chưởng. Chỉ thấy cuồng phong nổi lên, cát chạy đá bay, nàng thiếu nữ mặc bộ đồ màu xanh lục đột nhiên phóng vọt người xuống cả ba ma đầu không thể chặn lại được, chỉ trong chớp mắt thì nàng đã phóng tới cửa động.

Nàng thiếu nữ đảo mắt, liếc nhìn ba ma đầu rồi mỉm cười nói: “Các người có muốn động thủ không? Ta sẽ chiều theo!”

Người Tạng tóc đỏ kinh ngạc hỏi: “Sư phụ của ngươi là ai? Có phải ngươi đến đây chỉ muốn đối địch với bọn ta?”

Thiếu nữ nói: “Côn Luân tản nhân, ta khuyên ba người hãy về đi thôi. Các ngươi đã quên lời thề với một võ lâm tiền bối vào ba mươi năm trước sao? Tang Mộc Lão, bà đã lớn tuổi như thế mà còn đến Trung Nguyên sinh sự hay sao? Còn ông, Kim Nhật, lẽ ra với bản lĩnh của ông đã có thể khai tông lập phái, cần gì phải dòm ngó võ công của kẻ đã nằm trong quan tài?”

Cả ba ma đầu đều thất kinh. Té ra người Tạng tóc đỏ tên là Côn Luân tản nhân, ba mươi năm trước đã đến Trung Nguyên gây sóng gió, nhưng sau đó chịu bại dưới kiếm của Lữ Tứ Nương, Lữ Tứ Nương buộc y phải thề rằng không được vượt núi Côn Luân về Trung Nguyên, nay y nghe Lữ Tứ Nương đã qua đời cho nên mới đám mò đến Trung Nguyên lần nữa.

Còn bà già kia là Tang Mộc Lão, mụ có một người em tên gọi Tang Thanh Nương, vợ của trướng lão phái Linh Sơn là Vân Linh Tử, lần này mụ muốn mời vợ chồng Vân Linh Tử cùng đi, nhưng hai vợ chồng nhà này đang đóng cửa tu luyện một loại võ công cực kỳ lợi hại, do đó mụ mới đi cùng hai kẻ này. Còn người Hồi tay dài tên gọi Kim Nhật, y có năng khiếu học võ, đã từng luyện qua nhiều loại võ công ở miền Tây Vực.

Côn Luân tản nhân trừng mắt hỏi: “Ngươi là người thế nào với Lữ Tứ Nương?”

Thiếu nữ đáp: “Tên của ân sư há để cho ngươi gọi!”

Tang Mộc Lão cười nói: “Ta chưa từng nghe nói Lữ Tứ Nương nhận đồ đệ gì cả, ngươi tưởng rằng có thể đem mụ đe dọa bọn ta hay sao? Hừ, dù Lữ Tứ Nương có sống lại ta cũng không sợ!”

Lữ Tứ Nương bình sinh chưa từng nhận học trò, người trong võ lâm đều biết chuyện này, chả trách nào Tang Mộc Lão lại không tin. Nhưng Côn Luân tản nhân thì thầm nghi ngờ, nhủ rằng: “Sao ả biết ba mươi năm trước mình đã từng thề với Lữ Tứ Nương? Chả lẽ ả là đệ tử quan môn của Lữ Tứ Nương.”

Trong ba người thì Kim Nhật trẻ tuổi nhất nhưng tự phụ nhất, từ lâu y đã nghe nói Lữ Tứ Nương và Mạo Xuyên Sinh là Thái sơn Bắc đẩu của võ lâm Trung Nguyên, thường tiếc rằng mình chưa có cơ hội gặp họ thì họ đã chết. Nay nghe thiếu nữ áo xanh là đệ tử của Lữ Tứ Nương, Côn Luân tản nhân lại tỏ ý phân vân. Y nén không được, liếc nhìn thiếu nữ rồi quay sang Côn Luân tản nhân nói: “Nếu chính xác là võ công của Lữ Tứ Nương, tôi sẽ thay ông thử ả!”

Nói chưa dứt lời chỉ nghe bình một tiếng, một luồng điện từ trong tay y phóng ra, Giang Nam nấp ở trong động thì thấy chói mắt, chàng thất kinh thầm nhủ: “Đây là yêu pháp gì? Chả lẽ là Chưởng tâm lôi?”

Chàng vừa nghĩ thì chợt thấy thiếu nữ phóng vọt người lên, cả người lẫn kiếm hóa thành một luồng ánh sáng màu xanh, Giang Nam chưa kịp nhìn rõ thì chỉ nghe một tràng âm thanh nổi lên tựa như tiếng nhạc gõ. Kim Nhật kêu lên một tiếng “hay”, trở tay lại đánh bình một tiếng, chấn động đến nỗi đá vụn bay vào trong động.

Giang Nam dụi mắt nhìn một hồi thì mới thấy rõ, hóa ra trong tay Kim Nhật là một món binh khí kỳ quái, không biết được làm bằng kim loại gì mà khi múa lên lại phát ra ánh sáng lấp lánh màu đỏ vàng trắng, chỉ nghe tiếng bình bình vang lên, chưởng phong của y lại dồn tới, nhưng có điều y ra tay quá nhanh cho nên người bên cạnh trông vào thì thấy tựa như sấm nổ!

Kim Nhật tinh thông võ công của các phái ở miền Tây Vực, y đã dung hợp tất cả các loại võ công này để luyện thành Lôi điện bổng pháp, từ lâu đã muốn đến Trung Nguyên tranh hùng, nào ngờ lần đầu tiên đến Trung Nguyên thì gặp phải nàng thiếu nữ này, mà chẳng hề chiếm được phần tiện nghi, trong lòng thất kinh, sợ mất mặt với đồng bọn. Khi y mới tấn công thì chỉ muốn thử võ công của thiếu nữ này cho nên vẫn chưa dốc hết sức lực, lúc này không dám coi là thử chiêu nữa, thế là y thay đổi chiêu số đột nhiên quát lớn một tiếng, đánh ra một chiêu Lôi mẫu chiếu kính, cây gậy quái dị vung lên, ánh điện lướt tới, đâm thẳng vào huyệt toàn cơ trước mặt nàng thiếu nữ, Giang Nam tuy không biết sự quái dị của phép đánh gậy này, nhưng chỉ cần thấy thanh thế mãnh liệt thì chàng cũng đã hoảng hồn.

Chợt nghe Trâu Giáng Hà kêu lên: “Nhìn kìa, nhìn kìa! Hay quá, hay quá!”

Chợt thấy nàng thiếu nữ mở rộng trường kiếm, tiếng sấm nổ ầm ầm ngừng lại, thanh trường kiếm của nàng ta đã chặn vào cây gậy cuộn mấy vòng, Kim Nhật chợt rú lên, lảo đảo thối lui mấy bước, tiếp theo là ánh quang loang loáng, kiếm gậy lại giao nhau, tiếng binh khí chạm nhau khiến lỗ tai của ai nấy đều kêu lên ong ong.

Côn Luân tản nhân càng nhìn càng thất kinh, nàng thiếu nữ đã sử dụng Huyền nữ kiếm pháp của Lữ Tứ Nương, nàng biến hóa tinh diệu, công lực thâm hậu, xem ra đã được Lữ Tứ Nương truyền thụ, lòng thầm nhủ: “E rằng mười năm nữa lại sẽ có một Lữ Tứ Nương khác xuất hiện, như thế chừng nào mình mới ngóc đầu lên được?”

Côn Luân tản nhân nghĩ như thế cho nên sát cơ trỗi dậy, chẳng hề nhớ đến mình có thân phận của một bậc tônsư, đột nhiên phóng vọt lên, lật tay vỗ chướng xuống đầu thiếu nữ. Côn Luân tản nhân luyện công phu Đại thủ ấn của Hồng giáo Tây Tạng, so với các loại chưởng pháp cương mãnh của chính phái như Kim cương chưởng, Suất bi thủ còn lợi hại hơn nhiều, đòn đánh bất ngờ ấy vốn chắc chắn sẽ trúng vào đối thủ, nào ngờ thiếu nữ tựa như có mắt ở sau lưng, nàng lập tức rùn người trở tay đánh lại một kiếm, luồng kiếm quang xanh lè quét vào chưởng của Côn Luân tản nhân, Côn Luân tản nhân thấy đó là cây Sương hoa kiếm mà Lữ Tứ Nương đã sử dụng khi còn sống, loại kiếm này có thể chém vàng chặt ngọc, nhưng Côn Luân tản nhân chẳng hề sợ, có điều nàng thiếu nữ đã dùng nội công chính tông để vận dụng bảo kiếm, đó chính là khắc tinh của các loại công phu như Kim chung trảo, Thiết bố sam, Côn Luân tản nhân làm sao dám mạo hiểm!

Thế là y vội vàng rút tay về, chỉ nghe ầm một tiếng, tảng đá chặn ở cửa động bị chưởng lực của y đẩy ra, lại lăn vào bên trong hơn một trượng, thế là cửa động đã trống hoác. Giang Nam nắm chắc tay Trâu Giáng Hà, lòng bàn tay của hai người đều toát mồ hôi. Nhưng Giang Nam lại cảm thấy ấm áp, chẳng còn sợ như lúc nãy nữa. Lại có tiếng bình bình vang lên, từng hòn đá to như nắm dấm bị chưởng phong của Côn Luân tản nhân quét bay vào trong động, đánh trúng vào vách đá phía sau Giang Nam.

Côn Luân tản nhân liên tiếp đánh ra hai chưởng đều bị nàng thiếu nữ khéo léo né tránh, thế là lửa giận bốc lên, y quyết tâm dồn nàng vào chỗ chết, bèn dốc ra hết chân lực của toàn thân ngưng tụ vào lòng bàn tay đè Đại thủ ấn xuống, lúc này Kim Nhật đã đánh ra đến chiêu Bát phương phong vũ, bóng gậy trùng trùng bao trùm nàng thiếu nữ.

Côn Luân tản nhân đắc ý cười rộ, tưởng rằng nàng đã hoàn toàn nằm trong vòng chưởng lực của mình, dù cho có tài cao bằng trời cũng khó thoát. Nào ngờ nàng ta không những võ công cao cường mà thân pháp cũng lanh lẹ đến cùng cực, trong khoảnh khắc ngàn cân treo sợi tóc, nàng đã đánh ra một chiêu kiếm pháp khéo léo, mũi kiếm dẫn đầu gậy của Kim Nhật sang một bên còn mình thì lách người ra sau lưng của y, thành thử Kim Nhật đã che cho nàng, chỉ nghe tiếng ầm ầm vang lên, chưởng lực của Côn Luân tản nhân đã đánh Kim Nhật chấn động thối lui đến ba bước, nhưng bản thân y cũng bị cây gậy của Kim Nhật đánh cho loạng choạng!

Lúc này nàng thiếu nữ lập tức đâm kiếm tới, chỉ nghe soạt một tiếng, mái tóc rối bời của Côn Luân tản nhân đã bị mũi kiếm chém bay một mảng, rồi soạt thêm một tiếng nữa, cây Sương hoa kiếm của nàng thiếu nữ đã đánh bật cây gậy quái dị của Kim Nhật ra. Nếu đơn đả độc đấu, nàng thiếu nữ này đều hơi nhỉnh hơn Kim Nhật và Côn Luân tản nhân, nhưng nếu một địch hai thì nhiều nhất cũng chỉ chống đỡ được năm sáu chiêu, may mà lúc nãy nàng cơ trí tuyệt luân khiến cho hai kẻ ấy phải đánh nhầm vào nhau, vì thế cả hai bên mới giữ được thế cân bằng.

Giang Nam nằm phục trong động, cảm thấy tiếng gió ào ạt bên tai tựa như đang trôi dạt giữa biển khơi, bị sóng dữ cuốn trôi dập dềnh; nhìn ra thì chỉ thấy một luồng ánh sáng đỏ chói lòa và ánh hàn quang xanh lè cuộn vào nhau, đó là ánh sáng phát ra từ cây gậy của Kim Nhật và bảo kiếm của nàng thiếu nữ, bóng của cả hai người đều bị luồng ánh sáng bao trùm, Giang Nam vốn không nhìn ra được, càng không biết ai đã chiếm thượng phong. Nhưng nhìn một hồi thì thấy hình như khối ánh sáng càng lúc càng gần, tim cứ đập thình thình.

Trâu Giáng Hà chợt khẽ nói: “Có một bóng người đi vào đây, huynh có nhận ra là ai không?”

Giang Nam đã chói mắt nhưng chàng vẫn cố nhìn, lòng thầm kêu: “Mong là Kim Thế Di.”

Nhưng khi nhìn kỹ mới biết đó là mụ yêu phụ.

Giang Nam kinh hoảng, thầm nhủ: “Hỏng bét!” rồi hai tay ôm chặt lấy Trâu Giáng Hà, nàng cũng không biết xảy ra chuyện gì, mặt chỉ đỏ ửng, muốn đẩy Giang Nam nhưng lại không có sức, trong nhất thời quên bẵng mình đang gặp nguy, thậm chí cũng quên chuyện lúc nãy mình vừa bảo Giang Nam làm.

Té ra Tang Mộc Lão thấy Kim Nhật và Côn Luân tản nhân hợp lực đánh nhau với nàng thiếu nữ, đôi bên giằng co thì chợt nảy ra một ý nghĩ:

“Chi bằng mình cứ để cho bọn chúng lưỡng bại câu thương còn mình làm ngư ông đắc lợi. Được, mình vào trong động lấy tấm bản đồ của Tàng Linh thượng nhân rồi tính tiếp.”

Tang Mộc Lão đợi bọn họ đánh đến say sưa, mới rón rén đi vòng ra sau lưng họ vào trong động, Kim Nhật chợt kêu lên: “Chúng ta dùng Xa luân chiến đánh chết ả yêu nữ này, Côn Luân tản nhân, ông nên nghỉ một lát!”

Y tưởng Tang Mộc Lão xông tới giúp mình, bèn kêu toáng lên, Côn Luân tản nhân thâm trầm hơn y, vừa nghe thì giật mình, đoán rằng Tang Mộc Lão chẳng có ý tốt lành gì, thừa cơ nói: “Được, ta nghỉ một lát.”

Rồi y phóng vọt người ra khỏi vòng chiến, chạy đến cửa động.

May mà cả hai ma đầu đều có lòng riêng, nếu Tang Mộc Lão ra tay ám toán, thiếu nữ áo xanh sẽ chẳng phát giác được.

Côn Luân tản nhân bỏ đi, áp lực đối với nàng giảm xuống, thế là nàng múa cây trường kiếm đánh lùi Kim Nhật hai bước, đột nhiên xoay người phóng vọt đánh ra một đòn Đại mạc cô yên đâm thẳng tới trước ngực Tang Mộc Lão! Tang Mộc Lão tức tối lách người ra, gỡ hai chuỗi khuyên tai bắn về phía thiếu nữ, hai chuỗi khuyên tai này vốn là ám khí độc môn của mụ, có cả thảy mười chiếc tất cả, cả hai chuỗi khuyên tai kêu lên leng keng, chạm vào nhau bay ra trong không trung.

Có chiếc bay xéo, có chiếc bay thẳng tới, sau khi chạm vào nhau thì bay vòng ngược trở lại! Không biết vô tình hay hữu ý, cả hai xâu khuyên tai bay tới trước cửa động, cố nhiên chặn nàng thiếu nữ, đồng thời cũng ngăn cản Côn Luân tản nhân không để cho y vào trong động trước mụ.

Nàng thiếu nữ đang ở trên không trung, thấy khuyên tai phóng tới thì lộn người, cây Sương hoa kiếm chợt phóng ra một mảng hàn quang, bốn chiếc khuyên tai bị kiếm quang của nàng cuốn lại, lập tức nát vụn rơi xuống như mưa. Côn Luân tản nhân phóng hai chướng ra, đánh ra hai đòn Đại thủ ấn, chương phong đồn tới kêu lên vù vù, sáu chiếc khuyên tai còn lại đều bị quét ra tới mấy trượng. Chính nhờ y chậm lại trong khoảnh khắc mà Tang Mộc Lão đã tới của động trước.

Chợt nghe nàng thiếu nữ quát: “Có đi phải có lại, ngươi hãy tiếp của ta cái này!” keng một tiếng, một luồng ngân quang bay về phía Tang Mộc Lão, Tang Mộc Lão phất ống tay áo thi triển công phu Thiết tụ, định cuốn mảnh ám khí này, nào ngờ kình lực của nàng thiếu nữ lại quá lớn, soạt một tiếng, ám khí bắn xuyên qua ống tay áo, tiện đi một nửa lỗ tai của mụ, té ra món ám khí ấy chính là cây trâm của nàng ta.

Tang Mộc Lão mất một nửa lỗ tai tuy chẳng hề gì, nhưng từ nay về sau mụ không có chỗ để gài ám khí nữa.

Thân phận của Tang Mộc Lão rất cao, thế nhưng bị một kẻ tiểu bối tiện đứt một nửa lỗ tai thì nhục nhã lắm, thế là mụ tháo đây đai quét tới như một sợi roi mềm, đồng thời kêu lên: “Ả yêu nữ quá vô lễ, chúng ta không cần nghĩ đến quy củ võ lâm nữa, cứ đánh chết ả trước. Giết xong ả chúng ta sẽ cùng vào sơn động tìm Tàng Linh thượng nhân!” Kim Nhật tuy là người bộc trực nhưng cũng chẳng phải kẻ ngốc, thấy Tang Mộc Lão và Côn Luân tản nhân hình như đang tranh nhau vào trong động thì chợt hiểu ra, vì thế đoán được dụng ý của họ, y nhủ thầm: “Cả ba người hợp lực giết ả nha đầu này tuy chẳng vinh quang gì nhưng chúng ta sẽ chẳng còn xích mích.”

Thế rồi hưởng ứng trước tiên, y quét cây gậy đánh tới miệng thì quát lớn: “Đúng, đúng!

Chúng ta có phước cùng hưởng, có nạn cùng chịu! Giết ả trước rồi vào động tìm báu vật!” Côn Luân tản nhân thấy họ đều đã nói như thế thì lại ngại không dám vào động trước, vì thế cả ba ma đầu đều gạt bỏ sĩ diện, chẳng màng đến thân phận trên võ lâm, hợp lực cùng đối phó với một nàng thiếu nữ vô danh, lần đầu mới bước ra giang hồ.

Chị em Tang Mộc Lão luyện nhu công của Mật tông Tây Tạng, năm xưa Tang Thanh Nương cũng sử dụng một sợi dây đai, ác đấu với Băng Xuyên thiên nữ một trận, tuy bại dưới kiếm của Băng Xuyên thiên nữ nhưng cũng đấu được đến hơn trăm chiêu. Công phu của Tang Mộc Lão còn hơn cả em gái mình, chỉ một sợi dây đai nhưng có thể đánh được tám phép quấn, đánh, cuộn, quét, giáng, giật, đè, có thể nhu có thể cương, cho nên lợi hại hơn nhuyễn tiên bình thường cả trăm lần.

Nàng thiếu nữ này đối phó với một người thì còn dư sức, với hai người thì còn gắng gượng chống đỡ được; nhưng đối phó với cả ba người thì lực bất tòng tâm, chỉ có thể chống đỡ chứ chẳng thể trả đòn nổi!

Đang lúc kịch chiến Côn Luân tản nhân tung ra một đòn Đại thủ ấn đánh bật mũi kiếm của nàng ta; sợi đai của Tang Mộc Lão thấy sơ hở thì lòn vào, tựa như rắn độc phun nọc, đột nhiên đâm xuyên vào cuộn cổ tay của nàng thiếu nữ, tuy đó không phải là tay cầm kiếm nhưng vì bị kìm chế nên thân pháp của nàng chợt chậm lại, Kim Nhật vung một gậy, đánh bay thanh kiếm của nàng, Côn Luân tản nhân cười rộ, lập tức vung chưởng vỗ xuống đỉnh đầu nàng!

Nàng thiếu nữ tuyệt nhiên không cúi đầu, một cây ngân thoa trên đầu chợt bay lên, Côn Luân tản nhân đã thấy công phu ám khí của nàng cho nên đã chuẩn bị, tay trái phất ra một luồng chưởng lực âm nhu, tay phải vỗ ra Đại thủ ấn cực kỳ cương mãnh, vẫn giữ nguyên thế cũ không thay đổi, vỗ xuống đỉnh đầu nàng thiếu nữ. Với công lực của Côn Luân tản nhân, luồng chưởng lực âm nhu của y vốn có thể chặn cây ngân thoa của nàng thiếu nữ lại, nào ngờ trong khoảnh khắc ấy cổ tay của y tựa nhúm kim bén đâm vào, chưởng thế lệch qua một bên, chưởng lực giảm bớt một nửa, cây ngân thoa ấy bay thẳng vào chưởng phải của y, soạt một tiếng cắm thẳng vào lòng bàn tay, khi vỗ xuống thì đã lệch sang một bên, lực đạo cũng giảm xuống khá nhiều, nàng thiếu nữ rất lanh lẹ, lập tức xoay người né tránh, vung kiếm chặt đứt sợi đây đai của Tang Mộc Lão đang cuộn vào tay trái của mình, đồng thời đánh ra một chiêu Thôi song vọng nguyệt, gạt cây gậy của Kim Nhật qua một bên.

Cả hai ma đầu đều không biết Côn Luân tản nhân bị ám toán, cho nên đều ngạc nhiên. Lòng bàn tay của Côn Luân tản nhân chảy máu đầm đìa, y cả giận mắng: “Yêu nữ, ngươi đã đùng ám khí độc ác gì? Hôm nay ta phải lấy mạng ngươi!” xong bèn nghiến răng nén đau, rút cây ngân thoa trong bàn tay ra rồi lấy ra một cặp phán quan bút, bút phải múa tròn đâm vào cổ họng đối phương, bút trái đâm vào huyệt mệnh môn.

Nhưng lúc này, chợt nghe có người cười ha hả rồi cao giọng nói: “Lão yêu quái kia, lúc nãy không phải ta đánh ngươi, ngươi lại đổ cho ta, giờ đây rõ ràng ta đánh ngươi mà ngươi lại đổ cho người khác. Buồn cười buồn cười! Kẻ có mắt không tròng lẩm cẩm như ngươi, còn sống ở trên đời làm gì?”

Giang Nam mừng rỡ, quên cả sợ hãi, kéo tay Trâu Giáng Hà nói: “Tôi bảo y nhất định sẽ trở lại, cô nương hãy nhìn xem chẳng phải y đến hay sao?”

Chàng toan vươn người nhìn ra cửa động, lúc đó Kim Nhật đánh tới một gậy, đá trong động rơi xuống như mưa, áo quần trên người Giang Nam cũng bị rách vài chỗ, chàng vội vàng nấp vào, Trâu Giáng Hà cười: “Huynh yên tâm rồi chứ, chờ Kim đại hiệp của huynh đánh thắng xong, huynh ra gặp y cũng không muộn.”

Giang Nam nghe tiếng của Kim Thế Di truyền vào: “Giang Nam, tên tiểu tử nhà ngươi còn có lòng nhớ đến ta, được, nể tình ngươi ta sẽ đuổi ba tên khốn kiếp này đi!”

Trâu Giáng Hà bật cười, nhủ thầm: “Cha mẹ cứ bảo Kim Thế Di rất đáng sợ, nhưng y lại là người thú vị đến thế.”

Giang Nam càng mừng hơn, chàng thì thầm: “Tôi không hề khoác lác, Kim Thế Di đã đến đây vì tôi!”

Thật ra Kim Thế Di đến đây là vì nàng thiếu nữ ấy, khi bọn ma đầu mắng chàng, chàng đã đến nơi. Chàng phát giác nàng thiếu nữ nấp trên núi nhưng chàng lại nấp phía sau lưng nàng. Bọn ma đầu không phát giác ra nàng, nàng cũng chăm chú để ý đến ba tên ma đầu cho nên cũng không phát giác Kim Thế Di. Kim Thế Di muốn thấy công phu của nàng cho nên cố ý không lên tiếng, sau đó rất kinh ngạc, vì vậy mới xuất hiện khi nàng nguy hiểm nhất.

Đó chính là: Một mình chống cự ba ma đầu, phong trần quái khách tâm nghi phí.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Vân Hải Ngọc Cung Duyên - Lương Vũ Sinh

Postby tuvi » 05 Feb 2023

Hồi Thứ Sáu
Tính danh gốc gác chẳng ai hay...Một thoa một kiếm không người rõ

Cả ba tên ma đầu chợt thấy Kim Thế Di thì đều ngạc nhiên chuẩn bị giao chiến, không ngờ một lúc lâu sau Kim Thế Di vẫn cười nói với Giang Nam.

Xem ra chàng không nề để ý đến bọn chúng. Kim Nhật cả giận, đang định bước lên khiêu chiến, đột nhiên Kim Thế Di lắc người lướt tới, cười rộ nói: “Ngươi muốn đánh nhau ư..?" rồi đánh vù cây gậy sắt xuống đỉnh đầu y, xem ra hoàn toàn chẳng có chiêu số, nhưng thực sự đó là một chiêu sát thủ cực kỳ lợi hại, đầu gậy điểm liên tiếp bảy chỗ đại huyệt của Kim Nhật, thân gậy thì đánh vào đỉnh đầu y, đuôi gậy thì táng vào sau ót của y.

Kim Nhật cả kinh múa cây gậy của mình thi triển những chiêu số hộ thân trong Lôi điện bổng pháp, chỉ thấy ánh sáng lấp lánh, bình một tiếng, Kim Nhật thét lên rồi tung mình nhảy vọt ra hơn một trượng. Kim Thế Di kêu lên:

“Đến nào, đến nào, phép đánh gậy của ngươi cũng khá lắm!”

Té ra Kim Nhật đã bị chàng đánh chấn động đến chảy máu hổ khẩu, tuy chiêu này của Kim Thế Di cực kỳ phức tạp nhưng cũng bị y hóa giải, vả lại lực phản chấn cũng không kém cho nên khiến Kim Thế Di cũng lảo đảo.

Côn Luân tản nhân và Tang Mộc Lão vừa thấy Kim Thế Di ra tay thì không hẹn mà đều phản công, Côn Luân tản nhân vỗ Đại thủ ấn tới, Kim Thế Di chợt kêu lên:

“Ối chao, không xong” rồi đột nhiên chàng lộn người phóng ra, Côn Luân tản nhân chưa bao giờ thấy lối đánh quái dị như thế, còn Kim Thế Di lộn người ra, tiện tay móc chuôi gậy vào bắp chân của y, Côn Luân tản nhân đứng không vững té soài xuống, Tang Mộc Lão phất hai sợi đai tới, vốn là nhắm vào hai tay của Kim Thế Di, nào ngờ Kim Thế Di lộn người xuống đất, kéo theo Côn Luân tản nhân, hai sợi dây đai của Tang Mộc Lão móc phải Côn Luân tản nhân.

Kim Thế Di cười ha hả, Kim Nhật vội vàng múa gậy phóng tới, chặn trước mặt Tang Mộc Lão. Kim Thế Di cười nói:

“Ta không bao giờ hại kẻ chẳng chống đỡ nổi, ngươi sợ cái gì?” khi chàng đang nói, Tang Mộc Lão đã tháo sợi dây đai ra, Côn Luân tản nhân phóng vọt người dậy, y nổi giận đùng đùng rút ra đôi phán quan bút điểm tới, toan liều mạng với Kim Thế Di, thế là một gậy hai bút đồng thời đánh tới, chiêu thế rất hiểm hóc!

Trong cây gậy sắt của Kim Thế Di có chứa một thanh huyền thiết đoản kiếm, chàng rút thanh đoản kiếm ra, vung cây gậy đánh bạt cây gậy của Kim Nhật, đẩy thanh kiếm ra, lại chặn đôi phán quan bút của Côn Luân tản nhân. Tang Mộc Lão thấy Kim Thế Di dùng hai món binh khí chặn đối thủ lại, hai sợi dây đai của mụ cũng thừa cơ lòn vào sợi dây đai vươn thẳng như cây bút, đâm vào hai mắt của Kim Thế Di, nhưng chiêu cực kỳ lợi hại vẫn ở phía sau, mụ thầm nhủ nếu không trúng thì sẽ phất tiếp tới siết chặt cổ chàng.

Kim Thế Di kêu lên: “Mụ yêu bà thật độc ác” Sợi dây đai của Tang Mộc Lão chưa đánh tới thì chàng đã ngã xuống đất, nàng thiếu nữ vốn đứng xem trận, lúc này không khỏi thầm lo cho chàng, nàng sợ Kim Nhật và Côn Luân tản nhân thừa cơ thi triển sát thủ, quả nhiên Kim Thế Di vừa ngã xuống, Côn Luân tản nhân đã đâm đôi phán quan bút xuống lưng chàng.

Lúc này Giang Nam và Trâu Giáng Hà mới chui ra khỏi động, thấy Kim Thế Di gặp nguy hiểm thì không khỏi kêu hoảng. Thiếu nữ ấy phóng vọt người lên, đánh ra một chiêu Thiết tỏa lan châu, cây trường kiếm mở ra chặn đôi bút của Côn Luân tản nhân lại, trong khoảnh khắc này, Kim Thế Di lộn người ra đến mấy trượng, cười ha hả: “Kiếm pháp của cô nương quả nhiên khá lắm?” nàng thiếu nữ ấy giật mình, lúc này mới biết Kim Thế Di có ý đùa cợt, dù mình không chặn cho chàng chiêu ấy, Côn Luân tản nhân cũng chẳng thể điểm được chàng.

Kim Thế Di nện cây gậy xuống đất, lộn vọt người trở lại, cố ý phóng tới trước mặt Tang Mộc Lão, miệng kêu lên: “Giang Nam, ta dạy cho người một quái chiêu!”

Hai sợi đai của Tang Mộc Lão cuộn tới, Kim Thế Di dựng cây gậy sắt lên, hai đầu dây của Tang Mộc Lão quấn vào gậy, Kim Thế Di chợt phóng vọt người lên, vươn tay sờ mặt mụ, cười ha hả: “Bà đã già như thế này nên ở nhà hưởng phước, sao lại ra giang hồ gây chuyện thị phi?”

Tang Mộc Lão tức đến nỗi hai mắt tối sầm, sợi dây đai buông ra, Kim Thế Di đã cười hì hì nhảy ra từ sớm. Giang Nam cũng cười ngặt nghẽo lớn giọng kêu: “Này, ta vẫn chưa thấy rõ!”

Kim Thế Di nói: “Quái chiêu này chỉ có thể sử dụng một lần, lần thứ hai thì không linh nữa, ai bảo ngươi không đây!”

Chàng không phải nói đùa với Giang Nam, với võ công của Tang Mộc Lão, vốn không dễ bị chàng hí rộng, chỉ là lúc nãy chàng ra tay bất ngờ, chiêu số lạ lùng mà thôi.

Trâu Giáng Hà khẽ nói: “Bảo y mau chóng hạ ba tên ma đầu này, tôi cũng không muốn nghe bọn chúng kêu la nữa.”

Kim Thế Di nói: “Đúng thế, ta cũng không muốn nghe bọn chúng kêu la nữa. Này, này! Cô giúp người hãy giúp đến cùng, đưa Phật hãy đưa về Tây Thiên, hãy giúp tôi đánh trận này. Nếu cô không giúp, một mình tôi chẳng hạ được bọn chúng.”

Mấy câu sau là chàng nói với nàng thiếu nữ. Té ra nàng giận vì lúc nãy bị chàng bỡn cợt, đồng thời cũng hơi ngạc nhiên vì võ công của chàng quái dị, nàng muốn đứng yên mà xem thử Kim Thế Di có thể lấy một địch ba hay không, chàng còn có những chiêu số quái dị gì nữa.

Thế là kiếm chiêu hơi chậm lại, Kim Thế Di đã đoán được ý nàng, Giang Nam kêu: “Này cô nương, hãy nghĩ tới nghĩa khí giang hồ, Kim đại hiệp đã giúp cô, sao cô có thể bỏ mặc y?” nàng thiếu nữ nghe cả hai một xướng một họa, không khỏi bật cười. Kim Nhật múa tít cây gậy đánh ra một chiêu Lôi điện giao oanh, cây gậy đánh xuống bốp một tiếng, Kim Thế Di vung kiếm gạt ra, thì thầm: “Cô nương, cô nương hãy chú ý. Không thể đùa được nữa!”

Nàng thiếu nữ đỏ mặt, lòng thầm nhủ rõ ràng y cứ cười đùa bỡn cợt nhưng trái lại bảo nàng phải chú ý. Nàng hơi giận trong bụng, muốn rút lui ra khỏi vòng chiến, nào biết Kim Thế Di rất kỳ quặc, toàn sử dụng những chiêu số nửa hư nửa thực, một mặt cố ý chặn đường rút của nàng, một mặt lại dẫn chiêu số của ba ma đầu đánh về phía nàng ta. Võ công của cả ba ma đầu này đều thuộc hàng nhất lưu, nàng hơi lơi lỏng, suýt nữa đã bị chúng đánh bị thương, nàng chỉ đành thâu nhiếp tinh thần, triển khai kiếm pháp tinh diệu, chặn thế công của bọn chúng lại.

Kim Thế Di chính là muốn nàng như thế, cho nên cố ý để nàng che trước mặt mình, tiếp phần lớn chiêu số của ba ma đầu còn chàng ở một bên tìm cơ hội tấn công tựa như trêu đùa, nhưng thực ra chàng đang âm thầm để ý sơ hở của cả ba.

Nàng thiếu nữ đang bực mình, chợt nghe Kim Thế Di quát: “Trúng!” Cây gậy sắt vểnh lên, đánh ra một chiêu Cử hỏa thiêu thiên, Côn Luân tản nhân vừa vỗ ra một đòn Đại thủ ấn, bị cây gậy của chàng chọc trúng thì đau đến tận tim phổi, Kim Thế Di cười ha hả, chàng chợt xoay người rồi phun một bãi nước bọt về phía Tang Mộc Lão, Tang Mộc Lão vội vàng lộn người phóng ra, Kim Thế Di đuổi theo như hình với bóng, giở gậy lên giáng mạnh một gậy xuống mông của mụ.

Tang Mộc Lão kêu lớn, lăn người xuống đất, khi đứng dậy thì thấy Côn Luân tản nhân đã vượt qua trước mặt mụ, chân phóng như bay, té ra gân cổ tay của y đã bị Kim Thế Di đánh đứt lìa, phải luyện trở lại ba năm nữa công phu Đại thủ ấn mới hồi phục được.

Từ trước đến giờ Tang Mộc Lão chưa từng chịu nhục như thế này, nhưng mụ ta cũng còn biết mình biết ta, thấy Côn Luân tản nhân đã chạy trước thì biết mình quay lại liều mạng cũng sẽ bị Kim Thế Di làm nhục lần nữa. Vì thế mụ cũng bắt chước Côn Luân tản nhân, ba mươi sáu kế chạy là thượng sách, thế là cũng co giò bỏ chạy chẳng màng đến Kim Nhật nữa.

Kim Nhật còn một mình, bị thiếu nữ ấy dồn ép phải thối lui từng bước, Kim Thế Di nện cây gậy sắt xuống, nói: “Tên tiểu tử nhà ngươi cứng cỏi lắm, ta tha cho ngươi, sao ngươi vẫn chưa đi, còn đợi khi nào nữa?”

Kim Nhật thở dài, thu lại cây gậy, gằn giọng nói: “Nếu ta không thể sáng tạo ra một loại võ công mới, từ rày về sau không bao giờ đến Trung Nguyên nữa.”

Kim Thế Di nói: “Cũng không cần phải thề như thế, nào, chúng ta kết làm bằng hữu!”

Rồi chàng đưa tay ra, Kim Nhật thầm nhủ: “Nếu y có ý giết mình, mình có chạy cũng chẳng thoát.”

Thế rồi thản nhiên đưa tay ra nắm lấy tay chàng, nhưng chợt cảm thấy chưởng lực của Kim Thế Di dồn tới, Kim Nhật giật mình, vội vàng vận công chống trả, y vừa nhả chưởng lực ra, thì đột nhiên cảm thấy chưởng lực của Kim Thế Di tiêu biến chẳng còn tăm hơi, còn bàn tay của chàng thì vuột ra khỏi tay Kim Nhật như con cá kình, Kim Nhật chợt mất trọng tâm loạng choạng lao về phía trước mấy bước.

Kim Thế Di cười nói: “Ngươi đã không té, hay lắm, ngươi có tâm cơ như thế thì có thể sáng tạo ra được một phái võ công, ngươi hãy đi!”

Kim Nhật lúc này mới biết Kim Thế Di có ý muốn thử công phu của y, mặt đỏ ửng, không biết nên khóc hay nên cười, thế rồi cũng co giò bỏ chạy.

Giang Nam nhảy ra khỏi động, kêu lớn: “Đánh rất hay!”

Kim Thế Di chợt nghiêm mặt nói: “Giang Nam, ngươi hãy mau nấp vào động trở lại tiếp tục làm con chuột nhắt đi.

Ta vẫn đánh chưa đã!” Giang Nam đang định hỏi thì Kìm Thế Di đã quét một gậy về phía thiếu nữ ấy!

Giang Nam kêu lên: “Hỏng bét, Kim đại hiệp đã trúng tà rồi?”

Nàng thiếu nữ giật mình thất kinh, nhưng khinh công của nàng tuyệt đỉnh, Kim Thế Di tuy đánh gậy ấy rất bất ngờ nhưng nàng đã né kịp.

Nàng chưa kịp lên tiếng hỏi Kim Thế Di đã đánh tiếp chiêu thứ hai, chiêu này dùng cả gậy lẫn kiếm, lợi hại hơn trước nhiều, nàng thiếu nữ dốc hết bản lĩnh ra nhảy vọt người lên, cây gậy của Kim Thế Di đánh vù một tiếng quét vào bắp chân nàng, cây kiếm thì đánh ra một chiêu Tiềm long thăng thiên đâm vào bụng của nàng, thiếu nữ đang trên không trung mà vẫn có thể xoay người, khi người nàng xoay qua cây Sương hoa kiếm chém xéo ra đánh keng một tiếng, hai kiếm giao nhau, nàng thiếu nữ phóng người hạ xuống đất, kêu lên: “Này, ngươi muốn gì thế?”

Nàng chưa dứt lời, Kim Thế Di lại vung gậy lên, đánh tiếp ra một chiêu Đại bằng triển xí cây gậy sắt chỉ đông đánh tây, kiếm gậy chỉ nam đánh bắc, kiếm và gậy đều mở rộng tựa như chim đại bàng giang cánh, một luồng cuồng phong nổi lên kêu vù vù, cát chạy cát bay. Giang Nam kêu ối chao một tiếng, trên trán đã bị trúng một hòn đá, chàng vội vàng nép mình trong động, Trâu Giáng Hà kẻo chàng lại xem, miệng thở phào nói: “Còn may, vẫn chưa bị thương. Kim Thế Di quả thật kỳ quặc.”

Giang Nam nói: “Y chắc chắn đã trúng tà, tôi muốn đưa cho y một viên Bích linh đơn để y xua tà giải độc, nhưng họ đánh dữ dội như thế, có cách gì đến gần họ? Hỏng bét, ngoại trừ có một người bị đối phương đánh ngất, nếu không trận này rất khó giải!”

Nàng thiếu nữ thấy Kim Thế Di đánh chiêu sau hung dữ hơn chiêu trước, gậy giáng kiếm đâm tựa như sông dài biển rộng cuồn cuộn dồn tới, nàng buộc lòng toàn thần ứng phó, thi triển hết tất cả những chiêu số tinh diệu trong Huyền nữ kiếm pháp, vừa đánh vừa lấy làm lạ, nàng thấy Kim Thế Di chẳng hề có vẻ đùa giỡn, vả lại đánh còn dữ dội hơn ba ma đầu lúc nãy, “chả lẽ y đột nhiên nổi điên?” có điều chiêu số của chàng liên miên không ngớt, chẳng hề rối loạn, chẳng giống như thần trí mê loạn.

Nàng thiếu nữ kinh ngạc, nhưng vì Kim Thế Di đánh quá hung mãnh, nàng không thể lên tiếng, chỉ dành ngậm tăm mà chống đỡ.

Một hồi sau, hai người đã giao thủ đến bốn năm mươi chiêu mà vẫn chưa phân thắng bại. Đang lúc kịch chiến, Kim Thế Di chợt quát lớn một tiếng, bổ xuống một gậy, gậy này chàng đã dùng đủ mười thành công lực, bốn mặt tám phương đều là bóng gậy, dồn tới như dời núi lấp biển, Giang Nam đứng trong động nhìn ra mà kinh tâm động phách, chàng không khỏi kêu lên kinh hãi, chỉ trong khoảnh khắc nữa nàng thiếu nữ dung mạo đẹp tựa như hoa ấy sẽ mất mạng dưới gậy của Kim Thế Di.

Trong khoảnh khắc nguy ngập ấy, Giang Nam vẫn chưa nhìn rõ, chàng chợt cảm thấy hoa mắt, nàng thiếu nữ phóng vọt người lên, đầu kiếm điểm vào đầu gậy, mượn luồng kình lực của Kim Thế Di bắn vọt người lên rồi lộn người lao ra cách đó đến mấy trượng Kim Thế Di chợt thu cây gậy, cười ha hả: “Tốt lắm, cô nương quả nhiên là đệ tử của Lữ Tứ Nương!”

Giang Nam toát mồ hôi lạnh toàn thân, lúc này mới biết Kim Thế Di có ý thử võ công của nàng. Số là Độc Long tôn giả sư phụ của Kim Thế Di từng có quan hệ sâu sắc với Lữ Tứ Nương, ông ta bỏ tà theo chính là nhờ có Lữ Tứ Nương thuyết phục.

Độc Long tôn giả chẳng bao giờ phục ai cả, chỉ phục có một mình Lữ Tứ Nương, cho nên thường kể với Kim Thế Di về chuyện của Lữ Tứ Nương. Do đó từ nhỏ Kim Thế Di đã có ấn tượng sâu sắc với tên của Lữ Tứ Nương. Chàng thấy nàng thiếu nữ tự nhận là học trò của Lữ Tứ Nương, kiếm pháp lại tinh diệu, trong lòng đã có cảm tình, nhưng chàng chưa bao giờ thấy kiếm pháp của Lữ Tứ Nương, cho nên không dám đoán rằng nàng đã sử dụng Huyền nữ kiếm pháp của bà ta, nói cách khác cũng có nghĩa là không dám đoán chắc rằng nàng là đệ tử của Lữ Tứ Nương, nhưng chàng vẫn nhớ sư phụ đã từng kể với chàng về một chiêu Huyền nữ kiếm pháp, khi Lữ Tứ Nương gặp Độc Long tôn giả đã từng dùng chiêu này hóa giải đòn sát thủ lợi hại nhất của Độc Long tôn giả, cho nên mấy mươi năm sau mà Độc Long tôn giả vẫn còn nhớ như in.

Lúc nãy Kim Thế Di thử võ công của nàng thiếu nữ là muốn buộc nàng sử dụng chiêu này.

Giang Nam thò đầu ra khỏi sơn động, thấy Kim Thế Di đã đút cây đoản kiếm vào trong gậy, chậm rãi bước về phía thiếu nữ, nàng giơ ngang kiếm trước ngực, chăm chú nhìn Kim Thế Di, tựa như đề phòng chàng bất ngờ ra tay. Giang Nam cười thầm, chỉ thấy Kim Thế Di bước tới trước mặt nàng ta, hỏi: “Lữ Tứ Nương chỉ thu một đệ tử là cô nương sao?”

Nàng ta nói: “Đúng thế, ngươi hỏi điều này làm gì?”

Kim Thế Di nghiêm mặt, chợt cúi đầu vái thiếu nữ ấy, rồi buông tay quá đầu gối, đó chính là đại lễ long trọng nhất trên giang hồ? Trên giang hồ ngoại trừ đệ tử hành lễ quỳ xuống trước mặt sư phụ, kẻ vãn bối gặp bậc trưởng bối, dùng lễ tiết này là thể hiện sự tôn kính nhất.

Nàng thiếu nữ cả kinh, vội vàng tránh qua, Kim Thế Di nói: “Tôi vái sư phụ của cô nương, cô nương đừng tránh, cũng đừng trả lễ, nếu không là coi thường tôi?” Sau khi bái xong chàng chợt khóc rống lên.

Giang Nam thầm nhủ: “Y biết nàng ta là đệ tử của Lữ Tứ Nương, chỉ cần hành lễ là đủ, sao lại khóc đau lòng như thế? Chả lẽ y đã thực sự trúng tà?”

Đang định lên tiếng khuyên nhủ, chợt nhớ Kim Thế Di bảo chàng tiếp tục làm chuột nhắt, trong lòng hơi bực cho nên quay trở lại trong động.

Nàng thiếu nữ thấy Kim Thế Di làm thế thì luống cuống cả một lúc sau mới nói: “Té ra ngươi biết sư phụ ta đã qua đời?”

Kim Thế Di nói: “Tôn sư được chôn ở đâu?”

Thiếu nữ đáp: “Ở trên Mang Sơn, bên cạnh mộ của sư tổ.”

Kim Thế Di nói: “Đáng tiếc suốt đời này tôi không có duyên gặp người nữa.”

Trong mắt nàng thiếu nữ ươn ướt, nàng biết chuyện sư phụ của mình thu phục Độc Long tôn giả, lòng thầm nhủ:

“Té ra đệ tử của Độc Long tôn giả, kẻ mà ai ai cũng gọi là quái vật trên võ lâm lại là một người có tình có nghĩa như thế này.”

Thấy chàng khóc quá đau lòng, nàng an ủi rằng: “Nhưng sư phụ của tôi đã gặp người hai lần, có điều người không biết đấy thôi.”

Kim Thế Di nói: “Ở đâu?”

Nàng ta nói: “Một lần ở trên núi Nga Mi”.

Kim Thế Di nhớ lần đó chàng đã bị ma đầu Động Minh Tử đánh bị thương, đã chạy xuống núi, chàng không khỏi đỏ mặt nói: “Một lần nữa ở đâu?”

Lần đó là ở Hy Mã Lạp Nhã. Sư phụ của tôi thấy người định trèo lên đỉnh Chu Mục Lang Ma, nhưng người không thấy sư phụ tôi.”Có chuyện này không?”

Suốt đời Kim Thế Di đã có hai lần thất bại. Một lần là bị Động Minh Tử đánh bị thương, một lần là không thể trèo lên được đỉnh Chu Mục Lang Ma, không ngờ đều bị Lữ Tứ Nương thấy.

Nàng thiếu nữ nói: “Sư phụ của tôi khen ngợi võ công của người.”

Kim Thế Di vừa mừng rỡ vừa hổ thẹn, hỏi: “Người có còn nói gì về tôi không?”

Thiếu nữ nhìn Kim Thế Di rồi nói: “Không có. Sư phụ tôi chỉ nói một câu rằng hy vọng người phát dương quang đại võ công của lệnh sư.”

Kim Thế Di rất thông minh, thấy ánh mắt của nàng thiếu nữ hơi kỳ lạ, đoán rằng nàng nhất định còn lời nhưng không chịu nói, nếu là người khác thì Kim Thế Di sẽ buông lời mỉa mai, hoặc tìm cách buộc nàng nói ra, nhưng đã biết nàng là đệ tử của Lữ Tứ Nương Kim Thế Di chỉ đành rầu rĩ, chẳng dám làm gì cả. Đó là lần đầu tiên trong đời chàng tự trói buộc mình.

Trâu Giáng Hà thì thầm: “Kim đại hiệp thật thú vị, vừa rồi đánh nhau với người ta một trận, nay lại cười nói như không. Tựa như lúc huynh mới gặp tôi, Giang Nam nói: “Thế ư? Nói như thế Kim đại hiệp chắc chắn sẽ kết bằng hữu với nàng thôi.”

Trâu Giáng Hà chợt thây lòng xao xuyến, nàng đỏ ửng mặt thầm nhủ: “Té ra ngươi vừa gặp đã muốn kết bằng hữu với ta rồi ư?”

Nàng không nói ra lời ấy, chỉ thấy Kim Thế Di lại vái dài nàng thiếu nữ, nàng ta lách người sang một bên, cười nói: “Lại chuyện gì nữa?”

Kim Thế Di nói: “Ba tên ma đầu ấy thật sự là tìm đến tôi, đa tạ cô nương đã giúp tôi chặn bọn chúng. Hơn nữa vừa rồi tôi đã vô lễ với cô nương, tôi cũng nên xin lỗi cô nương.”

Nàng thiếu nữ cười: “Không sao cả. Người không muốn thử võ công của tôi, tôi cũng muốn thử võ công của người. Nay tôi cũng nhận ra quả nhiên người là đệ tử của Độc Long tôn giả. Không những võ công mà tính tình của người cũng giống như lệnh sư.”

Kim Thế Di ngạc nhiên: “Cô nương đã gặp sư phụ tôi từ lúc nào?” nàng thiếu nữ nói: “Là sư phụ của tôi đã nói. Người bảo nửa đời trước lệnh sư là một quái nhân, sau đó đã dần dần thay đổi. Có phải như thế không?”

Kim Thế Di hơi buồn bã gật đầu: “Cô nương nói chẳng sai.”

Lòng thầm nhủ: “Sư phụ gặp phải Lữ Tứ Nương, người hiểu tâm sự của mình nên tính tình dần dần thay đổi. Mình thì không may mắn như người.”

Nàng thiếu nữ nói: “Vừa rồi người đã cứu tôi, tôi cũng nên đa tạ người. ”Nói rồi vái Kim Thế Di một cái. Kim Thế Di cười ha hả: “Tôi rất ghét khách sáo, hai lạy vừa rồi của tôi là thành tâm thành ý, tôi chẳng mong cô nương trả lễ.” Rồi chàng lại nhìn thiếu nữ ấy cười rằng: “Nhưng tôi có thể nhận ra cô nương cũng thành tâm thành ý.

Cho nên tôi không khách sáo, xin nhận lễ này của cô nương.” Giang Nam thấy rất thú vị, khẽ bảo: “Cô nương thấy họ thi lễ với nhau cũng rất tương kính như tân?”

Giang Nam học được những câu văn vẻ từ Trần Thiên Vũ, nay tùy tiện sử dụng Trâu Giáng Hà bật cười: “Tương kính như tân có nghĩa là gì huynh biết không? Cứ nói vớ vẩn.”

Giang Nam nói: “Sao tôi lại chẳng hiểu? Tôi đối với cô nương cũng tương kính như tân.” Trâu Giáng Hà cười ngặt nghẽo, đẩy chàng rồi nói: “Không hiểu thì đừng nói càn!” Thật ra Giang Nam cũng hiểu, chàng cố ý đùa với Trâu Giáng Hà mà thôi.

Kim Thế Di nói: “Cô nương biết tên tôi nhưng tôi vẫn chưa biết tên cô nương?” thiếu nữ ấy nói: “Tôi là Cốc Chi Hoa.” Kim Thế Di nói: “Ồ, tên thật đẹp” Thiếu nữ bảo: “Nhưng tôi không thích tên của người lắm!”

Kim Thế Di mở to mắt hỏi: “Tại sao?”

Nàng thiếu nữ cười bảo: “Cái tên Kim Thế Di nghe ra tựa như suốt đời này người mãi mãi chẳng thèm để ý đến ai.” Kim Thế Di đặt tên cho mình chính là vì ý này.

Thiếu nữ ấy cười xong thì chậm rãi nói: “Thật ra con người cũng không đáng sợ như người tưởng tượng”

Kim Thế Di ngửa mặt lên trời cười rộ rồi nói: “Tôi đã nghe nhiều người nói câu này. Thôi được, coi như nửa đời sau tôi sẽ đổi tên này.”

Thiếu nữ cười nói: “Quê hương tôi có phong tục dù đi qua đường tá túc, gặp lúc người ta có con mới sinh cũng phải tặng quà.”

Câu nói ấy rất bất ngờ mà lại rất kỳ lạ, Kim Thế Di ngẩn người ra, chỉ nghe nàng thiếu nữ tiếp tục nói: “Nay người có ý đổi tên cũng giống như đứa trẻ mới sinh ra đời, dù thế nào đi nữa, từ câu này của người, người đã hoàn toàn khác hẳn với Kim Thế Di trước kia.”

Lời nói của thiếu nữ ấy đầy huyền cơ, hàm chứa triết lý, Kim Thế Di vốn có tuệ căn, vừa nghe đã hiểu, buông giọng cả cười rằng: “Bản thân tôi cũng không biết khi nào thì sẽ làm người nữa. Cô nương bảo sẽ tặng quà cho tôi, vậy đó là quà gì? Lấy ra xem thử.”

Thiếu nữ nói: “Tôi chỉ là mượn hoa dâng Phật.”

Kim Thế Di nói: “Hoa đâu?”

Nàng thiếu nữ nói: “Tôi nhờ tiểu bằng hữu của huynh trao cho huynh. Này, ngươi có phải là Giang Nam không? Hãy chuyển hộ quà của ta cho Kim Thế Di hiện tại.”

Giang Nam thất kinh, kêu lên: “Này, này Cô nương bảo gì, tôi có lấy quà của cô nương đâu?” Chàng chưa nói xong thì chợt nghe một tràng cười lanh lảnh, nàng thiếu nữ ấy đã bước tới.

Kim Thế Di ngẩng đầu nhìn trời mà lòng đầy tâm sự, chàng thầm nhủ: “Cốc Chi Hoa, Cốc Chi Hoa, trong u cốc có giai nhân, bỏ đời mà đứng một mình. Tên của nàng và tên mình gộp lại cũng có chút ý nghĩa.”

Chàng tuy chỉ mới gặp nàng nhưng đã có ấn tượng sâu sắc. Kim Thế Di cảm thấy nàng không chỉ khác với Lý Tâm Mai mà cũng chẳng giống Băng Xuyên thiên nữ, trước kia chàng coi Băng Xuyên thiên nữ là đệ nhất tri kỷ của mình, nhưng nghĩ kỹ lại Băng Xuyên thiên nữ chẳng qua thông cảm, xót thương cho chàng. Còn nàng thiếu nữ này lại coi chàng bình đẳng với mình.

Giang Nam bật cười, Kim Thế Di nói: “Tiểu quỷ, ngươi cười gì? Mau ra đây?”

Giang Nam nói: “Người mắng tôi là chuột nhắt. Chuột nhắt phải ở trong hang, không thể chui ra được.”

Kim Thế Di nói: “ Giận rồi ư? Ngươi không biết đấy thôi, trong võ công có một loại công phu chuột nhắt rất lợi hại. Thôi được, nếu ngươi nổi giận thì ta cùng làm chuột nhắt với ngươi.”

Rồi chui tọt vào trong động, tóm lấy Giang Nam, nói: “Chiêu này gọi là linh miêu bắt chuột nhắt. Đến khi mặt trời lên đến giữa đỉnh đầu ta mới thả ngươi ra!”

Không biết chàng cố ý hay vô ý mà đột nhiên liếc mắt nhìn về phía Trâu Giáng Hà. Trâu Giáng Hà rất lanh lẹ, thầm nhủ: “Chẳng lẽ Kim Thế Di muốn truyền cho y võ công gì”

Rồi nàng cười nói: “Tôi thì không muốn làm chuột nhắt, tôi sẽ ra đây”

Giang Nam toan đuổi theo nhưng Kim Thế Di giữ lại khiến chàng không thể cử động được. Giang Nam cười khổ khẽ nói: “Này, tôi thật sự chẳng nhận được quà gì của nàng cả”

Kim Thế Di mỉm cười: “Tiểu huynh đệ, không phải ta đòi quà của ngươi mà ta chỉ muốn tặng quà.”

Giang Nam mừng rỡ hỏi: “Thật không?” Kim Thế Di nói: “Ngươi đối với ta rất tốt, ta cũng rất thích ngươi, ngươi tốt hơn gã Trần công tử nhẵn bảnh bao kia nhiều".

Giang Nam nghĩ ngợi rồi chợt nói: “Người đã tặng cho quà quý nhất. Lại còn tặng gì nữa? Tôi không dám nhận, công tử đã nói không nên quá tham lam”.

Kim Thế Di cả cười: “Ngươi rất nghe lời Trần Thiên Vũ. Ba viên Bích linh đơn đó là của Đường Kinh Thiên, chẳng qua ta chỉ mượn tay ngươi đưa cho Trần Thiên Vũ mà thôi.

Cái đó không tính. Ta còn có một món quà quý hơn cả Bích linh đơn nữa chỉ tặng riêng cho ngươi. Ngươi có muốn học võ công thượng thừa không?”

Kim Thế Di tưởng Giang Nam chắc chắn sẽ mừng đến nỗi nhảy cẫng lên, nhưng Giang Nam lại thộn mặt ra, lẩm bẩm: “Quà, quà...” rồi chàng chợt kêu lên: “Ôi chao, tôi nhớ rồi, đúng là có một món quà ở đây, bây giờ tôi phải lấy cho người!”

Kim Thế Di rất ngạc nhiên, nói: “Nàng quả thật có món quà nhờ ngươi trao cho ta. Ngươi... ngươi không đùa đấy chứ?”

Giang Nam nói: “Tôi đùa với người khác chứ chẳng đùa với người.”

Kim Thế Di vội vàng hỏi: “Chuyện gì thế?”

Giang Nam nói: “Trên người Tàng Linh thượng nhân có một bức họa rất kỳ quái, lúc nãy tôi nghe ba tên ma đầu bàn tán ở bên ngoài, bọn chúng bảo sẽ cướp bức họa này”

Chàng ngập ngừng rồi lại nói tiếp: “Nếu không nhờ nàng đánh với bọn chúng một trận, bức tranh đã rơi vào tay bọn chúng. Bức tranh thật sự là của nàng. Món quà nàng nhờ tôi trao cho người chắc chắn là bức tranh này”

Kim Thế Di nổi tò mò, đẩy tảng đá, bước đến bên cạnh Tàng Linh thượng nhân, quả nhiên thấy có một bức tranh, Kim Thế Di mở ra nhìn, Giang Nam nói: “Người xem, có lạ không? Một người cao lớn giương cung bắn núi lửa là có ý gì? Ở đó có báu vật gì mà ba tên ma đầu coi trọng đến thế?”

Kim Thế Di kêu ồ một tiếng, một lát sau vẫn không nói, tựa như đang suy nghĩ điều gì đó, Giang Nam thấy thế thì im bặt.

Té ra Kim Thế Di thấy trong bức tranh là một hải đảo, núi lửa trên đảo trông rất quen thuộc, chàng nhớ lại khi Độc Long tôn giả dắt chàng tới Xà đảo đã đi ngang hòn đảo này, lúc đó chàng chỉ là một đứa trẻ, thấy hòn núi phun lửa thì rất ngạc nhiên cho nên đã hỏi Độc Long tôn giả. Độc Long tôn giả bảo đó là một hoang đảo không ai sống, nằm ở phía nam Xà đảo, nếu gió thuận thì ba ngày sẽ tới, nhưng ông ta cũng từng căn dặn Kim Thế Di, sau này lớn lên thì không được lên đảo có núi lửa, tựa như trên hoang đảo có chuyện gì quái dị.

Kim Thế Di chưa bao giờ lên hòn đảo này, sau đó chàng trở về đại lục, trên đường đi chàng cũng không thấy hải đảo của núi lớn. Nay chàng không hiểu ý nghĩa của bức tranh này, nhưng chàng chắc chắn đã gặp hòn đảo trong bức tranh.

Kim Thế Di thầm nhủ: “Chả lẽ Tàng Linh thượng nhân đã nói sự thực, ba trăm năm trước quả nhiên có người tên Kiều Bắc Minh tham ngộ được võ công của hai phái chính tà nhưng cuối cùng chết lặng lẽ trên đảo hoang?” Chàng không có ý dòm ngó võ công của Kiều Bắc Minh, nhưng nghĩ đến nếu võ công của ông ta có thể giải trừ mầm họa cho mình, như thế chắc chắn sẽ tạo phước cho những người học võ sau này, chàng nghĩ đến đó thì tim đập thình thình.

Thế rồi chàng cuộn bức tranh lại cười với Giang Nam: “Ta nhận món quà này, đa tạ ngươi đã nhớ đến ta. Bây giờ ta cũng tặng cho ngươi một món quà.”

Giang Nam nói: “Này, tôi không hiểu điều người nói lúc nãy, chẳng phải người bảo sẽ chỉ điểm cho tôi một loại võ công thượng thừa sao?”

Kim Thế Di nói: “Đúng thế!”

Giang Nam cả mừng, liền vái chàng làm thầy, Kim Thế Di cả cười: “Chúng ta trạc tuổi nhau, hãy cứ làm bằng hữu của nhau. Làm thầy trò thì còn ý nghĩa gì? Hơn nữa, lúc này ta vẫn chưa muốn nhận học trò.”

Giang Nam cười hì hì: “Tôi biết tâm ý của người. Người sợ nhận một tên học trò như tôi thì sẽ mất mặt. Thôi được, dù cho người không chịu làm thầy, nhưng tôi chắc chắn sẽ cố gắng rèn luyện, không làm mất mặt người”

Kim Thế Di nói: “Chiêu thức của võ công không phải một buổi nửa ngày là có thể học hết, vả lại dạy từng chiêu từng thức cũng chẳng có ích gì. Giờ đây ta sẽ truyền thụ cho ngươi khẩu quyết, sau khi ngươi đã học thuộc thì phải coi ngộ tính của ngươi.

Tục ngữ nói một lý thông thì trăm lý hiểu. Nếu ngươi hiểu được đạo lý của võ công thượng thừa, sau này dù học được chiêu thức gì ra tay cũng dễ dàng chế thắng khắc địch. Về mặt nội công ngươi đã có căn cơ, cứ chiếu theo tâm pháp nội công của phái Thiên Sơn đó cần cù rèn luyện, chắc chắn sẽ có thành tựu, điều này thì ta không dạy ngươi”

Đạo võ học rộng lớn vô bờ bến, Kim Thế Di chỉ giảng vài điều khẩu quyết quan trọng nhất, Giang Nam nhớ rất giỏi, mỗi khẩu quyết Kim Thế Di chỉ cần giảng một hai lần là chàng có thể nhớ kỹ đồng thời hiểu được đạo lý trong đó. Cuối cùng Kim Thế Di truyền cho chàng một bộ thủ pháp điểm huyệt, thế là chỉ trong vòng nửa ngày chàng đã học được rất nhiều.

Tạm thời không nhắc đến Giang Nam nữa, lại nói Dương Liễu Thanh chờ cả đêm mà chẳng thấy con gái trở về thì trong bụng lo âu, sợ nàng sẽ xảy ra chuyện. sau khi trời sáng đã đi tìm, khó khăn lắm mới tìm được con gái. Trâu Giáng Hà vừa thấy đã bảo bà ta đừng lên tiếng khiến bà ta chẳng hiểu ất giáp gì.

Mãi đến trưa chỉ nghe Kim Thế Di cười lớn ba tiếng trong động rồi cùng Giang Nam đắt tay bước ra, Dương Liễu Thanh thấy Giang Nam mặt mày rạng rỡ mới đoán được rằng Kim Thế Di đã truyền võ công cho chàng. Dương Liễu Thanh nhớ lại đêm qua Kim Thế Di đã âm thầm giúp mình dẹp họa, vì thế tuy có chút hiềm khích với chàng trước kìa nhưng cũng bước tới đáp tạ chàng.

Trâu Giáng Hà thì muốn mời chàng ở lại thêm mấy ngày.

Kim Thế Di nói: “Cô nương thật lòng muốn giữ tôi? Có vài tên đại ma đầu đang muốn tìm tôi, cô nương có sợ bọn chúng đến quấy rầy chăng?”

Dương Liễu Thanh vốn chẳng có thành ý mời chàng, nghe chàng nói như thế thì nhíu mày, đang định nói mấy lời khéo léo để tiễn chàng đi.

Kim Thế Di cười ha hả rồi cao giọng ngâm: “Kiếm gậy tung hoành đến lại đi, ngửa mặt nhìn trời cao giọng hát!”

Rồi chàng phất tay áophóng vọt người lên, tiếng cười chưa dứt thì bóng đã khuất dạng. Dương Liễu Thanh thầm nhủ: “Đúng là một tên quái vật.”

Trâu Giáng Hà nói: “Không, con thấy hình như y đang có tâm sự. Ôi, võ công của y tuy cao đến cực điểm nhưng lại rất cô độc.”

Lại nói Kim Thế Di bỏ đi, trong lòng rất sầu muộn. Chàng ngầm giúp Giang Nam thành danh nhưng cũng gián tiếp nối mối duyên cho Giang Nam và Trâu Giáng Hà, chàng vốn rất đắc ý chuyện này nhưng thấy mình đang lẻ loi, sống cuộc sống phiêu bạt, lại không khỏi hơi ngậm ngùi.

Không biết thế nào mà hình bóng của nàng thiếu nữ lúc nãy lại hiện lên trong lòng chàng, Kim Thế Di chợt nghĩ: “Sư phụ của mình đã từng nhận ơn lớn của Lữ Tứ Nương, trong võ lâm, người mình khâm phục nhất chỉ có Lữ Tứ Nương. Nay mình đã biết bà ta qua đời, sao không đến tảo mộ bà ta một phen?”

Thật ra chàng đã tìm cớ cho mình, đương nhiên chàng tôn kính Lữ Tứ Nương, nhưng chàng muốn đến cúng tế trước mộ Lữ Tứ Nương là để gặp Cốc Chi Hoa. Mang Sơn nằm ở Hà Nam, Kim Thế Di rời huyện Đông Bình ở Sơn Đông, đi gần một tháng từ phía nam Sơn Đông vào Hà Nam, vượt qua sông Hoàng Hà, men theo núi Thái Hàng đi về phía tây, hôm nay chàng đã đến một trấn nhỏ tên gọi Tân An, từ Tân An đi tiếp khoảng hai trăm dặm nữa thì đến Mang Sơn.

Kim Thế Di đến Tân An thì trời đã nhá nhem tối.

Chàng vốn còn muốn đi một đoạn nữa, nhưng khi đi ngang cửa của một khách sạn thì vô tình phát hiện hai thớt tuấn mã cổ dài chân ngắn, bốn vó như mây, đó chính là loại ngựa giống Đại Uyển. Kim Thế Di lấy làm lạ, thầm nhủ: “Chủ nhân của hai thớt ngựa này chắc chắn từ miền tái ngoại đến, mình phải xem thử là ai!” vì thế chàng quyết định vào ở trong khách sạn này.

Sau bữa cơm tối, Kim Thế Di ngồi luyện tọa công, đến canh ba thì chàng rón rén đứng dậy, đến cửa các phòng lén nhìn vào, chàng chẳng thấy có điều gì khác lạ, nhưng đến căn phòng cuối cùng nằm ở phía đông, Kim Thế Di vừa chạm vào cửa sổ thì chợt nghe bên trong có người mắng: “Tên quái vật Kim Thế Di chết quách cho xong?”

Kim Thế Di không khỏi thất kinh, khinh công của chàng mấy năm nay đã đến mức lư hỏa thuần thanh, chàng tin rằng mình không hề phát ra tiếng động. Nhưng trong đêm tối mịt mùng mà người trong phòng vẫn có thể phát hiện ra.

Chỉ nghe một người nói: “Võ lão nhị, sao có thể mắng người ta ở sau lưng?”

giọng nói lúc nãy lại vang lên: “Tôi không mắng y thì mắng ai? Thử nghĩ xem, chúng ta bôn ba nhọc nhằn chẳng phải là vì y sao? Chuyện tốt của thúc đến nay vẫn chưa thành cũng chẳng phải là vì y sao, hừ, khổ nổi đến lúc này chúng ta không biết y còn sống hay đã chết?” Kim Thế Di nghe đến đây thì mới vỡ lẽ ra, té ra những kẻ trong phòng không phải phát giác ra hành tung của chàng mà là bọn chúng đang nói tới chàng.

Những điều khiến cho chàng thắc mắc chính là giọng nói của hai người này không quen, nhưng tại sao bọn chúng lại nguyền rủa chàng tựa như chàng có mối thù không đội trời chung với chúng?

Chỉ nghe một giọng nói tựa như còn rất trẻ của một thiếu niên vang lên: “Ta thì mong Kim Thế Di vẫn còn sống, nếu không chỉ e tiểu sư muội của ta sẽ đau lòng cả một đời!”

Giọng nói lúc nãy lại vang lên: “Tiểu sư thúc, đừng trách tôi lắm lời, tôi thấy hình như người hơi ngốc. Nếu Kim Thế Di quả thực đã chết, chả lẽ tiểu cô cô còn có thể đợi chờ? Sư thúc cũng biết sư tổ đã có ý giúp cho sư thúc chuyện này, chính tai tôi đã nghe người nói chuyện ấy với mẹ của Tâm Mai?”

Kim Thế Di nghe tên Tâm Mai thì giật mình, hình bóng của một nàng thiếu nữ đáng yêu hoạt bát hiện lên trong lòng chàng, chàng nhớ lại lần đầu tiên gặp gỡ nàng ở trên núi Nga Mi, nhớ lại giữa thảo nguyên mênh mông miền tái ngoại, đã từng cùng mẹ con nàng vượt đường xa ngàn dặm, nhớ lại tấm tình si của nàng ở trên núi Hỷ Mã Lạp Nhã, tuy Kim Thế Di không nỡ làm xao động cõi lòng của một nàng thiếu nữ, không dám chấp nhận tình yêu của nàng, nhưng chàng lại cảm kích trái tim chân tình của nàng, dù thế nào đi nữa suốt đời này chàng vẫn không thể quên được hình bóng ấy.

Kim Thế Di cũng đoán được thân phận của hai người trong phòng. Người được gọi là Võ lão nhị chắc là Võ Định Cầu, người có vai vế nhỏ hơn Lý Tâm Mai một bậc.

Số là bà bà của Phùng Lâm chính là Võ Quỳnh Dao một trong Thiên Sơn thất kiếm, anh trai của Võ Quỳnh Dao là Võ Quỳnh Hóa có hai người cháu, người anh tên gọi Võ Định Châu, người em tên gọi Võ Định Cầu. Tính ra cũng có quan hệ thân thích, tuy dã tương đối xa nhưng hậu nhân của Thiên Sơn thất kiếm vài ba năm thì gặp nhau một lần, nếu chưa thành niên thì càng thường gặp nhau hơn, cho nên anh em nhà họ Võ từ nhỏ đã rất thân quen với Lý Tâm Mai, họ biết chuyện nhà của nàng, đó đương nhiên không có chuyện gì lạ. Còn chàng thiếu niên kia chính là đệ tử duy nhất mà Đường Hiểu Lan đã thu nhận, tên gọi Chung Triển. Năm xưa Băng Xuyên thiên nữ lên Đà Phong, trước khi gặp vợ chồng Đường Hiểu Lan đã từng đánh với y một trận.

Chuyện này Kim Thế Di đã từng nghe Băng Xuyên thiên nữ kể. Kim Thế Di biết lai lịch của hai người này, trong lòng dâng lên nỗi thắc mắc, chỉ nghe Võ Định Cầu tiếp tục nói:

“Hôm ấy, tôi đang luyện kiếm với Tâm Mai ở trong sân, Đường đại hiệp bước vào nói chuyện với mẹ Tâm Mai về Kim Thế Di. Đường đại hiệp bảo, Kim Thế Di đã mất tích nhiều năm, ông ta nhờ người đi tìm khắp nơi mà vẫn chẳng hề có tin tức, chỉ e lành ít dữ nhiều. Rồi ông ta lại nhắc đến hôn sự của Tâm Mai, sư thúc có biết ông ta nhắc đến ai không? Đó chính là người mẹ của Tâm Mai xưa nay mau mắn, bà bảo đã biết tâm ý của con gái, trừ phi biết rõ Kim Thế Di đã chết, nếu không e rằng cũng rất khó khuyên nàng, nhưng cũng lo con gái sẽ lỡ tuổi thanh xuân, bảo rằng sau khi hỏi con gái thì mới nghĩ đến mối hôn sự này. Tâm Mai đang ở trong vườn với tôi đương nhiên nghe rất rõ ràng lời họ nói, nàng nghĩ bà cũng có ý muốn cho nàng nghe. Lúc đó tôi cũng thấy thần sắc của nàng có hơi kỳ lạ, nhưng cũng không để ý, không ngờ tối hôm ấy nàng đã bỏ trốn xuống núi”

Chung Triển thở dài, nói: “Té ra Tâm Mai sư muội đã bỏ trốn vì chuyện này!”

Võ Định Cầu cười rằng: “Tiểu sư thúc, người đừng quá lo lắng. Nàng bỏ trốn xuống núi đương nhiên là đi tìm Kim Thế Di, cứ để nàng thỏa lòng cũng được. Nàng đi tìm khắp nơi không thấy, biết chắc Kim Thế Di đã chết, chả lẽ suốt đời nàng không lấy ai nữa?”

Chung Triển im lặng không nói. Võ Định Cầu lại bảo: “Kẻ tôi căm ghét nhất là tên quái vật Kim Thế Di, đúng là một tên ăn mày điên khùng, Tâm Mai đã thích y như thế, thậm chí cả mẹ của nàng, sư phụ của sư thúc đã phí nhiều công sức vì chuyện y còn sống hay đã chết? Y chết thì không sao, nếu Tâm Mai mất tích vì y e rằng chúng ta lại phải đi tìm nàng!”

Chung Triển nói: “Chúng ta đã tìm nửa năm mà chẳng hề nghe tung tích nàng. Nàng xưa nay ngang ngạnh, một thiếu nữ trẻ tuổi mà một mình đi lại trên giang hồ, mong rằng nàng không xảy ra chuyện gì thì tốt.”

Võ Định Cầu nói: “Sư thúc đúng là tình sâu ý nặng, đáng tiếc nàng không biết điều đó. Thực ra cũng không cần lo lắm, võ công của Đường đại hiệp là thiên hạ đệ nhất, võ công của nàng cũng chẳng kém chúng ta. Trên giang hồ có mấy người có thể địch lại nàng? Dù cho có thể thắng nàng, chỉ cần động thủ với nàng thì lẽ nào không biết nàng là đệ tử của phái Thiên Sơn? Sư thúc thử nghĩ xem, ai dám đụng đến môn hạ của phái Thiên Sơn?”.

Kim Thế Di ngồi bên ngoài cửa sổ ngẩn người ra, chàng thầm nhủ: “Không ngờ Tâm Mai lại có tình sâu ý nặng với mình như thế, đã bốn năm qua mà vẫn chẳng hề thay đổi! Người họ Chung nhân phẩm hình như cũng không tệ. Còn tên họ Võ thì thật đáng ghét.”

Võ Định Cầu vẫn không ngừng nói trong phòng, vừa nguyền rủa Kim Thế Di vừa chọc cười Chung Triển.

Kim Thế Di bực mình, móc một ít bùn ở dưới đất vo lại, chàng đưa tay chọc rách giấy cửa sổ bắn viên bùn ấy vào miệng Võ Định Cầu.

Thế mà cả hai chàng thiếu niên không biết trời cao đất dày nhảy dựng dậy, Chung Triển rút cây thanh cương kiếm treo trên vách đâm ra cửa sổ, Võ Định Cầu cũng nhảy ra, y tức giận đến nỗi ngoác mồm mắng: “Tên khốn kiếp ở đâu dám hí lộng tiểu gia?”

Tiếng mắng chưa dứt thì một viên bùn lại bay tới, lúc này Võ Định Cầu né tránh rất nhanh, viên bùn trúng bốp vào mặt y, vừa thối vừa ướt nhèm nhẹp. Kim Thế Di cố ý để cho họ đuổi theo, Chung Triển biết võ công của người này cao hơn mình nhưng Võ Định Cầu đã đuổi theo, cả hai người coi như là đồng môn cho nên y cũng chỉ đành chạy theo. Kim Thế Di dụ họ ra ngoài ngoại ô, chốc chốc thì ném lại một hòn đá hoặc một viên bùn trêu ghẹo họ.

Khinh công của Kim Thế Di cao mình hơn họ nhiều, họ đuổi mãi mà chỉ thấy thấp thoáng bóng dáng của Kim Thế Di, đến khi không đuổi thì bùn và đá lại bay tới khiến Võ Định Cầu cứ ngoác mồm mắng mãi không thôi.

Chung Triển lanh lẹ hơn, nhủ thầm: “Chẳng lẽ người này là Kim Thế Di?” nghĩ chưa đứt, chợt nghe một tiếng hú dài chói tai vọng tới, chiếc bóng ở trước mặt đã biến mất dạng.

Kim Thế Di rẽ sang một con đường nhỏ, quay về khách sạn trước hai người Võ, Chung.

Kim Thế Di vừa đi vừa cười thầm, nào ngờ vừa mới về đến phòng thì phát hiện có một sự việc khiến chàng không thể cười được nữa.

Đó là một cây ngọc thoa, Kim Thế Di bước vào phòng thì thấy có cây ngọc thoa trên bàn, cây ngọc thoa phát ánh sáng lấp lánh, Kim Thế Di cầm lên nhìn, chàng ngạc nhiên đến nỗi không đám tin vào mắt mình, đó là một cây ngọc thoa hình bươm bướm, kiểu dáng rất đặc biệt, đó chính là vật trang sức của Lý Tâm Mai, từ lúc Kim Thế Di gặp gỡ cho đến khi chia tay nàng, nàng vẫn thường cắm cây ngọc thoa này.

“Ở đâu ra thế này? Chả lẽ Tâm Mai tìm đến mình?”

Kim Thế Di nhặt cây ngọc thoa lên, đoán bừa một hồi, khi nhìn kỹ thì thấy trên cây ngọc thoa có vết máu nhàn nhạt.”Có phải nàng đã bị thương? hay là nàng muốn bày tỏ tâm ý của mình?”

Kim Thế Di cầm cây ngọc thoa mà như nhìn thấy Lý Tâm Mai, nhớ lại giọng nói nét cười của nàng, nhớ lại ánh mắt u oán của nàng, Kim Thế Di chợt thấy đau đớn cõi lòng: “Chả lẽ mình không thoát khỏi nghiệp chướng này?”

Trong đêm tối ánh lặng, chàng chợt nghe trên mái nhà có tiếng thở nhẹ, Kim Thế Di giật mình: “Ai mà có công phu dạ hành giỏi như thế? Chắc chắn là Tâm Mai?”

Kim Thế Di nhảy lên mái nhà, chỉ thấy một cái bóng đen lướt qua, trông bộ dạng chẳng giống nữ nhi, trong chớp mắt cái bóng ấy đã đến trước cửa phòng của Chung Triển và Võ Định Cầu.

Y ghé mắt nhìn vào bên trong cửa sổ chợt kêu ồ một tiếng, tựa như vì phát hiện bên trong không có người cho nên cảm thấy kinh ngạc, Kim Thế Di không đợi quay đầu lại đã mau chóng dùng thủ pháp nhanh như điện chớp điểm vào ma huyệt của y rồi xoay người y lại nạt hỏi: “Ngươi là ai? Ngươi tìm ai?”

Hán tử ấy ngây người ra, Kim Thế Di giơ cây ngọc thoa trước mặt y, khẽ quát hỏi: “Có phải ngươi đem cây ngọc thoa này đến hay không?”

Trong khoảnh khắc chỉ thấy hán từ ấy mở to mắt, bộ mặt rất kinh ngạc, Kim Thế Di nhủ rằng dù không phải y đem cây ngọc thoa này đến cũng chẳng liên quan gì đến y, cho nên xỉa cây ngọc thoa tới trước mắt y trầm giọng quát:

“Ngươi mau nói thực, nếu không ta đâm mù mắt ngươi!”

Hán tử ấy kêu ối chà một tiếng rồi nói: “Ngươi có phải là đệ tử của phái Thiên Sơn không?”

Kim Thế Di nói: “Ta là Kim Thế Di.”

Kim Thế Di đã bị người ta gọi là Độc thủ phong cái, ai cũng đều nghĩ chàng là một kẻ quái gở, hán tử nghe chàng nói tên thì hoảng sợ còn hơn gặp phải Diêm Vương, y run lẩy bẩy vội vàng nói: “Tôi chẳng phải đến đây dòm ngó ngài, tôi... tôi phụng lệnh theo dõi một thiếu nữ.”

Kim Thế Di nói: “Thiếu nữ ấy như thế nào?” Hán tử bảo: “Không... không biết.”

Kim Thế Di nói: “Có phải là nữ đệ tử họ Lý của phái Thiên Sơn không?”

Hán tử đáp: “Không... không phải.”

Kim Thế Di lại giơ cây ngọc thoa, nói: “ Ngươi có nhận ra cây ngọc thoa này không?”

Hán tử trả lời: “Đây... đây là cây ngọc thoa thiếu nữ ấy đã đánh cắp trong trang của chúng tôi.”

Kim Thế Di nghe thế thì ngạc nhiên, lòng thầm nhủ: “Đánh cắp? Sao cây ngọc thoa của Lý Tâm Mai lại lọt vào tay người khác? Thiếu nữ ấy lại là ai?”

Rồi chàng hỏi tiếp: “Ngươi vâng lệnh ai'?” Hán tử lắp bắp trả lời:

“Mạnh... Mạnh...” nói xong một chữ Mạnh thì y đột nhiên kêu thảm một tiếng rồi đổ ập xuống đứt hơi.

Kim thế Di là cao thủ ném ám khí, khi hán tử ấy vừa mới thốt ra được một chữ “Mạnh” thì chàng đã nghe có tiếng ám khí rất nhỏ bé xé gió bay tới, thế nhưng chàng cũng chỉ có thể né tránh một mũi mai hoa châm chứ không kịp cứu y.

Kim Thế Di có đầy kinh nghiệm giang hồ, thấy thế thì biết người vừa mới phóng ám khí chắc chắn là đồng bọn của y, kẻ này nấp ở một chỗ, vì sợ đồng bọn khai ra sự thật cho nên giết người bịt miệng. Kim Thế Di không rảnh lục soát phòng của hai người Chung, Võ mà lập tức đuổi theo, trong khoảnh khắc ấy người kia cũng đã chạy được hơn một dặm. Nhưng từ nhỏ Kim Thế Di đã luyện phóng ám khí, tai rất thính, tuy không thấy bóng dáng của y nhưng nghe bước chân của y thì đoán được y chạy về hướng nào.

Kim Thế Di lập tức thi triển khinh công thượng thừa Lục địa phi đằng, đuổi được một đoạn thì nghe ở phía trước có tiếng binh khí chạm nhau, Kim Thế Di gia tăng cước bộ, chạy tới phía trước nhìn thì thấy có hai thiếu niên, mỗi người sử dụng một cây trường kiếm đang giao đấu 'với một hán tử, hán tử ấy sử dụng một cây roi bảy đốt, lúc này đã bị chặt đứt ba đất, roi dài biến thành roi ngắn, xem ra đã sắp bị thương dưới kiếm của hai thiếu niên. Còn hai thiếu niên này chính là Võ Định Cầu và Chung Triển.

Kim Thế Di cả mừng, sợ hai thiếu niên không nương tay mà giết chết hán từ ấy, đang định chạy lên bắt sống y thì trong lúc đó đã nghe hán tử quát: “Người phía sau mới là Kim Thế Di, các ngươi chặn ta làm gì?”

Chung Triển đã nghe tiếng bước chân của Kim Thế Di, nghe thế thì thất kinh, Võ Định Cầu lúc này nhìn lại thì mới lạc giọng kêu lên: “Ối chao, quả nhiên là Kim Thế Di. Hôm nay ta liều mạng với ngươi!”

Hán tử che mặt nhân thời cơ ấy thì lập tức co giò bỏ chạy.

Kim Thế Di cười: “Ngươi muốn liều mạng nhưng lúc này ta không thể chiều.”

Nói chưa dứt thì chợt hấy có hai luồng ánh sáng bắn tới trước mặt như điện chớp, đó là ám khí độc môn Thiên Sơn thần mạng của phái Thiên Sơn, Kim Thế Di đã từng thấy Đường Kinh Thiên sử dụng, cho nên biết loại ám khí này rất lợi hại. Công lực của Chung Triển tuy kém xa Đường Kinh Thiên, nhưng hai mũi thần mang vừa phát ra đã xé gió bay tới, uy thế rất kinh người. Kim Thế Di không dám tiếp liều, chỉ đành phóng vọt người lên tránh được mũi thứ nhất rồi dùng cây gậy sắt gạt mũi thứ hai, chàng chỉ chậm lại trong khoảnh khắc mà Chung Triển và Võ Định Cầu đã đâm kiếm tới.

Chung Triển và Võ Định Cầu tuy chưa gặp Kim Thế Di, nhưng đã biết chàng qua lời của Lý Tâm Mai, bọn họ bị Kim Thế Di bản cột, trong lòng rất căm tức, bởi vậy lúc nãy gặp người che mặt đã tưởng là Kim Thế Di, đấu một hồi thì mới nhận ra không ổn, Kim Thế Di liền chạy tới, bọn họ thấy chàng sử dụng cây gậy sắt, bề ngoài trông giống như Lý Tâm Mai đã tả, đương nhiên nào chịu bỏ qua. Hai người vừa xông lên đã thi triển kiếm thuật lợi hại nhất của sư môn. Chung Triển sử dụng Truy phong kiếm thức trong Thiên Sơn kiếm pháp, Võ Định Cầu thì sử dụng kiếm chiêu quỷ dị của Bạch phát ma nữ, cả hai không hẹn mà đều ra đòn sát thủ!

Kim Thế Di lướt người né tránh, Chung Triển đâm hụt một nhát kiếm, nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, mũi kiếm của Võ Định Cầu đã hất tới bụng dưới của chàng, rồi phương vị của nhát kiếm chợt thay đổi, quả đúng là quỷ dị vô cùng, nhưng làm sao có thể đả thương được Kim Thế Di? Chỉ nghe keng một tiếng, Kim Thế Di búng ngón tay giữa, chàng ra tay còn nhanh hơn kiếm chiêu của y, cây trường kiếm của Võ Định Cầu suýt nữa đã bị chàng búng vuột khỏi tay, may mà Chung Triển vừa đâm hụt một kiếm, kiếm thứ hai đã đâm tới, chiêu này chính là Thương hải vi trần trong Tu đi kiếm thức, kiếm pháp của phái Thiên Sơn bác đại tinh thâm, chiêu này có công lẫn thủ, Chung Triển tuy chưa đủ hỏa hầu, nhưng trong vòng kiếm quang đã văng vẳng có tiếng sấm sét. Kim Thế Di vốn có thể đoạt thanh trường kiếm của Võ Dịnh Cầu, nhưng chàng cũng sợ bị kiêm quang của Chung Triển bao trùm, chỉ đành sử dụng Đại na di thân pháp né tránh nhát kiếm ấy của Chung Triển. Nhát kiếm của

Chung Triển chỉ chệch có nữa thế thì đã không đâm trúng chàng.

Võ Định Cầu kêu một tiếng: “Đáng tiếc!” Rồi dựng cây trường kiếm lên, Kim Thế Di đang nóng lòng đuổi theo kẻ che mặt, vốn chẳng có ý tỉ thí với hai người, nhưng hai người họ vây công, chàng không sử dụng binh khí thì không thể nào thoát được. Kim Thế Di phóng vọt người né tránh sáu bảy chiêu đã vận dụng các loại thân pháp nhưng không phá nổi lưới kiếm của hai người Chung, Võ.

Võ Định Cầu quát: “Ngươi còn chưa rút ra binh khí, đừng trách kiếm ta vô tình”

Kim Thế Di cười nói: “Ta mà dùng binh khí chỉ e ngươi đỡ không nổi. Tên tiểu bối cuồng vọng ngu ngốc nhà ngươi, ta vốn nên đánh vào mông người, nhưng nể mặt cô cô của ngươi, hôm nay ta tạm thời tha cho ngươi một lần, các người mau tránh ra.”

Võ Định Cầu quát: “Ngươi còn mặt mũi nào nhắc đến cô cô, con cóc ghẻ như nhà ngươi mà cũng muốn ăn thịt thiên nga?”

Kim Thế Di ghét nhất là bị người khác coi thường, nghe thế thì quát: “Hay lắm! Ngươi thật muốn ăn đòn”

Khi đang nói chàng hơi phân thần, bị Chung Triển sử dụng một chiêu Truy phong trục điện, suýt nữa đã đâm trúng chàng.

Võ Định Cầu cười lạnh: “Còn chưa biết ai sẽ bị đòn?”

Kim Thế Di nói: “Sao?” chàng vừa nói ra thì vung gậy lên, keng một tiếng, hổ khẩu của hai người Chung, Võ đều nóng ran, đó là chàng vẫn còn lưu tình, sợ chấn thương nội tạng của họ cho nên chỉ dùng năm phần lực.

Võ Dịnh Cầu thất kinh nhưng họ đã học nội công chính tông của phái Thiên Sơn, gậy ấy của Kim Thế Di tuy khiến cho hổ khẩu của họ nóng ran nhưng vẫn còn có thể chống đỡ nổi. Họ nhờ vào kiếm pháp tinh diệu, toàn thần để ý cây gậy sắt của Kim Thế Di, né tránh tiếp xúc với chàng, hai kiếm chỉ đông đánh tây, chỉ nam đánh bắc chẳng ai chịu lùi ra. Kim Thế Di dần dần tăng nội lực cố ý để lộ sơ hở dụ cho cả hai kiếm đánh vào vòng, chợt chàng vung cây gậy đánh keng một tiếng, lập tức cây thanh cương kiếm của Chung Triển bay lên không trung, Kim Thế Di cười ha hả rồi vung tay chụp tới nhanh như điện chớp. Chung Triển bị luồng nội lực cường mãnh của chàng đánh chấn động đến nỗi xoay mồng mồng như vòng trôn ốc, rõ ràng thấy Kim Thế Di đã tiến tới trước mặt nhưng không né được. Kim Thế Di chụp vào lưng của y ném về phía trước, gằn giọng nói: “Tên tiểu tử nhà ngươi không đáng ghét lắm, có thể miễn bị đánh. Hừ! Tên tiểu tứ khốn kiếp họ Võ thì phải đánh vào mông”

Chung Triển bị Kim Thế Di ném ra, tưởng rằng không chết cũng bị trọng thương, y chợt cảm thấy người nhẹ hẫng, thế rồi thử thuận thế lộn người trên không trung, quả nhiên nhẹ nhàng hạ xuống đất, chẳng hề bị thương tích gì. Lúc này Chung Triển mới biết Kim Thế Di đã nương tay, chàng dùng lực cho cú đánh ấy rất chính xác, cứ như đã nhất Chung Triển lên rồi nhẹ nhàng đặt xuống.

Chung Triển đứng ngây người ra, ngay lúc này chỉ nghe soạt một tiếng, Kim Thế Di đã đoạt được cây trường kiếm của Võ Định Cầu, chàng chỉ vung tay lên thì cây kiếm gãy đôi, Võ Dịnh Cầu hoảng sợ đến nỗi hồn bay phách tán, khi định chạy thì chẳng thể nào kịp nữa, bị Kim Thế Di trở gật đập ba cái bốp bốp bốp vào mông. Kim Thế Di buông giọng cười lớn, khi Chung Triển chạy đến thì chàng đã biến mất dạng.

Võ Định Cầu bật dậy, ngoác miệng mắng lớn.

Chung Triển thấy y vẫn còn mắng được mà giọng nói thì ồm ồm, chẳng hề bị nội thương mới thở phào, khi nhìn lại thì thấy da mông của y đã bị rách mới biết là y chỉ bị ngoại thương chứ chẳng hề chi. Chung Triển nói: “Võ lão nhị, đừng mắng nữa, chúng ta hãy thương lượng xem thế nào trả mối hận này. Ngươi bảo có cần báo cho sư phụ biết chuyện này không?”

Võ Định Cầu nói: “Không, sư phụ của người chắc chắn sẽ giúp tên ăn mày điên này. Chúng ta nhờ với người khác đấu với y một trận.”

Kim Thế Di đánh vào mông Võ Định Cầu tuy rất thích thú nhưng sau đó cũng hơi hối hận, chàng nghĩ: “Tên này vốn đáng bị đánh, nhưng Tâm Mai chắc chắn sẽ trách mình. Nhất là mình không nên làm nhục Chung Triển. Đường Hiểu Lan có ý mai mối cho họ, tên tiểu tử này lấy cho Tâm Mai cũng xứng lắm.”

Nghĩ đến đây, chàng cảm thấy có điều kỳ quái, lòng thầm cười: “Mình bình sinh hành sự chưa bao giờ hối hận, nhưng đêm nay đánh hai tên tiểu tử này lại thấy hối hận? Chả lẽ đúng như nàng thiếu nữ kia nói, tính tình mình đã bắt đầu thay đổi mà cả mình cũng chẳng biết?”

Sau một hồi đánh nhau, hán tử che mặt ấy đã chạy mất dạng. Kim Thế Di nhớ lại người bị ám sát lúc nãy trước khi chết đã thết ra được một chữ Mạnh, chàng chợt giật mình thầm nhủ: “Chả lẽ y bảo Mạnh Thần Thông..?"

Đúng thế, Mạnh Thần Thông ở một ngôi làng vắng vẻ, tại sơn cốc phía nam núi Thái Hàng, cách đây không quá một trăm dặm đường. Dù có phải là y hay không, mình cũng phải xông vào Mạnh gia trang một chuyến.

Thì ra Mạnh Thần Thông là một dị nhân mai đanh ẩn tích, y vốn có tên khác, vì người trên giang hồ thấy y xuất hiện vô thường, thần thông quảng đại cho nên gọi y là Mạnh Thần Thông, trái lại chẳng ai nhớ đến tên cúng cơm của y. Gần mười năm nay, chỉ có một số ít người biết tung tích của y, Kim Thế Di là một trong số đó. Bởi vì sau khi Kim Thế Di rời khỏi Xà đảo cho đến khi mất tích ở dưới chân núi Chu Mục Lang Ma, chàng đã lập chí tỉ thí với tất cả các anh hùng trong thiên hạ đã từng đến gặp cao nhân dị sĩ ẩn cư ở các nơi cho nên biết rất nhiều tin tức trên giang hồ. Tuy nơi ở của Mạnh Thần Thông bí mật nhưng cuối cùng chàng vẫn phát giác ra. Nhưng khi chàng đến tìm Mạnh Thần Thông thì y không có ở nhà, cho nên hai người tuy nghe tiếng của nhau đã lâu mà chưa từng gặp mặt nhau.

Kim Thế Di suy đi tính lại, kẻ đáng ngờ chỉ có Mạnh Thần Thông cho nên quyết ý đến Mạnh gia trang, dù Lý Tâm Mai không có ở đấy cũng tìm cơ hội tỉ võ với Mạnh Thần Thông.

Từ Tân An đến Mạnh gia trang phải đi khoảng một trăm dặm, người bình thường ít nhất phải đi cả ngày nhưng Kim Thế Di thi triển khinh công Lục địa phi đằng chỉ hơn một canh giờ đã tới nơi Mạnh gia trang nằm ở một sơn cốc phía nam núi Thái Hàng, Ở đó có hơn hai mươi gian nhà, người trong thôn đều là họ hàng và đệ tử của Mạnh Thần Thông.

Mạnh Thần Thông thì ở trong một tòa nhà lớn trông như thành cổ, trước đây Kim Thế Di đã đến một lần, cho nên nay chàng dễ dàng tìm ra. Mạnh gia trang nằm dưới sơn cốc. Kim Thế Di đứng từ trên sườn núi nhìn xuống chỉ thấy thôn làng lặng lẽ chứ chẳng có người tuần tra.

Chàng trầm ngâm một lúc lâu thì thầm nhủ: “ Âm thầm độc nhập vào Mạnh gia hay là cầu kiến quang minh chính đại.”

Chàng chợt nghe có tiếng loạt soạt trong bụi cỏ tranh, Kim Thế Di dỏng tai lắng nghe, chợt co người quát: Xem ngươi chạy đi đâu? Này, ta tìm được ả nha đầu rồi!” rồi khẽ vỗ tay hai tiếng, ba bốn người từ ba hướng nhảy bổ tới.

Kim Thế Di nhảy vọt lên cành cây, chàng nghe người ấy nói thì biết bọn chúng không phải phát hiện ra mình bèn nghĩ thầm: “Ả nha đầu nào, chả lẽ là Lý Tâm Mai?”

Lập tức, một bóng người từ trong bụi cỏ tranh phóng vọt ra, dáng dấp chẳng khác gì Lý Tâm Mai, Kim Thế Di giật thót tim, ngay lúc này có tiếng phụ nữ quát: “Hừ, tặc tử xem kiếm!” rồi tiếng binh khí chạm nhau, cả ba đại hán đều bị nàng ép thối lui mấy bước.

Giọng nói này không phải của Lý Tâm Mai, Kim Thế Di rất thất vọng. Nàng thiếu nữ đã che mặt cho nên chàng không nhìn thấy rõ.

Chàng thầm nhủ: “Nàng tuy không phải là Lý Tâm Mai nhưng võ công chẳng kém gì Lý Tâm Mai. Sự việc hôm nay sao mà bí hiểm đến thế, lúc nãy là một hán tử che mặt, giờ đây lại gặp một cô nương che mặt không biết bọn họ có cùng một phe hay không?”

Kiếm pháp của nàng thiếu nữ tuy rất cao minh nhưng võ công của ba hán tử kia cũng không tệ, trong chớp mắt đôi bên đã chạm nhau hơn hai mươi chiêu mà vẫn chưa phân thắng bại. Thiếu nữ che mặt tựa như rất nôn nóng, nàng múa kiếm đánh liên hoàn, tấn công ra mấy chiêu, chiêu số rất hiểm hóc nhưng lại không vững chãi, ba hán tử kia một người thì sử dụng roi dao long một người sử dụng cây thanh đồng giản, một người sử dụng đại trảm đao, tất cả đều là binh khí nặng nề. Thiếu nữ muốn liều mạng nhưng bọn họ cứ né tránh che chắn, nàng ta như bị vây trong một bức tường bằng đồng rắn chắc.

Hán tử sử đụng cây roi dao long cười lạnh: “Mạnh gia trang nào có thể để cho ngươi dễ dàng ra vào? Ngươi hãy ngoan ngoãn theo ta trở về, nghe trang chủ phát lạc, có lẽ sẽ được miễn tội chết, nếu chống cự đến cùng chỉ e ngươi khó giữ mạng”

Thiếu nữ ấy chẳng nói một lời, đâm liền tới mấy nhát kiếm Kim Thế Di thầm nhủ: “Thiếu nữ này đã từng đến Mạnh gia trang, chi bằng mình sẽ dò hỏi nàng trước.

Xem ra ba hán tử này chẳng địch nổi, chỉ cần nàng không nóng vội, trong vòng ba trăm chiêu có thể đánh bại bọn chúng. Nhưng dù cho trong trang không có hậu viện kẻo tới, mình cũng không thể đợi lâu.”

Kim Thế Di cũng hơi nôn nóng, nàng thiếu nữ càng nôn hơn, chỉ thấy kiếm pháp của nàng thay đổi, chiêu số hung hiểm hơn trước nhiều, tựa như hoàn toàn liều mình, trong lúc kịch chiến, hán tử dùng thanh đồng giản nhắm đúng sơ hở, đánh tới một giản, nàng ta đang muốn liều mạng với y, nhân lúc y chưa kịp rút cây giản về thì trở tay đâm một kiếm tới vai của y.

Hán tử ấy cả giận, đột nhiên phát tiếng hú dài, số ba người này đều là đệ tử đắc ý của Mạnh Thần Thông, ba người bọn chúng vây đánh một mình nàng thiếu nữ mà không chịu kêu lên là vì sợ đồng môn chê cười. Lúc này thấy thiếu nữ quá lợi hại, mới đành phải phát ra tiếng hú gọi đồng môn.

Nào ngờ y vừa mới phát ra tiếng hú thì chợt cảm thấy cổ họng đau nhói, lập tức im bặt. Té ra Kim Thế Di âm thầm ra tay, dùng phi châm bắn trúng vào á huyệt của y. Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, thiếu nữ đâm soạt tới một kiếm kết liễu y.

Kim Thế Di từ trên cây lướt xuống, kêu lên: “Giữ lại mạng bọn chúng!” Rồi tiện tay phóng ra hai mũi phi châm, một mũi đâm vào mạch môn của kẻ sử đụng roi dao long, một mũi thì đâm vào huyệt kỳ môn của kẻ sử dụng đại trảm đao, hai món binh khí đều vuột khỏi tay chúng bay ra.

Trong khoảnh khắc điện chớp lửa xẹt ấy, Kim Thế Di chưa kịp kêu ngừng thì thiếu nữ che mặt đã đâm soạt soạt hai kiếm nhanh chóng, giết phăng hai hán tử ấy.

Kim Thế Di cũng không khỏi thất kinh, không ngờ nàng ta lại ra tay độc ác đến thế. Nàng thiếu nữ giơ kiếm chặn ngang ngực quát: “Ngươi là ai? Tại sao lại xin tha cho bọn chúng?”

Có lẽ nàng vẫn chưa biết Kim Thế Di âm thầm giúp đỡ, Kim Thế Di cười rằng: “Có lẽ cô nương đã nghe tên tôi, tôi tên là Kim Thế Di, là tôi...”

Thiếu nữ ấy giật mình, té ra “Tiếng xám” của Kim Thế Di đã truyền khắp giang hồ. Thiếu nữ tưởng rằng chàng là một ma đầu tà phái cùng phe với Mạnh Thần Thông.

Kim Thế Di chưa nói xong, chợt nghe phập một tiếng, thiếu nữ ấy vung tay, một cuộn khói đen bốc lên.

Đó chính là: Câu đố ngọc thoa đã khó giải, cô nương che mặt càng lạ hơn.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Vân Hải Ngọc Cung Duyên - Lương Vũ Sinh

Postby tuvi » 05 Feb 2023

Hồi Thứ Bảy
Đem bao thủ đoạn ra tranh thắng...Đâu biết trong lòng đã thích nhau

Kim Thế Di cả kinh, sợ trong làn khói có độc, vội vàng nín thở rồi phóng vọt
người ra xa ba trượng. Một hồi sau làn khói tan mất, thiếu nữ che mặt cũng mất dạng.

Lúc này Kim Thế Di mới biết nàng thiếu nữ đã ném khói bỏ chạy nhưng không hiểu tại sao nàng lại né tránh mình, càng nghĩ càng thấy chuyện đêm nay rất kỳ quặc.

”Thiếu nữ ấy là ai? Có phải nàng đã đem cây ngọc thoa đến? Tâm Mai muội muội có phải gặp nguy trong Mạnh gia trang?” dù cho chàng là người già dặn giang hồ, nhưng cũng không thể nào trả lời được những câu hỏi này, chỉ đành vào Mạnh gia trang có lẽ sẽ tìm ra manh mối.

Bóng trăng chìm về tây, sao đã thưa, trời đã sắp sáng, Kim Thế Di bước vào trong thôn, trên đường gặp phải vài người chạy ra, đó là những kẻ nghe tiếng hú trên núi cho nên mới đi ửng cứu.

Kim Thế Di thầm nhủ: “Ồn ào như thế này, bên trong chắc chắn canh phòng nghiêm ngặt, muốn lẻn vào phải nghĩ cách mới được.”

Khinh công của Kim Thế Di trác tuyệt, vừa nghe tiếng bước chân thì lập tức nấp mình né tránh, những kẻ từ bên trong chạy ra không hề phát giác có người lẻn vào thôn. Nhưng Kìm Thế Di đoán với một đại ma đầu lợi hại như Mạnh Thần Thông, các cao thủ trong trang chắc chắn giỏi hơn những đệ tử kia nhiều chàng tuy tài ba bạo dạn nhưng cũng không đám có ý khinh địch.

Một hồi sau, bọn người kia đều đã đi qua hết, Kim Thế Di đi lần tới trước trang, chỉ thấy có hai hán tử mặc đồ đen đang tuần tra, một người nói: “Không ngờ đêm nay lại có người lẻn vào trong trang, mà đó lại là một ả nha đầu, việc mười năm qua ta chưa từng thấy bao giờ”

Tên đồng bọn nói: “Vừa rồi có tiếng tiêu từ trên núi vọng xuống, ba sư huynh của chúng ta hình như không phải là địch thủ của ả nha đầu?”

Hán tử lúc nãy nói: “Nghe nói mấy ngày trước còn có một thiếu nữ bị sư phụ bắt sống,không biết chuyện này là thật hay giả?”

Tên đồng bọn suỵt một tiếng rồi nói: “Ngươi đừng nên bàn chuyện này sau lưng sư phụ, ta và ngươi nói chuyện không sao, nhưng nếu để lọt ra ngoài thì sư phụ sẽ lấy mạng ngươi”

Hán tử kia bảo: “Thì cứ kề tai nói nhỏ với nhau cũng được”

Hai hán tử kề tai thì thầm, tuy Kim Thế Di rất thính tai nhưng vì cách bọn chúng đến hơn ba trượng, chẳng hề nghe được chữ nào, chàng chỉ thấy hán tử lúc nãy trợn mắt há mồm, vẻ mặt rất hãi hùng và kinh ngạc.

Kim Thế Di nghĩ bụng: “Còn có ai bị bắt? Mạnh Thần Thông dám bắt nàng nhưng lại cảnh giác như thế, chắc chắn đó là một nhân vật có tiếng tăm. Ồ, chả lẽ là Lý Tâm Mai? Lúc nãy thiếu nữ che mặt kia có phải muốn đến cứu Lý Tâm Mai? Hình như hai chuyện này có liên quan với nhau, nhưng võ công của thiếu nữ che mặt hoàn toàn chẳng giống phái Thiên Sơn.”

Rồi chàng rút ra hai mũi phi châm, hai hán tử ấy chưa nói xong thì chợt thấy huyệt kỳ môn như bị kiến cắn, toàn thân mềm nhũn chẳng nói ra lời. Kim Thế Di từ trong bóng tối nhảy ra, đặt chường vào hậu tâm của hán tử ấy, giải huyệt cho y rồi khẽ nói: “Đừng kêu lên, ngươi kêu nửa câu ta sẽ đánh đổi kinh mạch của ngươi”

Giọng nói của chàng rất lạnh lẽo, tựa như kim bén đâm sâu vào lục phủ ngũ tạng của hán tử ấy. Võ công của hán tử tuy không cao nhưng y đã theo Mạnh Thần Thông nhiều năm, bởi vậy cho nên mới biết võ công của đối phương giỏi hay giở. Vừa nghe Kim Thế Di dùng nội công thượng thừa phát ra tiếng, y lập tức chấn động tâm can, ngửa mặt nhìn Kim Thế Di, run rẩy hỏi: “Ngươi... ngươi là ai?”

Kim Thế Di nói: “Đại trượng phu đi không đổi tên, ngồi không đổi họ, ta chính là Kim Thế Di bảy năm trước đã từng tìm sư phụ của ngươi!”

Hán tử ấy hoảng sợ đến nỗi mặt xám ngoét như xác chết, lắp bắp nói: “Độc... độc” chừng cảm thấy không xong, cho nên im bặt.

Kim Thế Di cười lạnh: “Đúng thế, ta chính là Độc thủ phong cái Kim Thế Di, ta hỏi ngươi, nếu ngươi nói dối nửa câu ta sẽ hạ độc thủ. Lúc đó ngươi sẽ nếm trải muôn ngàn đau khổ, muốn sống không được, muốn chết cũng không xong!”

Thực ra Kim Thế Di không cần phải dọa, y nghe tên của chàng thì đã chết khiếp.

Kim Thế Di nói: “Thiếu nữ bị sư phụ ngươi bắt tên là gì?”

Hán tử trả lời: “Tiểu nhân... thực sự không biết.”

Kim Thế Di nói: “Có phải là người của phái Thiên Sơn không?”

Hán tử ấy nói: “Tiểu nhân cũng không biết.”

Kim Thế Di nói: “Được, chuyện gì ngươi cũng không biết, vậy ngươi có thể tả dung mạo của thiếu nữ ấy không?”

Hán tử trả lời: “Tôi... tôi chưa từng thấy bao giờ...”

Kim Thế Di trừng mắt, hán tử ấp úng: “Tôi... tôi nghe đại sư ca nói rằng khoảng hai mươi tuổi, kiếm pháp cao cường, mặt hình trái xoan, mắt thanh mày tú”

Kim Thế Di nghĩ bụng, đó chẳng phải Lý Tâm Mai thì là ai? Rồi lại hỏi: “Nàng đã bị bắt như thế nào?”

Hán tử nói: “Khoảng năm sáu ngày trước, nàng một mình đến do thám, không ai phát giác, khi nàng xông vào tịnh thất, nơi trang chủ luyện công, lúc đó đại sư ca của tôi đang hầu một bên, động thủ trước với nàng, bị nàng đâm bị thương, sau đó sư phụ ra tay mới bắt được nàng. Hôm qua tôi mới nghe sư huynh kể chuyện này. Chính vì thế mấy ngày hôm nay trong trang mới canh phòng nghiêm ngặt”

Kim Thế Di nói: “Thiếu nữ ấy bị nhốt ở đâu?”

Hán tử nói: “Sư ca của tôi không chịu nói. Sư ca từ chối không cho để lộ tin tức, giao tình của tôi với đại sư ca rất tốt, nhưng y cũng chỉ nói đến thế”

Kim Thế Di nói: “Sư phụ ngươi ở đâu?” Hán tử nói:.”Ở căn thạch thất bên cạnh cây bách thứ ba trong vườn ở phía sau”

Kim Thế Di nói: “Ngươi tên gì?” hán tử ấy hơi chần chừ thì Kim Thế Di trừng mắt, y khẽ nói: “Cầu xin ngài đừng bảo tôi đã nói, tôi tên Cát Trung”

Kim Thế Di nói: “Được, ta mượn áo của ngươi”

Chàng thuận tay giải huyệt đạo cho người kia, nói: “Các người vẫn đứng canh ở đây, không được lên tiếng, nếu không ta sẽ lấy mạng ngươi”

Nói xong chàng khoác chiếc áo của Cát Trung vào rồi đi vào trong sân Mạnh gia trang. Lúc này hai hán tử nhìn nhau, quả nhiên không dám lên tiếng, nhưng cũng mong Kim Thế Di bị sư phụ của bọn chúng giết chết thì bí mật này sẽ không bị lộ ra.

Kim Thế Di vượt qua bức tường, người nhẹ như chim, trong trang tuy canh phòng cẩn mật nhưng thân pháp của chàng quá nhanh, vả lại chàng mặc chiếc áo ngoài giống võ sĩ trong trang, tuy có một hai người phát hiện ra nhưng cũng chẳng để ý.

Trong chớp mắt Kim Thế Di đã lẻn đến hậu viên, đình bước tới thì chợt nghe tiếng gió lướt tới phía sau lưng, Kìm Thế Di giật mình: “Võ công của kẻ này không kém.”

Chỉ nghe người ấy hỏi: “Cát Trung, chưa đến lúc thay người tại sao lại trở về nhanh như thế, bên ngoài xảy ra chuyện gì?”

Kim Thế Di trở tay điểm lại, người ấy ngã xuống đất. Đó chính là đệ tử thứ tư của Mạnh Thần Thông, võ công tuy không bằng Kim Thế Di, nhưng giả sử nếu y không nhầm Kim Thế Di là sư đệ của mình cho nên không hề phòng bị, có lẽ cũng có thể chống đỡ dược khoảng mười chiêu, lúc đó Kim Thế Di đã bị phát hiện.

Kim Thế Di hạ giọng cười: “Một canh giờ nữa huyệt đạo của ngươi sẽ tự giải!”

Rồi ném người ấy vào trong động của hòn non bộ, lòng thầm nhủ: “Mạnh Thần Thông dám bắt Tâm Mai muội muội của mình, mình phải dạy cho y một bài học mới được!” Rồi chàng tới cây bách thứ ba, quả nhiên thấy có một căn nhà đá, trong nhà có vọng ra tiếng nói chuyện.

Kim Thế Di nằm phục sau hòn non bộ, chàng nhìn vào cánh cửa sổ pha lê thì thấy thấp thoáng có ba bóng người, Kim Thế Di đã nghe người ta tả dung mạo của Mạnh Thần Thông, nhận ra ông già gù lưng cao lớn chính là Mạnh Thần Thông, chàng đoán rằng hán tử trung niên kia là đại đệ tử thân tín nhất của y, còn ông già kia thì chàng không biết.

Kim Thế Di áp tai lên hòn non bộ, ngưng thần lắng nghe, cao thủ giang hồ có bản lĩnh Phục địa thính thanh, có thể nghe được tiếng người ngựa di chuyển cách mình đến hai ba dặm, ba người trong phòng tuy nói không lớn nhưng Kim Thế Di vẫn có thể nghe rõ ràng.

Chỉ nghe Mạnh Thần Thông nói: “Ả nha đầu đêm qua tám phần là con gái của Lệ Phàn Sơn, có điều nữ đệ tử của phái Thiên Sơn có liên quan gì đến ả hay không? Cây ngọc thoa không biết có phải là ả đã đem ra ngoài cho con gái của Phùng Lâm?”

Kìm Thế Di giật mình: “Mạnh Thần Thông đã chính miệng nói: “Con gái của Phùng Lâm?”

Lý Tâm Mai chắc chắn đang ở Mạnh gia trang. Kim Thế Di thầm nhủ: “Mạnh Thần Thông đã biết lai lịch của Tâm Mai, lại còn dám giam giữ nàng, quả thật cũng lớn gan lắm.”

Chỉ nghe Mạnh Thần Thông hỏi đại đệ tử của y: “Đêm qua ngươi đuổi theo có phát hiện kẻ đã đánh cắp ngọc thoa hay không?” Hán tử trung niên: “Không!

Nhưng con đã vô tình phát hiện một người khác.” Mạnh Thần Thông nói: “Ai?” “Kim Thế Di!”

Mạnh Thần Thông ồ một tiếng rồi nói: “Gã này lại xuất hiện trên giang hồ. Chả lẽ gã còn muốn tìm mình tỉ thí? Kim Thế Di tuy đáng ghét, nhưng may mà y không có liên quan gì đến phái Thiên Sơn, ngươi đã phát hiện y như thế nào?”

“Con đuổi theo đến trấn Tân An, phát hiện có hai con ngựa Đại Uyển, sợ rằng đệ tử của phái Thiên Sơn ở đấy cho nên vào dò thám!”

Mạnh Thần Thông nôn nóng hỏi: “Vậy bọn chúng có phải là người của phái Thiên Sơn không?”

“Đó là hai tên tiểu bối của phái Thiên Sơn.”

Mạnh Thần Thông kêu à một tiếng rồi nói: “Có phải bọn chúng đã lấy được cây ngọc thoa không?”

“Không, cây ngọc thoa ở trong tay Kim Thế Di. Thôi Cửu bị Kim Thế Di bắt sống, buộc y nói ra lai lịch của cây ngọc thoa nhưng đệ tử đã dùng kim châm giết chết y”

Mạnh Thần Thông nói: “Hay, hay lắm, Kim Thế Di tuy không có liên quan đến phái Thiên Sơn, nhưng nếu để y biết thì không ổn. Nhưng tại sao Kim Thế Di lại có được cây ngọc thoa, lại còn theo cùng đuổi tận như thế? Thật kỳ lạ!”

người ấy trả lời: “Không những thế, y lại còn cố đuổi theo con. Hai tên tiểu bối của phái Thiên Sơn không ở trong phòng, sau đó nửa đường con gặp bọn chúng, nghe bọn chúng mắng Kim Thế Di, lúc đầu bọn chúng còn tưởng con là Kim Thế Di!”

Thế rồi y kể kỹ càng lại mọi chuyện đêm qua, Mạnh Thần Thông trầm ngâm một lúc rồi nói:

“Té ra Kim Thế Di đã gây sự với đệ tử của phái Thiên Sơn, chúng ta có thể bớt lo mộtchuyện. Nhưng nếu bọn chúng điều tra ra, kẻ này lại thích lo chuyện bao đồng, chắc chắn là sẽ truyền tới tai đệ tử phái Thiên Sơn, lúc đó sẽ không hay lắm, cho nên chúng ta phải nghĩ cách đối phó với Kim Thế Di mới được.”

Kim Thế Di nghe bọn họ đối đáp với nhau thì cũng đã đoán được vài phần câu chuyện. Lòng thầm nhủ: “Có lẽ cha của thiếu nữ che mặt có thù oán với Mạnh Thần Thông, trước khi nàng ta đến đây, Lý Tâm Mai đã vào Mạnh gia trang, Mạnh Thần Thông nhận lầm người, thế là bắt sống nàng. Sau đó không biết ai đã lấy cây ngọc thoa của Lý Tâm Mai đem ra ngoài trang, có lẽ là làm tín vật cầu viện với bốn môn.

Người mang cây thoa của nàng đi có lẽ là thiếu nữ che mặt, cũng có thể là người khác, điểm này tạm thời không cần phải nghĩ tới. Người cầm cây ngọc thoa thấy hai con ngựa Đại Uyển buộc nơi khách sạn, rõ ràng đệ tử của phái Thiên Sơn ở trong đấy nhưng lại đưa nhầm vào phòng mình. Nhưng cả hai chuyện chưa rõ ràng, chuyện thứ nhất là tại sao Lý Tâm Mai lại xông vào Mạnh gia trang? Chuyện thứ hai là Mạnh Thần Thông đã biết thân phận của Lý Tâm Mai, tại sao lại còn dám giam cầm nàng?”

Kim Thế Di đang ngẫm nghĩ, chợt nghe một giọng nói già nua khác vang lên: “Sư huynh, tại sao chúng ta phải đụng tới người của phái Thiên Sơn, chi bằng cứ xin lỗi rồi thả ả ra để khỏi lo thêm một chuyện.”

Đó là nguyên nhân Kim Thế Di muốn biết, chàng dỏng tai lắng nghe, Mạnh Thần Thông cười khan: “Dương sư đệ, đệ nói thật dễ nghe, thân phận như ta làm sao có thể xin lỗi một kẻ tiểu bối; dù cho có thả, Phùng Lâm chưa chắc bỏ qua cho chúng ta, vả lại còn có ba nguyên nhân lớn ta không thể thả”

Ông già được Mạnh Thần Thông gọi là Dương sư đệ tựa như hơi ngạc nhiên, nói: “Xin sư huynh nói tường tận hơn”

Mạnh Thần Thông nói: “Thứ nhất, ta không muốn để cho người ta biết nơi ẩn cư, bởi vì ngoài Lệ Phàn Sơn, ta còn có rất nhiều kẻ thù; thứ hai ta nghi ngờ nữ đệ tử họ Lý của phái Thiên Sơn này có liên quan đến con gái của Lệ Phàn Sơn, rất có khả năng ả đã dò thám ta cho ả họ Lệ; thứ ba lần này ta bắt được ả có lẽ không phải họa mà là phúc, ha ha, đệ có biết rằng tiểu cô nương ấy đối với chúng ta rất có lợi hay không?”

Ông già kia nói: “Sao là phúc chứ không phải họa, tiểu đệ vẫn chưa đoán được.”

Mạnh Thần Thông nói: “Đệ đã luyện Tu la âm sát công đến tầng thứ mấy?” ông già nói: “Đệ thiên tư ngu xuẩn, chẳng tiến nhanh bằng sư huynh, giờ đây vẫn chỉ luyện đến tầng thứ năm.”

Kim Thế Di thất kinh, thầm nhủ: “Sư phụ đã từng nhắc đến Tu la âm sát công, nhưng đã thất truyền từ lâu. Nghe nói đó là một loại võ công tà phái rất lợi hại, ban đầu từ Ấn Độ truyền đến, sau đó được một vị đại sư của Bạch giáo Đạt Ma Tây Tạng nghiên cứu, đổi tên thành Tu la âm sát công. Trong truyền thuyết Phật giáo có chín tầng địa ngục, Tu la âm sát công cũng chia thành chín cảnh giới, nếu luyện đến tầng thứ chín thì lợi hại vô cùng, ai bị đánh trúng cũng như lọt vào chín tầng địa ngục, mãi không siêu sinh. Đó đương nhiên chỉ là một lối so sánh, nhưng có lợi hại được như thế hay không thì không ai biết. Bởi vì Bạch giáo Đạt Ma không có truyền nhân, từ giữa thời Minh, trong sách vở võ học cũng chỉ có tên của loại võ công này, chưa nghe nói có ai biết. Chả lẽ y biết được loại võ công đã thất truyền từ lâu mà lại luyện đến trên tầng thứ năm?”

Kim Thế Di chưa kịp nghĩ xong thì chỉ nghe Mạnh Thần Thông nói: “Đệ luyện đến tầng thứ năm tạm thời không cần lo lắng. Vì huynh đã luyện đến tầng thứ bảy, đã có hiện tượng tẩu hỏa nhập ma. Theo ta tham ngộ được, chỉ cần luyện được đến tầng thứ tám nếu định lực của bản thân trấn áp không được thì sẽ tẩu hỏa nhập ma, bao nhiêu công sức sẽ trôi ra sông biển. Trừ phi lấy được tâm pháp nội công chính tông tối thượng thừa có lẽ sẽ tránh được kiếp nạn này.”

Ông già họ Dương nói: “Đệ đã hiểu, chả lẽ sư huynh muốn buộc ả nha đầu ấy viết ra tâm pháp nội công của phái Thiên Sơn.”

Mạnh Thần Thông nói: “Đệ đoán chẳng sai tý nào. Đáng tiếc con gái của Phùng Lâm quá cứng cỏi, ta bỏ đói ả ba ngày mà ả chẳng chịu viết một chữ. Nhưng ta vẫn có cách buộc ả viết ra. Chỉ cần ta luyện Tu la âm sát công đến tầng thứ chín, ta còn sợ kẻ thù nào nữa? Dù vợ chồng Đường Hiểu Lan có đến đây ta cũng không thua bọn chúng!” Ông già họ Dương đáp: “Tuy là thế nhưng đệ vẫn lo lắng!”

Mạnh Thần Thông nói: “Nếu có được nội công tâm pháp của phái Thiên Sơn, ta sẽ lập tức giết chết ả. Chúng ta lại ẩn cư, Thiên Sơn cách đây muôn dặm, dù Đường Hiểu Lan và Phùng Lâm có tìm đến chúng ta, lúc đó chúng ta đã luyện công xong xuôi.”

Lúc này Kim Thế Di mới vỡ lẽ ra, té ra Mạnh Thần Thông giam cầm Lý Tâm Mai là để muốn lấy nội công tâm pháp của phái Thiên Sơn. Cho nên y sợ Lý Tâm Mai gởi cây ngọc thoa ra ngoài thì sẽ bại lộ mau chóng. Cao thủ của phái Thiên Sơn sẽ tìm đến nơi khi y chưa luyện xong võ công.

Mạnh Thần Thông ngập ngừng rồi kêu một tên đệ tử tới, dặn dò y rằng: “Đem cây roi bạch mang đến đây, nếu ả không chịu viết, cứ ba bữa sáng trưa chiều mỗi lần đánh mười roi. Toàn thân ả sẽ đau đớn khó chịu, nay ả đang bị đói, dù nội công giỏi đến mức nào cũng không chịu nổi ba roi!”

Ông già họ Dương thất kinh: “Như thế chúng ta chắc chắn sẽ kết thù với phái Thiên Sơn?”

Mạnh Thần Thông nói: “Bắt hổ dễ thả hổ khó, việc đã đến mức này cũng chẳng còn cách khác. Đồ nhi, đi thôi!”

Kim Thế Di vừa lo vừa giận, chàng không có lòng nghe tiếp, vừa thấy tên đồ đệ của Mạnh Thần Thông cầm roi bước ra thì lập tức lẳng lặng bám theo.

Nhưng hán tử ấy đi tới trước bộ hòn non bộ thì hắng giọng, khẽ gọi: “Lục sư đệ, thất sư đệ” đã y không nghe thấy tiếng trả lời thì hơi ngạc nhiên, thế là đưa tay ra xoay hòn non bộ hai vòng, hai tảng đá đột nhiên tách ra, lộ một cánh cửa.

Kim Thế Di cả mừng, nghĩ thầm: “Té ra bọn chúng nhốt Tâm Mai muội muội ở đây!”

Ngay lúc này chợt nghe tiếng chuông tiếng trống ở ngoài vườn vang dậy, có người kêu lên: “Kim Thế Di đã vào trang!”

“Ai nấy đứng yên chỗ cũ, không được rối loạn đợi sư phụ ra bắt y.”

Hán tử ấy định chạy vào sơn động, chợt nghe Kim Thế Di đã vào thì thất kinh, bất đồ quay đầu lại, nào ngờ Kim Thế Di đã đứng ở sau lưng y.”

Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Kim Thế Di không đợi y lên tiếng, tay phải đã đánh ra một chiêu Kính Đức đoạt tiên chụp cổ tay của y, tay trái xỉa vào huyệt khiếu âm của y. Hán tử toàn thân cứng đờ, Kim Thế Di giật cây roi rồi tung cước đá y bật ra. Chàng quay dầu lại nhìn chỉ thấy bóng đen thấp thoáng, nhưng lại không thấy có người chạy về hướng của mình. Té ra không phải vì Kim Thế Di bám theo hán tử này mà bị phát hiện mà là khi chàng vào trong trang chỉ điểm huyệt hai tên đệ tử của Mạnh Thần Thông nằm yên trong vòng một canh giờ, thế nhưng hai tên này cũng có được hai phần bản lĩnh của sư phụ, cho nên vận khí phá giải, không đầy nửa canh giờ thì đã giải được huyệt đạo. Bọn chúng có thể lên tiếng, cho nên Kim Thế Di mới bị lộ.

Kim Thế Di nhân lúc Mạnh Thần Thông chưa đến, thầm nhủ: “Tốt xấu gì cũng phải cứu Tâm Mai ra.”

Thế rồi vung cây roi vào trong động, chỉ cảm thấy đầu roi chạm phải hai người, nhưng hai người này lại không chống cự, chẳng giống người sống, Kim Thế Di giật mình bước vào trong động, ngưng thần nhìn vào, trong bóng tối lờ mờ chàng vẫn có thể nhận ra ở dưới đất có hai hán tử, Kim Thế Di tung ra một cước nhưng cả hai đều không có phản ứng, khi sờ mũi thì thấy đã đứt hơi từ lâu.

Kim Thế Di thất kinh, thầm nhủ: “Hai kẻ này chắc là lục sư đệ và thất sư đệ của tên lúc nãy, nhưng ai đã giết bọn chúng?”

Nhưng tình thế lúc này rất cấp bách, Kim Thế Di không kịp suy nghĩ, chàng đưa mắt nhìn tới thì thấy trong góc động có một bóng người ốm yếu nằm co quắp, Kim Thế Di vừa kinh vừa mừng, khẽ kêu: “Tâm Mai muội muội, ta đến đây!”

Bóng đen ấy chợt lên tiếng: “Ta biết thế nào ngươi cũng tới!” trong khoảnh khắc điện quang hỏa thạch ấy, Kim Thế Di chợt cảm thấy cổ tay bị nắm chặt, hổ khẩu đã bị một cái cương tráo chụp chúng, lúc này Kim Thế Di đã nhìn rõ, té ra đó chẳng phải là Lý Tâm Mai mà là nàng thiếu nữ che mặt đêm qua, lúc này nàng đã lột mạng che mặt, nàng lạnh lùng nói:

“Không được đến gần, nếu không ta nhả lực ra bóp nát xương cổ tay của ngươi, dù ngươi có giết ta thì cũng đã tàn phế!”

Đây là lần đầu tiên trong đời Kim Thế Di bị người ta ám toán, chỉ nghe thiếu nữ ấy lại nói: “Có phải ngươi đến cửu nữ đệ tử họ Lý của phái Thiên Sơn không?”

Kim Thế Di ngầm vận nội kình, đột nhiên cười lạnh: “Muốn ám toán ta cũng đâu dễ?” Chàng dùng công phu Xúc cốt, thiếu nữ ấy nhận ra, chưa kịp siết cương trảo thì bàn tay nàng đã trượt ra ngoài.

Kim Thế Di chưa kịp ngừng cười, nàng đã sớm thu lại cương trảo, rồi cười nói: “Uổng cho người là Độc thủ phong cái, đã trúng độc mà cũng không biết. Kim Thế Di giật mình, phát giác mạch môn hơi ngứa chàng thử vận chân khí đẩy ra, cổ tay đã đau đớn như bị dao cắt. Kim Thế Di lớn lên ở Xà đảo, tuy bản thân không thích dùng độc nhưng là đại hành gia của môn này, biết nàng ta đã nói thật, nghĩ bụng cây cương trảo của nàng chắc có chất kịch độc, lúc nãy mình chỉ muốn rút tay ra, nhưng lại để cho cương trảo của nàng cào rách da.

Kim Thế Di cố nén cơn giận, cười lạnh nói: “Trước khi ta phát độc cũng có thể giết chết ngươi, ngươi có tin không?” Thế là chụp hai tay của nàng.

Chàng trợn trừng mắt, nhìn nàng chằm chằm, toan hù dọa ra sau đó sẽ hành hạ nàng. Với võ công của nàng thiếu nữ,tuy không thể là đối thủ của Kim Thế Di nhưng nếu muốn chống cự thì vẫn có thể được một lúc, Kim Thế Di không ngờ rằng nàng chẳng hề chống lại, khi nhìn vào mặt nàng thì chẳng có vẻ gì là sợ hãi.

Kim Thế Di ngạc nhiên lắm, chỉ nghe nàng khẽ cười “Ta tin rằng ngươi có bản lĩnh giết ta. Nhưng chúng ta cần gì phải lưỡng bại câu thương? Ngươi vẫn chưa đáp lời ta, có phải ngươi đến đây cứu nữ đệ tử họ Lý của phái Thiên Sơn không?”

Kim Thế Di đang nôn nóng biết tung tích của Lý Tâm Mai, chỉ đành đáp: “Đúng thế. Lý cô nương đang ở đâu?”

Nàng thiếu nữ trả lời: “Nếu là thế có phải ngươi cũng đến kiếm Mạnh Thần Thông tính sổ không?”

Kim Thế Di nói: “Nói mau, ngươi rốt cuộc có gặp Lý cô nương không?”

Thiếu nữ ấy từ tốn trả lời: “Cần gì phải nôn nóng như thế, khu vườn này rất rộng, bọn chúng không ngờ rằng ngươi nấp ở nơi này. Trước khi Mạnh Thần Thông tìm ra ngươi, chúng ta vẫn còn thời gian trò chuyện”

Từ trước đến giờ Kim Thế Di chỉ bỡn cợt người khác, nhưng lần này đành phải bó tay, chàng gằn giọng nói: “Ngươi muốn nói gì?”

Nàng thiếu nữ nói: “Đêm qua ta không biết ngươi giúp ai, sau đó ta thấy ngươi chế phục đệ tứ của Mạnh Thần Thông, lẻn vào Mạnh gia trang mới đoán được vài phần. Chả lẽ ba kẻ vây đánh ta đêm qua cũng do ngươi hạ?”

Kim Thế Di nói: “Ngươi biết thì tốt, tại sao ngươi còn lấy ân báo oán?”

Thiếu nữ cười: “Lúc đó ta vẫn chưa biết. Huống chi lòng người hiểm ác, ngươi lại là một kẻ ma đầu, ta với người bèo nước gặp nhau, ta làm sao có thể hoàn toàn tin tưởng ngươi?”

Hai người đang đứng sát với nhau, Kim Thế Di có thể cảm giác hơi thở của nàng thơm như hoa lan, bất đồ giảm mấy phần địch ý nhưng lại cũng hơi ái ngại, cuối cùng chàng dần dần nhích ra, nhưng vẫn nắm chặt hai tay nàng, nói: “Nếu ngươi đã biết ta đến đây là vì tìm Lý cô nương, cũng là vì muốn tính sổ với Mạnh Thần Thông, ngươi muốn thế nào?”

Nàng thiếu nữ nói: “Mục đích của chúng ta khác nhau, nhưng chúng ta đều muốn tìm Mạnh Thần Thông tính sổ. Được, hôm nay chúng ta ngồi cùng thuyền, ngươi giúp ta báo thù, ta giúp ngươi thoát hiểm, không cần phải đáp tạ nhau. Ngươi hứa chịu cùng ta liên thủ, ta lập tức đưa thuốc giải cho ngươi”

Kim Thế Di nói: “Khoan hãy nói chuyện này, Lý cô nương hiện đang ở đâu?”

"Tại sao chỉ có mình ngươi trong động?” thiếu nữ cười: “Ngươi nôn nóng muốn gặp ả như thế, nhưng phải đợi đến tối nay.”

Kim Thế Di nói:”Nàng có còn ở trong trang này không?”

Thiếu nữ nói: “Canh ba đêm nay người đến đỉnh Kim Hạc ở núi Thái Hàng, chờ dưới một cây bách già, nàng sẽ tự đến tìm ngươi.”

Kim Thế Di nói: “Sao ngươi biết?”

Nàng thiếu nữ nói: “Bọn ta đã hẹn nhau!”

Kim Thế Di vội vàng hỏi: “Ngươi đã gặp nàng ta? Rốt cuộc là chuyện gì?”

Thiếu nữ nói: “Không những đã gặp mà ta đã thả nàng đi.”

Kim thế Di nói: “Vậy ngươi đã giết hai kẻ trong động?”

Thiếu nữ gật đầu nói: “May mà ngươi đã liên tiếp chế phục mấy tên đệ tử của Mạnh Thần Thông ta mới có thể lẻn vào.Ta vốn muốn tìm nàng liên thủ, nào ngờ sau khi giết bọn chúng ta mới phát hiện nàng đã đói đến rã rời chẳng có ích gì đối với ta cho nên chỉ đành bảo nàng chạy trước. Nàng lại tưởng ta thật lòng đến cứu, cứ luôn mồm cảm tạ. Ta nghĩ tạo mối quan hệ đối với Thiên Sơn cũng tốt, trước mắt nàng không thể giúp ta nhưng sau này sẽ có ích, vì thế hẹn nàng canh ba đêm nay sẽ gặp nhau trên đỉnh núi Thái Hàng” Kim Thế Di nói: “Nàng đã đói rã rời, ngươi lại để một mình nàng đi…”

Thiếu nữ cười “Ta vốn không định bảo vệ cho nàng, nàng ở đây lại vướng víu tay chân, ta làm sao lo cho nàng được?” Nhưng người hãy yên tâm, tuy nàng vẫn chưa hồi phục võ công, nhưng khinh công vẫn còn. Được, lời thì đã nói xong, người định thế nào?”

Kim Thế Di cười lạnh: “Ta không muốn liên thủ với ngươi!” câu trả lời ấy khiến cho nàng thiếu nữ bất ngờ, nàng ngạc nhiên hỏi “Ngươi có muốn lấy thuốc giải không? Ngươi quả thật muốn lưỡng bại câu thương với ta há chẳng phải có lợi cho Mạnh lão tặc sao?”

Kim Thế Di nói: “Suốt đời ta chưa từng bị ai kìm chế, ngươi đã ám toán ta sau đó lại còn muốn ta giúp đỡ, hừ! Tâm thuật của ngươi thật bất chính”

Thiếu nữ ấy nói: “Ồ, những lời ấy hình như không nên thốt ra từ miệng của ngươi, ngươi cũng nói đến tâm thuật ư. Ha ha, ta đã biết, ngươi sợ Tu la âm sát công của Mạnh Thần Thông.''

Kim Thế Di nói: “Ngươi không cần phải khích ta, ta suốt đời độc lai độc vãng, tung hoành ngang dọc, quyết không thể bị người ta kìm chế”

Nàng thiếu nữ nói: “Vậy ngươi muốn giết ta?”

Kim Thế Di nói: “Công lực của ta vẫn có thể chống cự nổi nửa ngày một ngày, giờ đây ta không giết ngươi, để cho ngươi báo thù trước, nếu người bị Mạnh Thần Thông giết thì ta sẽ đấu với y, nếu ngươi giết chết Mạnh Thần Thông thì ta sẽ giết ngươi, như thế ta đã rộng rãi với ngươi lắm! Ha ha!”

Kim Thế Di vừa nói vừa cười, nàng ta đã không còn trấn tĩnh được nữa, trong mắt lộ vẻ kinh hoảng.

Kim Thế Di nhìn nàng chằm chằm, im lặng một lúc thì. nàng thiếu nữ khẽ nói: “Ngươi quả thực rất quái gở!”

Kim Thế Di nói: “So với ngươi ta vẫn còn kém một bậc!” Đột nhiên hai người đều cảm thấy hơi khôi hài, thế là đều bật cười lên.

Nàng thiếu nữ cười một hồi thì chợt nghe bên ngoài có tiếng bước chân, có người quát: “Tam sư ca, tam sư ca, các người thấy tam sư ca không?' rồi lại có người trả lời:

“Kìa sư phụ đến!”

Mạnh Thần Thông đứng trong vườn quát: “Kim Thế Di, có phải ngươi đến tìm ta tỉ thí hay không, sao lại âm thầm ám hại đệ tử của ta, đó đâu phải là anh hùng hảo hán?” Tiếng bước chân càng lúc càng gần.

Thiếu nữ hạ giọng nói: “Được, ngươi không chịu cùng ta liên thủ ta một mình tỉ thí với lão ma đầu ấy, ngươi nói thì phải giữ lời, tại sao còn nắm chặt tay ta?”

Kim Thế Di đang giữ chặt nàng, vốn là có ý muốn hành hạ nàng, không ngờ nàng lại nói nhiều lời như thế, hai bên lại nắm tay đứng gần nhau, đâu có giống như kẻ địch? Dù nàng thiếu nữ ấy không nói, Kim Thế Di cũng ngại ngùng, nàng ta vừa lên tiếng thì chàng là vội vàng buông ra.

Lúc này Kim Thế Di đã quen với bóng tối, cho nên thấy rất rõ ràng vẻ mặt của nàng ta, chỉ thấy nàng đỏ ửng mặt, chợt nhoẻn cười: “Ta không cần người giúp đỡ nữa, thuốc giải này cho ngươi, ngươi có thể dưỡng đủ khí lực trong động, khi ta đấu với Mạnh Thần Thông phỏng lưỡng bại câu thương thì ngươi có thể thừa cơ bỏ chạy”

Kim Thế Di thản nhiên cầm hai viên thuốc màu đỏ uống ực vào, chỉ thấy một luồng khí nóng dâng lên, cơn đau ở cổ tay tan biến. Thiếu nữ cười nhỏ: “Ngươi không sợ ta đưa thuốc độc hay sao?”

Kim Thế Di thấy nàng sắp nhảy vọt ra khỏi động, đột nhiên kéo nàng lại, thiếu nữ nói: “Gì thế?”

Kim Thế Di nói: “Khoan hãy ra, một mình cô nương không phải là đối thủ của lão, chúng ta cứ nấp trong động, bọn chúng vào một tên thì giết một tên”

Thiếu nữ nói: “Sao ngươi lại chịu giúp ta?”

Kim Thế Di nói: “Lúc nãy ngươi dùng thủ đoạn kìm chế ta. Giờ đây là ta tự nguyện, hai chuyện khác hẳn nhau! Này, cô nương có thù gì với Mạnh Thần Thông?”

Thiếu nữ nói: “Y đã giết chết cha ta. Y đã đánh cắp ba thiên bí kíp Tu la âm sát công của nhà ta.”

Kim Thế Di thất kinh, nói: “Té ra trên đời vẫn còn loại võ công này? Cô nương họ Lệ, cô nương có phải là con gái của Lệ Phàn Sơn không?”

Thiếu nữ ngạc nhiên nói: “Sao ngươi biết tên cha ta, mấy trăm năm qua nhà ta đã mai danh ẩn tích, người trên giang hồ đều không biết”

Kim Thế Di càng ngạc nhiên hơn, nói: “Ta nghe lén Mạnh Thần Thông.”

Đang định hỏi lai lịch của nàng, chợt nghe ngoài động có tiếng người ồn ào, Mạnh Thần Thông kêu lớn: “Kim Thế Di ngươi có ra đây hay không?”

Kim Thế Di thầm nhủ: “Chả lẽ bọn chúng đã biết mình nấp ở trong động?”

Ngay lúc này, chợt nghe xung quanh vườn hoa đều có người buông giọng hú dài, Kim Thế Di giật mình, nghĩ thầm:

“Sao trong chốc lát lại có nhiều cao thủ đến thế?”

Đệ tử của Mạnh Thần Thông nhào nhao gào lên “Kim Thế Di đến rồi Kim Thế Di đến rồi! Ồ Kim... Kim...”

Đột nhiên tất cả im lặng như tờ, té ra những kẻ này phóng tới, bọn chúng phát giác chẳng ai là Kim Thế Di! Kim Thế Di cũng lấy làm lạ, nhìn qua kẽ hở, chợt thấy có tất cả sáu người, chàng có thể nhận ra năm người trong số đó, bọn họ là vợ chồng Tiêu Thanh Phong ở phái Thanh Thành và vong nhân của Thiết quải tiên là Đoạt mệnh Tiên tử Tạ Vân Chân; hai tên tiểu bối của phái Thiên Sơn là Chung Triển và Võ Định Cầu. Còn một người Kim Thế Di không nhận ra, đó chính là một lão ăn mày chột mắt khoảng năm mươi tuổi. Trong sáu người này, Tiêu Thanh Phong và Tạ Vân Chân có thân phận rất cao, nhưng Mạnh Thần Thông lại tỏ ra khách sáo với lão ăn mày chột mắt kia, chỉ thấy y cung tay vái lão rồi nói: “Dực bang chủ từ ngàn dặm đến đây không biết có gì chỉ giáo, Tiêu tiên sinh, chúng ta đã lâu không gặp”

Kim Thế Di nghe Mạnh Thần Thông gọi lão ăn mày chột mắt là Dực bang chủ, chàng lại phát hiện lão ăn mày ấy cầm một cây gậy sắt, đó chính là cây gậy mà khi còn sống Thiết quải tiên Lữ Thanh đã sử đựng, cũng là pháp trượng trấn bang của Cái Bang miền Giang Nam, lúc này mới sực nghĩ ra, thầm nhủ: “Té ra sư đệ của Thiết quải tiên đã trở thành bang chủ Cái Bang miền Giang Nam”

Lão ăn mày chột mắt lạnh lùng nhìn Mạnh Thần Thông rồi lớn giọng nói: “Mạnh Thần Thông ngươi cần gì đã biết rõ mà còn hỏi? Lẽ nào ngươi đã quên vụ huyết án hai mươi năm trước?”

Mạnh Thần Thông thản nhiên cười: “Anh hùng thiên hạ mất mạng dưới tay lão phu không biết bao nhiêu mà kể, bang chủ muốn nhắc đến vụ nào?”

Dực Trọng Mâu chợt cả giận, y quắc con mắt còn lại, tia mắt bắn ra như có điện, quát rằng: “Bang chủ đời mười bảy của Cái Bang miền Giang Nam, nhị huynh Châu Ký của ta, có phải bị ngươi giết hay không?”

Mạnh Thần Thông nói.”Ồ, Té ra là một nhân vật lẫy lừng, để ta nghĩ lại xem, ta có giết y hay không?”

Lão ăn mày chột mắt quát: “Trên đời này chỉ có một mình ngươi biết Tu la âm sát công, ngươi còn chối cãi?”

Số là Thiết quải tiên Lữ Thanh và Châu Ký, Dực Trọng Mâu học cùng một thầy, sư phụ của họ là Giang Nam đại hiệp Cam Phụng Trì danh tiếng lẫy lừng đại giang nam bắc vào thời Ung Chính. Cam Phụng Trì và bang chủ Cái Bang miền Giang Nam đời thứ mười sáu Lãnh Bạch Đào rất than thiết nhau, khi Lãnh Bạch Đào còn sống thấy nhân tài của Cái Bang ít ỏi, sợ rằng sau này không có truyền nhân cho nên thương lượng với Cam Phụng Trì, xin một đệ tử của ông ta vào Cái Bang để sau này nắm giữ chức bang chủ. Cam Phụng Trì hỏi ý của các đệ tử, đại đệ tử Lữ Thanh tính tình nhàn tản, tam đệ tử tuổi vẫn còn nhỏ, kết quả là cho nhị đệ tử Châu Ký vào Cái Bang, sau đó trở thành bang chủ đời thứ mười bảy của Cái Bang.

Hai mươi năm trước, Châu Ký và hai đệ tử của Cái Bang đột nhiên bị người ta giết ở miền Sơn Đông, khi chết toàn thân tím ngắt, người lạnh như băng, Cái Bang lao vào điều tra nhưng không biết là do bị ai hại, thế là tôn Thiết quải tiên Lữ Thanh làm bang chủ, Lữ Thanh vì muốn báo thù cho sư đệ chỉ đành cố gắng, bảy năm trước ông ta đến Tây Tạng, một là ông ta đã nhận lời nhờ vả của Mạo Xuyên Sinh đi tìm Băng Xuyên thiên nữ, hai là vì muốn điều tra kẻ nào đã giết sư đệ của mình, không ngờ đã bị tên phiên tăng người Nề Bách Nhĩ hại chết trong băng cung .

Sau khi Lữ Thanh chết đi, Cái Bang lại tôn sư đệ của Lữ Thanh là Dực Trọng Mâu là bang chủ đời thứ mười chín, vẫn tiếp tục điều tra, cho đến ba năm trước vì Mạnh Thần Thông đã phạm một vụ huyết án, nạn nhân cũng chết như Châu Ký, lúc đó còn chưa biết là do Mạnh Thần Thông làm, sau này Dực Trọng Mâu đã hỏi một trưởng lão Thiếu Lâm, mới biết là do Tu la âm sát công. Rồi lại điều tra một thời gian nữa, mấy tháng trước thì biết trong thiên hạ chỉ có một mình Mạnh Thần Thông biết loại công phu này, còn Mạnh Thần Thông học từ đâu thì không ai biết.

Mạnh Thần Thông không ngờ vụ huyết án hai mươi năm trước lại bị người ta phát giác, trong lòng thất kinh, nhưng thần sắc vẫn trấn tĩnh, nghe Dực Trọng Mâu nói thì cười ha hả: “Đúng thế đúng thế, quả là có vụ án này. Đúng là do ta làm, Dực bang chủ, ông muốn thế nào đây?”

Đó chính là: Giang hồ đã nổi cơn sóng lớn, huyết án ngày nay mới xét ra.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Vân Hải Ngọc Cung Duyên - Lương Vũ Sinh

Postby tuvi » 05 Feb 2023

Hồi Thứ Tám
Kinh hãi kỳ công truyền hậu thế...Chỉ nhờ kiếm gậy đấu thần ma

Dực Trọng Mâu giành cây gậy sắt, trầm giọng nói: “Ngươi muốn kết thúc ở đây hay là muốn theo ta đến Cái Bang nghe tra hỏi. Nếu đến Cái Bang thì có thể biện bạch được, nếu kết thúc ngay tại chỗ thì hai bên phải quyết sinh tử bằng võ công"

Mạnh Thần Thông cười ha hả: “Khẩu khí rất lớn, lão phu là nhân vật như thế nào mà để cho ngươi xử lý. Ta nể ngươi có thân phận bang chủ, đã đối xử bằng lễ, không hỏi tội ngươi tự tiện đột nhập, nhưng ngươi lại cuồng vọng tự đại, muốn xử trí lão phu! Ngươi có biết trước đây sư huynh của ngươi bị ta giết là vì y chẳng nể mặt ta đấy không?"

Dực Trọng Mâu tức giận nói: “Mạnh lão tặc, nhà ngươi mình đầy nợ máu tội đáng chết, còn nói cái gì là thân phận. Nếu người không chịu theo ta về Cái Bang ta cũng chiều ngươi, chúng ta cứ kết thúc một trận ở đây!”

Mạnh Thần Thông đưa mắt quét một vòng, cười lạnh nói:"Các ngươi đến đây là để giúp y? Các người muốn dừng lại đúng lúc hay giết chết không luận, các người hãy nghĩ trước cho kỹ!”

Dừng lại đúng lúc là phân thắng thua về chiều thức. Nếu những người đến giúp không chịu bán mạng cho bằng hữu, có thể nhờ người trung gian nói rõ trước. Nhưng Mạnh Thần Thông đã đưa ra câu hỏi này là một nỗi nhục to lớn đối với họ.

Tạ Vân Chân vung cây phất trần, cao giọng nói: "Từ lâu đã nghe Tu la âm sát công của Mạnh lão tiền bối có thể giết chết người ta, tôi cũng liều nắm xương này xin được lãnh giáo trước!"

Chung Triển kêu: “Khoan đã!” Rồi nhảy vọt ra, rút trường kiếm chỉ vào Mạnh Thần Thông: "Ngươi nhốt sư muội ta ở đâu, mau thả ra!”

Mạnh Thần Thông cười nói: “Té ra ngươi đến là vì chuyện khác, ai là sư muội của ngươi?"

Chung Triển nói: “ Đại đệ tử của phái Thiên Sơn Lý Tâm Mai, ngươi tưởng rằng không ai biết sao? Đã có người đem cây ngọc thoa của nàng trao cho bọn ta!”

Té ra người đặt cây ngọc thoa trong phòng Kim Thế Di là Đoạt mệnh tiên tử Tạ Vân Chân. Cao thủ Cái Bang truy lìm tung tích của Mạnh Thần Thông ở khắp nơi, Tạ Vân Chân biết tin này trước, mấy ngày trước đã đến vùng gần Mạnh gia trang dò thám, gián điệp của Cái Bang biết chuyện Mạnh Thần Thông nhốt Lý Tâm Mai cho nên tìm cách lấy cây ngọc thoa của nàng, trao cho Tạ Vân Chân, để nàng liên lạc với người của phái Thiên Sơn đến trả thù. Tạ Vân Chân tìm đệ tử của phái Thiên Sơn, đến khách sạn ấy thì thấy Kim Thế Di dụ hai người Chung, Võ ra ngoài hí rộng, Tạ Vân Chân biết quan hệ của Kim Thế Di và Lý Tâm Mai cho nên đã đặt cây ngọc thoa trong phòng chàng, một là có thể dẫn dắt Kim Thế Di đến Mạnh gia trang, sau đó sẽ nói rõ với hai người Chung Triển rồi cùng nhau liên thủ. Bởi vì trước đây Kim Thế Di cũng từng bỡn cợt Tạ Vân Chân cho nên bà ta rất căm tức, tuy muốn chàng giúp đỡ nhưng lại không chịu ra mặt cầu xin.

Thế là người ở các phe đều đến Mạnh gia trang, xem ra sắp bùng nổ một cuộc quyết đấu long trời lở đất.

Mạnh Thần Thông thầm thất kinh, y vốn rất coi thường Cái Bang, nhưng y cũng hơi lo vì người của Thiên Sơn đã tới, thế rồi thầm nhủ: “May mà hai tên này chỉ là bọn tiểu bối của phái Thiên Sơn, chi bằng cứ giết chúng bịt miệng!" Vì y muốn giữ thân phận không đích thân ra tay cho nên mới bảo đại đệ tử: “Hạng Hồng, ngươi hãy tiếp đãi khách, rất hiếm khi được gặp cao thủ của phái Thiên Sơn, cần phải giữ họ lại ở đây!”

Ý của câu này là muốn bảo đệ tử của mình không được nương tay, không để đệ tử của phái Thiên Sơn chạy thoát.

Chung Triển lần đầu tiên xuống núi, làm sao hiểu được tiếng lóng trên giang hồ, nghe Mạnh Thần Thông khách sáo như thế thì ngạc nhiên nói: “Bọn ta không phải đến quý trang làm khách, hãy mau thả sư muội của ta ra, bọn ta đang vội trở về Thiên Sơn! Thấy ông khách sáo như thế, sau này chúng tôi sẽ xin tội cho ông trước mặt sư phụ!”.

Kim Thế Di nghe thế thì suýt bật cười, khó khăn lắm mời kìm lại được, chỉ nghe Hạng Hồng cười ha hả nhảy ra giữa sân nói: "Sư phụ của ta muốn giữ ngươi lại làm bạn, ngươi muốn đi cũng không được!”.

Lúc này Chung Triển mới hiểu, thế là y đùng đùng nổi giận, cây thanh cương kiếm vung lên đâm một chiêu Long môn cổ lãng về phía Hạng Hồng.

Kiếm thuật của phái Thiên Sơn nức tiếng võ lâm, chiêu Long môn cổ lãng càng là một chiêu tinh diệu hiểm hóc trong Truy phong kiếm thức của Thiên Sơn kiếm pháp, vừa triển khai thì thấy kiếm pháp lấp lánh tựa như có muôn ngàn tia nước tung tóe, muôn vạn giọt nước rơi xuống. Hạng Hồng là đại đệ tử của Mạnh Thần Thông, cũng đã học được ba bốn phần của sư phụ, nhưng vì Tu la âm sát công của y chỉ mới luyện được tới tầng thứ hai công lực vẫn còn kém, không dám dùng tay không đối địch, bên vung một cây quạt bằng sắt, đánh ra một chiêu Khi phong phát hỏa, kình lực của cây quạt quét tới thì kiếm quang tản mát, hai bên đều thất kinh.

Chung Triển thầm nhủ: “Trước mặt nhiều bậc tiền bối, nếu mình không đánh lại đệ tử của Mạnh Thần Thông thì họ chẳng phải sẽ làm tổn thương uy đanh của phái Thiên Sơn hay sao?"

Thế rồi mới thâu nhiếp thần, tiếp tục tung chiêu, sử dụng hết những chiêu số tinh diệu trong bảy mươi hai thức Truy phong kiếm, từng bước đẩy lùi Hạng Hồng.

Kim Thế Di khẽ nói với nàng thiếu nữ: “Mạnh Thần Thông chỉ có danh hão. Cô nương hãy nhìn đại đệ tử đắc lực nhất của y, cả một tên tiểu bối vừa mới xuất đạo trong phái Thiên Sơn mà cũng không đánh lại, cô nương cần gì sợ y?”

Thiếu nữ ấy nói “Vậy sao? Chỉ e ngươi đã lầm, ngươi có dám đánh cược với ta không?”

Kim Thế Di nói: “Đánh cược gì?"

Nàng thiết nữ nói: “Ta bảo đệ tử của phái Thiên Sơn không phải là đối thủ của Hạng Hồng, nếu thua từ rày về sau ta có chuyện mạo phạm thì ngươi không được nổi giận với ta, lấy ba lần làm giới hạn ngươi có dám đánh cá không? Trái lại nếu y thắng, ngươi cũng được mạo phạm ta ba lần, ta quyết không giận ngươi!”

Kim Thế Di thầm nhủ: "Thiếu nữ này thật quái gở, cả cách đánh cá cũng quái gở!"

Thế rồi chàng mới nói: "Được! Ta chấp nhận!" Rồi hai người nắm chặt tay nhau, nàng thiêu nữ cười một tiếng trong tai chàng, Kim Thế Di giật mình, ghé mắt nhìn qua khe hở, khi nhìn kỹ thì thấy quả nhiên Chung Triển không ổn.

Chợt thấy kiếm pháp của Chung Triển lúc mới đầu thì như giông bão, nhưng sau đó dần dần yếu hẳn vừa nhìn thì đã biết y lực bất tong tâm, đã bị kẻ địch chế phục.

Kim Thế Di rất ngạc nhiên, cây quạt sắt của Hạng Hồng khi hợp lại có thể đánh tới, khi mở ra có thể làm thuẫn bài, có lúc lại còn đánh như Ngũ Hành kiếm, chiêu số rất nhiều biến hoá, võ công cũng không tầm thường, nhưng cũng chẳng thấy có thủ pháp nào độc đáo, còn Thiên Sơn kiếm pháp của Chung Triển thì rất tinh diệu, vượt hẳn kiếm pháp của các phái khác, so với Hạng Hồng nếu luận về nội công thì Chung Triển chưa chắc thua, nhưng Chung Triển lại dần dần bị Hạng Hồng kìm chế, dù Kim Thế Di là một đại hành gia nhưng cũng không biết vì lẽ gì.

Một hồi sau, chỉ thấy kiếm chiêu của Chung Triển đã bị cây quạt sắt của đối phương chặn lại, càng lúc càng không thể triển khai được, Kim Thế Di giật mình, nói: “Chả lẽ y cũng luyện Tu la âm sát công?”

Thiếu nữ cười nói: “Đúng thế. Chính vì vậy mà ta dám đánh cá với ngươi. Nhưng y chỉ luyện mới đến tầng thứ hai, so với sư phụ của y còn kém xa lắm!”

Sư đệ của Mạnh Thần Thông tên gọi Dương Xích Phù, xưa nay rất ít đi lại trên giang hồ, nhưng Tiêu Thanh Phong nghe nói y là sư đệ của Mạnh Thần Thông thì không dám khinh địch, liền quét cây phất trần thành nửa vòng tròn, ôm hờ ở trước ngực, thi lễ nói: “Dương lão sư, xin mời rút ra binh khí!”

Dương Xích Phù phẩy tay, cười rằng: “Lão phu không quen dùng binh khí, Tiêu lão sư, xin mời!” Tiêu Thanh Phong chợt cảm thấy một luồng âm kình đang tới khiến toàn thân lạnh lẽo, y thất kinh hội vàng ngưng tụ chân khí hộ thân, miệng cũng không dám nói gì nữa, phất trần quét ra một chiêu Vũ ti phân nguyệt chụp xuống đầu kẻ địch.

Cây phất trần của Tiêu Thanh Phong trông giống như đuôi ngựa, nhưng thực sự là làm bằng tơ ô kim tinh luyện, rắn chắc vô cùng, có thể coi như là một món bảo vật hiếm có trong võ lâm, chiêu ấy vừa đánh ra thì có hàng ngàn hàng vạn sợi tơ chụp xuống đầu, gió cuộn ào ào, tựa như giông bão nổi lên. Dương Xích Phù khen rằng: “Cao thủ của phái Thanh Thành quả nhiên bất phàm!”

Rồi trở tay phất ra, âm chưởng vừa đánh ra thì chẳng hề phát ra tiếng, trông mềm mại như chẳng có kình lực, cây phất trần của Tiêu Thanh Phong đột nhiên không có gió mà tự tản, tiếp theo là một tràng tiếng lưng tưng vang lên.

Cây phất trần này làm bằng sợi ô kim tinh luyện, nếu kéo căng ra rồi dùng tay búng vào sẽ phát ra tiếng kêu như thế, đó vốn chẳng có điều gì là kỳ lạ, nhưng Dương Xích Phù đứng cách Tiêu Thanh Phong hơn một trượng, ngón tay chẳng hề chạm vào phất trần, chưởng phong chẳng hề trỗi dậy mà có thể làm được điều đó khiến ai nấy đều kinh dị! Sau mười chiêu, Tiêu Thanh Phong cũng có cảm thấy giống như Chung Triển, y dần dần bị kẻ địch khống chế, không thể nào thi triển được chiêu số. Đang lúc kịch chiến Dương Xích Phù chợt cười rằng: “Tiêu lão sư, hãy nghỉ ngơi một lát.”

Thế rồi hai chưởng đánh ra liên tục, đẩy ra Tu la âm sát công đến tầng thứ năm, chỉ nghe tiếng lưng tưng lại vang lên, cây phất trần của Tiêu Thanh Phong tán loạn, sợi phất trần bay lả tả trong không trung, Tiêu Thanh Phong lộn người một vòng, sắc mặt tái nhợt, Dực Trọng Mâu và vợ của Tiêu Thanh Phong là Ngô Giáng Tiên thấy thế cả kinh, không hẹn mà đều nhảy ra.

Ngay lúc này Chung Triển cũng bị Hạng Hồng đẩy thối lùi, suýt nữa đã bị cây quạt của y quét trúng, Võ Định Cầu rút trường kiếm vội vàng chạy ra cứu viện. Mạnh Thần Thông cười ha hả: “Các người là cao thủ của danh môn chính phái mà lại muốn ỷ đông giành thắng hay sao?”

Dực Trọng Mâu quát: “Đối với tên ma đầu nhà ngươi thì chẳng cần phải nói đến quy củ giang hồ, nếu ngươi nói quy củ thì hãy trả món nợ máu cho ta!”

Tuy là nói như thế nhưng ông ta vẫn giữ thân phận của bang chủ Cái Bang, quay sang Ngô Giáng Tiên nói: “Tiêu đại tẩu, hãy chăm sóc Tiêu đại ca!”

Rồi điểm cây trượng phóng vọt lên bay thẳng về phía Mạnh Thần Thông. Mạnh Thần Thông cười nói: “Dực bang chủ, một mình ngươi không phải là đối thủ của ta, nếu ngươi đã chẳng thèm màng đến quy củ giang hồ thì cứ cùng nhau xông lên!”

Dực Trọng Mâu cả giận, vung cây gậy đánh ra một chiêu Thần long xuất hải quét ngang eo Mạnh Thần Thông, quát lớn: “Hãy nếm trước một gậy của ta! Đỡ được thì hẵng nói!”

Dực Trọng Mâu ra đòn rất nhanh, nhưng thân pháp của Mạnh Thần Thông càng nhanh hơn, Dực Trọng Mâu đánh tới một gậy đột nhiên chẳng thấy bóng dáng Mạnh Thần Thông đâu nữa thì giật mình, vội vàng rút gậy về hộ thân, chợt thấy luồng gió lướt tới, thân hình to lớn của Mạnh Thần Thông đã sớm lướt qua khỏi đầu y.

Dực Trọng Mâu vội vàng xoay người chỉ thấy Mạnh Thần Thông đã đứng cách đó mấy trượng, con người đứng trước mặt y lại là Dương Xích Phù.

Mạnh Thần Thông cười nói: “Nếu các ngươi muốn quần đả, lão phu đương nhiên sẽ chiều theo nhưng chỉ một mình ngươi hì hì, lão phu không có hứng, ngươi hãy cứ chơi đùa với sư đệ của ta."

Chẳng phải Mạnh Thần Thông không muốn lấy mạng những người này, đó là bởi vì y biết Kim Thế Di nấp trong vườn, vả lại nếu phía đối phương có thêm vài cao thủ đến thì nguy, do đó y không dám hao phí khí lực của mình quá sớm.

Dương Xích Phù tất công tới dồn dập. Dực Trọng Mâu chỉ đành giao thủ với y.

Dực Trọng Mâu là đệ tử đắc ý Của Giang Nam đại hiệp Cam Phụng Trì, võ công cao hơn Tiêu Thanh Phong không chỉ một bậc, Dương Xích Phù đánh liền ra ba chưởng đều bị Dực Trọng Mâu âm thầm đùng nội kình phủ giải. Dương Xích Phù thấy chẳng làm gì được y thì biết đây là một kình địch không thể coi thường, thế là dần dần gia tăng chưởng lực, tăng Tu la âm sự công từ tầng thứ ba lên tầng thứ năm. Y cũng có luyện được đến tầng thứ năm, đó cũng là cực hạn của y.

Dương Xích Phù đương nhiên không đám sơ ý, Dực Trọng Mâu cũng thầm thất kinh, y tuy chưa bị chưởng lực của đối phương đẩy ngã nhưng cũng cảm thấy toàn thân lạnh lẽo, điều khiến y ngạc nhiên là tuy đã sử dụng nội công thượng thừa Triêm y thập bát diệt, kẻ địch không đám áp sát tới du đấu, nhưng luồng chưởng lực âm nhu ấy phiêu hốt vô cùng, chân khí của Dực Trọng Mâu trải đều khắp toàn thân, nhưng cũng cảm giác lạnh lẽo hơi thở gấp gáp, nhịp tim đập mạnh hơn.

Dực Trọng Mâu múa cây gậy kêu lên vù vù cây gậy múa tròn hóa thành một mảng rừng gậy, vây Dương Xích Phù vào ở giữa. Nhưng dù ông ta đánh thế nào cũng bị âm lực của Dương Xích Phù hóa giải. Dực Trọng Mâu nghiến răng. biết trận này rất quan trọng, nếu không giở ra tuyệt chiếu chỉ e không thể cứu vãn nổi thế rồi thay đổi trượng pháp, thi triển Phục ma trượng pháp, đó là loại võ công lợi hại nhất của ông ta. Năm xưa Dực Tý thần ni đã sáng chế ra ra bộ Phục ma trượng pháp này, sau đó được Liễu Ân hòa thượng cải tiến đã thành một bộ trượng pháp có một trăm lẻ tám đường, mỗi trượng đánh xuống đều có lực ngàn cân, là loại võ công chí mãnh chí cương chẳng có gì sánh nổi nhưng sử dụng loại võ công này sẽ làm cho người ta hao phí chân lực, nếu múa đủ một trăm lẻ tám đường trượng pháp thì chắc chắn sẽ ngã bệnh nặng, cho nên chưa đến lúc căng thẳng thì không bao giờ dùng.

Phục ma trượng pháp triển khai quả nhiên khác hẳn, mỗi chiêu đánh ra đều như cuồng phong bão tố dồn tới. Dương Xích Phù đạp vào phương vị bát quái ngũ hành, hai chưởng không ngừng đẩy ra. Bộ Tu la âm sát công của y nếu gặp lực công kích của kẻ địch càng mạnh thì lực phản kích của y càng lớn.

Dực Trọng Mâu đánh gấp tới, chỉ cảm thấy lực đạo phản kích của đối phương dồn ra như sóng sau xô sóng trước, trong chớp mắt ông ta đã đánh ra ba mươi sáu chiêu của đoạn thứ nhất trong Phục Ma trượng pháp, hai bên vẫn chưa phân thắng bại. Phục Ma trượng pháp chia thành ba đoạn, mỗi đoạn ba mươi sáu chiêu, đoạn sau lợi hại hơn đoạn trước, ba mươi sáu chiêu của đoạn thứ nhất vừa xong thì ba mười sáu chiêu của đoạn thứ hai lại dồn ra, mỗi chiêu đều dùng chân lực nội gia, bề ngoài trông chẳng uy mãnh như lúc nãy nhưng thực ra mỗi trượng đều có thể phá nát bia vỡ đá, hàng long phục hổ. Nhưng Dương Xích Phù từng bước thối lui, chiêu số của hai bên tựa như chậm lại, trên đầu cũng bốc khói trắng.

Phía bên kia Chung Triển và Võ Định Cầu đánh một mình đệ tử của Mạnh Thần Thông cũng dần đần chiếm được thượng phong. Tu la âm sát công của Hạng Hồng chẳng qua chỉ mới luyện được đến tầng thứ hai, nếu một địch một thì Chung Triển hoặc Võ Định Cầu đương nhiên không phải là đối thủ của y, nhưng lấy hai địch một thì dần dần đuối sức. Bản lĩnh của Võ Định Cầu không bằng Chung Triển, nhưng kiếm pháp của y do Bạch phát ma nữ sáng chế, kỳ dị vô cùng, quán triệt võ lâm, Hạng Hồng dùng Tu la âm sát công chia ra ứng phó với hai người, cây quạt sắt trên tay phải chống đỡ trường kiếm của Chung Triển, chưởng lực trên tay trái hóa giải thế công của Võ Định Cầu, nhưng hễ lực chia ra thì sẽ mỏng, thế là dần dần không che chắn được nữa. Đang lúc kịch chiến, chỉ nghe soạt một tiếng, Võ Định Cầu đánh ra một chiêu Bạch hồng quán nhật đâm tới. Hạng Hồng muốn né tránh nhưng áo đã bị mũi kiếm đâm xuyên vào suýt nữa đã chạm đến xương sườn.

Trong sơn động, nàng thiếu nữ khẽ cười: “Hai đánh một, có thắng cũng không tính. Ngươi có chịu nhân thua chưa?” Kim Thế Di nói: “Ta nói ra không hề hối hận, được, ta để cô nương mạo phạm ba lần mà chẳng hề nổi giận.”

Rồi chàng nhìn ra ngoài, nói với nàng thiếu nữ: “Nếu Cái Bang và Thiên Sơn liên thủ, cơ hội trả thù của cô nương đã tới. Hình như chúng ta không cần phải đợi trong này nữa." Thiếu nữ nói: “Để cho họ đánh nhau đến lưỡng bại câu thương, chúng ta ra thu thập tàn cuộc há chẳng hay hơn hay sao!”

Kim Thế Di nhíu mày, nàng đã đoán được ý chàng, cười rằng: “Nếu chúng ta ra ngoài quá sớm, Mạnh Thần Thông vẫn chưa hao phí sức lực, chỉ e ngươi cứu không được người la mà trái lại còn bị thương trong tay của y.”

Dực Trọng Mâu không đè gậy xuống nổi, Dương Xích Phù cũng không thoát thân được, hai người giằng co với nhau, sắc mặt từ đỏ chuyển sang trắng, mồ hôi ướt đẫm cả áo quần, khí trắng trên vòm đầu bốc lên như lồng hấp, Tạ Vân Chân kêu: “Không xong!”

Sợ rằng bọn họ lưỡng bại câu thương, Dực Trọng Mâu là học trò cuối cùng của Cam Phụng Trì, là bang chủ của Cái Bang miền Giang Nam, mất mạng cùng với một ma đầu thì thật không đáng.

Tạ Vân Chân không biết rằng, Dương Xích Phù buộc phải liều mình với Dực Trọng Mâu, Tu la âm sát công của y chỉ luyện đến tầng thứ năm, so với nội công thâm hậu chính thuần của Dực Trọng Mâu thì còn kém một chút, nếu Dực Trọng Mâu đánh ra ba mươi sáu đường cuối cùng của Phục ma trượng pháp, Dương Xích Phù chẳng thể chống đỡ nổi, nay y tụ hết công lực của toàn thân để chống lại nhưng cũng chỉ kéo dài được một khoảng thời gian mà thôi. Song vì lực phản kích của Tu la âm sát công quá mạnh, trước khi thắng bại rõ ràng, hai bên đều xuất hiện hiện tượng chân lực hao phí, người bên cạnh đều kinh tâm động phách.

Tạ Vân Chân thấy thế thì quát: “Không xong!” rồi rút kiếm phóng ra, ý muốn tách hai người ra.

Trong khoảnh khắc ấy Mạnh Thần Thông cười ha hả: “Các ngươi muốn quần đả ư? Hay lắm, lão phu sẽ chiều theo! Ngô Mông, đến giúp đại sư huynh một tay, thu thập hai tên đệ tử của phái Thiên Sơn!”

Y đã thấy Dương Xích Phù gặp nguy, nhưng vì phải giữ thân phận, không thể đích thân ra tay, vừa lúc Tạ Vân Chân rút kiếm phóng ra trước, y không thèm để ý đối phương chỉ là có ý tách hai đối thủ ra, cho nên lấy cớ ấy phóng vọt người lên.

Ngay lúc này, Tạ Vân Chân dồn lực vào mũi kiếm, hất vào cây gậy, Dực Trọng Mâu quát: "Đi!"

Rồi vung cây gậy. Dương Xích Phù lộn người phóng ra hơn một trượng. Dực Trọng Mâu vẫn chưa kịp thở, chợt cảm thấy có một bóng đen từ trên đầu đè xuống, luồng kình phong hầu như khiến y nín thở. Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, y vừa mới đánh ra nửa chiêu Phục ma trượng pháp, cây gậy đã bị Mạnh Thần Thông chụp lấy. Dực Trọng Mâu không chịu nổi luồng kình lực đoạt gậy của y, hổ khẩu lập tức vỡ toét, miệng phun ra một búng máu tươi!

Tạ Vân Chân cả kinh, vội vàng đâm tới một kiếm, Dực Trọng Mâu cố gắng đứng vững, gầm lớn một tiếng, lại nhảy bổ lên, Mạnh Thần Thông cười ha hả: “Cho các ngươi biết sự lợi hại của Tu la âm sát công!”

Rồi y vung cây gậy ra, Dực Trọng Mâu không dám tiếp, hạ người lách sang một bên, ngay trong khoảnh khắc ấy, chưởng thứ hai của Mạnh Thần Thông đã đến trước ngực, Tạ Vân Chân đánh ra một chiêu Tiều phu vấn lộ, kiếm quang chợt mở rộng bám sát bối tâm của Mạnh Thần Thông! Dực Trọng Mâu tụ hết công lực của toàn thân đẩy hai chưởng về phía trước, y chợt cảm thấy chưởng lực của đối phương tựa có tựa không, trong lòng cảm thấy không ổn, Mạnh Thần Thông đột nhiên đẩy chưởng tới, quát: “Lên!”

Thân trên của Dực Trọng Mâu nhẹ hẫng, bị một luồng đại lực của đối phương kẻo về phía trước, thâu thế không kịp cho nên nhảy bổ ra mấy trượng, rồi té soài xuống đất, y chợt cảm thấy xương cốt trong người đau như dao cắt, khó khăn lắm mới bò dậy nổi. May mà Mạnh Thần Thông phải đối phó với nhát kiếm của Tạ Vân Chân, nếu y dốc hết toàn lực ra thì Dực Trọng Mâu đã mất mạng! Mạnh Thần Thông dùng chưởng trái ném Dực Trọng Mâu, chưởng phải trở lại giật thanh trường kiếm của Tạ Vân Chân, Tạ Vân Chân có ngoại hiệu là Đoạt mệnh tiên tử, kiếm chiêu vừa chuẩn lại vừa hiểm hóc, thấy kiếm sắp chạm vào bối tâm của Mạnh Thần Thông, Mạnh Thần Thông chồm người về phía trước, mũi kiếm của Tạ Vân Chân chỉ chệch có ba tấc mà chẳng đâm trúng. Trong khoảnh khắc ấy, Mạnh Thần Thông trở tay lại phất ra, năm ngón tay như móc câu chụp vào cổ tay của Tạ Vân Chân. Nếu lúc này Tạ Vân Chân tiếp tục đâm kiếm tới, tuy có thể đâm bị thương Mạnh Thần Thông nhưng xương cổ tay của bà ta sẽ bị Mạnh Thần Thông bóp nát, Tạ Vân Chân đành phải nhảy vọt người né tránh. Mạnh Thần Thông không đoạt được thanh trường kiếm của bà ta cũng thầm khen một chữ "Hay!”.

Ngô Giáng Tiên vội vàng phóng lên, cùng Tạ Vân Chân liên kiếm đối địch, nhân lúc họ chưa kịp hợp lại thì Mạnh Thần Thông đã phóng vọt người lên như chiếc cối xay gió, đột nhiên phản kích, chưởng thế phiêu hốt vô cùng, tựa như tấn công về phía Ngô Giáng Tiên, lại như tấn công về phía Tạ Vân Chân, chỉ trong chớp mắt mà đã thì triển sát chiêu đối với hai cao thủ kiếm thuật, cây kiếm thanh cương của Ngô Giáng Tiên đã bị Mạnh Thần Thông chặt gãy. Tạ Vân Chân tuy tránh ra lần nữa nhưng cũng bị Mạnh Thần Thông đánh thối lui liền mấy bước.

Phía bên kia Chung Triển và Võ Định Cầu cũng gặp nguy, dưới trướng Mạnh Thần Thông có hai đệ tử đã luyện Tu la âm sát công, một người là đệ tử Hạng Hồng đã luyện được đến tầng thứ hai, người kia là nhị đệ tử Ngô Mông chỉ mới bắt đầu luyện nhưng Ngô Mông vừa phóng lên giúp đỡ sư huynh thành thử thế cuộc là hai địch hai, tình thế đã thay đổi. Võ Định Cầu rất nóng nảy, thấy tình thế không xong thì đánh ra một chiêu Cao Đế trảm xà áp sát người lướt tới, bị cây quạt sắt của Hạng Hồng thuận thế chụp vào kiếm của y dẫn ra, cây phán quan bút của Ngô Mông đâm tới như điện chớp, trong chớp mắt đã trúng vào yết hầu của y, Chung Triển cứu không xong, kinh hoảng đến nỗi la lên thất thanh.

Trong lúc nguy hiểm, chợt nghe ầm một tiếng như trời long đất lở, tảng đá lớn che trước cửa động đột nhiên bay vọt lên không, từ trong động có hai người phóng ra, bọn đệ tử của Mạnh Thần Thông kêu hoảng: “Kim Thế Di đã đến!”.

Cây phán quan bút của Ngô Mông đã xỉa vào cổ họng của Võ Định Cầu, chỉ còn cách khoảng ba tấc, đột nhiên nghe Kim Thế Di tới thì giật mình, mũi lệch qua một bên, Chung Triển đâm soạt tới một kiếm trúng vào cổ tay của y, Ngô Mông đau đến nỗi ném phán quan bút bỏ chạy. Chung Triển rất kinh ngạc, không biết tại sao cây quạt sắt của y đã mở ra mà lại không chống đỡ, để mặc cho mình dễ dàng đâm kiếm vào.Trong nhất thời y cũng không dám đuổi theo kẻ địch.

Võ Định Cầu thoát chết, lớn giọng khen: "Tiểu sư thúc, hai chiêu Thiên Sơn kiếm pháp của sư thúc đúng là tinh diệu tuyệt luân!”

Lúc này, tiếng chấn động lớn đã qua, tất cả đều im phăng phắc, trong sân chỉ nghe tiếng nói của Võ Định Cầu, Võ Định Cầu cũng cảm nhận được điều ấy cho nên vội vàng im bặt, chỉ thấy Chung Triển lắc đầu, thần sắc đầy vẻ hoang mang.

Kim Thế Di đột nhiên chui ra khỏi động khiến Mạnh Thần Thông bất ngờ, y vừa thấy đi phía sau chàng là một thiếu nữ, mà thiếu nữ ấy chẳng phải là Lý Tâm Mai thì càng thất kinh hơn, trong lòng biết không ổn, chỉ nghe Kim Thế Di buông giọng cười rằng:

“Mạnh Thần Thông, ta nghe nói ngươi đã luyện được Tu la âm sát công cho nên đến lãnh giáo, xem thử ngươi thần thông quảng đại hay thủ đoạn của ta cao cường?”

Mạnh Thần Thông nói: “Ngươi nhân lúc nhà ta có chuyện mới đến khiêu chiến, đâu có phải là hảo hán?”

Kim Thế Di nói: “Ta đến đây tỉ thí với ngươi, đâu có liên quan gì đến họ?”

Mạnh Thần Thông đuối lý, lập tức cười rằng: “Được, quân tử nhất ngôn!”

Hôm nay chúng ta cứ một đối một để phân thắng bại, ngươi không được ám toán người của ta.”

Té ra Mạnh Thần Thông sợ nhất là Kim Thế Di tham gia hỗn chiến, tuy y đã luyện Tu la âm sát công đến tầng thứ bảy, nghĩ rằng bản thân không thể bại nhưng độc châm của Kim Thế Di rất lợi hại, e rằng người của y sẽ chết dưới độc châm của Kim Thế Di.

Kim Thế Di giằng mạnh cây gậy, nói: “Hôm nay ta không muốn mở sát giới, dù muốn mở sát giới cũng phải chọn những người có thân phận, ngươi hãy yên tâm đừng phân thần, chỉ cần lo cho mạng của ngươi là được!”

Mạnh Thần Thông cả cười:“Kim Thế Di, ngươi muốn giết ta e rằng không dễ!”

Dương sư đệ, đệ hãy tiếp đãi quý khách Cái Bang. Nào, Kim Thế Di!” Kim Thế Di giơ cây gậy chậm rãi tiến về phía trước, chợt nghe nàng thiếu nữ ấy cười gằn nói: “Kim Thế Di, ngươi tỉ thí với y, ta nhường cho ngươi đánh trước một trận. Nhưng nếu ngươi giết y thì ta là người đầu tiên ngăn cản! Mạnh Thần Thông, ngươi hãy yên tâm đi!” Mạnh Thần Thông đương nhiên hiểu hàm ý trong lời nói của nàng, nàng muốn bảo Kim Thế Di để lại cho nàng đích thân trả thù, dĩ nhiên Mạnh Thần Thông chẳng lo gì nàng ta, nhưng không biết thế nào mà y vừa nhìn ánh mắt lạnh lẽo của nàng thì lại rùng mình!

Mạnh Thần Thông nhìn vào mắt nàng thiếu nữ, thầm nhủ: “Chắc chắn là con của Lệ lão quái!” Điều lo lắng trong lòng của y, ngoại trừ phái Thiên Sơn là hậu nhân của nhà Họ Lệ, y đang tìm cách ứng phó thì Kim Thế Di đã cười lạnh nói: “Sao không thi triển thần thông của ngươi?”

Mạnh Thần Thông nói: “Nếu sư tôn còn sống, ta đương nhiên lấy lễ vãn bối thỉnh giáo trước.”

Ý của y là với thân phận của Kim Thế Di, chàng không xứng nhường y ra tay trước. Kim Thế Di cả giận, ngửa mặt cười ha hả rồi nói: “Được, lão tiền bối là người bề trên, tiểu bối xin bày cái dở ra trước!” nói vừa xong thì quét ngang cây gậy đánh vù một tiếng về phía eo của Mạnh Thần Thông, chiêu này gọi là Thần long náo hải, là một trong những đòn sát thủ của Thần quải thập bát đả do Độc Long tôn giả sáng tạo, không những quét vào ngay eo mà thế mạnh chiêu trầm, vả lại sau khi di chuyển đầu trượng đã liên tiếp điểm vào các huyệt thần đạo, huyền khu, trung độc từ phần eo trở xuống, quả là rất lợi hại phi phàm.

Chợt thấy Mạnh Thần Thông lách người qua, ra tay như điện chụp vào đầu gậy của Kim Thế Di, Kim Thế Di giật mình, thầm nhủ: “Lão tặc quả nhiên lớn gan!” thế rồi dồn lực ra đầu gậy vẫy mạnh một cái, đầu gậy thuận thế đâm về phía trước, Kim Thế Di vận đủ thần công Phục long giáng hổ, lực đạo của cú đâm này không chỉ ngàn cân, lòng nghĩ trừ phi Lữ Tứ Nương sống lại, Mạo Xuyên Sinh tái thế, nếu không có ai dám dùng tay không bắt gậy của chàng? Trượng phong quét tới, bóng người quét lên, chỉ nghe keng một tiếng, thân hình của Mạnh Thần Thông lướt qua trên cây gậy, y thuận thế quét của cây gậy, bốc người theo luồng mãnh kình phát ra từ cây gậy, mà chẳng hề biến chiêu, lại chụp xuống đầu Kim Thế Di. Kim Thế Di nào để cho y chụp trúng, thế là đánh tròn cây gậy múa thành một vòng tròn màu đen, Mạnh Thần Thông chỉ cần tiến tới một bước nữa thì sẽ rơi vào trong vòng tròn ấy, đôi bên phải đấu nhau bằng chân lực nội gia, nếu Mạnh Thần Thông không tan xương nát thịt thì Kim Thế Di sẽ người chết gậy gãy.

Mạnh Thần Thông hình như không dám liều mạng, y lướt người qua khỏi đầu gậy, lập tức quay trở lại chỗ cũ. Kim Thế Di thấy y biến chiêu thần tốc, tuy không dám chụp tới nhưng cũng dám dùng chưởng chạm với gậy của chàng, công lực quả thực rất ghê gớm, nhất thời Kim Thế Di cũng không khỏi thất kinh.

Nói đến kịch chiến Mạnh Thần Thông ba lần dùng chưởng chém gậy, lượt phản kích lần sau lại mạnh hơn lần trước, trên mặt của y đã toát ra khí màu đen, Kim Thế Di đánh hết gậy này đến gậy khác, vẫn nắm được tiên cơ. Sau hơn hai ba mươi chiêu, chàng chợt cảm thấy không ổn, bởi vì cây gậy của chàng lẽ ra phải nóng lên mới phải.

Thế nhưng tình hình đã ngược lại, cây gậy lạnh lẽo như băng.

Kim Thế Di thầm thất kinh, nghĩ: “Chả lẽ y đã dùng Tu la âm sát công?”

Lúc này Dương Xích Phù đã cầm đầu bọn đệ tử của Mạnh Thần Thông hỗn chiến với người của Tạ Vân Chân. Trong khoảnh khắc khu vườn cát chạy đá bay, tiếng quát tháo ầm trời.

Phía Cái Bang tuy cao thủ nhiều nhưng Dực Trọng Mâu, Tiêu Thanh Phong đã bị chấn thương bởi Tu la âm sát công, võ công không bằng lúc bình thường, trường kiếm của Ngô Giáng Tiên thì bị đánh gãy, tuy đã đổi thanh khác nhưng không quen tay như ban đầu, may mà Tạ Vân Chân vẫn chưa bị thương, nhờ vào bảy mươi hai đường đoạt mệnh kiếm hiểm hóc yểm hộ cho mọi người. Hỗn chiến vừa nổi lên, Dương Xích Phù đã bám lấy Tạ Vân Chân, bọn đệ tử của Mạnh Thần Thông cũng dồn lên, không bao lâu sau thì đã bao vây Dực Trọng Mâu, Ngô Giáng Tiên, Chung Triển, Võ Định Cầu... Đôi bên đã ra tay, chỉ có nàng thiếu nữ Họ Lệ vẫn dửng dưng cầm cây roi dựa vào hòn non bộ, nhìn cuộc ác đấu của Kim Thế Di và Mạnh Thần Thông không chớp mắt. Nàng đang cầm cây roi bạch mang, đó vốn là dụng cụ tra tấn trong Mạnh gia trang, Mạnh Thần Thông sai một tên đệ tử cầm cây roi này đến đánh Lý Tâm Mai, bị Kim Thế Di đoạt được giao cho nàng. Mọi người trong Mạnh gia trang đã nhận ra cây roi định chạy tới cướp, chưa kịp tiến tới gần thì đã bị nàng đánh ngã.

Lúc này Kim Thế Di và Mạnh Thần Thông đã đấu nhau tới hơn trăm chiêu, mỗi lần Mạnh Thần Thông đánh trúng cây gậy, Kim Thế Di đều cảm thấy có một luồng khí lạnh từ cây gậy truyền vào lòng bàn tay của chàng, đồng thời lại cảm thấy lực phản công của Mạnh Thần Thông càng lúc càng lớn. Nhưng Mạnh Thần Thông mỗi lần chém xong một chưởng thì phải thở phì phò mấy hơi, xem ra khí lực không đủ.

Không lâu sau, chiêu số của hai bên dần dần chậm lại, cây gậy sắt của Kim Thế Di quét đông đánh tây, tựa như một vật nặng đến ngàn cân, mà Mạnh Thần Thông đã hơi chậm chạp, chưởng pháp đã tán loạn, nhưng thần sắc của hai người càng nặng nề hơn lúc nãy.

Đang lúc kịch chiến Mạnh Thần Thông cười ha hả, trên mặt y vốn tỏa khí đen, đột nhiên lúc này lại đen như đáy nồi. Thiếu nữ Họ Lệ thấy thế thì kêu hoảng. Trong khoảnh khắc này, Kim Thế Di cũng cảm thấy không ổn, cây gậy của chàng tựa như ngâm trong dòng suối lạnh, cứ lạnh lẽo như băng khiến cho Kim Thế Di hầu như không thể cầm chắc! Kim Thế Di đột nhiên phun ra một bãi nước bọt, bãi nước bọt bay tới xoèn xoẹt như ám khí, Mạnh Thần Thông phất ống tay áo đột nhiên nhảy vọt lên, hai chưởng vỗ xuống, trong chưởng phong trượng ảnh, chợt thấy Kim Thế Di lộn người ra đến mấy trượng, tiếp theo là tiếng kêu hoảng của Mạnh Thần Thông và nàng thiếu nữ. Kim Thế Di bật người từ dưới đất lên, chỉ thấy Mạnh Thần Thông hai tay đẩy hờ, còn nàng thiếu nữ rơi từ trên không xuống như con diều đứt dây.

Kim Thế Di nhảy lên yểm trợ cho nàng, nàng thiếu nữ xoay người trong không trung, rồi nàng giương ống tay áo, phập một tiếng, một luồng khói đen bốc lên rồi nàng kêu: “Chạy mau, chạy mau!”

Khói đen bung ra, phía đối diện không thấy bóng người, bọn đệ tử của Mạnh Thần Thông không dám đuổi theo, bọn Tạ Vân Chân, Dực Trọng Mâu vốn đang đứng ở cuối chiều gió, đương nhiên không dám ham đánh, vì thế nhân lúc đó cũng thoát ra khỏi Mạnh gia trang.

Cả đám người chạy khoảng được sáu bảy dặm thì dừng chân nghỉ lại bên bìa rừng. Lúc này đã đến trưa, ánh mặt trời chói chang, thế nhưng ngoại trừ Kim Thế Di và nàng thiếu nữ, ai nấy cũng đều run bần bật. Võ Định Cầu và Chung Triển có công lực kém nhất, lạnh đến nỗi răng đánh bò cạp.

Hai người Chung, Võ đêm qua bị Kim Thế Di bỡn cợt, lúc này đôi bên gặp nhau đều ngại ngùng. Võ Định Cầu lấy ra một cái bình ngọc, nói: “Đây và Bích linh đơn được tổ sư cho chúng tôi khi xuống núi, loại đơn dược này được chế từ Thiên Sơn tuyết liên, có thể giải hàng trăm loại độc.”

Trong bình có cả thảy bảy viên. Võ Định Cầu đổ ra lòng bàn tay, chia cho Dực Trọng Mâu, Tiêu Thanh Phong, Ngô Giáng Tiên, Tạ Vân Chân mỗi người một viên.

Tạ Vân Chân nói: “Ta và Ngô tỷ tỷ chia nhau uống một viên. Dực bang chủ, ông bị thương nặng hơn, ông hãy uống viên của tôi.”

Dực Trọng Mâu quả thật bị thương rất nặng, không dám từ chối thế là nhận lấy viên thuốc.

Võ Định Cầu chỉ còn lại ba viên, y đưa một viên cho Chung Triển rồi nhìn thiếu nữ nói: “Cô nương, Cô họ gì? Hôm nay nhờ cô mà chúng tôi được thoát hiểm, cô có lạnh không? Có cần không?...”

Nàng thiếu nữ không đợi y nói xong, cười khanh khách: “Đa tạ, ta không cần, cứ để lại cho người khác”

Võ Định Cầu nhìn sang Kim Thế Di, đêm qua y bị Kim Thế Di ném bùn vào mặt, vẫn còn chưa hết giận, nhưng lúc nãy chỉ nhờ một mình chàng chống lại Mạnh Thần Thông, nếu không hậu quả chẳng thể nào tưởng tượng nổi. Võ Định Cầu đang phân vân, muốn phát tác thì lại không được, muốn tặng cho chàng một viên Bích linh đơn thì không tiện mở miệng.

Kim Thế Di uể oải vươn vai, nói với thiếu nữ: “Cô nương bảo Tu la âm sát công của Mạnh Thần Thông rất lợi hại, nhưng cũng chẳng ra sao cả.”

Nàng thiếu nữ mỉm cười: “Vậy sao? Một cây độc châm của ngươi đã đâm trúng y, có lẽ sẽ khiến y đau đầu vài ngày, nhưng y không đến nỗi lỗ vốn lắm.”

Kim Thế Di giật mình, hình như nàng muốn nói mình cũng bị thua thiệt, nhưng chàng đã dùng nội công thượng thừa đẩy hết khí lạnh âm hàn ra, lại không thấy có điều gì quái lạ, lòng thầm nhủ: “Chưởng lúc nãy của Mạnh Thần Thông tuy lợi hại, Tu la âm sát công cũng hơi quái dị. Nhưng mình rốt cuộc đâu có bị thương, sao lại nói là mình lỗ vốn?”

Chung Triển nghe nàng thiếu nữ nhắc đến độc châm của Kim Thế Di, y chột dạ thầm nhủ: “Lúc nãy chả lẽ là Kim Thế Di âm thầm giúp đỡ mình?”

Hai đệ tử của Mạnh Thần Thông bị độc châm của y ám toán, cho nên mình mới dễ dàng ra tay?”

Võ Định Cầu thấy thần sắc Kim Thế Di kiêu ngạo, chẳng thèm nhìn đến y thì lòng nổi giận, bỏ viên linh đơn vào bình trở lại, thầm nhủ: “Y đã không cần thì mình giữ lại phòng thân!”

Chung Triển đã định hỏi lai lịch của nàng thiếu nữ, chợt thấy Mạnh gia trang bốc lửa, thiếu nữ nói: “Mạnh lão tặc sợ chúng ta đã thiêu cháy sơn trang, có lẽ bọn chúng sẽ tìm một nơi khác ẩn thân”

Tạ Vân Chân nói: “Cô nương, cô nương gọi y là lão tặc, chả lẽ có mối thâm thù với y?”

Thiếu nữ ấy chợt phất ống tay áo đứng dậy nói: “Có thù hay không là chuyện của riêng ta. Kim Thế Di, ngươi nhớ lấy, canh ba đêm nay!”

Nàng xoay mặt sang Kim Thế Di, nói xong thì chẳng thèm để ý đến Tạ Vân Chân đã bỏ đi.

Đó chính là: Thân mình lắm lỗi khó mở miệng, chẳng phải kỳ quái hay vô tình.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Vân Hải Ngọc Cung Duyên - Lương Vũ Sinh

Postby tuvi » 05 Feb 2023

Hồi Thứ Chín
Là yêu là hận lòng không biết...Là ân là oán chửa phân minh.

Tạ Vân Chân cụt hứng, lắc đầu, Võ Định Cầu hừ một tiếng rồi nói: “Chẳng biết thiếu nữ này ở đâu ra, thật vô phép với lão tiền bối!”

Dực Trọng Mâu nói: “Các người mới lần đầu ra giang hồ, không biết trên giang hồ có nhiều điều cấm kị, có lẽ thiếu nữ này có chuyện riêng gì đó, tuy chúng ta coi nàng là bằng hữu, nhưng nàng vẫn chưa dám dốc lòng cho chúng ta biết.”
Cả bọn đều thấy nàng bí hiểm khó lường. Kim Thế Di thì đúng một bên suy ngẫm. Trước khi bỏ đi thiếu nữ ấy đã nhắc chàng canh ba đêm nay đến chỗ hẹn. Kim Thế Di nghĩ tới chuyện có thể gặp được Lý Tâm Mai thì mừng rỡ vô hạn, nhưng chàng cũng hơi thắc mắc: “Thiếu nữ này thật quái gỡ, không biết nàng có đùa với mình không?”

Bọn người Tạ Vân Chân chẳng có thiện cảm với Kim Thế Di, nhưng rốt cuộc vẫn là có cùng kẻ thù, không thể coi chàng là người ngoài được, Tạ Vân Chân lên tiếng hỏi: “Kim... Kim đại hiệp có gặp Tâm Mai không? Tôi nghe nói bị nhốt trong Mạnh gia trang?” thực ra bà ta không muốn gọi Kim Thế Di là Kim đại hiệp, bà ta phải đắn đo lắm mới gọi được ba chữ này.

Kim Thế Di mỉm cười, cung kính cúi người trước Tạ Vân Chân: “Đừng khách sáo, đừng khách sáo, chi bằng bà cứ gọi tôi là Độc thủ phong cái như trước, tôi nghe bà gọi sau lưng tôi như thế. Còn chuyện cứu Tâm Mai, hì hì, có người của phái Thiên Sơn ở đây thì cần gì tôi phải nhọc lòng?”

Kim Thế Di giả vờ nhã nhặn với Tạ Vân Chân, nhưng trong lời nói thì đầy vẻ mỉa mai khiến Tạ Vân Chân giở khóc giở cười. Võ Định Cầu càng chẳng nén được, nhưng y rốt cuộc hơi sợ Kim Thế Di cho nên mặt tuy giận dữ nhưng cũng không dám lên tiếng.

Dực Trọng Mâu giảng hòa, nói: “Trong thiên hạ chỉ có những kẻ ăn mày như chúng ta mới tiêu dao tự tại nhất. Lão đệ, ngươi là nhân vật kiệt xuất nhất trong nghề của chúng ta, đáng tiếc hôm nay mới có duyên gặp nhau.”

Những lời của ông ta đã phá vỡ không khí ngượng ngùng giữa đôi bên. Kim Thế Di buông giọng cười lớn: “Ông là bang chủ, tôi chỉ là một tên ăn mày con. Bang chủ đại lão gia, tôi không dám có duyên với ông. Ông muốn có duyên với tôi, trong tay tôi lại có độc, ông có biết không?”

Kim Thế Di xưng là Độc thủ phong cái, trên giang hồ bảo chàng là một kẻ điên, kẻ điên đã đáng sợ, lại thêm Độc thủ nữa, điều đó càng đáng sợ hơn. Dực Trọng Mâu ngẩn người ra, không biết chàng lại nói những lời quái dị gì, y vốn định đưa tay ra nắm tay chàng nhưng lại rút về, Kim Thế Di cười lớn: “Dực bang chủ, ông hãy nghỉ ngơi, Mạnh Thần Thông đã bỏ đi, tôi cũng đi đây.”

Khi đi ngang qua Võ Định Cầu thì chợt khẽ nói: “Nhớ từ rày về sau đừng mắng ai sau lưng nữa!”

Võ Định Cầu tức giận đến nỗi hai mắt quắc lửa, đợi Kim Thế Di bỏ đi xa thì mới ngoác miệng mắng lớn.

Kim Thế Di bỡn cợt họ một phen, thống khoái vô cùng, chàng đến ngọn núi gần đó ngủ một giấc, chàng nằm chiêm bao thấy Lý Tâm Mai cầm một đóa Thiên Sơn tuyết liên chậm rãi đi tới trên mặt biển, mặt biển phẳng lặng như gương, mây trên trời như cũng xà xuống mặt biển, đột nhiên Cốc Chi Hoa cũng tới, Kim Thế Di đang định đến đón họ, chợt nàng thiếu nữ Họ Lệ cũng tới, mặt biển chợt nứt toác ra, Lý Tâm Mai và Cốc Chi Hoa đều chìm xuống, chỉ có nàng thiếu nữ Họ Lệ cười ha hả! Kim Thế Di bừng tỉnh, chàng ngẩng đầu nhìn thì thấy sao trời lấp lánh, vầng trăng sáng đang ở trên cao, lúc này đã gần đến canh ba. Kim Thế Di tự cười: “Giấc ngủ thật dài, giấc chiêm bao cũng hoang đường!” chợt chàng nhớ lại ba thiếu nữ trong giấc chiêm bao, tình cảm của Lý Tâm Mai đối với chàng rất sâu sắc, nàng không hiểu sự đời, tựa như chẳng biết gì đến sự hiểm ác của đời người, khi bên cạnh nàng, chàng thường cảm thấy tự hổ thẹn, Kim Thế Di yêu thương nàng như một cô em gái.

Cốc Chi Hoa là đệ tử của Lữ Tứ Nương, Kim Thế Di tôn kính Lữ Tứ Nương, cũng tôn kính Cốc Chi Hoa, tuy mới gặp mặt một lần nhưng chàng không thể nào xóa mờ được ấn tượng của nàng. Cốc Chi Hoa hiểu biết rộng rãi, lòng dạ phóng khoáng, Kim Thế Di tuy lớn tuổi hơn nàng nhưng cảm thấy nàng như một người chị của mình. Đối với bất cứ ai chàng cũng cười đùa bỡn cợt, nhưng chỉ duy trước mặt Cốc Chi Hoa, lần đầu tiên gặp mặt chàng đã có cảm giác không dám phóng túng. Còn nàng thiếu nữ Họ Lệ thì rất kỳ quặc, Kim Thế Di cảm thấy nàng đầy tà khí, chàng chẳng ưa gì nàng nhưng lại cứ mãi nghĩ đến nàng, tựa như nàng là một người rất quen thuộc với mình, thậm chí chàng có thể phát hiện ở nàng hình bóng của mình trước kia. Một người có thể thoát khỏi bất cứ thứ gì nhưng không thể thoát khỏi bóng dáng của mình.

Đó có lẽ là nguyên nhân Kim Thế Di không ưa nàng nhưng lại nghĩ đến nàng.

Tóm lại, ba thiếu nữ trong giấc chiêm bao tuy khác nhau nhưng đều chiếm một địa vị trong lòng chàng, nếu không chàng lại chẳng thấy họ trong giấc chiêm bao.

Vầng trăng sáng đã lên gần đến đỉnh đầu, Kim Thế Di cũng lên đến ngọn Kim Kê ở núi Thái Hàng, lúc này hình bóng của Cốc Chi Hoa và nàng thiếu nữ cũng đã nhạt trong lòng Kim Thế Di, hình ảnh Lý Tâm Mai dần hiện ra, bởi vì chàng sắp gặp Lý Tâm Mai chứ không phải là một giấc mộng!

Sao trời mờ mịt, ánh trăng mông lung, Kim Thế Di đi đến ngọn Kim Kê, băng qua một mảnh rừng, quả nhiên phát hiện có một cây cổ bách, dưới cây cổ bách quả nhiên có bóng nàng thiếu nữ. Kim Thế Di xao xuyến trong lòng, thiếu nữ Họ Lệ không lừa chàng, Lý Tâm Mai quả nhiên đã chờ ở đấy.

Kim Thế Di thi triển công phu thượng thừa Tinh đình điểm thủy, lặng lẽ lướt tới, chàng muốn trêu Lý Tâm Mai cho nên thổi một hơi vào cổ nàng.

Nhưng lúc này, Kim Thế Di chợt cảm thấy có điều gì khác lạ, chàng chưa kịp thở ra thì chợt nghe thiếu nữ ấy bật cười quay đầu lại, nói: “Kim Thế Di nhà ngươi quả nhiên giữ lời hứa, giờ đã là canh ba!” nào phải Lý Tâm Mai, mà chính là thiếu nữ Họ Lệ!

Kim Thế Di giận đến nỗi phát run, quát: “Hay lắm, té ra là cô đùa với ta!” thiếu nữ cười khanh khách: “Kim Thế Di, ngươi có nhớ lời ta nói không?”

Kim Thế Di nói: “Sao?”

Thiếu nữ trả lời: “Ngươi đã bảo cho ta mạo phạm ngươi ba lần, ngươi không được nổi giận.”

Kim Thế Di nghe thế thì giở khóc giở cười, chẳng lên tiếng được nữa. Thiếu nữ lại cười: “Ta nghe nói ngươi rất giỏi bỡn cợt người khác, hôm nay ta trêu ngươi một lần thì có đáng là chi!”

Kim Thế Di nói: “Được, cô nương đã trêu tôi xong, vậy Lý Tâm Mai ở đâu?”

“Ngươi hỏi ta ta làm sao biết?”

“Vậy cô nói đã hẹn nàng canh ba gặp nhau ở đây là lừa ta?”

“Cũng không hẳn là lừa ngươi”

“Vậy tại sao đến giờ vẫn chưa gặp được nàng?”

“Ta hẹn nàng canh ba đêm nay gặp nhau, nhưng sau đó ta lại gặp nàng, ta chợt đổi ý bảo nàng đi trước.”

Kim Thế Di quát lên: “Tại sao?” nàng thiếu nữ cười khanh khách: “Sao, đã bảo không nổi giận mà lại nổi giận, đừng hòng ta trả lời câu này.”

Kim Thế Di đành bó tay, chàng lại nôn nóng muốn biết tin tức của Lý Tâm Mai, chỉ đành cố nén giận: “Cô nương đã nói gì với nàng? Cô nương biết rõ ta muốn gặp nàng, tại sao lại bảo nàng đi?”

Thiếu nữ cười nói: “Bởi vì ta biết người muốn gặp nàng ngoại trừ ngươi còn có người khác. Ta nói với nàng, Tâm Mai này, sư huynh của cô có phải là một tên tiểu tử tên Chung Triển hay không, nàng nói phải. Ta lại nói, sư huynh của cô đang tìm cô, còn có một tên tiểu tử họ Võ đi cùng với y cũng tìm cô. Vì thế sau khi ta nói thì nàng đã vội vàng chạy xuống núi.”

Nàng thiếu nữ bắt chước theo giọng nói của Lý Tâm Mai, trông rất giống.

Kim Thế Di suýt nữa đã mắng nàng, nhưng nghĩ rằng mình đã hứa với người ta cho nên đành cố nén. Nàng thiếu nữ lại cười: “Ta nghĩ ta làm đâu có sai, người ta là sư huynh muội, dù gì cũng là đồng môn, lẽ nào nàng không gặp đồng môn mà lại gặp ngươi trước?”

Kim Thế Di nói: “Hừ, làm không sai tý nào, nhưng tại sao cô nương lại lừa ta đến đây?”

Thiếu nữ nói: “Gió mát trăng thanh, ta thấy quạnh hiu, muốn tìm một người trò chuyện cũng chẳng có gì xấu. Huống chi ta biết ngươi thích đùa, đã ngẫu nhiên gặp ngươi, chi bằng cũng ngẫu nhiên đùa với ngươi một lần.”

Kim Thế Di lạnh lùng nói: “Đêm nay tôi chẳng có lòng dạ nào đùa với cô nương. Được, cô nương đùa đã xong, xin lỗi tôi không thể chiều theo!”

Thiếu nữ ấy chợt kêu lên: “Kim Thế Di, ngươi đứng lại!” Kim Thế Di vốn đã sải bước, nghe nàng gọi như thế, trong bụng cũng hơi bực bội nhưng cũng ngừng lại.

Thiếu nữ cười khanh khách nói: “Kim Thế Di, lúc nãy ta chỉ đùa với ngươi thôi!”

Kim Thế Di tức giận nói: “Ta biết rồi, đừng lắm lời nữa!” thiếu nữ cười: “Ngươi không biết một tí gì cả, ta muốn nói, ta hẹn ngươi đến đây là có chuyện quan trọng, chẳng phải đùa tí nào!”

Kim Thế Di nghe nàng nói trịnh trọng thì nửa tin nửa ngờ, quay trở lại hỏi: “Có chuyện gì quan trọng?” thiếu nữ nói: “Tính mạng của ngươi có quan trọng không?”

Kim Thế Di nghe thế thì bực dọc, nói: “Được, đây là lần thứ nhì cô nương đùa với tôi!” thiếu nữ nói: “Lần này chẳng đùa tí nào, ta rất nghiêm túc, ngươi hãy thử hít một hơi xem, hãy làm theo lời ta, vượt khí xung kích các huyệt ở túc thiếu dương đảm kinh!”

Kim Thế Di thử làm theo lời nàng, rồi chuyển chân khí trong người, xung kích các huyệt ở túc thiếu dương đảm kinh, từ huyệt ngũ khu, thần đạo cho đến huyệt dương lăng ở trái chân vận chuyển một vòng, chàng thấy chẳng hề có gì trở ngại, đang định trách nàng thì chợt thấy các huyệt đạo ở nơi chân khí vừa mới đi qua có cảm giác ngứa ngáy, chàng giật mình, chỉ trong chớp mắt thì toàn thân lạnh lẽo nhấtlà phần dưới chân, tựa như khí lạnh tháng chạp ngấm vào người.

Thiếu nữ cười nói: “Thế nào? Ta có đùa với ngươi không?”

Kim Thế Di trầm ngâm không nói, một lát sau mới lên tiếng: “Không ngờ Tu la âm sát công của Mạnh Thần Thông lại lợi hại đến thế!”

Thiếu nữ nói: “Đó là bởi vì nội công của ngươi thâm hậu cho nên không phát tác ngay lập tức. Nhưng khí âm hàn của Tu la âm sát công đã lưu lại trong người, tuy ngươi đã vận khí trục hàn nhưng vẫn không hết, loại khí âm hàn này xuyên qua nơi có trở lực nhỏ nhất, tụ lại ở chân, có phải người cảm thấy huyệt thông tuyền ở gót chân là lạnh nhất hay không?”

Kim Thế Di gật đầu. Nàng thiếu nữ nói: “Còn may là ngươi, nếu là người khác thì hàn khí đã xông lên tới tim, thần tiên cũng khó cứu. Cho nên Dực Trọng Mâu bị trúng một chưởng của Mạnh Thần Thông, tuy đã uống hai viên Bích linh đơn nhưng có lẽ cũng phải bệnh nặng một trận.

Công lực của ngươi thâm hậu, hàn khí không thể đi lên xâm nhập vào tim của ngươi, do đó mới trầm xuống tụ ở gót chân. Nay ngươi đã phát giác, vậy mỗi ngày phải vận công ba lần để kháng cự, có thể ngăn không cho hàn khí thăng lên, như thế có thể giữ được mạng, nhưng ít nhất bán thân bất toại, đôi chân từ đây coi như tàn phế.”

Kim Thế Di cười thảm nói: “Như thế sống còn có ý nghĩa gì? Huống chi mỗi ngày đều bị dày vò!” tiếng cười thảm chợt trở nên cuồng dại, chàng xoay người bước đi. Thiếu nữ ấy nói: “Ngươi muốn làm gì thế?”

Kim Thế Di nói: “Mạnh Thần Thông đã trúng một cây độc châm của ta, có lẽ y cũng phải bệnh nặng một trận, ta nhân lúc công lực của y chưa hồi phục vả lại lúc này ta vẫn còn đi được, tìm y đấu một trận, quá lắm chỉ là cả hai cùng chết!”

Thiếu nữ cười lạnh: “Mạng ngươi không đáng tiền đến thế sao? Ngươi chỉ cần Mạnh Thần Thông đi cùng ngươi hay sao? Hơn nữa, y có đệ tử hộ tống, sư đệ của y cũng đã luyện tới tầng thứ năm, e rằng ngươi không thể cùng chết với y!”

Kim Thế Di giật mình, nghe nàng nói có lý thì ngừng lại nghĩ bụng: “Nghe khẩu khí của nàng, chả lẽ nàng có thể giải cứu?” Nhưng Kim Thế Di chẳng bao giờ chịu nhận ân huệ của ai cho nên chàng cũng chẳng mở miệng hỏi nàng!

Thiếu nữ đã thấy lòng dạ của Kim Thế Di, cười rằng: “Kim Thế Di, ta cầu xin ngươi một chuyện!” Kim Thế Di nói: “Ta đã sắp bán thân bất toại, còn có thể giúp gì được cho cô nương?”

Thiếu nữ nói: “Ta cầu xin ngươi giúp ta báo thù. Ta tuy chưa từng học Tu la âm sát công, nhưng trên đời này chỉ có một mình ta biết cách giải cứu. Ngươi ngạc nhiên lắm phải không? Có lẽ ngươi đang hỏi, ta không biết công phu này thì làm sao biết cách giải cứu? Đó là bởi vì Mạnh Thần Thông chỉ đánh cắp được ba thiên bí kíp luyện Tu la âm sát công, còn cách giải cứu vẫn nằm trong tay ta. Ngươi có muốn giao dịch với ta không? Ta giúp ngươi giữ mạng, ngươi giúp ta trả thù?”

Kim Thế Di vừa nghe đã biết ý định của nàng, thầm nhủ: “Trả thù Mạnh Thần Thông, đâu có dễ dàng đến thế? Có lẽ ba năm, năm năm, thậm chí tám năm, mười năm cũng chưa trả xong, nếu mình hứa thì sẽ bị nàng trói buộc, vả lại mặc cho mình có thích hay không cũng phải kết bằng hữu với nàng.”

Nhưng trên đời này ngoài thiếu nữ Họ Lệ, không ai có cách giải cứu, chả lẽ mình cam chịu làm phế nhân. Chết không dễ chịu tí nào, nhưng nửa sống nửa chết mới là chuyện đau đớn nhất.

Kim Thế Di nghĩ lại: “Có lẽ đây là ý tốt của nàng, nàng sợ mình không chịu chấp nhận ý tốt của nàng cho nên mới bảo là cầu xin mình để khỏi làm tổn thương đến tự ái của mình!”

Kim Thế Di đoán không lầm, nàng thiếu nữ đúng là có hai mục đích, nàng vừa muốn trói buộc Kim Thế Di, lại sợ chàng không chấp nhận.

Thiếu nữ chờ một hồi thì không thấy trả lời, cười rằng: “Thế nào? Ta cầu xin ngươi mà ngươi vẫn chưa chấp nhận? Trong cuộc giao dịch này cả hai chúng ta đều không lỗ vốn, không ai nhận ân huệ của ai, chẳng phải là đã quá tốt hay sao?” Kim Thế Di thở dài, nói: “Thôi được, cô nương giải độc cho ta, ta giúp cô nương báo thù.”

Thiếu nữ nói: “Ngươi nhắm mắt lại.”

Kim Thế Di nói: “Sao thế?”

Thiếu nữ nói: “Ta lo ngươi thấy sẽ sợ.”

Kim Thế Di cả cười: “Ta chưa biết trên đời này có gì đáng làm cho ta sợ!”

Nàng thiếu nữ nheo mắt cười: “Thật ư?”

Kim Thế Di giật mình, không biết thế nào mà chàng lại cảm thấy e dè nàng ta! Nàng thiếu nữ nghiêm mặt nói: “Ta chữa trị cho ngươi, ngươi không những không thể sợ hãi mà tuyệt đối phải nghe lời ta.”

Kim Thế Di cười nói: “Ta giờ đây là người bệnh, người bệnh đương nhiên phải nghe lời thầy thuốc. Cô nương cứ việc chữa trị cho ta, ta không sợ!”

Nàng thiếu nữ lấy ra một nắm ngân châm, mỗi cây dài đến hai tấc, nói: “Ngươi không sợ thì cứ nhìn đây. Không được vận công chống cự.”

Thế rồi nàng vung cây châm lên đâm vào huyệt thái dương của chàng, huyệt thái dương là một trong những tử huyệt của con người, Kim Thế Di chợt chột dạ, lúc này cây kim đã đâm sâu vào, chàng lập tức cảm thấy đau nhói, Kim Thế Di nghiến răng chẳng chớp mắt, trong khoảnh khắc nàng thiếu nữ đã đâm mười hai cây ngân châm vào mười hai tử huyệt của chàng, cơn đau này nối tiếp cơn đau kia, khí lạnh trong người cũng không còn nữa.

Kim Thế Di chợt nghĩ: “Cách chữa trị này thật kỳ quái. Điều kỳ quái hơn là tại sao mình cam lòng nghe theo nàng?”

Mười hai cây ngân châm đã đâm vào mười hai tử huyệt mà Kim Thế Di không chết, điều đó chứng minh cách chữa trị này có hiệu quả. Nhưng trước đó Kim Thế Di không biết, nàng thiếu nữ này lại rất quái gỡ, còn Kim Thế Di lại không nghĩ nàng có ý xấu, cũng không vận công chống trả, lúc này chàng mới phát giác rằng mình hoàn toàn tin nàng, nhưng chỉ là không nói ra miệng mà thôi. Trong đời mình, ngoại trừ vài người thân thiết, Kim Thế Di rất ít tin người khác, giờ đây chàng lại tin cậy nàng thiếu nữ này, nàng ta lại không chỉ lừa chàng một lần, tại sao chàng lại tin nàng, cứ để mặc

cho nàng đâm vào tử huyệt của mình? Cả bản thân Kim Thế Di cũng không hiểu. Kim Thế Di dần dần thấy bớt đau, nàng thiếu nữ nói: “Ngươi hãy đưa chân phải ra.” Kim Thế Di lại nghe theo lời nàng, nàng thiếu nữ cầm gót chân của chàng, ngón tay đè nhẹ vào huyệt thông tuyền.

Kim Thế Di chợt thấy ngứa ngáy lạ thường, đau còn chịu được, nhưng ngứa thì rất khó chịu, Kim Thế Di bất giác bật cười, nói ra cũng rất lạ, sau khi cười xong thì thấy toàn thân nhẹ nhõm, không những không còn đau mà khí huyết cũng lưu thông.

Thiếu nữ cười khanh khách: “Hình như ngươi đã sáu bảy ngày không tắm, gót chân thối không chịu được, may mà ngươi còn cười.”

Kim Thế Di nói: “Đâu có, hôm qua ta đã tắm ở dòng suối.”

Kim Thế Di tuy biết nàng nói đùa nhưng cũng cảm thấy ngại ngùng, bàn tay của nàng thiếu nữ vừa mềm vừa mịn màng, Kim Thế Di được nàng xoa bóp một hồi, chàng thấy có một cảm giác không thể nào tả được, sóng lòng xao xuyến, thậm chí chàng không cảm thấy ngứa ngáy nữa nên chàng mới nín cười được.

Một hồi sau, ở huyệt thông tuyền có luồng khí nóng thăng lên lưu chuyển khắp toàn thân, khí âm hàn cũng dần dần tản mát.

Nàng thiếu nữ xoa bóp xong huyệt thông tuyền ở gót chân phải thì bắt đầu sang chân trái. Khí huyết trong người Kim Thế Di lưu thông, cơn lạnh ở hai chân đã giảm xuống nhiều. Thiếu nữ đợi một hồi nữa thì thấy sắc mặt của Kim Thế Di từ trắng chuyển sang đỏ mới rút mười hai cây ngân châm ra, Kim Thế Di cảm thấy toàn thân thoải mái, nhưng người yếu ớt tựa như vừa mới khỏi bệnh.

Thiếu nữ cười: “Coi như xong xuôi. Ngươi có đói không? Ta tìm vài con thỏ hoang nướng cho ngươi ăn. Ta phải ra suối rửa tay nữa, ngươi hãy đợi ở đây một lát.”

Kim Thế Di ngồi tĩnh tọa vận công, khí lực dần dần hồi phục, chàng chợt nghĩ: “Nếu mình nhân cơ hội này bỏ chạy, nàng sẽ làm gì mình? Nàng đã nhiều lần bỡn cợt mình, mình phải trêu nàng lại một phen.”

Nhưng chàng chợt nghĩ lại: “Không được không được! Chuyện khác có thể đùa, nhưng nàng đã chữa trị cho mình, nếu mình trêu nàng thì nàng lại nghĩ mình là một kẻ phụ nghĩa?”

Một hồi sau, nàng bắt được hai con thỏ hoang rồi nổi lửa nướng thỏ chia cho Kim Thế Di, nàng không đợi Kim Thế Di lên tiếng đã hỏi chàng cảnh vật ở Xà đảo: “Ta chưa bao giờ ra biển, nếu sau này có thể ra biển, ngươi có chịu chèo thuyền cho ta không?”

Kim Thế Di nói: “Từ sau khi tôi đi khỏi Xà đảo cũng chưa bao giờ trở lại. Được thôi, sau này khi tôi trở về sẽ nói với cô nương, cô nương có thể đi nhờ thuyền.”

Nàng thiếu nữ nghiêm mặt nói: “Quân tử nói một lời xe bốn ngựa khó đuổi. Lúc đó ngươi không được len lén bỏ đi đấy nhé.”

Kim Thế Di nhìn nét cười điệu nói của nàng. Chàng chợt nhớ lại lúc còn bé có một lão ăn mày già kể cho chàng nghe một câu chuyện, chuyện kể rằng trên một ngọn núi rất cao có một ác ma, y rất thích mua linh hồn của người khác, ai muốn gì y đều cho cả, nhưng y phải lấy linh hồn của người đó. Sau khi viết khế ước bán thân cho y, suốt đời người đó phải nghe lời y. Kim Thế Di hứa sẽ giúp nàng trả thù, không biết thế nào mà chàng lại cảm thấy tựa như đã viết khế ước bán thân với nàng, vì thế chàng nhớ lại câu chuyện này.

Nàng thiếu nữ nhìn thẳng vào mắt của Kim Thế Di, nói: “Ngươi nghĩ gì thế?”

Kim Thế Di giật mình, nói: “Chẳng có gì.” Nàng thiếu nữ nói: “Ngươi hứa giúp ta trả thù, đây không phải lời nói suông, vậy ngươi có cách gì giúp ta? Ngươi thấy võ công của ngươi có thể thắng được Mạnh Thần Thông không?”

Kim Thế Di bốc lửa giận, lạnh lùng nói: “Cô nương đã cứu tôi, tôi cộng thêm lời vào, trả lại mạng này cho cô nương là xong.”

Thiếu nữ cười khanh khách: “Ngươi tuy không muốn nói ra, nhưng cũng đã thừa nhận công lực không bằng Mạnh Thần Thông thành thử mới muốn liều mạng.”

Kim Thế Di nói: “Tôi giúp cô nương trả thù, quá lắm chẳng qua chỉ xả mạng vì cô nương, cô nương còn có điều gì chưa hài lòng?”

Thiếu nữ cười: “Đương nhiên là không hài lòng. Ngươi chết không sao nhưng ta vẫn chưa trả được thù! Huống chi nếu ngươi đấu không lại Mạnh Thần Thông, ngươi mất mạng thì cũng chưa thực hiện được lời hứa với ta.”

Kim Thế Di thản nhiên nói: “Vậy còn cách nào? Tôi chỉ có một mạng này thôi!”

Thiếu nữ nói: “Ta có cách. Chờ đến khi võ công của ngươi hơn được Mạnh ThầnThông thì giúp ta trả thù chẳng phải sẽ dễ như trở bàn tay sao?”

Kim Thế Di cười nhạt: “Tôi tưởng cô nương còn có cách gì, tôi nói thực cho cô nương biết, tôi thất muốn thắng được Mạnh Thần Thông thì ít nhất cũng phải mất mười năm nữa. Trong vòng mười năm, dù võ công của tôi có tiến bộ nhiều cũng chỉ cân sức với y, không bị đả thương bởi Tu la âm sát công mà thôi.”

Thiếu nữ nói: “Giờ thì ngươi đã biết Tu la âm sát công lợi hại chưa? Theo võ công hiện giờ của ngươi quả thực luyện mười năm nữa có thể thắng được Mạnh Thần Thông, vả lại Tu la âm sát công của Mạnh Thần Thông không có tiến triển, nếu y luyện đến tầng thứ chín thì mười năm sau ngươi vẫn chưa chắc bằng y.”

Kim Thế Di rầu rĩ, nói: “Vậy cô nương có cách gì?”

Nàng thiếu nữ nói: “Chỉ cần ngươi nghe lời ta, ta đảm bảo chỉ trong vòng ba năm võ công ngươi sẽ áp đảo Mạnh Thần Thông. Trong vòng mười năm thì trên đời này chẳng ai địch nổi ngươi! Không những như thế, ngươi sẽ trở thành bậc tôn sư võ học từ xưa đến nay chẳng ai sánh nổi!”

Kim Thế Di giật mình, đã đoán được vài phần, lập tức trỗi lòng nghi ngờ, nhưng lại giả vờ thắc mắc: “Nếu cô nương có bản lĩnh như thế cần gì phải nhờ tôi giúp đỡ?”

Thiếu nữ nhích tới gần chàng hơn, nhìn chàng với đôi mắt vừa tròn vừa sáng, nói:

“Ta không đùa với ngươi, ta có một nguyên nhân.”

Kim Thế Di nói: “Nguyên nhân gì?”

Thiếu nữ ấy nói: “Trước tiên ta phải làm cho ngươi tin ta không nói đùa. Ngươi thử xem, Tu la âm sát công của Mạnh Thần Thông chỉ là ba thiên trong bí kíp gia truyền nhà ta, theo ta biết, võ công trong bí kíp gia truyền nhà ta được chép theo lời của một bậc tiền bối dị nhân, toàn bộ võ công của vị tiền bối này so với những điều nhà ta chép lại được tựa như biển rộng với dòng suối nhỏ. Nếu chúng ta tìm được võ công của vị tiền bối này, dù cho có một trăm Mạnh Thần Thông thì cũng chẳng đáng sợ?” nhưng dị nhân tiền bối ấy đã chết ba trăm năm, làm sao tìm được võ công của ông ta? Vả lại cô nương làm sao biết ông ta có võ công để lại?”

Nàng thiếu nữ rất ngạc nhiên, đứng bật dậy: “Ngươi cũng biết chuyện này? Đúng thế, người ta muốn nói chính là Kiều Bắc Minh đã chết gần ba trăm năm nay. Ngươi có biết ta là ai không?”

Kim Thế Di nói: “Đúng thế, chúng ta đã quen biết nhau hai ngày, cô nương vẫn chưa cho tôi biết tên.”

Thiếu nữ nói: “Ta tên Lệ Thắng Nam. Tahỏi điều này không phải, ngươi có biết ta là người thế nào không?”

Kim Thế Di nói: “Cô nương là người tìm Mạnh Thần Thông trả thù.”

Thiếu nữ nói: “Đó chính là do ta nói với ngươi!”

Kim Thế Di nói: “Đúng thế, cô nương không nói thì làm sao tôi biết?”

Thiếu nữ cười nói: “Té ra là ngươi đang nói vòng vo, nói như thế, trước khi gặp ta ngươi hoàn toàn không biết trên đời này có ta.”

Kim Thế Di nói: “Tôi lớn hơn cô nương vài tuổi, lại đi khắp nơi, tiếng xấu đồn khắp giang hồ. Cô nương biết trên đời này có một người như tôi không có gì là kỳ lạ.”

Thiếu nữ nói: “Nói ngược lại ngươi biết tên ta có nghĩa là kỳ lạ đúng không? Song ta cảm thấy cũng hơi lạ lùng, ngươi biết ba trăm năm trước có một người tên Kiều Bắc Minh, vậy tại sao không biết ta là ai?” ánh mắt trong veo như nước hồ thu cứ nhìn chằm chằm vào Kim Thế Di, tựa như đã nhận ra chàng không phải nói dối, rồi nàng thở phào, nghỉ một lát rồi mới nói: “Ta chưa bao giờ cho ai biết thân thế của mình, ngươi đã biết chuyện Kiều Bắc Minh, hôm nay ta sẽ nói cho ngươi biết.”

Kim Thế Di nói: “Tôi đoán được thân thế của cô nương có liên quan đến bí mật võ lâm, nếu như thế, không nói cũng được.”

Thiếu nữ nói: “Từ rày về sau chúng ta sẽ dựa vào nhau, có nói cho ngươi biết cũng chẳng sao.”

Kim Thế Di nghe nàng bảo đôi bên sẽ dựa vào nhau thì rùng mình, nhủ thầm: “Coi như mình đã ký khế ước bán thân với nàng.”

Chỉ nghe nàng nói: “Kiều Bắc Minh có một học trò tên gọi Lệ Kháng Thiên, cả đời ông ta trung thành, ông ta vừa là học trò của Kiều Bắc Minh, cũng là quản gia của nhà họ Kiều, bao nhiêu bí kíp võ công của Kiều Bắc Minh ông ta đều đã xem qua, tất cả những bí quyết võ học nửa đời trước của Kiều Bắc Minh đều do ông ta ghi chép. Chỉ vì tiếng tăm của Kiều Bắc Minh quá vang dội, cho nên ba trăm năm sau vẫn có người còn biết, nhưng chẳng ai biết đến quản gia của ông ta.”

Kìm Thế Di nói: “Ồ, té ra Lệ Kháng Thiên là tổ tiên của cô nương.”

Thiếu nữ nói: “Đúng thế, ông ta là tổ tiên bảy đời trước của ta. Lúc đó Kiều Bắc Minh là đệ nhất ma đầu, đắc tội với rất nhiều hiệp khách. Sau đó ông ta bị thương dưới kiếm của đại hiệp Trương Đan Phong, giả vờ chết chạy ra ngoài biển, sợ bị trả thù, nhà ta đoạt bí kíp võ công cho nên mai danh ẩn tích, đời đời tương truyền, không hề để lộ phong thanh ra giang hồ.”

Kim Thế Di nói: “Tổ tiên của cô nương quả là biết giữ thân, nếu là tôi thì đã không nén được.”

Thiếu nữ nói: “Kiều Bắc Minh chạy ra một hòn đảo ở miền Đông Hải, chỉ có nhà ta biết tin này. ông ta để lại bí kíp võ công cả đời trên đảo, điều đó cũng có chỉ nhà ta biết.”

Kim Thế Di cười rằng: “Nhưng tôi đã biết.” Rồi chàng chợt nhớ lại bức bản đồ kỳ lạ, vốn định hỏi nàng nhưng cố kìm lại.

Nàng thiếu nữ liếc nhìn chàng rồi nói: “Thực ra dù người khác có biết cũng chẳng ích gì. Họ tìm đến hải đảo, cũng không có cách lấy được bí kíp võ công của Kiều Bắc Minh, bởi vì ở đây còn có một bí mật chỉ có một mình nhà ta biết. Hiện giờ cũng chỉ có một mình ta biết.”

Kim Thế Di nói: “Có phải cô nương muốn tôi cùng ra hải đảo tìm võ công của Kiều Bắc Minh hay không?” thiếu nữ đáp: “Đúng thế.”

Kim Thế Di nói: “Tại sao cô nương không tự đi?” thiếu nữ trả lời: “Một là ta không biết đi biển. Hai là hòn đảo đó có tên là Ma đảo, có người đi cùng sẽ tốt hơn đi một mình.”

Kim Thế Di nhớ lại trước kia sư phụ bảo chàng không được lên hòn đảo đó, nhủ thầm: “Chả lẽ trên hải đảo ngoài núi lửa còn có thứ gì khác quái lạ?”

Thiếu nữ tiếp tục nói: “Còn có nguyên nhân thứ ba. Căn cơ võ công của ta tuy không tệ, nhưng dù có lấy được bí kíp võ công của Kiều Bắc Minh cũng e rằng không hiểu được sự ảo diệu trong đó. Nếu mù quáng nghiên cứu, dù có bạc đầu cũng chưa chắc thành công, như thế thì làm sao báo được thù? Lệnh sư Độc Long tôn giả là một quái kiệt trong võ lâm, đường lối võ công mà ngươi học được khác hẳn với các môn phái khác, nói trắng ra không phải là chính tông. Có thể giống với đường lối võ công của Kiều Bắc Minh. Nếu ngươi lấy được bí kíp võ công của Kiều Bắc Minh, chắc chắn sẽ tốn ít sức mà thu hoạch được nhiều, không bao lâu sau thì trở thành một bậc tôn sư võ học.”

Kim Thế Di nói: “Chẳng phải cô nương đã bảo trong nhà cô nương còn có một số bí kíp võ học sao? Học hết những bí kíp võ công đó chẳng phải có thể chế phục được

Mạnh Thần Thông hay sao? Thực ra, tôi cũng không muốn làm đệ tử cách thế của Kiều Bắc Minh.” Thiếu nữ nói: “Ai cũng bảo hành vi của ngươi quái gỡ, bảo ngươi là ma đầu đương thế, không ngờ ngươi cũng cổ hủ như bọn đệ tử danh môn chính phái! Võ lâm đồn rằng Kiều Bắc Minh hành sự tà ác, vậy có liên quan gì đến ngươi? Huống chi ông ta đã chết ba trăm năm nay! Chúng ta lấy võ công của ông ta thì có hề gì? Ngươi không chịu làm đệ tử cách thế của ông ta, chả lẽ hồn ma của ông ta nhập vào người của ngươi, buộc ngươi bái ông ta làm thầy?”

Kim Thế Di im lặng không nói, thầm nhủ: “Trước khi chết, Kiều Bắc Minh đã nói với người hải khách rằng, ai có thể đưa được quan tài của ông ta trở về trung thổ người đó chính là đệ tử cách thế của ông ta. Bình sinh mình chưa bao giờ dễ dàng nhận ân huệ của người khác, nếu học được võ công của ông ta, mình làm sao có thể quên được ơn nghĩa ấy, không coi ông ta là sư phụ? Thà có lỗi với người sống chứ đừng có lỗi với người chết. Đối với bậc tiền bối đã chết, dù ông ta như thế nào mình cũng không nên bội nghĩa.”

Kim Thế Di còn đang đắn đo, nàng thiếu nữ lại nói tiếp: “Bí kíp võ học trong nhà ta là tâm đắc nửa đời trước của Kiều Bắc Minh, chứ không phải toàn bộ. Dù có học được cũng chẳng bằng những bậc tôn sư võ học hiện nay. Huống chi ba thiên Tu la âm sát công quan trọng nhất đã bị Mạnh Thần Thông cướp mất.”

Kim Thế Di hỏi: “Mạnh Thần Thông đã cướp như thế nào?”

Thiếu nữ trả lời: “Đó là chuyện vào hai mươi năm trước. Không biết thế nào mà Mạnh Thần Thông biết nhà ta có bí kíp nên đến hỏi chuyện này. Lúc đó cha ta vẫn chưa đến ba mươi tuổi, chỉ mới luyện được ba tầng Tu la âm sát công, tuy đánh y trọng thương nhưng đã trúng ám khí của y, vì không biết chữa trị nên qua đời sau đó. Lúc đó ta vẫn chưa ra đời, mẹ vẫn hằng mong ta là nam nhi nhưng nào ngờ người đã thất vọng, cho nên mới đặt cho ta cái tên này. Ta đã cho ngươi biết tất cả mọi việc, ngươi có giữ lời hứa hay không? Nếu ngươi muốn giúp ta trả thù, nhất định phải tìm cho được bí kíp võ công của Kiều Bắc Minh.”

Kim Thế Di nghĩ ngợi một hồi, chàng tuy không muốn làm đệ tử cách thế của Kiều Bắc Minh, nhưng suy đi tính lại, ngoại trừ cách này thì chẳng còn cách nào để giúp nàng trả thù, liền nói: “Được, tôi sẽ nghe theo lời cô nương, vào đêm trăng tròn ba tháng sau, cô nương hãy đợi tôi trước cổng Thượng Thanh cung trên Lao Sơn bờ biển Đông Hải?”

Thiếu nữ nói: “Tại sao phải ba tháng sau?” Kim Thế Di cười lớn: “Tôi chỉ hứa giúp cô nương trả thù chứ không hứa ngày nào cũng theo cô nương. Đừng lắm lời nữa, ba tháng sau chúng ta cùng ra biển!” nói xong thì xoay người bỏ đi.

Thiếu nữ chợt hú lên một tiếng rồi đuổi thêo!

Kim Thế Di nổi giận: “Ta đã bảo ba tháng sau, cô nương còn theo ta làm gì?” nói chưa dứt lời thì nàng đã chạy tới phía sau Kim Thế Di, đột nhiên vung chỉ điểm vào huyệt chí đường ở sau lưng của chàng, huyệt chí đường là một trong những tử huyệt của con người, Kim Thế Di không ngờ rằng nàng lại hạ độc thủ với mình, huống chi chàng vừa mới được giải độc, tinh thần vẫn chưa hoàn toàn hồi phục, dù cho có chuẩn bị lúc này cũng chẳng phải là đối thủ của nàng. Thế là Kim Thế Di bị nàng điểm trúng một chỉ lập tức ngã soài xuống đất. Trong cơn mơ màng chàng còn nghe nàng thở dài, hình như còn nói thêm vài câu nữa nhưng Kim Thế Di vẫn không nghe rõ.

Không biết trải qua bao lâu, Kim Thế Di tỉnh lại, chỉ thấy trời vừa hửng sáng, chàng ngạc nhiên hỏi: “Sao ta vẫn chưa chết? Chả lẽ ta nằm chiêm bao?”

Chàng đưa mắt nhìn quanh, thiếu nữ ấy đã biến mất, ở dưới đất có hai dòng chữ: “Mong hãy giữ lời hứa, ba tháng sau, trong đêm trăng tròn ta sẽ đợi ngươi trước cửa Thượng Thanh Cung tại Lao Sơn.”

Kim Thế Di thử vận chân lực, cảm thấy huyết khí lưu thông, chàng thuận tay chém xuống, tảng đá bên cạnh vỡ toang, võ công đã hoàn toàn hồi phục, chàng không khỏi vừa lo vừa mừng, khi nhìn lại thì dưới đất có một vũng máu, chàng phát giác hai gót chân có dán cao thuốc thì mới vỡ lẽ ra: “Té ra nàng thiếu nữ thấy mình quyết lòng bỏ đi, mà chất độc trong người mình vẫn còn cho nên mới điểm huyệt cho mình ngất xỉu để trị thương cho mình. Tu la âm sát công quái dị vô cùng, đêm qua nàng dùng ngân châm đâm vào các tử huyệt của mình để trị thương, khi mình bỏ đi nàng dùng thủ pháp thật mạnh điểm vào tử huyệt của mình chắc là cũng giống như đâm ngân châm vào hút độc ra. Chỉ là nàng im lặng không nói, bất ngờ ra tay, quả thực kinh người!”

Nhưng chàng nghĩ lại, nếu đêm qua nàng nói rõ trước, lúc đó chàng quyết lòng bỏ đi có lẽ cũng chưa chắc chịu tin lời nàng. Nghĩ đến đó thì bất giác lòng xao xuyến, đêm qua chàng bực bội vì nàng cứ bám theo mãi, nay không gặp nàng thì trái lại hơi nhớ nhung.

Kim Thế Di xuống núi Thái Hàng, trước tiên dò tìm tin tức Lý Tâm Mai, chàng đến trấn Tân An dò hỏi, bọn Chung Triển, Võ Định Cầu đã bỏ đi từ sớm, Kim Thế Di cũng không biết họ đi về hướng nào, nhưng Lý Tâm Mai chắc chắn là đi cùng họ, chàng nhớ lại tấm tình si của Lý Tâm Mai đối với mình, chàng chợt nghĩ nếu lần này không được gặp thì chẳng biết đến khi nào mới gặp lại nhau. Nghĩ đến đây, Kim Thế Di chợt căm ghét nàng thiếu nữ Họ Lệ.

Núi Thái Hàng cách Mang Sơn không quá hai ba ngày đường, Kim Thế Di không tìm được Lý Tâm Mai, tự nhiên lại nhớ đến Cốc Chi Hoa.

Chàng vốn muốn đến Mang Sơn tảo mộ Lữ Tứ Nương, vì thế liền vượt sông Hoàng Hà đến Mang Sơn. Đến khi còn cách Mang Sơn khoảng sáu bảy mươi dặm, Kim Thế Di nhớ lại đoạn đường đời đầy khúc khuỷu của mình, trong cảnh trời đất mênh mông chàng chẳng biết tri kỷ là ai!

Đang định buông giọng ca hát, chợt có hai thớt ngựa chạy vượt qua đầu chàng, nghe chàng cười rộ quái dị, người trên ngựa bất đồ quay lại nhìn, vừa nhìn thì hai người đó kêu rú lên rồi phóng ngựa tới. Kim Thế Di nhận ra hai người ấy, một người là con trai của Lộ Dân Đảm tên gọi Lộ Anh Hào, một người là con trai của Bạch Thái Quan tên gọi Bạch Anh Kiệt.

Lộ Dân Đảm và Bạch Thái Quan là sư huynh của Lữ Tứ Nương, đã mất sớm. Con trai của họ kế thừa gia nghiệp, trên giang hồ cũng có chút tên tuổi. Khi Kim Thế Di mới đi ra giang hồ, cứ truy tìm những nhân vật có tiếng tăm gây khó dễ, đã từng đánh khắp đại giang nam bắc, rất nhiều anh hùng hào kiệt đều là bại tướng dưới tay chàng, Lộ Anh Hào và Bạch Anh Kiệt cũng từng nếm khổ, cho nên họ nhận ra Kim Thế Di, thế là lập tức phóng ngựa chạy nhanh chứ không dám chọc giận chàng.

Kim Thế Di cười khổ sở, nhưng cũng hơi buồn bã: “Té ra đệ tử của danh môn chính phái đều coi mình là yêu ma! Mình đã từng làm chuyện xấu gì? Chẳng qua chỉ là hủy danh tiếng của họ mà thôi, sao họ lại căm hận mình đến thế?” những nhân vật có uy vọng trong võ lâm kỵ nhất là bị người khác hủy danh tiếng của mình, Kim Thế Di gây khó dễ cho nhiều nhân vật thành danh, lẽ nào không kết oán với họ? Kim Thế Di nghĩ đến đây, chàng chợt thấy chán ngán cho nên cố ý xé rách áo, xõa tóc rối bời, lại bôi bùn lên mặt, cải trang như một tên ăn mày, ngửa mặt cười lớn nói: “Hay lắm, các người coi ta là Độc thủ phong cái, hôm nay ta sẽ khôi phục lại bộ mặt Độc thủ phong cái!”

Sau khi chàng đã thay đổi dung mạo thì cảm thấy trong lòng phấn khởi nhưng lại có chút ngậm ngùi. Té ra chàng nhớ đến Băng Xuyên thiên nữ.

Năm năm trước, chàng đã giả thành một tên phong cái du hí nhân gian. Sau đó gặp Băng Xuyên thiên nữ, Băng Xuyên thiên nữ không thích chàng như thế cho nên mấy năm nay chàng đã xuất hiện như một người bình thường.

Nay nhớ lại Băng Xuyên thiên nữ thì không khỏi bẽ bàng, thầm nhủ: “Trừ phi mình gặp một tri kỷ phong trần, nếu không mình sẽ giữ mãi thân phận Độc thủ phong cái này.”

Lúc này hình bóng Cốc Chi Hoa lại hiện lên trong đầu chàng, tuy chàng chỉ mới gặp mặt Cốc Chi Hoa một lần, nhưng lại cảm thấy Cốc Chi Hoa hiểu mình hơn cả Lý Tâm Mai.

Một hồi sau, Kim Thế Di lại gặp hai người quen, một người là đệ tử của Chu Tầm tên gọi Trình Hạo, một người là con trai của Lý Nguyên tên gọi Lý Ứng, cả hai người này đều bại dưới tay Kim Thế Di, bọn họ thấy Kim Thế Di thì đã quay đường khác. Kim Thế Di chợt nhớ lại Lộ Dân Đảm, Bạch Thái Quan, Chu Tầm, Lý Nguyên đều là đồng môn của Lữ Tứ Nương, năm xưa là Giang Nam thất hiệp, trong lòng ngạc nhiên, hỏi: “Hôm nay gặp toàn đệ tử của Giang Nam thất hiệp, chả lẽ họ cũng ở Mang Sơn?”

Đi được một đoạn thì Mang Sơn chỉ còn cách khoảng ba mươi dặm, chợt nghe phía sau có tiếng nhạc ngựa ngân vang, Kim Thế Di thầm nhủ: “Không biết lại gặp đệ tử của ai trong Giang Nam thất hiệp?” thế rồi chàng ngồi xuống bên vệ đường, đưa mắt lên nhìn, té ra đó là ba thớt ngựa, lần này Kim Thế Di không quen ai cả. Người cỡi trên thớt ngựa đi đầu là một bà già tuổi khoảng sáu mươi, thái độ ung dung tựa như một quý phụ nhà giàu. Phía sau bà ta là hai thiếu niên tuổi khoảng mười lăm mười sáu, mắt thanh mày tú, trông vẫn còn trẻ con.

Dù Kim Thế Di hiểu biết rộng rãi cũng không khỏi thắc mắc, thầm nhủ: “Bà già này trông chẳng giống nhân vật giang hồ, nhưng tinh thần sung mãn, tay chân khỏe khoắn, rõ ràng là người có võ công, hai thiếu niên kia cũng biết võ công, không biết có phải là cháu của bà ta không?” Kim Thế Di thắc mắc trong lòng cho nên không khỏi nhìn kỹ họ.

Hai thiếu niên thấy bộ dạng quái dị của Kim Thế Di, có chút sợ hãi, chợt quát: “Đồ ăn mày xấu xí kia, ngươi dám lõ mắt nhìn ta như thế!” rồi y vẫn ngồi trên lưng ngựa nhưng khom lưng xuống bốc hai nắm bùn, rõ ràng tay chân rất lanh lẹ. Bà già ở phía trước vừa nói: “Tiểu a tử đừng lắm chuyện” hai thiếu niên đã ném hai nắm bùn về phía Kim Thế Di.

Kim Thế Di cười: “Các ngươi là hoàng thái tử hay sao mà sợ người ta nhìn! Sợ nhìn thì nấp ở trong nhà đừng ra ngoài!” rồi chàng búng mạnh hai ngón tay, bốp bốp hai tiếng, hai nắm bùn đã bay ngược trở lại. Bà già thất kinh, hai nắm bùn rất mềm, khó chịu lực, chỉ dùng lực hơi lớn thì bùn sẽ vỡ nát, nếu dùng lực quá nhỏ thì không bắn trở lại được, Kim Thế Di ra tay rất chính xác, bà già là một người giỏi võ công, thấy chàng có công phu như thế thì làm sao không kinh hãi?

Hai thiếu niên định vươn tay ra tiếp lấy, chỉ thấy nắm bùn đang bay về phía trước, đột nhiên rẽ ngoặc bắn về phía mình, thế bay rất phiêu hốt, hai thiếu niên thấy Kim Thế Di muốn đánh vào huyệt đạo của mình nhưng cũng không biết là huyệt đạo nào cho nên kinh hoảng. Ngay lúc này, bà lão chợt kìm đầu ngựa, hai đứa cháu của bà ta vừa phóng lên, nắm bùn của Kim Thế Di bắn về cũng đã bay tới, bà lão vung ống tay áo, tư thế rất đẹp mắt, chỉ nghe bốp một tiếng, hai nắm bùn vỡ ra bốc lên thành một màn mưa bụi. Bà lão quát: “Tôn giá có võ công như thế, sao lại so đo tính toán với lũ trẻ?”

Kim Thế Di chợt nhớ ra, kêu lên: “Bà có phải là Triệu lão thái thái đấy không? Ồ, trong số hậu nhân của Giang Nam thất hiệp bà là người cao minh nhất, ăn mày này phải lãnh giáo bà mới được!” bà lão rất kinh ngạc, lập tức đoán ra rằng Kim Thế Di chắc chắn là Độc thủ phong cái trên giang hồ đã đồn. Bà ta lạnh lùng nói: “Ta không rảnh, nếu muốn tìm ta thì xin mời tới Triệu gia trang, ta sẽ đợi ở đấy!” rồi đánh ra soạt soạt hai roi, thớt ngựa phóng nhanh về phía trước, Kim Thế Di nghe văng vẳng tiếng thiếu niên nói: “Bà bà, người này có phải là Độc thủ phong cái không? Sao bà không cho y biết lợi hại?”

Bà lão ấy chính là con gái của Tào Nhân Phụ, một trong Giang Nam thất hiệp, tên gọi Tào Cẩm Nhi, Tào Nhân Phụ là người lớn tuổi nhất trong Giang Nam thất hiệp cho nên trong số con cái của Giang Nam thất hiệp Tào Cẩm Nhi cũng lớn tuổi nhất, nay đã năm mươi tám tuổi.

Tào Cẩm Nhi lấy con em của một nhà thế gia họ Triệu, chồng bà ta không phải là người trong võ lâm, mấy mươi năm qua, bà ta từ một thiếu phu nhân đã trở thành lão phu nhân, vẫn còn luyện tập công phu, nhưng khí chất người giang hồ đã nhạt bớt.

Cho nên lúc nãy bà mới không muốn đánh nhau với Kim Thế Di.

Kim Thế Di hừ một tiếng, thầm nhủ: “Cứ lên mặt lão thái thái với ta, nếu không nghĩ tới mối giao dịch giữa Lữ Tứ Nương với sư phụ của ta, lại thêm bà đã lớn tuổi, ta đã kéo bà xuống ngựa!” Trong một ngày chàng liên tiếp gặp hậu nhân của Giang Nam thất hiệp, trong lòng đã đoán được chắc chắn đã có chuyện gì cho nên mới gia tăng cước bộ chạy đến Mang Sơn. Khi đến Mang Sơn thì trời đã trưa.

Đây là lúc xuân hạ giao mùa, hoa núi nở khắp nơi, dòng thác từ trên núi cao đổ xuống tung bọt nước trắng xóa. Kim Thế Di thấy tinh thần sảng khoái, nghĩ bụng sắp cúng tế trước mộ Lữ Tứ Nương cho nên rửa mặt bên cạnh dòng suối, sửa sang lại áo quần, đi một hồi thì đến trước một ngôi mộ có hai hàng cây hòe hai bên, ngôi mộ đã ở trước mặt, chợt có người kêu lớn: “Độc thủ phong cái đã tới!”

Kim Thế Di ngẩng đầu nhìn lên, chỉ thấy trên núi lố nhố những người, trong đó có cả bang chủ Cái Bang miền Giang Nam Dực Trọng Mâu cùng Tạ Vân Chân, Kim Thế Di nhủ thầm: “Té ra đệ tử của Giang Nam thất hiệp tụ hội ở đây.”

Đang muốn tìm Cốc Chi Hoa, chợt vài hán tử trẻ tuổi chạy tới, Lộ Anh Hào và Bạch Anh Kiệt cũng trong số đó.

Té ra hôm nay là ngày giỗ lần thứ năm mươi của Độc tý thần ni, sư tổ của họ, đệ tử của Giang Nam thất hiệp, bằng hữu trên võ lâm đều tụ tập ở Mang Sơn, Lộ Anh Hào và Bạch Anh Kiệt ỷ đông người, bạo dạn chạy lên ngăn chặn. Lộ Anh Hào quát lớn: “Kim Thế Di, đây há có phải là chỗ ngươi làm càn?”

Kim Thế Di cười lạnh: “Mang Sơn là của ngươi ư? Tại sao ta không thể đến?” rồi chàng vẫn cứ bước về phía trước chẳng thèm để ý đến y, hai người Lộ, Bạch cả giận, nhất tề vung kiếm, cả hai người thân như anh em ruột, cùng luyện một bộ kiếm pháp, lợi hại vô cùng, một kiếm thì đâm vào huyệt kì môn ở be sườn trái của Kim Thế Di, một kiếm thì đâm vào huyệt tinh thúc ở be sườn phải của Kim Thế Di.

Kim Thế Di cười: “Các người thật vô lý, nhưng ta chính là tổ tông của vô lý đây!” thế rồi chàng xoay người né tránh, cả hai người Lộ, Bạch đâm hụt, chỉ nghe tiếng tưng tưng vang lên, thanh trường kiếm trong tay của họ bay lên không trung, té ra trong khoảnh khắc như điện chớp lửa xẹt, hổ khẩu của cả hai người đều bị Kim Thế Di dùng công phu Thiết chỉ thần công bắn trúng, đó là nhờ chàng vẫn nương tay, chứ nếu không xương cổ tay của họ đã bị gãy! Thế rồi tiếng quát mắng nổi lên, Kim Thế Di vung hai tay đánh ngã hai hán tử, Tào Cẩm Nhi cả giận, đứng lên quát: “Có phải Kim Thế Di nhà ngươi đến tìm ta không?”

Hai đứa cháu của bà ta nói: “Hôm nay cần gì người phải ra tay!” nói chưa dứt lời đã có mười mấy loại ám khí bắn tới Kim Thế Di, Kim Thế Di cả giận vung gậy gạtqua, chỉ nghe tiếng leng keng vang lên không ngớt bên tai, một đống đồng nát sắt nát rơi dưới đất, tất cả những ám khí đánh tới đều bị đánh vỡ.

Kim Thế Di cười lạnh: “Các người có ám khí, ta cũng có ám khí, nếu không dừng tay thì ta không khách sáo!”

Độc long châm của Kim Thế Di xưa nay vang danh thiên hạ, mọi người nghĩ dù cho có thể chế phục được chàng, chỉ e cũng thương vong quá nửa, thế rồi nhụt chí, quả nhiên chẳng ai dám bắn ám khí nữa. Tào Cẩm Nhi dằn cây gậy đầu rồng, đang định bảo vài người đồng môn võ công giỏi đến đấu với Kim Thế Di, Dực Trọng Mâu vội vàng bước lên nói: “Tào đại tỷ, hãy hỏi y tại sao đến đây?” giọng nói tuy nhỏ nhưng Kim Thế Di có thể nghe được, chàng ha hả cười: “Đệ tử của Giang Nam thất quái xưa nay tự xưng hiệp nghĩa, nhưng té ra lại vô lý đến thế!”

Đó chính là: Những muốn lên non tìm người ngọc, đâu ngờ bình địa nổi ba đào.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Vân Hải Ngọc Cung Duyên - Lương Vũ Sinh

Postby tuvi » 05 Feb 2023

Hồi Thứ Mười
Từ chốn bùn nhơ mà chẳng xấu...Nhưng tội trên đầu sao giải oan

Tào Cẩm Nhi vẹt mọi người bước ra, nói với Kim Thế Di: “Ngươi đã làm càn ở đây, sao còn bảo bọn ta vô lý?”

Kim Thế Di cười lạnh: “Ta vừa xuất hiện các người đã xông lên, đó là các người làm càn hay là ta làm càn?”

Tào Cẩm Nhi nện cây gậy đầu rồng xuống đất, lạnh lùng nói: “Đồng môn bọn ta tụ tập ở đây bái tế tổ sư, ngươi xông vào đây làm gì?”

Kim Thế Di chỉ một số khách khứa ở đằng xa hỏi: “Họ chẳng phải cũng là người ngoài sao?”

Tào Cẩm Nhi nói: “Đó đều là bằng hữu của ta, có mối giao tình với Cam đại hiệp, Lữ nữ hiệp trước kia, họ cũng đến đây tảo mộ, đâu có giống ngươi!”

Kim Thế Di nói: “Ta cũng đến đây tảo mộ.”

Tào Cẩm Nhi nói: “Ngươi tảo mộ cho ai?”

Kim Thế Di nói; “Ta tảo mộ cho Lữ nữ hiệp.” Tào Cẩm Nhi nói: “Bọn chúng ta không biết tôn giá!”

Kim Thế Di cả cười: “Vậy sao?” rồi chĩa gậy về phía Dực Trọng Mâu, lớn giọng hỏi: “Dực bang chủ, ông có nhận ra tôi không?”

Dực Trọng Mâu bước ra: “Tào đại tỷ, ngày trước Kim huynh đã giúp tôi một việc.”

Tào Cẩm Nhi rất không vui, nhưng Dực Trọng Mâu là đệ tử duy nhất của Cam Phụng Trì, lại là bang chủ của Cái Bang miền Giang Nam, có địa vị rất cao trong đồng môn, Tào Cẩm Nhi phải nể mặt ông ta vài phần, thế rồi mới hỏi kỹ mọi việc đã qua, xong xuôi mới nói với Kim Thế Di:

“Nếu như thế, ta nể mặt Dực sư đệ không làm khó ngươi, ngươi hãy xuống núi đi.”

Kim Thế Di nói: “Sao? Bà bảo tôi cút đi à?”

Tào Cẩm Nhi nói: “Không dám, ta chỉ khách sáo mời tôn giá xuống núi.”

Kim Thế Di cười nói: “Bà già kia, bà không biết tính tình của tôi? Bà mời tôi không đến, nay tôi đã đến thì bà mời tôi cũng chẳng đi!”

Tào Cẩm Nhi nói: “Hôm nay là ngày giỗ của sư tổ Độc tý thần ni, ngươi tự tiện xông vào, bọn ta chưa trị tội bất kính của ngươi là đã nể mặt ngươi lắm. Ngươi không biết tiến thối như thế, tưởng rằng bọn ta không thể chế phục được ngươi sao?”

Kim Thế Di cười lạnh: “Trong thiên hạ nào có lý lẽ này, ta đến tảo mộ cho trưởng bối của ngươi mà cũng có tội? Được, ngươi muốn tỉ thí với ta, qua ngày hôm nay ta chắc chắn sẽ chiều theo. Nay ta nể mặt Lữ Tứ Nương, không động thủ với ngươi trước mặt bà ta.”

Nói xong thì bỏ đi, Tào Cẩm Nhi vung cây gậy đầu rồng, quát: “Kim Thế Di, ngươi đi đâu?”

Kim Thế Di nổi cơn giận, buông giọng cười: “Bà không cho tôi lên mộ?”

Dực Trọng Mâu vội vàng chạy tới khuyên: “Kim huynh, hôm nay là ngày đệ tử môn nhân chúng tôi cùng thân hữu tảo mộ, xin huynh hãy đổi cho ngày khác!”

Tào Cẩm Nhi lạnh lùng nói: “Không được, ngày khác cũng không được. Lữ cô cô là một bậc nữ hiệp, người đến cúng tế trước mộ phải là người hiệp nghĩa trong danh môn chánh phái, ta không thể để cho hạng lang sói đến làm nhơ danh tiếng của người!”

Con trai của Lý Nguyên là Lý Ứng cũng nói: “Ngươi không phải là kẻ thân thích cũng chẳng phải bằng hữu, không cần phải cúng mộ.”

Kim Thế Di phì một tiếng, nói: “Khi còn sống Lữ Tứ Nương cũng không hẹp hòi như ngươi!”

Tào Cẩm Nhi sợ chàng phun độc châm cho nên nhảy vọt ra sau, Kim Thế Di lại tiến về phía trước hai bước, chỉ nghe keng một tiếng, cây gậy đầu rồng của Tào Cẩm Nhi đã đánh tới, Kim Thế Di giơ gậy lên chặn lại, cười lạnh nói: “Bà muốn ép ta động thủ với bà trước mộ Lữ Tứ Nương?”

Hai trượng giao nhau, lại nghe keng một tiếng nữa, Tào Cẩm Nhi bị đẩy lùi đến ba bước, Lộ Anh Hào, Bạch Anh Kiệt, Trình Hạo, Lý Anh vội vàng chạy tới, đao thương kiếm kích đều bày ra trước mặt, chặn Kim Thế Di lại, cả hai bên như kiếm rút cung căng, xem ra sắp đánh nhau to, chợt nghe một giọng nói trong trẻo vang lên: “Các vị đồng môn, khoan hãy động thủ, hãy nghe tiểu muội nói một lời.”

Kim Thế Di thu gậy lại, tim đánh thình thình, trước mắt chàng chẳng phải Cốc Chi Hoa thì là ai? Chỉ thấy nàng chậm rãi bước ra từ sau một tảng đá, tà áo phấp phới, dung quang rạng ngời, môn hạ của Giang Nam thất hiệp đều xì xầm: “Ồ, thiếu nữ này là ai, nàng là môn hạ của ai?” té ra đồng môn của nàng rất ít người biết nàng.

Kim Thế Di vừa mừng rỡ nhưng lại vừa thầm trách: “Sao nàng lại xuất hiện lúc này?”

Tào Cẩm Nhi nhìn lại, dịu giọng hỏi: “Cô nương là môn hạ của ai?”

Thần sắc của Cốc Chi Hoa có chút kỳ lạ, nhưng nàng vẫn đáp rất bình tĩnh: “Đệ tử là môn hạ của Lữ Tứ Nương, tham kiến chưởng môn sư tỷ.”

Tạ Vân Chân nghe Tào Cẩm Nhi hỏi nàng, trong lòng cũng ngạc nhiên, số là trước khi Lữ Tứ Nương qua đời một năm, bà ta đã từng đến Mang Sơn, đã gặp Cốc Chi Hoa. Lần này trước khi gặp nhau, bà đã từng nói với Tào Cẩm Nhi, Lữ Tứ Nương đã thu một đệ tử, mà lúc nãy Tào Cẩm Nhi đến đây, Cốc Chi Hoa lại còn tiếp đãi bà.

Tạ Vân Chân nghĩ bụng: “Sao trong chớp mắt Tào đại tỷ lại mau quên đến thế?”

Lúc này môn hạ của Giang Nam thất hiệp vẫn chưa tới đủ, lễ điển vẫn chưa bắt đầu, số đồng môn rất nhiều, tuy đôi bên có nói chuyện với nhau nhưng vẫn chưa chính thức giới thiệu theo vai vế. Do đó ngoại trừ vài người như bọn Tạ Vân Chân và Dực Trọng Mâu, những người còn lại đều chưa gặp Cốc Chi Hoa. Vừa nghe Cốc Chí Hoa báo tên, lại bảo rằng là đệ tử quan môn của Lữ Tứ Nương, mọi người đều hơi ngạc nhiên, cảm thấy vui mừng khi lúc tuổi về chiều Lữ Tứ Nương còn thu nhận được một đệ tử như thế, cuối cùng Huyền nữ kiếm pháp của bà ta đã có truyền nhân. Trong Giang Nam thất hiệp, Lữ Tứ Nương tuổi tác nhỏ nhất, Cốc Chi Hoa là đệ tử của bà ta khi tuổi đã về già, nay chẳng qua chỉ có mười chín tuổi, so với Tào Cẩm Nhi thì kém hơn ba lần, rất nhiều người có vai vế là sư điệt lớn tuổi hơn nàng, lại thêm nàng xinh xắn như thế cho nên càng gây sự chú ý hơn.

Sau khi Cốc Chi Hoa tự báo tên, sắc mặt Tào Cẩm Nhi vẫn rất nghiêm nghị, bà ta nheo mắt nhìn Cốc Chi Hoa rồi chậm rãi hỏi: “Sư muội muốn nói gì?”

Cốc Chi Hoa nói: “Bẩm sư tỷ, khi sư phụ của muội còn sống, đã từng nói người có một bằng hữu thân thiết sống ở Xà đảo miền Đông Hải tên gọi Độc Long tôn giả.

Theo muội biết, Độc Long tôn giả là sư phụ của Kim Thế Di.” Tạ Vân Chân nói: “Đúng thế, tôi đã từng nghe chưởng môn của phái Thiên Sơn Đường Hiểu Lan nói chuyện này.”

Cốc Chi Hoa lại nói tiếp: “Sư phụ của Kim Thế Di và sư phụ của muội có giao tình sâu sắc, hôm nay y đến cúng tế trước mộ, có lẽ có thể coi y như bằng hữu thân thiết. Theo tình theo lý, bằng hữu thân thiết đến cúng tế trước mộ, hậu nhân của người chết không thể nào từ chối được dù cho y là kẻ xấu, lúc đó chỉ đành tạm thời gác mọi chuyện sang một bên để cho y dập đầu bái lạy rồi mới tính.”

Tào Cẩm Nhi đành chịu, chỉ nói: “Nếu đã là thế xin mời Kim tiên sinh tạm thời đứng qua một bên, đợi chúng tôi cúng tế rồi mới đến được tiên sinh.”

Tào Cẩm Nhi đã đối xử bằng lễ, Kim Thế Di đương nhiên cũng phải lui sang một bên, khi nhìn qua thì thấy Cốc Chi Hoa đang nhìn mình. Kim Thế Di đỏ mặt, tiếc mình đã sắm bộ dạng như thế này lên núi. Đồng thời, ánh mắt dịu dàng của Cốc Chi Hoa đã xua tan nỗi bực bội trong lòng chàng.

Tào Cẩm Nhi thấy sóng gió đã qua, nói: “Trình Hạo, đưa danh sách cho ta.”

Trình Hạo là đại đệ tử của Chu Tầm, một trong Giang Nam thất hiệp, lần này phụ trách đăng ký tên của đồng môn lên núi tảo mộ, nghe chưởng môn sư tỷ gọi thì đưa danh sách ra, bẩm rằng: “Lần này có cả thảy sáu mươi tư đồng môn vai vế lớn nhỏ đến tảo mộ, có sáu người vì có việc không đến được, có ba người bảo đến nhưng vẫn chưa thấy.”

Tào Cẩm Nhi nói: “Không cần đợi họ nữa. Chúng ta mười năm mới có một lần tụ hội, lần này số người đông nhất. Sư tổ và sư thúc có linh thiêng chắc chắn sẽ thấy an ủi.”

Tào Cẩm Nhi nhìn vào danh sách, đọc tên từng người lên rồi sắp xếp theo vai vế.

Kim Thế Di lắng nghe, chỉ nghe bà ta đọc tên từng người, đọc đến người thứ ba mươi tư mà vẫn chưa thấy tên của Cốc Chi Hoa thì ngạc nhiên lắm. Cốc Chi Hoa tuy còn trẻ nhưng là đệ tử của Lữ Tứ Nương. Giang Nam thất hiệp đã qua đời, nàng cùng Tào Cẩm Nhi, Dực Trọng Mâu là những người có vai vế cao nhất trong số đồng môn, giờ đây Tào Cẩm Nhi đã đọc đến tên của đệ tử đời thứ hai mà vẫn không có nàng, quả thật rất trái lẽ.

Không những Kim Thế Di ngạc nhiên mà các đồng môn đều lấy làm lạ. Một hồi sau Tào Cẩm Nhi đã đọc đến tên của hai đứa cháu bà ta, đó là hai người nhỏ tuổi nhất trong đồng môn đời thứ ba, sau khi đọc xong Tào Cẩm Nhi cuộn danh sách lại, nói: “Các người hãy đứng theo thứ tự, lát nữa sẽ đến hành lễ trước mặt sư tổ.”

Lúc này chỉ có Cốc Chi Hoa đứng trơ trọi một bên, các đồng môn đều xì xầm bàn tán, Trình Hạo kinh ngạc, thì thầm: “Mình rõ ràng đã có ghi tên của nàng, chả lẽ sư tỷ đã đọc sót. Nhưng dù có đọc sót thì lúc này cũng đã nhận ra, sao lại không thấy sư tỷ gọi nàng?”

Dực Trọng Mâu không nén được, trong số đồng môn, ông ta xếp hàng thứ hai đứng bên cạnh Tào Cẩm Nhi, cho nên ghé vào tai bà ta nói nhỏ: “Sư tỷ, có phải còn sót một người không?”

Tào Cẩm Nhi nhướng mắt, vẫy tay về phía Cốc Chi Hoa: “Tới đây.” Cốc Chi Hoa cũng không biết tại sao bà ta lại để sót mình, rất ngượng ngùng, bước tới nói: “Sư tỷ có gì căn dặn?” Tào Cẩm Nhi nói: “Để bảo kiếm của ngươi lại, hãy giao kiếm phổ của Lữ cô cô ra đây?”

Cốc Chi Hoa cả kinh, nói: “Sư tỷ, sư tỷ có ý gì?” Tào Cẩm Nhi nói: “Bảo kiếm và kiếm phổ đều là vật của bổn môn, sao có thể để cho ngươi mang đi?” bà ta vừa nói ra câu ấy thì tất cả mọi người đều thất kinh, rõ ràng Tào Cẩm Nhi đã không xem Cốc Chi Hoa là đệ tử bổn môn, bởi vậy mới đòi nàng trả lại bảo kiếm, kiếm phổ.

Kim Thế Di thầm nhủ: “Võ công của Lữ Tứ Nương cao nhất trong Giang Nam thất hiệp, lẽ nào bà già này dòm ngó Huyền nữ kiếm pháp của Lữ Tứ Nương, tính chiếm làm của riêng?” các đồng môn đều biết Tào Cẩm Nhi rất ngay thẳng, chắc chắn không có chuyện đoạt kiếm phổ của đồng môn. Chính vì thế cho nên ai nấy đều lấy làm lạ.

Cốc Chi Hoa khựng người lại, nàng định thần rồi lớn giọng nói: “Xin hỏi chưởg môn sư tỷ, đệ tử đã phạm lỗi gì mà sư tỷ lại đuổi đệ tử ra khỏi sư môn?”

Tào Cẩm Nhi cười lạnh: “Nếu ngươi phạm lỗi, ta đâu chỉ đuổi ngươi ra khỏi sư môn?”

Đuổi ra khỏi sư môn là hình phạt rất nặng nề, trong võ lâm hình phạt này chỉ kém bị tội chết. Cốc Chi Hoa không nén được nữa, lớn giọng nói: “Các vị võ lâm tiền bối ở đây, xin hỏi có quy củ nào, không có sai sót mà bị đuổi ra khỏi sư môn?”

Tào Cẩm Nhi nói: “Đây là chuyện của bổn môn. Ngươi muốn nhờ người khác nhúng tay vào?” thực ra đã có vài võ lâm tiền bối muốn lên tiếng, nghe Tào Cẩm Nhi nói như thế chỉ đành cố kìm lại.

Cốc Chi Hoa lại nói: “Vậy mời các vị đồng môn hãy nói thử có phải chưởng môn nhân có thể tùy tiện trục xuất đồng môn hay không?”

Các đồng môn đều nhìn nhau, mọi người đều cảm thấy Tào Cẩm Nhi làm việc trái lẽ thường, Dực Trọng Mâu hạ giọng nói: “Sư tỷ hãy suy nghĩ lại, quy củ trong võ lâm ngoại trừ làm những tội thương thiên hại lý, hoặc phản thần theo địch thì mới có thể bị đuổi ra khỏi sư môn.

Phái Mang Sơn chúng ta từ khi sư tổ lập phái cho đến nay, chỉ có một người bị đuổi ra khỏi sư môn, lúc đó tội ác của y ai cũng biết, vả lại phải do đồng môn cùng phán xử mới chấp hành được.”

Tào Cẩm Nhi cười lạnh: “Trọng Mâu, chả lẽ ta không biết những quy củ này?” rồi đột nhiên bà ta cao giọng, hướng về phía Cốc Chi Hoa nói: “Ngươi có thật muốn ta nói ra hay không? Ta lo cho ngươi cho nên thấy không nên nói thì hơn!”

Cốc Chi Hoa lớn giọng nói: “Muội có lỗi lầm gì, mong sư tỷ cứ nói ra. Nếu quả thật có tội, muội chết cũng không oán!”.

Tào Cẩm Nhi nói: “Được, ngươi đã buộc ta nói thì ta cũng đành phải chiều theo.Ta hỏi ngươi trước, ngươi họ gì?” Cốc Chi Hoa nói: “Đệ tử họ Cốc, tên gọi Chi Hoa, lúc nãy chẳng phải đã bẩm cáo với sư tỷ rồi sao?”

Tào Cẩm Nhi nói: “Cha ngươi là ai?”

Cốc Chi Hoa nói: “Cốc Chính Minh ở Tương Dương.”

Cốc Chính Minh là đại hiệp lừng danh Lưỡng Hồ, ở đây có rất nhiều người biết ông ta, lòng thầm nhủ: “Dù cho tiểu cô nương này phạm phải lỗi gì, nhưng nể mặt cha của cô ta, lẽ ra phải rộng rãi mới đúng.”

Tào Cẩm Nhi nghiêm mặt, nhìn Cốc Chi Hoa với ánh mắt sắc bén, lại hỏi tiếp: “Ta muốn hỏi cha ruột của ngươi, Cốc Chính Minh có phải là cha ruột của ngươi không?”

Cốc Chi Hoa nói: “Người tuy là dưỡng phụ của muội nhưng người đã nuôi dạy muội từ nhỏ, cũng giống như cha ruột vậy.”

Tào Cẩm Nhi nói: “Vậy ngươi vốn không phải họ Cốc? Vậy ngươi họ gì?”

Cốc Chi Hoa nói: “Muội đã hỏi nghĩa phụ, nghĩa phụ bảo muội họ Mạnh.” Tào Cẩm Nhi chợt cao giọng hỏi: “Vậy cha ruột của ngươi là ai?”

Cốc Chi Hoa rơm rớm nước mắt nói: “Khi muội được nghĩa phụ nuôi dưỡng, lúc đó vẫn còn nằm trong nôi, cho đến nay vẫn không biết cha ruột là ai.”

Tào Cẩm Nhi cười lạnh: “Hừ, ngươi quả là một đứa hiếu nữ. Năm ngoái nghĩa phụ của ngươi đã chết, trong lúc lâm chung mà ông ta cũng không nói gì với người sao?”

Cốc Chi Hoa rất khó chịu, ấm ức nói: “Nghĩa phụ của muội cũng không biết, nếu người cho muội biết, lẽ nào muội vẫn không đi tìm cha ruột?”

Tào Cẩm Nhi thản nhiên nói: “Vậy ta nói cho người biết, cha ruột của ngươi hiện đang sống ở dưới chân núi Thái Hàng, cách đây không quá ba ngày đường, ta không biết tên thật của y, trên giang hồ đều gọi y là Mạnh Thần Thông!”

Bà ta vừa nói ra câu ấy thì mọi người đều bất ngờ, tất cả những người ở đây đều biết Mạnh Thần Thông là đại ma đầu chẳng có chuyện gì ác mà không làm, vả lại hành tung bí mật, hai mươi năm qua chẳng có tin tức. Nào ngờ y lại sống ở dưới chân núi Thái Hàng, càng không ngờ rằng Cốc Chi Hoa lại là con ruột của y!

Trong suốt đời Kim Thế Di không biết đã trải qua bao nhiêu chuyện đáng sợ, chỉ có lần này là khiến chàng kinh hoảng đến nỗi đứng thộn mặt ra: “Nàng... nàng là con gái của Mạnh Thần Thông? Nàng là con gái của Mạnh Thần Thông! Không... không! Mình không thể nào tin nổi!”

Cốc Chi Hoa đứng trước mặt chàng, khí độ vẫn cao quý đoan trang, chàng đã biết lòng dạ nàng thiện lương khoan hậu, người như thế này làm sao có thể là con gái của Mạnh Thần Thông? Không riêng gì Kim Thế Di, tất cả mọi người đều nghĩ như thế. Thực ra cũng chẳng có điều gì kỳ lạ, Cốc Chi Hoa được Lưỡng Hồ đại hiệp Cốc Chính Minh nuôi dưỡng, đã được Lữ Tứ Nương vun bồi được mười năm, nàng làm sao có mang tà khí?

Sắc mặt của Cốc Chi Hoa chợt trở nên tái nhợt, nàng lắp bắp: “Muội là con của Mạnh Thần Thông? Muội là con của Mạnh Thần Thông? Sư tỷ, tỷ... tỷ có nói thực không?”

Tào Cẩm Nhi nhìn đám khách khứa rồi vẫy tay: “Liễu đại ca, mời ông tới đây.”

Một hán tử mặc áo xám tuổi khoảng bốn mươi thần sắc rầu rĩ, chậm rãi bước ra. Cốc Chi Hoa vừa nhìn thì nói: “Liễu Hành Sâm, Liễu đại ca, có phải là huynh không?” Liễu Hành Sâm là học trò của Cốc Chính Minh, khi Cốc Chính Minh còn sống chỉ thu nhận một học trò này. Cốc Chính Minh không có con cái cho nên coi Cốc Chi Hoa là con gái, còn Liễu Hành Sâm bề ngoài là học trò nhưng thực sự tình như cha con. Năm Cốc Chi Hoa tám tuổi, chính Liễu Hành Sâm đã dắt nàng đến Mang Sơn.

Liễu Hành Sâm cúi đầu: “Việc đã đến nước này thì huynh phải đành nói ra!”

Tào Cẩm Nhi quay sang bảo Dực Trọng Mâu: “Dực sư đệ, hai mươi năm trước Châu Ký sư huynh đã bị hại ở Sơn Đông, có điều tra ra được kẻ thù chưa?” Dực Trọng Mâu đang rối bời lòng dạ, bị Tào Cẩm Nhi hỏi một câu thì sững người ra rồi liền đáp: “Đã điều tra ra, chính là Mạnh Thần Thông. Mấy ngày trước chúng tôi đã đánh nhau với y một trận to, tiểu đệ hổ thẹn kém cỏi, đã để y chạy thoát.” Nhưng y lại không thể nào căm hận con gái của Mạnh Thần Thông được.

Tào Cẩm Nhi nói: “Sau khi Châu sư huynh bị hại, đệ đã từng mời bằng hữu võ lâm điều tra hung thủ, có chuyện này không?”

Dực Trọng Mâu nói: “Đúng thế, sau đó đệ cũng đã bẩm cáo với sư tỷ. Chỉ vì sư tỷ đang ở Hà Nam không kịp mời sư tỷ đến chủ trì.” Tào Cẩm Nhi nói: “Đệ làm rất đúng, ta không trách đệ. Ta chỉ hỏi đệ, đệ có nhận ra người này không?” Dực Trọng Mâu nói: “Nhận ra, y chính là Liễu Hành Sâm, lúc đó y đi cùng Cốc lão tiền bối.”

Tào Cẩm Nhi nói: “Liễu đại ca, mời ông hãy nói trên đường điều tra hung thủ, đã gặp phải chuyện gì?”

Liễu Hành Sâm nhìn Cốc Chi Hoa rồi nói: “Lúc đó các lộ anh hùng đều chia nhau điều tra hung thủ, tôi và sư phụ đi với nhau, khi đuổi đến một cánh đồng gần sông Thanh Vân, đột nhiên phát hiện một người đàn bà bị thương bế một đứa trẻ nằm thoi thóp chờ chết!”

Nghe đến đây, mọi người đều nặng trĩu cõi lòng. Liễu Hành Sâm thở dài rồi tiếp tục nói: “Sư phụ tôi động lòng trắc ẩn, cứu hai mẹ con họ dắt về nhà, người đàn bà bị thương quá nặng, vài ngày sau đã chết. Trước khi bà ta qua đời, sư phụ của tôi cũng hỏi thân thế lai lịch của bà ta, hỏi tại sao bị thương, người đàn bà bảo bị kẻ thù hại, hỏi ai là kẻ thù thì bà ta không chịu nói. Còn thân thế lai lịch thì càng không chịu nói.

Nhưng trước khi chết, bà ta chỉ đứa trẻ nói một chữ ‘Mạnh’, ý muốn bảo đứa trẻ họ Mạnh. Nói xong thì đứt hơi. Sư phụ tôi nghi ngờ, kiểm tra di vật của bà ta, phát hiện có lãnh tiêu ám khí độc môn của Mạnh Thần Thông mới biết bà ta là vợ của Mạnh Thần Thông. Sư phụ của tôi lại điều tra, không lâu sau thì biết được cái chết của bà ta, bởi vì Mạnh Thần Thông và vợ trên đường gặp kẻ thù, Mạnh Thần Thông giết vài người phá vòng vây, vợ y thì lại bị thương, hai người lạc nhau. Nhưng những kẻ đuổi theo cũng bị trúng lãnh tiêu của bà ta cho nên không dám đuổi nữa. Nào ngờ sau khi đánh lui kẻ địch bà ta đã sức cùng lực kiệt cho nên nằm giữa đồng hoang thoi thóp chờ chết. Bởi vậy kẻ thù mà người đàn bà bảo thực ra là đám hiệp khách truy bắt Mạnh Thần Thông!”

Liễu Hành Sâm ngầm ngừng rồi đưa mắt chậm rãi nhìn Cốc Chi Hoa, tiếp tục nói: “Sư phụ tôi biết đứa trẻ ấy là con gái của Mạnh Thần Thông thì rất khó xử. Đứa trẻ lanh lợi dễ thương, làm sao có thể nỡ bỏ đi? Sư phụ từng thở dài bảo: 'Cha mẹ có tội, con trẻ vô tội'. Thế là đã nuôi dưỡng đứa trẻ. Kẻ thù của Mạnh Thần Thông quá nhiều, sư phụ sợ bé gái này lớn lên sẽ gặp rắc rối, cho nên đã che giấu thân thế của nó, cả bản thân của bé gái ấy cũng không hề biết.”

Cốc Chi Hoa khóc òa lên, cảm thấy rất hổ thẹn. Liễu Hành Sâm khẽ nói: “Sư muội, muội đừng trách huynh. Tào lão tiền bối hỏi tới thì huynh không thể nào không nói ra. Có một chuyện nữa mà muội vẫn chưa biết. Nửa năm trước huynh đến Mang Sơn thăm muội, giữa đường đã gặp đại đệ tử Hạng Hồng của Mạnh Thần Thông, suýt nữa huynh đã mất mạng bởi chưởng của y, may mà Tào lão tiền bối đến kịp. Người muốn điều tra manh mối về Mạnh Thần Thông, huynh không thể không nói ra bí mật đã giữ kín hai mươi năm.”

Mọi người vẫn đang ngưng thần tịnh khí lắng nghe Liễu Hành Sâm, lúc này mới chú ý bộ dạng của y, chỉ thấy y sắc mặt vàng vọt, người gầy gò, hắc khí vẫn chưa lui, đoán rằng y chắc chắn đã bị trúng Tu la âm sát công, đến nay nguyên khí vẫn chưa hồi phục.

Tào Cẩm Nhi chậm rãi nói: “Các vị đồng môn, mọi người đã nghe rõ lời Liễu Hành Sâm rồi chứ? Cốc Chi Hoa là con gái của Mạnh Thần Thông, chuyện này đã rõ ràng, Mạnh Thần Thông lại là kẻ thù của bổn môn, chúng ta làm sao có thể yên tâm để cho con gái của kẻ thù trà trộn trong bổn môn?”

Đệ tử của Giang Nam thất hiệp nhìn Tào Cẩm Nhi, lại nhìn Cốc Chi Hoa, ai nấy đều im lặng không nói. Một lát sau, Dực Trọng Mâu khẽ nói: “Khi Lữ cô cô nhận Cốc Chi Hoa làm học trò, không biết Cốc Chính Minh có nói rõ thân thế lai lịch của cô ta hay không?”

Theo quy củ võ lâm, nếu Lữ Tứ Nương đã biết Cốc Chi Hoa là kẻ thù của bổn môn, mà lại chịu thâu nhận nàng, vậy Lữ Tứ Nương phải gánh vác trách nhiệm ấy, trừ phi bản thân Cốc Chi Hoa phạm phải một lỗi lầm không thể dung thứ, nếu không thì người khác không có quyền thay Lữ Tứ Nương thanh lý môn hộ.

Tào Cẩm Nhi nói: “Liễu đại ca, ông vốn đưa cô ta lên Mang Sơn, mong ông hãy kể lại tình hình lúc đó.”

Liễu Hành Sâm nói: “Sau khi sư phụ tôi nhận cô ta làm con nuôi, trong lòng thường không yên. Ngày càng có nhiều người trong giang hồ tìm Mạnh Thần Thông trả thù, sư phụ tôi muốn cô ta trở thành hiệp nữ chốn danh môn, chuộc lại tội ác của cha mẹ mình, suy đi nghĩ lại thì thấy lúc đó chỉ có Lữ Tứ Nương là bậc nữ hiệp đủ sức lãnh tụ quần hào, vừa khéo Lữ Tứ Nương lại đến nhà tôi, gặp Cốc Chi Hoa. Lữ Tứ Nương rất thích, bảo nàng có tuệ căn. Đến năm Cốc Chi Hoa tám tuổi, sư phụ sai tôi đưa nàng đến Mang Sơn, cầu xin Lữ Tứ Nương thâu nàng làm học trò. Sư phụ nói, nếu Lữ Tứ Nương tra hỏi lai lịch thì tôi cứ việc nói thẳng ra. Tôi dắt nàng đến gặp Lữ Tứ Nương, Lữ Tứ Nương chẳng hỏi một câu, cũng không từ chối, đã nhận ngay nàng. Tôi thấy thế, sợ rằng nói ra thì sẽ không ổn. Bởi vậy Lữ Tứ Nương không hỏi thì tôi cũng chẳng nói. Còn sau này sư phụ của tôi có từng nói với Lữ Tứ Nương hay không thì tôi không biết.”

Tào Cẩm Nhi nói: “Lữ cô cô học rộng biết nhiều, hiểu rõ lễ nghĩa, bình sinhhành sự không hổ danh một bậc nữ hiệp, nếu biết cô ta là con gái của đại ma đầu Mạnh Thần Thông thì làm sao chịu nhận? Chắc là Cốc Chính Minh cũng không cho người biết chuyện này. Các vị đồng môn, dù cho cô ta không phải là con gái của kẻ thù, vì danh dự lúc sinh tiền của tử sư thúc, chúng ta cũng không thể để cho con gái của một đại ma đầu làm người kế thừa y bát của người, nhơ bẩn danh dự một đời của người!”

Sắc mặt Cốc Cư; Hoa từ đỏ chuyển sang xanh, nàng lau nước mắt rồi nói: “Chưởng môn tư tỷ, muội tự thấy không hề làm chuyện gì làm nhơ danh sư phụ.”

Tào Cẩm Nhi nói: “Bây giờ thì chưa, đâu biết sau này có hay không? Cha mẹ của ngươi là người như thế, ta làm sao có thể tin được ngươi? Huống chi nay ngươi đã biết cha ruột của ngươi, ngày sau khi bổn môn và Mạnh Thần Thông tính sổ với nhau, ngươi và y có tình cha con, ta sao có thể yên tâm được? Giờ đây ngươi không có sai lầm gì, ta chỉ cần thu lại kiếm phổ, lấy lại bảo kiếm của ngươi, không phế võ công của ngươi là coi như đã rất rộng lượng, ngươi vẫn còn chưa phục sao?”

Cốc Chi Hoa nói: “Không biết nghĩa phụ có nói với sư phụ hay không. Nhưng khi sư phụ qua đời đã từng để lại di ngôn.”

Tào Cẩm Nhi nói: “Di ngôn gì?”

Cốc Chi Hoa nói: “Người bảo Mạnh Thần Thông sống ở dưới chân núi Thái Hàng, người đã biết, lúc đó muội liền hỏi, liền hỏi...”

Tào Cẩm Nhi nói: “Hỏi gì?”

Cốc Chi Hoa nói: “Lúc đó muội không biết ông ta là cha ruột của mình, muội liền hỏi, liền hỏi...”

Dực Trọng Mâu nói: “Cô nương hỏi tại sao không trừ Mạnh Thần Thông có phải không?”

Cốc Chi Hoa gật đầu, Tào Cẩm Nhi lớn giọng hỏi: “Vậy Lữ cô cô nói thế nào?”

Cốc Chi Hoa nói: “Sư phụ nói, trong bổn môn tất nhiên sẽ có người tính sổ với Mạnh... Mạnh Thần Thông, không cần muội phải ra tay.”

Theo lễ tiết, kẻ làm con cái không được gọi thẳng tên của cha mẹ ra, cho nên khi Cốc Chi Hoa nói đến ba chữ ‘Mạnh Thần Thông’ cũng hơi ngại ngùng, nhưng cuối cùng nàng vẫn gọi thẳng ra. Tất cả những người hiệp nghĩa giang hồ tuy thấy có hơi ‘thiếu tự nhiên’, nhưng ai nấy đều nghĩ “Nàng ta ngay từ nhỏ đã xa rời cha mẹ, hai mươi năm qua được Lưỡng Hờ đại hiệp Cốc Chính Minh và Lữ Tứ Nương nuôi dạy, sớm đã là người trong phe chúng ta, chẳng liên quan gì đến Mạnh Thần Thông, nàng cũng chẳng hề giống y, thực ra cũng không thể coi nàng là con của Mạnh Thần Thông.”

Cốc Chi Hoa ngập ngừng rồi tiếp tục nói: “Trước khi sư phụ qua đời đã để lại di ngôn, sau này người trong bổn môn phải tìm Mạnh Thần Thông tính sổ, sư tỷ có thể đưa ba thiên Thiếu dương huyền kinh bí quyết của muội cho họ. Sư phụ nói, mười năm trước người đã biết Mạnh Thần Thông sống ở dưới chân núi Thái Hàng, nhưng vẫn chưa luyện được bản lĩnh phá giải Tu la âm sát công, cho nên Mạnh Thần Thông chưa đến quấy rối người, người cũng tạm thời không để ý đến y. Sau đó người mất mười năm mới tham ngộ được Thiếu dương huyền công, tuy không thể phá giải được nhưng có thể chống được tà khí của Tu la âm sát công. Người có căn cơ nội công học Thiếu dương huyền công, nhiều nhất chỉ cần nửa năm là có thể học được, người còn bảo bổn môn chỉ cần có ba cao thủ luyện được Tứ đại hương chủ là có thể chế phục được Mạnh... Mạnh Thần Thông. Muội đã mang theo ba thiên Thiếu dương huyền công bí quyết, giờ đây xin trao cho chưởng môn sư tỷ.” Dực Trọng Mâu để ý lắng nghe lời của Cốc Chi Hoa, nghe xong thì trầm ngâm, khẽ nói với Tào Cẩm Nhi: “Nghe nàng nói như thế, hình như Lữ sư thúc đã biết nàng là con gái của Mạnh Thần Thông, cho nên không để nàng ra tay, bảo nàng trao Tứ đại hương chủ bí quyết cho chúng ta. Hình như sư tỷ cũng nên xử lý khoan dung?”

Tào Cẩm Nhi trợn mắt, nói: “Đây chỉ là suy đoán. Nếu Lữ sư thúc biết lai lịch của cô ta, lại chấp nhận khoan thứ cho cô ta, chắc chắn sẽ có di ngôn để lại cho ta. Mấy tháng trước khi Lữ sư thúc qua đời, đệ và Tạ Vân Chân đã đến Mang Sơn, lúc đó người có nói gì không?”

Dực Trọng Mâu nói: “Lúc đó Lữ sư thúc biết không còn sống được bao lâu, người bảo có tỷ làm chưởng môn thì người đã yên tâm chứ chẳng nói gì khác.”

Tào Cẩm Nhi gật đầu: “Thế là đã rõ. Ta một đời ngay thẳng, người đương nhiên tin ta.”

Rồi chợt cao giọng nói với Cốc Chi Hoa: “Nghĩ tình ngươi dâng Thiếu dương huyền công bí quyết, ta có thể xử lý rộng lượng hơn. Ngươi cứ việc giữ Sương hoa kiếm của Lữ cô cô, còn kiếm phổ của Huyền nữ kiếm pháp là tâm huyết của Độc tý thần ni, ngươi phải giao ra. Sau khi rời khỏi bổn môn, chỉ cần ngươi không làm điều ác, đệ tử bổn môn sẽ không coi ngươi là kẻ địch!”

Cốc Chi Hoa nói với giọng run run: “Chưởng môn sư tỷ, tỷ không chịu cho muội ở lại trong môn phái sao?” Tào Cẩm Nhi lạnh lùng nói: “Ta đã nói rõ, chả lẽ ngươi vẫn còn chưa hiểu?”

Cốc Chi Hoa nói: “Trước khi sư phụ qua đời đã trịnh trọng trao kiếm phổ cho muội, bảo muội kế thừa y bát của người, muội không thể nào phụ lòng người được!”

Tào Cẩm Nhi nổi giận: “Ngươi dám không nghe lệnh ta? Ta bảo ngươi hãy ngoan ngoãn đưa ra đây là đã nể mặt ngươi lắm, ngươi dám chống lệnh không tuân theo, ta sẽ chấp hành hình phạt của bổn môn?”

Dực Trọng Mâu sắc mặt nặng nề, hình như có điều muốn nói, Tào Cẩm Nhi nhìn ông ta rồi lặp lại: “Người này là con gái của kẻ thù bổn môn, nay cô ta cũng đã biết cha ruột của mình, ai dám đảm bảo cô ta không nghĩ đến tình cha con, cấu kết với Mạnh Thần Thông? Ai yên tâm để cho cô ta tiếp tục ở lại trong bổn môn?”

Tào Cẩm Nhi nói những lời này cho đồng môn nghe, trong số đồng môn có người thông cảm cho Cốc Chi Hoa, nhưng nghĩ đến đây cũng có nỗi nghi ngờ, không ai dám lên tiếng. Tào Cẩm Nhi đưa mắt quét nhìn Dực Trọng Mâu, Dực Trọng Mâu cúi đầu, trong lòng rất khó xử ông ta cũng hơi tội nghiệp cho Cốc Chi Hoa, nhưng Mạnh Thần Thông là hung thủ giết chết sư huynh ông ta, lại là người đã đả thương ông ta bằng Tu la âm sát công, ông ta không tiện bảo vệ cho nàng.

Đồng môn của Cốc Chi Hoa đều im lặng, Kim Thế Di không nén được nữa, đột nhiên ngửa mặt lên trời cười ba tiếng, bước ra nói: “Ta dám đảm bảo cho nàng!”

Tào Cẩm Nhi nói: “Ngươi là ai mà dám can dự vào chuyện của bổn môn?”

Kim Thế Di nói: “Đúng thế, ta là người ngoài, nhưng bà đã xử lý không công bằng, ta phải lên tiếng, không để cho bà bắt nạt một thiếu nữ bơ vớ!” nói xong thì lại cười ha hả. Tào Cẩm Nhi nói: “Ngươi cười gì? Ta xử lý không công bằng thế nào?”

Kim Thế Di nói: “Ta cười ngươi là chưởng môn của một phái mà chẳng hề có hiểu biết!”

Tào Cẩm Nhi giận đến nỗi run bần bật, đang định lên tiếng thì Kim Thế Di đã cướp lời: “Lưỡng Hồ đại hiệp Cốc Chính Minh nói rất phải, cha mẹ có tội chứ con trẻ chẳng hề có tội chi. Lúc còn nằm nôi nàng đã xa lìa cha mẹ, những chuyện Mạnh Thần Thông đã làm sao có thể đổ lên đầu nàng? Nàng vốn có thể giấu giếm ba thiên Thiếu dương huyền công bí quyết, nhưng nàng lại trao ra để cho các người đối phó với cha ruột của mình, các người còn nỡ lòng nào trách nàng? Thử nghĩ xem, nếu không có ba thiên Thiếu dương huyền công bí quyết trong số các người ai có thể đánh lại Mạnh Thần Thông?”

Tào Cẩm Nhi cả giận, quát rằng: “Tên ăn mày điên nhà ngươi tiếng xấu đã lan truyền khắp nơi, dám lớn gan trách ta xử lý không công bằng? Hôm nay ta phải bắt ngươi để trừ hại cho giang hồ!”

Kim Thế Di lại cười ha hả, Tào Cẩm Nhi vung cây gậy đánh vù tới, Lộ Anh Hào, Bạch Anh Kiệt đều rút kiếm ra, lúc nãy hai người này bị bại trong tay Kim Thế Di, nay thấy sư tỷ ra tay cho nên mới theo đóm ăn tàn, chiêu thế đánh ra rất hiểm hóc.

Kim Thế Di cười lớn quét ngang cây trượng ra, choang một tiếng, cây gậy đầu rồng của Tào Cẩm Nhi cong sang một bên, Lộ Anh Hào và Bạch Anh Kiệt rơi kiếm. Đồng môn của Tào Cẩm Nhi đều thất kinh ùa lên. Kim Thế Di rút phắt thanh kiếm trong cây gậy, dùng kiếm đè vào gậy của Tào Cẩm Nhi, thiết kiếm trong tay trái thì múa tít, chỉ nghe tiếng leng keng vang lên không ngớt, đã có sáu bảy người công lực kém cỏi, binh khí bị thiết kiếm của chàng chặt gãy!

Dực Trọng Mâu rất khó xử, ông ta từng nhận được ơn cứu mạng của Kim Thế Di, nay thấy sư tỷ không địch lại chàng, ông ta lại không thể lên giúp một tay. Đang lúc Dực Trọng Mâu chần chừ, Kim Thế Di quát lớn một tiếng, cây gậy ba đốt của Lý Ứng bị chàng ta chặt gãy hai đốt, còn Tào Cẩm Nhi thì bị chàng ép thối lui. Dực Trọng Mâu kêu lên một tiếng “không xong” rồi phóng người nhảy lên, chỉ thấy Kim Thế Di vung cây thiết kiếm đánh ra một chiêu Trường hồng kinh thiên, gạt mấy tên đồ đệ của Tào Cẩm Nhi sang một bên, cây gậy sắt to bằng miệng bát bổ về phía Tào Cẩm Nhi, hai gậy giao nhau, tia lửa bắn ra tung tóe, cây gậy của Tào Cẩm Nhi cong queo như hình mặt trăng mới mọc.

Ngay lúc này, chợt nghe keng một tiếng, Cốc Chi Hoa rút kiếm phóng ra hất lên, đẩy bật cây gậy của Kim Thế Di ra, Tào Cẩm Nhi rút cây gậy đầu rồng về, miệng thở phì phò, trong nhất thời không nói ra lời được. Lúc này Dực Trọng Mâu vừa mới nhảy tới, chặn trước mặt sư tỷ.

Kim Thế Di bất ngờ, trừng mắt nói: “Hay lắm, ta chủ trì công đạo cho cô nương mà cô nương lại giúp bà ta?”

Cốc Chi Hoa rơm rớm nước mắt, chỉ kiếm về phía Kim Thế Di nói: “Kim Thế Di, huynh hãy xuống núi đi thôi!” Kim Thế Di nói: “Cô nương cam lòng bị bà ta bắt nạt?”

Cốc Chi Hoa nói: “Đó là chuyện của bổn môn, huynh... huynh hãy nể mặt tôi mà xuống núi đi thôi!”

Tào Cẩm Nhi bẻ cây gậy đầu rồng ngay trở lại, cả giận nói: “Ai đám để y xuống núi? ở nơi thánh địa Mang Sơn này làm sao có thể để cho y cuồng vọng? Phải bắt y lại cho bằng được!” phái Mang Sơn tuy ra đời không bao lâu, chỉ khoảng hơn một trăm năm nhưng tổ sư của phái này là Độc tý thần ni, vốn là công chúa nhà Minh, đệ tử của bà ta là Giang Nam thất hiệp, đều có tên tuổi lẫy lừng, nhất là hai người Cam Phụng Trì và Lữ Tứ Nương, một người là lãnh tụ võ lâm, một người là tông sư kiếm học, truyền đến thời Tào Cẩm Nhi thì thanh thế càng lớn hơn. Hậu bối của Tào Cẩm Nhi cũng có nhiều người tên tuổi lẫy lừng giang hồ. Tóm lại, phái Mang Sơn hưng khởi rất nhanh, thanh thế rất thịnh, có thể nói là một điều kỳ tích trong võ lâm. Hôm nay là ngày Độc tý thần ni qua đời được tròn năm mươi năm, ba đời đồng môn của phái Mang Sơn đều tụ tập ở đây, nhưng không ngờ lại xảy ra chuyện này, bởi vậy Tào Cẩm Nhi phải quyết bắt cho bằng được Kim Thế Di.

Cốc Chi Hoa rất khó xử, nàng không biết tuân theo lệnh của sư tỷ bắt Kim Thế Di để lấy công chuộc tội hay cùng Kim Thế Di chạy xuống núi! Đang lúc đắn đo, mấy mươi đồng môn đã ùa tới bao vây Kim Thế Di và nàng.

Lúc này tình thế như kiếm rút cung căng, xem ra sắp có đánh nhau to. Ngay lúc này, chợt nghe trên đỉnh núi vọng xuống tiếng khóc, Dực Trọng Mâu ngẩng đầu nhìn lên, không biết từ lúc nào có ba người lạ mặt bước tới, một người là một nhà sư già mặt đầy sát khí, sau lưng ông ta là hai võ quan, cả ba người này đều đang đốt nhang và nến trước mộ Độc tý thần ni, nhà sư già kia đang bật khóc, tiếng khóc nghe rất kỳ quái, tựa như hàm chứa lời oán trách, tất cả mọi người đều kinh hãi!

Khi những người này mới tới, Tào Cẩm Nhi đang đánh nhau với Kim Thế Di, đệ tử của phái Mang Sơn không để ý đến họ, bởi anh hùng các nơi đến tảo mộ tuy nghi ngờ nhưng vì là khách khứa nên không ngăn cản. Cho đến khi họ bật khóc thì ai nấy đều kinh ngạc, bởi vì Độc tý thần ni là công chúa của nhà Minh, nay lại có hai võ quan của triều đình khóc trước mộ bà ta thì thật là kỳ quái; vả lại đệ tử của phái Mang Sơn chưa hành lễ mà họ đã cúng trước mộ trước thì càng trái lẽ thường!

Chuyện lạ ấy xảy ra, đệ tử của phái Mạng Sơn đều phân tâm, Dực Trọng Mâu nói: “Sư tỷ, tỷ có quen những người này không?”

Tào Cẩm Nhi nhíu mày suy nghĩ vẫn chưa kịp đáp lời thì một chuyện khiến cho người ta kinh hãi nữa lại xảy ra. Vốn là ở dưới đất có hơn một chục cái cuốc do đệ tử phái Mang Sơn đến tảo mộ dùng cuốc dãy cỏ, sửa sang lại xung quanh, lúc này vì mọi người đều kéo tới đối phó với Kim Thế Di cho nên buông cuốc xuống đất. Cả ba người này khóc xong trước mộ Độc tý thần ni thì trên tay cầm cuốc, quay sang mộ Lữ Tứ Nương, nhà sư già đột nhiên cười lên một tràng quái dị, chỉ tay mắng: “Mụ tiện tì phạm thượng làm loạn, khi ngươi còn sống ta không thể giết được ngươi, khi ngươi chết đi thì cũng phải khiến cho xương cốt của ngươi không còn!” thế rồi phất tay, ba chiếc cuốc nhất tề bổ xuống cửa mộ Lữ Tứ Nương! Khi còn sống Lữ Tứ Nương được người ta tôn kính, không ngờ rằng những kẻ này lại đào mộ bà, quần hào đều sững người ra, trong khoảnh khắc ấy tiếng quát mắng vang lên như sấm. Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, đã có hai đệ tử Mang Sơn nhảy bổ tới thi triển công phu cầm nả thủ chụp vào cánh tay nhà sư già, nhà sư ấy không thèm quay đầu lại, chỉ thấy ông ta nhún vai thì hai người ấy đã bị ném lên không trung, trong số một trăm người chỉ có vài người thấy nhà sư ấy ra tay, lúc này tiếng quát chợt lặng yên.

Dực Trọng Mâu cả kinh, nhà sư ấy đã sử dụng công phu thượng thừa Triêm y thập bát điệt của bổn môn, trong Giang Nam thất hiệp, Cam Phụng Trì giỏi sử dụng công phu này nhất, Dực Trọng Mâu là đệ tử của Cam Phụng Trì cũng hổ thẹn không bằng?

Ngay lúc này, lại có vài đệ tử Mang Sơn phóng tới, lần này nhà sư già không hề ra tay, nhưng hai người ăn mặc theo kiểu võ quan múa tít cây cuốc, đánh một hồi thì đao thương kiếm kích rơi đầy xuống đất, té ra binh khí của đệ tử phái Mang Sơn đều bị họ đánh rơi. Dực Trọng Mâu và Tào Cẩm Nhi để ý nhìn, tuy chỉ có vài hiệp nhưng hai võ quan này đã sử dụng nhiều loại võ nghệ, vả lại tất cả đều là võ công của bổn môn. Nhà sư già cười ha hả, lớn giọng nói: “Bọn tiểu bối các ngươi thấy ta mà không chịu dập đầu, lại còn muốn động thủ với ta ư?”

Tào Cẩm Nhi và Dực Trọng Mâu vội vàng bỏ Kim Thế Di, quát mọi người phóng lên phía trước, nhà sư già ấy rất ngạo mạn, nói với Tào Cẩm Nhi: “Cẩm Nhi, ngươi là chưởng môn mà không nhận ra ta sao?”

Đó chính là: Diệt pháp khi sư lật chuyện cũ, hung tăng quả thật quá điên cuồng.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng tuvi từ: Que Huong

Re: Vân Hải Ngọc Cung Duyên - Lương Vũ Sinh

Postby tuvi » 06 Feb 2023

Hồi Thứ Mười Một
Hung tặc nhắc lại chuyện đã cũ...Hiệp nữ liều mình hộ chưởng môn.

Tào Cẩm Nhi ngẩn người ra, bà ta chợt trợn mắt mắng: “Năm xưa Lữ sư thúc rộng lượng chỉ giết kẻ thủ ác, không hỏi tội nối giáo cho giặc của ngươi, hôm nay ngươi có mặt mũi nào đến làm loạn trước mộ người!”

Hòa thượng ấy cười lạnh: “Hôm nay ta đến đây là muốn kết thúc vụ án năm xưa! Nói thực cho ngươi biết, năm xưa sư phụ ta bị giết thê thảm, nay ta phải trả thù rửa hận cho người. Ta đâu chỉ làm loạn, ta phải đào mộ Lữ Tứ Nương lên, hủy quan tài của mụ ta, đốt xương cốt của mụ thành tro, sau đó chỉnh đốn lại môn hộ Mang Sơn!”

Té ra nhà sư già này tên gọi Diệt Pháp Thượng Nhân, là học trò của Liễu Ân.

Độc Tý thần ni vốn có cả thảy tám học trò, trong đó Liễu Ân đứng đầu, ngoại trừ Lữ Tứ Nương là đệ tử quan môn của Độc Tý thần ni, sáu người còn lại, Tào Nhân Phụ, Lý Nguyên, Châu Tầm, Bạch Thái Quan, Lộ Dân Đảm, Cam Phụng Trì đều được Liễu Ân truyền thụ võ công, sau đó vì Liễu Ân đại nghịch bất đạo, phản thầy phản quốc, Lữ Tứ Nương phụng lệnh của sư phụ cùng đồng môn giết chết Liễu Ân trước mộ Độc Tý thần ni, lúc đó Liễu Ân đã nhận hai học trò, vì bọn họ chưa làm ác nhiều, có thể nói vì phải tuân theo lệnh thầy cho nên Lữ Tứ Nương chỉ giết Liễu Ân chứ không truy cứu họ. Nhưng sau khi các đồng môn bàn bạc với nhau, mọi người đã quyết định đuổi đệ tử của Liễu Ân ra khỏi phái Mang Sơn.

Từ đó về sau hai học trò của Liễu Ân không lộ mặt trên giang hồ nữa, khoảng mười năm trôi qua, đại đồ đệ của Liễu Ân chết sớm, nhị đồ đệ xuất gia làm sư, tự đặt tên là Diệt Pháp hòa thượng, y là kẻ thâm trầm, mười năm qua chỉ tu luyện võ công, chỉ vì y sợ Lữ Tứ Nương cho nên khi bà ta còn sống thì không dám xuất hiện. Tuy Tào Cẩm Nhi biết người này, nhưng y đã im hơi lặng tiếng, cho nên bà ta hầu như đã quên bẵng y. Không ngờ hôm nay y lại dắt thêm hai học trò xuất hiện ở Mang Sơn Trong Giang Nam thất hiệp, ngoại trừ Lữ Tứ Nương, võ công của sáu người còn lại đều do Liễu Ân truyền thụ, Diệt Pháp hòa thượng kế thừa võ học của Liễu Ân, cũng nắm được sở trường của sáu người kia, vừa rồi y dùng công phu Triêm Y Thập Bát Điệt đánh ngã hai đệ tử của Mang Sơn chẳng qua chỉ là trò vặt mà thôi.

Sau khi Diệt Pháp hòa thượng nói rõ thân phận của mình, lập tức hỏi: “Tào Cẩm Nhi, ai đã để ngươi làm chưởng môn nhân?”

Tào Cẩm Nhi cả giận nói: “Ngươi có tư cách gì hỏi ta?”

Diệt Pháp hòa thượng nói: “Sư phụ của ta là đại đệ tử của Độc tý thần ni, ta là đệ tử duy nhất của người, tuân theo vai vế, khi nào mới đến lượt ngươi? Dù ta khiêm nhường không nhận, các ngươi đề cử chưởng môn cũng phải hỏi ta trước”

Dực Trọng Mâu lạnh lùng nói: “Diệt Pháp hòa thượng, ngươi đã không còn là đệ tử của phái Mang Sơn. Tào sư tỷ tiếp nhậm chưởng môn là do Lữ sư thúc chỉ định khi còn sống, đâu đến lượt ngươi lên tiếng?”

Diệt Pháp hòa thượng cười lạnh: “Năm xưa Lữ Tứ Nương có thân phận nhỏ nhất trong bổn môn, phạm thượng làm loạn, giết hại chưởng môn sư huynh, chèn ép bọn ta, nay ta sẽ lật lại vụ án này, ta không thừa nhận những điều bà ta đã làm. Cho nên hôm nay phải lập lại chưởng môn!”

Dực Trọng Mâu mắng: “Liễu Ân phản thầy đầu hàng kẻ địch, năm xưa bổn phái thanh lý môn hộ đã chỉ rõ tội của y, võ lâm đồng đạo đều chẳng có ý gì khác, minh chứng đã rõ rành rành, làm sao có thể thay đổi? Ngươi không nhớ đến ơn tha chết của tiền bối bổn phái mà lại còn dám đến đây làm càn, phái Mang Sơn nào có thể tha cho ngươi?”

Diệt Pháp hòa thượng cười lạnh: “Dực Trọng Mâu, nay ngươi là một tông chủ của phái Mang Sơn (giải thích: Giang Nam thất hiệp chia thành bảy nhánh, mỗi người là một tông; trong đó nhánh Cam Phụng Trì, Bạch Thái Quan là cường thịnh nhất, là hai tông lớn của phái Mang Sơn) lại là bang chủ của Cái Bang miền Giang Nam, coi như cũng có chút tiếng tăm trong võ lâm, uống nước phải nhớ nguồn, lẽ ra ngươi cũng phải nhớ ơn sư phụ của ta! Ngươi có biết rằng, võ công của Cam Phụng Trì sư phụ ngươi cũng là sư phụ ta truyền thụ hay không? Hôm nay ngươi dám gọi thẳng tên sư phụ của ta ra, chỉ riêng một điểm này ta đã không thể tha cho ngươi! Còn nhà ngươi, Tào Cẩm Nhi, năm xưa ngươi bắt chước Lữ Tứ Nương phạm thượng làm loạn, nay lại nắm giữ chức chưởng môn thì càng không thể tha thứ! Nay ta có hai con đường cho ngươi lựa chọn, thứ nhất là ngươi đơn đả độc đấu với ta, chỉ cần tiếp được mười chiêu của ta thì ta sẽ thừa nhận ngươi là chưởng môn phái Mang Sơn; thứ hai là ngươi phải dập đầu tạ tội, chọn chưởng môn khác, ngoài ra phải xây mộ lập bia cho sư phụ ta, mang áo gai chịu tang để kết thúc vụ án năm xưa!”

Tào Cẩm Nhi tức giận đến nỗi thất khiếu bốc khói, không đợi Diệt Pháp hòa thượng nói xong thì lập tức vung cây gậy đầu rồng đánh về phía y, Dực Trọng Mâu cũng vung cây trượng sắt phụ với Tào Cẩm Nhi. Diệt Pháp hòa thượng cười ha hả, nghiêng người qua tránh cú đánh của Tào Cẩm Nhi, y không trả đòn mà quát Dực Trọng Mâu: “Sao ngươi không trả cây thiền trượng của sư phụ ta cho ta?”

Té ra sau khi Liễu Ân chết, Cam Phụng Trì đã rút cây thiền trượng mà Liễu Ân cắm trong vách núi Mang Sơn ra sửa thành cây gậy sắt truyền cho đại đệ tử của ông ta là Lữ Thanh, vì thế mà Lữ Thanh có ngoại hiệu Thiết Quải Tiên, sau khi Lữ Thanh chết đi, cây gậy được trao cho Dực Trọng Mâu, cho nên Diệt Pháp hòa thượng mới nói thế.

Diệt Pháp hòa thượng vừa lên tiếng đã phóng tới, chỉ thấy y tránh cây gậy của Tào Cẩm Nhi, lập tức phóng tới trước mặt Dực Trọng Mâu. Dực Trọng Mâu đánh ra một chiêu Lôi điện giao oanh, cây gậy sắt vẽ thành một vòng tròn, bổ xuống đầu Diệt Pháp hòa thượng, Diệt Pháp hòa thượng quát: “Hay lắm!” Rồi vươn vai tiếp lấy.

Bốp một tiếng, cây gậy chạm vào vai Diệt Pháp hòa thượng, Dực Trọng Mâu chợt cảm thấy cây gậy trượt sang một bên, nói thì chậm, nhưng sự việc diễn ra rất nhanh, Diệt Pháp hòa thượng đã chém tới một chưởng, chưởng thế phiêu hốt cùng cực, Dực Trọng Mâu võ công cao cường nhưng cũng không biết y đánh vào hướng nào, vừa dùng công phu Thiết bản kiều né tránh thì Diệt Pháp hòa thượng đã tóm được đầu gậy đẩy về phía trước, Dực Trọng Mâu cảm thấy một nguồn lực lớn dồn tới, theo võ công của ông ta mà luận, tuy ông ta chẳng phải là đối thủ của Diệt Pháp hòa thượng nhưng ít nhất cũng có thể đỡ được vài mươi chiêu, chỉ vì mấy ngày trước ông ta đã bị Mạnh Thần Thông đả thương bằng Tu la Âm Sát Công, tuy đã uống Bích Linh đơn của phái Thiên Sơn nhưng nguyên khí vẫn chưa hồi phục, bị Diệt Pháp hòa thượng đẩy ra phía sau, Dực Trọng Mâu té ngửa xuống, cây gậy đã bị y đoạt mất. Nhưng khi Dực Trọng Mâu ngã xuống cũng đã trả lại một chưởng, chưởng ấy trúng vào cổ tay của y.

Diệt Pháp hòa thượng rút tay lại, Dực Trọng Mâu văng ra cách đó một trượng, Diệt Pháp hòa thượng giật được cây gậy trong tay, cười ha hả: “Dực Trọng Mâu, ngươi cần phải khổ luyện thêm võ công Triêm Y Thập Bát Điệt của bổn môn!” rồi y xoay người, Tào Cẩm Nhi vừa đánh ra chiêu thứ ba Ngũ Đỉnh Khai Sơn, Diệt Pháp hòa thượng đã vung cây gậy lên, hai gậy giao nhau, chỉ nghe tiếng kim khí vang lên chói tai, hổ khẩu của Tào Cẩm Nhi tê rần, bà ta không dám liều tiếp cho nên rút gậy đâm tới như phán quan bút, trong khoảnh khắc đã đâm vào bảy đại huyệt của Diệt Pháp hòa thượng.

Nhưng Diệt Pháp hòa thượng kế thừa võ công của Liễu Ân, chiêu này của Tào Cẩm Nhi tuy lợi hại nhưng cũng chẳng làm gì được y, chợt thấy y vung cây gậy cũng đánh ra một chiêu Ngũ Đỉnh khai sơn, cây gậy sắt điểm xuống năm lần hóa giải toàn bộ chiêu số của Tào Cẩm Nhi, trái lại còn đâm vào huyệt toàn cơ của Tào Cẩm Nhi, Tào Cẩm Nhi vội vàng thu trượng hộ thân, lại tiếp của y một trượng nữa, lần này kình đạo mạnh hơn lúc nãy, Tào Cẩm Nhi lảo đảo thối lui ba bước, Diệt Pháp hòa thượng đuổi theo như hình với bóng, đánh hết gậy này tới gậy khác khiến Tào Cẩm Nhi chẳng thể nào thở nổi.

Đệ tử Mang Sơn thấy thế đều kinh tâm động phách, Tào Cẩm Nhi là chưởng môn nhân, đích thân ra tay, các đệ tử không ai dám dồn lên giúp đỡ. Huống chi Diệt Pháp hòa thượng lên tiếng đòi thử võ công bổn môn với Tào Cẩm Nhi, nếu đệ tử phái Mang Sơn thắng nhờ số đông, mà ở đây lại có rất nhiều anh hùng hào kiệt võ lâm, thì dù có thắng cũng mất mặt.

Hai võ quan đi cùng Diệt Pháp hòa thượng nhìn không chớp mắt, đến chiêu thứ năm thì Diệt Pháp hòa thượng đã hoàn toàn chiếm được thượng phong, trượng ảnh dầy đặc bao trùm Tào Cẩm Nhi, hai tên võ quan thở phào, nhìn nhau cười. Diệt Pháp

hòa thượng chợt quát: “Hai tên nhãi ranh ngu xuẩn, các người đến Mang Sơn làm gì?

" Sao còn chưa mau quật mồ Lữ Tứ Nương?”. Hai tên võ quan vội kêu một tiếng “ tuân lệnh” rồi giở cuốc bổ xuống mộ Lữ Tứ Nương.

Lúc này hai đệ tử của phái Mang Sơn tên Vu Hiệu và Cầu Ngọc không nhịn được nữa, cả hai chạy ra, họ là đệ tứ đắc ý của Bạch Thái Quan, trong các đệ tử đời thứ hai của phái Mang Sơn, võ công của họ chỉ kém Dực Trọng Mâu, Tào Cẩm Nhi, Lư Đạo Lân, Lâm Sinh, nay Tào Cẩm Nhi tỉ thí với Diệt Pháp hòa thượng, Dực Trọng Mâu đã bị thương, hai người Lư Lâm vì có việc không tham gia, cho nên họ là người có võ công cao cường nhất trong số các đệ tử Mang Sơn.

Hai tên võ quan nghe sau lưng có tiếng gió lướt lên, không thèm quay đầu lại, rút phắt thanh trường kiếm trở tay đánh ra sau, còn một tay thì vẫn giở cuốc bổ xuống.

Bạch Thái Quan có ngoại hiệu Thần Đao thủ trong Giang Nam thất hiệp, đao pháp của ông ta nổi tiếng võ lâm là nhanh, dữ, đa biến, hai người Vu, Cầu là đệ tử nhập thất của ông ta, vừa xông lên đã triển khai tuyệt kỹ của sư môn, khoái đao chémxuống, chỉ nghe tiếng leng keng vang lên không ngớt, tựa như có mấy chục thanh đaocùng chém xuống một lượt, nhanh đến khó hình dung.

Thế nhưng hai tên võ quan này không hề quay đầu mà dùng trường kiếm trở tay lại tiếp đao, cả hai cũng thi triển tuyệt kỹ khoái đao, đao kiếm và kiếm pháp vốn là có khác nhau, nay họ lại dùng kiếm như đoản đao, tuy là đao pháp giống nhau nhưng vì kiếm có hai lưỡi, mục tiêu chém ra, độ nặng nhẹ của lực đạo lại khác hẳn đoản đao, hai người Vu, Cầu không biết biến đổi, đánh rất nhanh, bại cũng rất nhanh, chém được đến đao thứ mười sáu thì nghe tiếng soạt soạt vang lên, cổ tay của hai người đều bị vạch đứt một đường.

Họ tuy chém mười sáu nhát đao chỉ trong chớp mắt, trong lúc đó Tào Cẩm Nhi cũng chỉ đỡ được một chiêu của Diệt Pháp hòa thượng, thấy hai sư đệ đã bại thì vừa kinh vừa giận, suýt nữa đã bị Diệt Pháp hòa thượng đánh trúng.

Diệt Pháp hòa thượng cười ha hả: “Các người tự xưng là đệ tử đời thứ ba của phái Mang Sơn, cả học trò của ta mà đánh không lại, rõ ràng đã quá trễ nải luyện tập võ công của bổn môn, ngươi còn mặt mũi gì làm chưởng môn nhân?”

Nếu Diệt Pháp hòa thượng không bị đuổi ra khỏi Mang Sơn, hai tên võ quan này coi như cũng là đệ tử đời thứ tư của phái Mang Sơn, luận về vai vế hai người Vu, Cầu là sư thúc của họ. Tuy võ nghệ của Bạch Thái Quan là do Liễu Ân truyền thụ, nếu tính ra đồ tôn của Liễu Ân cũng coi như là đồ đệ của Bạch Thái Quan, nhưng về mặt danh nghĩa hai người Vụ, Cầu rốt cuộc cũng lớn hơn một bậc, trưởng bối bại trong tay vãn bối, đó là chuyện mất mặt nhất trong võ lâm. Hai người Vu, Cầu tức giận đến nỗi thất khiếu bốc khói, lấy võ công của họ mà luận, vốn là có thể thắng được hai tên võ quan này, nhưng vì không thích ứng được với đao pháp của chúng cho nên mới thất bại, quả thực cảm thấy rất không đáng, nhưng bọn họ là cao thủ có tên tuổi trong phái Mang Sơn, trong võ lâm cũng là người có địa vị, họ có thân phận sư thúc mà thua sư diệt của mình, nếu không chịu nhận thua lại đến đánh tiếp thì không chỉ mất mặt mà cũng gần giống với kẻ vô lại. Bởi vậy cảhai người tuy bốc lửa giận ngất trời nhưng cũng chỉ đành im lặng.

Trong lúc đệ tử của phái Mang Sơn còn đang chần chừ, không biết sai ai đến ngăn chặn, hai tên võ quan lại bổ cuốc xuống mộ Lữ Tứ Nương, Dực Trọng Mâu kêu lớn: “Phản rồi, phản rồi “ rồi gắng gượng đứng dậy giật một cây thiết xích từ trong tay đồ đệ toan lao tới liều mạng.

Ông ta vừa mới bị thương, đồng môn phái Mang Sơn nào dám để ông ta tái chiến, có vài người đến ngăn cản, cũng có vài người chạy ra, trong khoảnh khắc nguy cấp, họ bất đắc dĩ chỉ đành lấy số đông kìm chế hai người ấy rồi tính tiếp.

Đang lúc ồn ào, đệ tử của phái Mang Sơn chưa kịp chạy đến thì chợt thấy có một bóng người phóng vọt lên rồi từ trên không trung lao bổ xuống, hai tên võ quan chưa kịp xoay người lại, vừa mới vung cuốc lên thì bị người ta tóm lấy ném ra, ngã soài trước mặt Dực Trọng Mâu, bốn vó chổng lên trời chẳng thể nhúc nhích. Người đó chính là Kim Thế Di.

Kim Thế Di ra tay khiến mọi người đều bất ngờ, lúc nãy chàng vừa mới bị người của phái Mang Sơn bao vây mà nay lại giúp cho họ bắt hai tên võ quan kia. Trước kia Diệt Pháp hòa thượng chưa từng gặp Kim Thế Di nhưng nghe danh đã lâu, vừa thấy cử chỉ dung mạo thì đã biết chàng chính là Độc Thủ Phong Cái, bất đồ giật mình, thầm nhủ: “Quả nhiên danh đồn không ngoa, xem ra võ công chẳng kém gì mình.”

Thế rồi vung cây gậy đẩy Tào Cẩm Nhi thối lùi ba bước, rồi ngửa mặt cười lớn nói: “Tào Cẩm Nhi, ngươi là chưởng môn mà nhờ vào người ngoài giúp đỡ sao? Uổng cho phái Mang Sơn xưng là danh môn chính phái, dù ngươi nhờ người ngoài giúp đỡ cũng không nên nhờ Dọc Thủ Phong Cái! Ha ha, có mặt anh hùng thiên hạ ở đây, chỉ nội điểm này ngươi cũng đã mất thể diện, hôm nay ta phải đưa ngươi ra khỏi sư môn!”

Tào Cẩm Nhi sắc mặt đỏ ửng, cả giận mắng: “Ai mời người ngoài giúp đỡ Ngươi cứ nói càn, hãy nếm một gậy của ta!”.

Bà ta vốn toan mắng Kim Thế Di nhưng chợt nghe lại chàng làm thế là đã giúp bà ta cho nên không nói ra lời được. Huống chi lúc nãy đôi bên lại có xích mích với nhau các lộ anh hùng đều thấy tận mắt, cần gì phải tranh biện? Song Tào Cẩm Nhi vừa không dám mắng Kim Thế Di, lại không giải thích cho mình, suy đi nghĩ lại thì chỉ có mắng Diệt Pháp hòa thượng, Diệt Pháp hòa thượng cười lạnh tỏ vẻ không tin.

Khi Diệt Pháp hòa thượng cười lạnh, Kim Thế Di cũng phát ra tiếng cười chói tai, át cả tiếng cười của Diệt Pháp hòa thượng, Diệt Pháp hòa thượng trừng mắt: “ Ngươi cười cái gì?”

Kim Thế Di nói: “Ta cười nhà ngươi đánh rắm.”

Diệt Pháp hòa thượng vung cây gậy, đẩy lui Tào Cẩm Nhi ba thước, tức giận nói: “Ta có nói sai cho ngươi không?”

Kim Thế Di cười lạnh: “Tào Cẩm Nhi là người như thế nào mà mời được ta?”

Diệt Pháp hòa thượng nói: “Vậy ngươi đến đây làm gì?”

Kim Thế Di nói: “Tào Cẩm Nhi tuy tầm thường, ta coi khinh bà ta. Nhưng Lữ Tứ Nương là người ta khâm phục nhất đời, nay ta đến cúng tế trước mộ bà ta, có ai dám đụng một cành cây ngọn cỏ trên mộ của bà ta thì Kim Thế Di này sẽ không tha?”

Diệt Pháp hòa thượng nói: “Ồ, té ra ngươi chỉ vì Lữ Tứ Nương?” Kim Thế Di nói: “Ta không thèm màng đến chuyện của các người. Nhưng lúc nãy ngươi vừa mới mắng ta, ta phải tính sổ với ngươi?”

Diệt Pháp hòa thượng nghe chàng bảo không màng đến chuyện phái Mang Sơn thì trong lòng như trút một tảng đá lớn, lập tức đáp: “Ngươi muốn tính sổ với ta? Hay lắm, hay lắm, đợi ta giải quyết xong chuyện hôm nay thì sẽ chiều theo.”

Y liếc mắt nhìn, chỉ thấy Kim Thế Di đứng trước mộ Lữ Tứ Nương, quả nhiên không đến giúp đỡ.

Vì Kim Thế Di làm thế, Diệt Pháp hòa thượng không dốc hết toàn lực đối phó Tào Cẩm Nhi, Tào Cẩm Nhi lại đánh tiếp hai trượng, tuy bị Diệt Pháp hòa thượng đẩy lùi, cũng tính là đã đánh hai chiêu, Diệt Pháp hòa thượng thấy đã đánh nhau với Tào Cẩm Nhi trước sau được tám chiêu, y đã có lời rằng trong vòng mười chiêu sẽ hạ được Tào Cẩm Nhi.

Khi Tào Cẩm Nhi đánh gậy xuống, Diệt Pháp hòa thượng quát: “Đến rất hay?” rồi đánh ra một chiêu Tiềm Long Thăng Thiên, cây gậy giơ lên đón lấy gậy của Tào Cẩm Nhi, đây chính là chiêu cực kỳ lợi hại trong Phục Ma Trượng Pháp, chỉ nghe keng một tiếng, tựa như búa lớn gõ vào chuông, âm thanh vang vọng khắp núi rừng, những đệ tử có công lực hơi kém thì chấn động đến nỗi lỗ tai kêu lùng bùng, máu chảy ra, còn cây gậy của Tào Cẩm Nhi thì cong queo. Diệt Pháp hòa thượng tiếp tục đánh một chiêu Phiên Giang Đảo Hải, cây gậy đánh tròn ra như gió, Tào Cẩm Nhi bị một nguồn lực lớn của y dẫn dắt, thân hình bất đồ xoay chuyển theo cây gậy của y, xem ra sắp ngã xuống đến nơi!

Ngay trong khoảnh khắc ấy, người ta chợt nghe một tiếng thét lanh lảnh, một chiếc bóng trắng phóng lướt qua đầu đệ tử phái Mang Sơn, một tiếng keng lại vang lên, lúc này mọi người mới nhìn rõ lại, té ra đó là Cốc Chi Hoa, chỉ thấy nàng đâm kiếm vào, tách hai cây gậy ra. Tào Cẩm Nhi nhất thời cũng đứng không vững, Trình Hạo và Lý Ứng vội vàng nhảy lên đỡ bà ta trở về.

Theo võ công của Cốc Chi Hoa mà luận, nàng vốn kém xa Diệt Pháp hòa thượng, sở dĩ nàng có thể tách được hai cây gậy ra chỉ nhờ dùng xảo kình. Sớm Huyền Nữ Kiếm Pháp của Lữ Tứ Nương rất thích hợp với nữ nhi, khí lực của nữ nhi thông thường chẳng bằng nam nhi, cho nên điểm tinh diệu nhất của bộ kiếm pháp này làdùng xảo giáng lực, lấy kỳ chế thắng, Huyền Nữ Kiếm Pháp tề danh cùng Thiên Sơn kiếm pháp, về mặt hùng hậu thì không bằng Thiên Sơn kiếm pháp, nhưng về mặt kỳ xảo thì có phần hơn. Nhát kiếm này của Cốc Chi Hoa đã nắm đúng thời cơ. Nàng nhân lúc Diệt Pháp hòa thượng đã dốc hết kình lực, nhẹ nhàng dẫn gậy của y qua một bên, vì thế mới dễ dàng tách hai cây gậy ra. Đó cũng bởi Diệt Pháp hòa thượng quá nôn nóng, muốn trong vòng một chiêu đánh bại Tào Cẩm Nhi, nếu y để lại ba phần hậu kình dùng để phòng bị đột kích thì Cốc Chi Hoa không dễ dàng đắc thủ.

Thế nhưng điều đó đã khiến Diệt Pháp hòa thượng cả kinh, nhất là Cốc Chi Hoa là một thiếu nữ trẻ tuổi, y chưa kịp lên tiếng thì Cốc Chi Hoa đã nói:

“Sư tỷ, giết gà đâu cần dao mổ trâu, tên hung tăng này dám hủy hoại phần mộ của sư phụ muội, theo lý phải do muội phát lạc, mong sư tỷ cho muội đánh thay.”

Diệt Pháp hòa thượng ngạc nhiên nói: “Ngươi là đệ tử của Lữ Tứ Nương?” Cốc Chi Hoa vung cây Sương Hoa Kiếm của Lữ Tứ Nương, mắng rằng: “Lão lừa trọc, tên của sư phụ ta đâu có xứng cho ngươi gọi!” Ánh kiếm lóe lên, nàng đã đâm vào cổ Diệt Pháp hòa thượng bằng một chiêu Ngọc Nữ Xuyên Châm.

Lúc này Tào Cẩm Nhi đang thở phì phò, nghe Cốc Chi Hoa nói như thế thì trong lòng khó xử, nếu cho phép nàng, họ chẳng phải đã thừa nhận nàng là đệ tử của bổn phái, lại còn là truyền nhân của Lữ Tứ Nương? Nếu không cho thì ai có thể chống nổi Địa Pháp hòa thượng?

Dực Trọng Mâu khẽ nói: “Sư tỷ, may có Cốc Chi Hoa dũng cảm đứng ra, cứ để nàng thử xem sao.”

Tào Cẩm Nhi nghĩ bụng rồi cao giọng nói: “Cốc Chi Hoa hãy cẩn thận, đánh lui tên hung tăng ta sẽ có cách xử lý. Lời nói của bà ta rất mơ hồ, nhưng cũng đã thừa nhận nàng là đệ tử của bổn phái.

Tào Cẩm Nhi chưa nói xong câu ấy thì Cốc Chi Hoa đã ta tay với Diệt Pháp hòa thượng, tiếng kim khí giao nhau kêu lên lanh lảnh, át cả tiếng của Tào Cẩm Nhi.

Cốc Chi Hoa biết công lực của bản thân không bằng Diệt Pháp hòa thượng, cho nên vừa xông lên đã dùng thế công, chỉ thấy nàng nắm chắc kiếm quyết, chỉ đông đánh tây, chỉ nam đánh bắc, lúc ở phía trước, lúc ở phía sau, mềm mại như lá liễu, nhẹ nhàng tựa chim hồng, kiếm thế quả thật kỳ ảo vô cùng, những người đứng ở ngoài đều hoa cả mắt. Diệt Pháp hòa thượng vung cây gậy múa tròn nhanh đến nỗi gió mưa chẳng lọt, Cốc Chi Hoa tuy xuất kiếm nhanh đến cực điểm nhưng mũi kiếm đều bị y gạt ra, có điều kiếm quang của nàng đã bao trùm Diệt Pháp hòa thượng, trong nhất thời y cũng không thể nào dễ dàng phản công. Chỉ nghe tiếng leng keng vang lên không ngớt trong tai, trong chớp mắt đôi bên đã giao nhau đến mười chiêu có dư.

Tất cả những anh hùng đứng bên ngoài, ngoại trừ Kim Thế Di, đều kinh ngạc? Ai cũng thấy võ công của Diệt Pháp hòa thượng cao cường, khi Cốc Chi Hoa mới xuất hiện, ai cũng lo lắng cho nàng, Dực Trọng Mâu vốn biết nàng tinh thông Huyền Nữ Kiếm Pháp nhưng cũng mong nàng có thể tiếp nổi vài ba chiêu lấy lại sĩ diện cho đệ tử phái Mang Sơn, nào ngờ cả chưởng môn phái Mang Sơn là Tào Cẩm Nhi cũng không chống nổi mười chiêu của Diệt Pháp hòa thượng mà nàng có thể đỡ được hai mươi chiêu, lại còn chẳng hề nao người! Mọi người đứng bên ngoài đều mừng rỡ, mỗi khi nàng đỡ được một chiêu thì họ lại reo hò trợ oai, tiếng reo vang lên như sấm, Tào Cẩm Nhi nghe thế thì vừa mừng vừa giận, mặt lúc xanh lúc đỏ, Kim Thế Di lén nhìn sắc mặt bà ta cũng thầm cười.

Tại sao trong vòng mấy mươi chiêu đầu Diệt Pháp hòa thượng bị nàng đẩy xuống thế hạ phong? Ở đây có một nguyên cớ. Té ra Huyền Nữ Kiếm Pháp là do Độc Tý thần ni nghe ra lúc tuổi đã về chiều, bà ta chỉ truyền thụ cho một mình Lữ Tứ Nương.

Bao nhiêu võ công khác Độc Tý thần ni đều truyền cho Liễu Ân hòa thượng, chỉ trừ bộ Huyền Nữ Kiếm Pháp này. Diệt Pháp hòa thượng kế thừa võ học của Liễu Ân, đương nhiên hiểu rõ võ công của Tào Cẩm Nhi, Dục Trọng Mâu, đã sớm phòng bị, tiện tay phá giải không hề mất sức, chỉ có bộ Huyền Nữ Kiếm Pháp này, Liễu Ân vẫn chưa học, y đương nhiên một ý cũng chẳng thông. Diệt Pháp hòa thượng vốn nghĩ rằng mình chắc chắn sẽ thắng, trước khi y hiểu rõ bộ kiếm pháp này, sợ rằng sẽ thất thủ sẽ bị võ lâm chê cười cho nên không dám liều tiến tới.

Hơn ba mươi chiêu trôi qua, quá nửa những chiêu số tinh hoa của Huyền Nữ Kiếm Pháp đã lộ ra, Diệt Pháp hòa thượng thầm nhủ, kiếm pháp của Cốc Chi Hoa tuy tinh diệu, nhưng công lực vẫn chưa đến cảnh giới nhất lưu, mình tinh thông các loại võ công như thế, chắc chắn có thể thắng được nàng, thế là chuyển thủ thành công, cây gậy sắt to như miệng bát triển khai thế đánh như sấm sét, chỉ thấy bóng gậy như núi, kiếm quang tựa cầu vồng. Trong chớp mắt đôi bên đã lại giao nhau đến ba mươi chiêu nữa.

Quần hùng nhìn mà kinh tâm động phách, tiếng reo hò trợ oai dần dần ngừng lặng, đang lúc kịch đấu, chợt thấy Diệt Pháp hòa thượng quát lớn một tiếng, cây trượng quét ngang một chiêu Bát Phương Phong Vũ, chiêu số đánh ra có tiếng sấm sét, chợt thấy tựa như có mười mấy cây gậy sắt táng về phía Cốc Chi Hoa. Bốn bên của Cốc Chi Hoa đều bị bịt kín. Trong khoảng sát na ấy toàn trường như ngừng lặng, chỉ nghe liếng trống ngực người bên cạnh đập thình thình.

Diệt Pháp hòa thượng đánh ra sát chiêu, buộc Cốc Chi Hoa cũng thi triển công phu tuyệt diệu của mình, khi mọi người đang thót tim, Cốc Chi Hoa chợt phóng vọt ra khỏi màn trượng ảnh, keng một tiếng, mũi kiếm điểm vào đầu gậy rồi nàng lại phóng vọt lên mấy thước, tránh khỏi chiêu Bát Phương Phong Vũ của Diệt Pháp hòa thượng!

Trong số quần hào có vài người tuổi quá sáu mười, năm xưa khi phái Mang Sơn thanh lý môn hộ họ cũng có mặt làm chứng. Lúc này Cốc Chi Hoa dùng khinh công tuyệt đỉnh phối hợp với kiếm pháp thượng thừa đánh ra tuyệt chiêu lợi hại giành lấy chiến thắng trong thất bại, họ đều nhận ra đó là chiêu mà Lữ Tứ Nương năm xưa dùng để giết chết Liễu Ân, đều bảo lịch sử lặp lại, thế là buột miệng reo lên.

Đáng tiếc kiếm thuật của Cốc Chi Hoa tuy cao cường, nhưng rốt cuộc nàng vẫn là một thiếu nữ mới xuất đạo, làm sao có thể so với lúc Lữ Tứ Nương giết Liễu Ân?

Lúc Lữ Tứ Nương mới xuất đạo cũng không đấu lại Liễu Ân, phải gần mười năm sau đó, võ công và dược lực của bà ta có tiến bộ, Liễu Ân lại ác đấu với sáu sư huynh của bà ta một trận, công lực hao tổn thì Lữ Tứ Nương mới giết được Liễu Ân. Nay võ công của Cốc Chi Hoa quá lắm cũng chỉ bằng lúc Lữ Tứ Nương mới xuống núi, mà Diệt Pháp hòa thượng đã trải qua mười năm tu luyện, hầu như còn hơn cả sư phụ năm xưa.

Chợt thấy Cốc Chi Hoa lại đánh ra một đóa kiếm hoa từ trên cao đâm xuống, đó là chiêu Lữ Tứ Nương năm xưa đã giết Liễu Ân, Diệt Pháp hòa thượng quát lớn: “Hay lắm!” rồi cả chưởng lẫn gậy đều đánh ra vù một tiếng, chưởng trái vỗ ra một đòn Phách Không chưởng, cây gậy trên tay phải đâm vào huyệt đan điền của Cốc Chi Hoa. Mũi kiếm của Cốc Chi Hoa bị Phách Không chưởng của y đánh lệch qua một bên, người đang lơ lửng trên không, không thể nào né tránh được. Xem ra đã sắp mất mạng bởi thiết trượng của Diệt Pháp hòa thượng.

Tiếng reo lên đã trở thành tiếng kêu hoảng, thế nhưng trong khoảnh khắc cực kỳ nguy hiểm ấy, Cốc Chi Hoa đã giở ra bản lĩnh phi phàm của nàng, chỉ thấy nàng gập người lại, điểm nhẹ trên đầu gậy rồi phóng vọt ra xa mấy trượng, trong các đệ tử của phái Mang Sơn, ngoại trừ vài người như Tào Cẩm Nhi, Dục Trọng Mâu, những người còn lại đều không thấy được, chỉ tưởng rằng Cốc Chi Hoa đã mất mạng bởi thiết trượng của Diệt Pháp hòa thượng, mọi người đều che mặt không dám nhìn.

Kim Thế Di ngửa mặt cười lớn: “Hay lắm, hay lắm! Đây gọi là lấy sở trường của mình để đánh sở đoản của địch! Tào Cẩm Nhi, bà đã thấy rõ chưa?”

Chàng dùng nội công thượng thừa Truyền Âm Nhập Mật gây chấn động lỗ tai Diệt Pháp hòa thượng. Diệt Pháp hòa thượng đã để cho Cốc Chi Hoa thoát được chiêu ấy, trong bụng đang bực bội, lại bị Kim Thế Di chê cười, trong lòng không khỏi rối bời, nhưng y lại sợ chọc giận Kim Thế Di, lúc này lại càng không dám đụng tới chàng, chỉ đành tịnh khí ngưng thần chuyên tâm đối phó với Cốc Chi Hoa.

Nói thì chậm, sự việc lúc ấy diễn ra rất nhanh, chỉ nghe Cốc Chi Hoa thét lên một tiếng lanh lảnh, vung kiếm đánh tới. Cốc Chi Hoa được Kim Thế Di nhắc nhở, vừa xông lên thì kiếm pháp đã thay đổi, chỉ thấy nàng như bươm bướm xuyên hoa, chuồn chuồn giỡn nước, kiếm chiêu vừa phát ra đã thu lại, hơi vươn tới đã lùi ra, nàng cứ dùng thân pháp nhẹ nhàng triển khai kiếm pháp lẹ làng đa biến để du đấu với Diệt Pháp hòa thượng. Lúc này tình hình đã khác trước, không hề nghe có tiếng binh khí chạm nhau, chỉ thấy gậy sắt tung hoành, kiếm quang bay bổng, tà áo của Cốc Chi Hoa phất phới, trong ánh kiếm bóng trượng, chỉ thấy nàng chợt tiến chợt lùi, chiêu kiếm đánh ra hiểm hóc hơn lúc trước.

Khinh công của Cốc Chi Hoa nhỉnh hơn Diệt Pháp hòa thượng một bậc, nếu nàng muốn rút lui thì vẫn có thể được, nhưng nàng vì sự vinh nhục của sư môn cho nên phải quyết đấu với Diệt Pháp hòa thượng, nhưng công lực của Diệt Pháp hòa thượng cao hơn nàng nhiều, tuy thời gian đã kéo dài, Diệt Pháp hòa thượng chỉ cảm thấy hơi nhọc sức còn nàng thì mồ hôi đã tuôn đầm đìa.

Kim Thế Di thầm nhủ: “Lão lừa trọc này không hề huênh hoang tí nào, quả nhiên là có chân tài thực học. Nếu đơn đả độc đấu mình cũng chưa chắc thắng được y.

Giờ đây Cốc Chi Hoa đã núng thế, cứ đánh mãi nữa thì cuối cùng cũng bại, mình đã đến Mang Sơn thì làm sao có thể ngồi yên mà nhìn?”

Nhưng chàng suy đi nghĩ lại mà vẫn chẳng có cách gì giúp Cốc Chi Hoa, nếu dùng độc châm đối phó với hạng người này thì chẳng phí chút sức, nhưng nếu Diệt Pháp hòa thượng phát giác ra, chàng chưa chắc đả thương được y. Hôm nay Cốc Chi Hoa chiến đấu vì sự vinh nhục của sư môn, nếu nàng thắng nhờ sức người ngoài thì cũng chẳng vinh quang gì. Huống chi Kim Thế Di đã bảo hôm nay quyết không màng đến chuyện của phái Mang Sơn, dù cho chàng có ý quyết một trận thư hùng với Diệt Pháp hòa thượng cũng không thể thay thế Cốc Chi Hoa lúc này.

Một hồi sau Cốc Chi Hoa và Diệt Pháp hòa thượng đã đánh nhau hơn trăm chiêu, Diệt Pháp hòa thượng càng đánh càng mạnh, cây gậy sắt triển khai kêu lên vù vù, trong vòng một trượng vuông, Cốc Chi Hoa không thể nào tiến sát tới, nhưng thanh kiếm của nàng múa tít bay bổng, nhanh chóng lẹ làng, cho nên Diệt Pháp cũng không thể nào tiến tới. Những người bên cạnh đều đã thấy họ đang ngang sức nhau, không ai biết rằng Cốc Chi Hoa đang núng thế. Nhưng khi binh khí của họ chạm nhau, Kim Thế Di có thể nghe được kiếm của Cốc Chi Hoa đã yếu đi hai phần, nếu cứ đánh nữa thì chắc chắn sẽ bại. Kim Thế Di chưa nghĩ được cách cho nên trong lòng rất lo. Hai tên võ quan đào mộ vừa bị Kim Thế Di tóm lấy ném đến trước mặt Dực Trọng Mâu, đệ tử phái Mang Sơn đã trói chúng lại thống vẫn chưa rảnh thẩm vấn, lúc này Tào Cẩm Nhi thấy Cốc Chi Hoa và Diệt Pháp hòa thượng đánh nhau đến khó phân thắng bại thì bảo đệ tử đẩy hai tên võ quan tới bàn với Dực Trọng Mâu nên xử lý thế nào. Trong số khách khứa đến dự lễ có một lão anh hùng tên gọi Hoặc Bảo Hiến, ông ta là tổng tiêu đầu của Chấn Nguyên tiêu cục ở Bắc Kinh, Hoặc Bảo Hiến đột nhiên bước tới khẽ nói:

“Hai người này là thống lĩnh rất được trọng dụng trong ngự lâm quân, được hoàng thượng ban cho mặc hoàng mã quải. Người cao tên gọi là Cẩn Thuần, kẻ thấp tên là Tần Đại.”

Khi đang nói thì hai tên võ quan đã bị đẩy tới, Cẩn Thuần trợn mắt, lớn giọng nói: “Tào Cẩm Nhi, ngươi muốn làm gì bọn ta?” Tào Cẩm Nhi tức giận nói: “Nhà ngươi dám đến Mang Sơn làm loạn, đào mồ cuốc mã người ta, tội không thể dung, chưởng hình đệ tử hãy đến đây, đánh bọn chúng ba trăm gậy rồi đuổi xuống núi!”

TầnĐại cả cười nói: “Tào Cẩm Nhi, ngươi thật lớn gan.Trừ phi ngươi dám giết chết bọn ta, nếu không thì tội làm nhục mệnh quan triều đình không những người gánh không nổi mà cả phái Mang Sơn cũng thế! Phái Mang Sơn của ngươi so với chùa Thiếu Lâm thì thế nào? Chùa Thiếu Lâm chống đối triều đình đã bị hỏa thiêu. Nếu không có gan giết ta, ta sẽ báo thù!”

Độc Tý thần ni sáng lập phái Mang Sơn là để phản Thanh phục Minh, Lữ Tứ Nương giết chết hoàng đế Ung Chính, cần gì phải sợ hai tên võ quan? Nhưng phái Mang Sơn đang âm thầm thực hiện công cuộc phản Thanh phục Minh, tuy người trong võ lâm ai cũng biết Lữ Tứ Nương giết chết Ung Chính, nhưng họ cũng chỉ đồn với nhau chứ không dám công khai bàn luận. Còn về phía triều đình thì càng không chịu thừa nhận hoàng đế đã bị người ta ám sát. Chính vì thế cho nên triều đình tuy căm ghét phái Mang Sơn nhưng cũng không dám công nhiên ra tay.

Đệ tử của Chu Tầm là Trình Hạo, trong số đệ tử đời thứ ba của phái Mang Sơn, vị trí của y chỉ kém Tào Cẩm Nhi, Dực Trọng Mâu, y được xếp hàng thứ ba, tính tình của y tương đối thâm trầm, nghe khẩu khí của hai tên võ quan thì thầm kêu không xong, thế nên kẻo Dực Trọng Mâu sang một bên, thì thầm nói: “Ba mươi năm trước Lữ cô cô giết chết Ung Chính, triều đình nhà Thanh đã căm hận phái Mang Sơn chúng ta, chỉ vì chưa có cớ đối phó với chúng ta mà thôi, chúng ta tuy âm thầm phản Thanh, nhưng bề ngoài thì chưa bao giờ làm chuyện giết quan chiếm phủ, không có cớ cho triều đình nắm, nay không thể vì hai tên ngự lâm quân mà công khai đối địch với triều đình.”

Dực Trọng Mâu nghĩ bụng quả đúng như thế, thầm nhủ: “ Dù cho giết hai gã này bịt miệng, ở đây có rất nhiều người, người đông thì miệng nhiều, chuyện này cũng khó che giấu. Giết cũng không được mà thả cũng không xong, vậy phải làm thế nào?”

Tào Cẩm Nhi nghe hai tên võ quan nói thế thì tức nghẹn lời. Nhưng nghĩ lại thì cũng thấy có lý, nhưng làm sao có thể thả bọn chúng, nghĩ ngợi một hồi thì lạnh lùng nói: “Ngươi đến đây quật mồ tiền bối phái Mang Sơn ta, ta chỉ xử lý theo quy củ võ lâm, mặc kệ bọn ngươi có phải là mệnh quan triều đình hay không!” khẩu khí đã mềm mỏng hơn.

Cẩn Thuần cười lạnh nói: “Người đã không thừa nhận bọn ta là đệ tử phái Mang Sơn, ta cũng không thừa nhận ngươi là chưởng môn phái Mang Sơn, ngươi còn lên mặt với bọn ta, dù cho bọn ta là kẻ cường đạo đào trộm mộ, ngươi cũng chỉ có thể đưa bọn ta đến nha môn quan phủ, sao sao có thể tự tiện dùng tư hình? Chả lẽ triều đình không có pháp luật?” y nói một hồi cũng có lý của mình, Tào Cẩm Nhi giận run, đang định mặc kệ tất cả, kêu đệ tử chưởng hình chấp hành

Tần Đại lại cười lạnh: “Tào Cẩm Nhi, ngươi là người có gia sản con cháu, bọn ta mất mạng ngươi cũng khó tránh khỏi họa nhà tan cửa nát, ta chỉ nói có thế mà thôi, ngươi muốn giết muốn mổ thì cứ việc!”

Chồng của Tào Cẩm Nhi là danh môn đại tộc, ông ta không phải là người trong võ lâm, Tần Đại vừa nói đúng tim đen của Tào Cẩm Nhi, dù cho bà ta không tiếc mình cũng phải thương cho chồng. Bà ta liếc mắt nhìn thì thấy Dực Trọng Mâu và Trình Hạo đều có sắc mặt nặng nề, cả hai đều lắc đầu tới bảo bà ta không nên làm càn.

Khi Tào Cẩm Nhi còn đang khó xử, chợt nghe Kim Thế Di cười rộ nói: “Tào Cẩm Nhi, hai tên này là do Kim Thế Di ta bắt, sao bà dám tự tiện xử lý? Muốn tra khảo cũng chưa đến lượt bà!”

Té ra nhân lúc mọi người đang chú ý đến trận ác đấu, Kim Thế Di đã âm thầm bước tới.

Dực Trọng Mâu cả mừng, vội vàng nói: “Kim huynh, huynh cứ việc đem bọn chúng đi!”

Tào Cẩm Nhi tuy tức giận nhưng cũng mừng vì thoát được gánh nặng cho nên chẳng lên tiếng. Kim Thế Di cười ha hả, tóm hai tên võ quan rồi bước tới trước mộ Lữ Tứ Nương, day mặt về phía Diệt Pháp hòa thượng và Cốc Chi Hoa, lúc này Diệt Pháp hòa thượng và Cốc Chi Hoa đã đánh nhau đến hơn hai ba trăm chiêu, Cốc Chi Hoa tuôn mồ hôi ròng ròng, kiếm pháp, cũng không còn lanh lẹ như trước.

Kim Thế Di ném hai tên võ quan xuống đất, ngửa mặt cười lớn ba tiếng, đột nhiên trừng mắt, mặt đầy sát khí khiến cho cả hai đều khiếp đảm.

Tất cả những người đứng trên núi đều đưa mắt nhìn về phía Kim Thế Di, cả Cốc Chi Hoa và Diệt Pháp hòa thượng đang đại chiến cũng phải liếc mắt nhìn.

Chỉ thấy Kim Thế Di đạp chân lên người hai tên võ quan, lớn giọng cười: “Ta không cha mẹ, không thê thiếp, không có sản nghiệp, không con cháu, trên chẳng sợ trời, dưới chẳng sợ đất, hoàng đế Thát Tử của các người nếu rơi vào tay ta cũng bị đánh ba trăm gậy, giết hai tên võ quan nhãi nhép các ngươi cũng chỉ như giết chết hai con kiến mà thôi!” hai tên võ quan hoảng sợ đến nỗi hồn bay phách tán, kêu khổ không ngớt, bọn chúng lấy thân phận võ quan ngự lâm quân có thể uy hiếp được Tào Cẩm Nhi, uy hiếp được tất cả đệ tử phái Mang Sơn, nhưng lọt vào tay Kim Thế Di thì bọn chúng đành bó tay.

Trong hai người thì Cẩn Thuần gan dạ hơn, y đánh liều mắng: “Tên khốn kiếp Độc...Độc... ôi chao, ôi...” y chưa kịp mắng bốn chữ Độc Thủ Phong Cái thì chợt thấy trong người tựa như có hàng trăm hàng ngàn con độc xà đang cắn xé, đau đến nỗi chết đi sống lại, y muốn mình chết đi nhưng không thể nào chết được, tuy đau đớn đến tận gan ruột nhưng đầu óc thì vẫn tỉnh táo!

Kim Thế Di cười nói: “Con chó hai đầu nhà ngươi sao không mắng nữa? Ngươi muốn khích cho ta giết các người? Đâu có dễ như thế? Lão tử sẽ từ từ dày vò các ngươi!” rồi hai chân đạp lớn huyệt quy tàng lên lưng của bọn chúng, đây là cao điểm của kỳ binh bát mạch, Kim Thế Di hơi nhấn ngón chân, hai lên võ quan ấy kêu rú lên tựa như hai con thú hoang bị thương, những người hơi nhát gan đều bịt tai không dám nghe. Hai tên võ quan là ái đồ của Diệt Pháp hòa thượng, Diệt Pháp hòa thượng bảo bọn chúng lên kinh tìm cách chui vào ngự lâm quân để chuẩn bị cho ngày hôm nay, lấy bọn chúng làm công cụ uy hiếp phái Mang Sơn, y nằm mơ cũng không ngờ rằng lại có Kim Thế Di xuất hiện! Lúc đó y nghe hai tên ái đồ kêu rú lên, dù cho y tịnh tu mấy mươi năm nhưng cũng không khỏi bốc lửa giận, tinh thần rối loạn.

Lúc này Cốc Chi Hoa đang ở thế hạ phong, nàng chỉ chuyên tâm đối phó với Diệt Pháp hòa thượng, trong mắt nàng chỉ có cây gậy sắt của Diệt Pháp hòa thượng, tai nàng chỉ lắng nghe phương hướng gậy đánh tới, còn những chuyện khác thì nàng chẳng nghe chẳng thấy. Một người thì phân tâm, một người thì chăm chú, thế là tình thế đã thay đổi, chợt thấy Cốc Chi Hoa thừa thế phản công, kiếm khí như cầu vồng, ánh hàn quang dồn ra, nàng đâm soạt soạt mấy kiếm, đẩy lùi được Diệt Pháp hòa thượng.

Diệt Pháp hòa thượng thầm kêu không xong, dù cho lúc đó y muốn phóng ra đấu với Kim Thế Di cũng không thể, y vội vàng định thần, tiếp tục tung ra sát chiêu. Đôi chân vừa mới đứng vững chỉ nghe Kim Thế Di lại mắng: “ Lữ Tứ Nương là người ta kính ngưỡng nhất trên đời, các ngươi đám đào mộ bà ta, ta phải dạy cho các ngươi một bài học mới được.

Giờ đây ta có hai con đường cho các ngươi chọn lựa, nếu các ngươi không nhận tội thì ta sẽ không ngủ ba ngày ba đêm bầu bạn với các ngươi, đem ra mười tám loại hình phạt để đối phó với các ngươi; nếu các ngươi nhận tội, nghe theo lời ta, hì hì, có lẽ ta sẽ tha cho các ngươi.”

Hai tên võ quan nghe thế thì nghĩ, nếu không nhận tội thì sẽ bị tra tấn ba ngày ba đêm, chỉ bị phạt có một lúc đã không chịu nổi huống chi là ba ngày ba đêm? Thế là cả hai vội vàng nói: “Chúng tôi đã biết lỗi, chúng tôi nhận tội!”

Kim Thế Di nói: “Chỉ nhận lỗi bằng mồm thì không tính. Trước tiên các ngươi phải dập đầu ba cái trước mộ, xin tội trước Lữ Tứ Nương lão tiền bối” thế là hai chân giở lên, buông hai tên võ quan ra, hai tên võ quan lồm cồm bò dậy, lập tức dập đầu như tế sao.

Kim Thế Di cố nhịn cười, nói: “Mỗi người tự tát lên mặt mình hai mươi cái, mỗi cái thì tự mắng mình là kẻ khốn kiếp, là con rùa đen “ hai tên võ quan dẫu sao cũng là thống lĩnh ngự lâm quân, những lời tự sỉ nhục ấy làm sao có thể nói ra? Cả hai còn đang chần chừ thì Kim Thế Di chợt cười lạnh, giơ cây thiết trượng trừng mắt mắng: “Hay lắm, xương của các người rất cứng, không chịu mắng? Ta phải thử xem xương các người cứng đến mức nào?”

Thế rồi chàng làm ra vẻ như đánh xuống, hai tên võ quan ấy vội vàng tát bôm bốp vào mặt mình! Cứ mỗi khi tát một cái thì mắng một tiếng.

Diệt Pháp hòa thượng tức đến nỗi thất khiếu bốc khói, tận mắt thấy ái đồ của mình bị Kim Thế Di lăng nhục như thế trước mặt anh hùng thiên hạ, mặt mũi của kẻ làm thầy như y còn đâu, dù cho có đoạt được chức chưởng môn của phái Mang Sơn nỗi nhục này suốt đời cũng khó rửa!

Cao thủ đang tỉ thí thì làm sao có thể phân tâm? Diệt Pháp hòa thượng vừa mới lấy lại thế cân bằng với Cốc Chi Hoa, lúc này nổi giận, tâm khí nhộn nhạo, Cốc Chi Hoa đột nhiên đánh ra một chiều Bạch Hồng Quán Nhật, ánh hàn quang của cây Sương Hoa Kiếm đổ ra, đâm vào cổ họng của y, Diệt Pháp hòa thượng vội vàng thối lui, chỉ nghe soạt một tiếng, chiếc tăng bào đã bị kiếm của Cốc Chi Hoa đâm xuyên qua. May mà Diệt Pháp hòa thượng có nội công tinh thuần, y vội vàng thu ngực hóp bụng, mũi kiếm chỉ xê xích nửa tấc, không chạm vào da của y nhưng cũng khiến cho y toát mô hôi lạnh!

Lúc này Kim Thế Di lại lớn giọng bảo: “Hai tên khốn kiếp nhà ngươi quả nhiên biết nghe lời, bây giờ thì hãy mắng tiếp, mắng lão lừa trọc kia, chính lão đã dắt các ngươi đến đây, lại muốn làm chưởng môn, khiến cho các ngươi bị hành tội, cho nên các ngươi phải mắng lão, ta thấy ai mắng dữ nhất thì ta sẽ thả kẻ ấy.”

Trong võ lâm, thầy trò cũng như cha con, thầy mà bị học trò mắng là điều ô nhục nhất trên đời! Cẩn Thuần lớn giọng nói: “Kim Thế Di, ngươi hãy giết chết ta đi!”

Kim Thế Di cười lạnh nói: “Hừ, ngươi không chịu mắng? Ngươi muốn chết? Đâu có dễ như thế?” Thế rồi giơ cây gậy đâm mạnh vào huyệt quy tàng trên lưng của y, Cẩn Thuần kêu thảm, chỉ cảm thấy lục phủ ngũ tạng tựa nhúm đảo lộn, đau đến nỗi lăn lộn dưới đất

Kim Thế Di nói: “ Ngươi có mắng hay không?” rồi tiện tay đặt đầu gậy lên lưng Tần Đại, quát: “Còn ngươi, ngươi có mắng không?”

Tần Đại sợ đến nỗi hồn bay phách tán, vội vàng mắng: “Tặc hòa thượng, tặc hòa thượng!”

Cẩn Thuần cũng mắng theo: “Lão lừa trọc, lão lừa trọc!”

Kim Thế Di quát: “Ta chẳng nghe gì cả, mắng lớn lên! Tốt! Hai ngươi hãy thi với nhau, coi ai mắng dữ hơn!”

Kim Thế Di giở cây gậy, trừng mắt nhìn bọn họ, Cẩn Thuần, Tần Đại nào dám không mắng, câu đầu tiên thì còn khó, đến khi mắng xong thì chẳng còn liêm sỉ gì nữa, câu thứ hai, câu thứ ba... cứ thế tuôn ra không ngớt, bao nhiêu chuyện xấu Diệt Pháp hòa thượng đã làm đều tuôn ra từ mồm hai kẻ học trò yêu!

Tần Đại, Cẩn Thuần ngoác mồm mắng lớn một trận, bọn đệ tử phái Mang Sơn thấy khoái trá trong lòng, bọn chúng mắng một tiếng “lão lừa trọc”, đệ tử phái Mang Sơn lại vỗ tay khen một tiếng “Hay!”

Diệt Pháp hòa thượng nghe rất rõ ràng, tức đến nỗi chết đi sống lại, y vừa căm tức Kim Thế Di, vừa hận học trò chẳng ra thể thống gì.

Kim Thế Di đẩy Tần Đại, Cẩn Thuần tiến về phía trước mấy bước, hai tay đặt vào bối tâm của chúng, buộc bọn chúng hướng mặt về phía Diệt Pháp hòa thượng mà mắng, còn chàng thì buông giọng cười lớn: “Hay, hay lắm! Mắng rất hay! Mắng nữa, mắng nữa!”

Diệt Pháp hòa thượng gầm lên như sấm: “Kim Thế Di ngươi làm nhục ta quá thể, hôm nay ngươi không chết thì ta vong!” đang định nhảy ra khỏi vòng chiến để lao vào liều mạng với Kim Thế Di. Tiếng quát chưa ngừng thì chỉ nghe soạt một tiếng, Cốc Chi Hoa phóng vọt người lên không, rồi chém xuống một kiếm, vai của Diệt Pháp hòa thượng đã bị nàng chém bay một mảng thịt, cả xương vai cũng nứt toác! Kim Thế Di thu hai chưởng lại, cười rằng: “Các người mắng rất hay, đã có thể chuộc tội, cút đi!”

Tần Đại, Cẩn Thuần chỉ mong có thế, lấy tay áo che mặt, nào dám nhìn sư phụ, vội vàng co giò chạy mất! Kim Thế Di cười ha hả rồi nhảy ra, hướng về phía Diệt Pháp hòa thượng nói:

“ Ngươi dám lên núi quật mộ Lữ Tứ Nương. Món nợ này ta cũng phải tính với ngươi, nhưng nay ngươi đã bị thương, Kim Thế Di này không bao giờ bắt nạt kẻ đã bị thương, đợi ngươi dưỡng thương xong thì ta sẽ tìm ngươi!”

Diệt Pháp hòa thượng bại trong tay Cốc Chi Hoa, y tức giận đến cùng cực, nhưng y cũng đã bị thương không nhẹ, lúc này đừng nói là đấu với Kim Thế Di, dù cho Cốc Chi Hoa y cũng không đánh lại. Diệt Pháp hòa thượng nghĩ bụng, nếu đánh tiếp thì chỉ e mất mạng già, cho nên chỉ đành nuốt cơn giận. Thế rồi y ném lại mấy câu vớt vát sĩ diện rồi buông gậy lết thết chạy khỏi Mang Sơn.\

Cốc Chi Hoa đút kiếm vào bao, bước tới trước mặt Tào Cẩm Nhi thi lễ rồi bẩm: “Nhờ sư phụ linh thiêng, sư tỷ oai phong, đệ tử Cốc Chi Hoa đã đuổi hung tăng xuống núi, giờ xin đợi lệnh!” thực ra nàng có thể tìm thắng trong bại toàn nhờ Kim Thế Di dùng diệu kế chọc giận Diệt Pháp hòa thượng, tất cả mọi người ai cũng biết đương nhiên Tào Cẩm Nhi cũng hiểu, Cốc Chi Hoa nói như thế cho nó qua là để giữ sĩ diện cho bà ta mà thôi.

Dực Trọng Mâu nói: “Sư tỷ, Cốc Chi Hoa đánh bại hung tăng, có công lớn đối với bổn môn, sư tỷ cũng nên khoan dung đối với nàng, để nàng ở lại sư môn!” Tào Cẩm Nhi hờ hững nói: “Ta có cách xử lý, sư đệ không cần nhiều lời.” Dực Trọng Mâu chỉ đành lùi xuống.

Lúc đó tất cả mọi ánh mắt đều tập trung vào Tào Cẩm Nhi, Tào Cẩm Nhi vừa thẹn vừa giận, bà ta tránh cái lễ vừa rồi của Cốc Chi Hoa, đứng dậy chậm rãi nói:

“Cốc Chi Hoa, hôm nay ngươi đuổi hung tăng, giữ phần mộ cho sư phụ của ngươi, nghĩ đến điều này ta đặc biệt khoan dung cho ngươi, ngươi cứ giữ lấy bảo kiếm và kiếm phổ, nhưng cha của ngươi là kẻ thù của phái Mang Sơn, phái Mang Sơn không thể giữ lại ngươi, ta cho phép ngươi tự lập môn hộ, cũng cho phép ngươi giữ danh phận thầy trò với Lữ cô cô, xuân thu cúng tế, ngươi có thể lên Mang Sơn tảo nhưng ngươi không được dùng danh nghĩa đệ tử phái Mang Sơn ra giang hồ, được, ngươi hãy đi đi!”

Bà ta vừa nói ra câu ấy thì rất nhiều người trong phái Mang Sơn đều cho rằng quá đáng, nhưng mọi người vì sợ uy nghiêm của chưởng môn sư tỷ nên không dám lên tiếng.

Một hồi lâu sau, Trình Hạo bước ra phía trước, chậm rãi nói: “Nay Cốc Chi Hoa đuổi hung tăng, đã lập được công lao rất lớn cho bổn phái, mong sư tỷ khai ân có thể xử lý khoan dung hơn hay không?”

Tào Cẩm Nhi nghiêm mặt, lạnh lùng nói: “Takhông buộc cô ta giao ra kiếm phổ và bảo kiếm, lại cho phép cô ta tự lập môn hộ, trở thành một chi của bổn phái đã là rất khoan dung, còn muốn khai ân như thế nào nữa?

Cha của cô ta là kẻ thù của bổn môn, đệ có dám đảm bảo rằng sau này có việc cô ta không hướng về cha ruột? Nếu sau này xảy ra chuyện như thế, chi bằng giờ đây cứ mời cô ta ra đi?” Tào Cẩm Nhi nói những lời như thế chỉ là xét cho bổn môn, quả thực cũng có lý do, Trình Hạo tuy tin Cốc Chi Hoa không nhận một đại ma đầu như thế làm cha, nhưng ông ta cũng không dám đảm bảo điều đó, cho nên nghe Tào Cẩm Nhi nói như thế chỉ đành im lặng.

Hoắc Bảo Hiến thấy mình có mối giao tình với hai đời phái Mang Sơn, bước ra nói: “Quý phái thanh lý môn hộ, lão hủ là người ngoài lẽ ra không nên nói nhiều.

Nhưng nghĩ lại Lữ Tứ Nương chỉ có một đệ tử này, nếu đuổi truyền nhân của bà ta ra khỏi môn phái, ở dưới suối vàng bà cũng không yên lòng. Tào chưởng môn có thể nghĩ tình Lữ Tứ Nương, cho phép nàng ở lại môn phái?” Hoắc Bảo Hiến tựa như có ý trách Tào Cẩm Nhi.

Tào Cẩm Nhi chợt biến sắc, nói: “Lữ cô cô của tôi bình sinh ghét ác như thù, nếu người biết đã thu nhầm con gái của đại ma đầu Mạnh Thần Thông làm học trò, chỉ e người xử lý càng nghiêm khắc hơn!”.

Hoắc Bảo Hiến cụt hứng, thầm nhủ: “Nếu Lữ Tứ Nương còn sống, bà ta nhất định sẽ không làm như thế.

Huynh đệ kết nghĩa của Hoắc Bảo Hiến là Hứa An Quốc thấy thế thì ngứa mắt, bước lên nói:

“Lúc nãy tôi nghe Liễu Hành Sâm lão đệ nói...Khi Lưỡng Hồ đại hiệp Cốc Chính Minh quyết định nuôi dưỡng con gái của Mạnh Thần Thông, đã từng nói cha mẹ có tội, con trẻ thì vô tội ... Cốc cô nương đã được Lưỡng Hồ đại hiệp nuôi dạy, lại được Lữ Tứ Nương vun bồi mười năm, dù cho có ác căn cũng đã cắt bỏ hết. Huống chi lúc nãy tôi thấy nàng rõ ràng biết mình sức yếu nhưng cũng dám liều mạng tỉ thí với tên hung tăng, quả thực là đệ tử tốt của bổn môn. Mong Tào nữ hiệp suy nghĩ lại có nên thu lệnh lại hay không?”

Hứa An Quốc nói những lời như thế đúng là thông tình đạt lý, Tào Cẩm Nhi cũng hơi động dung, nhưng lúc này bà ta đã khó xuống nước, vẫn nói cứng:

“Tôi cũng mong cô ta là người hiệp nghĩa, nhưng cha của cô ta kẻ thù của bổn môn, chuyện này không phải tầm thường, tôi thà để võ lâm đồng đạo trách nghiêm khắc vô tình, tôi cũng không dám để lại cái họa trong lòng của bổ nmôn!”

Nói đi nói lại, Tào Cẩm Nhi rết cuộc không an lòng. Cốc Chi Hoa rơm rớm nước mắt, đã có vài lần định nói gì đấy nhưng lại thôi. Ngay lúc này, chợt nghe Kim Thế Di cả cười nhảy ra kéo tay Cốc Chi Hoa chạy.

Tào Cẩm Nhi giật mình, chỉ tưởng rằng Kìm Thế Di đến gây sự, nhưng lại thấy Kim Thế Di kéo tay Cốc Chi Hoa ngửa mặt cười lớn: “Đại trượng phu độc lai độc vãng, chẳng cần dựa vào ai! Cốc cô nương, cô nương là bậc cân quắc tu mi, nữ trung hào kiệt, cớ gì phải cam lòng để cho bà già này bắt nạt? Theo tôi thấy, cô nương cứ tự lập môn hộ, đâu cần phải nhờ đến họ?” rồi chàng kẻo tay Cốc Chi Hoa bỏ chạy.

Thực ra nếu Cốc Chi Hoa chịu năn nỉ, theo quy củ võ lâm, trước mộ sư phụ, chỉ cần thề mãi mãi nghe lệnh chưởng môn nhân, quyết không phản bội bổn môn, cấu kết người ngoài, lại thêm tiền bối võ lâm nói vào, Tào Cẩm Nhi sẽ xuống nước, bà ta chắc chắn sẽ thu lệnh lại, cho phép Cốc Chi Hoa ở lại trong môn phái. Cốc Chi Hoa và Hứa An Quốc đều nghe câu cuối cùng của bà ta, khẩu khí đã mềm hơn lúc trước, nhưng Hứa An Quốc rốt cuộc là người ngoài, ông ta không tiện bảo Cốc Chi Hoa làm thế; còn Cốc Chi Hoa, sau khi đã biết được thân thế của mình, tuy nàng đã sớm hạ quyết tâm không nhận Mạnh Thần Thông làm cha, nhưng trước mặt anh hùng thiên hạ, nàng bị Tào Cẩm Nhi bắt nạt, lại còn bảo cha nàng là kẻ địch, nàng cũng có sự ngang ngạnh của một thiếu nữ, làm sao có thể nua được cục giận này? Đó chính là nguyên do Cốc Chi Hoa rơm rớm nước mắt, đã có nhiều lần định lên tiếng nhưng lại thôi.

Lúc này Cốc Chi Hoa thầm nhủ, chuyện đã như thế, có ở lại phái Mang Sơn cũng chẳng có ý nghĩa gì, nàng bị Kim Thế Di kẻo tay áo, bất đồ cũng chạy theo chàng mấy bước, rồi nàng đột nhiên vùng ra, Kim Thế Di kêu lên: “Cô nương còn lưu luyến điều gì? Lúc này không đi còn đợi lúc nào?”

Cốc Chi Hoa bước tới trước mặt Tào Cẩm Nhi, dập đầu ba cái, lớn giọng nói: “Tiểu muội bái biệt “

Tào Cẩm Nhi bị Kim Thế Di mắng là bà già thối tha, tức đến phát run, nhưng nghĩ lại Kim Thế Di lúc nãy đã xử trí hai tên võ quan giúp mình, xóa bỏ mối họa cho phái Mang Sơn, lại cũng chính nhờ chàng chọc giận Diệt Pháp hòa thượng, Cốc Chi Hoa mới giành được thắng trong bại, giữ sĩ diện của đệ tử phái Mang Sơn, dù không đáp tạ chàng, nhưng cũng không thể kêu các đệ tử vây đánh chàng. Vả lại Tào Cẩm Nhi cũng không thể mắng tay đôi với Kim Thế Di. Vì thế bà ta cũng chẳng làm gì được chàng.

Lúc này Cốc Chi Hoa bái biệt, bà ta nghiêng người tránh qua một bên, không nhận lễ của Cốc Chi Hoa, lạnh lùng nói:

“Từ rày về sau, tôi không phải là sư tỷ của cô nương, cô nương cũng chẳng phải là sư muội của tôi, cô nương thích đi theo ai thì tôi cũng mặc!”

Kim Thế Di cười lạnh: “Tào Cẩm Nhi, bà coi thường tôi, tôi càng coi thường bà. Nếu không nể mặt Lữ Tứ Nương, hôm nay bà đã nếm một trận gậy của tôi!”

Tào Cẩm Nhi tức đến nỗi thất khiếu bốc khói, vung cây gậy đầu rồng, chưa kịp lên tiếng thì Kim Thế Di đã trợn mắt nạt: “Bà dám!”

Tào Cẩm Nhi quả thực cũng hơi sợ chàng, thấy ánh mắt chàng lộ hung quang thì thất kinh, bất đồ thối lui một bước, chẳng nói ra lời, Kim Thế Di cười ha hả rồi kẻo Cốc Chi Hoa xuống núi.

Đó chính là: “ Độc lai độc vãng chẳng sợ ai? Là trong là đục tự mình biết.”
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Vân Hải Ngọc Cung Duyên - Lương Vũ Sinh

Postby tuvi » 06 Feb 2023

Hồi Thứ Mười Hai
Tiếc thay tri giao đời khó kiếm...Đau lòng thân thế lệ rơi nhiều

Hai người đi một đoạn, Kim Thế Di thấy Cốc Chi Hoa rầu rĩ ủ ê, cười rằng: “Không ở lại phái Mang Sơn thì có hề gì? Nếu là cô nương, tôi chẳng mong có một sư tỷ như thế?”

Cốc Chi Hoa nói: “Tuy Tào sư tỷ dồn ép người, nhưng cũng coi như một nữ hiệp chính phái, lúc nãy huynh có hơi quá đáng với bà ta.”

Kim Thế Di cười nói: “Chính vì lúc nãy tôi thấy ngứa mắt nên mới trút giận thay cho cô nương. Cô nương có để ý bộ dạng của bà ta lúc nãy không?” Kim Thế Di lại diễn tả lại điệu bộ của Tào Cẩm Nhi, Cốc Chi Hoa vẫn mày chau ủ dột.

Kim Thế Di lại khuyên rằng: “Hôm nay cô nương đánh thắng Diệt Pháp hòa thượng, giữ danh dự cho phái Mang Sơn, ngoại trừ Tào Cẩm Nhi, tất cả đồng môn đều mang ơn cô nương, tuy cô nương bị Tào Cẩm Nhi đuổi ra khỏi sư môn nhưng tình hình hôm nay lại khác hẳn bị đuổi vì phản thầy, bởi vậy có ai dám coi thường cô nương!”

Cốc Chi Hoa thở dài: “Từ rày về sau, mỗi năm tôi chỉ có thể thăm mộ sư phụ hai lần.

Tôi đã hứa sẽ ở bên cạnh sư phụ ba năm, đến nay vẫn chưa mãn.”

Kim Thế Di cười rằng: “Chỉ cần trong lòng cô nương có sư phụ, bắt chước người khi còn sống, hành hiệp trượng nghĩa trên giang hồ, há chẳng phải hơn cả giữ bên mộ của người hay sao?”

Cốc Chi Hoa như đang ngẫm nghĩ điều gì đó, nàng đi một đoạn thì thở dài: “Tuy là nói như thế, đáng tiếc tôi không nghe được lời dạy của sư phụ nữa.”

Nàng ngừng một lát rồi lại hỏi: “Tôi nghe Dực sư huynh nói, trước đây các người đã đại náo Mạnh gia trang, huynh... huynh có giao thủ với Mạnh... Mạnh Thần Thông không?”

Mạnh Thần Thông là kẻ thù của phái Mang Sơn, lại là cha ruột của nàng, nàng không nỡ xem ông ta là đại ma đầu như mọi người, nhưng lại không muốn coi ông ta là con ruột, cho nên chỉ có cách gọi thẳng tên ra.

Kim Thế Di nói: “Đã từng giao thủ, theo võ công của ông ta mà luận, chỉ e dù đồng môn ba đời của phái Mang Sơn cùng xông lên cũng chưa chắc là đối thủ của ông ta!”

Sắc mặt Cốc Chi Hoa trắng bệt, vốn là nàng đang nghĩ nếu có một ngày nào đó phái Mang Sơn đến tìm ông ta trả thù, lúc đó sẽ không ít người chết trong tay Mạnh Thần Thông, vậy nàng sẽ giúp đồng môn hay giúp cha ruột của mình? Nàng ngửa mặt nhìn trời, muốn khóc nhưng lại không rơi nước mắt, chỉ hận mình là con gái của Mạnh Thần Thông.

Lẽ nào Kim Thế Di không biết tâm sự của nàng, chỉ là không muốn làm cho nàng xúc động, thấy nàng cứ rầu rĩ mãi thì không nỡ lòng, chợt nắm chặt hai tay nàng, lớn giọng nói: “Cô nương là cô nương, y là y, ai trong nay trong, ai đục này đục, sen mọc ở bùn lầy nhưng là quân tử trong các loài hoa, uổng cho cô nương là đệ tử của Lữ Tứ Nương, lẽ nào cô nương không hiểu điều này?”

Cốc Chi Hoa run rẩy nói: “Những người khác sẽ nghĩ gì?” Kim Thế Di cả cười: “ Làm người chỉ mong ngửa lên không thẹn với trời, cúi xuống không thẹn với đất, cần gì phải để ý người bên cạnh nói gì?

Người ta gọi tôi là Độc Thủ Phong Cái, coi tôi là đại ma đầu chẳng chuyện ác gì không làm, nhưng tôi tự thấy chưa bao giờ giết người, cũng chưa bao giờ làm chuyện đại gian đại ác, tôi vẫn hành sự theo ý của mình, chẳng cần để ý người khác coi thường hay coi trọng tôi. Tôi bị người ta coi là kẻ ma đầu cũng chẳng sao, huống chi cô nương chỉ là con gái của ma đầu? Trước đây cô nương từng khuyên tôi, mong tôi là một đứa trẻ mới sinh, thôi được, hôm nay tôi sẽ lấy lời ấy khuyên cô nương, cô nương cứ xem cha mẹ đã chết sớm, ngay từ khi mới ra đời cô nương cũng đã chết, vậy Mạnh Thần Thông có liên quan gì đến cô nương!” những lời nói ấy rất triệt để, ngoại trừ Kim Thế Di, người khác chẳng thể nào nói ra được. Cốc Chi Hoa khóc như mưa, nhưng trong lòng đã thoải mái hơn lúc trước.

Những lời này tựa như đã dồn nén trong lòng chàng bấy lâu nay, đột nhiên đổ ra cuồn cuộn như nước lũ, giọng nói càng lúc càng lớn, rõ ràng là chàng cũng đang kích động, nói xong thì hai người bất giác nhích lại gần nhau hơn. Chỉ nghe giọng nói của y vang vọng trong sơn cốc không ngớt.

Cốc Chi Hoa chợt có cảm giác ngọt dịu trong lòng thầm nhủ: “Ai cũng bảo Kim Thế Di là kẻ khó gần, xem ra những kẻ này không hiểu y. Ai cũng nghĩ y kiêu ngạo, nhưng không ngờ lại chân thành dễ mến đến thế!”

Kim Thế Di mỉm cười, nói: “Tôi bình sinh thích cười đùa bỡn cợt, chỉ có hôm nay mới nói lời nghiêm túc”. Trong lòng chàng cũng có cảm giác kỳ diệu, cả bản thân chàng cũng lấy làm lạ vì hông hiểu tại sao có thể nói được với Cốc Chi Hoa những lời như thế.

Cốc Chi Hoa khẽ nói: “Vậy ư? Suốt đời huynh chẳng có bằng hữu sao?”

Hình bóng Lý Tâm Mai hiện lên trong lòng chàng, chàng nghĩ ngơi rồi nói: “Có thể nói không một người bằng hữu nào như cô nương. Tất cả những người tôi quen biết nếu không căm ghét tôi, coi tôi là quái vật thì lại thương xót tôi, coi tôi như một đứa trẻ đáng thương.”

Trong lòng chàng, người coi chàng như “đứa trẻ đáng thương” bao gồm cả Băng Xuyên thiên nữ.

Cốc Chi Hoa nói: “Nhưng có một người huynh không quen biết, người đó không căm ghét huynh, cũng không tội nghiệp cho huynh mà chỉ coi huynh là một viên ngọc thô, tuy hành vi quái gỡ nhưng vẫn có thế mài dũa.”

Kim Thế Di mở to mắt hỏi: “Người đó là ai?”

Cốc Chi Hoa nói: “Đó là sư phụ của tôi.” Kim Thế Di mỉm cười: “Không đúng, tôi chưa bao giờ gặp Lữ Tứ Nương, tôi chỉ biết người qua lời kể của sư phụ. Khi lớn lên, tôi càng cảm thấy sư phụ cô nương là người rất thân thuộc.”

Cốc Chi Hoa nói: “Tại sao?”

Kim Thế Di nói: “ Bởi vì cô nương là đệ tử duy nhất của người, đã được người nuôi dạy. Cô nương tốt bụng lại rộng lượng, có thể chịu đựng được tất cả mọi điều. Thầy nào thì trò nấy, cho nên sư phụ tôi kể về Lữ Tứ Nương, tôi mới biết cô nương là học trò của người, bởi vậy trước kia tôi mới gặp mặt cô nương, cũng cảm thấy cô nương đã là bằng hữu của mình. Nay thấy cô nương hành sự thì lại càng hiểu hơn sư phụ của cô nương.”

Cốc Chi Hoa đỏ ửng mặt, nói: “Sao huynh có thể đem tôi so với sư phụ, tôi làm sao có thể bằng được người.”

Nàng ngập ngừng rồi lại mỉm cười nói: “Không ngờ huynh cũng là người biết lấy lòng người khác.”

Kim Thế Di nghiêm mặt nói: “ Không phải lấy lòng. Có lẽ hôm nay cô nương không bằng sư phụ, nhưng sau này chắc chắn sẽ là một Lữ Tứ Nương.”

Ánh mắt hai người chạm nhau, Cốc Chi Hoa ngượng ngùng quay đầu đi. Kim Thế Di nhớ lại một chuyện, chợt hỏi:
“Trước khi sư phụ của cô nương qua đời, bảo cônương để ý đến tôi, tôi nhớ cô nương hình như đã nói như thế.”

Cốc Chi Hoa nói: “Đúng thế, sư phụ của tôi luôn nhớ đến Độc Long tôn giả, bởi vậy khi còn sống người cũng để ý đến hành vi của huynh, hy vọng huynh có thể kế thừa võ học của sư phụ mình, lập ra một phái ở Trung Nguyên, để cho võ công của sư phụ huynh không thất truyền.”

Kim Thế Di mừng rỡ nói: “Vậy tôi muốn hỏi cô nương một chuyện nữa, cô nương có chịu nói thực cho tôi biết không?”

Cốc Chi Hoa thấy chàng nói trịnh trọng, hơi ngạc nhiên cười: “ Huynh muốn hỏi chuyện gì? Nêu huynh không tin tôi thì không cần phải hỏi nữa.”

Kim Thế Di nói: “Không phải là tin hay không, chỉ là chuyện này có liên quan đến một bí mật lớn trong võ lâm, tôi ngại rằng dù cô nương biết, có lẽ vì điều cấm kị nào đó cho nên không chịu nói ra.

Cốc Chi Hoa ngập ngừng một lát thì mỉm cười: “Huynh cứ hỏi đi.” Kim Thế Di nói: “Lần đầu tiên chúng ta gặp mặt, cô nương bảo mượn tay Giang Nam gởi cho tôi một món quà!” Cốc Chi Hoa nói: “Đúng thế. Huynh có nhận món quà này chưa?”

Kim Thế Di nói: “Cô nương có biết món quà ấy là gì không?”

Cốc Chi Hoa nói: “Tôi đoán rằng đó là một bức tranh.”

Kim Thế Di nói: “Trước đây cô nương có thấy bức tranh này không?”

Cốc Chi Hoa nói: “Chưa từng thấy.”

“Vậy cô nương tặng món quà ấy cũng rất kỳ lạ, cả bản thân cũng chưa thấy mà lại đem tặng cho người khác.”

Cốc Chi Hoa nói: “Tôi chỉ là mượn hoa dâng Phật mà thôi.”

Kim Thế Di đã giấu nỗi thắc mắc này trong lòng rất lâu, lúc này mới có cơ hội hỏi: “Làm sao cô nương biết trong người Tàng Linh thượng nhân có bức tranh kỳ lạ ấy?”

Cốc Chi Hoa nói: “ Kỳ lạ như thế nào?”

Kim Thế Di lấy ra cho nàng xem, rồi hỏi: “ Cô nương hãy xem ngọn núi lửa ở giữa biển khơi, có một người giương cung bắn vào miệng núi lửa, đó là ý gì?”

Cốc Chi Hoa nói: “Tôi đã nói chưa từng thấy bức tranh này, tôi làm sao biết ý nghĩa của nó?” Kim Thế Di rất thất vọng, ngẩn ra nhìn nàng.

Cốc Chi Hoa cười: “ Tôi tuy không biết ý nghĩa của bức tranh này, nhưng tôi lại biết lai lịch của nó. Huynh rất thông minh, đã có thể phá giải được huyền cơ của bức tranh, biết được nó có liên quan đến một bí mật trong võ lâm.”

Kim Thế Di nói: “Chính Tàng Linh thượng nhân đã tiết lộ như thế.”

Cốc Chi Hoa ngạc nhiên: “Sao Tàng Linh thượng nhân lại tiết lộ cho huynh biết bức tranh này?”

Kim Thế Di nói: “Y không nhắc bức tranh này, y chỉ mời tôi cùng đi tìm bí kíp võ công của Kiều Bắc Minh để lại trên hải đảo, y bảo rằng trên đời này ngoài y, không ai biết bí mật này, sau khi y chết, Giang Nam đã phát hiện bức tranh, cho nên mới đưa cho tôi. Tôi nghi ngờ hải đảo này là nơi sư phụ của tôi đã từng đến.”

Cốc Chi Hoa nói: “Được, huynh hãy nói trước những điều huynh biết.”

Rồi Kim Thế Di lần lượt kể lại cuộc nói chuyện với Tàng Linh thượng nhân cùng với chuyện Độc Long tôn giả bảo chàng không được lên trên đảo có núi lửa chơi lúc còn bé, chàng chỉ giấu một chuyện quan trọng nhất, đó chính là thân thế của Lệ Thắng Nam. Lệ Thắng Nam là hậu duệ của Lệ Kháng Thiên, học trò của Kiều Bắc Minh, tính ra hiện nay chỉ có Lệ Thắng Nam có liên quan đến Kiều Bắc Minh

Kim Thế Di không phải cố ý giấu giếm Cốc Chi Hoa mà bởi vì chàng đã hứa với Lệ Thắng Nam, quyết không tiết lộ thân thế của nàng. Từ sau khi gặp gỡ Lệ Thắng Nam, không biết thế nào mà mỗi khi nhớ đến nàng thì Kim Thế Di tựa như có một nỗi e dè ẩn chứa trong lòng, cho nên chàng cố nén không nhớ đến nàng. Thế nhưng khi kể với Cốc Chi Hoa, hình bóng của Lệ Thắng Nam lại hiện ra rõ ràng trong lòng y.

Cốc Chi Hoa im lặng nghe chàng nói, chợt phát giác vẻ mặt chàng có hơi khác lạ, Cốc Chi Hoa rất ngạc nhiên, ngay lúc này Kim Thê Di đã ngừng lại.



Cốc Chi Hoa nói: “Có phải huynh muốn đến hải đảo tìm bí kíp võ công của Kiều Bắc Minh nhưng lại sợ phải không?” Kim Thế Di nói: “Đúng thế. Tôi nghĩ trên hải đảo chắc chắn có chuyện gì kỳ quái, nếu không sư phụ của tôi đã không nói với tôi như thế.”

Thật ra chàng không phải sợ điều này mà là bởi vì chàng nhớ đến Lệ Thắng Nam, Lệ Thắng Nam tựa như một cái bóng đeo bám chàng, chàng sợ cái bóng ấy.

Cốc Chi Hoa nói: “Xem ra trên hòn đảo ấy chắc chắn có chứa bí kíp võ công của Kiều Bắc Minh. Lúc nãy huynh hỏi tôi, tôi làm sao biết Tàng Linh thượng nhân có bức tranh, bây giờ tôi có thể nói cho huynh biết, một ngày trước khi qua đời, sư phụ đã nói cho tôi biết, người cũng có lệnh lấy bức tranh này lại tặng cho huynh. Ngày hôm đó vừa khéo Tàng Linh thượng nhân bị huynh đả thương, chết ở trong sơn động, còn huynh thì chưa phát hiện y có giấu bí mật này, cho nên tôi đã nhờ Giang Nam gởi cho huynh.”

Kim Thế Di ngạc nhiên nói: “Sao người lại biết?” Cốc Chi Hoa nói: “Lệnh sư Độc Long tôn giả trước kia cũng từng nói với người về hải đảo ấy, ông bảo đã từng phát hiện trên đảo có bút tích của Kiều Bắc Minh, lệnh sư không biết Kiều Bắc Minh là người như thế nào, rắn độc quái vật lại hay xuất hiện, tuy lệnh sư không sợ nhưng cũng không muốn mạo hiểm. Sau đó người hỏi sư phụ về Kiều Bắc Minh, sư phụ tôi đã đoán đúng, đó chính là một đại ma đầu ba trăm năm trước, có thể ông ta đã để lại võ công trên hải đảo.”

Kim Thế Di nghĩ bụng: “E rằng trên hải đảo không chỉ có rắn độc mãnh thú, nếu không sư phụ đã chẳng nói với mình như thế. Không biết người phát hiện ra chuyện gì quái dị mà cả Lữ Tứ Nương cũng không nói.”

Cốc Chi Hoa tiếp tục nói: “Nhiều năm trôi qua, lệnh sư cũng qua đời. Cho đến ba năm trước, sư phụ tôi đến Thiên Sơn thăm Đường Hiểu Lan. Đường Kinh Thiên và Băng Xuyên thiên nữ cũng ở đấy, nhắc lại chuyện này Băng Xuyên thiên nữ nhớ lại một chuyện, cha của nàng là Quế Hoa Sinh năm xưa vì tìm võ công tuyệt thế, cho nên đã đi sang nước khác, kết mối duyên lành với công chúa của nước Nề Bách Nhĩ, kết giao với võ sĩ của các nước, có một võ sĩ Ba Tư nói vợ người rằng, một bậc tôn sư võ học ở Tây Tạng đã từng đến Ba Tư, mua một bức tranh của một người Ba Tư có gốc gác Trung Quốc, nghe nói viễn tổ của người ấy là một hải khách Trung Quốc, ông ta có một cuốn nhật ký kể lại chuyện đã gặp một kỳ nhân tên gọi Kiều Bắc Minh ở một hải đảo, người Ba Tư này không hiểu chữ Trung Quốc, song vẫn còn nhớ cái tên Kiều Bắc Minh. Võ sĩ Ba Tư ấy biết Tàng Linh thượng nhân là một bậc tông sư võ học, nghi ngờ ông ta mua bức tranh có liên quan đến võ công, mà Quế Hoa Sinh cũng là người Trung Quốc, cho nên đã kể chuyện này cho Quế Hoa Sinh biết, Quế Hoa Sinh cũng không biết Kiều Bắc Minh là ai, định rằng khi nào về trung thổ sẽ hỏi Lữ Tứ Nương. Đáng tiếc Quế Hoa Sinh suốt đời không gặp được Lữ Tứ Nương, có điều con gái ông ta là Băng Xuyên thiên nữ lại có cơ hội.”

Kim Thế Di mới vỡ lẽ ra, nói: “Té ra câu chuyện lại rắc rối như thế, sư phụ của cô nương nghe Băng Xuyên thiên nữ kể lại câu chuyện của cha nàng mới biết bí mật của Kiều Bắc Minh nằm trong tay Tàng Linh thượng nhân.”

Cốc Chi Hoa nói: “Sau khi sư phụ tôi từ Thiên Sơn trở về thì biết không còn sống được bao lâu, người muốn sau khi người qua đời tôi phải để ý hai người, một người là huynh, một người là Tàng Linh thượng nhân. Người bảo võ công của sư phụ huynh rất độc đáo, rất nhiều môn phái lớn ở Trung Nguyên không bằng, đáng tiếc người không có được tâm pháp nội công chính tông, cho nên cuối cùng đi vào con đường tẩu hỏa nhập ma. Sư phụ tôi đọc rộng hiểu nhiều, người đã xem ghi chép của các bậc tiền bối võ lâm, biết Kiều Bắc Minh là nhân vật võ công cao cường nhất trong tà phái từ thời Minh đến nay, năm xưa khi giao thủ với đại hiệp Trương Đan Phong lần thứ hai, ông ta đã luyện Tu la Âm Sát Công đến tầng thứ tám, bắt đầu đi vào cảnh giới của tầng thứ chín.” Kim Thế Di nói: “Theo tôi biết, giờ đây Mạnh Thần Thông chỉ mới luyện được tầng thứ bảy, còn kém xa Kiều Bắc Minh năm xưa. Mạnh Thần Thông cũng lo rằng sẽ bị tẩu hỏa nhập ma.”

Cốc Chi Hoa nói: “Theo kinh điển Mật Tông Tây Tạng ghi lại, sau khi luyện Tu la Âm Sát Công đến tầng thứ tám sẽ bị tẩu hỏa nhập ma. Nhưng Kiều Bắc Minh năm xưa đã bước vào cảnh giới của tầng thứ chín, lại còn có thể giao thủ với Trương Đan Phong, sau đó sống trên hải đảo gần một trăm tuổi mới chết, từ đó mà đoán, quả thực ông ta có thể hợp nhất nội công của hai phái chính tà, tiêu trừ mầm họa tẩu hỏa nhập ma, đó là vấn đề mà lệnh sư phải giải quyết. Cho nên sư phụ bảo tôi sau khi người chết phải tìm huynh, cho huynh biết bí mật trong bức tranh của Tàng Linh thượng nhân, hy vọng huynh có thể lấy được bí kíp võ lâm của Kiều Bắc Minh.”

Kim Thế Di nói: “ Bây giờ thì tôi đã hiểu, tháng trước Côn Luân tản nhân, Tang Mộc Lão và Kim Nhật đuổi theo Tàng Linh thương nhân đến huyện Đông Bình, cô nương gặp ba ma đầu ấy, lúc đó chắc là cô nương đã phát hiện dấu vết của tôi và Tàng Linh thượng nhân?”

Cốc Chi Hoa nói: “Đúng thế, tôi vẫn âm thầm đi theo hai người, vì các người đều phải đối phó cường địch cho nên không để ý đến tôi. Sau đó Tàng Linh thượng nhân chết, Giang Nam đã trao bức bản đồ và quyển nhật ký của người hải khách cho huynh, tôi mới không để ý đến nữa.”

Kim Thế Di cười nói: “ Lúc đó cô nương chưa cho tôi biết tường tận, có lẽ vẫn chưa tin tôi, chắc là muốn xem thử tính tình tôi như thế nào, nếu quả là một người tốt thì mới chịu nói ra có đúng không?”

Cốc Chi Hoa cười nói: “Huynh chỉ nói đúng một nửa, tôi đoán thế nào huynh cũng lên Mang Sơn cúng tế sư phụ tôi.”

Kim Thế Di cũng cười: “Cô nương cũng chỉ đoán đúng một nửa, tôi lên Mang Sơn ngoại trừ cúng tế cho sư phụ cô nương, còn muốn gặp cô nương.”

Ánh mắt hai người lại chạm nhau, sóng lòng xao xuyến, nước thu tràn trề, đúng là mấy phen gặp nhau, cuối cùng trở thành tri kỷ. Kim Thế Di giật mình, chợt nói: “Cốc cô nương tính đi đâu?”

Cốc Chi Hoa nói: “Tôi cũng chưa biết.” Kim Thế Di nói: “ Cô nương có hứng cỡi gió đạp sóng không? Chúng ta sẽ ra biển.”

Cốc Chi Hoa nói: “Có phải huynh muốn cùng tôi đến hòn đảo của Kiều Bắc Minh không?” Kim Thế Di nói: “Đúng thế.” Cốc Chi Hoa nói: “Chỉ có hai người chúng ta?”

Cốc Chì Hoa tuy là nữ kiệt trong võ lâm, tính tình phóng khoáng, nhưng ngẫm lại cô nam quả nữ ngồi cùng một thuyền ra biển, quả không tiện lắm, nàng muốn từ chối cho nên mới hỏi như thế. Kim Thế Di nghe nàng hỏi như thế thì tựa như sấm nổ giữa trời xanh, chợt hình bóng của Lệ Thắng Nam hiện lên trong đầu chàng. Kim Thế Di rối bời lòng dạ, ngẩng đầu lên thì thấy phía trước có một tòa trà đình, chàng lặng lẽ bước vào trong trà đình.

Cốc Chi Hoa rất lấy làm lạ, bước theo y vào trong, cười nói: “Sao huynh chẳng nói lời nào?” Kim Thế Di nói: “ Tôi đã khát, muốn kiếm chút rượu uống.”

Loại trà đình ven đường thường vẫn bán kèm rượu, Kim Thế Di vừa ngồi xuống đã bảo tên tiểu nhị đem ra ba cân bạch can, Cốc Chi Hoa nói: “Tôi không uống rượu.”

Rồi kêu một bình trà, nàng thấy Kim Thế Di cứ uống hết bát này tới bát khác, trong chớp mắt đã uống cạn ba cân bạch can, chàng lại gọi tiểu nhị đem thêm ba cân nữa.

Tên tiểu nhị chưa bao giờ thấy ai uống rượu như thế, mở to mắt nói: “Khách quan, ngài uống thật là mau!”

Cốc Chi Hoa rầu rĩ, thầm nhủ: “Kim Thế Di là người thông minh, y thấy mình hỏi như thế thì đã đoán rằng mình không chịu đi cùng y ra biển cho nên trong lòng rầu rĩ. Sao y không nghĩ cho mình, tuy người trong võ lâm không phân biệt lễ tiết, nhưng cô nam quả nữ thì làm sao có thể đi cùng thuyền?”

Nàng nào biết Kim Thế Di nghĩ đến cuộc hẹn với Lệ Thắng Nam, chàng đã hứa cùng Lệ Thắng Nam ra biển, làm sao có thể đi cùng Cốc Chi Hoa? Dù Cốc Chi Hoa không ngại nhưng chàng đã hứa không tiết lộ bí mật của Lệ Thắng Nam, từ đó có thể biết nàng sẽ không cho mình dắt theo một cô gái lạ.

Tuy tính tình của Kim Thế Di phóng khoáng, nhưng không phải là một người thô lỗ. Vậy tại sao chàng chưa suy nghĩ mà đã hẹn với Cốc Chi Hoa? Tình cảm là một cái gì đó rất lạ lùng. Kim Thế Di ngày đêm mong nhớ Cốc Chi Hoa, giờ đây gặp nhau thì cảm thấy rất hợp nhau, khi chàng cảm nhận được tình cảm của nàng thì dù chuyện lớn bằng trời cũng quên bẵng, chàng làm sao có thể nhớ đến Lệ Thắng Nam? Nhưng chàng vừa mới nói ra thì hình bóng của Lệ Thắng Nam hiện ra rõ ràng trong lòng chàng, khiến chàng hối hận cũng không kịp. Cốc Chi Hoa không rõ chuyện trước kia của chàng, làm sao biết trong lòng chàng rất phức tạp?

Kim Thế Di uống một mạch bảy tám bát rượu, buồn bã nói: “Cô nương không đi cũng được, có lẽ tôi sẽ hẹn người khác.”

Cốc Chi Hoa nói: “Đi tìm bí kíp võ công tuyệt thế thì làm sao có thể tùy tiện hẹn ai? Huynh không sợ trên hải đảo có quái vật sao?”

Lúc này Cốc Chi Hoa đã quyết định, chỉ cần Kim Thế Di nói thêm một tiếng, nàng sẽ chấp nhận ngay.

Nhưng Kim Thế Di thì lại tỏ vẻ rầu rĩ, cúi đầu uống một bát rượu nữa, nói: “ Tôi không sợ nơi ấy, tôi chỉ sợ...”

Cốc Chi Hoa nói: “ Sợ gì?”

Kim Thế Di buột miệng: “Tôi sợ bản thân tôi.”

Câu nói ấy kỳ lạ vô cùng, Cốc Chi Hoa cười rằng: “Câu nói của huynh nghe bí hiểm thật!”

Kim Thế Di bưng chén rượu, nói: “Uống!” rồi tu ừng ực, Cốc Chi Hoa cười: “Chẳng phải tôi đã bảo không uống hay sao?” rồi nàng liếc nhìn Kim Thế Di, dịu dàng nói: “Huynh cũng nên uống ít lại!”

Kim Thế Di thấy lòng rối bời, y mượn bài Giới tửu từ của nhà thơ thời Tống là Tân Khí Tật rồi đổi vài chữ, cao giọng hát: “Cùng người uống rượu, lão tử sáng nay, buông lơi hình hài! Suốt năm chưa uống, nay mừng được say, thở như sấm dậy! Đừng nói lưu linh, từ xưa đến nay mấy ai say khướt?...”

Cốc Chi Hoa nói: “Kim đại ca, huynh say rồi?”

Kim Thế Di nói: “Uống rượu gặp người tri kỷ ngàn ly vẫn còn ít, chỉ có mấy cân bạch can này làm sao say nổi? Tiểu nhị, đem thêm ba cân nữa!”

Cốc Chi Hoa nói: “Kim đại ca, nghe lời tôi, đừng uống nữa!”

Kim Thế Di say đến nỗi mắt lờ đờ, chàng ngẩng đầu nhìn lên thì thấy ở ngoài đường có một đám người, chàng vừa nhìn thì giật mình: “Bọn người ấy chẳng phải là Chung Triển và Võ Định Cầu sao?” khi nhìn kỹ lại thì quả nhiên là họ, Kim Thế Di chợt vỗ bàn đứng dậy, cười ha hả: “Đi khắp nơi mà chẳng gặp, té ra hai tên tiểu tử ở đây! Cốc cô nương, đợi tôi một lát, tôi sẽ quay lại uống tiếp!”

Cốc Chi Hoa vội vàng nói: “Kim đại ca, đại ca lại làm gì thế?” Kim Thế Di nói: “Tôi phải hỏi hai tên tiểu tử một việc, cô nương cứ mặc tôi, tôi quyết chẳng làm càn!”

Té ra hai người Chung, Võ cũng đến Mang Sơn, ba người đi cùng họ, một người tên là Lư Đạo Lân, một người là Lâm Sinh, đều là đệ tử của Tào Nhân Phụ và Lộ Dân Đảm, lúc nãy khi Trình Hạo điểm danh, nói với Tào Cẩm Nhi rằng có hai đồng môn thông báo đến nhưng vẫn chưa thấy mặt là họ. Một người nữa là đệ tử tục gia của phái Thiếu Lâm, tên gọi Khâu Nguyên Giáp, y là cao đồ của giám tự chùa Thiếu Lâm Bản Không thượng nhân. Hai người Chung, Võ gặp họ trên đường, được biết hôm nay là ngày Độc Tý thần ni đã qua đời năm mươi ngày, nhớ lại mối giao tình của sư môn liền cùng họ đến dự.

Cả bọn đang hào hứng, chợt nghe tiếng quát: “Hai tên tiểu tử nhà ngươi đứng lại cho ta!”

Võ Định Cầu ngẩng đầu lên nhìn, y thấy Kim Thế Di đứng chặn giữa đường thì kinh hoảng, Chung Triển thì trấn tĩnh hơn, vội vàng rút kiếm ra khỏi vỏ, trầm giọng quát: “Con đường này chẳng phải của ngươi, tại sao ngươi không cho bọn ta qua?”

Kim Thế Di cười nói: “Hai tên tiểu tử nhà ngươi vẫn chưa no đòn.

Trước mặt ta mà dám vung đao múa kiếm? Ta muốn hỏi các người một chuyện, nói rõ ràng thì cứ việc đi qua.”

Võ Định Cầu vừa mới trấn tĩnh, cậy đông người, lớn giọng mắng: “Dưới chân núi Mang Sơn nào để cho ngươi ngang ngược? Ngươi có tránh ra hay không?” y trịnh trọng nói ra mấy chữ “dưới chân núi Mang Sơn” thật ra là có ý lôi kéo hai đệ tử của phái Mang Sơn, nhưng bọn họ không biết Kim Thế Di là ai, cũng không biết y và hai người Chung, Võ có xích mích gì cho nên tạm lui qua một bên, nghe rõ rồi tính tiếp.

Kim Thế Di cười lớn nói: “Dưới chân núi Mang Sơn thì thế nào? Ta có chuyện muốn hỏi ngươi, người dám không nói, ta sẽ đánh gãy cặp giò của ngươi, khiến cho ngươi phải bò lên Mang Sơn.”

Lâm Sinh nhịn không được, nói: “Các hạ là bằng hữu phương nào? Có chuyện gì muốn hỏi thì cứ nói, cần gì phải ngang tàng như thế?”

Kim Thế Di trợn mắt, nói: “Ngươi không nên biết tên ta thì hơn. Ta có việc muốn hỏi chúng, ai bảo chúng không nói mà lại mắng ta ngang ngược?”

Khi Kim Thế Di nói thì nước bọt văng tung tóe, hơi rượu phả ra nồng nặc, Lâm Sinh thối lui một bước, thầm nhủ: “Chắc gã này đã uống say nên làm càn.”

Bèn nói: “Chung đại ca, hãy nghe thử y hỏi gì? Dưới chân núi Mang Sơn, tiểu đệ quyết không khoanh tay đứng nhìn để cho các người gặp phiền phức.”

Chung Triển vội vàng nháy mắt với Võ Định Cầu, rồi bước lên nói: “Kim tiên sinh có gì chỉ giáo?” y nhớ lại trong trận ác chiến ở Mạnh gia trang, Kim Thế Di từng ngầm giúp cho nên mới nói khách sáo như thế.

Kim Thế Di nói: “Hừ, ngươi biết điều hơn tên tiểu tử họ Võ kia, ta hỏi ngươi, Lý Tâm Mai đâu? Nàng đã đi đâu? Tại sao không cùng đi với ngươi?”

Chung Triển nói: “Ồ, té ra tiên sinh muốn hỏi sư muội của tôi? Nàng... nàng...”

Kim Thế Di nói: “Nàng thế nào?”

Chung Triển nói: “Tôi... tôi không biết.”

Kim Thế Di nói: “ Xem bộ dạng ngươi cũng thật thà, nhưng lại cứ vờ vịt trước mặt ta! Sau khi Tâm Mai thoát khỏi Mạnh gia trang, chẳng phải đã đến trấn Tân An tìm các ngươi sao? Lẽ nào lại không gặp?”

Rồi lại thầm nhủ: “ Nếu Chung Triển không nói dối, chắc chắn Lệ Thắng Nam đã nói dối.”

Sau khi đại náo Mạnh gia trang, Lệ Thắng Nam lấy danh nghĩa của Lý Tâm Mai lừa Kim Thế Di đến núi Thái Hàng, khi Kim Thế Di chất vấn nàng, nàng mới bảo chính nàng cố ý dụ Lý Tâm Mai đi, chỉ cho Lý Tâm Mai đến gặp Chung Triển, cho nên Kim Thế Di vừa gặp Chung Triển và Võ Định Cầu thì đã truy vấn.

Lệ Thắng Nam không nói dối, Lý Tâm Mai quả nhiên tìm được hai người Chung, Võ, Chung Triển vốn muốn cho nàng biết tin tức của Kim Thế Di, nhưng vì Võ Định Cầu căm tức Kim Thế Di cho nên cố ý bịa chuyện, bảo rằng Kim Thế Di đã bị Tu la Âm Sát Công đả thương, xem ra sắp không giữ được mạng. Võ Định Cầu muốn cắt đứt tia hy vọng của Lý Tâm Mai, muốn nàng trở về Thiên Sơn, Lý Tâm Mai tưởng là thật, đau lòng vô cùng, nhưng nàng không nhận được tin tức xác thực thì làm sao có thể cam lòng, trái lại đã lập tức rời khỏi sư huynh, lại đi tìm tung tích của Kim Thế Di.

Chung Triển khuyên nàng không được, đuổi theo thì không kịp, sau đó mới trách VõĐịnh Cầu một hồi.

Nhưng trước mặt Kim Thế Dì, Chung Triển làm sao nói thật, Kim Thế Di thấy y ấp úng thì nghi ngờ, quát hỏi: “Tên tiểu tử nhà ngươi té ra cũng giả vờ thật thà, Lý Tâm Mai ở đâu, ngươi có nói hay không?”

Võ Định Cầu ỷ có người phái Mang Sơn thì lớn gan, cười lạnh nói: “Kim Thế Di, Lý Tâm Mai là người thế nào của ngươi? Tại sao ngươi cứ hỏi tung tích của nàng?”

Kim Thế Di cả giận, sắp phát tác thì nghe Võ Định Cầu lạnh lùng nói: “Cho ngươi biết, Lý Tâm Mai đã là vị hôn thê của tiểu sư thúc ta, người không cần quan tâm nữa?”

Chung Triển đỏ ửng mặt, nhưng trước mặt người ngoài thì không tiện trách Võ Định Cầu. Từ lâu Chung Triển đã yêu mến nàng tiểu sư muội này, vả lại Đường Hiểu Lan cũng đã đề thân với Phùng Lâm, nhưng Lý Tâm Mai vẫn chưa chịu mà thôi.

Kim Thế Di ngẩn người ra, rồi buột miệng mắng: “Tên tiểu tử nhà người tuổi trẻ mà đầu óc toàn những ý nghĩ đen tối, Tâm Mai và ta như huynh muội, ta biết nàng đang tìm ta, tại sao ta không thế tìm nàng?”

Võ Định Cầu cười lạnh: “Huynh muội cái gì, Tâm Mai tuổi trẻ ngây thơ, ngươi rõ ràng là muốn gạt nàng. Nếu ngươi muốn tìm nàng thì tại sao không đến Thiên Sơn? Giờ đây nàng đi lại một mình trên giang hồ, ngươi lại muốn tìm nàng?”

Trước kia Kim Thế Di không chịu tìm Lý Tâm Mai là muốn né tránh tình cảm của nàng, nhưng từ sau khi y nghe hai người Chung, Võ nói chuyện ở trong khách sạn, biết Lý Tâm Mai thề rằng phải gặp y rồi mới chịu lấy người khác, mối tình si của nàng khiến cho chàng không thể tưởng tượng nổi, lúc đó chàng mới biết né tránh cũng không phải là cách. Huống chi chàng là người dễ xúc động, nghĩ đến tấm tình si của Lý Tâm Mai, chàng cũng không nỡ mãi né tránh nàng, cho nên sau khi chàng biết Lệ Thắng Nam lừa mình thì mới nổi giận, trước khi chưa lên Mang Sơn, chàng đã tốn mấy ngày đi chung quanh trấn Tân An tìm Lý Tâm Mai.

Nhưng giờ đây Võ Định Cầu tựa như muốn nói chàng có ý xấu đối với Lý Tâm Mai, thấy nàng đi lại một mình trên giang hồ, không có cha mẹ bên cạnh thì tìm cách quyến rũ nàng. Kim Thế Di nghe thế thì làm sao không giận?

Ba người đi cùng Chung, Võ chợt nghe Võ Định Cầu kêu ba tiếng “Kim Thế Di “, đều thất kinh, Lâm Sinh hỏi: “Võ huynh, đây có phải là Kim Thế Di mà người trên giang hồ gọi là Độc Thủ Phong Cái không?” theo y nghĩ, Kim Thế Di tên tuổi lẫy lừng như thế ít nhất cũng phải là một người từ trung niên trở lên, nhưng không ngờ chàng chỉ là một người trẻ khoảng hai mươi tuổi.

Võ Định Cầu nói: “Chính là Độc Thủ Phong Cái, cho nên mới ngang ngược như thế. Hừ, hừ! Kim Thế Di, ở nơi khác thì người có thể làm càn, ở dưới chân núi Mang Sơn chẳng phải là chỗ cho ngươi ngang ngược! Ngươi đừng nên hỏi đến vị hôn thê của người khác! Bọn ta đã trả lời xong, ngươi có nhường đường hay chưa?”

Kim Thế Di trợn mắt, đột nhiên cười rộ rồi trừng mắt nhìn Võ Định Cầu: “Miệng chó không mọc được ngà voi, có phải ngươi muốn nếm bùn nữa không?”

Võ Định Cầu thối lui ba bước, y cậy có người chống lưng nên cả gan mắng rằng: “Ngươi dám!”

Kim Thế Di cười ha hả, nói: “Được, hôm nay thấy ngươi lên Mang Sơn viếng mộ Lữ Tứ Nương lão tiền bối, ta không cho ngươi nếm bùn, mời ngươi uống vài ngụm rượu “ rồi ngầm vận nội công há mồm phun ra, mấy cân rượu trong bụng bắn vọt ra, Võ Định Cầu vừa mới mở miệng định mắng thì thấy rượu bay tới, y vội vàng ngậm miệng lại, tai mắt mũi miệng đều bị rượu phun vào, Võ Định Cầu lại không phải là người biết uống rượu, y thấy vừa cay vừa thối, nghĩ lại rượu này là do Kim Thế Di phun ra, thế là ruột gan đảo lộn, cả cơm đêm qua vừa mới ăn cũng nôn ra.

Kim Thế Di ngửa mặt cười lớn, Võ Định Cầu làm sao có thể nén được cơn giận, thế là rút ra thanh trường kiếm múa ra một mảng kiếm hoa, đâm về phía Kim Thế Di, Chung Triển cũng bị rượu văng đầy mặt, nhưng không thê thảm như Võ Định Cầu, y cũng nổi giận đánh ra một chiêu Ưng Kích Trường Không.

Chung Triển đứng tương đối gần Kim Thế Di, kiếm rút ra sau nhưng đến trước, Kim Thế Di biết y đã có được vài phần hỏa hầu Thiên Sơn kiếm pháp, chàng không dám quá khinh địch, thế rồi mới vung cây gậy, sử dụng năm phần chân lực, đánh bật cây trường kiếm của Chung Triển ra, rồi chàng thuận tay múa gậy một vòng, cây thanh đồng kiếm của Võ Định Cầu đâm thẳng vào trong vòng gậy, bị cây gậy cuốn một cái, thanh kiếm vuột khỏi tay.

Chung Triển vội vàng sử dụng một chiêu Đại Tu Di kiếm thức, chặn lại cho Võ Định Cầu, Võ Định Cầu phóng người vọt lên, tiếp lấy thanh kiếm rồi kêu oai oái: “Độc Thủ Phong Cái, hôm nay không phải ngươi chết thì ta vong”

Kim Thế Di cười nói: “Hai tên nhãi nhép các ngươi có thể làm gì được ta? Ta không muốn lấy mạng của các ngươi!” rồi cây gậy chỉ đông đánh tây, chỉ nam đánh bắc, đầu gậy toàn đâm vào các đại huyệt nhưng lại cố ý nương tay, khiến cho cả hai người Chung, Võ đều xoay mòng mòng. Lư Đạo Lân thấy thế thì giở cây thiết tỳ bà vội vàng chạy lên giúp sức.

Lư Đạo Lân là đại đệ tử của Tào Nhân Phụ, cùng một tông với Tào Cẩm Nhi, trong số các đệ tử đời thứ ba của phái Mang Sơn, võ công của y chỉ kém Tào Cẩm Nhi, Dực Trọng Mâu, được xét đứng hàng thứ ba, vốn là y không muốn thắng nhờ số đông, nhưng giờ đây hai người Chung, Võ đang gặp nguy hiểm, y lại không biết Kim Thế Di chỉ muốn đùa cợt, không có ý lấy mạng hai người Chung, Võ. Y chỉ thấy Kim Thế Di vung cây gậy đâm vào các yếu huyệt của hai người này thì làm sao không kinh hãi, lòng nhủ thầm:

“Người này là đệ tử của phái Thiên Sơn, nếu bị thương trong tay Kim Thế Di, phái Mang Sơn biết ăn nói thế nào với người ta? Tiếng xấu của Kim Thê Di đồn khắp giang hồ, nay mình cùng đệ tử phái Thiên Sơn liên thủ đối phó với y, chắc võ lâm đồng đạo cũng chẳng chê cười.”

Kim Thế Di thấy Lư Đạo Lân tay ôm cây thiết tỳ bà nhảy vào vòng chiến thì quát: “ Không liên quan đến chuyện của phái Mang Sơn các người, hãy mau lui ra!”

Lư Đạo Lân lớn giọng nói: “Hai người bọn họ lên núi Mang Sơn bái tế tổ sư của chúng tôi, làm sao không liên quan đến ta? Độc Thủ Phong Cái, ngươi ngang ngược bá đạo, ở nơi khác ta có thể mặc kệ, nhưng ở dưới chân núi Mang Sơn thì ta không thể đứng yên mà nhìn được?”

Kim Thế Di cả cười: “ Được, ngươi cứ việc xen vào!” thế rồi chàng vung cây gậy điểm thẳng vào ngực của Lư Đạo Lân, Lư Đạo Lân không ngờ chàng ra tay nhanh như thế, thế là trong lúc vội vàng đã sử dụng thân pháp Thiết Bản Kiều, ngửa người ra phía sau, chỉ nghe bình một tiếng, trượng phong quét qua mặt, Kim Thế Di cười: “Hay, trong số các đệ tử của phái Mang Sơn, coi như ngươi cũng khá lắm, nhưng ở chiêu này ngươi không nên dùng thân pháp Thiết Bản Kiều, thân pháp Thiết Bản Kiều tuy có hạ bàn vững chắc, nhưng xoay chuyển không linh hoạt, nếu ta nửa đường biến chiêu, đổi trên làm dưới, chỉ cần quét nhẹ đuôi gậy thì đầu của ngươi họ chẳng phải vỡ nát hay sao?”

Kim Thế Di ôn tồn chỉ bảo tựa như đối với kẻ hậu bối nhưng tay thì vẫn không lơi lỏng, khi chàng đang nói chuyện thì hai người Chung, Võ đã mấy lần gặp nguy.

Lư Đạo Lân giận đến nỗi đỏ ửng mặt, tay gãy cây tỳ bà kêu lên ba tiếng, ba mảnh thấu cất đinh chợt bắn ra, trong bụng của cây thiết tỳ bà có giấu ám khí, đó là binh khí độc môn của Tào Nhân Phụ, rất nổi tiếng trên giang hồ Sau khi Tào Cẩm Nhi trở thành chưởng môn nhân, cảm thấy dùng cây thiết tỳ bà có chứa ám khí này không hợp với thân phận lãnh tụ một phái, lại thêm nội công của bà ta dần dần tinh thuần, tự tin không cần dùng đến ám khí nữa cho nên truyền tuyệt kỹ Thiết tỳ bà cho sư đệ, Lư Đạo Lân đã khổ luyện công phu Thiết tỳ bà hơn mười năm, đã hiểu được sự ảo diệu của món binh khí này.

Lúc này, y đứng cách Kim Thế Di khoảng một trượng, nghĩ bụng không có lý nào lại không trúng, ba mảnh thấu cốt đinh bay ra theo hình chữ phẩm, chia nhau bắn vào ba huyệt đạo của Kim Thế Di, Kim Thế Di lại phải dùng cây gậy sắt đối phó với kiếm của hai người Võ, Chung, theo lý thì rất khó né tránh, không ngờ ba mảnh thấu cốt đinh sắp đánh vào người Kim Thế Di, Kim Thế Di chợt phun phì một tiếng, ba mảnh thấu cất đinh tự nhiên rơi xuống, Lư Đạo Lân ngẩn người ra, chợt nhớ lại một môn tuyệt kỹ nổi danh giang hồ của Độc Thủ Phong Cái mà không khỏi toát mồ hôi lạnh!

Chỉ nghe Kim Thế Di cười lớn ba tiếng, rồi nói: “Ta khuyên ngươi đừng nên dùng ám khí nữa. Nếu ngươi cứ tiếp tục dùng, ta nổi hửng cũng trả lại bằng ám khí, ngươi sẽ càng khổ hơn, lúc nãy ta chỉ giở trò vặt, đánh rơi ba mảnh thấu cố đinh của ngươi mà thôi, lần tới nếu ngươi ném ám khí ra, phi châm của ta sẽ bắn vào thất khiếu của nguơi “ té ra Kim Thế Di đã phun phi châm ra, đánh rơi ba mảnh thấu cất đinh của Lư Đạo Lân.

Lư Đạo Lân nhớ lại trên giang hồ đồn rằng Kim Thế Di có thể phun độc châm, sợ đến nỗi toát mồ hôi, thầm nhủ: “Trước kia mình chỉ nghe họ thổi phồng, nay tận mắt thấy quả nhiên danh đồn không ngoa.”

Thử nghĩ xem, phi châm rất nhẹ, nhưng lại có thể đánh rơi thấu cốt đinh, khoan hãy nói loại phi châm này rất nhỏ bé khó đề phòng, chỉ cần có công lực đủ phóng phi châm ra cũng đã đến mức kinh thế hãi tựa Lư Dạo Lân nghe Kim Thế Di dọa như thế quả nhiê n không dám dùng ám khí nữa.

Công phu Thiết tỳ bà của Tào Nhân Phụ, ngoại trừ âm thầm phát ra ám khí, bao gồm tám cách đánh, đó là vỗ, đánh, khóa, bắt, bắn, bạt, đè, đẩy, cũng là một loại vũ khí lợi hại, Lư Đạo Lân múa cây thiết tỳ bà kêu lên vun vút, Thiên Sơn kiếm pháp của Chung Triển và Võ Định Cầu tuy còn bị hạn chế bởi tuổi tác, hỏa hầu hay công lực vẫn chưa đủ nhưng cũng đã tinh diệu phi phàm, cả ba người liên thủ tuy chưa thể ngang bằng với Kim Thế Di nhưng cũng không đến nỗi thất bại thê thảm.

Đang lúc kịch chiến Kim Thế Di chợt buông giọng cười: “Phái Mang Sơn các người quả thật không biết tốt xấu, chưởng môn sư tỷ của các ngươi đã nợ ta một mối ân tình, vẫn còn chưa đáp tạ, nay ngươi lại dùng ám khí đối phó với ta, ta nể mặt Lữ Tứ Nương không tính toán với ngươi, nay càng nghĩ càng tức, ta sẽ tạm thời phạt nhẹ, đánh vào mông ngươi đấy!” thế là chàng vung cây gậy bổ xuống đầu Lư Đạo Lân, Lư Đạo Lân buộc phải khom người né tránh, Kim Thế Di chỉ chờ có thế, chỉ nghe bốp một tiếng, cây gậy đã giáng xuống mông của y, Lư Đạo Lân kêu lên oai oái.

Lâm Sinh thấy sư huynh bị nhục thì cả giận phóng lên, y là đệ tử đắc ý của Lộ Dân Đảm, trong Giang Nam thất hiệp Lộ Dân Đảm phong lưu tiêu sái, tề danh cùng với Bạch Thái Quan, Lâm Sinh rất giống sư phụ của y năm xưa, chỉ thấy y cả giận, vung một cây ngọc tiêu triển khai thủ pháp điểm huyệt thượng thừa, võ công của y xếp hàng thứ tư trong đệ tử đời thứ ba phái Mang Sơn, y vừa nhảy vào vòng chiến thì thực lực tăng lên.

Kim Thế Di cười nói: “Hay, đánh cũng khá lắm, còn một người nữa sao không vẫn chưa xông lên?” người đó chính là Khâu Nguyên Giáp, đệ tử của phái Thiếu Lâm. Y thấy mình là khách, vốn chẳng nên nhiều chuyện, nay đệ tử của hai phái Thiên Sơn và Mang Sơn đều không phải là đối thủ của Kim Thế Di, Kim Thế Di lại chỉ đích danh y, dù y có thâm trầm đến mức nào cũng khó chịu đựng nổi, thế rồi mới nói:

“ Kim Thế Di, nay ngươi đã cuồng vọng như thế, ta sẽ cho người biết thủ đoạn của đệ tử phái Thiếu Lâm.”

Y không dùng binh khí mà phóng người vọt thẳng lên đấm một quyền về phía Kim Thế Di.

Đó chính là: Chống lại quần hào chẳng sợ chi, dưới núi Mang Sơn oai thần lộ.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Vân Hải Ngọc Cung Duyên - Lương Vũ Sinh

Postby tuvi » 06 Feb 2023

Hồi Thứ Mười Ba
Ý nguyện báo đều như biển lớn...Tri âm tìm khắp được bao người

Võ nghệ phái Thiếu Lâm vang lừng Võ lâm, nhất là La Hán ngũ hành thần quyền, bộ quyền thuật này do Đạt Ma sư tổ sáng tạo, hàng ngàn năm nay đã được các bậc cao tăng không ngừng cải tiến, uy lực mạnh không gì bằng. Chỉ thấy Khâu Nguyên Giáp phóng vọt người lên, quyền phong đã giáng tới trước mặt, Kim Thế Di dùng tự quyết chữ dẫn, thuận tay dắt qua, nguồn lực đạo ấy đột nhiên ngừng lại, Kim Thế Di muốn dùng thủ pháp “mượn lực đánh lực” nhưng không thành công, trái lại đã bị y biến chiêu, cánh tay vung tới, nắm đấm tạt ngang qua. Kim Thế Di vung ra một đòn Tề mi cước, bốp một tiếng, cổ tay của Khâu Nguyên Giáp bị mũi giày của chàng đá trúng, lòng bàn chân của Kim Thế Di cũng trúng một quyền, hai bên đều phóng vọt người ra một trường. Những chiêu ấy chỉ diễn ra trong khoảnh khắc điện chớp lửa xẹt, quả là sống chết chỉ cách nhau trong gang tấc, nhưng Khâu Nguyên Giáp chỉ có đối phó với Kim Thế Di, mà Kim Thế Di trong khi tung cú đá về phía Khâu Nguyên Giáp lại phải liên tục đẩy lui đòn tấn công của bốn người kia, chàng dùng gậy sắt đánh bạt trường kiếm của hai người Chung, Võ, né tránh cây ngọc tiêu của Lâm Sinh, lại dùng Phách không chưởng đánh lui Lư Đạo Lân.

Thấy Kim Thế Di rốt cuộc đã trúng một quyền của Khâu Nguyên Giáp, bốn người kia phấn chấn kêu lên: “Khâu huynh đừng buông tha cho yên hai người chia nhau ra chiếm ở năm phương vị đông tây năm bắc và trung ương, bao vây Kim Thế Di vào ở giửa"

Lư Đạo Lân quát: “Kim Thế Di, nay ngươi đã biết dưới chân núi Mang Sơn ngươi không thể làm càn chưa? Ngươi có chịu nhận tội không!”

Kim Thế Di cười rằng: “ Được, ngươi chờ đấy, ta sẽ nhận tội với ngươi” nói chưa dứt thì đã nhảy phắt tới trước mặt Lư Dạo Lân, cây gậy bổ xuống bốp một tiếng, ở trán Lư Đạo Lân lập tức sưng vù, Lư Đạo Lân đau đến nỗi nước mắt chảy ròng ròng, vội vàng tránh sang một bên.

Kim Thế Di cả cười nói: “Ta đã xin lỗi ngươi, ngươi có dám nhận lễ của ta nữa không!”... rồi y xoay người, tay trái vươn ra chụp vào xương vai của Võ Định Cầu, quát: “Ngươi có chịu nói tin tức chưa?”

Chung Triển vội vàng chạy đến giải cứu, cây thanh cương kiếm đánh ra một chiêu Lý Quảng xạ thạch, đâm vào lưng Kim Thế Di, Kim Thế Di cười: “Ngươi cũng phải bị trừng phạt!” rồi chàng trở tay lại đánh ra một chưởng, chưởng thế phiêu hốt bất định. Chung Triển đánh một kiếm bị hụt, khi nghiêng người qua thì bị trúng một chưởng của y, Kim Thế Di muốn tát vào mặt y, nhưng kết quả đã đánh trúng vai của y, chàng cười lớn: “Được, may mà ngươi né tránh nhanh, nể mặt sư muội của ngươi, ta gởi lại cái tát ấy.”

Ngay lúc này, Khâu Nguyên Giáp cũng đấm tới một quyền, Kim Thế Di tóm lấy quyền của y bóp mạnh, hóa giải hết mãnh lực của y, may mà cây ngọc tiêu của Lâm Sinh đến kịp thời, Kim Thế Di lại buông tay ra đẩy về phía trước, Khâu Nguyên Giáp loạng choạng lao bổ về phía trước, khi đứng vững lại mới biết lúc nãy Kim Thế Di vẫn chưa giở hết bản lĩnh, Lâm Sinh biết lợi hại, đâm một tiêu không trúng thì lập tức thối lui, dù y nhảy lui thật nhanh nhưng cũng bị Kim Thế Di tóm trúng tà áo, tà áo rách toạc.

Trong khoảnh khắc, Kim Thế Di liên tục tấn công năm người, Chung Triển kêu lên: “Chúng ta cùng sánh vai tiến tới, đừng rời nhau”... rồi y thi triển Đại tu di kiếm thức trong Thiên Sơn kiếm pháp, che chắn cho cả năm người đến nỗi gió mưa không lọt. Vừa rồi cả năm người chia ra đứng chiếm năm phương vị, tuy có lợi cho tấn công nhưng lại thiếu sức phòng thủ, thân pháp Kim Thế Di nhanh hơn họ, đột nhiên đánh về một phía thì những người còn lại không ứng cứu kịp, cũng chẳng khác gì với đơn đả độc đấu cho nên rất thua thiệt. Giờ đây năm người đứng sát lại với nhau tạo thành một trận trường xà, tập trung sức mạnh của cả năm người phòng ngự, thực lực tăng lên, lại thêm Tu di kiếm pháp là loại kiếm pháp phòng ngự tinh diệu nhất trong Thiên Sơn kiếm pháp, rất hợp để đối phó với người công lực cao cường hơn mình, trong màn kiếm quang phòng hộ của Chung Triển, ai nay đều thi triển tuyệt kỷ, Võ Định Cầu dùng kiếm pháp quỷ dị tìm sơ hở, hễ có cơ hội là đâm ra một kiếm; cây thiết tỳ bà của Lư Đạo Lân càng đánh ra những chiêu số đặc biệt hơn; cây ngọc tiêu của Lâm Sinh chuyên điểm huyệt, tuy điểm không trúng Kim Thế Di nhưng Kim Thế Di cũng không thể không e ngại, còn người có công lực cao cường nhất là Khâu Nguyên Giáp thì dùng La Hán ngũ hành thần quyền phụ với Chung Triển phòng thủ, quyền phong quét đến thì cát chạy đá bay, Kim Thế Di dùng đơn chưởng địch hai quyền của y, dùng gậy chặn bốn món binh khí của bốn người còn lại cho nên đôi bên cân sức nhau.

Nhưng cả năm người bày trận thế trường xà có lợi mà cũng có hại, điểm lợi là phòng thủ vững chắc, khuyết điểm chỉ là có thể phòng thủ, không dễ đàng tấn công, bởi vì không ai dám rời khỏi đồng bọn tiến lên tấn công, cứ như thế cả năm người chỉ có chống đỡ.

Kim Thế Di nổi dậy sát cơ, cười ha hả: “Trận này thật thú vị” lập tức dốc hết bản lĩnh ra, cây gậy chỉ đông đánh tây, chỉ nam đánh bắc rồi chàng lao tới như cơn gió, tấn công ào ạt khiến cho cả năm người đều kinh hoảng.

Trong năm người, Lâm Sinh lanh lẹ nhất, vừa thấy thế bại đã lộ thì đã nghĩ ra cách thoát thân, y liếc nhìn, vốn đã nghĩ ra đường rút lui, nhưng lại liếc thấy trên sườn núi có một thiếu nữ hông đeo trường kiếm. Lâm Sinh giật mình, nhủ thầm:

“Mình nghe Dục sư huynh nói, Lữ Tứ Nương sư thúc có một đệ tử quan môn, thanh kiếm của nàng ta trông rất đặc biệt, hình như là cây Sương hoa kiếm của Lữ sư thúc. Chả lẽ nàng là truyền nhân của Lữ sư thúc?”

Lâm Sinh đoán không sai, nàng ta chính là Cốc Chi Hoa. Cốc Chi Hoa lo cho Kim Thế Di, cho nên tuy chàng bảo nàng đợi trong trà đình nhưng nàng cũng chạy ra xem. Nàng đã nghe tất cả những lời Võ Định Cầu và Kim Thế Di nói. Lữ Tứ Nương và Phùng Lâm rất thân thiết nhau, nàng đương nhiên biết Lý Tâm Mai là con gái của Phùng Lâm, thầm nhủ: “Té ra Kim Thế Di nói có chuyện quan trọng chính là dò hỏi tin tức của Lý Tâm Mai. Tại sao trước kia y không nhắc với mình?”

Cốc Chi Hoa đang ngẫm nghĩ, thế rồi lại tự trách mình: “Kim Thế Di là gì của ngươi? Tại sao y phải cho ngươi biết mọi chuyện của y? Ngươi và y chẳng qua chỉ mới gặp mặt hai lần.”

Thế nhưng cổ ngữ có câu: “Bạch đầu như tân, khoảnh cái như cố.”

Ý nghĩa của câu này là có những người quen biết cả đời, nhưng vẫn như người bạn mới quen chưa hiểu gì nhau, có những người chỉ gặp gỡ nhau trên đường, dừng xe lại chào hỏi, thế nhưng đã trở thành bạn bè; tình nghĩa giữa đôi bên không thể tính bằng thời gian. Huống chi sư môn của họ lại có mối quan hệ sâu sắc, trước khi Cốc Chi Hoa quen Kim Thế Di, đã sớm biết lai lịch của chàng, mà trong lòng Kim Thế Di Lữ Tứ Nương là người y sùng bái. Hơn nữa trải qua trận sóng gió ở Mang Sơn, tuy hai người họ gặp mặt không nhiều nhưng mối giao tình thì không tầm thường.

Lâm Sinh nhác thấy Cốc Chi Hoa đứng lấp ló dưới gốc cây, đoán rằng nàng là đệ tử của Lữ Tứ Nương, thế là đánh hờ ra một chiêu, nhảy ra khỏi vòng chiến, Kim Thế Di cười ha hả: “Chuyện này cũng không liên quan đến phái Mang Sơn nhà ngươi, thông minh thì hãy chạy cho mau.”

Chung Triển và Võ Định Cầu thầm trách Lâm Sinh không nghĩa khí, Lư Đạo Lân chưa từng gặp Cốc Chi Hoa, cũng cảm thấy ngạc nhiên. Kim Thế Di càng đánh gấp tới, trận thế của bọn họ càng lung lay.

Cốc Chi Hoa đang suy nghĩ chợt thấy có một người chạy về hướng mình thì ngạc nhiên, Lâm Sinh chạy tới trước mặt nàng, thở hổn hển nói: “Có phải Cốc sư muội đó không? Tôi là đệ tử đời thứ ba trong phái Mang Sơn tên gọi Lâm Sinh.”

Cốc Chi Hoa nói: “Ô, té ra là cao đồ của Lộ sư bá.” Định gọi y một tiếng “Lâm sư huynh”, chợt nhớ lại giờ đây mình đã bị chưởng môn sư tỷ đuổi ra khỏi sư môn, thế là tiu nghỉu, chỉ hờ hững nói: “Đúng thế, tôi là Cốc Chi Hoa.”.

Lâm Sinh cảm thấy hơi ngạc nhiên, lớn giọng hỏi: “Sư muội, muội có thấy gì đấy không? Người của phái Mang Sơn chúng ta đang bị Kim Thế Di bắt nạt, nếu bị y đánh bại dưới núi Mang Sơn, mặt mũi chúng ta biết để đi đâu.”

Cốc Chi Hoa nói: “Ồ, tôi đã thấy.”

Lâm Sinh tưởng nàng không biết Kim Thế Di là ai, vội vàng giải thích: “Đó là tên ma đầu trên giang hồ gọi là Độc thủ phong cái. Y muốn cướp vị hôn thê của một người họ Chung phái Thiên Sơn, lại còn dám chặn đường không cho y lên Mang Sơn. Chuyện này chúng ta không nhúng tay cũng được. Nhưng đáng ghét là tên Kim Thế Di này cũng đánh cả đệ tử của phái Mang Sơn chúng ta, phàm là đồng môn thì phái rút đao tương trợ, sư muội, muội hãy mau đến.”

Ngay lúc này, chỉ thấy tiếng binh khí giao nhau không ngớt bên tai, Kim Thế Di chợt vung cây gậy lên, hai cây trường kiếm của Võ Định Cầu và Chung Triển bị y đánh bay lên không trung, Lư Đạo Lân thất kinh né tránh nhưng đã không kịp nữa

Kim Thế Di cười rồi nói: “Cây thiết tỳ bà của ngươi rất ngộ nghĩnh, cho ta xem thử.”

Rồi y vung tay chụp được cái cần đàn của Lư Đạo Lân, gõ lên cây gậy sắt kêu keng một tiếng, Kim Thế Di nói: “Tốt lắm, tốt lắm, thanh âm nghe rất êm dịu.” Thế là món binh khí của Lư Đạo Lân bị Kim Thế Di gõ một cái cong vòng.

Khâu Nguyên Giáp thấy tình thế nguy cấp thì xông lên đấm ra hai quyền, quyền trái là chiêu Thương long xuất hải, quyền phải là chiêu Bão hổ quy sơn, đó là những chiêu số liều mạng, Kim Thế Di cười rằng: “Đánh cả buổi ngươi cũng đã mệt, hãy nghỉ ngơi một lát!”

Khâu Nguyên Giáp liều mạng, chàng lại có ý đùa cợt, đột nhiên lướt tới trước mặt Khâu Nguyên Giáp, chụp vào nách của y, Khâu Nguyên Giáp không được Chung Triển yểm hộ, thế là không thể né tránh cú chụp ấy được, y chỉ cảm thấy ngứa ngáy vô cùng, toàn thân mềm nhũn, không nén được tiếng cười ngã xuống đất.

Trong trận này đệ tử của ba phái Thiên Sơn, Mang Sơn và Thiếu Lâm đều thua liểng xiểng, Kim Thế Di cười rộ phóng vọt người lên, toan chụp hai người Chung, Võ tra hỏi, chợt nghe Cốc Chi Hoa lớn giọng nói: “Kim đại ca, ngừng tay!”

Kim Thế Di vẫn chưa hết hứng, quay đầu nhìn lại thì thấy Cốc Chi Hoa và Lâm Sinh vội vàng chạy tới, Kim Thế Di nói: “Ô, sao cô nương lại lo chuyện bao đồng thế?”

Cốc Chi Hoa nói: “Ở đây là núi Mang Sơn, mong huynh hãy nể mặt tôi.”

Kim Thế Di nói: “Tào Cẩm Nhi đã bắt nạt cô nương chưa đủ sao? Cô nương muốn giữ sĩ diện cho bà ta?”

Cốc Chi Hoa nghiêm nghị nói: “Tôi tuy không còn là đệ tử của phái Mang Sơn, nhưng phần mộ của sư phụ tôi ở trên núi Mang Sơn, hai vị bằng hữu đến tảo mộ cho sư phụ tôi, huynh muốn hỏi họ chuyện gì cũng nên đợi họ xuống núi rồi tính tiếp.”

Lâm Sinh nghe Cốc Chi Hoa bảo không còn là đệ tử của phái Mang Sơn thì thất kinh, Cốc Chi Hoa nói: “Lúc nãy Kim đại ca đã giúp chưởng môn sư tỷ của các vị, lát nữa các vị hỏi Tào sư tỷ sẽ rõ. Tôi khuyên các vị đừng nên coi y là kẻ địch.”

Đệ tử phái Mang Sơn đưa mắt nhìn nhau, Lư Đạo Lân hỏi: “Cô nương đã phạm lỗi gì mà Tào sư tỷ đã đuổi ra khỏi sư môn?” Cốc Chi Hoa nói: “Huynh cứ hỏi Tào sư tỷ, tôi cũng không biết đã phạm lỗi gì.”

Kim Thế Di nạt: “Ta nể mặt Cốc cô nương, hôm nay để cho các người đi, người còn lắm lời?” Y biết Cốc Chi Hoa đang buồn lòng, không muốn cho họ nhắc lại chuyện này. Lư Đạo Lân nghe chàng quát thì trong lòng hậm hực nhưng cũng không dám gây sự, bèn nhặt cây thiết tỳ bà bỏ đi. Hai người Chung, Võ đã bỏ đi từ trước, Khâu Nguyên Giáp lầm lì bước theo.

Sau khi bọn người ấy bỏ đi, Cốc Chi Hoa liếc nhìn Kim Thế Di rồi cũng cất bước. Kim Thế Di đuổi theo: “Này, cô nương sao thế?”

Cốc Chi Hoa nói: “Huynh đi đường huynh, tôi đi đường tôi; có chuyện gì đâu?”

Kim Thế Di nói: “Lúc nãy sao cô nương không bảo như thế?”

Cốc Chi Hoa nói: “Giờ thì tôi đã nhớ ra, sau khi nghĩa phụ tôi qua đời, tôi vẫn chưa thăm mộ của người, tôi phải về nhà nghĩa phụ một chuyến. Xin thứ tôi không thể đi ra biển với huynh, cũng không đi theo huynh tìm người.”

Kim Thế Di thộn mặt ra, thầm nhủ: “Sao nàng lại trở nên lạnh nhạt với mình thế?”

Cốc Chi Hoa nói: “Đến đây chúng ta nên chia tay nhau, huynh còn theo tôi làm gì?”

Kim Thế Di cười nói: “Có phải cô nương giận tôi về chuyện lúc nãy không?”

Cốc Chi Hoa đỏ mặt, nói: “Tôi làm sao mà giận được huynh? Chúng ta quen biết không bao lâu, hôm nay huynh chịu giúp tôi là tôi đã cảm kích lắm, sao lại còn hờn trách huynh?”.

Lúc nãy Kim Thế Di làm khó đệ tử phái Mang Sơn, chàng tưởng rằng Cốc Chi Hoa giận vì chuyện này, nhưng Cốc Chi Hoa thì tưởng rằng chàng muốn nói đến Lý Tâm Mai, cho nên thần sắc thiếu tự nhiên.

Kim Thế Di rất ngạc nhiên: “Cớ gì nàng tự nhiên lại đỏ ửng mặt?” rồi y cũng đoán được vài phần, mỉm cười nói: “Cốc cô nương, cô đã biết lai lịch và xuất thân của tôi từ trước, nhưng có một chuyện cô vẫn chưa biết, tôi nợ người ta một món nợ, cho đến nay vẫn chưa trả cho nên nhớ mãi trong lòng.”

Cốc Chi Hoa đang dợm bước rẽ đường khác, nghe chàng nói như thế thì tò mò đứng lại, hỏi: “Huynh coi thường mọi thứ, nhưng lại nhớ món nợ này, chắc là món nợ này không tầm thường tí nào! Đó là nợ gì? Chủ nợ là ai?”

Kim Thế Di nói: “Chủ nợ là một tiểu cô nương tên gọi Lý Tâm Mai.”

Cốc Chi Hoa nghe mà xốn xang cõi lòng, chỉ nghe Kim Thế Di tiếp tục nói: “Nàng cũng biết lai lịch và xuất thân của tôi, có lẽ vì thông cảm nỗi cô độc của tôi, nàng trước nay vẫn coi tôi là đại ca. Mấy năm trước tôi luyện nội công suýt nữa tẩu hỏa nhập ma, nàng vì cứu tôi đã dốc ra bao công sức, suýt nữa cũng mất mạng theo tôi.”

Thế là chàng kể lại chuyện giữa chàng với Lý Tâm Mai. Cốc Chi Hoa rất cảm động, nước mắt lưng tròng, khen răng:

“Quả thật là một cô nương đáng yêu.”

Lúc này nàng mới hiểu Kim Thế Di đang mang một món nợ tình cảm rất nặng nề.

Kim Thế Di liếc nhìn Cốc Chi Hoa rồi khẽ nói: “Nàng xem tôi là đại ca, tôi cũng xem nàng là tiểu muội. Nhưng số phận của tôi đã là một kẻ suốt đời phiêu bạt giang hồ, tuổi nàng còn quá trẻ, vẫn chưa thể hiểu hết con người của tôi. Nàng là đệ tử danh môn chính phái, được cha mẹ thương yêu, nàng phải nên sống cuộc sống an lành hạnh phúc, theo tôi thì không thể nào hạnh phúc được. Cô nương có hiểu không?”

Cốc Chi Hoa đã hiểu tâm trạng của chàng, buột miệng nói: “Tôi hiểu chứ.”

Rồi lại đổi giọng: “Cho đến lúc này tiểu cô nương ấy vẫn tìm huynh có đúng không? Vậy huynh làm sao có thể khiến cho nàng đau lòng?”

Kim Thế Di nói: “Giờ nàng vẫn còn trẻ, sau này lớn lên nàng sẽ hiểu. Tôi chỉ có thể là một hảo ca ca của nàng, nhưng không thể là, không thể là...”

Cốc Chi Hoa biết ý chàng nói không phải là “hảo trượng phu”, không khỏi nói: “Điều đó cũng chưa chắc.”

Kim Thế Di trịnh trọng nói: “Quả thật như thế. Tôi là người rất dễ xúc động. Đối với tôi thế giới này rất kì dị, hình như tôi luôn muốn đi tìm điều gì đó mới mẻ, cho nên có lúc tôi cảm thấy mình không thể nào phù hợp với nó. Có lẽ những điều tôi nói quá huyền diệu, cô nương có hiểu không?”

Cốc Chi Hoa nói: “Tôi hiểu chứ, tôi không phải là người dễ xúc động, nhưng lúc này tôi cũng có tâm trạng như thế.”

Sở dĩ nàng có tâm trạng như thế là điều rất dễ hiểu, đó là vì nàng mới trải qua một biến cố quá lớn lao. Kim Thế Di nắm chặt tay nàng nói:

“Cô nương dũng cảm hơn tôi, nếu tôi gặp phải biến cố như cô nương, có lẽ tôi đã phát điên rồi!”.

Cốc Chi Hoa rất cảm động. Thật ra sở dĩ lần này nàng có thể đứng vững là bởi từ nhỏ nàng được Cốc Chính Minh và Lữ Tứ Nương dạy dỗ, lại được Kim Thế Di khích lệ khiến nàng có thêm không ít dũng khí.

Kim Thế Di nắm chặt tay nàng, luồng hơi ấm từ bàn tay truyền sang nàng, Cốc Chi Hoa khẽ nói: “Kim đại ca, muội hiểu huynh, nhưng huynh cũng không nên làm tổn thương người khác.”

Kim Thế Di nói: “Cho nên mấy năm nay tôi vẫn luôn né tránh nàng, nhưng lúc này lại phải tìm nàng cho bằng được. Cô nương hãy yên tâm, tôi sẽ không làm tổn thương nàng. Suốt đời này tôi sẽ thương yêu nàng như một người tôn trưởng. Nàng còn quá trẻ, tôi phải cho nàng biết thứ hạnh phúc mà nàng đang cần là gì.”

Cốc Chi Hoa thầm thở dài, nhủ rằng: “Huynh hiểu bản thân mình, hiểu được nàng, nhưng huynh không hiểu khi một thiếu nữ yêu người khác thì nàng có tâm trạng như thế nào. Biển khổ cũng trở thành bờ vui, địa ngục cũng biến thành thiên đàng, thứ hạnh phúc mà huynh nói chưa chắc nàng đã tin.”

Kim Thế Di nhìn sâu vào mắt nàng, nói: “Cốc cô nương, cô nương đang nghĩ gì thế?”

Cốc Chi Hoa nói: “Ồ, tôi chỉ cảm thấy thiếu nữ ấy thật đáng thương. Chừng nào thì huynh ra biển?”

hai câu này chẳng ăn nhập gì nhau, Kim Thế Di ngẩn người, thầm nhủ: “Chả lẽ nàng đã đổi ý?”

rồi trả lời: “Khoảng hai tháng nữa.”

Cốc Chi Hoa nói: “Vậy ra biển ở nơi nào?”

Kim Thế Di nói: “Ở một hải cảng dưới chân núi Lao Sơn miền Thanh Đảo, sao, cô nương muốn đi cùng tôi?”

Cốc Chi Hoa mỉm cười: “Không, tôi chỉ muốn dò hỏi tin tức Lý Tâm Mai giùm huynh, nếu trong vòng hai tháng mà tìm được nàng, tôi sẽ đến Thanh Đảo gặp huynh. Nhưng hy vọng rất mong manh, có lẽ phải đợi huynh trở về rồi mới tính tiếp.”

Rồi nàng nhẹ rút tay ra, nói: “Trên đời chẳng có buổi tiệc nào không tàn, chúng ta hãy chia tay nhau ở đây, huynh còn muốn nói gì nữa không?”

Kim Thế Di chợt thấy cõi lòng trĩu nặng, Cốc Chi Hoa hỏi chàng còn muốn nói gì nữa, chàng muốn trả lời, dù có nói ba ngày ba đêm nữa cũng chẳng nói hết? Nhưng lúc này chàng còn có thể nói gì nữa? Thật ra chàng không thể mời nàng cùng đi ra biển, bởi vì chàng có hẹn với Lệ Thắng Nam. Nếu nàng chấp nhận thì trái lại chàng đã khó xử.

Mà chàng đã từng hứa với Lệ Thắng Nam là không thể để lộ bí mật. Có thể nói chàng đã nợ Lý Tâm Mai và Lệ Thắng Nam, nhưng khác nhau ở chỗ Lý Tâm Mai là chủ nợ mà chàng mong muốn được gặp, còn Lệ Thắng Nam là chủ nợ mà chàng đang cố gắng né tránh!

Kim Thế Di thở dài, nói: “Cốc cô nương, cô nương hãy tự bảo trọng, đừng để trong lòng chuyện bị người khác hiểu lầm hay chuyện được mất nhất thời.”

Cốc Chi Hoa nói: “Được, mấy câu nói của huynh còn hơn hẳn hàng ngàn hàng vạn lời nói, tôi xin nhớ trong lòng.”

Hai người đều cảm thấy quyến luyến, nhưng rốt cuộc cũng đành phải chia tay.

Cốc Chi Hoa rời Kim Thế Di, đi đường mà lòng cứ buồn man mác, nàng nghĩ thân thế của mình thật ra cũng giống như Kim Thế Di. Trên đời này Kim Thế Di không có ai là người thân, còn nàng thì có cha nhưng thà không có thì hơn, từ nhỏ nàng đã là cô nhi, thế nhưng lúc này nàng mới cảm nhận mình mới đúng là một cô nhi.

Cốc Chi Hoa đi một mạch mấy mươi dặm đường, mặt trời dần dần lặn xuống phía tây, sắc trời đã nhá nhem tối, may sao phía trước có một trấn nhỏ, thế là nàng đến trấn nhỏ ấy nghỉ lại qua đêm.

Trong trấn chỉ duy nhất có một khách sạn, trong ngoài chỉ có hai dãy phòng, tổng cộng năm sáu gian phòng khách, khi Cốc Chi Hoa vào khách sạn, có bảy tám người khách đang ăn cơm tối ở đại sảnh, chợt thấy có một thiếu nữ xinh đẹp bước vào thì mọi người đều đưa mắt nhìn.

Chưởng quỹ của khách sạn là một ông già nhát gan, thấy Cốc Chi Hoa đi một mình mà lại mang theo trường kiếm thì hơi nghi ngại, nhũn nhặn nói: “Phòng của tiểu điếm đều...” y muốn nói “đều đã có khách”, nhưng phía trước chỉ có mấy người khách, không tiện nói dối, chỉ đành bảo rằng: “đều... đều đã có khách đặt cả.” Khách sạn này không phải ở nơi sầm uất, chẳng ma nào ghé đến, vừa nghe đã biết là nói dối.

Cốc Chi Hoa cũng có kinh nghiệm giang hồ, đoán được ý ông ta, mỉm cười nói: “Đêm nay khách cũng chưa chắc đến, cứ chọn trước một phòng cho ta.” Lão chưởng quỹ vội vàng trả lời: “Không được, nếu khách đến thì chúng tôi phải bồi thường tiền đặt cọc gấp hai lần.”

Cốc Chi Hoa cười: “Ta sẽ trả tiền phòng gấp ba lần.” Rồi nàng thò tay vào áo, nào ngờ lần này vội vàng ra đi, nàng chẳng thu dọn đồ đạc, cũng chẳng mang theo bạc, may mà mấy hôm trước nàng lấy ra mấy hạt nút áo bằng vàng định khâu vào áo, vô tình để trên người, thế là nàng lấy ra một hạt nói: “Cứ cho ta một phòng, làm vài món ăn, phần còn lại cho ông.”

Hạt nút bằng vàng này đáng giá đến năm lượng bạc. Chưởng quỹ là người biết xem hàng, cầm trên tay thì biết đó là vàng đủ tuổi, tuy nghi ngờ hơn nhưng vì ham lợi cho nên cũng đổi mặt làm vui, vội vàng nói:

“Được, được, tôi sẽ chọn cho cô nương phòng của Phương quan nhân.”

Trấn nhỏ này có mấy lúc gặp một người rộng rãi mà lại là một thiếu nữ xinh đẹp, tuy nghe khách khứa xì xầm bàn tán nhưng Cốc Chi Hoa cũng chẳng thèm để ý.

Chợt có người dùng tiếng lóng giang hồ nói: “Đại sư huynh, huynh xem thử thiếu nữ này ở đâu đến”, người khác nói: “Đừng lo chuyện bao đồng, ả không phải là người chúng ta tìm!” người lúc nãy nói: “Trên giang hồ có rất ít nữ nhi biết võ công, có lẽ họ có liên quan với nhau cũng nên.”

Đồng bọn của y suỵt một tiếng, té ra Cốc Chi Hoa đang quay đầu về phía họ. Chỉ thấy hai người ấy có tướng mạo rất kì quặc, một người cao khều, huyệt thái dương nhô lên, còn người kia thì béo ú, ánh mắt sáng quắc có thần.

Người có thân hình béo tốt tỏ ra thản nhiên. Té ra y đang nghĩ: “Đại sư huynh thật quá cẩn thận, chúng ta nói nhỏ nhẹ thế, vả lại dùng tiếng lóng giang hồ, chả lẽ nàng nghe được hay sao?” y nào ngờ Cốc Chi Hoa có nội công thượng thừa, tai thính mắt tinh hơn người bình thường gấp mười lần, cho nên nàng đã nghe rõ ràng những điều bọn chúng nói.

Cốc Chi Hoa bước vào phòng, ngẫm nghĩ thì thấy cuộc đối thoại giữa hai người này rất đáng nghi. Hình như bọn chúng đang tìm một thiếu nữ biết võ công, mà chúng lại không biết rõ về nàng, vả lại từ lời lẽ có thể thấy được rằng nàng là kẻ thù của bọn chúng.

Cốc Chi Hoa đã phát hiện được vài điểm đáng nghi trong cuộc đối thoại giữa chúng, thứ nhất, bọn chúng không hiểu rõ về thiếu nữ đang tìm, tại sao lại có địch ý? Thiếu nữ ấy là kẻ thù của bọn chúng? Hay là bọn chúng chỉ báo thù thay bằng hữu? Thứ hai, nếu đúng như chúng nói, nữ nhi biết võ công trên giang hồ rất có hạn, Cốc Chi Hoa thầm tính, giờ đây trong Võ lâm, nữ nhi có võ công cao nhất là chị em Phùng Anh, Phùng Lâm, mà họ đã ẩn cư trên Thiên Sơn, dù cho có người có xích mích với họ cũng chưa chắc có gan lên tìm họ, càng không thể nhờ hai người đi tìm trên giang hồ. Ngoại trừ chị em Phùng Anh, Phùng Lâm, kế đến là Băng Xuyên thiên nữ và Tào Cẩm Nhi, hai kẻ lúc nãy cũng không xứng là địch thủ của bà. Thứ đến là mẹ chồng con dâu nhà họ Đường, gia tộc nổi tiếng về công phu ám khí ở Tứ Xuyên, hai người này tuổi đã cao, người con dâu đã ngoài năm mươi tuổi, đã sớm đóng cửa phong đao, không đi lại trên giang hồ nữa, dù cho có kẻ thù thì không cần đến lúc này y mới báo thù, vả lại cũng không cần đi lại trên giang hồ tìm kiếm. Cốc Chi Hoa tính đi tính lại những nữ tử có danh tiếng ở hai đạo hắc bạch thì chẳng thấy có ai phù hợp. Cuối cùng mới nghĩ đến Lý Tâm Mai, nhưng Lý Tâm Mai tuổi còn trẻ, lại được cha mẹ bảo bọc, chưa bao giờ gây sự trên giang hồ, nàng làm sao có thể kết thù chuốc oán? Cốc Chi Hoa đoán mãi không ra thì thầm nhủ: “Mình cứ mặc chuyện này, cần gì phải hao hơi tổn sức lo chuyện bao đồng trên giang hồ.”

Nghĩ đến chuyện của mình, Cốc Chi Hoa bồn chồn không yên, nàng đã bị đuổi ra khỏi phái Mang Sơn, coi như đã là một kẻ không nhà, từ nay biết đi về đâu? Nhưng nàng chợt nhớ đến Kim Thế Di, Kim Thế Di chẳng phải đã phiêu bạt trên giang hồ hơn mười năm đấy sao? Thế mà y vẫn sống được.

Nhưng nàng gặp phải một biến cố quá to lớn, tuy đã nghĩ thông suốt nhưng rốt cuộc lòng vẫn như tơ vò, nằm trên giường mà cứ lăn qua trở lại, chẳng thể nào chợp mắt nổi, nàng cảm thấy vài lần đã có người len lén đi ngang qua cửa phòng nàng, nàng biết khi mới bước vào trong khách sạn, nàng lấy nút vàng trả tiền phòng đã phạm vào một điều kị trên giang hồ là không thể để cho người ta thấy tiền tài, nhưng nàng thân mang tuyệt kỹ cho nên cũng chẳng thèm để ý.

Trong đêm tĩnh lặng, chợt nghe tiếng nói truyền vào trong tai, đó là giọng nói của hai người lúc nãy. Khách sạn này rất nhỏ, Cốc Chi Hoa tuy ở cách họ ba phòng nhưng vẫn có thể nghe rõ ràng.

Chỉ nghe một người nói: “Nghe nói hôm nay là ngày giỗ lần thứ năm mươi của Độc tý thần ni, người trong Võ lâm đến bái tế không ít, chả lẽ thiếu nữ họ Lý cũng đến đó?”

Người kia trả lời: “Nếu ả đến Mang Sơn, chúng ta không thể đuổi theo. Chỉ đành đợi ở đây.”

Người lúc nãy lại cười rằng: “Lữ Tứ Nương đã chết, cần gì phải sợ phái Mang Sơn?”

Cốc Chi Hoa giật mình, nàng không khỏi ngưng thần, nhưng hai người ấy càng nói càng nhỏ, nàng nghe lúc được lúc mất. Thế là Cốc Chi Hoa đánh liều ra trước cửa phòng của bọn chúng lắng nghe.

Chỉ nghe một giọng nói hơi khàn khàn hỏi: “Đại sư huynh, nghe nói huynh đã từng gặp thiếu nữ họ Lý ấy? người được gọi là đại sư huynh trả lời: “Đêm sư phụ bắt sống ả ta cũng có mặt.”

Kẻ kia hỏi tiếp: “Vậy huynh vừa gặp mặt chắc chắn sẽ nhận ra?”

“đại sư huynh” cười rằng: “Đương nhiên, nếu không sư phụ làm sao giao chuyện này cho ta. Nhưng ta nghe nói phái Thiên Sơn có một loại linh đơn thay đổi dung mạo... Thật ra loại linh đơn này là của Cam Phụng Trì phái Mang Sơn, sau đó ông ta mới chỉ cho Đường Hiểu Lan phái Thiên Sơn cách bào chế.” Tên sư đệ trả lời: “Đại sư huynh hiểu biết rộng rãi, tiểu đệ thật không bằng.

Nhưng điều đó không quan trọng, tóm lại phái Thiên Sơn cũng có thuốc dị dung.” Người kia lại cười: “Ta đã hiểu lòng ngươi, ngươi đã thích thiếu nữ phòng trước muốn đến trêu ghẹo nàng cho nên muốn tìm cớ, có đúng không?”

“Không phải cớ, thiếu nữ họ Lý đã là người của phái Thiên Sơn, lẽ nào ả không biết thuật thay đổi dung mạo?Thiếu nữ ở phòng trước xem ra cũng không quá hai mươi, vả lại còn mang theo bảo kiếm. Còn một điểm nữa, ả dùng vàng để trả tiền phòng, vừa nhìn đã biết chẳng biết thời vụ, là ả nha đầu mới xuất đạo Điều này rất phù hợp với thiếu nữ họ Lý, đã thay tám phần chính là ả.”

Đại sư huynh nói: “Nói bừa, dù cho ả biết thuật dị dung, chả lẽ cũng thay đổi cả hình dáng hay sao? Tóm lại là không phải ả, ngươi đừng gây thêm chuyện thị phi nữa!”

Kẻ kia trả lời: “Dù đệ gây chuyện thị phi, sư huynh, sư huynh cũng đâu cần nổi giận như thế? Bổn môn vốn chẳng có thanh quy giới luật, đâu cho phép không trêu ghẹo nữ nhi.”

Cốc Chi Hoa nghe thế thì thầm giận, nhủ rằng: “Được, ta phải trừng phạt ngươi.”

Chỉ nghe tên đại sư huynh trầm giọng mắng: “Ta thấy ngươi có mắt cũng như mù, võ công của ả lợi hại hơn ả họ Lý nhiều, ta cũng không dám trêu đến ả, ngươi dám? Nếu ta trêu được thì đâu đến lượt ngươi?” lúc đầu Cốc Chi Hoa còn tưởng tên đại sư huynh là người đàng hoàng tử tế nào ngờ cũng đều là hạng cá mè một lứa.

Nhưng Cốc Chi Hoa thì không biết Mạnh Thần Thông bắt giữ Lý Tâm Mai, bởi vì Kim Thế Di không muốn khơi dậy nỗi đau cho nàng cho nên hễ những chuyện có liên quan đến Mạnh Thần Thông thì y tránh không nói đến nhiều, lúc y kể chuyện mình đã quen biết Lý Tâm Mai như thế nào, cũng đã tránh đoạn nàng bị bắt nhốt ở Mạnh gia trang.

Thế nhưng Cốc Chi Hoa đã nghe chuyện Kim Thế Di đại náo Mạnh gia trang.

Lúc này nàng lại nghe nói “thiếu nữ họ Lý phái Thiên Sơn”, lại nhắc đến Kim Thế Di, tiếng nói của họ như tiếng muỗi bay qua nhưng nàng nghe như sét đánh bên tai, nhất thời đứng ngây người ra.

“Thiếu nữ họ lý ở phái Thiên Sơn” đương nhiên là Lý Tâm Mai, Cốc Chi Hoa có thể đoán được chàng đại náo Mạnh gia trang là vì Lý Tâm Mai, nhưng nàng không dám suy nghĩ tiếp, thậm chí cũng không đám gọi cái tên ấy ra.

Cốc Chi Hoa đang thẫn thờ nên không để ý, phát ra tiếng, ngay lúc này Hạng Hồng đột nhiên đẩy cửa sổ ra, vung ra một chưởng, Cốc Chi Hoa chỉ cảm thấy một luồng gió lạnh dồn tới, không khỏi lạc giọng kêu lên: “Tu la âm sát công!”

Hạng Hồng chỉ mới luyện Tu la âm sát công đến tầng thứ hai, với công lực của Cốc Chi Hoa đương nhiên không sợ Tu la âm sát công của y, nhưng đã chứng minh được bọn chúng là đệ tử của Mạnh Thần Thông, kẻ nàng sợ chính là người cha nàng chưa bao giờ gặp mặt, đại ma đầu Mạnh Thần Thông nổi danh trong tà phái!

Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, hai người Hạng, Thôi đã nhảy vọt ra khỏi phòng, Hạng Hồng trầm giọng quát: “Ngươi cũng biết Tu la âm sát công lợi hại?” rồi đánh tiếp ra hai chưởng. Hạng Hồng tuy mới chỉ luyện được tầng thứ hai, chưa thể vừa ra tay đã lập tức giết chết người ta, nhưng luồng khí âm hàn trong chưởng phong có thể làm tổn thương nguyên khí của đối phương, nếu người có căn cơ nội công không vững, bị luồng khí âm hàn này xâm nhập vào người thì chắc chắn gân cốt rã rời, chỉ đành bó tay chịu trói.

Hạng Hồng đã thấy công lực của Cốc Chi Hoa bất phàm, hai chưởng này tuy không thể đả thương được nàng, nhưng y không ngờ rằng nàng không hề né tránh, mà trái lại đã xông lên, Hạng Hồng đánh ra một chưởng, tuy thấy rõ ràng Cốc Chi Hoa trước mặt mình nhưng không biết thế nào mà đột nhiên nàng biến mất, Cốc Chi Hoa cười lạnh một tiếng, dùng thủ pháp tiểu cầm nả thủ chụp vào vai của y.

Lúc này Cốc Chi Hoa chỉ cần nhả lực bóp nát xương tỳ bà của Hạng Hồng, sẽ phế được võ công của y, nhưng Cốc Chi Hoa lòng dạ nhân từ, vốn chưa bao giờ ra tay mạnh như thế, nàng chỉ muốn chế phục y, buộc y nói ra tin tức của Lý Tâm Mai.

Hạng Hồng là đệ tử của Mạnh Thần Thông, võ công đương nhiên không kém, thấy không xong thì lập tức dùng chiêu “Thoát bào giải giáp”, y trầm vai xuống, chỉ nghe sột một tiếng, vai áo Hạng Hồng bị nàng xé rách một mảng, tuy vậy y cũng thoát được khỏi chưởng của Cốc Chi Hoa, y vừa thoát thân thì lập tức trở tay lại đánh ra một chưởng. Dù Cốc Chi Hoa né tránh lanh lẹ, huyệt khúc trì ở tay cũng bị y điểm một cái, lập tức cảm thấy tê rần, bất đồ rùng mình.

Thôi Tu không biết lợi hại, thấy Cốc Chi qua bị sư huynh điểm trúng, nghĩ rằng dù nàng có công phu bế huyệt thì khí hàn độc của Tu la âm sát công đã có thể khiến nàng bị thương, y buông giọng cười rằng: “Bọn ta không trêu ngươi, nhưng ngươi lại đến gây sự với bọn ta, ta cũng không khách sáo nữa. Ha ha, biết tìm đâu ra một cô nương xinh đẹp như thế này?” thế là y nhảy bổ lên toan kiếm phần lợi, y cười chưa dứt thì bỗng nghe bốp một tiếng, té ra bị Cốc Chi Hoa tát cho một bạt tai, nàng ghét y miệng lưỡi khinh bạc cho nên ra tay rất mạnh, cú tát ấy khiến mắt y nổ đom đóm, miệng rơi hai cái răng cửa! Hạng Hồng vội vàng chạy tới cứu, Cốc Chi Hoa quát: “Ngươi cũng nếm một chưởng của ta!” rồi nàng sử dụng Huyền nữ chưởng pháp, tay trái đánh ra một chiêu Dương hoa phất diện, tay phải đánh ra một chiêu Liễu tố khinh, chưởng thế phiêu hốt vô định, trông như lá rơi tuyết bay. Hạng Hồng cảm thấy bốn phương tám hướng đều là chưởng phong nhân ảnh của nàng, y đã dốc hết sức nhưng vẫn bị nàng ép thối lui!

Hạng Hồng kinh hãi vì Cốc Chi Hoa không sợ Tu la âm sát công của y! Té ra khi còn sống Lữ Tứ Nương đã đoán được bổn môn không có ai chế phục nổi Mạnh Thần Thông cho nên bỏ ra mười năm tham ngộ Thiếu dương thần công, tuy không thể phá giải Tu la âm sát công nhưng có thể chống lại khí tà độc của loại võ công này. Chỉ cần có ba cao thủ cùng luyện Thiếu dương thần công, hợp lực lại thì có thể chế phục Mạnh Thần Thông. Lúc ấy bà ta nghĩ ba đệ tử có võ công cao nhất là Tào Cẩm Nhi, Dục Trọng Mâu và Tạ Vân Chân, cho nên ra lệnh Cốc Chi Hoa đem Thiếu dương thần công tặng cho Tào Cẩm Nhi. Đó cũng chính là lý do tại sao khi ở núi Mang Sơn, tuy Tào Cẩm Nhi đuổi Cốc Chi Hoa ra khỏi môn phái nhưng nàng vẫn dâng ba thiên bí kíp ấy cho bà ta. Khi còn sống Lữ Tứ Nương không bảo Cốc Chi Hoa luyện Thiếu dương thần công, nhưng cũng không cấm nàng. Cốc Chi Hoa không biết thâm ý của Lữ Tứ Nương, sau khi bà ta chết, rốt cuộc nàng đã luyện loại công phu này.

Khi Cốc Chi Hoa luyện Thiếu dương thần công, thật ra nàng chỉ muốn bảo vệ cho bổn môn, nàng nghĩ có thêm một người luyện thì sau này sẽ càng dễ chế phục Mạnh Thần Thông. Cho đến khi Tào Cẩm Nhi vạch trần thân thế của nàng, nàng mới nghi ngờ, chả lẽ sư phụ đã biết nàng là con gái của Mạnh Thần Thông, cho nên khi còn sống đã không truyền thụ Thiếu dương thần công cho nàng, tránh cho nàng này phải dự vào việc giết cha mình? Nàng lại nghĩ có lẽ sư phụ tưởng rằng nàng mãi mãi không biết thân thế của mình, cho nên mới không nói rõ với nàng, cũng không cấm nàng luyện, cứ để tất cả đi theo ý trời? Đáng tiếc Lữ Tứ Nương đã chết, Cốc Chi Hoa mãi mãi không biết được nỗi khổ tâm của bà ta.

Cốc Chi Hoa chỉ luyện Thiếu dương thần công được hai năm, nếu dùng đối phó với Mạnh Thần Thông thì vẫn chưa đủ, nhưng Hạng Hồng cũng chỉ luyện Tu la âm sát công được đến tầng thứ hai, cũng chẳng làm gì được nàng. Hai người giao thủ hơn hai mươi chiêu, chỉ nghe bốp một tiếng, vai của Hạng Hồng đã bị trúng một chưởng.

Khách khứa trong khách sạn đều bừng tỉnh, nhưng không có ai dám ra can ngăn. Lão chưởng quỹ núp trong phòng run rẩy kêu: “Khách quan muốn đánh nhau thì xin mời ra ngoài đánh, đừng phá hỏng tiểu điếm!” lão nói chưa dứt lời thì chỉ nghe tiếng ầm ầm vang lên, Hạng Hồng đã bưng một cái bàn ném về Cốc Chi Hoa, Thôi Tu cũng bắt chước theo sư huynh, chụp đồ ném về phía Cốc Chi Hoa.

Trong khách sạn rất nhỏ hẹp, Cốc Chi Hoa vốn có thể đùng chưởng lực đánh vỡ ghế, nhưng nàng không muốn phá hỏng đồ trong khách sạn, vả lại nếu mảnh vỡ bay vào bên trong thì sẽ ngộ thương người khác, khó khăn lắm mới né tránh được. Hạng Hồng và Thôi Tu được thế, nhảy ra sân sau, lớn giọng mắng: “Ả nha đầu không biết sống chết, có ngon thì đuổi theo ta!”

Lúc này Cốc Chi Hoa phân vân rất nhiều. Nàng đã biết hai người này là ai, dù cho trong lòng nàng không thừa nhận Mạnh Thần Thông là cha mình, nhưng nàng không thể “phóng khoáng” như Kim Thế Di nói, tức là coi y chẳng có liên quan gì đến mình, nàng mong suốt đời này không gặp Mạnh Thần Thông, tránh tiếp xúc với y.

Nhưng nàng có thể tránh được sao? Hai người này là đệ tử của Mạnh Thần Thông, nàng thật lòng không muốn đuổi theo, nhưng không hiểu thế nào mà nàng lại muốn biết tin tức của Mạnh Thần Thông. Đệ tử của Mạnh Thần Thông xuất hiện ở đây, chắc là y ẩn mình ở gần đây. Y là kẻ thù của phái Mang Sơn, Dực Trọng Mâu đã tìm y trả thù, y đương nhiên cũng trả thù phái Mang Sơn. Nếu y nấp gần đây, đó sẽ là mối họa cho phái Mang Sơn. Tuy Cốc Chi Hoa đã bị Tào Cẩm Nhi đuổi ra khỏi môn phái, nhưng nàng không thể quên tình đồng môn, dù cho chỉ một lý do này, nàng cũng phải tra hỏi tin tức của Mạnh Thần Thông rồi báo cho đệ tử phái Mang Sơn biết. Huống chi nàng đã hứa với Kim Thế Di là sẽ tìm tung tích của Lý Tâm Mai. Vì thế cuối cùng nàng đã đuổi theo.

Khinh công của Cốc Chi Hoa giỏi hơn hai tên này nhiều nàng dần dần đuổi kịp, chợt nghe soạt một tiếng Hạng Hồng bắn ra một cây xà diệm tiễn, mũi tên rực lửa bay vút lên trời, tựa như pháo hoa đầu xuân. Cốc Chi Hoa cũng có chút ít kinh nghiệm giang hồ, biết đó là tín hiệu gọi đồng bọn.

Hạng Hồng cười lạnh: “Nha đầu ngươi có dám đuổi theo nữa không?” Cốc Chi Hoa vừa mới dấn lên được một bước, y đã quay đầu lại phóng ra một mũi lãnh tiễn nữa, mũi tên bay lướt qua, có cả mùi tanh, rõ ràng đó là loại ám khí có tẩm độc.

Đương nhiên mũi tên này không trúng được Cốc Chi Hoa, nhưng đã chọc giận nàng, thế rồi nàng cất bước đuổi theo, Hạng Hồng bị nàng đuổi gấp thì dùng Tu la âm sát công chặn lại. Tuy võ công của Cốc Chi Hoa hơn y nhưng cũng không thể bắt sống y trong chốc lát, Hạng Hồng rất giảo hoạt, khi Cốc Chi Hoa đuổi đến gần thì bất ngờ đánh ra một chưởng, sau khi đánh ra chưởng ấy thì quay người bỏ chạy tiếp. Thế là một người chạy một người đuổi đến nửa canh giờ, đến dưới chân núi Ngọc Long cách trấn Tân An không xa, Hạng Hồng đã bắn ra ba mũi xà diệm tiễn.

Cốc Chi Hoa nổi giận, thầm nhủ: “Nếu không mạnh tay thì y sẽ kéo dài thời gian, đồng bọn của y kẻo tới thì khó bắt được y.”

Thế là khi chỉ còn cách Hạng Hồng mấy trượng, nàng đột nhiên điểm mũi chân phóng vọt người lên, tay phải cầm kiếm chém xuống, tay trái dùng Tiểu thiên tinh chưởng lực bổ vào huyệt đại chuy ở cổ của y. Cốc Chi Hoa khinh công trác tuyệt, đột nhiên từ trên không bổ xuống tựa như chim ưng bắt thỏ, đánh cho Hạng Hồng luống cuống chân tay, dù cho y dùng Tu la âm sát công liên tục phát chưởng, khí hàn độc cũng chẳng làm gì được Cốc Chi Hoa, mà Cốc Chi Hoa từ trên cao đánh xuống, hễ kiếm lia tới thì chắc cánh tay của y sẽ đứt lìa!

Khi Cốc Chi Hoa sắp vỗ đến cổ của Hạng Hồng, huyệt đại chuy là nơi tụ hội của thần kinh xương sống, nếu bị vỗ trúng thì toàn thân sẽ cứng đờ không thể cử động được, ngay lúc này chợt có một kình phong quét tới, khí lạnh thấu xương, Cốc Chi Hoa lộn người trên không một vòng, khi nhìn lại thì chỉ thấy một ông già râu dài đứng trước mặt mình, ông già ấy lạnh lùng nói: “Sư phụ của ngươi là ai, tại sao truy sát sư diệt của ta?”

Ông già râu dài ấy chính là Dương Xích Phù. Cốc Chí Hoa nói: “Lệnh đồ dùng Tu la âm sát công đả thương tôi, sao có thể trách tôi là xuống tay vô tình? Huống chi tôi thực sự không muốn giết y!”

Dương Xích Phù thấy Cốc Chi Hoa nói thế thì bất giác cả kinh, liếc nhìn nàng rồi lạnh lùng nói: “Cô nương đã không bị thương, cần gì phải lấy mạng y? Lúc nãy cô nương ra đòn sát thủ, còn bảo là không muốn giết y?,

Cốc Chi Hoa nói: “Tôi chỉ muốn bắt y lại hỏi một chuyện.”

Dương Xích Phù nói: “Cô nương muốn hỏi chuyện gì.”

Cốc Chi Hoa vốn muốn hỏi tung tích của Mạnh Thần Thông và Lý Tâm Mai, nhưng nàng làm sao nói với Dương Xích Phù.

Hạng Hồng kêu lên: “Ả đã biết bí mật của chúng ta, sư thúc, đừng để ả thoát!”

Dương Xích Phù quát: “Có phải ngươi muốn dò hỏi tin tức của Lý Tâm Mai haykhông?”

Cốc Chi Hoa đoán rằng thế nào cũng phải đánh trận này, lớn giọng đáp: “Đúng thế. Nàng và các ngươi có thù oán gì? Tại sao các ngươi lại tự tiện bắt giam nàng?”

Dương Xích Phù cười lạnh: “Lý Tâm Mai đã bỏ đi, ngươi sẽ bù vào chỗ của ả.

Được, nếu ngươi muốn biết gì thì cứ hỏi chưởng môn sư huynh của ta!” Cốc Chi Hoa biến sắc, chưa kịp xoay chuyển thì Dương Xích Phù đã phóng lên. Y thấy Cốc Chi Hoa có thể chống được Tu la âm sát công, đó chính là khắc tinh của bổn môn, dù cho nàng không biết bí mật Lý Tâm Mai bị giam lỏng, nhưng y cũng không thể để cho nàng đi. Dương Xích Phù đã luyện Tu la âm sát công đến tầng thứ năm, so với Hạng Hồng thì khác hẳn!

Chỉ nghe bình một tiếng, gốc cây tùng gần đó bị chấn động đến nỗi lá rụng lả tả, may mà Cốc Chi Hoa né tránh lanh lẹ, chạy vòng ra sau gốc cây cho nên mới chẳng hề gì.

Dương Xích Phù lướt tới, chặn đường rút lui của nàng, không để cho nàng nấp vào rừng cây, y tiếp tục đánh ra chưởng thứ hai, chưởng thứ ba, chưởng phong nổi lên, trong vòng mấy trượng, lá cây rơi rụng, cát chạy lá bay. Cốc Chi Hoa không chống đỡ nổi, bị y đẩy từ bìa rừng ra đường lớn, Dương Xích Phù quát: “Chạy đi đâu ... thế rồi hai chưởng phóng ra, khiến Cốc Chi Hoa không thể nào né tránh. Cốc Chi Hoa hít một hơi, đột nhiên phóng vọt người lên, trong khoảnh khắc ấy nàng rút cây Sương hoa kiếm ra khỏi bao đánh ra một chiêu Bằng bác cửu tiêu từ trong không đâm xuống, Dương Xích Phù kêu “Ồ” một tiếng, thối lui ba bước quát: “Té ra ngươi là đệ tử của Lữ Tứ Nương!”

Cốc Chi Hoa nói: “Ngươi đã biết uy danh của sư phụ ta, còn dám đến gần Mang Sơn làm chuyện ngang ngược?”

Dương Xích Phù cười lạnh: “Nếu Lữ Tứ Nương còn sống, ta còn sợ mụ ba phần, Lữ Tứ Nương đã chết mà ngươi còn dám dùng phái Mang Sơn đoạ ta?”

Mạnh Thần Thông đã công khai đối địch với phái Mang Sơn, Dương Xích Phù biết Cốc Chi Hoa là đệ tử của Lữ Tứ Nương, đương nhiên không thể để cho nàng chạy thoát, thế rồi đánh gấp ra từng chưởng, dần dần gia tăng uy lực của Tu la âm sát công. Cốc Chi Hoa tuy luyện Thiếu dương thần công nhưng công lực vẫn còn kém, đấu được khoảng hai ba mươi chiêu thì thấy tức ngực, khó thở, thế nhưng kiếm pháp của nàng không hề rối loạn.

Dương Xích Phù tuy rất ngạc nhiên, Cốc Chi Hoa cũng không khỏi thầm thất kinh: “Tu la âm sát công của lão già này quả nhiên lợi hại, nghe sư phụ mình nói, y chẳng qua chỉ luyện mới đến tầng thứ năm, so với Mạnh... Mạnh Thần Thông còn kém xa, chả trách nào trước đây chưởng môn sư huynh, bang chủ Cái Bang miền Giang Nam cũng chết bởi tay Mạnh...Mạnh Thần Thông.”

Nàng vẫn chưa chịu thừa nhận Mạnh Thần Thông là cha, nhưng khi nghĩ đến cái tên này thì trong lòng vẫn đau như cắt.

Công lực của Dương Xích Phù thực ra hơi kém hơn Diệt Pháp hòa thượng, tuy y chiếm được thượng phong nhưng cũng không thể nào lấy được mạng Cốc Chi Hoa.

Cốc Chi Hoa nhờ vào khinh công và kiếm pháp tinh diệu vốn có thể chống chọi được đến hai ba trăm chiêu, nhưng nàng nhớ đến Mạnh Thần Thông, sợ rằng Mạnh Thần Thông sẽ đến đây, thêm bị phân tâm, ý chí chiến đấu giảm xuống, chỉ muốn tìm cơ hội thoát thân.

Cao thủ đang giao đấu với nhau nào có thể phân thần, Cốc Chi Hoa muốn chạy nhưng không thể thoát, lúc này Dương Xích Phù đã dùng đến tầng thứ năm của Tu la âm sát công, chưởng lực triển khai chặn hết mọi đường, lúc này Cốc Chi Hoa tựa như bị nhốt trong một chiếc lồng sắt mà chiếc lồng ấy dần dần thu nhỏ lại!

Đang lúc kịch chiến chợt nghe Dương Xích Phù quát lớn một tiếng, chưởng lực phát ra tựa như dời núi lấp biển dồn tới, Cốc Chi Hoa té soài xuống đất, lập tức bất tỉnh nhân sự.

Đến khi nàng tỉnh dậy thì đã nằm trong một căn nhà đá.

Đó chính là: Chẳng cách nào né tránh, thế rồi cũng gặp nhau.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Vân Hải Ngọc Cung Duyên - Lương Vũ Sinh

Postby tuvi » 06 Feb 2023

Hồi Thứ Mười Bốn
Thế sự oan nghiệt lòng đau xót...Đáng mất kỳ thư hoạ nhiều hơn.

Cốc Chi Hoa tỉnh lại, nàng mở mắt nhìn thì thấy mình ở trong một căn thạch thất, Hạng Hồng và Thôi Tu đang canh cửa Cốc Chi Hoa toan cựa mình nhưng tay chân mềm nhũn. Hạng Hồng cười lạnh: “Đã đến đây còn muốn chạy?”
Ngay lúc này, chợt nghe có tiếng ho đứt quãng vọng tới, trong khoảnh khắc có tiếng bước chân người đến cửa, Thôi Tu nói: “Sư phụ đến!”

Trong lòng Cốc Chi Hoa tựa như có tiếng sấm nổ, nàng đang bàng hoàng thì thấy có một ông già mặt đỏ thân hình cao lớn, lưng hơi gù bước vào, ông già này chính là cha ruột của nàng, là kẻ thù của phái Mang Sơn, Mạnh Thần Thông!

Hạng Hồng xuôi tay hỏi: “Sư phục người đã khỏe chưa”

Mạnh Thần Thông hừ một tiếng, nói: “Độc châm của Kim Thế Di có thể đả thương được người khác, chứ làm gì nổi ta, không cần ngươi phải lo cho ta! Chuyện ta giao cho ngươi đã thế nào rồi, có dò hỏi được tung tích của Lý Tâm Mai không?” y hỏi một hồi rồi lại ho mấy tiếng, rõ ràng y vẫn chưa khỏe.

Hạng Hồng nói: “Tuy chưa tìm được tung tích của Lý Tâm Mai nhưng đã bắt được ả này. Ả có thể chống lại Tu la âm sát công, nếu sư thúc không đến kịp lúc, đồ nhi đã suýt bị thương trong tay của a rồi.”

Hạng Hồng nói mấy câu này một là để khai công mình, hai là muốn Mạnh Thần Thông tra khảo nàng y biết Mạnh Thần Thông sợ nhất là kẻ có thể chống được Tu la âm sát công.

Mạnh Thần Thông hừ một tiếng nói: “Đồ vô dụng, có một ả nha đầu mà đánh không lại, còn mặt mũi nào đến gặp ta?” tuy là thế, nhưng trong lòng cũng lo, y nhủ thầm: “Hạng Hồng chỉ mới luyện được đến tầng thứ hai, bại trong tay ả cũng không có gì là lạ, Dương sư đệ đã luyện được đến tầng thứ năm mà chỉ có thể chế phục được ả, ả không bị nội thương, điều này thật kỳ lạ. Ả vẫn còn trẻ mà chống lại được tầng thứ năm của Tu la âm sát công nếu công lực thâm hậu thì ghê gớm biết dường nào!

Mạnh Thần Thông mở to mắt, liếc nhìn Cốc Chi Hoa rồi lạng lùng nói: “Nghe nói Lữ Tứ Nương đã thu được một đệ tử quan môn có phải là ngươi không?”

Cốc Chi Hoa sắc mặt trắng bệch, im lặng không chịu nói. Mạnh Thần Thông hừ một tiếng rồi nói: “Uổng cho ngươi là đệ tử của Lữ Tứ Nương, chẳng có chút gan dạ nào. Chỉ cần ngươi nói thực, ta sẽ không giết người. Có phải ngươi sợ không?”

Cốc Chi Hoa mở to đôi mắt nói: “Ta không sợ cho ta, chỉ sợ cho ông mà thôi!” Mạnh Thần Thông nói: “Ồ, thật kỳ lạ, ngươi có lòng tốt lo cho ta, người lo cho ta điều gì?”

Cốc Chi Hoa nói: “Ông một thân võ công mà chẳng biết làm chuyện tốt, ông... ông.”

Mạnh Thần Thông cả cười, cắt lời nàng: “Ngươi cứ nói huỵch toẹt là ta là đại ma đầu chẳng chuyện ác gì không làm, cần gì phải quanh co?”

Cốc Chi Hoa thấy lòng đau như dao cắt, nói tiếp: “Ông đã biết bản thân chẳng chuyện ác gì không làm ông... ông không sợ báo ứng sao? Tôi tôi lo cho ông sẽ không có kết cuộc tốt!”

Mạnh Thần Thông cả cười: “Bình sinh ta chưa bao giờ tin có báo ứng, không cần ngươi lo cho ta.”

Cười lớn xong thì đột nhiên cảm thấy ngạc nhiên, bởi vì trong đời của y, chưa bao giờ có người nói với y những lời như thế! Rõ ràng là kẻ địch của y mà lại rất quan tâm cho y.

Mạnh Thần Thông nhìn Cốc Chi Hoa với ánh mắt dò xét rồi nói: “Tiểu cô nương nhà ngươi rất kỳ lạ! Hừ, ngươi lo cho ta không có kết cuộc tốt ta cũng cho ngươi biết, với võ công của ta hiện nay, chỉ có vài ba người có thể thắng nổi ta; chờ đến khi ta luyện Tu la âm sát công đến tầng thứ chín, lúc đó thiên hạ tuy lớn nhưng không ai là đối thủ của ta nữa! Ta còn sợ gì ai?”

Cốc Chi Hoa nói: “Ông có thể ngang tàng cả đời sao? Ông có nghe lời xưa nói làm lắm chuyện bất nghĩa tất sẽ tự chôn thây hay không? Huống chi thiên hạ rộng lớn, ông làm sao biết không có loại công phu có thể khắc chế Tu la âm sát công? Người khác thì tôi không biết, nhưng sư phụ của tôi đã để lại cách khắc chế ông!”

Mạnh Thần Thông cười lạnh: “Ta đã ẩn cư hơn mười năm ở núi Thái Hàng, xưa nay không đụng chạm đến mụ ta, té ra mụ ta đã âm thầm chống đối ta. Nhưng Lữ Tứ Nương ơi Lữ Tứ Nương, mụ đừng quá coi thường ta! Khi còn sống mụ không động thủ với ta, đến khi chết lại bảo một ả nha đầu miệng còn hôi sữa đến chống đối ta, nào có thể làm gì được ta!”

Cốc Chi Hoa nói: giờ đây tôi không phải là đối thủ của ông, nhưng trong vòng năm năm sẽ có người luyện thành công phu sư phụ tôi để lại đến tìm ông Nếu lúc này ông đổi ác thay thiện, trong vòng năm nay tích vài công đức, đến lúc đó kẻ thù của ông có lẽ sẽ tha cho ông.”

Mạnh Thần Thông buông giọng cười lớn: “Mấy mươi năm qua chỉ có người cầu xin ta, ta nào khom gối trước người khác? Khi còn sống sư phụ ngươi không dám tìm ta, ta không tin đến khi chết mà mụ vẫn còn để lại công phu khắc chế ta! Ngươi nói công phu ấy lợi hại như thế, hãy thử đọc khẩu quyết cho ta nghe.”

Cốc Chi Hoa nói: “Nếu ông đã không sợ thì đâu cần tôi phải đọc ra!”

Mạnh Thân Thông đỏ mặt, ho một tiếng rồi nói: “Ả nha đầu nhà ngươi quả thực không biết trời cao đất dày, ta há đâu phải sợ mà bảo ngươi đọc ra! Ta chỉ muốn chỉ ra chỗ hoang đường của sư phụ ngươi, cho ngươi biết ngươi chỉ là ếch ngồi đáy giếng, sư phụ người làm sao biết chỗ thần kỳ của Tu la âm sát công.”

Cốc Chi Hoa cũng cười lạnh: “Tôi thấy ông mới là ếch ngồiđáy giếng. Ông làm sao có thể tưởng tượng nổi võ công của sư phụ tôi? Thật ra ông không nói tôi cũng biết tâm ý của ông, ông thực sự sợ sư phụ của tôi, cũng sợ có người khắc chế Tu la âm sát công của ông cho nên ông mới khích tôi đọc yếu quyết của môn công phu này để ông phòng bị!”

Mạnh Thần Thông bị nàng vặn lại thì mặt đổi sắc, cười lạnh nói: “Giờ đây người đang ở trong tay ta, dám buông lời ngang tàng, bất kính đối với ta, ngươi tưởng ta sợ phái Mang Sơn của ngươi, không dám xử phạt ngươi sao? Ngươi hãy mau đọc khẩu quyết ra, có lẽ ta sẽ tha cho ngươi.” Cốc Chi Hoa nói: “Dù ông cầu tôi một vạn lần, tôi cũng không đọc cho ông nghe.”

Mạnh Thần Thông tức giận đến nỗi thất khiếu bốc khói, cả giận quát: “Ngươi có muốn sống không?” Cốc Chi Hoa chợt ngẩng đầu lên nói: “Tôi biết ông là ác ma giết ngươi không chớp mắt, nhưng tôi cũng mong được chết trong tay ông.”

Câu nói ấy thực sự là phát ra từ tận đáy lòng của nàng, nàng đang nghĩ: “Ông sinh tôi ra rồi giết tôi, coi như đã kết thúc mối quan hệ cha con của chúng ta, tôi vẫn không muốn có người cha như ông, tôi cũng không muốn ông biết có người con như tôi!”

Cốc Chi Hoa thản nhiên đợi cha ruột của mình giết chết. Nhưng Mạnh Thần Thông nghe những lời ấy của nàng thì không khỏi cả kinh!

Chợt trong lòng y dâng lên một cảm giác rất kỳ lạ, y nhìn kỹ Cốc Chi Hoa, đột nhiên y cảm thay thiếu nữ này rất giống một người mà y hằng mong nhớ, nhất là vẻ quan tâm của nàng đối với mình, vẻ tức giận của nàng!

Nàng nàng là ai?

Khi Hạng Hồng giao thủ với Cốc Chi Hoa, đã từng bị nàng tát một bạt tai, cho nên căm giận nàng đến cực điểm, lúc này có cơ hội trả thù thì bước lên nói: “Sư phụ, ả tiện nhân cứng đầu này không bị đánh thì không chịu khai, nếu lập tức xử tử ả thì đã có lợi cho ả, để đồ nhi đem cây roi bạch long đến xem xương ả cứng hơn cây roi bạchlong hay không?”

Mạnh Thần Thông trợn mắt, chợt quát: “Ai cho ngươi nhiều chuyện, cút ra!” Hạng Hồng định lấy lòng sư phụ nhưng lại bị mắng thế là tiu nghỉu vội vàng chạy ra ngoài, trong lòng rất ngạc nhiên, không hiểu sao nàng ta cứng đầu đến thế mà Mạnh Thần Thông lại tỏ vẻ thương xót cho nàng.

Hạng Hồng đương nhiên không đoán được Mạnh Thần Thông đang nghĩ gì. Té ra lúc này, y chợt nhớ đến người vợ của mình, trong lòng thầm nhủ: “Đúng thế, đúng thế, chính là vẻ mặt này. Trước đây mỗi lần mình làm sai chuyện gì, nàng đều nhìn mình với ánh mắt như thế! Ừ, nàng đã chết hai mươi năm, mình suýt nữa đã quên, không ngờ hôm nay đã gặp phải vẻ mặt tương tự như thế.”

Suốt cả đời Mạnh Thần Thông chưa từng sợ điều gì, nhưng không biết thế nào mà y lại đột nhiên run sợ, né tránh ánh mắt của Cốc Chi Hoa, vội vàng hỏi: “Ngươi ngươi là ai” Cốc Chi Hoa nói: “Chẳng phải ông đã biết rồi sao? Tôi là đệ tử của Lữ Tứ Nương phái Mang Sơn.”

Mạnh Thần Thông nói: “Ta hỏi ngươi họ gì tên gì?” Cốc Chi Hoa thấy lòng mình đau xót, nàng phải gắng gượng lắm mới nén được nỗi đau ấy, nàng khẽ nói: “Tôi tên Cốc Chi Hoa.”

Mạnh Thần Thông nó: “Cha của ngươi là ai?”

Cốc Chi Hoa nói: “Cha... cha của tôi chính là chính là...”

Mạnh Thần Thông quát: “Nói mau, là ai?”

Cốc Chi Hoa ấp úng: “Chính là... chính là Lưỡng Hồ đại hiệp Cốc Chính Minh!”

Mạnh Thần Thông như trút được gánh nặng, y thở phào nói: “Té ra người là con gái của Cốc Chính Minh. Ồ, sao ngươi lại rơi nước mắt?”

Cốc Chi Hoa không nén được, thút thít nói: “Tôi nhớ cha ruột của tôi, người... người đã chết rồi. Người làm sao biết nỗi khổ hôm nay của tôi!”

Đúng thế, trong lòng Cốc Chi Hoa, cha ruột của nàng đã chết từ lâu.

Mạnh thần Thông nhíu mày, nói: “Đừng khóc, đừng khóc, ngươi không chịu nói thì thôi vậy, ta không giết ngươi, cũng không đánh ngươi, ngươi đừng sợ.”

Sau khi nói ra câu ấy cả bản thân y cũng ngạc nhiên, y chưa bao giờ làm chuyện như thế trong đời, y chưa bao giờ nói lòng từ bi đối với một thiếu nữ chưa từng quen biết.

Cốc Chi Hoa lau nước mắt: “Ông hãy thả tôi đii!”

Mạnh Thần Thông nói: “Thế thì không được!”

Y chợt nhớ ra điều gì lớn giọng nói: “Năm nay ngươi hao nhiêu tuổi?”

Cốc Chi Hoa nói: “Hai mươi mốt tuổi!”

Mạnh Thần Thông lảo đảo, khó khăn lắm mới gượng đứng vững được, nhưng trong lòng thầm nhủ: trên đời không có chuyện khéo như thế.

Năm ấy mình không kịp cứu nàng, nàng đã bị trọng thương, hai mẹ con đành nằm lại giữa cánh đồng hoang con thơ chỉ mới tròn một tuổi không ai chăm sóc thì làm sao có thể sống? Nhưng tại sao ả lại nhìn mình với ánh mắt như thế? Ả cũng vừa đúng hai mươi mốt tuổi!”

Nghĩ đến đây, toàn thân y run bần bật. Cốc Chi Hoa nói: “Ông không giết tôi, lại không thả tôi, giữ rồi ở đây làm gì?”

Mạnh Thần Thông chợt nhớ lại nàng là đệ tử của Lữ Tứ Nương, nghĩ bụng: “Lữ Tứ Nương để lại công phu khắc chế mình, mình làm sao có thể dễ dàng buông tha cho đồ đệ của mụ? Có lẽ có vì mình quá nhớ nàng, thấy vẻ mặt của ả giống nàng cho nên tâm sự mới trỗi dậy, thật ra trên đời này có biết bao nhiêu cô nương hai mươi mốt tuổi, làm sao có thể trùng hợp đến thế?”

Nhưng khi y nhìn vào ánh mắt Cốc Chi Hoa, lòng lại chợt nhói lên. Mạnh Thần Thông tránh ánh mắt của Cốc Chi Hoa, trầm giọng nói: “Ta phải giữ ngươi ở lại bên cạnh ta suốt đời!”

Cốc Chi Hoa giật mình, lẩm bẩm: “Ở suốt đời bên ông, suốt đời, thà ông giết tôi cho xong!”

Mạnh Thần Thông nói: “Nếu không ngươi phải viết khẩu quyết luyện công ra.”

Cốc Chi Hoa thấy cõi lòng trĩu nặng, sư phụ để lại Thiếu dương thần công vốn là để khắc chế Mạnh Thần Thông, nếu mình cho ông ta biết thì coi như đã cứu mạng ông ta. Mạnh Thần Thông tuy là đại ma đầu nhưng rốt cuộc ông ta cũng là cha ruột của mình, mình làm sao có thể nỡ lòng để ông ta bị giết? Nhưng nếu mình nói với ông ta, làm sao ăn nói với sư phụ? Làm sao nhìn mặt các đồng môn cũ? Đó có khác gì phản bội sư môn, đại nghịch bất đạo?

Cốc Chi Hoa thầm nhủ trong lòng: “Không được, không được, mình không thể cho ông ta biết. Tuy mình không nói rõ với đồng môn, nhưng mình đã thề trước mộ sư phụ, không coi ông ta là cha!” thế rồi nước mắt tuôn lã chã.

Mạnh Thần Thông nói: “Ồ, sao ngươi lại khóc nữa? Ta giữ ngươi lại bên cạnh, chính là muốn truyền võ công tuyệt thế của ta cho ngươi. Ngươi làm đồ đệ của ta không tốt sao? Người khác muốn còn không được nữa là!”

Cốc Chi Hoa không nói gì mà chỉ lắc đầu.

Mạnh Thần Thông thấy thế thì lại nghi ngờ, đang định hỏi thì nhị đệ tử Ngô Mông của y bước vào: “Thiên thủ thần thâu Cơ Hiểu Phong xin gặp người.”

Mạnh Thần Thông nạt: “Bảo y cút đi, hôm nay ra chẳng gặp ai cả!” Ngô Mông nói: “Y bảo có chuyện rất quan trọng. Hình như y đang bị thương.”

Mạnh Thần Thông nói: “Y sống hay chết có liên quan gì đến ta? Chuyện quan trọng đến mức nào ta cũng mặc!”

Chợt bên ngoài cửa có giọng nói khàn khàn vang lên: “Mạnh Thần Thông, ngươi có biết tại sao ta bị thương không? Ta bị thương vì ngươi đấy! Nếu hôm nay ngươi không gặp ra, ngày sau ngươi sẽ chết trong tay đệ tử phái Mang Sơn”

Mạnh Thần Thông ngạc nhiên, kêu: “Hay lắm Thiên thủ thần thâu, ngươi dám xông thẳng vào đây! Ta sẽ để cho ngươi vào, nếu ngươi nói dối nửa lời, ta sẽ đánh chết ngươi.”

Nói xong, y nhốt Cốc Chi Hoa vào phòng trong rồi ra mở cửa cho Cơ Hiểu Phong, chỉ thay Cơ Hiểu Phong mình đầy vết máu, cánh tay phải đã sụi xuống, Mạnh Thần Thông nhìn thế thì nói: “Đúng thế, ngươi đã bị trúng Tỳ bà chưởng của Tào Cẩm Nhi. Sao ngươi lại đối địch với mụ ta?”

Cơ Hiểu Phong nói: “Ta từ đại hội Mang Sơn biết được trong vòng năm năm nữa Tào Cẩm Nhi và Dục Trọng Mâu sẽ giết chết ngươi. Ta vì ngươi cho nên mới liều mạng đánh cắp vật của bọn chúng!”

Mạnh Thần Thông nói: “Khoan đã, khoan đã, thân phận của ngươi mà cũng xứng tham gia đại hội Mang Sơn?”

Cơ Hiểu Phong nói: “Chính ta đã dò hỏi! Tưởng Lộc Tiều là huynh đệ kết bái của ta, trong đại hội Mang Sơn lần này, từ đầu đến cuối y đều có mặt. Ta biết được mọi chuyện là nhờ y!”

Cốc Chi Hoa bị nhốt trong phòng nghe rất rõ rà nó lời của ông ta, như thế há chảng phải Mạnh Thần Thông sẽ biết hết tất cả mọi chuyện hay sao? Nhưng Tưởng Lộc Tiều là một kiếm khách chính phái có tiếng tăm ở Hà Nam, còn Cơ Hiểu Phong là một tên trộm trên võ lâm, sao họ lại là huynh đệ kết bái của nhau? Chả lẽ y cố ý nói dối Mạnh Thần Thông.

Chỉ nghe Mạnh Thần Thông nói: “Ồ, té ra Tưởng Lộc Tiều cũng tham gia đại hội Mang Sơn, vậy thì đúng! Này, sao ngươi không nói gì nữa?” Cốc Chi Hoa nghe Mạnh Thần Thông nói thế thì biết y đã tin Cơ Hiểu Phong, nàng không khỏi giật mình.

Té ra Tưởng Lộc Tiều và Cơ Hiểu Phong có mối giao tình, có một lần Tưởng Lộc Tiều áp tiêu cho một tiêu cục, đã ác chiến với Độc cước đại đạo ở miền Hà Nam là Phương Quân Hùng, kết quả Phương Quân Hùng bị y chém đứt một cánh tay, còn y thì bị Phương Quân Hùng dùng Thiết sa chưởng đánh tọng thương.

Chính nhờ Cơ Hiểu Phong đã đến Tiêu vương phủ đánh cắp một cây thiên niên hà thủ ô nên mới trị thượng được cho y. Vì thế Tưởng Lộc Tiều mới chịu cúi mình kết thành huynh đệ với y, trên giang hồ không biết bí mật này. Mạnh Thần Thông đã biết chuyện này.

Chợt Cơ Hiểu Phong lảo đảo, y phải vội vàng vịn vách tường, lúc này đầu đã va vào tường, Mạnh Thần Thông kéo y tới, liên tục điểm vào các huyệt toàn cơ ngọc hoành, phong phủ, quy tàng, duy dạo, cư tiêu, phụng vĩ giúp y cầm máu, rồi sai nhị đệ tử Ngô Mông: “Ngươi hãy đem hai viên tiểu hoàn đơn đến đây, rồi lấy tục đoạn hoàn giao giúp y nối xương.”

Mạnh Thần Thông khám vết thương cho Cơ Hiểu Phong, cười rằng: “May mà Tào Cẩm Nhi đã truyền Thiết tỳ bà cho Lư Đạo Lân, công phu Thiết

tỳ bà chưởng của mụ vẫn chưa đến hoả hầu, nếu ngươi bị trúng binh khí của mụ thì chắc đã mất mạng!”

Một lát sau Ngô Mông lấy tiểu hoàn đơn đến cho y uống, loại tiểu hoàn đơn mà Mạnh Thần Thông tự luyện là loại thuốc có hiệu quả nhất trong các loại thuốc trị thương, có khả năng bồi dưỡng nguyên khí, Cơ Hiểu Phong uống xong, sau một tuần trà thì sắc mắt dần dần tươi tắn, lúc này Ngô Mông đã dùng tục đoạn giao nối xương lại cho y. Cơ Hiểu Phong đứng dậy, nhưng chẳng nói lời tạ ơn Mạnh Thần Thông mà trái lại Mạnh Thần Thông còn cảm tạ y: “Hay lắm, quả nhiên ngươi đã liều mạng vì ta, ngươi muốn báo đáp thế nào?”

Cơ Hiểu Phong nói: “Kim ngân châu báu thì ta có thể tự lấy, không cần ngươi.

Ta chỉ mong ngươi thu ta làm đệ tử.” Mạnh Thần Thông nói: “Tại sao ngươi muốn làm đồ đệ của ta?”

Cơ Hiểu Phong nói: “Hiện nay điều ta thiếu là võ công thượng thừa, nếu có thể học được vài phần bản lĩnh của ngươi, khi ta đi ăn trộm thì không bị người ta đánh nữa. Ha ha, lúc đó dù kim ngân châu báu trong hoàng cung đại nội, ta cũng có thể lấy ra để hiếu kính cho sư phụ!”

Mạnh Thần Thông cười ha hả rồi nói: “Được, ngươi rất mau mắn, ta thu ngươi làm đệ tử ký danh.” Cơ Hiểu Phong dập đầu ba cái rồi kêu: “Sư phụ!”

Rồi y mừng rỡ nói: Lần này tôi đi đánh cắp giùm cho sư phụ, tuy bị Tào Cẩm Nhi đánh một trận nhưng coi như cũng đáng giá.”

Mạnh Thần Thông nói: “Ngươi hãy từ từ mà kể, đừng vội.”

Cơ Hiểu Phong nói: “Được, vậy tôi sẽ nói từ đầu, Lữ Tứ Nương thu nhận một đệ tử quan môn, ông có biết không?”

Cốc Chi Hoa nghe tim đập thình thình, chỉ nghe giọng nói của Mạnh Thần Thông hơi run: “Ồ, ả tên là gì?”

Cơ Hiểu Phong nói: “Tên là Cốc Chi Hoa.”

Mạnh Thần Thông nói: “Ông có biết cha mẹ của ả là ai không?”

Cơ Hiểu Phong nói: “Nghe nói là con gái của Lưỡng Hồ đại hiệp Cốc Chính Minh.”

Mạnh Thần Thông thở phào:“Tiểu cô nương ấy không gạt mình.”

Cốc Chi Hoa thở phào, thầm nhủ: “Huynh đệ kết nghĩa của Cơ Hiểu Phong cũng tham gia đại hội Mang Sơn, nhưng tại sao y không biết mình là con của Mạnh Thần Thông? Chả lẽ y định muốn giấu giùm cho mình? Mình và y không quen nhau, y cần gì phải giao cho mình? Chả lẽ y đợi đến cuối cùng mới tiết lộ?”

Cốc Chi Hoa cứ thắc thỏm trong lòng, chỉ nghe Cơ Hiểu Phong tiếp tục nói: “Thực ra Lữ Tứ Nương đã biết ông ẩn cư ở núi Thái Hàng, sở dĩ bà ta không đến tìm ông là bởi tự thấy không nắm chắc phần thắng. Sau đó bà ta đã bỏ ra mười năm luyện thành một môn Thiếu dương thần công, nghe nói đó chính là khắc tinh của Tu la âm sát công.”

Mạnh Thần Thông nói: “Làm sao ngươi biết bí mật này?”

Cơ Hiểu Phong nói: “Do chính đệ tử của Lữ Tứ Nương nói với Tào Cẩm Nhi!” Mạnh Thần Thông nói: “Tại sao ả lại có thể nói bí mật của bổn môn trước mặt người ngoài? Chuyện này chẳng hợp tình hợp lý tí nào.”

Cơ Hiểu Phong nói: “Điều đó thì tôi không biết, nhưng nghĩa huynh của tôi chưa bao giờ nói dối, ông ta cũng không có lý do gì gạt tôi!”

Mạnh Thần Thông nào biết, vì ngày hôm ấy Cốc Chi Hoa bị Tào Cẩm Nhi ép buộc, đầu tiên là tiết lộ bí mật về thân thế của nàng, tiếp theo lại đuổi nàng ra khỏi phái Mang Sơn. Trong tình huống ấy, Cốc Chi Hoa đang rất kích động nào có thể nghĩ ngợi gì nhiều. Vả lại nàng đã phụng di lệnh của sư phụ, trao Thiếu dương thần công cho Tào Cẩm Nhi, nếu lúc đó không đưa ra thì chỉ e sau này không có dịp gặp lại. Lúc này nàng nghe Mạnh Thần Thông hỏi Cơ Hiểu Phong mới thầm hối hận, thấy mình quá kém cỏi kinh nghiệm giang hồ, đã để bí mật của bản môn cho người ngoài biết.

Nhưng nàng thầm ngạc nhiên: “Tại sao cho đến bây giờ Cơ Hiểu Phong vẫn chưa tiết lộ thân thế bí mật của mình? Chả lẽ y quả thật không biết? Y đã biết những lời mình nói với sư tỷ, tại sao không biết Mạnh Thần Thông là cha mình?”

Chỉ nghe Cơ HiểuPhong tiếp tục nói: “Sư phụ, nếu ông không tin, học trò còn có bằng chửng. Cốc Chi Hoa đã đưa ba thiên Thiếu dương thần công của Lữ Tứ Nương cho Tào Cẩm Nhi, học trò đã đánh cắp được ba thiên bí kíp này.”

Mạnh Thần Thông trợn mắt, nói: “Đưa cho ta xem. Hừ ta phải xem Lữ Tứ Nương làm được trò trống gì!”

Cốc Chi Hoa thầm kêu khổ, nghĩ bụng ba thiên Thiếu dương thần công này tuy mất trong tay Tào Cẩm Nhi, nhưng nếu không phải vì mình tiết lộ bí mật của bổn môn, trao cho Tào Cẩm Nhi trước mặt mọi người, Thiên thủ thần thâu làm sao có thể đánh cắp được? Nếu truy tận ngọn ngành, tất cả đều là do mình sai, lúc này nàng rất hối hận.

Mạnh Thần Thông đọc kỹ ba thiên Thiếu dương thần công, lúc đầu chỉ nghe y không ngừng cười lạnh.

Thiên thủ thần thâu thầm nhủ: “Chả lẽ Lữ Tứ Nương nói quá sự thực, ba thiên Thiếu dương thần công này thật ra chẳng có ích gì, cho nên Mạnh Thần Thông mới coi thường như thế? Ôi chao, nếu biết như thế thì mình đâu cần phải thí mạng.”

Một hồi sau, Mạnh Thần Thông không cười lạnh nữa, sắc mặt càng lúc càng nặng nề trái lại Cơ Hiểu Phong thở phào.

Té ra Tu la âm sát công của Mạnh Thần Thông là môn công phu đệ nhất trong tà phái, lại thất truyền đã lâu võ học của Lữ Tứ Nương tuy là đệ nhất trên đời bà ba đã từng dò hỏi tình trạng của những người đã chết, nhưng vẫn không thể biết ra chỗ ảo diệu của Tu la âm sát công, cho nên bà sáng tạo ra Thiếu dương thần công chỉ để phòng ngự Tu la âm sát công, không thể phá giải, trong đó đương nhiên cũng có chỗ không chu toàn. Cho nên khi Mạnh Thần Thông đọc vài trang đầu thì không khỏi coi thường.

Nhưng đọc xong ba thiên Thiếu đương thần công, Mạnh Thần Thông bất đồ cả kinh, người luyện Thiếu dương thần công có thể tăng lên công lực chống lại ngoại tà xâm nhập, tuần tự dần tiến, từ nông đến sâu, cho đến phía sau thì càng ảo diệu.

Mạnh Thần Thông thầm nhủ: “Võ công của Lữ Tứ Nương quả nhiên hơn mình rất xa, mụ ta chưa luyện Tu la âm sát công mà đã nghĩ ra được cách phòng ngự, quả thực rất đáng khâm phục! Tuy Thiếu dương thần công chưa thể phá giải công phu của mình nhưng nếu có một người có công tức tương đương với mình luyện loại công phu này thì Tu la âm sát công chẳng làm gì được y.

Nếu bốn cao thủ thuộc hàng nhất lưu phái Mang Sơn luyện loại công phu này thì chẳng khó gì lấy mạng mình!” ... y nghĩ đến đó thì làm sao có thể cười được!

Cơ Hiểu Phong nói: “Sư phụ thấy Thiếu dương thần công như thế nào?”

Mạnh Thần Thông nhớ lại lúc nãy buộc Cốc Chi Hoa nói ra khẩu quyết, nhưng giờ đây lại chẳng cần tốn công phu gì nữa, thế rồi cười ha hả: “Rất đáng giá!” lúc này y đã nhớ hết tất cả những điểm quan trọng của Thiếu dương thần công, thế là y đặt ba thiên Thiếu dương thần công lên bàn tay rồi hai tay chắp lại, vừa vỗ nhẹ thì vụn giây bay xuống lả tả, buông giọng cười lớn: “Lữ Tứ Nương đã xuống mồ mà còn muốn đối địch với ta, hừ! Ta sẽ khiến cho mụ chết không nhắm mắt!”

Mấy câu này như gai nhọn đâm vào lòng Cốc Chi Hoa, Mạnh Thần Thông hủy ba thiên Thiếu dương thần công đã đủ khiến cho nàng đau lòng, điều khiến cho nàng càng đau lòng hơn là từ rày về sau, chỉ có một mình nàng biết Thiếu dương thần công, sau này muốn chế phục Mạnh Thần Thông, trừ phi nàng chép lại Thiếu dương thần công rồi trao cho Tào Cẩm Nhi, hoặc nàng phải đích thân ra tay với Mạnh Thần Thông.

Tóm lại, dù trực tiếp hay gián tiếp, nàng đã là kẻ địch của cha ruột mình! Ôi, nàng làm sao có thể đối phó với cha ruột của mình?

Trong lúc này, Cốc Chi Hoa chợt nghĩ đến tự sát, tuy Mạnh Thần Thông đã thu kiếm của nàng, nhưng nàng vẫn có thể vận nội công đánh đứt kinh mạch để kết liễu tính mạng. Nhưng nàng đã theo Lữ Tứ Nương hơn mười năm nàng vừa muốn chết thì lập tức nhớ đến sư phụ: “Sư phụ chỉ có một đệ tử là mình, người đã bỏ ra hơn mười năm dạy mình thành người, truyền hết bản lĩnh cả đời chú mình, hy vọng mình kế thừa y bát của người, dù không thể đánh đuổi Thát Lỗ, ít nhất cũng là một người hành hiệp trượng nghĩa, mình làm sao có thể phụ lòng mong mỏi của người, dễ dàng chết đi như thế!?”

Thế rồi hình bóng của Kim Thế Di cũng hiện lên trong lòng nàng, giọng nói của Kim Thế Di tựa như vang lên bên tai nàng: “Sen mọc ở bùn nhơ mà chẳng hôi tanh ai trong tự người ấy trong, ai đục tự người ấy đục. Ông ta là ông ta, cô nương là cô nương, cô nương và ông ta đâu có liên quan gì! Cô nương chỉ cần nghĩ mình vốn chẳng có người cha này, cần gì phải khổ vì ông ta cả đời?” nàng lại nhớ đến lời dạy của sư phụ, nhớ đến lời khuyên của Kim Thế Di, Cốc Chi Hoa chợt thấy cứng cỏi, thầm nhủ: “Đúng thế! Trừ phi ông ta đích thân giết mình, dù thế nào đi nữa mình cũng không thể tự kết liễu tính mạng của mình.” Tuy Cốc Chi Hoa có thể xua tan ý nghĩ tự sát nhưng nàng không thể nào vượt qua nỗi khổ não trong lòng mình.

Mạnh Thần Thông tiếp tục hỏi Cơ Hiểu Phong: “Ở đại hội Mang Sơn còn có tin tức gì nữa không?”

Cơ Hiểu Phong nói: “Còn có một việc lớn nữa, đồ đệ của Liễu ân hòa thượng là Diệt Pháp hòa thượng lại xuất hiện.”

Mạnh Thần Thông nói: “Ồ, y đã mai danh ẩn tích mấy mươi năm, lại xuất hiện nữa ư? Chắc y biết Lữ Tứ Nương đã chết cho nên mới dám xuất hiện.”

Cơ Hiểu Phong nói: “đúng thế! Y đến đại náo một hồi, nghe nói còn tranh đoạt chức chưởng môn với Tào Cẩm Nhi, nhưng cuối cùng bị Cốc Chi Hoa và Kim Thế Di đuổi chạy.” Thực ra Kim Thế Di không ra tay, Tưởng Lộc Tiều nói không rõ ràng cho nên y cứ lấy sai kể sai.

Mạnh Thần Thông thất kinh, nói: “Kim Thế Di đã đến Mang Sơn lại còn giúp phái Mang Sơn đánh lui Diệt Pháp hòa thượng?”

Y vẫn cứ nghĩ rằng Kim Thế Di bị thương bởi Tu la âm sát công, không chết cũng tàn phế, cho nên nghe được tin này thì làm sao không kinh hãi?

Cốc Chi Hoa cũng rất lấy làm lạ, tại sao Cơ Hiểu Phong từ đầu đến cuối không nói nàng là con của Mạnh Thần Thông? Cốc Chi Hoa không biết rằng, té ra Tưởng Lộc Tiều là một kiếm khách chính phái, ông ta cũng Thông cảm với cảnh ngộ của Cốc Chi Hoa. tuy tiết lộ bí mật của phái Mang Sơn cho Cơ Hiểu Phong biết, nhưng lại không tiết lộ bí mật cá nhân của người khác, cho nên đã giấu mối quan hệ giữa Cốc Chi Hoa và Mạnh Thần Thông.

Cốc Chi Hoa đang rối bời lòng dạ, chỉ nghe Mạnh Thần Thông lại cười: “Hiểu Phong, người vừa mới vào bổn môn thì đã lập được công lớn, ta nhất định sẽ không đối xử tệ với ngươi, trước tiên ngươi hãy theo đại sư huynh luyện một loại công phu cơ bản, ba ngày sau, ta sẽ đích thân truyền thụ Tu la âm sát công cho ngươi. Ha ha! Vài năm nữa, đợi ta luyện Tu la âm sát công đến tầng thứ chín, lúc đó ta đã là thiên hạ vô địch, còn ngươi đã là thiên hạ đệ nhất thánh thủ thân thâu.”

Cơ Hiểu Phong đập đầu mấy cái lui ra khỏi thạch thất, Mạnh Thần Thông cười vẫn không ngớt, rồi y mở cửa sương phòng, y liếc mắt nhìn thì thấy Cốc Chi Hoa sắc mặt trắng bệt, y lại cười đắc ý nói: “Ngươi đã nghe hết cả rồi chứ? Ngươi cũng biết sợ? Ta muốn người biết rằng Thiếu dương thần công của sư phụ ngươi giờ đây chỉ có ta và ngươi biết.”

Cốc Chi Hoa nhìn thần sắc của y, bất đồ giật mình: “Chắc lần này ông ta sẽ hạ độc thủ mình đây” chỉ nghe Mạnh Thần Thông tiếp tục nói: “Ngươi nên đắc ý mới phải! Trên đời này, ngoại trừ người không ai có thể sử dụng Thiếu dương thần công làm khó ta nữa.”

Y nói đến đây thì bất ngờ mắt lộ hung quang lạnh lùng nói: “Giờ đây chỉ có hai con đường cho ngươi chọn, một là đi theo bổn môn, ta còn sống ngày nào thì ngươi không được rời ta ngày ấy. Nếu ngươi còn muốn báo thù cho phái Mang Sơn, vậy thì chỉ có một con đường chết, ta phải hành hạ ngươi để ngươi chết từ từ. Ngươi đừng trách ta ác độc, ai bảo ngươi là đệ tử của Lữ Tứ Nương, nay ngoại trừ ta, còn ai biết được Thiếu dương thần công nữa? Được, ta cho ngươi một kỳ hạn, ngươi hãy tự suy nghĩ, ngày mai phải trả lời cho ta biết. Ngươi có nghe rõ không?”

Lúc nãy Mạnh Thần Thông nghe Cơ Hiểu Phong bao Cốc Chí Hoa là con của Lưỡng Hồ đại hiệp Cốc Chính Minh, hoàn toàn phù hợp với lời khai của Cốc Chi Hoa, y không còn hoài nghi Cốc Chi Hoa là con gái của mình, thế là quyết định nếu Cốc Chi Hoa không chịu khuất phục thì sẽ giết chết nàng!

Cốc Chi Hoa cố gắng nén nỗi bi phẫn trong lòng mình, ngẩng mặt nhìn Mạnh Thần Thông, kiêu hãnh nói: “Cần gì phải đợi đến ngày mai, ông cứ ra tay ngay cho xong!” Mạnh Thần Thông quát: “Cái gì? Ngươi quyết định như thế nào?”

Cốc Chi Hoa nói: “Tôi thà chết chứ không chịu làm đệ tử của ông” Mạnh Thần Thông nói: “Ngươi còn trẻ tuổi mà không sợ chết sao?”

Cốc Chi Hoa nói: “Không, tôi không phải không sợ chết nhưng nếu làm đệ từ của ông thì còn đáng sợ hơn cả chết!”

Mạnh Thần Thông cười lạnh nói: “Ngươi cậy là đệ tử của danh môn chính phái nên coi thường ta phải không? Được, ngươi muốn chết thì ta sẽ giúp cho ngươi.” rồi giơ tay lên, ngầm vận Tu la âm sát công, trong nhất thời lòng bàn tay trở nên đen như mực rồi y chậm rãi vỗ xuống đầu Cốc Chi Hoa. Hai người mặt đối mặt, Mạnh Thần Thông chợt thấy Cốc Chi Hoa rơi đôi dòng lệ, y nào biết, không phải Cốc Chi Hoa sợ chết mà là nàng đau lòng bởi thảm kịch nhân luân, ngay lúc này người đã sinh ra nàng sắp xuống tay giết nàng.

Mạnh Thần Thông tuy không còn hoài nghi Cốc Chi Hoa là con gái của mình nữa, nhưng không hiểu sao thấy nàng rơi nước mắt thì lại mềm lòng! Suốt đời y giết người chưa bao giờ chớp mắt, thế nhưng lần này lại mềm lòng, quả thực đó là chuyện chưa bao giờ có. Cốc Chi Hoa nhắm mắt chờ chết, nhưng chỉ cảm thấy đỉnh đầu mát rượi, hình như có một tảng băng dần dần đè xuống, còn bàn tay của Mạnh Thần Thông thì vẫn chưa chạm vào nàng.

Cốc Chi Hoa mở bừng mắt, kêu lên: “Ông muốn giết cứ giết, cần gì phải đắn đo.”

Mạnh Thần Thông nghiến răng, lại đè chưởng xuống, nhưng tựa như có một nguồn lực nặng ngàn cân đẩy lên khi lòng bàn tay còn cách đỉnh đầu nàng ba tấc, không hiểu sao y lại không đè xuống nữa.

Ngay lúc này, Ngô Mông chợt chạy vào nói: “Ở cửa cốc phát hiện có một lão hòa thương kỳ quái, y đòi sư phụ phải ra đón y.”

Mạnh Thần Thông thu chưởng thế, nói: “Ngươi miệng thì nói không sợ, nhưng trong lòng đang sợ, ngươi đừng giấu ta nữa. Nay ta từ bi để cho ngươi suy nghĩ tiếp một ngày.”

Cốc Chi Hoa kêu lên: “Ông cần gì phải hành hạ tôi thêm một ngày nữa? Ngày mai câu trả lời của tôi cũng chẳng thay đổi, ông muốn giết tôi thì hãy cứ mau ra tay.”

Nhưng Mạnh Thần Thông đã đi ra khỏi thạch thất, y giả vờ không nghe nàng nói gì nữa. Chỉ nghe bình một tiếng, hai cánh cửa đá dày đóng sầm lại trong phòng tối om. Tiếng bước chân của Mạnh Thần Thông dần xa, Cốc Chi Hoa nghe tiếng y quát văng vẳng: “Kẻ nào mà lớn gan dám đòi ta ra tiếp?”

Có tiếng đệ tử của Mạnh Thần Thông lo lắng trả lời: “Chúng con vốn không muốn kinh động đến sư phụ nhưng lão hòa thượng quái dị này hình như có bản lĩnh cao cường, bọn chúng con chặn không được!”

Nói chưa dứt lời thì nghe tiếng cây thiết trượng chạm xuống đất, Mạnh Thần Thông nghe âm thanh ấy cách đó khoảng một dặm, chỉ trong chốc lát thì tựa như đã đến trước cửa!

Mạnh Thần Thông giật mình, nói: “Đúng thế, quả nhiên là có bản lĩnh, chả trách nào các ngươi chặn không được.”

Y bước ra nhìn, dưới ánh trăng chỉ thấy một hòa thượng thân hình cao lớn, râu và chân mày bạc phơ, nhưng mặt thì đỏ hồng hào, Mạnh Thần Thông vừa nhìn thì biết lão đã học nội công huyền môn chính tông, vả lại là một cao thủ có căn cơ thâm hậu Mạnh Thần Thông ngẩn người, thầm nhủ: “Trong chính phái chưa từng nghe nói có nhân vật này, chả lẽ là trưởng lão gì đó của Đạt Ma viện chùa Thiếu Lâm?” đối với những nhân vật lừng lẫy trong võ lâm, Mạnh Thần Thông dù cho chưa gặp cũng đã từng nghe nói tới có thể biết sơ qua võ công và dung mạo của họ, chỉ có trưởng lão của Đạt Ma viện chùa Thiếu Lâm là những cao tăng đã bế quan mấy mươi năm, đương nhiên người trong giang hồ không biết được.

Nhưng hòa thượng già này lại không giống cao tăng hữu đạo, chỉ thấy ở chân mày của lão có ẩn hiện sát khí, ăn mặc cũng rất kỳ quặc, trên lưng lại vác một cải bao bố rất to, tay cầm cây thiền trượng to bằng miệng bát.

Mạnh Thần Thông nhìn hòa thượng ấy rồi hỏi: “Đại sư nửa đêm đến thăm, không biết có gì chỉ giáo?” hòa thượng ấy cười ha hả: “Không có chuyện thì không đến điện Tam Bảo, đương nhiên là có chuyện mới đến đây. Lão Mạnh, ta nghe tiếng của ông đã lâu, chúng ta hãy làm quen nhau?” rồi y đặt cái bao bố xuống, bước sải tới giơ bàn tay to bè bắt tay Mạnh Thần Thông.

Mạnh Thần Thông là kẻ già dặn giang hồ, đương nhiên biết y có ý tỉ thí, trong lòng cả giận, thầm nhủ: “Ngươi tưởng đã luyện nội công chính tông huyền môn thì ta sợ ngươi đấy hử?” nhưng y cũng không dám khinh địch, thầm thi triển Tu la âm sát công đến tầng thứ bảy bắt tay với hòa thượng, y chỉ cảm thấy một luồng đại lực truyền qua, hai người đều thối lui ba bước, nhưng hòa thượng ấy thối lui ba bước mà thân hình vẫn lảo đảo, vả lại còn không khỏi rùng mình một cái, rõ ràng y đã thua.

Mạnh Thần Thông chưa kịp lên tiếng thì hòa thượng quái lạ ấy cười ha hả: “Mạnh lão quái quả nhiên danh đồn không ngoa, đáng hưởng một món hậu lễ của ta”

Mạnh Thần Thông thấy hòa thượng quái dị dám tiếp một chưởng của y mà vẫn không bị thương, trong lòng thầm phục, thế rồi mới nói: “Trên đời này chẳng có mấy người có thể chống nổi Tu la âm sát công của tôi, đại sư cũng đáng cho tôi ra nghênh đón. Xin mời đại sư ban cho tôi biết pháp hiệu?” hòa thượng quái dị ấy nói: “Ông muốn hỏi pháp hiệu của ta? Ta chính là Diệt Pháp hòa thượng!”

Mạnh Thần Thông ngẩn người, kêu lên: “Té ra đây là Diệt Pháp hòa thượng, chả trách nào tôi nhận không ra! Quả thật chúng ta đều đã nghe danh của nhau đã lâu.”

Diệt Pháp hòa thượng nói: “Ông nói đúng lắm, chúng ta đều đã nghe danh nhau, từ lâu tôi đã muốn gặp ông. Nay tôi tặng cho ông một món quà hậu gặp mặt, đảm bảo ông vừa thấy sẽ thích!” người tặng quà lại khen món quà của mình tốt trên đời hiếm có.

Mạnh Thần Thông thầm nhủ: “Xem thử y tặng cái gì? Chả lẽ còn hơn cả Thiếu dương thần công?” Chợt thấy Diệt Pháp hòa thượng giở cái bao bố lên, xé toạc ra, một người nhảy ra đó một nước.

Diệt Pháp hòa thượng xỉa ngón tay tới, thiếu nữ ấy nhảy bật dậy, ngoạc mồm mắng: “Lừa trọc, ta với người không thù không oán, tại sao ngươi lại bắt nạt ta?” rồi nàng rút soạt thanh kiếm toan lao tới liều mạng với Diệt Pháp hòa thượng, Diệt Pháp hòa thượng cười rằng: “Ngươi hãy nhìn xem ở đây là ai?” thiếu nữ ấy liếc nhìn thì thấy Mạnh Thần Thông, nàng hoảng hồn kêu thét lên, Điệt Pháp hòa thượng nhân lúc nàng thất kinh, lại vung tay điểm tới phong bế huyệt đạo của nàng.

Lúc này Mạnh Thần Thông vừa lo vừa mừng, té ra nàng thiếu nữ ấy chính là Lý Tâm Mai. Mạnh Thần Thông đã sai nhiều người tỏa ra tìm bắt Lý Tâm Mai, không ngờ nay Diệt Pháp hòa thượng lại đem nàng đến tận nơi.

Mạnh Thần Thông cười ha hả: “Quả nhiên đây là món quà tôi thích nhất, sao đại sư biết tôi đang cần ả?”

Diệt Pháp hòa thượng nói: “Tôi gặp một học trò của ông ở gần núi Mang Sơn, y hỏi tôi có từng gặp một thiếu nữ như thế này không! Tôi vừa nghe thì biết ông đang muốn tìm con gái của Phùng Lâm.”

Mạnh Thần Thông nhíu mày, trong lòng đang bực vì học trò của mình đã quá ngu xuẩn, tùy tiện dò hỏi người khác:

“May mà gặp phải Diệt Pháp hòa thượng, nếu là cao thủ của danh môn chính phái thì họ chẳng phải tin này đã bị lộ ra ngoài?”

Diệt Pháp hòa thượng tiếp tục nói: “Tiểu cô nương này quả thật lớn gan, hai năm trước ả một mình xông pha giang hồ, tôi đã biết ả. Lúc ấy ả vẫn chưa có kẻ thù, đi lại một mình trên giang hồ cũng chẳng sao, không ngờ nay ả gặp phải một kẻ thù lợi hại như ông lại còn muốn đến tham gia đại hội Mang Sơn.” Té ra Lý Tâm Mai đang muốn đến Mang Sơn dò hỏi dung tích của Kim Thế Di, nào ngờ chưa đến Mang Sơn thì đã gặp phải Diệt Pháp hòa thượng nên bị y bắt sống.

Đó chính là: Mới vừa rời khỏi chốn nguy hiểm, nay rơi lại vào tay ác đồ.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Next

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 19 guests