Thể Xác Và Tâm Hồn - Maxence Van Dek Meersch

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Thể Xác Và Tâm Hồn - Maxence Van Dek Meersch

Postby bevanng » 27 Sep 2022

Image


Thể xác và Tâm hồn

MAXENCE VAN DEK MEERSCH

Dịch Giả: Phan Minh Hồng - Mai Thái
Nhà Xuất Bản Văn Học


Xuất bản năm 1943, tác phẩm Thể xác và Tâm hồn thành công vang dội khi được vinh danh tại giải thưởng Viện Hàn lâm Pháp. Bộ tiểu thuyết được công chúng và giới phê bình văn học đánh giá cao, nhưng cũng đồng thời làm dấy lên tranh luận sôi nổi về những góc khuất của nghề Y được phơi bày trong tác phẩm.
Bức tranh hiện thực sâu sắc trong hoạt động y tế cũng như đời sống xã hội nước Pháp vào nửa đầu thế kỷ XX đã được tác giả khắc họa chân thực với những bất công trong xã hội, những tình yêu éo le, những cảnh đời ngang trái, những kẻ cơ hội, những bác sĩ cố chấp… Và cả những tâm hồn cao thượng, những y bác sĩ tận tâm, dám hy sinh, dám dấn thân và đi đến tận cùng đức tin của mình!

Chỉ có hai thứ tình yêu: Yêu chính bản thân ta và yêu những người khác…

(Giải thưởng Viện Hàn lâm Pháp năm 1943)
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Thể Xác Và Tâm Hồn - Maxence Van Dek Meersch

Postby bevanng » 27 Sep 2022

Lời Giới Thiệu


Thể xác và Tâm hồn (Corps et Âmes) là một trong những tác phẩm quan trọng nhất trong văn nghiệp của nhà văn Maxence Van der Meersch. Bộ tiểu thuyết tâm lý xã hội này từng được vinh danh tại giải thưởng Viện Hàn lâm Pháp năm 1943 và dịch sang 13 ngôn ngữ khác nhau.
Thể xác và Tâm hồn xoay quanh những biến cố trong gia đình giáo sư Jean Doutreval. Michel - cậu con trai mà ông hết lòng yêu thương - đã từ bỏ tiền đồ xán lạn được cha định sẵn, từ chối cuộc hôn nhân với con gái của một giáo sư danh giá, để đi theo tiếng gọi của lương tâm, lòng trắc ẩn, và tình yêu đích thực…
Nhưng, không đơn thuần là một câu chuyện gia đình, tác phẩm vô cùng lôi cuốn bởi những trang lột tả chân thực về một nghề rất đổi cao cả, cực nhọc, lại vô cùng bí ẩn với những góc khuất, đó là: Nghề Y.
Bức tranh hiện thực sâu sắc về nước Pháp những năm nửa đầu thế kỷ XX được khắc họa với những bất công trong xả hội, những tình yêu éo le, những cảnh đời ngang trái, những kẻ cơ hội, những bác sĩ cố chấp… Và cả những tâm hồn cao thượng, dám hy sinh, dám tranh đấu cho lý tưởng nhân đạo và lẽ phải…
Thể xác và Tâm hồn được lấy cảm hứng từ chính cuộc đời của Paul Carton, một vị bác sĩ mà Maxence Van der Meersch vô cùng biết ơn và ngưỡng mộ - người đã chỉ ra rằng: “Chữa bệnh theo phương pháp tự nhiên, bằng cách sửa chữa những sai lầm trong sinh hoạt vật chất và đời sống tinh thần là biện pháp tốt nhất, căn bản nhất để tạo nên sự miễn dịch tự nhiên trong việc phòng bệnh và chữa bệnh cho con người”.
Thông qua những nhân vật như bác sĩ Domberlé và Michel, dường như Maxence Van der Meersch muốn bày tỏ lời tri ân đến Paul Carton. Ông mong muốn mỗi con người có thể tự giải thoát khỏi những độc tố trong cơ thể do thói quen ăn uống và sinh hoạt gây ra, để trở về với cuộc sống lành mạnh đúng nghĩa. Ông bày tỏ ước vọng lớn lao, rằng nền y khoa chính thống sẽ sớm tìm lại “sự thật”, nhận thức lại sứ mệnh và nhiệm vụ cao quý: cứu vãn nền văn minh, cứu vãn thể xác và tâm hồn con người!

Phúc Minh Books
Last edited by bevanng on 02 Oct 2022, edited 1 time in total.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: anhhat26

Re: Thể Xác Và Tâm Hồn - Maxence Van Dek Meersch

Postby bevanng » 27 Sep 2022

Tự trói buộc…


Phần thứ nhất


Hai tình yêu đã tạo nên hai thành phố: Yêu bản thân đến mức khinh ghét Chúa, thành phố địa giới; Yêu Chúa đến mức khinh ghét bản thân, thành phố thiên giới.
THÁNH AUGUSTINE.

Thành phố của Chúa. Lib. XI, cap. 28.


1


Michel thận trọng đẩy cánh cửa phòng phẫu tích. Sau ngày xuất ngũ, đây là lần đầu tiên anh trở lại trường.
Hẳn các bạn đang rình chờ anh. Vừa bước vào, ngực anh nhận ngay một khúc xương còn dính thịt.
- Ném thịt thối vào người nó! Ném thịt thối vào người nó! Tống cổ thằng Michel ra ngoài! Tống cổ thằng Doutreval ra ngoài! Giết thằng “lính mới”! Giết thằng “năm nhất”! Ném thịt thối vào người nó! Ném thịt thối vào người nó!
Và thịt thối bay loạn xạ, ba mươi sinh viên mặc áo blouse trắng vừa hò hét vừa ném tới tấp. Một anh chàng to con trán hói và một anh chàng nhỏ con, gương mặt bầu bĩnh nấp sau cặp kính gọng đồi mồi to tướng, chỉ huy cuộc tấn công. Michel khom người xuống sau bàn, nhặt mảnh thịt ném trả các bạn, vừa chạy lao về phía họ vừa la lên:
- Bầy bò cái. Tụi mày có giỏi thì nhào vô!
Anh chạy đến giữa đám sinh viên. Và cuộc chiến đấu chấm dứt. Các bạn vây quanh anh, vừa vỗ đen đét vào người anh vừa cười đùa ầm ĩ.
- Tụi mày không biết điều chút nào! - Michel phản đối trong lúc rửa mặt và tay bằng xà bông. - Tao là một sinh viên cũ mà tụi mày chơi tao! Dù sao đi nữa tao cũng đâu còn là “tân binh” năm nhất! Thôi được. Thế nào, tụi mày ra sao? Seteuil vẫn luôn hỏi như thế à?
- Luôn luôn, - anh chàng Seteuil trán hói cao lớn đáp. - Này, Michel, tối nay sau buổi tiệc, mày sẽ nhập hội với bọn tao chứ?
- Ừ! Mấy giờ?
- Mười giờ, - anh chàng nhỏ con Tillery đeo kính to đáp. - Lúc đó tiệc đã xong.
- Santhanas có mặt không?
- Chắc chắn nó sẽ đến.
- Tụi mình sẽ được đùa một mẻ thích thú! - Seteuil nói. Liền đó, anh ta trình bày chương trình của buổi tối. Tillery, vẻ trịnh trọng và chăm chú lan tỏa khắp khuôn mặt tròn nhỏ và búng ra sữa, vừa lắng nghe và gật gù tán đồng, rất nghiêm túc, vừa chùi cặp kính vào áo blouse trắng. Anh ta cầm dao mổ, tiến tới bên một tử thi đã bị đục ruỗng ba phần tư, bày ra trước mặt anh ta trên cái bàn bằng đá cẩm thạch. Tất cả các cơ đều đã bị lấy đi. Tử thi chỉ còn là một đống thịt màu rượu chát, các khúc xương to màu vàng lợt được nối liền nhau nhờ những sợi gân trắng, giống như những sợi dây buộc. Một cách tỉ mỉ, Tillery làm lộ hẳn ra những sợi gân của xương cánh tay trước, cắt bỏ mấy phần thịt thối rữa, vo viên rồi cho vào một cái thùng ở dưới bàn, động tác nhanh nhẹn như anh hàng thịt. Các sinh viên khác cũng tiếp tục trở lại công việc, và, ngậm điếu thuốc trên môi, họ buông ra những lời bông đùa thô tục và trắng trợn. Phản ứng tự nhiên của tuổi trẻ bị va chạm một cách thô bạo với thực tế khắc nghiệt của thân phận con người, và với họ, sự đùa cợt mạnh bạo chỉ là biểu hiện của một nhu cầu tuyệt vọng muốn bằng mọi giá làm chai sạn trái tim họ.

Image


Seteuil cầm một mảng thịt hãy còn dính da và lông. Anh ta cạo cạo phía trong, lật qua lật lại để xem xét. Đột nhiên, anh ta nhìn sát vào nó trong một phút.

- Này, Tillery, mày có biết cái tử thi mà mày đang giải phẫu là ai không? - Seteuil hỏi.
Anh ta giơ mảng thịt ra: Một cái mặt người đả được lóc khỏi xương, một thứ mặt nạ màu vàng, nhăn nheo, nhàu nát mà người ta vẫn mơ hồ nhận ra một gương mặt bà già.
- Không, - Tillery đáp.
- Đó là bà già của mày ở bệnh viện, cái bà mà Géraudin đã phẫu thuật đó. Thằng quỷ! Nhiều lần mày đã mang thuốc lá cho bà ấy.
Tillery cầm lấy nó, trải thẳng miếng da trên bàn tay, xem xét:
- Đúng rồi! Mẹ kiếp!
Anh ta nhìn mảnh da người già nua trong một phút. Đôi mắt nhỏ màu xám chăm chú, trầm ngâm, đằng sau cặp kính gọng đồi mồi to tướng.
- Ôi, mẹ kiếp! - Anh ta lặp lại.
Anh ta lặng thinh trong một giây, dường như xấu hổ. Rồi anh ta cười phá lên, tung cái mặt người lên hai hay ba lần. Anh ta nhái giọng nói của ông giáo sư già Donat:
- Tốt lắm, tốt lắm, quý vị… Thật là tốt…
Và đột nhiên, anh ta lấy lại giọng nói tự nhiên của mình, rống lên:
- Này, này, hãy bắt lấy, thằng heo!
Anh ta ném cái mặt người, như một quả bóng, về phía Seteuil. Anh chàng này đưa tay ra bắt gọn.
Rồi cả bọn tiếp tục bàn về bữa tiệc tối hôm đó.

Rời khỏi trường đại học, Michel Doutreval về nhà cha mình. Anh phải lấy xe hơi chở chị và em gái, Mariette và Fabienne, đến Pruillé, một ngôi làng nhỏ cách thành phố Angers hai mươi cây số. Nơi đó, trải dài bên bờ sông Mayenne là ngôi nhà của nhà giải phẫu danh tiếng Heubel.
Suốt buổi xế trưa, Michel, Mariette và Fabienne chơi quần vợt trong công viên với Simone Heubel, con gái của nhà giải phẫu. Simone Heubel, cô gái cao lớn nở nang, trong vẻ rực rở của tuổi mười chín, không che giấu sự yêu mến nồng nhiệt với Michel. Nhưng, có lẽ chính vì điều này, do một nhu cầu vô thức muốn làm trái ý cô gái và mặc dù có những lời khuyên kín đáo của cha mình, Michel chưa vội tỏ tình với cô.
Image


Đến năm giờ, trời bắt đầu lạnh. Mùa thu đã đến từ lâu rồi. Màn sương nhẹ bao phủ thung lũng và rừng cây yên tỉnh ở hai bên bờ sông Mayenne. Simone Heubel và các vị khách trở về biệt thự. Họ dùng trà quanh một ngọn lửa đốt bằng các khúc cây, ăn bánh sandwich với pho mát, đùi heo muối, cá hồi xông khói, xà lách và bánh mứt. Họ tán gẫu và cười đùa. Rồi Michel lại ngồi vào sau tay lái chiếc Renault to kiểu gia đình mà cha anh thường cho mượn vào những dịp như thế này. Và anh đưa chị và em gái về nhà.
Anh đi lên phòng, thay quần áo. Và vì cái dạ dày chắc khỏe đã nhiệt tình tôn vinh những chiếc sandwich và món khai vị của Simone Heubel, anh quyết định không ăn tối. Không cho Mariette biết, hẳn chị anh không nghe thấy tiếng anh, Michel lặng lẽ xuống cầu thang, băng qua phòng khách rồi ra đường một cách thật kín đáo.
Cuộc hẹn được định lúc mười giờ, sau bữa tiệc của các sinh viên nội trú. Trong khi chờ đợi, Michel thả bộ đến quảng trường Armes, bước vào tửu quán nhỏ rất tân thời, dưới hầm khách sạn Carlton. Anh đến quầy uống một cốc rượu vang, ăn khoai tây chiên với pho mát và bánh quy mặn. Raoul, chiêu đãi viên của quán Carlton, biết Michel ăn rất khỏe, đã tiếp đãi anh như một khách hàng quan trọng.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Thể Xác Và Tâm Hồn - Maxence Van Dek Meersch

Postby bevanng » 27 Sep 2022

Giờ này hãy còn sớm. Quán ít người. Vài cô gái, ngồi trước mấy ly cà phê kem và bánh sừng bò, thỉnh thoảng trao đổi với nhau một ý nghĩ hoặc viết những lá thư dài vô tận, chỉ có Chúa mới biết là dành cho ai. Một ông già ăn mặc bảnh bao liếc trộm họ. Ánh sáng màu đỏ và tím của những ngọn đèn neon lấp lánh phản chiếu trong các tím gương. Mấy thanh kim loại rộng mạ crom tăng độ sáng cho màu gỗ cẩm lai tối sẫm của những chiếc bàn và mấy chiếc phô tơi bọc da đỏ đun. Michel đưa mắt nhìn các băng ghế, tìm một gương mặt quen thuộc, nhưng chẳng có ai. Nhiều người trong số các bạn của anh, các sinh viên y khoa, chắc đang dự tiệc. Michel ngáp một cái, gọi cốc vang thứ tư. Bề ngang thân hình anh chiếm một khoảng rộng ở quầy rượu. Từ xa, anh quan sát trong tấm gương, cái đầu to vuông, gương mặt đỏ ửng với đôi mắt nhỏ màu nâu, mái tóc hung dựng đứng như bàn chải. Và anh thấy mình không được đẹp trai cho lắm.
Có người vỗ vai, anh quay phắt lại.
- Santhanas!
Đó là một thanh niên gầy, cao lêu nghêu và có nước da vàng, giờ dây còn vàng hơn binh thường, vẻ mặt anh ta hoàn toàn bấn loạn.
- Có chuyện chẳng lành à? - Michel hỏi.
- Ừ! May là tao đã gặp mày.
- Mày cần đến tao?
- Ừ, đi nào!
Michel trả tiền, đi theo Santhanas.
Ngoài trời, hoàng hôn buông êm ái, tỏa ra bóng tối màu tím mờ. Các cửa hàng sáng trưng ánh đèn. Từ các công sở, đám đông nhân viên nữ ùa ra, làm cho đường phố náo nhiệt hẳn lên với những tiếng cười nói tươi trẻ.
- Chuyện gì thế? - Michel hỏi.
- Mày đi tìm thằng Tillery nhanh lên!
- Tillery à? Để làm gì?
- Trong phòng của tao có một con bé đang bị băng huyết. Michel nhìn Santhanas. Anh biết rõ bạn mình, biết anh ta có khả năng gì. Và anh hiểu.
- Tillery đang dự tiệc, - anh nói. - Có thể nó sẽ không đến, nếu nó thích ở đó…
- Không sao đâu. Mày chạy nhanh lên. Tao đang lo lắm. Mày hãy giải thích với nó… Nó sẽ đến.
- Được rồi. Tao đi đây.
- Tao về phòng chờ mày. Nhanh lên nhé.
Michel gỡ mũ xuống, cầm trên tay. Cái đầu to gồ của anh có bao giờ giữ yên được cái mũ trong khi chạy. Rồi với tốc độ của vận động viên điền kinh, Michel chạy như bay về phía khu đại học, dưới chân lâu đài vua René.

Bữa tiệc của các sinh viên nội trú bệnh viện Bình Đẳng diễn ra ở tầng thứ nhất của Tửu quán vua René. Đây là một tập tục lâu đời mà hằng năm các sinh viên nội trú luôn làm nó sống lại mạnh mẽ. Nhiều sinh viên ngoại trú, những giáo sư danh tiếng của các trường đại học y khoa cũng được mời, và họ đến dự một cách vui vẻ tự nhiên, không kiểu cách. Về phần mình, hằng năm, mỗi giáo sư đều tổ chức một bữa tối cho lớp mình phụ trách. Bữa ăn có sự tham dự của các quý bà quý cô, mọi người đều phục trang hoàn hảo. Nhưng ở buổi tiệc của sinh viên nội trú, chỉ có cánh đàn ông với nhau, hơn nữa, sinh viên là vua. Họ là người mời. Không có phụ nữ, không ràng buộc. Và các ông thầy, riêng một tối thôi, chỉ là những thực khách độ lượng và tươi cười. Bởi vậy, một không khí vui nhộn hăng hái là điều thường thấy trong ngày hội này.
Xung quanh các giáo sư, không khí có phần bớt náo động hơn. Ở đó chỉ có một sự phấn khích vui vẻ. Những cái mũ bon-nê bằng giấy đã khiến cho gương mặt đạo mạo hàng ngày của họ có một vẻ kỳ lạ, buồn cười. Các ông thầy đang tranh cãi với nhau lớn tiếng, bởi trong phòng rất ồn. Ông trưởng khoa Geoffroy ngồi giữa các giáo sư Géraudin và Heubel. Giáo sư Jean Doutreval, cha của Michel, bông đùa với giáo sư Suraisne và ông già Ribières. Còn ông già Donat, giáo sư thần kinh học, đã đến buổi tiệc mặc dù bị mắc chứng viêm động mạch chủ, lắng nghe với nụ cười nửa miệng, ra chiều thông thạo và kín đáo những câu chuyện về chính trị trong nước mà Gigon, viên thư ký toàn năng của trường y, kể riêng với ông. Xa hơn nữa là những giảng viên thạc sĩ đang chờ đợi các ghế giáo sư bỏ trống: Bourland, Huot, Van der Blieck, Vallorge, người được mệnh danh là “Louis XVI” vì gương mặt nhìn nghiêng của anh ta có những nét giống với dòng họ Bourbon. Kế đó là đám sinh viên ngoại trú và nội trú ngồi lẫn lộn với nhau rất vui vẻ, một số thậm chí đã hơi ngà ngà say, đội mũ giấy và mang phù hiệu sặc sổ. Ở tận cùng của dãy bàn, một số sinh viên gây ồn ào khủng khiếp và đang quậy tưng bừng, phần lớn đã say đứ đừ, đúng theo truyền thống buổi lễ cho phép. Trong những buổi lễ vui nhộn, điên rồ và đặc biệt này luôn luôn phải có vài anh đóng vai hề. Hơn nữa, hai hay ba tân thạc sĩ cũng không từ chối gia nhập. Hiện giờ họ đang trong tiết mục ca hát. Khoảng mười sinh viên cầm dao gõ đều nhịp vào các chiếc cốc và chai rượu. Hai anh khác đến đấm vào các cánh cửa. Một số khác ấn sâu mấy thìa nhôm vào cổ chai và làm cho chúng rung leng keng như tiếng lục lạc. Tác dụng của cả dàn nhạc này thật kỳ lạ. Tất cả âm thanh ầm ĩ đinh tai nhức óc này là để đệm cho bài hát của Seteuil. Anh chàng đứng trên ghế, một chân đặt lên bàn, khoác áo veston lộn trái, người lắc lư, gương mặt đỏ gay với cái trán hói láng bóng đẫm mồ hôi, đang rống lên tất cả những gì anh ta có thể nhớ được về một bài hát quen thuộc của sinh viên y khoa:

Tôi có tình nhân là một cô gái điếm!
Nàng mang trong người bệnh giang mai
Làm cả khu Latinh bị truyền nhiễm!

Một cái xoong úp lên đầu, anh chàng nhỏ con Lapeyrade, sinh viên nội trú năm ba, người sẽ chết sau đó một tháng trong lúc đang tận tụy bên giường bệnh của một đưa trẻ mắc bạch hầu, tại bệnh viện Bình Đẳng, đang đánh nhịp say sưa với cái dù cuỗm được của giáo sư Donat. Đến cuối đoạn hát, anh ta đột nhiên vung cái dù lên trong một cử chỉ dữ dội. Và đám sinh viên cuồng nhiệt xung quanh đồng thanh đáp lại bằng một tiếng hát mà ở bên ngoài đến tận đầu kia đại lộ vẫn còn nghe thấy:

Chúng ta được hợp lại bởi chứng bệnh giang… mai!


Được trang điểm khéo léo bằng chiếc tạp dề màu trắng dễ thương có yếm, nẫng được của một cô nàng phục vụ không mấy ghê gớm, Tillery, mặt đỏ gay, đôi mắt sáng bừng sau cặp mắt kính to như hai ô cửa sổ, đang thảo luận với Groix và Regnoult, hai sinh viên nội trú của giáo sư Doutreval, để xem liệu họ có thể thuyết phục được anh chàng thạc sĩ trẻ nhập hội đêm đó không. Một cuộc tranh luận tương đối rời rạc diễn ra sau đó, với Groix và Regnoult, về bệnh hoa liễu. Regnoult khẳng định tính cá nhân cụ thể của căn bệnh giang mai thần kinh, trong khi Tillery và Groix, người được mệnh danh là “Người Mặt Thẹo” vì gương mặt anh ta bị một vết sẹo làm biến dạng, tranh cãi về quan điểm của Regnoult bằng những lập luận đã trở nên không rõ ràng bởi hơi men ngà ngà. Bạn cần phải chứng kiến Groix “Người Mặt Thẹo”, cái đầu được tô điểm bằng chiếc mũ bon-nê trắng không lồ bị xé rách trong cuộc giành giật với bếp trưởng của Tửu quán vua René, nghiêm túc nói về xoắn khuẩn, xoắn trùng, phản ứng Kahn, kháng nguyên và kháng thể, với Tillery đang đeo chiếc tạp dề trắng có yếm ren. Xa xa, Vallorge đang giải thích với Flégier, trưởng phòng khám của giáo sư Géraudin, về tai nạn mới đây của giáo sư Suraisne. Một bà lão đã nhập viện Bình Đẳng với một khối u ở *. Chỉ thế thôi. Chẳng có gì hơn. Nhưng ca này khiến Suraisne lo lắng. Ông tự hỏi liệu có phải ẩn sau đó là chứng bệnh lao phổi. Đến thứ Sáu thì bà lão qua đời. Chính Seteuil là người chăm sóc bà ta. Giáo sư Suraisne khi đó đang ở Paris. Tối thứ Ba tuần sau ông mới quay về.
- Tôi thất vọng! - Ông nói. - Thất vọng quá! Vì đã bỏ lỡ mất bầu ngực ấy!
Thế là, chẳng nói một lời, Seteuil chắc mẩm về niềm vui mình sắp tạo nên, trịnh trọng mang đến cho ông thầy bầu * mà mình đã mổ, được bảo quản trong dung dịch formaldehyde.
- A! Seteuil! Seteuil! - Giáo sư Suraisne nói. - Tôi sẽ không bao giờ quên điều này!
Ông lấy nó từ trong lọ, mở ra. Và một khối áp-xe, trong mảng thịt, ngay lúc ấy vỡ ra, bắn tóe mủ lên mặt và tay ông. Hai ngày sau, trên ngón tay của Suraisne xuất hiện một cái áp-xe xinh xắn.
- Tớ sợ lắm, - Vallorge vừa nói vừa nhìn ông thầy Suraisne từ đằng xa. - Chết tiệt thật! Cả Seteuil nữa! Thầy chỉ bị đau ở ngón tay thôi một chút thôi…
Bây giờ anh ta mỉm cười về những nỗi lo sợ đó. Anh ta đưa tay vuốt nhè nhẹ lên mặt mình, một gương mặt khá đẹp, tuy hơi mập và hơi nặng nề một chút, nhưng trầm tĩnh và vững vàng. Suraisne trông thấy ánh mắt và cử chỉ của học trò, bèn thuật lại cho hai ông bạn ngồi gần bên là Doutreval và Ribières. Ông đưa ngón tay bị nổi cái mụn trắng nhỏ cho họ xem, bảo ông già Ribières sờ nắn vào các hạch nách của ông, bên dưới lớp áo veston.
- Tôi đã bị đau đến chỗ đó, ông bạn ạ! Giá ông nghe được tất cả những gì người ta đã chỉ cho tôi và khuyên bảo tôi phải làm! Tôi đã không làm gì hết! Và ba ngày nay, tôi không bị gì hết, không sốt và cũng không đau nữa.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Thể Xác Và Tâm Hồn - Maxence Van Dek Meersch

Postby bevanng » 27 Sep 2022

Có thể nói rằng, Suraisne - con người của khoa học và quen thuộc với những nghiên cứu ở phòng thí nghiệm - đã quên hết những kiến thức của mình khi gặp nạn. Trường hợp các bác sĩ khinh thường việc chăm sóc sức khỏe của mình không phải hiếm.
- Bạn thấy đó, tôi chẳng sao cả! - Suraisne quả quyết.
- Quả vậy, - ông giáo sư già Ribières khôn khéo nói, vừa lắc cái đầu đội chiếc mũ bon-nê bằng giấy với vẻ nghiêm trang vừa sờ nắn Suraisne kỹ lưỡng như thể đang ở trong phòng khám của mình. - Tuy nhiên vào địa vị ông, tôi sẽ đề phòng…
- Ôi chao! Hết rồi. Hết thật rồi! Vậy chúng ta hãy uống mừng!
Suraisne nâng cốc rượu lên trong một cử chỉ mời mọc thân mật, hướng về phía Vallorge, đệ tử ruột của ông, và những người xung quanh. Là người sành ăn nên ông ăn nhiều và uống cạn ly.
Trong lúc mọi người cười nói ồn ào, không ai để ý tới một cậu bé đến nói nhỏ vào tai Tillery.
- Thưa anh, có một người bạn đang hỏi anh…
- Một người bạn?
- Dạ. Cao lớn. Tóc như bàn chải.
- Đúng là Michel, - Tillery nghĩ ngay trong đầu. - Nó không muốn ông già thấy nó ở đây.
Và để nguyên tạp dề trắng trên người, anh ta đi ra.
Michel đang đứng ở đầu cầu thang.
- Santhanas cần mày, - Michel nói. - Đi nhanh thôi.
Rồi anh giải thích sự việc. Tillery liền chửi thề, vừa mắng Santhanas là một con heo dơ bẩn, vừa gỡ cặp kính đến bốn, năm lần để lau chùi, và suy nghĩ. Sau cùng, anh ta quyết định cởi bỏ chiếc tạp dề, cầm cái mũ sinh viên gắn những ngôi sao vàng và những sợi dây nơ sặc sỡ, rồi đi theo bạn mình. Không khí trong lành của buổi đêm làm cơn say nhẹ của anh ta tan biến. Vừa đi anh ta vừa hỏi Michel những chi tiết mà Michel nào có biết gì đâu.
- Chính nó đã làm cú này phải không? Ừ, dĩ nhiên! Nó là một thằng tồi! Và bây giờ nó nhờ tao “cứu khổ cứu nạn”. Rốt cuộc là thế! Không được quyền từ chối! Sao nó không nhờ một thằng khác?
Tillery muốn có ngay những chi tiết chính xác. Nhưng Michel chỉ có thể cho biết đó là một ca băng huyết.
- Thằng heo đó chắc đã hoảng hốt, - Tillery kết luận. - Trong những vụ như vậy, đôi khi tử cung tống ra ngoài trọn gói một lượt: trứng, túi nước, nhau… Nhưng thường thì cái thai được tống ra trước, và vì đây không phải là một trường hợp sinh đẻ đúng thời hạn nên cái nhau chưa “chín”, nó vẫn còn dính vào tử cung nhờ những lông nhung, khi lông nhung bị rách mới xảy ra băng huyết… Dĩ nhiên đây là trường hợp khá nặng. Santhanas là một thằng bất tài… Ấy vậy mà nó sẽ là bác sĩ cơ đấy!
- Mày tin như thế à?
- Không thể khác được! Mày có bao giờ thấy một sinh viên y khoa không trở thành bác sĩ không? Một khi mày đã bước vào con đường này rồi thì chuyện đó tất nhiên sẽ đến thôi. Kiểu gì cũng thế, chúng nó có thể chọn một ngày khác, thằng Santhanas và cô nàng của nó, để âm thầm tiến hành vụ giết người của chúng nó!
Phòng của Santhanas ở tầng thứ ba của một quán cà phê nhỏ, trên kè sông Maine. Đó là căn phòng rộng, vẻ xoàng xĩnh và buồn, với hình ảnh của các nữ minh tinh ăn mặc kiểu gợi cảm, được ghim lên tường. Trên lò sưởi có một cái đầu người bằng gỗ ngậm ống điếu và đội cái mũ bon-nê sinh viên. Chiếc giường đặt ở góc phòng. Tại đó, có một cô gái khoảng hai mươi tuổi, nằm trên tấm vải dầu cũ họa tiết xanh lơ, váy lật ngược lên tận ngực. Một cô gái khoảng hai mươi tuổi, máu dầm dề, hai chân dang ra, gương mặt nhợt nhạt, mắt nhắm nghiền, thở nặng nhọc. Ở chân giường, bốn cây nến được thắp sáng trên cái đĩa đặt trên bàn tròn được nâng cao bằng một chồng sách. Santhanas chạy lăng xăng, chuẩn bị những mảnh vải, đun nước trên bếp gas. Anh ta muốn giải thích sự việc.

Image


- Mày câm mồm đi, - Tillery vừa rửa tay vừa nói. - Tao biết hết rồi. Dù mày dám làm những chuyện dơ bẩn đó, mày cũng không nên làm trong một căn phòng chỉ có bốn cây nến, mà không có khử trùng, không có gì hết. Mày biết thế nào là một ca phẫu thuật chứ? Mày biết rằng mày có thể làm cho bệnh nhân bị sốt hậu sản chứ? Hả? Sự thật là mày bất cần. Nào, được rồi. Đưa cho tao mấy cái nạo và cây kim dò tử cung.
- Để làm gì?
- Để thăm dò tử cung. Tao phải đề phòng, mày hiểu chứ? Nếu mày đã làm thủng tử cung của con bé, mày có thể để cho tao làm, sau đó đổ thừa cho tao. Tao biết mày quá mà!
Tillery cầm dụng cụ thăm dò tử cung, một kiểu kim dài có rãnh trượt và nút ở đầu, đến bên nữ bệnh nhân và ấn nó vào trong bụng dưới. Michel nghiêng đầu xuống nhìn cái bụng, gương mặt tròn và bầu bĩnh của Tillery bỗng căng thẳng và nghiêm trang một cách kỳ lạ. Anh ta chờ đợi, chăm chú đến độ quên cả nỗi lo lắng hiện tại.
- Tao không thấy gì cả, - Tillery thì thầm. - Nó “không nuốt”. Không thấy gì chứng tỏ tử cung bị thủng… Mày thấy không, nếu tử cung bị thủng, cây kim sẽ chạy thẳng vào bụng, đôi khi vào tận trong ruột… Giống như chứng viêm màng bụng! Không, không có gì hết! Mày có thể mừng là đã gặp may, thằng tồi! - Anh ta đứng lên, mắng Santhanas. - Chuẩn bị mấy cái nạo đi… Nhưng thôi, không cần… Làm bằng tay cũng được.
Anh ta thọc bàn tay vào sâu, và những ngón tay lôi từ tử cung ra những mảng nhau đẫm máu. Gương mặt cô gái càng nhợt nhạt hơn; cô nhăn nhó, buông ra những tiếng rên rỉ đau đớn. Và các nét trẻ trung tươi mát, thanh tú trên gương mặt cô, dưới mái tóc vàng mịn óng ánh, đột nhiên đanh lại, già hẳn đi, mang một vẻ căng thẳng ghê gớm.
- Cô ta sắp chết, - Michel nghĩ.
Đây là lần đầu tiên anh có một cảm giác kinh sợ đột ngột, cảm giác như đang chứng kiến một cái gì không phải trò chơi, không phải một sự việc bình thường trong cuộc đời sinh viên y khoa mà là một bi kịch ghê gớm, trong đó sinh mạng một con người dang bị đe dọa. Nhưng chẳng mấy chốc Tillery đã làm xong việc và rửa tay. Santhanas mang ra một thứ cà phê đậm đà. Cô gái đã chỉnh lại y phục, ngồi dậy uống từng hớp nhỏ và gương mặt dần lấy lại được chút khí sắc. Cảnh tượng mang lại cảm giác yên tâm hơn. Michel cố gắng cười lên một tiếng. Cả bọn lại uống cà phê, và hút thuốc của Santhanas, trong khi chờ đợi cô gái hồi sức để ra về.
Michel và Tillery đưa cô gái về nhà bằng xe taxi, bởi vì Santhanas không dám đưa cô về. Nhà cô ở đầu đại lộ Foch. Cha mẹ cô là công chức nhỏ, rất tử tế và đứng đắn, Tillery giải thích với Michel trong xe. Cô gái dại dột thì quá tự do, quá tân thời. Rồi anh nhân cơ hội này giảng luân lý cho cô một cách nhẹ nhàng. Ngồi trong góc xe, đôi mắt nhắm nghiền, cô gái không đáp lại, chẳng biết đang nghe hay đang ngủ.
Taxi chạy đến trước cửa nhà cô gái. Thấy cô không đủ sức xuống xe, Michel và Tillery đề nghị đưa cô vào nhà. Nhưng cô nhất quyết từ chối, muốn tự mình giải thích sự việc có Chúa mới biết với gia đình. Tillery bèn cho cô gái số điện thoại của bệnh viện, chỉ cách cho cô tự chăm sóc mình, dặn cô đo thân nhiệt và gọi ngay bác sĩ nếu cảm thấy khó chịu trong người. Cô có thể yên tâm, vì không một bác sĩ nào sẽ tố giác cô, ngay cả với người nhà cô. Bí mật nghề nghiệp mà. Rồi Michel trả tiền xe, và Tillery đến bấm chuông. Một ô cửa sổ sáng lên. Bên trong nhà vang tiếng bước chân. Lập tức, Tillery và Michel hát bài tẩu mã, để lại cô gái cùng cha mẹ xoay xở với nhau.
Sau lưng Michel, Tillery đã xuất sắc hoàn thành quãng đường năm trăm mét, mặc dù cặp giò của anh ngắn ngủn.
Hai chàng trai trở về đến Tửu quán vua René đúng lúc buổi tiệc kết thúc. Từng nhóm sinh viên tràn ra đường, chìm trong bóng đêm. Các giáo sư đến bên xe của mình. Vallorge la lối ầm ĩ, mất hẳn vẻ bình tình thường ngày bởi vì anh ta vừa nhận ra, trong lúc khởi động xe, rằng có một người tốt bụng nào đó đã đổ cả bình nước lạnh vào thùng xăng của mình. Những trò đùa dai này thường hay xảy ra với Vallorge. Người ta hút trộm xăng, lấy cắp nắp đậy thùng nước của xe anh ta. Sự thăng tiến quá nhanh chóng và tài vận động khéo léo của anh ta đã khiến vài kẻ nhiều tham vọng ở trường ghen ghét. Thậm chí, có lần, khi anh ta từ Tây Ban Nha trở về, một nhân viên thuế quan đã tìm thấy năm mươi gam bạch phiến giấu dưới nệm xe của anh ta. Người ta không bao giờ biết được kẻ nào muốn hại anh ta. Nhưng Vallorge phải khó nhọc lắm mới chứng tỏ được sự vô tội của mình.
Buổi tối đó, anh ta đành phải bỏ xe lại và đi nhờ xe của ông Suraisne. Trong khi đó, đa phần sinh viên đã trở về nhà. Có vài nhóm nhỏ đi bộ theo một số giáo sư, chuyện trò thân mật. Những sinh viên thích quậy chia thành nhiều nhóm nhỏ. Một nhóm tiến về phía ký túc xá sinh viên. Nhóm khác tiến về phía trường trung học, tràn vào phòng ngủ của các học sinh nội trú với hảo ý đem lại cho chúng chút vui tươi, trẻ trung. Một nhóm nữa tỏa ra đi tìm các quán khoai tây chiên còn mở cửa để lén đổ vào nồi của họ gói “tai người” được góp nhặt kiên nhẫn từ các tử thi trong phòng mổ. Còn Michel và Tillery, hai chàng trai bị lôi cuốn vào một nhóm ầm ĩ, họ bấm chuông cửa các nhà, hét lên những lời chửi rủa khó hiểu đối với những tay tư sản trưởng giả, lật đổ các thùng rác và làm tắt các ngọn đèn đường, trong lúc tiến về hướng các tửu quán vẫn mở cửa. Dẫn đầu nhóm này, tay cầm chiếc dù của giáo sư Donat, là anh chàng nhỏ con Lapeyrade, người không hề biết rằng mình chỉ còn sống đến tháng sau nữa thôi.
Cuộc vui buổi tối kết thúc một cách ồn ào. Các sinh viên uống rượu sâm panh, rượu pân và rượu trắng anh đào với các quân nhân say mèm, có cả anh chàng cao lêu nghêu và nước da vàng khè Santhanas nữa, trong một tiệm cà phê cà tàng phía sau trại lính. Rồi Seteuil “đầu hói” gây lộn với một cô gái mà anh ta buộc tội đã lấy cắp một trăm franc ở trong phòng. Cô ta phủ nhận điều đó. Sau cùng, tờ giấy bạc được tìm thấy trong ly rượu mà Tillery, đã hoàn toàn say mèm, sắp đưa lên miệng uống. Nhưng đúng lúc đó xảy ra một cuộc cãi vã giữa Groix, Regnoult và bà chủ quán về số tiền rượu. Chính mắt Michel đã trông thấy bà chủ quán đem ra ba chai rượu rỗng lẫn trong những chai đầy. Cuộc cãi vã trở nên kịch liệt. Trong lúc đó, vài cô chiêu đãi viên thách đố Tillery đứng thăng bằng trên lò sưởi của phòng khách, giữa những ngọn đèn treo. Anh ta bèn bước lên hai vai của Seteuil để leo lên lò sưởi nhưng bị mất thăng bằng. Anh ta lão đảo bám vào tấm gương và ngã xuống giữa phòng, kéo theo Seteuil, tấm gương và mấy ngọn đèn treo. Bàn ghế, ly, chai cũng đổ nhào trong tiếng kêu loảng xoảng dữ dội. Thế là một cuộc ẩu đả diễn ra giữa binh lính và sinh viên, Michel một mình đương đầu với hai anh lính kỵ binh to con và ông chủ quán cho đến lúc Santhanas, nhờ chiến thuật khéo léo, tắt được công tắc điện. Thế là căn phòng chìm trong bóng tối, và giữa sự hỗn loạn không thể tả, Michel cõng Tillery chạy ra ngoài. Tillery lắc lư trên lưng bạn, khóc thút thít, đòi cặp kính của anh ta với giọng điệu một em bé.
Michel đưa Tillery về phòng. Đến nơi, Tillery ngã phịch xuống sàn nhà, cuộn mình trong chăn một cách cẩn thận và ngủ thiếp đi với tiếng khóc nức nở khó hiểu. Michel đi xuống cầu thang, và ra đường, anh gặp lại Seteuil, Groix, Regnoult, Santhanas và cả một nhóm sinh viên mà Seteuil dẫn đến nhà của cô Madeleine Daele, một nữ y tá bé nhỏ làm việc tại nhà điều dưỡng, để ngủ đêm ở đó. Michel không đi theo họ, anh chỉ mới uống sơ sơ, chưa say lắm. Và cuộc trốn chạy vừa rồi cùng với Tillery đã làm cho anh hoàn toàn tỉnh táo. Anh để mặc họ đi xa. Tiếng hát của họ nhỏ dần trong thành phố đang yên giấc. Cái giọng chói tai của tên ngốc bé nhỏ vui tươi Lapeyrade át hết các giọng khác:
Ở tuổi mười tám, hãy cứ tin lời tôi,
Đó là một cô gái điếm ngạo nghễ,
Các chú các bác ơi.
Nàng đã gieo rắc bệnh giang mai
Cho ba phần tư khu Latinh.
Các chú các bác ơi…


Michel lững thững trở về nhà trong đêm tối lặng lẽ.
Dò dẫm từng bước và tránh không gây tiếng động nào, anh leo lên tầng thứ nhất. Vừa đến nơi, đột nhiên một khung vuông ánh sáng hiện ra.
- Phải em đó không, Michel?
Anh nhận ra Mariette, và cảm thấy hối hận. Anh biết chị mình luôn đợi mình, lẽ ra anh phải trở về sớm hơn.
- Em về muộn thế!
- Chị không nên lo lắng, chị Mariette!
- Được rồi! Được rồi! Bây giờ chị yên tâm. Em đi ngủ nhanh lên! Nếu ba biết được…
- Ba ngủ chưa?
- Lâu rồi. Chúc em ngủ ngon!
Cô đóng cửa lại. Sau cái chết của mẹ, Mariette Doutreval thay thế bà chăm sóc hai em và cha, lo toan mọi việc trong nhà.
Michel bước vào phòng, thay quần áo, mặc bộ đồ ngủ, và đến mở cửa sổ. Bầu trời đã nhạt màu. Xa tít đằng sau những mái nhà bằng đá đen của thành phố, về phía trái, vùng đồng quê Angers hiện ra với ánh sáng lấp lánh trên mặt nước lờ đờ của sông Maine rộng lớn, và những khu rừng hãy còn là những khối đen che khuất con sông Loire. Tiếng chuông nhà thờ ở một nơi nào đó trong vùng ngoại ô điểm bốn giờ.
Michel khép cửa sổ, đến nằm dài trên ghế bành. Anh không buồn ngủ. Đầu óc anh đang hoạt động mạnh. Anh hình dung lại Tillery ngả nghiêng trên lò sưởi giữa những ngọn đèn treo, Vallorge đứng trước chiếc xe hơi bị chết máy, và gã kỵ binh cao lớn ngã chúi vào ông chủ quán khi bị quả đấm của anh đánh trúng cằm. Michel cười một mình. Thật là một buổi tối vui nhộn! Rồi anh sực nhớ tới cô gái bị Seteuil buộc tội ăn cắp. Anh thấy lại gương mặt và vẻ bất bình rất đáng ngạc nhiên ở một cô gái như thế… Hình ảnh này làm Michel thấy day dứt khó chịu, không hiểu tại sao. Anh muốn gặp lại cô gái đó. Chà! Cuộc đời… Anh thấy thích hai chữ này. Anh tự lặp lại:
- Đời là thế!
Michel lại nhỏ đến cô gái ở nhà Santhanas. Anh không quên được gương mặt thê thảm ấy khi anh nghĩ cô sắp chết. Và trong xe taxi… Anh tự hỏi cô đã giải thích thế nào với cha mẹ. Một lần nữa, anh mơ hồ cảm thấy tim mình sẽ thắt lại, một cảm giác mà anh cố đè nén. Và anh lặp lại:
- Đời là thế!
Rồi anh tự tán thưởng sự mạnh mẽ của mình. Những bài học đạo đức anh đã được rèn giữa ở trường trung học, đại học, ở nhà, trước những cảnh tượng của cuộc sống, trở lại trong đầu, rời rạc và dễ chịu:
- “Vượt lên trên cái thiện và cái ác…” “Sức mạnh là thần thánh. “ “Vae victis…” 1

1. Tiếng Latinh - nghĩa là “Khốn cho kẻ bại trận”.

Anh cảm thấy, trong giờ phút này, niềm quyết tâm muốn đạp bằng mọi thứ, cả anh nữa, để trở thành một siêu nhân trong cuộc đời này…
Đầu óc bị kích thích quá độ của anh nhất định từ chối không chịu ngủ. Anh lấy cuốn Tội ác và Hình phạt đã bắt đầu từ hôm trước ra đọc. Một lát sau, cuốn sách lôi cuốn anh, làm cho anh quên hết những gì xảy ra trong ngày, những cảm xúc, những ý tưởng, những ước mơ. Bây giờ anh sống với cuộc sống u buồn của nàng Sonechka, người con gái khốn khổ bị bà mẹ kế Catherine đánh đập, bắt phải làm điếm để nuôi bầy con riêng đói khát của bà ta. Anh đọc đến đoạn nàng Sonechka phải nhượng bộ. Nàng trở về nhà với ba mươi đồng rúp, trao chúng cho Catherine, rồi lặng lẽ đi ngủ. Bà mẹ kế xúc động, đoán hiểu sự hy sinh ghê gớm của nàng, quỳ gối bên cạnh giường và khóc cùng nàng…
Michel đặt cuốn sách xuống, đứng lên đi vài bước trong phòng. Một niềm xúc động mãnh liệt và đột ngột làm cổ họng anh nghẹn lại, lòng thương hại, sự giận dữ, cơn phẫn nộ hào hiệp của tuổi trẻ, tất cả hợp lại thành một cảm xúc làm anh rơm rớm nước mắt mà anh không thể nào giải thích được.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Thể Xác Và Tâm Hồn - Maxence Van Dek Meersch

Postby bevanng » 27 Sep 2022

2


Louis, tài xế của giáo sư Géraudin, đứng chờ ông chủ trước cửa ngôi biệt thự. Chiếc Panhard màu đen được đánh xi bóng loáng và cái bình hoa treo trong xe đầy hoa tươi. Louis đứng từ xa ngắm nghía bóng mình trong nước véc-ni bóng lộn, lòng tràn ngập niềm kiêu hãnh. Trong gia đình Géraudin, anh là một trong những người rất được nể trọng. Ở đó, ý muốn của anh là luật. Bởi vì, không hiểu tại sao, bà Géraudin, người không hề sợ ai, lại nễ sợ Louis.
Géraudin rời biệt thự và lên xe ngồi vào ghế trước, cạnh Louis. Đây không phải là chuyến đi đầu tiên trong ngày. Trước đó, sáng sớm, tài xế đã đưa ông đến dưỡng đường thăm các bệnh nhân và những người đã được ông phẫu thuật.
- Thưa ông, có phải giáo sư Suraisne đang bị bệnh không? - Louis hỏi. Géraudin vẫn thường cho phép anh nói chuyện thân mật với ông như vậy.
- Tôi nghe người ta nói như thế. Và hình như khá nặng. - Hôm trước trong bữa tiệc, ông ấy vui vẻ như chẳng có chuyện gì. Sáng nay ông không cầm lái à?
- Không, - Géraudin nói - sáng nay tôi có ca mổ. Bây giờ chúng ta đến trường đại học để gặp Gigon trước.
Trước khi phẫu thuật, Géraudin thận trọng tránh những việc làm gây căng thẳng thần kinh. Ông đã qua tuổi sáu mươi, và mặc dù tự cho mình hãy còn trẻ, ông vẫn cho rằng nên khôn ngoan giữ gìn sức khỏe. Đó là một người đàn ông vẫn còn cường tráng, người thấp, vai rộng, mặt đỏ gay với đôi mắt xám có những đường chỉ đỏ, hai tai to. Cái miệng, dưới hàm râu ngắn để theo kiểu Mỹ, có một nét mệt mỏi và buồn chán. Ông rút từ trong túi ra một hộp thuốc mạ vàng, lấy một điếu châm lửa, đây là điếu thứ ba trong buổi sáng. Géraudin thường tự trách mình hút thuốc quá nhiều. Điều này làm ông nghĩ đến chứng xơ cứng động mạch mới chớm của mình. Bỗng một cử chỉ đã trở thành quen thuộc và máy móc, ông dùng ngón cái và ngón trỏ sờ nắn cái dái tai lúc nào cũng nóng bỏng.
Géraudin đã thành công từ ba mươi năm trước, nhờ sự dẫn dắt của Salnikov, một bác sĩ quèn, thậm chí không có bằng thạc sĩ, nhưng táo bạo kỳ lạ, và dự cảm được những hướng đi mới của y học hiện đại. Sau vài năm hành nghề một cách mơ hồ, Salnikov lao mình vào một ngành khoa học tuy lúc đó hãy còn mới mẻ nhưng đã đem đến cho các bệnh nhân một niềm hy vọng lớn lao: Quang tuyến X. Ông đã đạt được một thành công bất ngờ, một phần nhờ vào thị hiếu của quần chúng thời bấy giờ đối với quang tuyến X, nhưng phần lớn nhờ vào lòng tận tâm về khả năng chẩn bệnh vững vàng, chính xác.
Salnikov là một người say mê y học. Nhưng phải là một nền y học tiến bộ, một nền y học của tương lai. Ông là người mở đường. Gan dạ đến táo bạo, tinh thần thuần túy khoa học của ông đã dẫn đầu các đồng nghiệp trên những nẻo đường đầy hiểm trở của nền y khoa tiên phong. Chính sự táo bạo này đã lôi cuốn số đông khách hàng nhiệt liệt tin tưởng. Cưa tay chân, cắt bỏ vài bộ phận và ghép nối, ông không lùi bước trước bất kỳ một ca bệnh nào. Vị bác sĩ này có thể trở thành một ông vua trong ngành giải phẫu. Ông là người đầu tiên trong vùng dám thử cắt bỏ các dây thần kinh giao cảm. Ngay cả những chuyên gia phẫu thuật cũng không dám thực hiện các ca phẫu thuật táo bạo mà ông đề xướng. Điều này làm ông bực bội, hoài công đi tìm một người dám nghe và làm theo ý ông, một người có thể trở thành bàn tay tài giỏi đắc lực và ngoan ngoãn trước cái đầu thông minh của ông.
Và ông đã gặp Géraudin.
Bernard Géraudin, nguyên trưởng phòng điều dưỡng của giáo sư Rillerac, vừa bị “ông thầy” hất ra và đang sống lay lắt. Rillerac, giáo sư giải phẫu, từ lâu đã muốn gả con gái cho Géraudin và cất nhắc Géraudin lên thay thế ông ở trường đại học. Nhưng Géraudin đã có bạn gái và không chịu từ bỏ người yêu của mình. Lúc đó Géraudin đang còn trẻ, ở cái tuổi mà người ta thường khóc khi nghe Louise, và sẵn sàng để lòng mình rung động khi cất tiếng hát:

Mọi người đều có quyền được hạnh phúc.
Mọi người đều có quyền được tự do…


Chẳng bao lâu lại xảy ra một chuyện nữa. Rillerac được biết trưởng phòng điều dưỡng trẻ tuổi của mình đã bắt đầu hành nghề phẫu thuật trong thành phố và đã có một số khách hàng. Rillerac không thể tha thứ cho điều này, ông liền đuổi việc Géraudin, diệt trừ anh chàng ngựa non háu đá.
Không có người đỡ đầu, Géraudin buộc phải chờ đợi chẳng biết đến bao giờ, chiếc ghế giáo sư của mình. Không có vốn để mở dưỡng đường riêng, ông đành phải sống lay lất bằng những ca phẫu thuật tại gia.
Sinh ra trong một gia đình nghèo ở vùng Bordelais, Géraudin đã trải qua mười năm sống vất vưởng trong những phòng cho thuê và những quán ăn tồi tàn, chịu đựng sự hách dịch của các khách hàng giàu có cho đến khi gặp được Salnikov, tin tưởng ông và đi theo hợp tác.
Lúc đầu, Géraudin không khỏi nhiều phen hồi hộp trước sự táo bạo của Salnikov. Vào thời đó, Salnikov đã vứt bỏ những phương pháp cũ kỹ của ngành y học. Mỗi ca phẫu thuật liều lĩnh mà ông chủ trương, nếu thất bại có thể khiến ông tiêu tan sự nghiệp. Chẳng hạn, để che chở cho các học trò và nhận hết trách nhiệm về mình, ông đã dám viết: “Tôi lấy trách nhiệm tuyên bố rằng ông bị chứng khí thũng, phải được gây mê bằng chloroform chứ không phải bằng ê-te…” Dần dần, Géraudin quen với sự táo bạo này. Ông bắt đầu hiểu và áp dụng đúng theo các phương pháp của Salnikov. Và Salnikov thường nói với các khách hàng của mình:
- Và để phẫu thuật cho quý vị, tôi xin giới thiệu Géraudin! Chỉ có anh ấy thôi. Tôi thấy chỉ có anh ấy mới đủ khả năng!
Nghĩa là danh tiếng và những phương pháp táo bạo của Salnikov đã giúp Géraudin rất nhiều. Người ta không còn phân biệt giữa Salnikov với Géraudin nữa. Người ta bảo nhau:
- Ông Géraudin thật táo bạo!
Thật vậy, Géraudin đã dần dần tiếp thu được những quan niệm của Salnikov về y học, và tự hào về cái mà ông gọi là ngành giải phẫu mang tính xây dựng và sáng tạo. Salnikov đã trở thành một người thầy thật sự của Géraudin. Chính nhờ sự hướng dẫn của ông mà Géraudin dần dần tạo cho mình một quan niệm mới mẻ và riêng biệt về giải phẫu. Và thành công đã đến với Géraudin. Chẳng bao lâu ông mở được một dưỡng đường riêng.
Chính Salnikov đã nhiều lần nhờ đến bàn tay tài giỏi của học trò để phẫu thuật cho mình. Ông phung phí sức lực quá nhiều, làm việc quá độ. Chính Géraudin, lần đầu tiên ở Pháp, đã thực hiện trên cơ thể của Salnikov ca phẫu thuật cắt bỏ các búi trĩ, và các búi trĩ của Salnikov trở nên nổi tiếng. Sau này Géraudin lần lượt cắt bỏ túi mật, bao tử, rồi đến một khúc ruột của thầy mình, và Salnikov chết tại dưỡng đường của học trò mình, hai ngày sau cuộc ghép xương trên cột sống mà chính ông ta đã đòi hỏi, ca phẫu thuật này tự nó là một thành công, nhưng cơ thể của Salnikov đã không chịu đựng nổi.
Nhưng địa vị của Géraudin đã vượt cả ông thầy. Ông đã nổi tiếng. Ngay cả những đối thủ cũng phải nhìn nhận giá trị của ông. Và vì không phải là kẻ biết giữ mãi những kỉ niệm của thời gian khó, càng kiếm được nhiều tiền Géraudin càng bị cám dỗ bởi tiền bạc. Ông đã bỏ rơi cô gái bán nón - mối tình đầu và cưới Valérie Largilier, thứ nữ của ông trưởng khoa trường đại học y khoa. Cuộc đời không phải là một bản tình ca bất tận. Ông đã có một đứa con với cô gái bán nón. Ông tặng nàng một số tiền lớn, nhưng nàng đã từ chối.
Géraudin được cha vợ dành cho một ghế giáo sư trong trường đại học y khoa. Valérie đem về cho chồng số của hồi môn rất lớn. Nhưng chẳng bao lâu Géraudin không cần đến số tiền đó. Khách hàng của ông thuộc tầng lớp giàu nhất và có địa vị cao nhất trong vùng. Những kỹ nghệ gia, chính trị gia, những nhân vật tiếng tăm thuộc đủ mọi giới chỉ muốn chính tay Géraudin phẫu thuật cho mình.
- Đó là một tay rất cừ, - họ nói.
Ở trường đại học, Géraudin là người có thế lực nhất. Tất cả các dân biểu trong vùng đều là bạn của ông. Nhất là Guerran, một luật sư chưa đến năm mươi tuổi, mới ba mươi tuổi đã là dân biểu, ba mươi sáu tuổi làm Bộ trưởng, ủng hộ Géraudin đắc lực và tận tình. Trước kia Géraudin biết rõ giá trị của Guerran nên đã vận dộng cho ông ta. Và Guerran đã đền đáp lại, một cách xứng đáng. Trên thực tế, Géraudin là người bổ nhiệm các bác sĩ phẫu thuật trong mọi bệnh viện, và dành những chức vụ tốt nhất cho các học trò của mình. Chính Guerran đã vận động cho Géraudin được tặng thưởng Bắc Đẩu bội tinh, cũng chính Guerran đã ém nhẹm tất cả những nghị định có thể gây bất lợi cho bạn mình, và giúp đỡ cho em họ của Géraudin là César Gigon được làm thư ký của trường đại học, một chức vụ vô cùng quan trọng.
Chắc chắn Géraudin có thể tự cho mình là người được mến mộ nhất và cũng là người bị ghen tị nhất trong vùng. Sự thành công rực rỡ của ông được người ta giải thích bằng những lý do quái gở nhất. Ngay cả sự ủng hộ nhiệt thành của Guerran dành cho ông, người ta cũng gán cho nó nhưng nguyên do khác hơn là tình bạn. Người ta dám khẳng định rằng nhà chính trị đó từng là người tình của bà Géraudin. Tuy nhiên, Valérie Géraudin, dù tính tình rất khó chịu, vẫn là một người vợ ngay thật, không thể sa ngã được. Mặc cho những lời vu khống, gièm pha đó, Géraudin vẫn bình thản, không thèm nhún cả vai. Bởi ông mang một niềm tin mà chính những kẻ thù ghê gớm nhất cũng phải công nhận: Ấy là dù không có Salnikov, dù không có Gigon, Valérie hay Guerran, dù chỉ có một mình, ông cũng sẽ đạt được danh vọng nhờ vào thiên tài phẫu thuật của mình. Và đó chính là điều mà người ta không thể tha thứ cho ông.
Ở tầng thứ hai của trường đại học, Gigon có một văn phòng riêng, một căn phòng nhỏ, khiêm tốn và bụi bặm, nơi mà ông ta quản lý đám sinh viên và các giáo sư.
Người ta không thể nào biết rõ quyền lực một thư ký trường đại học lớn đến mức nào. Chính ông ta là người có thể áp dụng hay đình hoãn một quy định nào đó, sửa đổi hồ sơ hoặc nhắm mắt dung túng cho một đặc quyền trái với nguyên tắc. Trên thực tế, chính Gigon là người trao tặng các huy chương, phân phối các chức vụ, quy định sự thăng tiến. Người em họ này của Géraudin có nhà ở vùng quê. Ngay ở Angers, từ sáng đến chiều, khách đến không ngớt. Để tăng thêm số tiền lương ít ỏi của mình, ông ta nhận bán giùm cho một hiệu sách lớn ở thành phố những cuốn sách về y khoa và nghệ thuật. Dĩ nhiên, nhóm nhỏ những kẻ nuôi nhiều tham vọng ở trường đại học là những khách hàng mua sách nhiều nhất.
Hôm đó, cái hành lang chật hẹp dùng làm phòng ngoài cho văn phòng của Gigon đầy khách. Bourland, Huot, Van der Blieck, các thạc sĩ, chào “ông thầy” Géraudin, và đứng nép vào để nhường lối cho ông ta. Gigon vừa tiễn một người khách đi ra, rồi cung kính đón người anh họ danh tiếng của mình và mời vào, sau khi đã xin lỗi những người đang chờ đợi.
- Anh thấy đó, khách đến tìm em đông quá! Người ta vừa hay tin dường như Suraisne bị bệnh khá nặng. Thế là hàng ngũ những ứng cử viên muốn thế chỗ của Suraisne bắt đầu hành động. Trong hai giờ qua, em đã tiếp không ít những kẻ nuôi tham vọng đó. Ai cũng đến thăm dò tình hình, ước lượng cơ may của mình…
- Nhưng Suraisne đâu có chết! - Géraudin nói.
- Không, không! Chính đó là điều em lặp lại với tất cả bọn họ. Thôi, không phải vì điều đó mà em mời anh đến đây…
Gigon trình bày ý định của mình, ông ta mơ ước lập ra một loại huy chương mới: Y khoa bội tinh, một loại huy chương sẽ giúp cho kẻ nào có nó dễ dàng được đề nghị tặng thưởng Bắc Đẩu bội tinh. Dự định này nếu thành công - và chắc chắn nó sẽ thành công với sự ủng hộ của Guerran - sẽ càng làm tăng uy tín của Gigon.
Géraudin hứa sẽ nói chuyện với Guerran về vấn đề này. Và ông rời nhà Gigon để đến bệnh viện Bình Đẳng. Chiếc xe lướt nhanh trong động cơ êm ru, Géraudin nghĩ đến Suraisne, đến nhóm nhỏ những người trẻ tuổi bị bắt buộc phải cầu mong cái chết của một bậc đàn anh để có thể leo lên được một nấc thang. Và ông tự bảo rằng “chính sách vận động ngầm ở trường đại học” này, cùng với những “ông thầy” có quyền quyết định tuyệt đối về tương lai của các học trò, không đếm xỉa tí nào đến giá trị của những kỳ thi, chắc chắn không thể khuyến khích được tinh thần đua tranh ngay thẳng cũng như tình đồng nghiệp. Ông nhớ lại với một chút cay đắng thời tuổi trẻ của mình, khi Rillerac bỏ rơi ông chỉ vì ông đã cố tìm cách sinh sống. Ông hình dung lại nhóm người đang chen chúc chờ đợi trong hành lang của Gigon. Và ông nghĩ rằng hệ thống tổ chức nền đại học như thế không tốt, mặc dù chính ông đã biết lợi dụng nó một cách khéo léo.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Thể Xác Và Tâm Hồn - Maxence Van Dek Meersch

Postby bevanng » 28 Sep 2022

3


Michel thong thả tiến về phía bệnh viện Bình Đẳng. Anh vẫn còn dư thời gian, vì Regnoult đã chấm dứt bài giảng sớm hơn thường lệ. Và quãng đường đến bệnh viện cũng không xa lắm. Hơn nữa Géraudin hiếm khi đến đúng giờ.
Michel đi dọc theo mặt tiền của bệnh viện, tiến vào bằng cửa hông để tránh lối cửa chính phải băng qua khu “tai - mũi - họng”, nơi những người nghèo trong thành phố đưa con họ đến chữa bệnh. Chẩn y viện 1 đang hoạt động. Trên những ghế dài đặt quanh gian phòng rộng lơn, một đám đông, trong những bộ quần áo rách rưới đủ màu sắc đang ngồi chờ đợi: đàn bà, đàn ông, bà già, mỗi người hoặc ẩm một em bé, hoặc có một đứa con trai hay con gái nhỏ ngồi trên đầu gối hay bên cạnh, gương mặt xanh xao lo sợ. Một mùi nồng nặc của quần áo đẫm mồ hôi hòa lẫn với hơi người làm át cả mùi của thuốc khử trùng mà dì Angélique đã xịt trong phòng, trước lúc bệnh viện mở cửa. Họ đội mũ bon-nê bằng len xanh và đỏ, kéo sụp đến tận tai, quấn khăn choàng cổ màu đỏ hung hay xanh nước biển, mặc áo ba-đờ-xuy 2 màu xám xanh, tạp dề xanh da trời, khăn choàng vai màu vàng hay trắng dơ, áo măng tô cũ kỹ màu cặn rượu chát, tím hay nâu, ngồi chen chúc trên những băng ghế dài, tạo thành một tạp sắc hỗn độn đủ màu tương phản lẫn nhau. Những người mới đến tiến vào ngồi chen với những người đến trước. Mọi người đều nói rất ít. Họ nhìn về phía cánh cửa ra vào của căn phòng trong cùng, ở đó anh chàng Belladan béo phệ, trưởng phòng điều trị khoa phẫu thuật nhi, đang phẫu thuật các cục bướu và cắt thịt dư ở cổ họng. Cứ ba phút một lần, cánh cửa đó mở ra: bốn, năm bà mẹ - những người đàn bà nghèo khổ, lưng còng và gương mặt kinh hãi, trong những y phục rộng thùng thình và phai màu - bước ra, mỗi người ẩm một em bé đang la khóc, gương mặt nhợt nhạt hay đỏ gấc, mũi và miệng bê bết máu. Họ trở về chỗ ngồi. Một sinh viên nội trú mang đến cục nước đá để cho các em ngậm.

1. Phòng khám từ thiện.
2. Một dạng áo khoác ngoài, hay còn gọi là măng tô.


- Những người khác! - Giọng anh chàng mập ú Belladan vang lên sang sảng.
Năm người đàn bà khác đứng lên, tiến về phía căn phòng, bế những đứa bé lặng ngắt vì khiếp sợ. Cánh cửa phòng đóng lại sau lưng họ. Những tiếng hét kinh khủng. Cánh cửa lại mở ra. Và những đứa bé miệng đầy máu lại được các bà mẹ bế trở ra.
- Những người khác!

Image


Cứ thế, công việc phẫu thuật được tiến hành vô cùng nhanh chóng và đều đặn. Cần phải làm thật nhanh. Mỗi buổi sáng, người ta phải phẫu thuật cho hàng trăm em bé. Michel bước vào và bắt tay Belladan. Một lần nữa, anh ngạc nhiên trước tài khéo léo của trưởng phòng điều trị. Một y tá nam nắm lấy một đứa bé, cột nó ngồi trên một chiếc ghế hoặc giữ chặt nó trong đôi tay rắn chắc của mình. Một ngọn đèn đặt trên bánh xe lăn được đẩy đến cách gương mặt đưa bé một thước, làm cho nó lóa mắt. Người ta cạy miệng nó ra, thường là phải dùng sức mạnh, bởi vì nó nhất định ngậm kín miệng lại. Một sinh viên đưa cái banh miệng vào giữa hai hàm răng của nó, và miệng nó buộc phải há ra. Bằng một dụng cụ đặc biệt, Belladan đè sát lưỡi của đứa bé xuống, thọc nhanh một cái nạo thật sâu vào phía sau màng khẩu cái, hướng cái nạo lên phía dưới sọ và nạo nhanh. Máu chảy ra. Những tiếng la hét. Những tràng ho sặc sụa. Đứa bé bị nghẹt thở, đau đớn và khiếp sợ đến điếng người, vừa nuốt vừa ôm lấy cổ, nôn mửa, khạc nhổ - nhiều khi ngay vào mặt Belladan - những mảnh nhầy đẫm máu bị nạo ra từ cổ họng. Xong rồi. Đứa bé được giải thoát. Mẹ nó ôm nó, vừa đi vừa khóc thút thít. Belladan vừa lau mặt bằng miếng bông gòn, vừa ra hiệu cho cột đứa bé tiếp theo.
- Dĩ nhiên là phải cho tụi nó dùng thuốc mê, - anh ta nói với Michel trong lúc dùng bông gòn chấm vệt máu dính trên lông mày. - Nhưng không thể được. Chỉ có thể đánh một tí thuốc tê, khi nào tao có thì giờ. Nhưng rất ít khi! Chúng nó đông quá. Mày thấy phòng đợi chật ních rồi đó! Thật sự không thể được. Vấn đề đặt ra là khoa phẫu thuật phải thích nghi với những phương tiện của chẩn y viện hay là chẩn y viện phải cung cấp những phương tiện cần thiết cho các nhu cầu của khoa phẫu thuật.
Mày thấy đó, nền y khoa bây giờ đã biến thành một nền y khoa hành chính, người ta đã hành chính hóa nền y khoa… Tình trạng này hứa hẹn sẽ còn nhiều tồi tệ hơn trong tương lai. Tao thương các bệnh nhân trong thời gian sắp tới và tao cũng thương hại cả bọn mình nữa! Bởi vì mày sẽ thấy không phải là nền hành chính sẽ phục vụ cho y khoa, mà chính các y, bác sĩ sẽ phải thích nghi với những đòi hỏi của nền hành chính. Xong chưa? Thằng bé đã sẵn sàng chưa? Nào, cậu bé, hãy can đảm lên…
Anh ta đến gần một bệnh nhân mới, cầm cái nạo trong tay.
- Đừng khóc chứ! Em hãy tỏ ra can đảm… Kìa, hãy nhìn mẹ em đang buồn…
Michel bước ra ngoài, bị một tiếng thét khủng khiếp đuổi theo. Anh vội vã đi nhanh. Để đến khu trại của Géraudin, anh phải băng qua sân lớn của tu viện. Và anh thấy người ta đang phết một lớp nước sơn dày màu đỏ lên các cây cột và khung vòm.
Bệnh viện Bình Đẳng trực thuộc thị xã Mainebourg. Xưa kia nó là tu viện cũ của dòng Bénédictines. Sau đó, người ta biến đổi nó thành một bệnh viện bằng cách nới rộng ra, xây cất thêm ở hai bên chái hai dãy nhà khổng lồ bằng sắt, xi măng cốt sắt và kính. Nhưng ở chính giữa, trong một thời gian rất dài, tu viện vẫn tồn tại nguyên vẹn, rất đẹp, rất yên tĩnh, với dãy hành lang hình vòng cung, các khung vòm bằng gạch và đá, và bãi cỏ màu xanh mướt trải dài như một tấm thảm. Trong bể nước vang lên tiếng róc rách trong trẻo của một vòi nước. Nhưng giờ đây, tất cả những cái đó đều lần lượt biến mất. Trước hết là tượng Đức Bà, vì lý do chính trị, rồi đến cái vòi nước nhỏ, có vẻ nó làm suy giảm nguồn tài chính của cơ quan Cứu tế công, cuối cùng là thảm cỏ, vì lý do kinh tế, đã bị thay thế bằng lớp gạch sành chắc bền và kêu váng tai. Tu viện trưởng Vincent đã phản đối một cách vô hiệu mỗi lần có một vụ phá hủy xảy ra. Và bây giờ, hội đồng thị xã Mainebourg cho quét lên những bức tường, những cây cột và cả những khung cửa sổ một lớp sơn nâu đặc, nhờn nhờn, một lớp hắc ín không thể xóa bỏ, gợi cho người ta nhớ đến màu tang tóc. Linh mục Vincent đã đi gõ cửa khắp các văn phòng của tòa thị chính để bảo vệ tu viện, giải thích những ích lợi và vẻ đẹp của nó, những gì người ta có thể làm. Gạch đỏ của tường và các cây cột, những mũ cột và khung sườn bằng đá trắng của mái vòm, nền bằng đá phiến và đá bảng xanh của mái nhà, tất cả đều được cạo kỹ, rửa sạch sẽ tạo thành một tổng thể hài hòa tuyệt đẹp về màu sắc. Nhưng ông không thành công. Chatelnay, thị trưởng Mainebourg, tình cờ kiêm luôn chức đại diện thương mại cho một công ty sơn dầu. Thế là người ta sơn phết ồ ạt khắp thành phố.
Nhà nguyện, bị cháy trong thời kỳ cách mạng, đã nhường chỗ cho các văn phòng quản lý. Nhưng trong tầng hầm, hầm mộ vẫn còn sót lại, một phần kiến trúc khá đẹp với những mái vòm kiểu Gothic, những chùm cột mảnh mai, những hình mặt nạ bằng đá được làm tinh xảo với hình dáng những thiên thần nhỏ có cánh. Các máy sưởi trung tâm đã được lắp đặt ở đó. Những đống than đá biến nó thành nơi trú ẩn của bóng tối và bụi bặm, dâng cao đến tận các mái vòm, nhấn chìm các cột trụ cho đến tận mũ cột chạm trổ, và phủ lên chúng một lớp than đen và muội ăn mòn. Những đường ống khổng lồ uốn khúc trong bóng tối, chồng lên nhau như những loài bò sát. Trên mặt đất, các nồi hơi nằm trên nền đá lát cũ, là đá cẩm thạch vốn có màu đen và trắng. Nước rỉ ra từ đó đọng lại trên mặt đất, tạo thành lớp bùn nhờn. Trên những phiến đá mòn, ở một vài nơi, ta vẫn có thể đoán được một dòng chữ đã khắc trước kia, tên của những nữ tu được chôn cất ở đó, dưới các nồi hơi.
Cha Vincent vẫn thường lang thang giữa cái chốn bị tàn phá này với lòng mộ đạo và nỗi đau buồn. Và Géraudin cũng vậy, cả Donat, Ribières, và nhiều giáo sư khác, bởi vì bác sĩ thường là người yêu nghệ thuật và là nhà sưu tập có hiểu biết, họ từng đến đó để chiêm ngưỡng một chi tiết điêu khắc, vẫn có thể nhận ra một cái đầu phụ nữ hay đầu một con quỷ dưới lớp muội than cáu bẩn, và hối hận vì bất lực trước sự phá hoại của nền hành chính. Nhưng hội đồng thị chính Mainebourg quyết theo chủ nghĩa chống giáo quyền và không quan tâm đến các nhà nguyện.
Trong sân của trại phẫu thuật, các sinh viên đang đợi Géraudin. Họ mặc áo blouse trắng, đầu đội mũ, tay cắp vài cuốn sổ, họ đến thẳng đây sau giờ học tại trường do Regnoult dạy thay thầy Doutreval. Doutreval, cha của Michel, là giáo sư chuyên khoa thần kinh bệnh học. Lắm khi vì bận rộn với công việc nghiên cứu, ông giao cho Groix hoặc Regnoult dạy thay. Họ rất thích công việc này, vì họ xem đó là cơ hội tốt để rèn luyện kỹ năng diễn giảng sẽ giúp ích họ rất nhiều trong các kỳ thi. Những bài giảng của Regnoult đã đạt được thành công rất lớn, nhất là trong số sinh viên mới. Regnoult còn được giao một nhiệm vụ khác, khó khăn và tế nhị hơn nhiều: Đưa bệnh nhân ra trước lớp học cho giáo sư và sinh viên quan sát tỉ mỉ khắp nơi trên cơ thể để tìm ra những dấu hiệu bí ẩn nhất về bệnh trạng của người đó. Một số bệnh nhân hãy còn sáng suốt - nhất là những người trẻ - rất đau khổ vì phải đóng vai trò con vật triển lãm ở chợ phiên này. Số khác, vì đã quá quen, không còn xấu hổ nữa. Thậm chí vài người còn tỏ ra hãnh diện. Không khí của bệnh viện, cảnh sống chung đụng, những giờ tiêm thuốc, băng bó và khám nghiệm cơ thể trước mặt nhiều người… đã giết chết sự mắc cỡ nơi họ, đôi khi còn làm nảy sinh một khuynh hướng thật sự thích phô bày những nơi kín đáo nhất trên cơ thể họ. Hơn nữa, người ta rất ngọt ngào với họ:
- Những người này sẽ khám nghiệm các anh. Đó là vì ích lợi của các anh, để giúp chữa trị các anh mau lành bệnh.
Trong khi chờ đợi Géraudin, Tillery ngồi bệt xuống nền gạch - cặp mắt kính khổng lồ vắt vẻo một cách buồn cười trên cái mũi nhỏ - biểu diễn những trò ảo thuật với bộ bài, miệng liến thoắng như người quảng cáo hàng ở chợ phiên. Santhanas chơi xúc xắc với anh chàng Seteuil cao khều. Một số sinh viên khác hút thuốc. Một số khác kể cho nhau những câu chuyện lý thú về bệnh viện và trường đại học y khoa. Regnoult và Flégier, nghiêm trang hơn, bàn cãi với nhau về chiếc ghế giáo sư mà Suraisne sẽ để lại, nếu ông ta chết, và về những cơ may của các đối thủ đang lăm le cái ghế đó. Riêng Michel đi theo Groix “Người Mặt Thẹo”, trợ lý của cha anh, giống như Regnoult. “Người Mặt Thẹo” muốn chỉ cho Michel xem một trường hợp điển hình về bệnh giang mai, một cái mụn lở loét ở môi rất đặc biệt của một cô gái điếm hai mươi tuổi. Trường hợp này rất hiếm.
- Ở Algérie vẫn còn nhiều trường hợp thế này, - Groix giải thích. - Ở châu Âu thì không còn nữa. Nhưng châu Âu lại có nhiều trường hợp bệnh giang mai thần kinh. Dường như các phép trị liệu của chúng ta chỉ ngăn chặn bệnh và đẩy lùi nó sang một địa hạt khác mà thôi. Còn chuyện về chứng chốc lở mặt “lặn vào trong” làm trẻ sơ sinh tử vong… Ai mà biết được? Có lẽ các y tá trước kia biết rõ hơn chúng ta về chuyện này.
Hai người vừa thong thả đi qua các dãy phòng vừa nói chuyện lớn tiếng khiến cho những bệnh nhân đang nằm trên giường đưa mắt nhìn theo. Cạnh một cửa sổ, một cô gái đứng ẩn mình rửa ráy sau mấy tấm ri-đô bằng vải trắng được ghim chặt vào nhau cẩn thận.
- Một cô gái đứng đắn, - “Người Mặt Thẹo” giải thích. - Vẫn còn những cô gái như thế. Cô ta đến đây để trị một chứng bệnh ngoài da. Cô ta sợ các cô gái điếm rửa ráy chung… Sợ những lời tục tĩu. Và sợ cả những con rận nữa…
- Và nhất là, - dì Angélique vừa đến nơi, giải thích - Cô ấy rất sợ một gái điếm cao lớn tóc nâu, thường được gọi là “Con Tây Ban Nha”. Con đó rất khoái cô ấy, nó thường chọc ghẹo làm cô ấy sợ, nó bảo sẽ làm cho cô ấy mang bầu đằng sau lưng… Thật là một đàn quỷ! Mới hôm qua, con bé tóc hung, ông biết chứ, con bé có biệt hiệu “Cái Nồi” ấy mà, nó nhảy điệu “moukère” trần truồng, ngay giữa phòng rửa tay.
Dì Angélique, dày dạn với ba mươi năm phục vụ bệnh viện, có tính thẳng thắn, gọi một con mèo là một con mèo.
- Tôi sẽ mắng nó, - “Người Mặt Thẹo” nói.
Anh ta dẫn Michel đến xem cái mụn loét trên môi cô gái điếm, một thứ thật đặc sắc, thật điển hình của chứng bệnh giang mai. “Chẳng khác gì một hình chụp trong cuốn từ điển y khoa”, “Người Mặt Thẹo” nhận xét. Rồi anh ta đến phòng rửa để mắng “Con Tây Ban Nha” và “Cái Nồi”.
- Đồ mắc bệnh giang mai! Mấy cô làm hỏng đàn ông chưa đủ sao mà còn muốn chọc phá cô gái nhà lành nữa? Tôi, chính tôi sẽ tống cổ mấy cô vào tù! Mấy cô sẽ thấy!
Đám gái điếm mình trần đến bụng, phô bày những bộ ngực xệ xuống một cách nặng nề, cúi đầu với vẻ sợ sệt giả dối, tiếp tục rửa ráy, chà xát những chiếc khăn tắm tẩm xà bông lên người. Họ là những bệnh nhân gây nhiều khó khăn và bực bội nhất cho bệnh viện. Thỉnh thoảng họ say mèm, khiến dì Angélique phải dùng sức mạnh ép buộc họ nằm yên, với mấy cái tát vào má. Một số mắc bệnh giang mai, trên người đầy mụn mủ. Và chính là Amélie, một thiếu nữ mới ngoài hai mươi, sẽ rửa sạch những mụn mủ đó. Trong bọn họ có cả một người mới mang bầu được bảy tháng rưỡi đã sinh một đứa bé chết ngay lúc lọt lòng. Một người khác, nửa điên nửa khùng, lại còn bị lao, trốn khỏi bệnh viện trong ba ngày, rồi trở về, áo quần xộc xệch lôi thôi, miệng nói lảm nhảm. Người ta phải bắt cô ta nằm xuống, ép ăn bằng một cái ống đút qua lỗ mũi thọc sâu xuống cổ họng, đặt lên đầu cô ta một túi đựng nước đá. Nhưng một lát sau, cái túi rơi xuống, và các nữ bệnh nhân khác không muốn đặt lại nó lên dầu cô ta, bởi vì họ sợ bị lây bệnh lao. Mỗi lần như thế, một bà già bị bệnh phong thấp lại phải dưng dậy, tiến đến nhặt cái túi và đặt nó lên dầu cô ta. Một người khác, là gái điếm già bên lề đường, tay chân bị tê liệt một nửa, rất hung dữ khiến những nữ bệnh nhân gần đó phải khiếp sợ; bà ta bắt họ phải chải tóc, rửa chân, cắt móng tay móng chân cho mình. Và người ta sợ cái giọng lưỡi ác độc của bà ta đến mức buộc phải vâng lời. Chỉ riêng bà ta được quyền có một thùng vệ sinh bên cạnh, tỏa mùi hôi thối khắp phòng. Bà ta làm cho Groix phải bực bội; sáng nào bà ta cũng than phiền bị đau ở một chỗ nào đó trên người. Khi hết thời hạn nằm viện, bà ta bỏ đi một, hai ngày, rồi quay lại, để có quyền xin nằm viện tiếp. Các ông thầy thương hại, cho bà ta nằm trong khu trại của họ. Thuở còn trẻ, bà ta là tình nhân của một kỹ nghệ gia danh tiếng. Thời đó, bà ta sống trên nhung lụa, có xe hơi riêng… Bà ta thường kể cho các nữ bệnh nhân khác nghe những kỷ niệm về thuở vàng son xa xưa ấy, và họ lắng nghe với vẻ thán phục.
Khi đi ngang qua đó, Groix chỉ cho Michel nhìn thấy các bệnh nhân, giải thích cho anh nghe về cuộc đời và về bệnh trạng của họ.
Ở phía sau, dì Angélique chuẩn bị thuốc và ống chích, lần lượt gọi các cô gái:
- Này! “Cái Nồi” ở đằng kia! Đến lượt mày!
Dì phục vụ họ không mệt mỏi, nhưng với một thái độ nghiêm khắc, cương quyết buộc họ phải răm rắp tuân theo, không được chậm trễ.
Bên ngoài, dưới sân bỗng có tiếng cửa xe hơi đóng sầm lại. Michel đến bên cửa sổ. Louis đang đỡ ông chủ mình bước ra khỏi chiếc Panhard.
- Kìa! Thầy đã đến! - Michel nói.
Và anh cùng với Groix vội vã đi xuống cầu thang, băng qua khu trại của những người bị bệnh ung thư, nơi giáo sư Heubel đang điều trị các ca ung thư da bằng radium. Một đám những kẻ khốn khổ, da bị băng bằng miếng vải mỏng, đi thơ thẩn trong trại, gương mặt rất buồn. Một cây kim nhỏ - tựa như cây kim bằng thép của máy hát - chứa khoảng vài mi-li-gam chất radium, ghim ngay trên da thịt họ, ngay trên môi, trên má, trên lưỡi, mí hoặc khóe mắt. Và vì thân thể họ đột nhiên có một giá trị đặc biệt, một số tiền kếch sù, do đó người ta canh chừng họ - những kẻ khốn khổ triệu phú này - rất kỹ. Họ không có quyền ra khỏi khu trại. Và để dễ dàng tìm thấy họ ở bất cứ đâu, người ta gắn vào khuy áo họ một miếng vải tròn lớn màu đỏ, giống như cái nơ khổng lồ của huy chương Bấc Đẩu bội tinh, trên đó có mấy chữ: “Coi chừng, radium”. Cứ như thế, họ lang thang trong khu trại như những tù nhân bị giam lỏng, buồn bã và chán nản, thèm khát một điếu thuốc lá mà họ không thể nào được hút. Họ, những ông già bụng đói và quần áo rách rưới, đang mang trên thân thể một kho tàng mà khi tính ra tiền sẽ làm cho họ phải trố mắt.
Bernard Géraudin là ông thầy có uy thế nhất ở bệnh viện cũng như ở trường đại học. “Bệnh viện Thánh Géraudin”, các sinh viên thường gọi như thế khi đề cập đến bệnh viện Bình Đẳng. Bạn của ông, Olivier Guerran đã đề cử ông làm giám đốc các viện chẩn tế. Với tư cách này, Géraudin đã tự dành cho mình cả một khu trại, dành cho các bệnh nhân có trả tiền nhưng thiếu chỗ nằm trong dưỡng đường của ông. Như thế ông có đến hai dưỡng đường, một cái sang trọng đắt tiền, và một cái dành cho những bệnh nhân thuộc giai cấp trung bình. Nhưng trong khu trại của ông, bao giờ cũng có hai hay ba giường trống dành riêng cho ông thị trưởng và những nghị viên hội đồng thị xã Mainebourg, hay bạn bè của họ. Ông chữa bệnh cho họ không lấy tiền, như thế ông chắc chắn sẽ có được sự ủng hộ của họ khi cần. Phí tổn chữa bệnh được Quỹ từ thiện thanh toán, nghĩa là chính những kẻ khốn khổ, nghèo khó trả tiền viện phí cho họ.
Một nghị định gần đây đã cấm lập ra những loại dưỡng đường tư bên trong các bệnh viện công. Nhưng luật sư Guerran đã can thiệp ngay. Nghị định đó cùng với nghị định “cấm các giáo sư giải phẫu kiêm nhiệm chức giám đốc các viện chẩn tế” bị hoãn áp dụng. Rõ ràng những liên hệ giữa Géraudin với Gigon càng làm cho uy quyền của ông thêm vững chắc hơn. Nhờ Gigon, ông có thể giẫm lên những quy tắc để ban những ân huệ, đặc quyền cho các sinh viên nội trú và các đệ tử ruột của mình, bổ nhiệm trực tiếp người của ông vào các chức vụ đòi hỏi phải qua một kỳ thi tuyển, bằng cách sửa đổi điều lệ của những văn bản. Hoặc là bản thông báo kỳ thi tuyển được dán kín đáo trong những góc kẹt tối tăm nhất của văn phòng hành chính khiến cho không ai để ý đến. Thế là chỉ có một thí sinh duy nhất - thí sinh của Géraudin - dự thi. Và anh ta đương nhiên trúng tuyển.
Flégier vội vã chạy ra đón ông thầy. Géraudin tiến vào khu trại, khoác áo blouse trắng, vừa hỏi han Flégier vừa tiến đến cánh cửa lớn của phòng phẫu thuật để xem tấm bảng ghi các ca phẫu thuật trong ngày.
- Nào, các vị, chúng ta hãy đi thăm các phòng bệnh! - Ông nói.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Thể Xác Và Tâm Hồn - Maxence Van Dek Meersch

Postby bevanng » 28 Sep 2022

Image


Các sinh viên liền đi theo ông. Họ đi từ phòng này sang phòng khác. Tại mỗi phòng, sinh viên trực và dì phước sẽ đến chỉ vào các bảng nhiệt độ treo ở các chân giường. Các bệnh nhân nằm trên những chiếc giường xếp hàng dài đưa mắt nhìn theo, trong một lúc, quên đi nỗi buồn chán của mình. Ngồi trên giường, một bà già vẻ mặt ngơ ngác, bị ung thư *, vừa từ phòng phẫu thuật của giáo sư Heubel trở về, đưa cặp mắt đờ đẫn nhìn khắp phòng. Xa hơn nữa, Géraudin và toàn thể sinh viên dừng lại trước một thiếu phụ. Tấm chăn đắp trên người cô được lấy ra. Géraudin lật vạt áo sơ mi của cô lên đến tận ngực, nói:
- Các anh hãy nhìn kỹ vẻ mặt. Chứng phù thũng gia tăng với chứng loạn tim… Bướu tăng trưởng một cách rõ rệt.
Ông cố ý chọn những từ ngũ mà người đàn bà đáng thương không thể nào hiểu được. Một việc tế nhị mà người ta thường bỏ qua. Bởi vì thói quen nghề nghiệp dần dần làm cho người bác sĩ dễ quên rằng mình đang chăm sóc một con người. Trường hợp bệnh trạng của thiếu phụ rất đáng chú ý. Tất cả sinh viên lần lượt phải sờ vào bụng của bệnh nhân. Với một vài sinh viên, ông thầy đề nghị họ sờ tay vào âm đạo. Người đàn bà, trần truồng trên giường bệnh, đỏ mặt vì xấu hổ, quay đầu đi để người ta không thấy mình đang khóc. Nhưng Géraudin đã thấy. Ông liền nói ngay vài lời rất thành thật, rất tử tế, cầu xin sự tha thứ vì đã lợi dụng nỗi khốn khổ của người khác.
- Cô bé, xin hãy tha thứ cho chúng tôi, hãy hiểu cho chúng tôi! Cô giúp chúng tôi một việc rất lớn. Cô giúp chúng tôi, tất cả những người trẻ tuổi này và tôi, được học hỏi. Cô giúp chúng tôi xoa dịu nỗi đau đớn của những người khác cũng khốn khổ như cô, chữa lành bệnh cho họ… Nào, cô hãy cho phép nhé?
Géraudin biết kính trọng nỗi đau khổ của người khác. Ông có những lời nói chân tình với những kẻ khốn khổ. Điều này chứng tỏ chính ông đã từng chịu cảnh nghèo khó. Người đàn bà không nói lời nào, nhưng không khóc nữa, xem chừng đã bớt xấu hổ vì những bàn tay đang sờ mó trên thân thể mình.
Tuy nhiên, cũng có một số bệnh nhân nữ, vì quá quen thuộc với bệnh viện, vẫn thản nhiên khi người ta khám nghiệm thân thể họ như vậy. Một số khác nở nụ cười buồn, chịu đựng. Có những bệnh nhân, chắc vì nhớ gia đình, nằm khóc một mình trong góc giường. Không một sinh viên nào tỏ ra chú ý đến họ hay tiến đến an ủi. Người ta thản nhiên đi qua. Đi chung trong một đám đông bốn năm chục người, các sinh viên không thể có được một cử chỉ thương hại mà nếu đi một mình, có lẽ mỗi người sẽ biểu lộ ra một cách tự động. Chúng ta thường có một sự mắc cỡ khó hiểu khi phải tỏ ra có lòng tốt trước mặt mọi người.
Trong căn phòng nhỏ đặc biệt dành cho quang tuyến X, hai mươi sinh viên chen chúc nhau. Michel phải khó khăn lắm mới tìm được chờ ngồi. Căn phòng được soi sáng lờ mờ bằng ánh sáng đỏ của một bóng đèn. Rồi đột nhiên bóng tối bao phủ hoàn toàn. Tất cả mọi người nghiêng đầu nhìn vào một màn ảnh màu xanh lá cây di động trên cơ thể một bệnh nhân nằm dài mà thoạt đầu không ai trông thấy. Heubel đang thử chữa trị một khúc xương ống chân bị gãy bằng phương pháp mới do ông nghĩ ra. Chính ông đang đứng bên màn ảnh để giải thích phương pháp của mình. Người ta nhìn thấy bộ xương của bàn tay ông di động trên khúc xương ống chân bị gãy. Ông luồn vào trong khúc xương một sợi dây bạc, đầu dây treo một quả cân mà ông thay đổi để có một lực kéo theo ý muốn. Trên màn ảnh, mọi người trông thấy sợi dây kim loại đó được luồn vào khúc xương. Và Heubel, trong bóng tối, tăng hay giảm những quả cân, chứng minh cho Géraudin và các sinh viên thấy sự tinh vi của phương pháp. Người ta nghe rõ hơi thở đau đớn của bệnh nhân đang cố gắng kìm hãm tiếng rên của mình.
“Là đàn ông hay đàn bà nhỉ?” - Michel tự hỏi khi bước ra ngoài.
Cuộc đi thăm các phòng bệnh kết thúc ở phòng dành cho trẻ em. Trên những chiếc giường nho nhỏ, một hàng dài đều đặn những mái đầu nhỏ bé, xanh xao và ngoan ngoãn đặt trên những chiếc gối trắng, các em nhìn mọi người đi qua bằng đôi mắt của những nạn nhân đau khổ.
- Em bé này bị chứng thiếu máu trầm trọng. Em bé kia bị viêm phúc mạc. Kia nữa là viêm xương. - Géraudin nói.
Chúng nhìn theo với đôi mắt mở to, ngây thơ và vô tội, bình tĩnh cam chịu số phận khiến Michel luôn cảm thấy bối rối, buộc anh phải nghĩ đến những con vật đáng thương, phục tùng và dịu dàng, bị kết án mà không hiểu tại sao, chấp nhận đền trả cho một tội lỗi tập thể lớn lao, trong đó anh mơ hồ thấy rằng chính mình, một kẻ quá giàu có và quá sung sướng cũng tham dự. Géraudin dừng lại trước một bé trai có nước da trắng nhợt, lấy một ít máu thử để bắt đầu truyền máu. Máu đã được đem đến. Flégier chuẩn bị những miếng kính và dao mổ. Đứa bé nhìn anh với vẻ mặt lo sợ. Géraudin tiến đến gần đó, động viên lòng can đảm của nó:
- Nào, nào, cháu sẽ không khóc chứ. Xem kia! Trước mặt tất cả mọi người, hãy chứng tỏ cháu là một người can đảm! Và sau đó, tôi sẽ dành cho cháu một sự ngạc nhiên, cháu sẽ thấy…
Bằng một đường dao thật nhanh, ông rạch dái tai của em bé. Máu phun ra. Nó khóc thét lên. Flégier hứng máu trên một miếng kính và hòa lẫn hai loại máu với nhau. Nhưng anh sơ ý lật ngược một miếng kính. Thế là phải làm lại, phải rạch dái tai của đứa bé lần nữa. Géraudin giận đỏ mặt. Ông nói:
- Flégier, tôi không thích anh sơ ý như thế. Đối với đôi tai một đứa bé…
Flégier đỏ mặt, lắp bắp vài câu xin lỗi. Khi việc truyền máu hoàn tất, thừa lúc các sinh viên đã đi xa đến các giường khác, Géraudin lén rút trong túi ra một hộp viết chì màu, nhét vội dưới tấm ga trải giường của đứa bé, hệt như một người đến thăm bạn bị bệnh, thừa lúc người y tá quay lưng đi, lén trao cho bạn một chai rượu chát! Géraudin rất thương những em nhỏ bị bệnh, ngày nào ông cũng đến thăm chúng. Ông hôn chúng, bẹo má chúng, nhăn mặt làm trò, nói những câu khôi hài làm cho chúng cười. Ông sung sướng mỗi khi làm nở nụ cười trên gương mặt xanh xao của một em bé. Ông kín đáo mang đến cho chúng những miếng kẹo sô-cô-la, những đồ chơi được chọn đúng với ý thích của từng em: Chiếc xe hơi cho con trai một tài xế, cần cẩu cho con của một thủy thủ. Ông đoán biết những gì chúng cần, những gì chúng thích. Thỉnh thoảng, khi các sinh viên không có mặt ở đó, ông say mê chơi đùa với chúng suốt cả tiếng đồng hồ. Và khi rủi ro, có một em bé vô tội không may tử vong dưới dao mổ của ông, ông xúc động, đau khổ trong nhiều tuần lễ.
Cuộc đi thăm các phòng bệnh đã kết thúc. Các sinh viên tản đi. Géraudin xuống phòng phẫu thuật cùng với Flégier, Michel, Seteuil và vài sinh viên nội trú.
Đến trước cửa phòng, ông xem lại bản ghi các ca phẫu thuật một lần nữa.
- Một trường hợp nạo thai. Một cái u nang và một trường hợp cắt tử cung. Được rồi, Flégier, anh hãy nạo thai đi.
Flégier khoác áo blouse lên người. Về phần mình, trước khi khoác chiếc áo blouse vào người, Géraudin nhắc dì Angélique chuẩn bị tô cháo lúc mười một giờ. Trước lúc phẫu thuật, ông luôn dùng một tô cháo thịt do dì Angélique mang đến. Đó là một thói quen của Géraudin, một tô cháo đặc mà những người bình dân thường ăn, nó nhắc ông nhớ lại cái thuở nghèo khổ của mình, và chẳng hiểu tại sao ông vẫn thấy nó thơm ngon hơn những món cao lương mỹ vị mà bà đầu bếp khéo léo của mình đã dọn ra. Trong suốt hai mươi năm, ông không hề từ bỏ thói quen này. Thậm chí, một ngày kia, có một bệnh nhân đang nằm trên bàn mổ thì nghe thấy ông đòi tô cháo lúc mười một giờ; tin rằng sắp bị ông đầu độc, người đó đã tháo chạy qua cửa sổ! Một thời gian dài sau đó, người ta vẫn còn cười về chuyện này.
Sau khi mặc áo và đeo khẩu trang, Géraudin, Michel và dì Séraphine tiến vào phòng phẫu thuật. Flégier đang làm việc. Trên cái bàn cao, một phụ nữ nằm mê man, hai chân giơ lên, dang rộng. Gương mặt ngang tầm với mông của bệnh nhân, Flégier thọc cây nạo vào bên trong cửa mình đẫm máu và nạo với một cử chỉ kiên nhẫn, thận trọng và chăm chú. Trên băng ghế đối diện, hai nữ bệnh nhân khác đang ngồi đợi, đầu cúi thấp, vẻ mặt đờ đẫn do ảnh hưởng của mũi thuốc Scopolamine mà dì Angélique tiêm cho họ trước đó.
- Ai bị bướu? - Géraudin hỏi.
- Người này, - dì Séraphine đáp.
- Doutreval, hãy gây tê tủy sống cho cô ấy.
Michel nâng cằm người đàn bà lên, hỏi to:
- Khỏe chứ?
Người bệnh lắp bắp:
- Khỏe.
- Tâm trạng thoải mái không?
- Ờ…
- Không sợ chứ?
- Không sợ.
Người đàn bà ngoan ngoãn lặp lại với vẻ đờ đẫn, ngờ nghệch. Michel cho chị ta ngồi lên bàn mổ, dì Séraphine kéo áo của chị ta lên. Michel đâm một cây kim rỗng ruột vào ngay giữa hai đốt xương sống. Từ đầu mũi kim nhỏ ra từng giọt nước trong: chất nước trong tủy sống bắt đầu chảy ra. Michel đút ống tiêm vào và bơm chất Novocaine. Ở bệnh viện, Géraudin luôn sử dụng biện pháp gây tê tủy sống. Đơn giản, nhanh chóng, quá trình này đảm bảo sự bất động hoàn toàn của vùng bụng. Tuy nhiên, tại phòng khám riêng, ông vẫn gây mê qua đường hô hấp. Mặt nạ ê-te có thể được tháo ra bất cứ lúc nào, ít gây nguy cơ bất tỉnh nhất. Trái lại, một mũi tiêm một liều Evipan tàn bạo vào ngay ống tủy sống thì vô phương cứu vãn. Các rủi ro bù trừ lẫn nhau. Nhưng mặc dù thích phương pháp gây tê tủy sống hơn, Géraudin hầu như không sử dụng nó cho bệnh nhân của mình.
Géraudin phẫu thuật cái u nang một cách nhanh chóng, tài tình. Ông cảm thấy đang đầy đủ phong độ. Một lần nữa, ông khiến cho Michel, Tillery và mọi người phải trầm trồ thán phục. Ông đã giải quyết xong cái u, trong khi Flégier vẫn hì hục nạo thai.
- Đến lượt người số hai, - ông nói.
Michel tiến đến bên nữ bệnh nhân đang ngồi trên ghế băng. Anh đặt câu hỏi thường lệ:
- Chị khỏe chứ?
- Khỏe.
- Chị tên gì?
- Jeanne Lacroix.
- Chị bao nhiêu tuổi?
- Ba mươi ba.
- Scopolamine không có tác dụng mạnh bằng những cái khác, - Géraudin vừa rửa tay vừa nói. - Tillery, anh hãy gây tê tủy sống cho cô này.
Sau khi Tillery làm xong, người bệnh được đưa lên bàn mổ, và người ta cho cái bàn chúc xuống. Thế là người đàn bà nằm đầu chúc xuống thấp, hai chân đưa lên cao. Mái tóc ngắn màu hung buông lòa xòa như tóc của người chết đuối. Géraudin, bằng một nhát rạch nhanh vòng quanh rốn, mổ bụng ra.
Ông dùng hai bàn tay vạch những lớp thịt và bộ ruột. Mọi người đến gần và ngóng cổ nhìn với vẻ tò mò háo hức.
- Các anh hãy nhìn xem, - Géraudin vừa nói vừa luồn bàn tay dưới tử cung, đỡ nó lên và chỉ vào noãn sào - cô gái đáng thương này đã bị một tên khốn nạn nào đó truyền bệnh lậu mủ. Cô ấy đã không chữa trị. Có lẽ cô ấy cũng không biết mình đã mắc bệnh. Kết quả là bị nhiễm bệnh, bị chứng viêm tử cung, viêm noãn sào kinh niên… Và tôi buộc phải cắt bỏ buồng trứng của cô ấy giống như người ta thiến một con thỏ. Này dì phước, cô ấy làm nghề gì?
- Nghề mại dâm. Cô ấy ở số 26, đường Caserne… - Dì Angélique đáp.
- A! Một cô gái mại dâm. Thảo nào! - Géraudin nói.
Ông cầm lại con dao phẫu thuật và toan tiếp tục. Đột nhiên, một giọng nói kỳ lạ, mạnh mẽ vang lên trong sự im lặng của căn phòng.
- Thưa bác sĩ, không phải lỗi tại tôi.
Con dao phẫu thuật bỗng khựng lại nửa chừng trong không khí. Tất cả sinh viên đều nghiêng đầu nhìn vào gương mặt người đàn bà. Đôi mắt cô ta mở to nhìn Géraudin. Cô ta đã chống lại được chất Scopolamine. Đây là một trường hợp khá hiếm. Cô ta đã nghe được tất cả. Và bằng giọng nói thản nhiên, khàn khàn vì ảnh hưởng lâu ngày của rượu, cô ta cố gắng biện minh cho mình. Cô ta cho biết mình bị một người đàn ông quyến rủ dẫn đến mang thai, sinh ra một đứa con, rồi bị người đó bỏ rơi và lâm vào cảnh khốn khổ. Tiếp đó cô ta lại bị những tên sở khanh lừa gạt, cuối cùng lâm vào cảnh sa đọa hoàn toàn và phải hành nghề. Câu chuyện được cô ta kể lại bằng những lời giản dị, bình thản như người ta kể lại một câu chuyện bình thường, nếu thỉnh thoảng không có một chi tiết bi thảm làm nổi bật sự thật đau lòng.
- Tôi còn một đứa con gái bốn tuổi. Nó lớn như thổi. Tôi giao nó cho một bà * nuôi. Mỗi Chủ nhật tôi lại đến thăm nó… Nhưng đột nhiên nó ngã bệnh. Tôi bèn đem nó về Paris, chăm sóc nó trong bảy tuần lễ. Và nó chết vào một buổi trưa Chủ nhật… Tôi không còn một đồng xu để trả tiền bác sĩ, tiền chôn cất, tiền chi phí cho ông mục sư, tất cả mọi thứ… Thế là đêm đó tôi đã đi khách trong nhà điếm. Trọn cả đêm, năm chục người khách, hoặc có lẽ cả trăm người, tôi không còn nhớ rõ nữa… Các vị cũng biết chốn ấy như thế nào… Nhưng tôi đã kiếm đủ số tiền để mua quan tài và hoa cho con tôi. Người ta đã đưa nó đến nghĩa địa Pantin trên một chiếc xe tang. Tôi không còn một đồng nào để đi taxi. Tôi đã phải đi theo sau chiếc xe tang từ xa, trên chiếc xe lửa điện. Thưa ông bác sĩ, đó là tất cả câu chuyện của tôi…
- Được rồi, được rồi! - Géraudin đáp. - Thôi, cô đừng nói nữa, cô gái đáng thương của tôi… Cô làm tôi không thể nào làm việc được nữa…
Ông đưa cánh tay áo lên chùi mắt, cũng xúc động như các sinh viên nội trú của mình…
Michel không thể nào quên hình ảnh người đàn bà khốn khổ, đầu bị chúc xuống thấp, tóc xòa rối bời, bụng bị mở rộng hoác, như một con vật bị treo vào móc ở cửa hàng thịt, miệng đều đều kể lại cuộc đời bi thảm của mình, trong khi Géraudin chăm chú cắt buồng trứng của cô ta, và thấm máu dưới đáy khoang chậu, giống như trong một loại chậu bằng thịt, được lót bằng các lớp cơ.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Thể Xác Và Tâm Hồn - Maxence Van Dek Meersch

Postby bevanng » 28 Sep 2022

4


Sau khi Géraudin ra về, Michel cùng Seteuil và Tillery rời trại phẫu thuật và băng qua khu bệnh viện. Anh chàng nhỏ thó đề nghị:
- Chúng ta đi ăn ở quán Các Độc Tố nhé? Tao còn hai vé.
Sở dĩ quán có biệt hiệu như thế là vì rượu và thịt ở đây rẻ nhưng không được vệ sinh cho lắm. Ông chủ quán dọn cho các sinh viên những bữa ăn với giá một trăm xu. Bốn franc rưỡi nếu mua mười vé một lúc. Vốn tính cẩn thận nên vừa nhận được tiền của cha, Tillery liền mua ngay ba mươi vé cho cả tháng. Thế là chắc chắn không bị chết đói, anh chàng tha hồ tiêu pha thỏa thích phần tiền còn lại. Rồi, đến khoảng giữa tháng, để có tiền mua thuốc lá, anh ta bán lỗ vốn những vé ăn để sống, một cách “lành mạnh và điều độ” như lời anh ta nói, bằng thuốc lá và bánh sandwich.
Cũng có những sinh viên đến đây ăn để có thể dành dụm tiền mua sách.
- Đến quán đó cũng được nhưng đừng ăn thịt. Một quả trứng thôi! - Michel nói.
Sau ca phẫu thuật, nhìn một miếng thịt bít-tết, anh cũng thấy buồn nôn.
- Cô ta là ai vậy? - Michel hỏi, khi cả bọn đi dọc theo dãy hành lang.
- Ai?
- Cô gái chúng ta vừa phẫu thuật đó.
- Có phải mày bị tiếng sét ái tình vì tử cung của cô ta không? - Seteuil nói đùa. - Tao không biết, nhưng tên cô ta có trong cuốn sổ tay của tao. Xem nào… Jeanne Lacroix. Phải, đúng rồi, trại C, lầu 2, phòng 28. Bệnh lao phổi. Tao nhớ ra rồi. Người ta đem cô ta đến đây hồi tối qua. Cô ta sẽ trở lại dưỡng đường trong tuần này.
- Tao sẽ đến thăm cô ta, - Michel nói.
Bây giờ họ đi ngang qua một trong những phòng tập thể của bệnh viện, một gian phòng u buồn sơn màu trắng, trần cao, tràn ngập thứ ánh sáng chói chang và lạnh lẽo. Lúc ấy đang vào giờ ăn. Trước đó mười lăm phút, anh lao công đã phát cho mỗi bệnh nhân một tô sành, một cái nĩa và một muỗng sắt tây. Bây giờ anh ta trở lại, bụng đeo một cái nồi to đựng thứ nước xúp lẫn lộn những miếng khoai tây, thịt bò nấu nhừ, đậu, gạo và bột. Một tay giữ nồi, tay kia cầm muỗng múc thức ăn cho từng người. Người ta nghe tiếng rào rào của những cái miệng đang húp nước xúp và nhai thịt. Không có dao ăn. Họ phải lấy tay cầm miếng thịt đưa lên miệng, cắn, xé. Nước thịt chảy xuống cằm. Cũng chẳng có khăn ăn. Những bàn tay, những hàm râu và ga trải giường đầy những vết nước xốt. Chỉ một thoáng sau, anh lao công đã trở lại với món tráng miệng - mứt cam nhừ. Mặc cho người ta chưa húp xong nước xúp, anh ta vẫn đổ bừa một thìa mứt lên khoai tây. Vì thế mọi người đều ăn hối hả, vừa nhai ngấu nghiến vừa nhìn. Michel đi ngang qua. Trên áo sơ mi của họ, bên vai phải, có con dấu của bệnh viện với hàng chữ lớn bằng mực đen: “BÌNH ĐẲNG
- Nếu tao bị bệnh, tao thà chịu chết ở nhà còn hơn là đến nhà thương. - Tillery nói.
- Dẫu sao nhà thương cũng làm giảm sự đau đớn của nhiều người bệnh! - Michel nói.
- Đành rằng thế, - Tillery nhìn nhận. - Nhưng theo ý tao, chỉ nên xem bệnh viện như một phương tiện bác ái đặc biệt. Lý tưởng vẫn là chữa bệnh ở nhà.
- Làm như ở nhà mày có quang tuyến X, chụp hình phổi, hay chữa xương gãy như Heubel làm hồi sáng! Ngành y khoa đòi hỏi những cơ sở tối tân: phòng thí nghiệm, phòng quang tuyến X. Nghĩa là bệnh viện!
- Không hẳn thế. Dĩ nhiên, nếu con người chỉ là một con vật. Nhưng dù như thế đi nữa cũng chưa chắc… Mày thử đổi một con ngựa sang chuồng khác coi! Nó sẽ ủ rũ trong nhiều ngày liền. Mày tưởng bệnh nhân bị rứt ra khỏi những người thân của họ, bơ vơ trong bệnh viện mà không cảm thấy đau khổ hay sao! Còn yếu tố tâm lý nữa chứ mày!
- Nhưng còn các tiến bộ của xã hội, hiệu năng, những nhu cầu kinh tế…
- Những nhu cầu kinh tế cũng đòi hỏi người ta thực hiện việc tuyển chọn giống người, như người ta tuyển chọn những con ngựa giống vậy. Chỉ những người có thể chất tốt nhất mới được phép lập gia đình và sinh con cái. Con người phải có thể được di chuyển như một cái máy đến bất cứ nơi nào cần nhân công, chẳng hạn từ châu Âu sang châu Mỹ. Nhưng ai cũng đều nhìn nhận là không thể nào thực hiện được điều đó, con người rất quyến luyến với căn nhà của họ, cái khung cảnh họ sống. Tóm lại vì con người có một tâm hồn… Nhiệm vụ thiết yếu của ngành y khoa là phục vụ cho từng con người!
- Vậy là mày chê trách cả công việc thiện nguyện ư?
- Không. Nhưng tao nói nó được thực hiện theo một chiều hướng không đúng. Người ta phải giúp đỡ con người theo cách khác, có nhân đạo hơn. Vì kẻ nào không đồng ý với tao, kẻ đó chưa từng biết đến nghèo khổ là gì, chưa từng nếm mùi bệnh viện. Và tao muốn kẻ đó phải nhìn thấy cảnh vợ nó, hay con gái nó chẳng hạn, bị trần truồng cho hai chục sinh viên khám nghiệm, trong đó có một tên cao lớn đầu hói như thằng Seteuil đứng ở chân giường cùng với thằng heo Santhanas ngắm nghía và bình phẩm một cách thích thú về những đường cong tuyệt mỹ của con bé.
- Ê! Ê! - Seteuil kêu lên.
- Nhưng Géraudin là một người rất tốt. - Michel nói.
- Một con người tuyệt diệu! Đúng vậy! Ông biết nói những lời an ủi. Nhưng không phải vị bác sĩ nào cũng làm được như ông. Có những bác sĩ vì quá chai sạn với nghề nghiệp nên đã quên phắt cái cử chỉ tế nhị nhân văn đó… Chính tao đôi lúc cũng có chút xấu hổ khi thấy dì Angélique an ủi một cô gái đang khóc, sau khi chính tao đã đưa bàn tay khắp nơi trên thân thể của cô ta!
- Những người nghèo đến chữa bệnh miễn phí thì phải chịu đựng những cái đó chứ.
- Thì cũng được. Nhưng như vậy, việc chữa bệnh miễn phí đâu còn là điều từ thiện nữa, mà chỉ là sự trao đổi. Nhà nước chẳng cho không cái gì cả. Là sự trao đổi mà thôi. Thế thì, sao lại nói với chúng ta về lòng từ thiện, từ tâm, về trợ cấp xã hội? Và tại sao lại đặt cho các bệnh viện những cái tên như: Bệnh viện “Bác Ái”, Bệnh viện “Huynh Đệ”, “Bệnh viện của Chúa”, Bệnh viện “Tình Thương”, Bệnh viện “Từ Tâm”?
- Hơn nữa, - Tillery nói tiếp - không phải chính những kẻ khốn khổ là những người phải chịu thiệt thòi nhiều nhất sao! Một người đàn bà đi sinh con bị rứt ra khỏi người thân của mình. Chồng chị ta không được nhìn thấy cảnh chị ta phải đau đớn như thế nào lúc sinh con, một cảnh có thể làm cho tình nghĩa vợ chồng khăng khít thêm. Mày có thể cười khẩy, thằng hói kia, nhưng chính tao đã nghe hàng chục lần những người thợ nói với tao về vợ mình: “Dĩ nhiên, vợ tôi rất yếu đuối. Nhưng vợ tôi đã tỏ ra rất can đảm khi cho thằng bé chào đời!” Và còn người bác sĩ! Người bác sĩ cũng bị mất mát rất nhiều trong tình trạng này! Không còn những sự tiếp xúc giữa con người với con người. Nhiều bệnh nhân đã quen bị xem như những con số thứ tự để đưa ra trước mặt hai chục ông bác sĩ cùng khám họ một lượt; và ngược lại, đối với họ, bác sĩ cũng trở thành một cái máy khám và chữa bệnh. Chính bệnh viện công cộng đã giết chết người bác sĩ thân thuộc của gia đình. Và điều này chẳng có lợi cho ai cả, bệnh nhân cũng như y, bác sĩ.
Michel không biết trả lời như thế nào.
Ba người bạn rời bệnh viện. Ở bên ngoài, đường phố sau bữa ăn trưa vẫn nhộn nhịp như thường lệ. Các thân nhân đứng đông nghẹt trước cổng bệnh viện, tay ôm khệ nệ những quả cam, những gói bánh và kẹo sô-cô-la. Đã gần một tiếng đồng hồ, họ chen chúc, xô đẩy nhau, chờ đợi cổng mở. Và đã có những cuộc ẩu đả xảy ra giữa những người muốn tranh giành một chỗ thuận tiện để được vào trước. Khi cổng chính và các cổng phụ được mở ra, mọi người xô nhau ùa vào, chạy hối hả dọc theo các hành lang, để có thể ở lâu thêm một phút với người mình yêu quý. Từ đầu đường, Michel trông thấy những kẻ đi trễ đang chạy như bay.
Và dọc vỉa hè, những chiếc xe nhỏ của những người bán cam và kẹo xếp thành hàng dài. Ngoài ra còn có những người bán hoa: hoa hồng và mẫu đơn, hoa cúc đại đóa, thủy tiên và hoa cúc vàng, rất nhiều hoa tươi, cả một bữa tiệc đủ màu sắc và mùi hương thơm ngát, trên đường phố, trước bệnh viện lớn. Ai cũng thích hoa. Đám đông này mang rất nhiều hoa tới cho những người thân khốn khổ của họ.
Thời gian thăm bệnh nhân kéo dài một tiếng đồng hồ. Sau đó, dưới sự quản lý của dì Angélique, cuộc sống ở bệnh viện lại tiếp tục, chậm chạp, buồn nản, với vô số những nỗi đau khổ, với những cái nhỏ mọn và những cái cao cả của nó mà không ai để ý đến. Dì Angélique hay rầy la, - đám sinh viên thường gọi dì như thế, - trông coi tất cả các ban ngành trong bệnh viện, quản lý những kẻ “bụi đời”. Bắt đầu từ tháng Mười một, những kẻ “bụi đời” đến bệnh viện để trú ẩn qua mùa đông. Người ta gọi họ là những kẻ V. G. C 1 bởi vì đầu giường của họ có treo một tấm bảng ghi ba chữ tắt đó. Bệnh sưng cuống phổi, bệnh phong thấp, bệnh hen kinh niên, họ có đủ lý do để xin nằm viện. Vì không có phòng dành riêng cho họ, dì Angélique dồn họ vào một hành lang lớn. Suốt ngày họ đánh bài bên cạnh lò sưởi. Đêm đến, họ trốn vào phòng của những người bị bệnh hoa liễu tìm chỗ nằm, vì không còn chỗ nào khác cả. Thông thường, họ ở đây chừng hai tuần lễ rồi rời đi. Nhưng chỉ sau một tuần, họ lại “bị bệnh” và trở lại. Cứ thế, hết hai tuần này đến hai tuần khác, họ nương náu tại bệnh viện cho tới mùa xuân thì tản đi khắp nơi rồi tụ lại vào mùa đông năm sau. Dì Angélique làm cho họ sợ hãi.

1. Vô gia cư.

Dì cũng quản lý luôn cả sinh viên, xem xét các đế giày của họ và buộc họ phải chùi sạch chân, mạnh dạn giật phăng điếu thuốc họ vừa đưa lên môi:
- Thưa anh, ở đây cấm hút thuốc.
Dì nhận xét về họ với sự chính xác không bao giờ sai lệch.
- Cậu này học gạo, cậu kia suốt đời lười biếng.
Dì cũng nhìn xa hơn họ. Họ có sách vở, có kiến thức. Còn dì, dì có ba mươi năm phục vụ ở bệnh viện. Có nhiều lần, trong việc chăm sóc bệnh nhân, trước một ý kiến thiếu thận trọng nào đó của các sinh viên, dì đã can thiệp một cách điềm đạm và thẳng thắn để cân nhắc lại.
Có khi dì còn thấy rõ hơn cả ông thầy về những hậu quả của một ca phẫu thuật. Trong khi tất cả mọi người đều lạc quan thì dì lại nhận xét không bao giờ sai lầm:
- Bệnh nhân này không bao giờ lành được!
Và dì cũng đoán trước những bệnh nhân nào sẽ chết trong ngày. Có những dấu hiệu rất nhỏ nhưng không bao giờ sai, những thay đổi rất khó nhận ra trên gương mặt các bệnh nhân báo trước cho dì biết. Vì thế các sinh viên nội trú và ngay cả những ông thầy đều tin tưởng vào các nhận xét của dì. Dấu hiệu đầu tiên cho biết một bệnh nhân sắp chết ở bệnh viện, đó là tấm binh phong mà dì đem đến đặt quanh chiếc giường để ngăn cách và làm dịu cơn hấp hối của kẻ khốn khổ. Dấu hiệu này chưa bao giờ sai. Rồi đến nhánh cây hoàng dương trong nước thánh. Rồi những con ruồi bay đến một giờ trước khi người bệnh chết: Chúng cũng vậy, không bao giờ sai lầm. Cuối cùng, một giờ sau khi người bệnh qua đời, khi thi thể bắt đầu lạnh, những con chấy đang ở sau gáy, cảm thấy hơi nóng con người giảm dần bèn rời bỏ xác chết. Người ta sẽ thấy chúng chạy trên cần cổ, trên tấm vải trải giường và trên chiếc gối của người xấu số. “Nó đổ cái ổ chấy của nó ra”, những bệnh nhân nằm ở các giường lân cận nói. Bởi vì, người bình dân tin rằng những con chấy sống ở phía sau gáy, trong một cái túi nhỏ ở dưới da mà họ gọi là cái “ổ chấy”. Khi thi thể được giải phẫu để khám nghiệm, hàng trăm con vật dơ bẩn này rơi xuống mặt bàn đá hoa.
Khi một bệnh nhân qua đời, người ta thường thực hiện một cuộc giải phẫu khám nghiệm. Đứng xung quanh một bệnh nhân, một ca bệnh đặc biệt đáng chú ý, các ông thầy bàn cãi với nhau. Heubel cho đó là một cái bướu vô hại, Geoffroy nói là ung thư, Géraudin bảo đó là một áp-xe. Doutreval và Donat lại đưa ra những ý kiến khác hẳn. Trước một người bệnh đang hấp hối, các ông thầy ném vào nhau những từ ngữ kỳ lạ mà người bệnh không hiểu nổi. Một câu nói bí ẩn kết thúc cuộc tranh luận:
- Thôi được. Chúng ta sẽ xem xét vấn đề đó ở nhà Morgagni 1.

1. Tên của người bác sĩ đầu tiên phẫu tích thi thể người, bất chấp những quy định cũ của Giáo hội.


Đi đến nhà Morgagni tức là thực hiện cuộc giải phẫu tử thi.
Thế là có những bệnh nhân mà người ta đang chờ đợi cái chết của họ, gần như với một sự nôn nóng, sau khi tranh cãi về trường hợp của họ. Nhất là, từ một tháng nay, một khối áp-xe não đang kích thích cao độ niềm say mê chung của tất cả.
Trên nguyên tắc, luật pháp quy định thời hạn hai mươi bốn tiếng đồng hồ trước khi được phép khám nghiệm tử thi. Đây là một trở ngại rất lớn: Các bộ phận trong cơ thể sẽ bị phân hủy. Các bác sĩ cũng như sinh viên bị đặt trong tình trạng tranh chấp khá bi thảm giữa một bên là lòng tôn trọng và thương hại thi hài của một người khốn khổ và một bên là nhu cầu học hỏi, tìm hiểu cao quý để sau này có thể xoa dịu vô vàn những khổ đau của bao người khác. Nhưng thường thì người ta tiêm một lít formol ngay vào bụng của người chết để giữ cho các bộ phận không bị phân hủy. Hoặc chỉ mổ để lấy ra ngay một bộ phận cần được khám nghiệm, chẳng hạn như một quả thận, người ta lấy nó ra qua một vết rạch lớn, họ cho tay vào ổ bụng, và tìm nó ở sâu bên dưới. Rất dễ để lấy thận ra.
Và nếu cần phải mở một cuộc khám nghiệm tổng quát, người ta vẫn thực hiện được cuộc giải phẫu toàn diện. Họ kéo nhau xuống nhà xác. Trong căn phòng lạnh, tất cả người chết đều được đặt nằm dài, trần truồng, mỗi người trong một cái hộc có cửa kính. Người ta nhìn thấy họ xuyên qua tấm kính. Người ta kéo hộc, đem họ ra ngoài. Họ mổ xẻ xác chết cẩn thận, chừa cái đầu ra để gia đình anh ta nhìn thấy. Khi thông báo cho thân nhân người chết biết tin, văn phòng bệnh viện luôn hỏi trước họ sẽ đến vào giờ nào. Tuy nhiên, đôi khi các thân nhân nóng lòng đến quá sớm. Thế là dì Angélique tìm đủ mọi cách để hoãn binh, dì bảo họ ngồi chờ ở phòng ngoài. Và chốc chốc dì lại đến, kín đáo gõ vào cánh cửa nhà xác, nói nhỏ:
- Nhanh lên!
Vội vã như những kẻ trộm, mọi người hấp tấp khâu tử thi lại bằng những sợi chỉ thô rồi chuồn nhanh, trong khi dì Angélique ghim lại tấm vải liệm, chuẩn bị bàn thờ, thắp những ngọn nến… Gia đình kẻ khốn khổ không nghi ngờ gì cả. Trong bóng tối lờ mờ của nhà xác, một khung cảnh trang nghiêm với cái bàn thờ nhỏ, những ngọn nến leo lét, cành cây xanh trong bình nước thánh đã tạo cho thân nhân của người chết một cảm xúc thành kính trước thi thể của người quá cố, và họ chỉ dám hôn vội vàng lên gò má đã lạnh ngắt… Hơn nữa, sau lưng họ, đại diện của nhà mai táng đang chờ đợi một cách kín đáo, dĩ nhiên, nhưng cũng làm cho họ lúng túng… Họ số làm cho anh ta phải sốt ruột chờ đội. Khi nghèo, người ta rất khiêm tốn, người ta sợ gây phiền hà cho công việc của kẻ khác, người ta biết giá trị của thời gian. Và không dám kéo dài quá lâu giây phút biệt ly, họ bịn rịn ra về. Sau lưng họ, nhân viên nhà mai táng đến bên xác chết, rút trong túi ra một cây thước xếp rồi bắt đầu đo kích thước của người quá cố…
Những người bị chết đuối, bị xe cán, những người ăn xin không ai biết tên tuổi… tất cả đều được tống vào nhà xác để rồi đưa vào phòng giải phẫu. Và tất cả những bệnh nhân bị gia đình bỏ rơi cũng chịu chung số phận như thế. Thỉnh thoảng, vào một buổi sáng nào đó, bạn nhìn thấy trên bàn giải phẫu tử thi của một bệnh nhân mà mới hôm trước bạn vẫn thấy đang nằm trên giường bệnh, bạn nhỏ mình đã nói chuyện với anh ta và anh ta đã mỉm cười với bạn. Và đột nhiên một cảm xúc đau buồn xâm chiếm lấy bạn. Bạn có cảm giác như anh ta sắp sửa nói chuyện với bạn. Những tử thi này được ngâm trong nước sát trùng trước khi đem ra giải phẫu, người ta lột da, lọc bỏ lớp mỡ, làm nổi bật những bắp thịt, những dây thần kinh, mạch máu. Chỉ trong ba tháng là xong. Sau cùng, một thứ meo mốc phủ lên khối thịt đã thối rữa mà các sinh viên lóc từng mảng nhỏ ném vào cái chậu dưới bàn giải phẫu. Những mảng thịt vô danh, lẫn lộn với nhau cuối cùng được người lao công đem chôn xuống một cái hố tại một nơi nào đó. Và hàng năm, theo đề nghị của một nhóm sinh viên, linh mục Vincent tổ chức một lễ cầu nguyện cho linh hồn của tất cả những người xấu số.
Người ta “tiêu thụ” rất nhiều tử thi. Chúng trở nên khan hiếm. Và nhiều đoàn thể, hiệp hội nổi lên chống đối việc mổ xẻ các thi thể. Vô số những kẻ trong đời sống hàng ngày không hề thương hại đến một con chó ghẻ, những kẻ mà nếu nhìn thấy cảnh một giáo sư hay một sinh viên y khoa suốt ngày phải vọc mó những khối thịt thối rữa hôi hám, họ sẽ nôn mửa vì ghê tởm, những kẻ đó muốn chứng tỏ họ có lòng nhân đạo, xót thương cho thi thể của một người khốn khó mà hôm qua ở ngoài đường, họ đã từ chối không cho mười xu. Họ tài trợ cho những kẻ chống lại việc giải phẫu các tử thi. Điều đáng ngạc nhiên là khi họ bị một chứng bệnh cần phải chữa trị bằng khoa phẫu thuật, họ không ngần ngại kêu gọi khẩn thiết đến tất cả những tiến bộ của khoa này vốn đạt được nhờ có những cuộc giải phẫu tử thi mà chính họ đã chỉ trích ầm ĩ…
Những người này được tư vấn kỹ càng. Họ luôn luôn tìm được một thân nhân đến xin xác người đã khuất… Thế là người ta mua trước thi thể của những con người dáng thương. Cái xác được bán với giá bốn trăm franc, trong lúc vẫn còn sống nguyên. Nhiều người thích nhận một khoản trợ cấp trọn đời hơn. Những người khác nữa thì kiếm tiền từ người thân đã quá cố. Thường xuyên có chuyện phụ nữ bán xác của chồng mình như một món hàng. Nó giúp họ tiết kiệm chi phí mai táng, họ có được ba trăm franc, và “con heo kia” sẽ bị mổ xẻ. Đó là sự trả thù tinh vi. Cuối cùng, với động cơ vụ lợi kín đáo, người ta cho vào trong bệnh viện ba, bốn kẻ ăn mày già cả mà hài cốt của họ đang được mong đợi. Các sinh viên sẽ đưa họ đến giảng đường. Họ đồng ý, ra vẻ bạo dạn, để xem sau này người ta sẽ làm gì với cái xác của mình… Dù sao điều này vẫn gây một hiệu ứng kỳ lạ đối với họ. Đặc biệt là khi người ta cho họ thấy, để đùa vui, cái hộp sọ và khuôn mặt một người bạn cũ mà họ nhận ra, một miếng thịt lạ lùng, một khuôn mặt hoàn toàn riêng biệt, không xương, mềm oặt, trống rổng bên trong, một chiếc mặt nạ người đã thối rữa phân nửa, nhưng ở đó họ vẫn còn thấy một bộ ria, một cái mũi, một cái gì đó trên gương mặt quen thuộc của người bạn mà một, hai tháng trước họ còn đánh bài với nhau tại sân chơi.

Image
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Thể Xác Và Tâm Hồn - Maxence Van Dek Meersch

Postby bevanng » 28 Sep 2022

5


Sáng nay, “Louis XVI” đứng thắt cà vạt trước tủ kính. Lần đầu tiên, gương mặt khá đẹp trai, đều đặn và hơi mập của Vallorge mất vẻ thanh thản đặc biệt của dòng họ Bourbon. Anh ta có vẻ lo âu. Trên chiếc bàn, bức điện tín mà người ta vừa trao cho anh ta được mở ra. Chỉ có mấy chữ:

“Đến ngay. Bị ngất rất lâu hồi sáng này. Tôi rất lo.
Ký tên: Bà Suraisne.”


Sau bữa tiệc đêm nọ, Vallorge không gặp lại ông thầy của mình. Chuyện gì đã xảy ra?
Anh ta tiếp tục mặc y phục, với tất cả sự kỹ lưỡng tỉ mỉ xưa nay của mình, rồi đi lấy xe hơi. Lần đầu tiên một mối lo nổi lên trong đầu anh ta: “Tất cả các tiện nghi này có thể bị đe dọa, nếu Suraisne…”
- Mình sẽ đến ngay sau khi rời phòng thí nghiệm, - Vallorge lầm bầm.
Cách thành phố vài cây số, tại Les Ponts-de-Cé, Suraisne có một lâu đài lộng lẫy, bên bờ sông Loire, giữa những vườn hoa hồng và những hàng bạch dương cao lộng gió.
Phòng thí nghiệm nằm ở ngoại ô, trên đường Segré, nơi Vallorge thực hiện những cuộc thử nghiệm miễn phí cho Sở Vệ sinh thành phố. Nhờ vậy anh ta có thể thêm vào bộ sưu tập chức danh của mình chức trưởng phòng thí nghiệm của Sở Vệ sinh, đó sẽ là một sức nặng bổ sung vào cán cân mà một ngày kia anh ta sẽ cần đến để tấn công một trong số các ghế giáo sư ở trường đại học y khoa. Và nhất là, anh ta khỏi phải tốn một đồng xu mà vẫn có được một phòng thí nghiệm tuyệt vời, mọi chi phí về chai lọ và hóa chất đều được Sở Vệ sinh đài thọ. Vallorge cho xe đậu ở sân trước, nhờ người gác cổng trông coi, và đi vào phòng thí nghiệm.
Từ hai tháng nay, người ta đã điều đến cho Vallorge một phụ tá. Vốn là một cảnh sát về hưu, ông này được các thế lực chính trị gửi vào đây. Vallorge gặp ông ta đang ngồi trong phòng nghiên cứu vừa hút thuốc vừa đọc tiểu thuyết.
- Chào Émile, - Vallorge thân mật nói. - Thế nào, anh đã làm xong các công việc nhỏ mà tôi nhờ anh cách đây mấy hôm chứ?
Émile đáp một cách hãnh diện:
- Thưa ông, tất cả đều đã sẵn sàng!
Trong bốn ngày, ông ta đã “bào chế” một ít nước canh thịt và pha loãng một ít peptone trong nước, nhưng lại quên cân trọng lượng của chất này.
- Thế là anh phải làm lại, - Vallorge nói. - Đó là công việc của anh trong ngày hôm nay. Tôi sẽ chỉ cách làm.
Một cách kiên nhẫn, Vallorge giải nghĩa cho ông ta tất cả những chi tiết của công việc:
- Anh lấy một lọ peptone, cân đúng ba mươi gam. Anh biết cân chứ?
Émile không biết cân. Vallorge chỉ cho ông ta thấy cây cân đặt trong một cái lồng kính, và cách sử dụng nó.
- Anh phải đun sôi peptone trên cái lò ga này, với một lít nước. Anh hiểu rõ chứ? Rồi anh lọc nó như thế này, trên một tờ giấy đặt như thế này, anh thấy không? Rồi anh đổ nó vào một cái ống nghiệm. Đây, nó đầy! Hâm nóng nó trong máy hấp, ừ cái máy hấp này, ở nhiệt độ 115 độ C, trong hai mươi phút, sau đó anh đậy nó lại và cất vào tủ lạnh. Thế là xong. Và nếu ngày mai tôi không đến thì anh làm cho tôi mấy cái ống pipet bằng những ống thủy tinh này nhé. Anh có biết cách làm ống pipet không?
Émile không biết cách làm ống pipet. Vallorge đốt đèn Bunsen rồi kéo dãn vài ống thủy tinh cho Émile xem.
Anh ta rời phòng thí nghiệm, hài lòng về việc mình kiềm chế được sự nóng nảy, biết vận dụng tính kiên nhẫn vô biên vốn là sức mạnh lớn lao của anh ta. Émile được vào làm là nhờ các thế lực chính trị. Nếu bị đuổi đi, ông ta sẽ khiếu nại rắc rối. Những chuyện cỏn con như thế có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng khôn lường.
- Nếu mình tự làm lấy mấy việc đó thì nhanh hơn biết bao, - Vallorge ngồi trong xe suy nghĩ. - Nhưng cũng chẳng sao, điều quan trọng là không có chuyện lôi thôi.
Đó là mục tiêu chính của anh ta.
Bây giờ, trên con đường chạy qua những vườn nho, chiếc xe đang hướng về Les Ponts-de-Cé.

Phòng ngủ của Suraisne có cửa sổ mở ra ban công đầy hoa. Đứng trên ban công, người ta nhìn thấy xa xa, các sân thượng có lan can phủ đầy dây hoa hồng leo của mấy dãy nhà chạy dài đều đặn xuống bờ sông. Những cây cọ lùn nổi lên giữa các thảm cỏ xanh mướt. Rải rác đó đây một cây tùng, một cây bách uy nghi vươn cao tán lá sum sẽ màu xanh sẫm. Và tuy mùa lạnh đã đến từ lâu, nhưng các cơn gió thổi từ sông Loire vào vẫn còn ấm. Suraisne nằm bẹp gí trên chiếc giường kiểu Louis XV có treo màn gấm thêu hoa xanh và vàng. Ông đã tỉnh dậy sau cơn ngất bất ngờ khi vừa ăn xong. Ông hít chiếc khăn tay tẩm giấm mà bà vợ thỉnh thoảng đưa lên mũi ông, miệng không ngớt lặp đi lặp lại:
- Quái nhỉ, chuyện gì xảy đến với tôi thế này!
Suraisne, một con người đầy sinh lực. Người đàn ông miền Nam cao lớn, tóc nâu, da hồng hào, mập mạp, giọng nói ấm và lôi cuốn này tuy chưa đậu bằng thạc sĩ nhưng vẫn được bổ nhiệm làm giảng viên ở trường đại học Paris nhờ tài năng và sự hăng say phục vụ của ông trong ban thanh tra y tế của binh đoàn Maroc. Sau đó ông lấy băng thạc sĩ và tiếp tục thăng tiến vùn vụt trên con đường công danh, hất cẳng một cách tài tình những kẻ mưu toan chiếm chỗ của ông. Suraisne biết sử dụng khéo léo những cuộc vận động ngầm ở trường đại học. Đến độ cuối cùng, ngay cả những kẻ đã che chỗ cho ông cũng phải nhận thấy ông là một đối thủ nguy hiểm. Và rồi đến lượt ông bị hất cẳng. Nhưng ông là người tài năng thật sự. Muốn đưa ông đi chỗ khác, người ta phải tạo ra thêm một ghế giáo sư riêng cho ông ở trường Đại học Angers. Ở đó, ông nhanh chóng tạo cho mình một danh tiếng xứng đáng. Phong trào lập các phòng thí nghiệm vốn rất phổ biến ở Paris vẫn còn mới lạ ở các tỉnh khác. Rất giỏi về khoa vi khuẩn học, Suraisne liền lập một phòng khám tối tần có phòng thí nghiệm dể phân tích các chất phân, nước tiểu, dòm… Nhờ đó ông có được một gia tài kếch xù và danh tiếng sáng chói. Và cũng nhờ đó, ông cưới được con gái của một nhà kinh doanh bất động sản ở thủ đô, với số của hồi môn là hai triệu franc, một lâu đài trên bờ sông Loire và một biệt thự lộng lẫy ở thủ đô.
Image


Vallorge làm phụ tá cho Suraisne ở phòng thí nghiệm. Anh ta cố gắng biểu lộ tài năng để được Suraisne chú ý, tìm đủ mọi cách giúp đỡ Suraisne trong một ngàn lẻ một công việc mà “ông thầy” đòi hỏi: Soạn bài giảng cho ông, phụ giúp ông khám bệnh ở thành phố, làm mọi công việc lặt vặt ở phòng thí nghiệm. Tất cả những cái đó làm cho tình thầy trò càng thêm khăng khít. Nhờ đó Vallorge tiến rất nhanh trên bước đường công danh.
Khi anh ta đến lâu đài của Suraisne thì đã mười hai giờ trưa. Anh ta đi thẳng lên phòng, xem mạch ông thầy và không nói một lời, chạy vội đến máy điện thoại gọi giáo sư Donat ở Angers.
Một giờ sau, ông giáo sư già Donat, mặc dù đang bị viêm động mạch chủ, hấp tấp leo lên thềm lâu đài bốn bậc một.
Kết quả cuộc chẩn bệnh quá rõ ràng. Vết thương bị dính đầy mủ của Suraisne đã làm độc tố lan khắp cơ thể. Tim Suraisne đã đuối sức. Người ông tím tái. Việc cứu chữa không còn kịp nữa.
Donat gọi điện thoại cho Géraudin. Nhưng ông này đang đi săn. Donat gọi Heubel, ông ta hứa sẽ chạy đến. Nhưng ông ta còn phải hoàn tất hai ca phẫu thuật, mãi đến chiều mới đến được. Donat khám cho bệnh nhân, rồi bước sang phòng nhỏ kế bên hỏi bà Suraisne một câu ngắn ngủn:
- Ông ấy có sùng đạo không?
- Tôi… tôi không biết, - bà Suraisne hốt hoảng đáp. - Tôi nghĩ là có.
- Vậy thì đã đến lúc lo liệu cho ông ấy.
Bà Suraisne, gần điên lên vì đau khổ, chạy đi gọi linh mục. Heubel cho tiêm thêm một mũi thuốc chống lan tỏa cầu khuẩn. Nhưng đã quá trễ rồi.
Thế là Suraisne chết một cách hết sức vô lý. Suraisne, một giáo sư về khoa vi khuẩn học, bị giết bởi một con vi khuẩn mà ông đã quá xem thường vì quá quen thuộc với nó. Nếu vài ngày trước, ông chịu phẫu thuật ngón tay thì ông đã thoát nạn. Chắc chắn ông đã làm như vậy nếu ông không phải là bác sĩ, giáo sư và là nhà bác học. Đối với người chuyên trị bệnh, sự quen thuộc hàng ngày với con vi khuẩn là một điều nguy hiểm, nguy hiểm hơn bạn có thể tưởng tượng. Dần dà họ quên rằng chính họ có thể bị vi khuẩn tấn công. Cái chết vô lý của Suraisne không phải là trường hợp hiếm trong giới y, bác sĩ.
Suraisne để lại một gia tài đồ sộ và một người vợ góa không bao giờ quên ông. Bà tôn thờ kỷ niệm của chồng và dành những ngày còn lại của đời mình cho công việc từ thiện.

Trong vài tuần lễ, Vallorge sống trong tình trạng hoang mang. Tất cả công danh sự nghiệp của anh ta tùy thuộc vào Suraisne. Nhờ làm việc ở phòng thí nghiệm của Suraisne, anh ta đã thi đậu tất cả các bằng cấp chuyên môn một cách dễ dàng, dẫu rằng anh ta chưa hề đi “dự cua”. Thế nên, cái chết của Suraisne là một bất ngờ lớn và là một tai họa đối với Vallorge.
Đối với người nào muốn tiến thân trong ngành y, muốn trở thành một giáo sư có chức vụ và danh tiếng lớn, chứ không chỉ là một bác sĩ chữa bệnh bình thường, thì sự ủng hộ của một giáo sư là một thuận lợi lớn. Trong tất cả mọi kỳ thi, các thí sinh đều được xếp hạng tùy theo người thầy ủng hộ mình. Có thể nói là họ được sắp xếp theo từng “ê kíp”. Chẳng hạn, ở trường Đại học Y khoa Angers có ê kíp của giáo sư Geoffroy, của các giáo sư Doutreval, Donat và nhiều giáo sư khác nữa. Khi cuộc rút thăm chỉ định một giáo sư nào đó làm thành viên của hội đồng giám khảo, tất cả ê kíp thí sinh của giáo sư đó đều được chấm đậu một cách tự động. Bởi vì trên thực tế, cuộc thi chỉ mang tính hình thức. Cùng một bài thi đó, một thí sinh sẽ được 19 điểm hay chỉ có 5 điểm tùy vào ông thầy của anh ta có phải thành viên của hội đồng giám khảo hay không. Và giữa các ông thầy có một sự sắp xếp thỏa thuận ngầm với nhau. Ông này ủng hộ thí sinh của một đồng nghiệp để người bạn đó ủng hộ thí sinh của mình. Thế là một loạt những cuộc mặc cả diễn ra trước kỳ thi tuyển bằng thạc sĩ y khoa, và ngay khi thành phần của ban giám khảo được công bố, kết quả của kỳ thi được biết ngay một cách chắc chắn, mặc dù ngày thi vẫn còn xa.
Do đó, người ta thấy rõ ích lợi của việc nhận được sự ủng hộ của một ông thầy có những mối giao thiệp rộng rãi, đầy đủ thế lực và uy tín, để dẫu ông ta không nằm trong ban giám khảo, ông ta vẫn vận động các bạn đồng nghiệp ủng hộ thí sinh của mình. Thí sinh nào có ông thầy không được chọn vào ban giám khảo và không có thế lực, thí sinh nào vô phúc không được ông thầy yêu quý hoặc đã lỡ dại cạnh tranh quá sớm với ông thầy trong việc hành nghề, thì sẽ thấy bằng thạc sĩ của mình bị đình hoãn lại. Cần phải biết chờ đợi, chịu chấp nhận ra nghề vào khoảng bốn mươi tuổi. Và phải kiên nhẫn, không được phẫn nộ nếu từ ba năm này đến ba năm khác 1 bạn bị đánh trượt trong khi những thí sinh kém khả năng hơn lại đậu, lý do duy nhất chỉ vì ông thầy của bạn không ở trong ban giám khảo.

1. Kỳ thi thạc sĩ được tổ chức ba năm một lần.


Nhưng Vallorge đã từng nếm mùi nghèo khổ đến độ ghê sợ nó, và anh ta quyết chí phải làm nên sự nghiệp, phải trở thành kẻ giàu sang, có địa vị, và có thế lực. Anh ta đã cực khổ quá nhiều. Vallorge, chàng thanh niên xương xẩu với dáng điệu nặng nề, đã trải qua nhiều khốn đốn. Cha anh ta, một người bán sữa nghèo, chết vì bị ngựa đá vào chỗ hiểm. Mẹ anh ta mua lại một cửa hàng nhỏ bán đồ kim chỉ, may vá. Cửa hàng nhỏ đó đã giúp bà sinh sống và nuôi con, chi trả mọi phí tổn học hành, bà tằn tiện, chịu đựng mọi thiếu thốn, làm việc cả đêm, để đạt được cái mục đích kỳ diệu mà bà mong muốn: con trai bà sẽ trở thành một bác sĩ, một quý ông.
Sáu tuần lễ trước khi Vallorge bảo vệ luận văn, bà qua đời vì kiệt sức, không kịp chứng kiến sự thành công rực rỡ của đứa con thân yêu. Vallorge cảm thấy lòng mình se thắt lại mỗi khi nhớ đến gương mặt thân yêu của mẹ, người mẹ già đã bế bồng, nuôi dưỡng, và chết vì anh ta. Và anh ta thù hận sự nghèo khó, nảy ra ý chí mãnh liệt quyết không bao giờ chấp nhận một cuộc sống nghèo khó, tối tăm nữa.
Để thành công, anh ta sẵn sàng chiều theo mọi đòi hỏi của những cuộc vận động ngầm ở trường đại học. Nhờ đi theo Suraisne, anh ta nhanh chóng tạo được một địa vị. Tuy chưa thi đậu bằng bác sĩ, anh ta đã được bổ nhiệm làm phụ tá cho Suraisne. Anh ta biết cẩn thận giữ vững lòng tin của ông thầy, không để những người bạn có tham vọng cản đường, ngăn bước mình. Và chỉ có Chúa mới biết trò chơi này có thể làm tan vỡ bao nhiêu sự nghiệp khoa học trong các trường đại học. Trong đám đệ tử của Suraisne, chỉ còn lại có Vallorge và Seteuil. Người này cũng có một tham vọng đáng lo ngại. Nhưng anh chàng còn quá trẻ, không đủ gây trở ngại cho Vallorge, rõ ràng Vallorge dang tiến dần đến bằng thạc sĩ, đạt hết chức vụ này đến chức vụ khác: y sĩ phòng chẩn tế, y sĩ các đại học đường, giảng viên ở trường đại học Dược khoa… Những chức vụ này đem đến cho anh ta số tiền trợ cấp hàng năm là hai mươi ngàn franc. Người ta thấy anh ta có mặt ở khắp nơi, kiếm ở chỗ này hai ngàn franc, chỗ kia bốn ngàn, và ở nơi khác mười ngàn, hoặc đang làm “thí công” cho một phòng thí nghiệm. Rất nhiều khi, tuy không được trả một đồng thù lao nào, anh ta vẫn tận lực soạn bài giảng với mục đích một ngày nào đó, nếu có một chiếc ghế giáo sư được lập ra, người ta sẽ phải nghĩ đến anh ta.
Ngoài ra, Vallorge đã có một số khách hàng ở Angers. Xuất thân từ gia đình nông dân, anh ta có một đức tính mà không ai có thể phủ nhận được: sự tận tâm và lòng can đảm. Các chức vụ buộc anh ta phải làm những công việc thật cực nhọc. Anh ta làm việc cần cù và hăng say như một người tiều phu, thong thả, ung dung, làm xong việc này bắt qua việc khác, không hấp tấp cũng chẳng lo âu, và luôn hoàn thành mọi công việc. Đối với bệnh nhân, anh ta chăm sóc họ không mệt mỏi, luôn sẵn sàng chạy đến bên họ, thức trắng đêm bên giường của sản phụ mà không một lời kêu ca, đưa một người bệnh nặng hoặc một người thợ bị thương lên xe hơi của anh ta và chở họ đến bệnh viện. Anh ta làm mọi việc luôn luôn với một thái độ vui vẻ, hài lòng, kiên nhẫn, đầy vẻ dịu dàng vô thức và khó lý giải dành cho những con người thuộc tầng lớp đáng thương, thô lỗ nhưng cũng đẹp đẽ mà anh ta đã sinh ra từ đó và vẫn tiếp tục yêu quý. Sự thành công này, còn hơn cả sự thăng tiến của anh ta ở trường đại học, làm cho các đối thủ khó chịu. Vallorge không thèm đếm xỉa đến họ. Anh ta dự định sẽ lấy bằng thạc sĩ trong thời gian không xa. Và một khi có được tấm bằng trong tay, anh ta chắc chắn sẽ hất cẳng được những đồng nghiệp khác. Bởi vì cuộc chiến vẫn còn tiếp diễn giữa các thạc sĩ. Ngay khi có một ghế giáo sư bỏ trống, người ta lại vội vã chạy đến “sư phụ” của mình. Nếu cần, người ta mướn một chiếc taxi để đi nhanh hơn, để đến trước các đối thủ. Bởi vì chính hội đồng giáo sư sẽ quyết định việc bổ nhiệm. Và trong khi chờ đợi, các thí sinh phải tỏ ra hăng hái, hoàn thành mọi công việc để mọi người chú ý đến họ, nhắc nhở đến họ; họ dõi mắt trông chừng những vị thầy già mà cái ghế giáo sư có thể sắp sửa bị bỏ trống… Ông thầy khoa vi khuẩn học sẽ về hưu… Và thế là nhiều thạc sĩ trẻ hăng say nghiên cứu vi khuẩn học, trong khi những thạc sĩ khác dồn hết tâm trí nghiên cứu các đường tiểu tiện, bởi vì từ hai năm nay ông thầy đã già yếu đi trông thấy…
Riêng Vallorge đã xây dựng một kế hoạch lâu dài. Suraisne dự tính sẽ thay thế ông thầy già giữ chức giáo sư khoa giải phẫu học bởi ông này hẳn ít lâu nữa thôi sẽ chết. Vallorge ước chừng chỉ trong vòng hai năm nữa. Rồi Ribières, giáo sư về đường hô hấp, sẽ được cho về hưu trong vòng năm năm tới. Lúc đó, Suraisne, đang là giáo sư về giải phẫu học, sẽ đòi cái chức giáo sư về đường hô hấp và sẽ đạt được nó. Bởi vì, trên nguyên tắc, một giáo sư y khoa chính thức xem như có thể dạy tất cả các môn. Với sự che chở và ủng hộ của Suraisne, Vallorge sẽ đậu bằng thạc sĩ, rồi sẽ phụ tá cho Suraisne giảng dạy về giải phẫu học. Và năm năm nữa, khi Suraisne thay Ribières, Vallorge sẽ được Suraisne giao cho chiếc ghế giáo sư giải phẫu học.
Cho nên cái chết bất ngờ của Suraisne đã làm sụp đổ tất cả kế hoạch tinh vi, táo bạo và được xây dựng một cách kiên nhẫn của Vallorge. Đi tìm sự ủng hộ của một giáo sư mới là công việc lâu dài và khó khăn. Và cũng đã quá trễ rồi! Anh ta đã tiến quá xa, các đối thủ thù ghét anh ta không thể tả được. Người ta sẽ không cho anh ta vào một ê kíp mới nào cả. Anh ta là một đối thủ nguy hiểm. Người ta sẽ giở mọi thủ đoạn để ngấm ngầm hại anh ta, bôi nhọ anh ta nhằm phá vỡ uy tín của anh ta đối với bất cứ ông thầy nào mà anh ta mon men tìm đến. Vì vậy Vallorge phải thay đổi chiến thuật, hoặc làm như Seteuil, từ bỏ mộng giáo sư y khoa dể ra hành nghề ở một nơi nào đó và chấp nhận một địa vị tầm thường. Nhưng, Vallorge không phải là Seteuil. Sau nhiều ngày suy nghĩ, anh ta quyết định thử vận may bằng lá bài hôn nhân. Bốn ông thầy có con gái đến tuổi lấy chồng: Donat, Doutreval, Ribières và Heubel. Nhưng Simone Heubel có thể xem như vị hôn thê của Michel. Còn Donat quá già yếu, động mạch chủ của ông khó mà trụ được hai năm nữa. Một chỗ dựa quá phù du. Hơn nữa con gái của ông ta không đẹp. Chỉ còn lại hai cô gái: Alice Ribières và Mariette Doutreval. Cả hai đều xinh xắn và có giáo dục đàng hoàng. Của hồi môn khá khiêm nhường, nhưng Vallorge muốn có một sự ủng hộ hơn là tiền bạc. Anh ta do dự. Rồi anh ta nhớ tới tính tình khá cứng rắn của Ribières. Là người của thế hệ trước, ông xem nghề giáo sư là một thiên chức, và vẫn giữ những ý tưởng cao quý bất vụ lợi của thời xưa về nghề này. Ông không có khách hàng, ông sống khiêm nhường với số tiền lương năm mươi ngàn franc mỗi năm. Được nhà nước trả lương, ông dành trọn thời gian cho chức vụ của mình, từ chối mở phòng khám riêng. Không bao giờ ông chấp nhận một cuộc vận động hành lang, ông chủ trương những kỳ thi tuyển phải thật sự công bằng. Đối với mọi lời năn nỉ cầu khẩn, ông đều đáp thẳng thắn:
- Tôi chủ trương một kỳ thi thật sự chân chính.
Một câu nói mà người ta chỉ nghe được từ ông. Với cá tính như vậy, Ribières sẽ không chịu giúp đỡ những tham vọng của con rể mình. Lại nữa, trong thâm tâm, Vallorge có phần nghiêng về Mariette Doutreval, người thiếu nữ tươi tắn và trong trắng đã làm tim anh rung động. Và anh ta quyết định thử vận may với Mariette Doutreval.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Thể Xác Và Tâm Hồn - Maxence Van Dek Meersch

Postby bevanng » 30 Sep 2022

6


Một thời gian ngắn sau đó, Lapeyrade chết. Lapeyrade, anh sinh viên nội trú nhỏ con đã từng vừa đánh nhịp rất hăng với cây dù của giáo sư Donat vừa hát bài Cô gái điếm Caroline trong bữa tiệc hồi tháng trước. Một cậu bé mắc chứng bạch hầu đã được đưa vào bệnh viện Bình Đẳng. Lapeyrade chữa cho cậu bé, bị lây bệnh, rồi qua đời. Những sinh viên luật, khoa học tự nhiên hay văn chương không bao giờ bị nguy hiểm đến tính mạng trong khi học. Nhưng trong số những sinh viên y khoa, thỉnh thoảng có một hay hai người bị nạn - tương tự như trường hợp của Lapeyrade - trong khi chữa bệnh cho những kẻ khốn khổ. Người ta chôn cất anh với một bài diễn văn, người ta nhắc đến anh trong tám ngày. Và thế là hết, người ta quên anh cũng như quên đi trường hợp đã gây ra cái chết cho anh. Cái chết này cũng chẳng hề ám ảnh các bạn của anh một chút nào, họ vẫn tiếp tục làm bổn phận của mình. Suy cho kỹ, các sinh viên y khoa đã thực hiện một điều đẹp đẽ đặc biệt khi họ phải đương đầu với nguy hiểm từng ngày. Càng đẹp đẽ hơn nữa là họ làm điều đó một cách tự nhiên, đến độ họ không hề nghĩ mình cao quý hơn các bạn ở văn khoa hay luật khoa. Người ta không hề thấy một nghề nào mà trong đó cả một thời tuổi trẻ phải chịu hy sinh sự sống của chính mình. Và những người trẻ tuổi đó chẳng có gì đặc biệt, vẫn sống như bao nhiêu người khác. Đấy là điều nói lên một cách hùng hồn sự cao quý của con người.
Sau khi dự lễ chôn cất Lapeyrade xong, Michel quyết định đi đến dưỡng đường. Hôm đó không có giờ học, anh muốn gặp cô gái khốn khổ đã được Géraudin phẫu thuật hôm nọ. Anh mắc cỡ không dám cho các bạn biết nơi anh sẽ đến và mục đích của cuộc viếng thăm. Anh tách khỏi các bạn khi ra khỏi nghĩa trang, đi bộ theo con đường dốc đến Saumur. Tại nơi đó, dưỡng đường hiện lên sừng sững ở lưng chừng đồi.
Michel leo lên đến tầng thư hai mà không gặp người nào. Hầu hết sinh viên và y tá đang ở ngoài nghĩa địa. Anh đi dọc theo hành lang dài, lầm bầm lặp lại địa chỉ mà Seteuil đã cho.
- Jeanne Lacroix, phòng 28. Đây là phòng 26, phòng 27. Phòng 28 đây rồi.
Michel gõ cửa. Không ai trả lời. Anh lại gõ cửa lần nữa, rồi đẩy cánh cửa đi vào. Căn phòng trống trơn, chẳng có ai cả.
Michel bối rối trở ra, do dự một giây, rồi đến gõ cửa phòng 27.
- Cứ vào đi, - một giọng phụ nữ đáp.

Image


Anh bước vào và nén một tiếng chửi thề, cánh cửa quá thấp, anh lại quá cao, trán bị va vào khung cửa thật mạnh. Anh dừng lại.
Một thiếu nữ rất trẻ, mặc chiếc áo rộng thùng thình của bệnh viện ngồi bất động trên giường, tựa mình vào mấy thanh sắt và quay lưng lại phía cửa, đang nhìn bầu trời. Cái gáy mảnh khảnh và ốm yếu chứng tỏ cô gái rất trẻ. Mái tóc chải theo kiểu xưa càng làm nổi bật vẻ mảnh mai của cần cổ… Ánh sáng rọi vào khung cửa sổ bao phủ thân hình người thiếu nữ tóc hung, tạo cho cô một vẻ gì đó gần như siêu thực. Michel ngạc nhiên dừng sững lại.
- Hừm! - Anh đằng hắng giọng.
Thiếu nữ vẫn không quay lại. Hẳn cô tưởng đó là một nữ nhân viên đến dọn dẹp căn phòng.
- Thưa cô, - Michel nói.
Thiếu nữ giật mình, quay lại về phía anh. Đó là gương mặt nhợt nhạt nhưng thanh tú, đôi mắt đen sầm rất to, mơ hồ biểu lộ một vẻ vừa sợ hãi vừa dữ tợn, như đôi mắt của một con vật cảm thấy mình đang bị đe dọa. Cô gái hoang mang, lắp bắp:
- Thưa ông… thưa ông…
- Tôi tìm cô Jeanne Lacroix… - Michel lúng túng. - Jeanne Lacroix… phòng 28. Có phải đây là lầu hai không?
- Thưa ông, đúng thế. Cô ấy đã qua đời sáng hôm qua…
- Ồ! - Michel nói. - Thôi được… Tôi rất tiếc…
Anh cảm thấy bối rối, chẳng hiểu vì sao. Anh tự cảm thấy mình có vẻ ngốc nghếch. Và anh hỏi một câu ngớ ngẩn:
- Cô ấy có đau đớn không?
- Không đau đớn lắm. Cô ấy không còn bao nhiêu sức lực nữa…
- Tôi có biết cô ấy một chút, - Michel giải thích - khi chứng kiến ca phẫu thuật…
- Vâng, tôi hiểu…
- Tôi là sinh viên y khoa, bạn của Seteuil…
- À, vâng. Ông Seteuil… Chính ông ấy đã xin ông Ribières cho tôi được ở đây.
- Giáo sư Ribières phải không?
- Vâng.
- Phải chăng trên nguyên tắc, cô không được ở đây?
- Không. Tôi là người có vi khuẩn lao. Đây là trại dành cho những người mới chớm bệnh lao… Tôi được ở đây là một ân huệ… Bởi vì tôi được cô Daele thương…
Khóe miệng nhếch lên, cô nở một nụ cười e thẹn. Michel đã tiến vào giữa căn phòng. Anh đến bên cửa sổ, xoay lưng về phía cái sân ở bên ngoài, ngồi ghé lên thành tựa của cửa sổ và nhìn người thiếu nữ. Cô có vẻ như biến mất trong chiếc áo vải rộng thênh thang. Chắc chắn cô chưa đến hai mươi tuổi. Cô nhìn Michel với một vẻ thật thà trọn vẹn, gần như trẻ con. Tâm hồn cô hẳn phải rất trong sáng. Chắc cô là một nữ bệnh nhân bị lao không thể cứu chữa được. Cô quá ốm yếu! Hai màng tang 1 hẹp và cao. Đôi mắt quá to như bị dãn nở ra trên gương mặt. Một cô gái. Một cô gái còn trong trắng. Điều này thật quá rõ ràng. Michel cảm thấy xúc động. Với giọng nói quá to, thân hình quá cao che kín cả cửa sổ, anh có cảm giác mình quá lớn, quá mạnh khỏe trước một cô gái quá ốm yếu.

1. Thái dương.

Anh hỏi:
- Cô ở đây lâu rồi phải không? Cô bị bệnh như thế nào?
- Thưa ông, tôi cũng không biết nữa, - cô đáp - vẫn với một vẻ sợ hãi như hầu hết những người thuộc giai cấp bình dân khi họ trả lời những câu hỏi của bác sĩ. - Tôi bị bệnh khi đang ngồi may. Tôi bị thổ huyết.
- Cô là thợ may?
- Không, là người giúp việc.
- Còn cha mẹ của cô?
- Cha ruột đã chết. Mẹ tôi tái giá. Và người cha dượng của tôi… Tôi không biết phải nói với ông như thế nào…
- Tôi hiểu, - Michel nói.
- Mẹ tôi bảo rằng đó là lỗi tại tôi, vì tôi cứ “lảng vảng” quanh ông ta… Tôi không còn dám nói gì với mẹ tôi nữa. Một đêm, ông ta vào phòng tôi.
- Vào tận phòng của cô?
- Và ông ta lao tới đè lên người tôi. Tôi chống cự quyết liệt và tôi thắng, tôi bỏ trốn trước lúc trời sáng. Rồi tôi tìm được một chỗ làm giúp việc. Lúc đó tôi mới mười bốn tuổi. Vào thời đó, tôi thật là ngu! Ngu!
Cô mỉm cười. Michel cũng mỉm cười khi thấy cô tưởng rằng mình rất già dặn, rất khôn ngoan.
- Sau đó, cô bị bệnh lao phổi?
- Không phải ngay sau đó. Tôi làm mướn cho một gia đình giàu có, rất đông người. Ngoài tôi ra, họ còn mướn một cô bồi phòng và một cô đầu bếp nữa. Nhưng chủ nhà cho cô đầu bếp nghỉ việc, rồi đến lượt cô bồi phòng. Hình như người chủ không còn nhiều tiền nữa. Và tôi phải kiêm nhiệm tất cả, vừa nấu ăn, vừa giặt giữ. Công việc quá nhiều và quá mệt nhọc. Tôi không thể chịu đựng nổi. Buổi chiều Chủ nhật, khi được nghỉ ngơi, tôi ngủ li bì trong phòng. Và một đêm, tôi bị ho ra máu. Lúc đó, ông bác sĩ bảo tôi bị lao. Tôi vẫn còn cầm cự trong một thời gian. Và khi không còn sức nữa, tôi đành rời chỗ làm. Tôi có dành dụm được một số tiền, bèn viết thư cho mẹ tôi. Bà cho tôi vào một dưỡng dường ở Paris. Quá tốn kém. Tôi không thể ở lâu được. Bệnh vừa mới thuyên giảm một chút, tôi đã phải ra về. Và hành trình đó làm cho tôi mệt nhọc. Chiếc va li của tôi quá nặng. Tiền chuyên chở quá đắt. Rồi tôi tìm được chỗ làm trong Paris-Plage. Khách khứa tấp nập. Tôi phải ngủ dưới hầm rượu ẩm thấp… Nước từ trên chảy xuống. Tôi bị cảm lạnh… và bị bệnh. Chứng bệnh phổi lại tái phát. Thế là, để sinh sống, tôi phải làm nghề may vá. Nhưng tôi cảm thấy mình không còn sống được bao lâu nữa… Còn mẹ tôi thì đã qua đời. Cuối cùng, tôi được nhận vào dưỡng đường này. Tôi sắp mười tám tuổi. Cái máy may của tôi quá nặng… Một cái máy may thuộc kiểu quá to…
Thiếu nữ nói bằng một giọng nhỏ, dịu dàng, đều đặn. Michel nhìn đôi bàn tay thô, màu đỏ của cô, đặt trên tấm ga trải giường, với những đầu ngón tay bị chích. Và gương mặt gầy ốm của cô càng có vẻ nhỏ nhắn hơn dưới mái tóc màu hung thật dày và thật xinh xắn. Anh có cảm giác như mái tóc đó đã thu hút hết cả sinh lực của thân hình thiếu nữ. Duy nhất chỉ có đôi mắt vẫn còn linh động.
- Ở đây chắc cô buồn lắm?
Thiếu nữ phác họa một cử chỉ cam phận với bàn tay đặt trên tấm ga trải giường.
- Cũng phải chịu thôi chứ sao!…
- Linh mục Vincent có máy chiếu phim…
- Vâng, mấy tháng đầu tôi rất thích. Nhưng bây giờ tôi không thể đi xuống được. Và họ đã xây tầng lầu kia.
- Tầng lầu nào?
Cô đưa tay chỉ qua cửa sổ những căn phòng dùng làm nhà bếp vừa được xây lên cao hơn.
- Lúc đầu những căn phòng đó còn ở dưới thấp. Tôi có thể nhìn thấy chiếc xe lửa điện chạy trên đại lộ… Điều đó làm cho tôi được khuây khỏa và biết được giờ giấc… Bây giờ tôi không còn trông thấy gì hết…
- Cô không có đồng hồ?
- Có chứ. Nhưng nó không chạy nữa… - Cô đáp, đôi gò má hơi ửng đỏ. - Tôi đã nhờ cô Daele đem đi sửa. Nhưng tiền công hơi đắt một chút… Tốt hơn là tôi cần phải chờ đợi…
Cô rút từ dưới gối lên một chiếc đồng hồ vỏ thép màu xám, mặt kính đã ngả vàng và có nhiều vết xước.
- Thật lạ lùng! Nó không chịu chạy nữa, nhưng tôi vẫn thích giữ nó. Như một người bạn tốt… Tôi không hiểu tại sao…
Cô lại nở một nụ cười hơi buồn.
- Cô cần phải can đảm lên, - Michel nói nhỏ một cách vụng về.
Cô gái không trả lời. Cô suy nghĩ trong giây lát.
- Tất cả những gì tôi cần, - sau cùng cô nói - là được ở đây cho đến lúc chết. Tôi không thích phải dời qua trại số 4, trại của những người mang bệnh truyền nhiễm… Tôi tự làm lấy những việc có thể làm, tôi không bao giờ nói gì cả, tôi không gây ồn ào… Tôi cố gắng không làm cho ai phải bực mình… Tôi tin rằng, như thế họ sẽ quên tôi đi…
- Tại sao họ có thể đuổi cô ra khỏi trại này?
- Tôi có vi khuẩn lao… Những bệnh nhân có vi khuẩn lao không được ở trại này… Tôi được ở đây là nhờ một ân huệ đặc biệt. Ông Seteuil cho tôi biết như thế, ông ấy bảo: “Này, cô bé, cô không bị dời qua trại số 4, là nhờ tôi…”
- Cô không thích ở trại số 4?
- Tôi quen ở đây rồi… Một mình trong căn phòng này. Và người ta không đụng chạm tới tôi… Hơn nữa, ở trại những bệnh nhân truyền nhiễm, khi sắp chết, người ta bị đưa vào nằm một mình trong phòng riêng biệt, người ta biết trước điều gì sắp xảy đến với mình… Và tôi sợ… Ở đây tôi đã chứng kiến một cô bạn vừa qua đời… Cho đến phút chót, cô ấy vẫn được ở trong phòng của mình… không bị ai quấy rầy… Hơn nữa, khi được thân nhân đến viếng thăm, cũng sẽ thấy đỡ buồn hơn…
- Thỉnh thoảng, cô có thân nhân đến thăm chứ?
- Lúc đầu, có một bà láng giềng… cứ nửa tháng bà ấy đến đây một lần. Bà ấy đem cho tôi ba trái chuối và nói chuyện với tôi trong một tiếng đồng hồ. Tôi rất vui mừng. Nhưng bây giờ bà ấy không đến nữa. Chứng bệnh kéo dài quá lâu như bệnh của tôi làm cho người ta nản…
- Vậy là gia đình cô không còn ai?
- Ồ, còn chứ! Một bà dì ngụ tại thành phố Amiens. Một người đàn bà rất tốt! Bà ấy có bảy đứa con! Tôi sắp sửa làm mẹ đỡ đầu cho thằng út thì lâm bệnh!
- Bà ấy không hề đến thăm cô sao? Không bao giờ viết thư cho cô ư?
Cô mỉm cười:
- Tôi không cho bà ấy biết là mành đã vào viện. Nếu biết, bà ấy sẽ giúp đỡ tôi ngay và sẽ gửi quà cho tôi. Tôi nói là tôi đã tìm được chỗ làm tốt, và tôi đang đi nghỉ mát với ông bà chủ của tôi trong sáu tháng.
Michel đứng dậy, rời khỏi cửa sổ, anh vừa xúc động, vừa bối rối. Trước khi đến đây, anh đã chuẩn bị sẵn hai tờ giấy mười franc để tặng cho Jeanne Lacroix. Nhưng bây giờ anh không dám tặng cho cô gái vừa quen biết này; đồng thời, anh cảm thấy xấu hổ nếu ra về.
- Tôi phải về. Nhưng tôi sẽ trở lại thăm cô. Phải, tôi sẽ trở lại… Nào, xin từ giã cô… Xin từ giã… Hẹn gặp cô tuần sau…
Quá bối rối và quá vội vã, Michel quên cúi đầu khi ra khỏi phòng. Và cái đầu bự lại va mạnh vào khung cửa. Anh đi ra hành lang, vừa xoa trán, vừa càu nhàu.
Đến góc cầu thang, vì mãi cúi đầu suy nghĩ, Michel lại vô ý va mạnh vào một người phụ nữ. Người này la lên và suýt ngã ngửa ra sau. Michel nắm tay cô ta giữ lại.
- Ồ! Xin cô tha lỗi!
- Thật là một con người thô bạo!
Anh nhận ra đó là cô Daele, nữ y tá dưỡng đường.
- À! Thì ra là anh!
- Cô CÓ đau không?
- Anh còn phải hỏi! Một người có sức mạnh như anh. Ngày mai, cánh tay tôi sẻ bị bầm tím cho mà xem! Mà anh đến đây làm gì?
- Tôi đi thăm cô Jeanne Lacroix, và tôi đã nói chuyện với cô thiếu nữ ở phòng bên cạnh.
- À, phải rồi, Évelyne, cô bé đáng thương…
- Tên cô ấy là gì?
- Évelyne Goyens. Một cô bé tử tế, đàng hoàng, không hề gây phiền phức cho ai. Và trơ trọi một mình! Những người như các anh không hiểu nổi họ đâu, Doutreval. Cứ xem Lucien là đủ biết.
Lucien chính là Seteuil, người yêu của Madeleine Daele.
- Các anh quá giàu. Các anh không biết thế nào là chỉ còn duy nhất bảy xu, mười xu để sống những ngày tàn lay lắt trên thế gian này! Thế mà ở đây có vô số những người nghèo như cô bé ấy, những kẻ nghèo thật sự, một cái nghèo mà các anh không thể nào tưởng tượng được!
Các cô gái không có đến cả một chiếc sơ mi hay chiếc áo dài riêng. Những người như Évelyne không thể nào lành bệnh được, mà dù họ có lành bệnh, thì sự lành bệnh đó cũng sẽ gây cho họ một khó khăn ghê gớm, một tai họa thật sự, bởi vì họ không có đến cả một đôi giày, áo dài, khăn tay. Họ không dám nghĩ đến cả việc họ lành bệnh để sống như một người mạnh khỏe bình thường. Và khi tôi nghĩ đến cuộc sống của các anh, con của những gia đình giàu sang…
Michel cố gắng nở một nụ cười. Madeleine Daele hy sinh cuộc đời mình cho những bệnh nhân của cô. Cô phân tích đờm, tiêm thuốc, băng bó, thay thế các sinh viên nội trú, thay thế Seteuil và Santhanas để tiêm ven khi những anh chàng này không dám liều lĩnh trước những cánh tay quá mập khó tìm thấy ven máu. Và có những lúc cô góp ý kiến với chính cả ông thầy Ribières về sự tiến triển của một chủng viêm màng phổi hay của một chủng hoại xương. Ribières thường tôn trọng kinh nghiệm của cô. Madeleine Daele là con gái một kỹ sư điện ở Grenoble. Vì yêu nghề, cô phải sống xa gia đình. Rất thân thiết với Seteuil, cô đã trở thành người tình của anh ta. Seteuil thích thú về điều này. Nhung khi nhậu nhẹt với bạn bè, anh ta dẫn họ về nhà cô ngủ qua đêm, đòi cô phải dọn bữa ăn tối cho cả bọn, bắt cô phải hầu hạ. Anh ta mua được một chiếc xe hơi cũ hiệu Citroen bốn máy chạy ì ạch. Hàng tháng, chính Madeleine Daele thanh toán cho anh ta các hóa đơn xăng dầu và tiền sửa chữa. Cô không kêu than một lời. Cô chấp nhận tất cả, hy sinh cho anh ta tất cả, chỉ để Seteuil không rời bỏ cô.
Cô cho Michel xem những chiếc hộp nhỏ bằng thủy tinh, những khung bìa cứng, những búp bê bằng len, những tấm thảm trải bàn, tất cả những sản phẩm đó đều do chính các bệnh nhân làm ra và cô phải mang về nhà. Cô tổ chức ngay trong khu phố những vụ xổ số tombola, và cô bán tất cả những thứ đó cho những người bạn láng giềng để mang lại vài xu cho các bệnh nhân khốn khổ. Cô luôn rỗng túi, bởi vì ba phần tư tiền lương được dành cho các bệnh nhân, phần còn lại dành cho Seteuil. Ribières biết điều đó, hiểu hết câu chuyện về cuộc đời cô, và rất mến trọng nữ trợ tá của mình.
Và hôm nay, trúng mối sộp, cô bán cho Michel một con búp bê xấu xí với cái giá khủng khiếp: 20 franc.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Thể Xác Và Tâm Hồn - Maxence Van Dek Meersch

Postby bevanng » 30 Sep 2022

7


Như một con rắn dài màu xanh xám, con tàu lướt nhanh qua vùng đồng bằng mọc rải rác những ngọn đồi thấp hãy còn mang những vẻ đẹp cuối cùng của mùa thu. Ngồi một mình trước bàn ăn nhỏ trong toa nhà hàng, Olivier Guerran điểm tâm bằng một con gà giò với xà lách và nửa chai rượu nho. Nhìn qua cửa sổ, ông thấy phong cảnh biến đổi từ từ, các ngôi làng bằng đá xám, các ngọn đồi nhỏ mang những gốc nho hãy còn đỏ, và vươn lên cao hơn cả là nhiều tòa lâu đài mái ngói màu xám, những con đường hai bên đầy cỏ cây bạch dương Italia làm thành hai hàng rào dày đặc. Thỉnh thoảng con sông Loire màu xám lại hiện ra và đầy sương mù. Một tờ nhật báo được để tựa vào cái bình, Guerran vừa ăn vừa đọc.
Bức chân dung của ông nằm trang trọng trên trang nhất, trong một cái khung bầu dục. Trong khi ăn, ông nghe những tiếng thì thầm, đầy nể trọng:
- Guerran… Đó là ông Bộ trưởng Guerran…
Hôm nay là thứ Ba, trước ngày chính phủ tan rã. Một cuộc đảo chính chẳng mấy sạch sẽ của Ramboise, lãnh tụ phe đối lập. Được gọi đến điện Élysée, Ramboise lãnh nhiệm vụ thành lập chính phủ mới. Và Ramboise đã mời Guerran tham gia Nội các của mình, Guerran chấp nhận, với điều kiện được giữ chức vụ Bộ trưởng Canh nông 1. Ông đã từng làm Bộ trưởng Canh nông hai lần trong các chính phủ trước đó. Trong lĩnh vực này, ông đã chứng tỏ một khả năng lớn lao mà ai ai cũng công nhận. Hơn nữa, đây là một lợi thế lớn lao cho ông: Khi đã trở thành một chuyên viên nổi tiếng, ông có thể trả lời cho những kẻ ghen tị với ông rằng “Tôi không làm chính trị. Trong Nội các, tôi chỉ là một chuyên gia, một người làm kỹ thuật mà thôi. Tôi phụ trách một ‘bộ kỹ thuật’.”

1. Bộ Nông nghiệp.

Còn đối với các cử tri thì những lá thư, những bức điện tín khen ngợi và xin xỏ chất thành đống từ hôm thứ Ba trên phố Varennes, tại Bộ Canh nông, đủ để bảo đảm cảm tình của họ đối với ông.
Tàu chạy ầm ầm vượt qua cây cầu cạn trên một thung lũng nhỏ hẹp.
- Chỉ còn mười phút nữa, - Guerran nghĩ.
Ông gọi người hầu bàn, trả tiền rồi trở về gian phòng hạng nhất, hơi loạng choạng. Nhiều người đứng đón ông nơi hành lang khiến ông phải đẩy họ ra, và tiếng thì thầm thích thú của đám đông văng vẳng bên tai ông.
- Đó là ông Guerran… Ông Bộ trưởng Guerran… Guerran xuất thân từ một gia đình khiêm nhường.
Là con trai của một giáo viên nghèo và không theo đạo, ông hành nghề luật sư ở Angers; nhưng tại đó, ông bị các luật sư đàn anh chèn ép. Ông cảm thấy ít nhất phải mười năm nữa ông mới tạo dựng được sự nghiệp. Và vì không thể chờ đợi, ông quyết định lao vào chính trị, một phương tiện chắc chắn và nhanh chóng để thành công trong ngành luật sư. Sự thành công chính trị của ông lớn đến nỗi chẳng bao lâu sau ông chú trọng đến chính trị hơn là nghề luật sư.
Năm 1914, ông ra mặt trận, chiến đấu với lòng dũng cảm như một người lính bình dị, từ chối vị trí an toàn mà người ta dành cho mình. Một năm trước khi thế chiến I xảy ra, ông cưới Julienne, người tình của ông, một cô gái ông quen biết trong quán cà phê, nơi cô ta đã sống khá buông thả. Ông nuôi cô ta trong vài năm, có với cô ta một dứa con trai. Nhưng cùng lúc đó ông có mối quan hệ thứ hai. Và ông không nghĩ đến việc kết hôn. Chính bà de Nouys, mẹ đỡ đầu của ông, một thánh mẫu mà cho đến giờ ông vẫn tôn thờ trong ký ức, hối thúc ông cưới vợ và hướng dẫn ông lựa chọn. Ông thích cô gái trẻ hơn trong số hai người tình, một cô gái hiền dịu và được giáo dục đàng hoàng. Nhưng người kia, Julienne, lại cho ông một đứa con, bé Charles.
- Con hãy cưới Julienne. Đó là bổn phận của con.
Suốt cuộc đời mình, Guerran đã phải trả giá rất đắt cho sự lựa chọn này. Về phần Julienne, đã không mang ơn, cô ta còn tỏ ra thù ghét bà de Nouys. Cô ta đã làm đủ mọi cách để chia rẽ Guerran với bà mẹ đỡ đầu của ông.
Cuối cùng cô ta đã thành công, và bà già khốn khổ chết mà không hề được gặp lại Guerran.
Sau đám cưới, Julienne sinh đứa con thứ hai, một bé gái. Bấy giờ, địa vị chính trị của Guerran ngày càng vững chắc.
- Angers đây rồi!
Guerran bước xuống. Va li của ông được một người phu khuân vác mang ra tận xe taxi.
- Đến tòa án! - Ông bảo người tài xế.
Ông không cần thiết phải ghé tòa án. Nhưng ông vẫn đến vì nhu cầu muốn được mọi người ở đó trông thấy, một thói khoe khoang kín đáo.
Ông chỉ ở lại thư viện của các luật sư trong vài phút, đủ thời gian để lấy chồng thư tín của mình ở trên bàn, siết tay bạn bè, thích thú ngắm nghía vẻ thất vọng và giận dữ của các địch thủ. Những tiếng chào hỏi khó khăn, được nói lên với vẻ thản nhiên giả dối, vẻ bận rộn của những kẻ muốn tránh không tiếp chuyện với ông, những lời khen tặng được thốt ra gượng gạo từ những cái miệng chua xót, những tiếng xầm xì, những cái nhìn lén khi ông quay lưng lại, những tiếng cười chứa đựng sự ác ý nhạo báng, ông thèm tất cả những điều đó mãnh liệt như thể trong đó có hương vị của một chiến thắng lừng lẫy. Ông lớn tiếng cười nói, lồng ngực phồng lên, chứng tỏ cho mọi người thấy ông mạnh hơn, lạc quan hơn, tự tin hơn. Ông biết người ta đang rình rập mình. Từ nhiều năm nay, người ta trông chừng gương mặt ông, nhận xét những vẻ mặt của ông, khi ông đến tranh luận trong một vụ biện hộ, để tìm thấy nơi ông vẻ chán nản, suy yếu, những dấu hiệu đầu tiên của sự mệt mỏi. Người ta đồn ông bị bệnh tim, rằng điều này biểu hiện rõ rệt ở mạch máu trên màng tang của ông, ngoằn ngoèo và căng phồng quá độ sau mỗi lần biện hộ. Và những kẻ ghen tị với ông trông chừng từng đường gân màu đỏ. Guerran cười nhạo việc này với các thư ký và những người bạn cùng một đảng với mình. Ông bỗng trông thấy luật sư Rebat bước vào thư viện và liền đó ông ta chạy trốn như một con chuột ngay khi nhìn thấy tân Bộ trưởng. Guerran thích thú lắng nghe câu chuyện được kể lại về những gì đã xảy ra vào sáng thứ Tư, ngày mà người ta được biết ông là thành viên của Nội các mới: Các luật sư giận dữ đến mất cả lý trí, gây gổ lẫn nhau, la hét những lời nhục mạ, đã diễn ra một cuộc đấu khẩu giữa những người bạn và những địch thủ của ông. Ông già thủ thư đã phải can ngăn hai nhóm đối địch khi họ toan sử dụng bạo lực để giải quyết tranh cãi.
Văn phòng luật sư và nhà ở của Guerran cách tòa án không xa, ông chỉ cần đi bộ đến đó. Phòng làm việc của ông, của các thư ký, và những phòng chờ chiếm trọn tầng trệt. Ba mươi thân chủ chen chúc nhau trong các phòng chờ, tin tưởng nơi thế lực lớn lao của vị luật sư tổng trưởng. Con số đông đảo này nói lên sự tin tưởng tuyệt đối của dân chúng vào cái thế mạnh hơn hẳn của ngành chính trị so với ngành tư pháp. Guerran bước vào văn phòng, trước hết cho gọi ba người thư ký và cậu con trai Charles vào. Ông cắt ngang những phát biểu đầy phấn khỏi của họ, bảo họ cho xem các hồ sơ trọng yếu, và giữ cậu con trai ở lại. Charles Guerran, con trai duy nhất của ông, vừa tốt nghiệp cử nhân luật và chuẩn bị lấy bằng tiến sĩ luật khoa. Rất hãnh diện được thỉnh thoảng khoác lên người chiếc áo luật sư, cậu ta tỏ ra là một nhà làm luật uy nghi, mặc loại đồ đen đặc biệt của luật sư, tự luyện tập cách tranh luận, thích làm bộ mặt nghiêm nghị và đứng đắn. Nhưng trong thâm tâm, Guerran biết rõ cậu ta chỉ là một kẻ nhu nhược. Hai cha con nói chuyện về nhà cửa, về những vụ việc cần phải giải quyết. Chuông điện thoại ngắt ngang câu chuyện của họ. Legourdan, thư ký trưởng của Guerran, thông báo có giáo sư Géraudin đến.
- Hãy mời ông ấy vào ngay lập tức. Charles, con hãy đưa ông ấy vào đây gặp ba.
Charles đi ra, và trở vào cùng với Géraudin. Lập tức ông Bộ trưởng chạy đến đón ông bạn cố tri, hai bàn tay đưa thẳng về phía trước đầy thân ái và kính trọng.
- Thế nào, công việc tốt chứ? - Géraudin hỏi, mặt đỏ gay, và bằng một cử chỉ máy móc, ông đưa hai bàn tay xoa hai dái tai màu đỏ. - Bạn vui lòng chứ? Còn các cử tri của bạn thì thế nào?
Guerran đưa tay chỉ bốn cái khay lớn chất đầy điện tín và thư khen ngợi chiếm trọn cả bàn giấy.
- Bạn hãy nhìn chúng! Ở Varennes còn nhiều hơn nữa, gấp mười lần! Báo chí đăng những bài khen ngợi đầy thiện cảm! Phải, tôi rất vui lòng!
Ông đẩy đến cho Géraudin một chiếc ghế bành lớn bằng da, và cả tấm thân ngắn nhưng đô con của Géraudin ngồi lọt trong đó. Guerran lấy trong tủ ra một cái khay, mấy cái ly, một chai rượu hảo hạng, một hộp đầy những điếu xì gà khô mà giòn. Ông rót rượu vào ly.
- Hãy cứ từ từ, hãy cứ từ từ. - Géraudin nói, đưa bàn tay mập tròn và thanh lịch như tay của một thanh niên trẻ trung về phía những ly rượu.
- Ối dào, có gì đâu. Bạn hút một điếu xì gà nhé. Hãy cứ thoải mái.
- Không được… Không được… Bạn đang cám dỗ tôi đấy. A! Điếu xì gà này thật là thơm!
Géraudin đốt một điếu, và lại xoa bóp hai dái tai của mình.
- Tôi hút thuốc quá độ. Thật là ngu xuẩn, Valérie trách tôi cũng có lý…
- Bà ấy vẫn mạnh khỏe chứ?
- Ờ… Bạn biết bà ấy mà… Dù sao chúng ta cũng sẽ chết trước bà ấy, chính bà ấy sẽ chôn cất chúng ta. Với cái tính tình khó chịu của bà ấy. Nhưng thôi, đừng nói đến chuyện đó nữa, chẳng có gì quan trọng. Chúng ta hãy nói về bạn. Khi tôi biết tin này, tôi đã nhảy cẫng lên vì vui sướng. Nếu không bận chăm sóc các bệnh nhân, tôi đã chạy đến Paris chúc mừng bạn rồi. Trong năm năm nữa, bạn sẽ là Thủ tướng, chính người bạn già này báo trước cho bạn đấy!
Hai người nói chuyện với nhau về chính trị, về các cuộc bầu cử, về trường đại học. Guerran giải thích quan niệm tế nhị của ông về chức vụ “Bộ trưởng kỹ thuật”. Géraudin trình bày những ước muốn của Gigon, thư ký trường đại học, giải thích vì sao người em họ của ông mơ ước lập ra huy chương y khoa. Trong tay ông ta, loại huy chương mới này sẽ có một tác động vô cùng hiệu nghiệm. Guerran hứa sẽ thực hiện ý muốn đó của Gigon. Ông Bộ trưởng Y tế Hochepied là bạn thân của Guerran. Điều này sẽ rất dễ dàng, dẫu Nội các mới chỉ tồn tại trong vài tháng. Câu chuyện từ đó đưa hai người đến vấn đề y tế, về cái Y khoa bội tinh trứ danh kia, cái thứ không được lập ra vì cánh tả không muốn có nó, về những tai nạn lao động, về việc phá thai, một phương tiện tuyên truyền bầu cử quá tốt cho những người tìm thấy cử tri của họ trong quần chúng. Phổ thông đầu phiếu không có đối trọng trong chính quyền của giai cấp công nhân, nông dân và tư sản rõ ràng đang thống trị một quần chúng bị đầu độc và lãnh đạo bởi các thế lực tài chính và báo chí! Guerran, hoài nghi nói về toàn bộ trò chơi chính trị đáng buồn mà ông đang tham gia bởi vì ông buộc phải làm vậy, mặc dù trong lòng có chút kinh tởm. Nhân bàn về nạn nghiện rượu, Géraudin nói đến sự vô lý khi người ta cho phép sản xuất những loại rượu rác rưởi được mệnh danh bằng cái tên hiền lành và đẹp đẽ là “rượu khai vị”. Guerran kể lại câu chuyện của một ký giả Paris. Anh ta được ban biên tập cảnh cáo ngay từ đầu:
- Anh được tự do muốn viết gì thì viết. Nhưng đừng bao giờ đụng chạm đến quân đội, giáo hội cũng như nạn nghiện rượu và vấn đề mại dâm được hợp pháp hóa…
Géraudin cười thích thú:
- Một quân đội và một giáo hội đáng thương hại!
Hai người cùng bàn thêm vài chuyện phiếm trong mười lăm phút nữa. Rồi Géraudin muốn ra về, mặc dù chủ nhà phản đối.
- Không, không! Tôi đã nhìn thấy chồng thư tín của bạn… đã nghe thấy tiếng chuông điện thoại của bạn… Và tôi đã làm phiền bốn mươi thân chủ đang chờ đội bạn ở phòng ngoài. Tôi phải chuồn đây. Xin từ giã người bạn thân mến. Mời bạn đến ăn tối với gia đình chúng tôi vào một ngày gần đây. Không, tôi không hút xì gà nữa… Hẹn gặp lại bạn nhé! Chào bạn.
Suốt ngày hôm đó, Guerran tiếp các thân chủ và làm việc. Nhưng công việc của ông tập trung vào các vấn đề thuế khóa, quan thuế hay hành chính. Đây là những lĩnh vực mà các luật sư dân biểu đều có thể can thiệp một cách mạnh mẽ. Guerran tự hào trong hầu hết các trường hợp đã dàn xếp được những cuộc tranh chấp khó khăn mà không phải ra tòa. Đúng bảy giờ tối, đầu óc nặng nề nhưng thỏa mãn, ông rời khỏi văn phòng và leo lên tầng lầu, nơi Charles vừa gọi điện thoại báo rằng: “Micheline và mẹ vừa trở về.”
Julienne đón tiếp chồng với vẻ lạnh lùng.
Đã từ lâu, hai người không còn tỏ vẻ thân mật giả tạo bề ngoài nữa. Tóc màu nâu sậm, mặt đen, cương nghị và sáng rực, gương mặt gầy, lông mày và môi được kẻ chì màu, Julienne biểu lộ một cá tính hăng say cuồng nhiệt, độc đoán và độc ác. Lớn hơn chồng hai tuổi, bà ta mang những món trang sức trẻ trung, nhưng lại rất thích hợp với thân hình mảnh mai kiểu Tây Ban Nha. Bà ta hút thuốc nhiều và tiêu xài rất hoang phí.
Trong khi chờ đợi bữa ăn, Guerran chỉ chăm sóc đến con gái mình. Micheline, mười bảy tuổi, tóc vàng, mắt xanh lơ, da trắng, tươi mát và mạnh khỏe, là cô con gái rượu của cha. Guerran ngồi trong ghế bành, đặt Micheline ngồi bên cạnh, và chỉ nhìn cô thôi cũng đủ hạnh phúc rồi, không cần nghe những câu nói líu lo vô nghĩa của cô. Kế đó, Charles và vợ là Andrée bước vào phòng. Tất cả ngồi vào bàn ăn. Suốt bữa ăn chỉ nghe toàn những lời gây gổ gay gắt giữa Guerran và vợ. Julienne muốn đến Paris, trong gian phòng dành riêng cho Bộ trưởng tại đường Varennes, sống cuộc đời thượng lưu đầy xa hoa. Bà ta đặt ngay câu hỏi:
- Sao? Khi nào chúng ta dọn lên Paris?
- Không bao giờ, - Guerran nói.
- Tại sao?
- Vì Micheline, nó vẫn còn quá ngây thơ. Tôi không thích nó phải sống một cuộc sống như thế.
- Tôi sẽ gửi nó vào trường nội trú tại đây.

Image


- Tôi không muốn Micheline ở nội trú.
Thế là cuộc cãi vã bùng nổ. Một lần nữa, bà ta lại trách cứ ông bỏ bê mình, chỉ nghĩ đến con cái, muốn sống một mình ở Paris để dễ tìm niềm vui mới. Bà ta giận dữ la hét, xử sự thô lỗ đúng như một người đàn bà đã từng một thời là gái quán bar. Cuối cùng bà ta đập bể một cái bình, bỏ lên lầu đóng cửa đánh sầm. Riêng Charles và Andrée, không chờ tới lúc mẹ bỏ lên lầu, đã biến mất từ lâu. Chỉ còn lại Guerran với Micheline.
Guerran ở bên cạnh cô con gái suốt buổi tối trước khi đi ngủ. Họ ngồi sát bên lò sưởi. Ông dịu dàng đặt cho cô những câu hỏi giống như một người mẹ. Ông thật sự có cảm giác mình vừa là cha, vừa là mẹ của con gái mình. Ông hỏi:
- Việc học của con ra sao? Tốt chứ? Điểm số như thế nào? Các cô giáo có bằng lòng với con không? Ba sẽ giúp họ có một miếng đất để làm sân bóng rổ. Con hãy nói cho họ biết điều đó… Hơn nữa, ba sẽ đến thăm hỏi họ… Nói chuyện với họ về con…
Ông lại nói:
- Tuần này thế nào? Con đã làm gì, Micheline? Con vẫn ngoan ngoãn ở nhà vào buổi tối, không đi xem xi-nê đấy chứ, ba hy vọng như thế?
- Thưa ba, không ạ, - Micheline dịu dàng đáp.
- Con có đủ sách học chưa? Con có cần thêm sách không? Con cần học thêm âm nhạc, hội họa và tiếp đón các bạn gái… Ba không thích con đi chơi lang thang đâu, con gái cưng của ba… Ấy là vì lợi ích của con. Con không giận ba chứ?
- Dạ thưa ba, không ạ.
- Và con hiểu rằng con phải nói cho ba biết mọi chuyện về con, không được giấu giếm điều gì nhé… Con biết rằng con có thể tin tưởng người cha già của con, phải không Micheline…?
- Con biết rõ điều đó!
Cô ôm hôn cha mình. Ông vuốt ve mái tóc đẹp màu vàng và nhìn cô. Cô có thân hình mảnh mai, bộ ngực nở nang, cặp giò xinh đẹp, sức khỏe tràn trề. Tuy mới mười bảy tuổi, Micheline hứa hẹn sẽ trở thành một thiếu nữ mạnh khỏe và cuốn hút. Guerran nhìn nhận rằng con gái của ông rất đẹp, điều đó khiến cho đôi mắt ông cảm động, tự hào và vui mừng. Ông nói chuyện với cô, thăm dò đến tận đáy tâm hồn cô, kiêu hãnh, sung sướng cảm thấy con gái cưng của mình vẫn trong trắng, không mang một điều gì bí ẩn hoặc tối tăm nào, và sự trong trắng của tâm hồn cô do chính ông tạo ra, là công trình của ông. Bởi vì chính ông đã cứu cô thoát khỏi ảnh hưởng xấu xa của Julienne. Và tuy cuộc đời đã chà đạp lên tâm hồn ông, đã đem đến cho ông những thói hư tật xấu, nhưng nhờ vào ý chí và lòng kiên nhẫn, ông vẫn bảo vệ được sự ngay thẳng, tế nhị và xứng đáng được cô tin tưởng như một người mẹ. Buổi tối nay, thấy cô cười với ông bằng một giọng cười tươi trẻ và thẳng thắn, cởi mở, tâm sự với ông như với một người bạn lớn tuổi kính mến, đầy tin cẩn, Guerran cảm thấy mình đã được hưởng một phần thưởng to lớn.
Một cách dịu dàng từ tốn, ông hỏi Micheline về mẹ cô. Trong nhiều năm, ông vẫn e ngại Julienne. Ông biết bà ta đã bảo Micheline phải làm thế nào để đạt được một cuộc hôn nhân huy hoàng. Những món trang sức và phấn son giả tạo, những mối tình vụn vặt, những cách làm dáng và đủ loại mánh khóe, Julienne sẵn sàng khuyên bảo con gái mình làm những điều đó, vì bà ta tin chắc vào các kinh nghiệm của mình về đàn ông; bà ta tin chắc rằng nếu đánh mạnh vào những bản năng của đàn ông, đánh mạnh vào sự ngu dại và đôi khi là sự yếu hèn của họ, người đàn bà sẽ luôn luôn chiến thắng. Bằng cách đó, bà ta tin rằng mình sẽ tạo được hạnh phúc cho con gái. Chính Guerran đã đấu tranh để chống lại những điều đó. Ông hiểu rõ Micheline hãy còn là một cô gái rất trong trắng. Nhưng ông cũng biết rằng cô sẽ sành đời rất nhanh, sẽ sớm thành một người đàn bà, vì cô mang trong mình một sinh lực mạnh mẽ nên cần phải được canh chừng và hướng dẫn một cách khôn ngoan. Micheline đã cùng với Julienne đi khiêu vũ ở dinh tỉnh trưởng và cuộc khiêu vũ đã đem lại cho Micheline những thành công rực rỡ.
- Hôm đó con đeo những món nữ trang nào? Con về nhà lúc mấy giờ? Ai đưa con đến quán ăn? Robert Bussy? À, con trai của ông chưởng khế, phải không? Tốt. Phải chăng anh chàng trẻ tuổi đó đã tỏ vẻ hơi bám theo con một chút, Micheline? Giữa cha con ta… Đó là một câu hỏi bình thường, con hiểu chứ. Con có thể nói với ba điều này. Con phải nói… Trong vài năm nữa, con sẽ đến tuổi lập gia đình… Nhưng ba phải được biết hết… Kể từ hôm đó, con không gặp lại cậu ấy nữa chứ? Không có thư từ gì cả? Và cậu ấy cũng không đến đây tìm con chứ?
- Không, thưa ba, - Micheline nói. - Con… Con thấy cũng có chút cảm tình với anh ấy… Nhưng chỉ có thế thôi…
- Tốt, tốt… Ta sẽ xem xét vấn đề đó… Chúng ta sẽ mời cậu ấy đến đây chơi với gia đình mình, vào dịp hè… Con bằng lòng không? Con sẽ nhận xét về cậu ấy… Ba cũng thế. Ba và con sẽ bàn với nhau về vấn đề đó… Trên nguyên tắc, cậu ta là một đối tượng cầu hôn có thể chấp nhận được! Nhưng con cần biết rằng con phải nói cho ba biết tất cả mọi điều… Con chỉ còn có ba… Ba là mẹ của con, Micheline ạ! Ba là mẹ của con… Thôi! Thời gian trôi nhanh quá… Đã đến giờ rồi… Nào cô bé, đi ngủ thôi.
Ông hôn Micheline. Trước khi đi ngủ, cô còn đòi ông hứa sẽ mua cho cô một cái vợt tennis mới, một máy ảnh, và hứa sẽ cho đi nghỉ một tháng ở Paris-Plage vào mùa hè năm sau. Trong những lúc thuận lợi đó, Micheline chứng tỏ mình có một cách tài tình buộc cha cô phải thỏa mãn mọi điều cô muốn. Guerran không phải không biết như thế, nhưng ông không cảm thấy bực bội chút nào, trái lại là khác.
Chỉ còn lại một mình, ông suy nghĩ một lúc. Robert Bussy. Phải, đó là một thanh niên rất đàng hoàng, rất tốt… Câu chuyện này có thể diễn ra rất nhanh… Ông đã tưởng tượng thấy Micheline thành hôn, và điều này gây cho ông một nỗi buồn.
- Mình sẽ nhớ nó biết bao! Không có nó, cuộc sống của mình sẽ ra sao! Một nỗi cô đơn kinh khủng!
Ông lắc mạnh đầu.
- Nhưng mình nuôi nấng con cái không phải vì mình.
Nhưng ông không thể chấp nhận sự phân ly này.
Micheline là tất cả đối với ông, còn hơn cả Charles, đứa con trai đã đứng về phe mẹ nó để chống lại ông. Tính tình giống nhau của hai mẹ con đã khiến họ trở thành những kẻ đồng minh.
Guerran nhìn đồng hồ đeo tay. Đã chín giờ rưỡi, ông do dự trong giây lát. Ý nghĩ phải trở về phòng khiến ông chẳng thích thú chút nào. Ông đội mũ, đi xuống dưới nhà. Ra ngoài đường, ông lang thang một lúc, không mục đích. Một lần nữa, hai con quái vật mà suốt đời ông chạy trốn đang rình rập ông: nỗi cô đơn và cảnh tượng phải ngồi một mình đối diện với chính mình. Ông lại do dự:
- Hélène ư? Không, cô ta chỉ khiến mình bực bội… Mình đến nhà chứa của Triboux vậy.
Ông do dự trong một phút. Ông sẽ thích thú khi được ôm ấp một thân thể đàn bà. Bởi vì, sau màn cãi vã gay gắt hồi tối với Julienne, ông cảm thấy muốn trả thù bà ta, bằng cách đến với một người đàn bà khác. Nhưng ông không có tình nhân. Chỉ đôi khi hiếm hoi, khi cơ thể ông lên tiếng đòi hỏi, ông tình cờ có một cuộc ân ái ngắn ngủi với một trong những người đàn bà tại một ngôi nhà lịch sự, tiện nghi và kín đáo nhất ở Angers. Chủ nhân của ngôi nhà này là Triboux, một cổ động viên bầu cử đầy tiền bạc và thế lực. Tóm lại, trong đêm nay, Guerran nhận thấy sự phù phiếm, vô nghĩa của cái vinh quang mà những người khác ghen tị với ông, và tâm hồn ông trống rỗng, cô đơn một cách khủng khiếp.
Ông suy nghĩ:
- Cần phải như vậy… Mình phải được tự do… Và rồi Micheline… Con bé chắc sẽ ghen lắm nếu biết mình có tình nhân…
Ông lại nghĩ đến Micheline, nghĩ đến vai trò của ông đối với con gái:
- Thật là một điều kỳ lạ khó hiểu, khi bạn có thể ươm mầm và phát triển, nơi một người mà bạn thương yêu, những đức hạnh, những sự trong trắng mà chính bạn không có!
Nhớ đến Micheline, ông liền dừng lại ngay trên đường đến nhà Triboux. Bỗng nhiên ông cảm thấy chán ngán về những gì mình sẽ thấy ở đó, ông hình dung một người đàn bà với những câu nói giả dối được chuẩn bị trước, những lời yêu thương đầy tính thương mại, những phấn son trang điểm giả tạo, những vuốt ve, những cử chỉ hoàn toàn máy móc, vô nghĩa, chẳng khác gì cái lễ phép của một người chào hàng. Và sự chán nản sẽ tràn ngập tâm hồn như một đợt sóng tiếp theo sau những cuộc yêu đương đó. Guerran quay phắt người lại, tiến về phía Vũ đình trường 1 để đọc mấy tờ báo phát hành buổi tối trước khi về nhà ngủ. Thế là sự trong trắng mà ông không còn, nhưng ông bảo tồn được nơi con gái ông, đã trở về với ông trong đêm nay, làm tăng thêm giá trị của ông so với con thú bị chế ngự trong ông. Nhưng ông không có ý thức về điều đó. Ông đơn độc đi theo những con đường tối đen và nghĩ đến bà de Nouys. Một bà già cao quý, nghèo túng, nhưng biết giữ phẩm giá, đã thương yêu và chăm sóc ông thật sự. Bà là người duy nhất trên thế giới có thể nói với ông về đức hạnh mà không làm cho ông phải mỉm cười hay cáu kỉnh. Có lẽ vì bà sống với chính những gì bà nói. Ông hình dung lại gương mặt già nua, héo hắt, đầy khoan dung. Nhưng vì lẽ gì bà muốn ông kết hôn với Julienne? Thật là một sai lầm trầm trọng. Tuy vậy, ông không hiểu vì sao ông không hề giận bà và ông cũng không hiểu tại sao ông luôn luôn nghĩ đến bà trong những lúc cô đơn.

1. Quảng trường quân đội.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Thể Xác Và Tâm Hồn - Maxence Van Dek Meersch

Postby bevanng » 30 Sep 2022

8


Sau khi từ giã bạn mình, Géraudin lên xe hơi, và Louis, người tài xế trung thành, đưa ông đến dưỡng đường tư để chăm sóc giới quý phái. Từ thủ đô, nơi các bệnh nhân từ lâu đã truyền tai nhau tên tuổi của ông và khiến ông trở nên nổi tiếng, nhiều bà kỹ nghệ gia, nữ nghệ sĩ và phụ nữ Mỹ du lịch ở Pháp, cũng đến nhờ ông cắt một khúc ruột dư hay làm căng lại bộ ngực.
Ông đi một vòng để thăm các nữ bệnh nhân, ở lại lâu hơn một chút bên cạnh bà Boissy, vợ của một kỹ nghệ gia lớn chuyên sản xuất ngói lợp nhà. Bà ta có một bộ ngực cần phải tu sửa, một trường hợp thật khó khăn mà ông phải canh chừng và theo dõi sát sao. Có lẽ ở nhà, bà ta đã áp dụng một chế độ ăn uống tai hại. Bởi vì những vết thương của bà ta vẫn chưa chịu liền da.
Ông dành cả tiếng đồng hồ để thăm các bệnh nhân cần phẫu thuật, rồi đi xuống văn phòng của nữ y tá trưởng Claim để kiểm soát tài chính. Đó là “khía cạnh thương mại của nghề nghiệp” - như ông thường nói. Những khoản tiền chi tiêu, những hóa đơn của người bán thịt, bán bánh mì, tiền trả cho nhà thầu, tiền thù lao phẫu thuật, bảng kê tiền lương cuối tháng, các phiếu bảo hiểm xã hội, phiếu môn bài, những tờ thuế đủ màu sắc, tất cả những giấy tờ đó làm cho ông kinh sợ. Géraudin - người đã cứu hàng chục người thoát khỏi tử thần - đã phải mất nhiều thời gian để phẫu thuật thẩm mỹ, vá víu lại những làn da già nua nhàu nhão, một công việc không xứng đáng chút nào với tài năng của ông, nhưng chính công việc này đem đến cho ông ba trăm ngàn franc mỗi năm.
Hơn nữa, nhờ đó ông trở thành một tài năng tuyệt vời trong nghệ thuật phẫu thuật thẩm mỹ. Trong ban kịch nghệ Comédie Française, người ta kể rằng có ba bộ ngực là tác phẩm của ông. Ông cắt một miếng da tròn xung quanh cái v_ú bị xệ xuống. Cách sáu hay bảy phân về phía trên, ông vẽ và cắt một miếng da cùng kích thước. Và ông kéo bầu v_ú lên cao, nơi miếng da vừa bị cắt. Thế là v_ú đã được “nâng lên”, chỉ còn vấn đề cắt bỏ phần còn lại của mảng da đã trở nên trống rỗng và vô ích phía dưới. Vết sẹo xung quanh v_ú rất nhỏ, gần như không thấy rõ. Một ca phẫu thuật như thế phải trả năm mươi ngàn franc. Géraudin cho rằng những ý thích ngông cuồng như vậy phải trả một giá rất cao. Bộ ngực được phẫu thuật sẽ đẹp thêm năm năm nữa. Rồi dần dần, sức nặng của cặp v_ú làm cho da dãn ra, nó lại xệ xuống. Nhưng không sao, lúc đó họ lại đến tìm ông. Những sinh viên có tính hay đùa dai khẳng định rằng các quý bà đó nếu tiếp tục phẫu thuật cho bộ ngực hấp dẫn, cuối cùng sẽ có một bộ ngực đầy lông lá như của các phu khuân vác.
Géraudin cũng sửa lại những cặp giò, những cái bụng và những cặp mông. Đối với những người béo, ông cắt bỏ lớp mỡ ở bụng và mông, một, hai hoặc có khi là ba, bốn ki-lô-gam thứ mỡ màu vàng, hậu quả của một cuộc sống lười biếng và chế độ ăn uống quá dồi dào. Đối với những thiếu nữ có cặp giò xấu, ông xẻ làn da ở chân rồi lấy ra một bắp thịt và khâu trở lại. Dưới đuôi mắt hay trên trán, ông làm cho làn da phẳng mịn, xóa bỏ những nếp nhăn, và nghệ thuật phẫu thuật của ông là ở chỗ chỉ tạo ra một vết sẹo nhỏ nơi chân mày hoặc chân tóc. Loại bỏ hai cằm đối với ông chỉ là một trò chơi. Vết sẹo do phẫu thuật gần như biến mất trong nếp da cần cổ.
Những công việc phẫu thuật như thế đòi hỏi một bàn tay khéo léo tuyệt vời. Điều cần nhất là phải làm sao để người ta không thấy rõ các vết sẹo. Nhưng Géraudin biết khâu năm trăm mũi kim trên một con tem thư, thêu tên mình vào tờ giấy cuốn thuốc mà không cần phải đâm thủng tờ giấy. Nghệ thuật của ông buộc những kẻ ghen tị nhất, thù ghét ông nhất cũng phải thán phục. Có thể nói Géraudin được sinh ra là để trở thành nhà phẫu thuật tài ba. Ông mổ xẻ một cách tuyệt vời, nhanh chóng, chính xác, với nhưng cử chỉ vững vàng mà không một địch thủ nào nghĩ là họ có thể ngang bằng ông. Nhờ sự bình tĩnh, và một đầu óc quả quyết vô song, ông đã cứu sống hàng trăm người. Chỉ trong mười giây đồng hồ, trước một cái bụng được mổ ra, phô bày các căn bệnh không ai ngờ được, ông đã quyết định hết sức đúng đắn, hoặc phải cắt bỏ bộ phận bị nhiễm bệnh, hoặc chữa trị và khâu lại. Khi bệnh nhân bị chảy máu hoặc bất ngờ ngất đi trong khi đang phẫu thuật, ông không vội vàng cũng chẳng lo sợ cuống cuồng, vẫn bình tĩnh tìm ra mạch máu bị cắt đứt và ngăn chặn sự xuất huyết.
Ông là một trong những nhà phẫu thuật dám xoa bóp trực tiếp trái tim. Trong trường hợp bệnh nhân bị ngất xỉu, khi hô hấp nhân tạo và việc tiêm chất adrenaline không làm cho tim đập trở lại, Géraudin dám mổ tim của bệnh nhân ra - bấy giờ người bệnh chỉ là một cái xác, không có thì giờ mổ theo đường bụng hay đường cơ hoành như đa số các nhà phẫu thuật thường làm, ông mở trực tiếp trên lồng ngực, bằng cách cắt xương ức giữa sụn sườn thứ ba và thứ tư thành một lỗ hổng đủ rộng để ông thấy rõ quả tim và thò tay vào. Xuyên qua lỗ này, ông đưa bàn tay nắm chặt quả tim, xoa bóp, ấn mạnh để máu lưu thông. Và bỗng nhiên, giữa các ngón tay đó, quả tim đáp ứng lại bằng một cái co thắt, một cái đập bất ngờ vào lòng bàn tay ông. Và Géraudin, một lần nữa, làm cho một con người đã tắt thở được sống lại.
Trong một vài trường hợp, quả tim đập trở lại, cơ thể sống thêm được ba, bốn ngày, nhưng người bệnh đã hồn xiêu phách lạc. Não bộ đã chết. Họ chỉ hồi sinh được một phần.
Lần này, khi rời dưỡng đường, Géraudin ra về với vẻ hài lòng. Tất cả mọi người đều mạnh khỏe, kể cả bà Boissy. Vết mổ của bà ta đã khép kín lại, vết sẹo hình cong, ngay dưới v_ú nên khó trông thấy. Chẳng bao lâu nữa, bà Boissy sẽ phô bày bộ ngực của một cô gái mới lớn. Các công trình phẫu thuật của ông bao giờ cùng được mọi người biết tới. Đó là lời quảng cáo tuyệt diệu, và ít nhất người ta sẽ không dám nói rằng khả năng của ông đã suy giảm.
Đây là mối lo âu lớn nhất của Géraudin: không để tài năng bị suy giảm theo thời gian, nhất là kể từ khi ông qua tuổi sáu mươi. Ông thường xuyên tự quan sát mình, tự theo dõi mình, đo lường thời gian phẫu thuật của mình. Cuối cùng ông luôn khẳng định với mọi người:
- Không, tôi không suy yếu, tôi vẫn là vị thầy tài ba của những năm trước. Bàn tay tôi vẫn là bàn tay hai mươi tuổi!
Ngồi bên Louis, theo bản năng, ông cúi xuống nhìn bàn tay mình, cử động nó, nắm lại và xòe ra, cảm thấy thỏa mãn với bàn tay đẹp đẽ ấy, một bàn tay thanh lịch, nhanh nhẹn, một bàn tay nghệ sĩ thật sự, mạnh mẽ, chính xác, dùng để lôi kéo những vật nặng hoặc sờ mó một cách vô cùng tế nhị. Một bàn tay nhạy cảm đến độ khi nâng một cái tử cung hay sờ nhẹ cái chân bị gãy, nó biết thông cảm với cơn đau như thể chính nó đang đau vậy. Giữa những ngón tay vừa dịu dàng vừa cứng rắn, vừa uyển chuyển vừa mạnh mẽ đó, dao phẫu thuật vừa là cây kim vừa như con dao nhà bếp, vừa là dụng cụ của một anh đồ tể vừa là dụng cụ của thợ kim hoàn.
Tài năng của Géraudin luôn khiến những người xung quanh ông phải kính nể và ngưỡng mộ. Ông vẫn là bậc thầy lão luyện, vây quanh là nhiều đối thủ ghen tị. Ông biết có một số người đang trông chừng hai bàn tay của ông, chờ đợi những dấu hiệu nhỏ nhoi nhất của sự suy yếu hay mệt mỏi nào đó. Nhưng những hy vọng của họ luôn luôn bị thất bại, luôn luôn bị dời lại vào một ngày mai vô tận. Tuy nhiên, người ta vẫn thì thầm với nhau rằng ông đã qua sáu mươi tuổi rồi… Những sinh viên nội trú, những người bạn bắt đầu dò xét ông trong những lúc ông đang mổ. Ông đã gặp những cái nhìn chăm chú của họ, biết rõ họ cố tìm nơi ông một dấu hiệu suy nhược nào đó, và ông cười thách đố họ, tự tin vào bản thân, tràn đầy sinh lực, ý thức rằng mình vẫn luôn minh mẫn, hoạt bát, chính xác và nhanh nhẹn như xưa. Chính cuộc chiến tranh ngấm ngầm này kích thích ông, thúc đẩy ông biểu diễn những pha tài tình, táo bạo và ngoạn mục, những pha mà ông sẽ không dám liều lĩnh làm trong lúc bình thường. Ông làm cho thần kinh của những kẻ đứng xem phải căng thẳng. Và, sau đường dao cuối cùng, ông lấy trọn cái tử cung ra, nhẹ nhàng đặt nó vào một cái chậu khiến cho những kẻ thù ghét ông nhất cũng phải buông ra những tiếng kêu đầy khâm phục.
Nhưng thỉnh thoảng, khi ca phẫu thuật kéo dài quá lâu, ông cảm thấy một thoáng mệt mỏi trong những đốt xương sống ở cần cổ…
Do đó Géraudin luôn được vây quanh bởi một nhóm nhỏ “những người trẻ tuổi” háo hức với những thành công của ông, và bị theo dõi bởi một số bác sĩ phẫu thuật mà ông đã đào tạo từ năm này sang năm khác, những người sau đó sẽ là đối thủ và là kẻ thù của ông. Đó là lý do tại sao Géraudin ngày càng trở nên độc đoán hơn, tha thiết hơn với quyền lực và uy tín của mình khi ông bắt đầu già đi. Nỗi lo sợ bị một đồng nghiệp trẻ qua mặt vào một ngày nào đó đã ngăn cản ông thu nhận các đệ tử trẻ. Sự bất công mà ông phải chịu đựng thuở thiếu thời giờ đây đến lượt ông gây ra cho người khác. Về mặt này, có điều gì đó đáng ghê tởm trong tổ chức của các trường đại học y khoa, vốn lên án việc giáo viên coi sinh viên của mình là đối thủ cạnh tranh trong tương lai. Trưởng phòng khám của Géraudin không được phép hoạt động trong thành phố. Vì vậy, chỉ có con trai nhà giàu mới có thể ở lại, mới có khả năng chờ đợi như vậy. Ở tuổi ba mươi lăm, Flégier, trưởng phòng khám hiện tại của ông, chưa bao giờ gặp một khách hàng nào trong thành phố, và đang kiếm được hai trăm năm mươi franc mỗi tháng. Và tay nghề phẫu thuật của anh quá tốt, hơn nữa anh cũng không bao giờ can thiệp gì nhiều trước mặt sinh viên. Anh thường một mình tiến hành phẫu thuật, cách xa mọi người, tại phòng khám của Géraudin. Ở bệnh viện, anh chỉ thực hiện các ca nạo thai. Không cần thiết chuyện sau này, khi đã trở thành bác sĩ, các sinh viên nhớ đến tài năng của Flégier, và gửi bệnh nhân của mình đến chỗ anh phẫu thuật.
Tất cả những điều này, ngoài tính cách của Valérie, vợ ông, khiến Géraudin không thể là một người đàn ông hạnh phúc.

Như thường lệ, từ sáng sớm bà Valérie Géraudin đã hành hạ các cô giúp việc và làm cho cả nhà bị xáo trộn. Thoạt tiên bà muốn đến dưỡng đường lấy tiền ở chỗ nữ y tá trưởng Claim, cũng là kẻ thù riêng của bà. Nhưng Géraudin cần Louis lái xe cho ông. Đúng lúc đó, Valérie lại ra lệnh cho Louis lau cửa kính phòng khách! Bà cũng muốn đi xưng tội ngay sau bữa sáng, trước khi đến La Baule. Nhưng vì ông đã dùng chiếc Panhard suốt buổi sáng nên Louis muốn tra dầu mỡ cho chiếc xe sau khi ông trở về. Thế là không có việc đi xưng tội cũng không có việc lau chùi các tấm kính! Và thêm vào cái may mắn đó, lúc mười giờ sáng, đám gia nhân được biết rằng bà chủ vừa “đến tháng”. Bà ném quần áo của mình lên đầu mấy bà bồi phòng và làm mình làm mẩy trên giường. Thế là đám gia nhân chỉ còn có một mối hy vọng và một niềm mong ước: Được trông thấy ông bà chủ đi La Baule để họ được giải thoát.
Valérie là con gái thứ của Largilier, cựu trưởng khoa trường đại học y khoa. Người con gái lớn của Largilier, Jeanne, thân hình méo mó và bàn chân bị tàn tật, rất xấu xí. Tuy vậy, cuối cùng bà cũng lấy được một người chồng tên là Lepoignard, y sĩ quân đội. Largilier bổ nhiệm ngay ông ta chức vụ trưởng phòng bào chế. Hai năm sau bà mất, Lepoignard rời khỏi thành phố, mở phòng mạch ở nơi khác, nhưng vẫn giữ chức vụ lẫn tiền lương của mình. Tiền lương này được gửi đến ông ta bằng bưu phiếu. Ông ta thậm chí không biết phòng thí nghiệm của mình ở chỗ nào, sau khi nó chuyển đến nơi khác. Năm sau, ông ta sẽ đến tuổi nghỉ hưu.
Tuy ít bị tạo hóa bạc đãi hơn, nhưng Valérie cũng khó tìm được tấm chồng. Chính cái thể xác đầy bệnh tật của người chị làm cho người ta ngán cô em. Người ta đồn rằng gia đình của Valérie có bệnh di truyền. Géraudin biết điều này và ông do dự, Valérie khá đẹp, nhưng tính tình khó chịu. Hơn nữa, Géraudin bị dính khá lâu vào một mối tình khác mà ông không thể dứt ra dễ dàng. Ông là người tình cảm, nhưng ông đã nghe theo lời thúc giục của mẹ ông. Trong cái thành phố Angers nhỏ bé này, cuộc hôn nhân huy hoàng giữa con trai bà và con gái ông trưởng khoa trường đại học y khoa sẽ làm cho bà hãnh diện. Valérie sẽ đem về cho chồng hai triệu đồng hồi môn. Géraudin đã để cho tham vọng của mình bị cám dỗ: Ông cưới Valérie. Sau khi chị gái qua đời, Valérie là người thừa kế duy nhất của gia đình Largilier. Vào ngày hôn lễ của Géraudin, cô gái đã có con với Géraudin ẵm đứa bé đến trao tận tay ông ngay trên bậc thềm của tòa thị chính. Việc này đã gây ra một vụ bê bối không mấy quan trọng.
Largilier rất giàu. Ông lập một viện thí nghiệm để khai thác những khám phá của ông về khoa nội tiết. Việc làm ăn của ông rất phát đạt. Khi Largilier chết, Géraudin, đúng hơn là vợ ông, là người thừa hưởng những cổ phần rất lớn của viện bào chế “Dynam”.
Khi Géraudin về đến nhà, vợ ông đang ở trên lầu và không ai dám lên hỏi han bà. Mọi người bàn luận với nhau, cuối cùng quyết định cho Louis lên lầu để thuyết phục bà chủ.
Một cuộc cãi vã rất lâu xảy ra giữa bà chủ và người tài xế, mọi người ở dưới nhà đều nghe rõ. Bà chủ khóc lóc, chỉ cho Louis thấy bà đã nôn ra mật xanh ở trong chậu, nói về bệnh táo bón và cái chết sắp đến với bà. Bà trách cứ chồng, bà bồi phòng và bà y tá trưởng của bệnh viện, rồi lại khóc lóc. Louis nhắc rằng bà phải đến La Baule vào lúc năm giờ, và bây giờ cần phải chuẩn bị ngay. Louis giúp bà cột lại sợi dây nịt quanh bụng để xoa dịu chứng khó tiêu tưởng tượng, cằn nhằn bà chủ quá chậm chạp, thẳng thắn cười nhạo về những chứng khó chịu của bà, rồi lại nói về vợ của anh, tuy mới phẫu thuật được sáu tuần, nhưng đã đứng dậy rửa chén, đĩa và giặt giũ cho hàng xóm để kiếm thêm tiền nuôi ba đứa con nhỏ. Sau cùng, Valérie đi xuống lầu, miệng hát vang một bản tình ca, trong khi Louis vừa đi theo bà vừa nhún vai. Valérie chữa trị chứng đau bao tử bằng cách uống một cốc sô-cô-la sữa ngon lành, ăn nửa ổ bánh mì, và nửa hộp mứt trái cây. Đúng năm giờ, xe khởi hành, Géraudin phải ngồi đằng sau xe, vợ ông ngồi phía trước, bên cạnh tài xế, bởi vì bà sợ xe chạy xóc sẽ khiến bao tử của mình bị đau thêm. Louis lái xe nhanh, Valérie thích điều đó. Thỉnh thoảng Géraudin bị một cái va li rớt ngay trên đầu hay trên đầu gối.
- Louis! Hãy dừng lại! - Géraudin la lên.
- Cứ chạy tiếp đi, Louis! - Valérie nói lớn.
Louis do dự trong một giây, rồi tiếp tục chạy hết tốc lực. Géraudin càu nhàu, sắp xếp lại các va li và giữ im lặng cho tới lúc chiếc Panhard bị xóc nẩy lần kế tiếp. Kiki, con chó của Valérie, thò đầu qua cửa sổ, sủa những tiếng nhục mạ và thách thức với tất cả những kẻ qua đường, hai chân hay bốn chân mà nó trông thấy.
Ít nhất mỗi tháng một lần, vợ chồng Géraudin đi từ Angers đến La Baule, nới họ có một biệt thự nghỉ mát giữa mười mẫu rừng thông. Tại đó, cô y tá Dorothy chăm sóc đứa con trai của hai vợ chồng họ với sự phụ giúp của cô giúp việc và anh thợ làm vườn. Mẹ của Valérie, ngoài chứng nghiện rượu di truyền, còn bị bệnh tâm thần. Cuối cùng bà chết trong nhà thương điên. Người chị của Valérie, bàn chân bị tật từ lúc mới sinh, đã mang chứng di truyền này một cách rõ rệt. Riêng Valérie chỉ biểu lộ tính tình không được bình thường, nhưng Henri, con trai duy nhất của Géraudin, lại bị bệnh thiểu năng trí tuệ. Người ta giấu kín chuyện này, nuôi cậu một cách bí mật tại La Baule.

Image


Khi họ đến nơi, trời đã tối đen. Trong căn phòng của mình, Henri được đặt ngồi trong chiếc xe nhỏ đối diện với đống lửa lớn đốt bằng củi. Mặc chiếc áo cánh den với khăn trắng cột dưới cằm để hứng nước dãi, cậu thanh niên hai mươi tư tuổi đang quờ quạng hai bàn tay thon, nghiêng đầu về một bên và miệng nở nụ cười với một cái gì đó không ai thấy được. Trên mặt cậu đã có hàng ria mép rậm. Ngồi bên cạnh cửa sổ là Dorothy - nữ y tá người Anh, khoảng ba mươi lăm tuổi - vừa may một chiếc áo “pull” vừa canh chừng cậu. Cô làm ở đây đã được mười năm.
Valérie hôn rất nhanh con trai, đặt gói đồ chơi vào hai cánh tay của cậu, rồi vội vàng bỏ đi. Dường như bà không thích trông thấy cậu. Có lúc bà cảm thấy trong thâm tâm một tình thương đối với đưa bé quái dị do mình sinh ra, một sự thương hại, một sự biểu lộ bất ngờ của bản năng làm mẹ đã khiến bà phải hoảng sợ. Bà lờ mờ cảm thấy cuộc đời mình có thể thay đổi hoàn toàn nếu bà biểu lộ sự tận tụy và tình yêu thương với đứa con mất trí này. Và bà sợ, bà trốn tránh, bà thơ thẩn trong vườn, trong những căn phòng hay đi đến sòng bạc để giải trí vào những lúc sòng bạc mở, hoặc đến chơi với bà bạn láng giềng Jennison nếu sòng bạc đóng cửa.
Tối nay, bà lại đến chơi với bà Jennison sau bữa ăn chung với Géraudin trong căn phòng ăn kiểu nhà quê, tất cả các cửa được đóng lại để tránh hơi lạnh, từ đó có thể nghe thấy tiếng gió biển thổi qua rừng thông bên ngoài. Géraudin vừa ăn vừa đọc báo Paris - Buổi chiều. Valérie đặt con Kiki trên đầu gối, đút vào miệng nó những miếng cá được chọn lựa thật kỹ. Uống cà phê xong, Valérie liền nhấn chuông gọi Louis bảo anh chở bà đến gia đình Jennison cùng với con chó Kiki luôn nằm trên tay bà. Olivia Jennison, một bà già người Anh độc thân, sống trong biệt thự cách đó khoảng một cây số cùng với hai người em gái. Cả bốn người đàn bà này rất ham đánh bài để giết thời gian.
Valérie đi rồi, Géraudin đi lên phòng của con trai. Henri bị cột chặt vào chiếc xe lăn, ngồi đối diện với lò sưởi, vừa gật gù vừa nói lọng ngọng, trong lúc Dorothy vỗ béo cậu bằng từng thìa xúp yến mạch và lau cằm cho cậu. Géraudin hỏi thăm cô về sức khỏe của cậu, khám cho cậu, lo lắng về vấn đề tiêu hóa và giấc ngủ của cậu. Ông ép cậu phải mở miệng ra để ông quan sát mấy khối a-mi-đan sưng to mà sắp tới ông sẽ phải phẫu thuật. Ông đút vào miệng cậu những thỏi sô-cô-la. Bụng đã no, Henri trở nên yên tĩnh. Cậu tiếp tục nghiêng đầu xuống, cười với không gian, theo đuổi một cơn mơ mộng quái gỡ, có lẽ là những kỷ niệm về cuộc sống của cậu lúc còn trong bụng mẹ… Dorothy đã đi xuống dưới nhà. Ngồi bên cạnh đứa con trai ngu đần, thỉnh thoảng ông lau cằm cho cậu và nhớ đến một đứa con khác của mình, đứa con trai của ông với người tình cũ. Bây giờ, cậu thanh niên ấy đã hai mươi bảy tuổi rồi. Nay con trai ông ở đâu? Đó là một cậu thanh niên thông minh. Géraudin nhớ lại chính cậu đã ôm hôn ông vào cái đêm ông chữa trị chứng bệnh bạch hầu cho cậu. Ông có cảm giác hãy còn cảm thấy những cái vuốt ve nhẹ nhàng từ đôi bàn tay nhỏ bé của cậu…
Bỗng Henri thốt lên một tiếng rú hoang dại. Géraudin giật nảy người, trở về thực tại. Xung quanh cậu bé thiểu năng này, biết bao món đồ chơi vô tích sự được rải đầy trên thảm. Từ hơn hai mươi năm nay, mỗi tháng Valérie đều đem đến cho con trai những đồ chơi giá hàng trăm franc. Và Henri không hề sờ mó tới những thứ đó. Géraudin lượm một con thỏ có chân bằng gỗ, một bộ đồ chơi hình khối, một ống sáo bằng nhựa… Ông nhanh nhẹn gói chúng vào một tờ báo. Con thỏ di chuyển bằng những bánh xe gỗ nhỏ rất thích hợp với cậu bé Charles, một bệnh nhân của ông bị bệnh thiếu máu cấp tính đã phải tiếp máu ba lần… Géraudin nhớ đến cậu bé có gương mặt nhợt nhạt, đôi mắt đen linh hoạt đầy gan dạ, thông minh và tình cảm… Khi người ta già, người ta không thể nghĩ đến một kỷ niệm gì mà không cảm thấy xót xa!
Géraudin đi xuống dưới nhà, tay ôm gói đồ chơi. Trên cầu thang, ông nghe tiếng gió biển rít lên làm các cành cây thông bên ngoài quệt mạnh vào cửa kính, Géraudin đi ra phòng ngoài, lặng lẽ lật mặt chiếc ghế băng kiểu Gothic lên, nó làm thành một chiếc rương sâu nơi ông cất giấu những đồ chơi mà ông “chôm” được. Sau đó, ông đi vào phòng ăn, mở tủ lấy ra chai rượu vang và hộp xì gà. Tiện tay ông vặn nút máy thu thanh.
Last edited by bevanng on 02 Oct 2022, edited 1 time in total.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Thể Xác Và Tâm Hồn - Maxence Van Dek Meersch

Postby bevanng » 30 Sep 2022

9


Sau đám tang của Suraisne, lần đầu tiên gặp giáo sư Doutreval ở trường đại học, Vallorge liền bắt tay và hỏi thăm về những vấn đề ông đang nghiên cứu.
Jean Doutreval đang nghiên cứu một phương pháp để điều trị một số bệnh tâm thần mà cho đến nay gần như không chữa trị được. Đó là chứng tâm thần phân liệt. Vallorge rất chú ý đến những lời giải thích của ông. Doutreval rất hài lòng, mời Vallorge đến chứng kiến một cuộc thí nghiệm sắp tới của ông.
- Vậy cậu hãy đến gặp tôi tại dưỡng trí viện Saint-Clément. Cậu sẽ được chứng kiến vài điều hay ho.
Vallorge cảm ơn ông, hỏi thăm ông về Michel, về cô Fabienne và về cô Mariette nữa… Rồi hai người chia tay nhau, cùng hân hoan.
Ngày thứ Hai sau đó, lúc bốn giờ chiều, Vallorge lái xe ngang qua ngôi làng nhỏ, cách Angers mười lăm cây số về phía bắc và tiến vào cái sân rộng bao la của dưỡng trí viện do Doutreval làm giám đốc. Một xe cứu thương vừa dừng lại trước cửa văn phòng. Một anh chàng nhỏ thó nhưng mập mạp bước xuống. Vallorge nhận ra đó là Tillery nhờ cặp kính to tổ chảng của anh ta. Kế đó, “Người Mặt Thẹo” cũng xuống theo. Cả hai khiêng vào một người to lớn, thô lậu, mũi đỏ bầm và hai cổ tay bị cột lại bằng những sợi dây nhỏ. Người đó luôn luôn đưa hai nắm tay bị cột lên mặt và đấm thật mạnh vào mũi của mình.
Vallorge tiến đến gần.
- Chào các bạn! Chuyện gì thế?
- Một người điên, - Groix nói. - Người ta phải đem anh ta từ Seine-et-Marne đến đây trong tình trạng như thế này. Bạn thấy đó, biết bao khó nhọc!
Groix gỡ cái mũ phót xuống, dùng tay vuốt mớ tóc rối màu vàng và lấy khăn lau gương mặt cởi mở, vui tươi của mình. Vết thẹo trên gò má của anh ta thẳng và sâu…
- Vì sao anh ta cứ luôn tự đấm vào mũi mình?
- Không ai biết cả. Đó là ý nghĩ của riêng anh ta. Từ lúc còn trẻ, anh ta đã làm như thế rồi! Ngoài ra, anh ta tiểu tiện bất cứ lúc nào!
- Bạn phải trông thấy cảnh đó, ở nhà ga, - Tillery nói. - Và cả trong toa xe với hai bà già nữa. Vừa bước vào toa, anh ta liền vạch quần ra, và tiểu ngay! Riêng tôi, tôi tự bảo một cách lo âu: Nếu anh chàng chỉ có tiểu thôi thì cũng chưa làm sao.
- Tao không hề sợ, - “Người Mặt Thẹo” nói - tao đã cho anh ta uống bismuth ngay trước lúc đưa anh ta lên đường.
- Thuốc bismuth?
- Bốn gói. Anh ta sẽ không làm bậy đâu. Tao thề với mày rằng anh ta sẽ bị táo bón suốt một tuần lễ.
Tillery thở ra nhẹ nhõm:
- Thằng bò cái! Sao mày không cho tao biết! Suốt cả đoạn dường, tao cứ nơm nớp lo sợ!
- Và lúc đến Paris thì sao? - Vallorge hỏi.
- Hết sức thành công! Một ngàn người đứng vây quanh chúng tôi tại nhà ga. Chúng tôi đã dùng bữa trong quán nhỏ của một người bán rượu nho, giữa đám đông vây quanh. Tôi đã phải đưa cho anh ta một miếng bánh mì, anh ta cầm trong tay nhưng không tìm ra được cái miệng của mình, và lúc nào cùng nện lên mũi những cú đấm có thể giết chết một con bò. Tôi phải đút cho anh ta ăn, như chim mẹ đút mồi cho chim con vậy. Và cuối cùng, chúng tôi đã đem anh ta về đây. Đó mới là điều quan trọng. Này Groix, chúng ta đưa anh ta vào thôi. Hãy đi theo chúng tôi, anh bạn đáng thương.
Hai người dịu dàng kéo anh chàng mất trí đi theo họ. Vallorge bước vào văn phòng, lát sau Doutreval cũng bước vào.
Doutreval là một người cao lớn, nước da hơi sậm màu. Ông mặc bộ com-lê trắng nổi bật với chiếc cà vạt màu đỏ lựu. Chân trái đi hơi khập khiễng.
- Vallorge thật đúng giờ. Tốt lắm, mời các cậu đi theo tôi.
Họ bước ra khỏi văn phòng, đi dọc theo khuôn viên, băng qua các trại nữ để rút ngắn đoạn đường. Nhiều người đàn bà trong trại la hét chào đón họ. Trong các căn phòng dài có hai dãy giường, những người đàn bà mắc bệnh, đang nằm, ngồi trên giường, đôi khi đứng trên nệm, la hét, ca hát nghêu ngao và vung nắm tay về phía Vallorge, thốt ra những lời nhục mạ và hăm dọa. Một số khác, miệng mở to cười phá lên, kể với không khí những câu khôi hài, trong khi người bạn giường bên nằm yên, đôi mắt đăm đăm nhìn vào nơi xa xăm, biểu lộ vẻ cô đơn và xa lạ ghê gớm đối với tất cả, theo đuổi một giấc mơ vô tận và rời rạc. Tillery và Groix đi theo Doutreval qua một trong những căn phòng đó, dọc theo một hành lang có những cánh cửa gắn lưới sắt. Qua một trong các ô cửa đó, Vallorge hiếu kỳ, liếc nhìn. Hàng trăm người đàn bà điên, đôi mắt thất thần, vừa cười, vừa khóc, tay chân múa may như muốn kêu gọi những hồn ma… Khi nhìn thấy Vallorge, họ lao tới bên cái lỗ nhìn như những con thú dữ. Một bà già, mái tóc hoa râm lòa xòa và rối bù uốn cong như những con rắn, nắm lấy các song sắt và cắn vào đó. Gương mặt hơi tái xanh, Vallorge vội vã thụt lùi lại. Đúng lúc đó, Doutreval rút chìa khóa, mở cửa.
Bốn người cùng đi qua căn phòng. Trước những người điên trông đáng sợ nhất, Doutreval vẫn bình tĩnh tiến thẳng vào. Trông ông như một người chuyên trị những con thú dữ. Thỉnh thoảng, một người đầy vẻ nham hiểm tiến đến sau lưng ông. Doutreval quay phắt lại, nhìn thẳng vào mặt người đó, khiến bà ta lúng túng dừng lại.
- Đồ tồi! Đồ tồi! - Một bà già đứng từ đằng xa la lên về phía Vallorge.
- Tôi không hề mắc bệnh điên! Tôi sẽ kiện các ông. Người ta sẽ phải cho tôi về, - một người đàn bà mặt đỏ gay và đôi mắt thất thần thét vào mặt Doutreval. Ông gạt bà ta ra bằng một cử chỉ cương quyết và bình thản.
Sau lưng bốn vị bác sĩ, một người đàn bà trẻ, tóc vàng, vẻ mặt dịu dàng, đi theo Vallorge, thấp giọng cầu khẩn trong những tiếng khóc âm thầm:
- Thưa ông bác sĩ… Thưa ông bác sĩ…
Phải đẩy cô ta ra một cách thô bạo, bốn người mới ra được khỏi gian phòng. Khi ra đến bên ngoài, Vallorge mới thở phào nhẹ nhõm.
- Các ông hẳn phải quen với cách đối xử với họ! - Anh ta nói.
Doutreval mỉm cười.
- Ối dào! Chỉ có một sự nguy hiểm duy nhất, đó là sự xao lãng nhiệm vụ của những người bảo vệ.
- Điều này đã xảy ra chưa?
- Bạn nhìn Groix thì biết.
Groix mỉm cười, chỉ cho mọi người thấy vết thẹo đỏ trên gò má của mình.
- Một người điên dùng cái bình để đánh tôi, - Doutreval giải thích. - Nhưng Groix đã chen vào chặn lại, và cậu ấy đã lãnh đủ.
- Vì vậy, bây giờ tôi mất hết tám mươi phần trăm vẻ hấp dẫn đối với phụ nữ, - Groix tiếp lời. - Sau ngày đó, tôi không chụp hình nghiêng nữa.
- Để cất giấu một thứ vũ khí, - Doutreval nói tiếp, mỉm cười thân mật vỗ nhẹ lên vai của “Người Mặt Thẹo”, - một người điên sẽ có tất cả những mánh khóe thông minh mà các cậu không ngờ được. Năm ngoái có một người điên cứ đi lượm những hòn sỏi nhỏ trong sân, suốt sáu tháng liền. Các bảo vệ vẫn để mặc cho anh ta làm, vì thấy điều này không có gì nguy hiểm… Nhưng bạn thân mến, anh ta đã dồn sỏi vào một chiếc vớ cũ, biến nó thành cái dùi cui dành riêng cho tôi. Cậu có nhớ chuyện đó không, Groix?
- Thưa giáo sư, tôi nhớ đó là chiếc vớ đen quái gở. Các nhà kinh tế học đã nói rất có lý: Sự dành dụm quá lố sẽ là một mối nguy hiểm cho xã hội!
- Ngoài ra, mỗi năm ở nước ta, có hai hay ba người điên bị chính những bạn đồng bệnh với họ sát hại. Ôi chao! Rốt cuộc ai cũng phải chết vì một điều gì đó! Cậu đã đem người điên của mình đến rồi hả, Groix?
- Vừa mới đây thôi.
- Anh ta mắc chứng ngu độn và không còn kiểm soát được sự bài tiết, - Tillery nói.
- Chúng ta sẽ khám nghiệm… Điều này sẽ đem đến cho cậu những ý kiến có lợi đấy, Vallorge.
Những người điên như anh ta được ở chung trong gian phòng rộng lớn có nhiều giường, tại một khu riêng biệt. Hai người bảo vệ đã mặc cho người bệnh bộ quần áo bằng vải thô mà Tillery và Groix vừa đem đến. Ngồi trên giường một cách thản nhiên, thỉnh thoảng anh ta đưa hai tay bị trói đấm vào mặt mình. Doutreval dừng lại trước mặt anh ta và nhìn anh ta trong một lúc.
- Cha anh ta nghiện rượu nặng, - Tillery nói. - Chi tiết này đã được ghi vào thẻ.
- Tốt!
Xa hớn chút nữa, một người da đen lực lưỡng, hoàn toàn trần truồng, đứng trên giường, phô bày một cố thể rất đẹp, đẹp như một pho tượng đồng được đánh bóng, với những bắp thịt ở ngực và bụng nổi bật. Anh ta nhìn xung quanh bằng ánh mắt đờ đẫn, trong khi một nam y tá lắc mạnh vai anh ta và kéo chiếc chăn xuống cuối giường. Trên tấm ga trải giường, một đống phân hãy còn tỏa hơi nóng.
- Anh ta bị bệnh giang mai, - Groix nói.
- Anh ta có một cơ thể rất đẹp! - Doutreval nhận xét. - Thật đáng tiếc, phải không?
- Không có cách gì chữa trị được sao? - Vallorge hỏi.
- Không thể làm gì được nữa. Anh ta sẽ đi đến tình trạng hoàn toàn không thể kiểm soát được sự bài tiết của mình. Các cậu trông thấy rồi đó, anh ta đã đi đại tiện mà không hay biết. Chúng ta còn nhớ rằng những thiên tài như Maupassant 1, Nietzsche 2 cũng đã chịu số phận của những người mất trí như thế. Phải, nhất là Nietzsche. Các cậu có đọc lá thư cuối cùng ông ta gửi cho bà mẹ không? “Mẹ ơi, mẹ ơi, con đã trở thành một kẻ mất trí!” Một thiên tài tự chứng kiến cảnh suy sụp của mình. Câu nói thê thảm của một người tự biết mình đã bị điên.

1. Guy de Maupassant: Là một nhà văn nổi tiếng người Pháp.
2. Friedrich Nietzsche: Là một nhà triết học người Phổ.


- Người này từ đâu đến? - Vallorge chỉ vào người da den, hỏi.
- Chúng tôi cũng không biết. Chắc là hoàn cảnh đáng thương của anh ta do chiến tranh gây ra. Tuy nhiên, vẫn có một người lo cho anh ta. Một người đàn bà. Phải, một người đàn bà yêu thương anh ta. Bà ấy thỉnh thoảng viết thư đến đây, hỏi thăm tin tức về anh ta. Lạ lùng thật…
Kẻ mất trí đưa đôi mắt to và đen nhìn Vallorge, như thể anh ta vẫn hiểu được. Ở các giường khác, những người điên nhìn các bác sĩ đi qua với vẻ bất động, đờ đẫn. Trong một góc, một người điên rên rỉ, kêu lên thảm thương:
- Mẹ ơi… Mẹ ơi…
Anh ta chỉ còn biết có bấy nhiêu thôi. Anh ta chỉ còn lại cái kỷ niệm đó của thời thơ ấu, anh ta chỉ còn nhớ đến một người đã từng thương yêu và chăm sóc mình, và anh ta tiếp tục gọi người đó. Một anh chàng điên khác, ngồi gần cái bàn, nhúng bàn tay vào trong một chậu nhỏ đựng nước sôi. Vallorge nhìn vết lở loét và cố nén một cái rùng mình. Vết lở loét đã làm hư hết da thịt, thấy rõ cả xương bàn tay. Với một vẻ thanh thản, xa vắng và thản nhiên, người điên nhúng bàn tay vào chậu như thể sự đau đớn không phải là của anh ta. Xa hơn nữa, một cái khung tạo thành bởi những tấm ván xung quanh một cái giường trông giống như một cái chuồng. Bên trong chuồng, sống lay lắt giữa nước tiểu và phân hôi thối là một con quái vật trần truồng, với cái bụng to tướng, tay chân ốm yếu cong queo bởi vô số chỗ bị gãy. Hai bàn chân bị tật của anh ta xỏ trong một đôi vó. Anh ta múa may loạn xạ, kêu lên những tiếng quái đản như tiếng kêu của một con dê. Cái đầu nhỏ xíu, không có trán, cũng không có cả sọ. Nó kết thúc ở ngay chỗ lông mày. Hai con mắt cách nhau một khoảng rất xa, và chúng cũng chưa được cấu tạo một cách hoàn chỉnh, chỉ là hai cái hố màu xanh nhạt và không có con người. Mùi nước tiểu nồng nặc bay ra từ cái chuồng đó.
Một con ruồi đậu lên mắt mà anh ta vẫn im lìm, hai hàng lông mi bất động.
- Đó là Paul Merchant, bị bệnh giang mai và bệnh nghiện rượu di truyền. - Tillery nói.
- Thật buồn cười, một con người như thế cũng có một cái tên… - Vallorge nói.
Doutreval kêu một y tá đến để thay chăn ga cho anh ta.
- Người ta không thể thay nệm cho anh ta quá nhiều lần, - Doutreval giải thích với Vallorge - vì xương của anh ta bở như củi mục. Thỉnh thoảng lại phát hiện ra anh ta có một cái chân hay một cái tay bị gãy và gập lại thành góc vuông. Chúng tôi cố gắng chữa trị cho anh ta. Anh ta chẳng cảm thấy gì cả… Anh ta chỉ chú trọng đến một điều: Thủ dâm, và anh ta không ngừng thủ dâm… Dù sao anh ta cũng tìm ra việc để làm. Có lẽ do một sự tình cờ… Các cậu hãy theo tôi đi ra lối này. Đây là phòng điều dưỡng.
Họ bước vào một căn trại đàng hoàng hơn, sạch sẽ hơn. Regnoult, một thanh niên đẹp trai với mái tóc màu hung uốn cong thành từng lọn, vầng trán rộng và đôi mắt thông minh, chạy ra cửa đón họ.
- Sẵn sàng chưa?
- Sẵn sàng rồi, - Regnoult đáp.
Doutreval bước vào một văn phòng nhỏ, lấy một cuốn sổ và cây bút chì.
- Cuộc thí nghiệm có nhiều điều kỳ lạ, - ông nói với Vallorge. - Hẳn cậu biết những công việc nghiên cứu đầu tiên của tôi về vấn đề này. Từ nhiều năm nay, tiếp bước các nhà bác học như Méduna, Sakel, Nyiro, tôi nghiên cứu một số trường hợp bệnh điên được gọi chung dưới cái tên là tâm thần phân liệt. Chứng này hoàn toàn trái ngược với chứng động kinh. Do đó, tôi có ý nghĩ gây ra ở những người điên đó một cơn động kinh nhân tạo để đem lý trí trở lại với họ. Và cũng vì thế, phương pháp của chúng tôi được gọi là “phương pháp trị liệu bệnh điên bằng cách gây ra một cơn động kinh.”
- Làm sao gây ra được cơn động kinh đó?
- Các phương tiện không thiếu gì, - Doutreval nói.
Ông dừng lại một giây để lấy chiếc áo blouse trắng khoác lên người. Và đưa chiếc áo thứ hai cho Vallorge.
- Một số người đã tiêm cho bệnh nhân một dung dịch long não. Riêng tôi, tôi đã nhanh chóng sử dụng những chất mạnh hơn. Hiện nay, tôi dùng một chất xuất xứ từ methylene, đây là một chất khá phức tạp được chế tạo theo công thức tổng hợp của một nhà hóa học người Đức. Tôi đã thử chất này trên thỏ, chó, mèo và tôi đã gây ra những cơn động kinh nhân tạo tuyệt diệu…
Ông tìm tập phiếu ghi chú, cho Vallorge xem hình chụp những con mèo đang bị co giật một cách ghê gớm.
- Cậu hãy xem đi. Sau cùng tôi đã dám đem áp dụng cho con người. Tôi đã thực hiện cuộc thí nghiệm thứ bốn trăm năm mươi đối với con người.
- Kết quả ra sao?
- Tốt đẹp một cách kỳ lạ. Cậu sẽ được xem các bản thống kê. Có hai trăm lẻ bảy người, bệnh tình thuyên giảm một cách khả quan. Nói chung, tôi đã đạt được bốn mươi lăm phần trăm của sự thành công.
- Thật tuyệt vời! Và ông thật sự gây ra được một cơn động kinh theo ý muốn?
- Cậu sẽ được chứng kiến. Mời cậu đi theo tôi.
Vallorge đi theo Doutreval đến một gian phòng khá rộng, chỉ có một chiếc giường ở giữa phòng, và trong góc phòng có một cái bàn chất đầy chai lọ. Nơi đó, Regnoult, Tillery, Groix và một nam y tá đang chờ đợi. Một người đàn ông trần truồng, ốm tong teo nằm trên giường. Anh ta lặng lẽ nhìn Vallorge và Doutreval bước vào. Các xương sườn không còn một chút thịt, trồi lên hạ xuống theo nhịp thở, và bụng cũng tạo thành những hố lõm sâu. Anh ta khoảng bốn mươi tuổi. Bộ râu nhiều ngày không cạo, mọc tràn lan trên đôi má. Đôi mắt anh ta trông có vẻ rất lo âu.
- Sẵn sàng chưa? - Doutreval hỏi.
- Sẵn sàng! - Regnoult đáp.
Doutreval tiến đến cái bàn nhỏ, lấy một ống tiêm ngâm trong nước sôi, mở nút một cái lọ, đút ống tiêm vào và kéo pít-tông cho thuốc vào đầy. Ông đến bên cạnh giường. Xung quanh ông, các phụ tá trong tư thế sẵn sàng.
- Tiêm dưới da, phải không? - Vallorge hỏi.
- Không. Tiêm vào ven. Nếu tiêm dưới da thì cần phải có một dung lượng thuốc gấp ba lần. Này Regnoult, cậu đã bôi chất hóa học lên người bệnh nhân chưa?
- Như thường lệ.
- Bôi chất gì? - Vallorge hỏi.
- Một hỗn hợp cồn, i-ốt và dầu thầu dầu, được bôi lên khắp cơ thể bệnh nhân. Rồi rắc tinh bột lên.
- Để làm gì?
- Để làm cho ta thấy rõ bất cứ vết mồ hôi nhỏ nào. Khi có một giọt mồ hôi xuất hiện trên da bệnh nhân, thì tại đó liền có ngay một màu tím sẫm. Một phản ứng hóa học bình thường.
- Một phương pháp hay, - Vallorge nói.
- Phải. Chính Groix đã nghĩ ra phương pháp đó.
Doutreval nắm lấy cánh tay của người điên.
- Xem nào!
- Thưa giáo sư, ở chỗ này, - Regnoult chỉ. - Tôi đã đánh dấu ở đó một đường gân thật rõ.
Anh cột nhẹ cánh tay của người điên khiến đường gân nổi bật lên, Doutreval nắm lấy đường gân giữa ngón cái và ngón trở, đâm nghiêng cây kim, ấn nhẹ pít-tông. Nghiêng mình về phía giường, sáu tà áo blouse trắng quan sát và chờ đợi. Vài giây đồng hồ trôi qua. Bỗng nhiên, giọng nói khàn khàn của bệnh nhân vang lên:
- Nghe như mùi dầu hắc…
Anh ta thở ra hai hay ba lần. Một vẻ khó chịu, lo sợ xuất hiện trên nét mặt, mi mắt của anh ta chuyển động lia lịa… Một cái nhăn nhó làm gương mặt co rúm lại. Và thình lình vang lên một tiếng hét:
- Ối! Đau quá! Đau quá!
Gương mặt anh ta co thắt lại. Đôi mắt trợn qua trợn lại một cách thảm hại. Toàn bộ cơ thể bị nhấc lên làm thành một vòng cung, chỉ có sọ và hai gót chân là chạm vào giường. Rồi một sự co thắt khủng khiếp khác ngược chiều với sự co thắt trước, kéo bệnh nhân xuống nệm, tay chân gập cả lại, cằm ghì chặt vào ngực, mạnh đến độ hai hàm răng của anh ta va vào nhau nghe rất rõ. Vallorge thụt lùi lại, hơi tái mặt.
- Hãy ghi chú lại vấn đề này, - Doutreval nói với Regnoult.
Và chính ông cũng viết vội vài dòng vào cuốn sổ, đôi mắt vẫn luôn theo dõi. Người điên hét lên, nước dãi tuôn ra và lưỡi liên tục lè ra thụt vào đều đều. Từ hai lỗ mũi chảy ra một chất nước đặc và đôi mắt lồi ra. Thình lình, người điên ngậm miệng lại rồi há ra, mạnh đến độ làm cho xương quai hàm bị sái, cú thế há hốc treo trên ngực. Người bệnh chậm chạp giơ hai cánh tay và hai bàn chân lên. Các cơ bắp lúc này chỉ còn là những quả bóng; các đường gân giống như những sợi dây chực nảy lên dưới da. Các ngón chân và hai bàn tay cùng mở ra và co giật. Cả người anh ta rung lên bần bật. Vallorge lo lắng nhìn bắp tay của người đàn ông, một thớ thịt co thắt đến mức đứt ra. Bỗng vang lên một tiếng rắc khô khan như tiếng của một khúc cây bị gãy. Và chân trái ở khoảng giữa đùi gấp lại thành góc vuông. Những bắp đùi quá căng đã làm cho xương đùi bị gãy. Và xương cánh tay của bệnh nhân cũng gãy, cùng một tiếng rắc như khúc cây gãy ban nãy.
- Xong rồi… - Doutreval nói, trong khi Vallorge thụt lùi lại.
Cơn co thắt giảm dần. Những mảng lớn màu tím xuất hiện đây đó trên cơ thể người điên, dưới hai cánh tay, ở hai bên bẹn, trên trán, dưới chân.
- Đó là mồ hôi, - Doutreval nhận xét. - Cậu thấy đó, việc bôi chất hóa học lên cơ thể bệnh nhân giúp chúng ta phát giác liền ngay lúc anh ta đổ mồ hôi…
Nước tiểu và phân cùng tuôn ra, và đột nhiên, một luồng tinh dịch vọt ra mà không có dấu hiệu báo trước.
Doutreval nói với giọng bình thản:
- Regnoult, cậu hãy ghi chú điều này! Kìa, anh ta đang khóc. Cuộc thí nghiệm chấm dứt.
Gương mặt kẻ khốn khổ giàn giụa nước mắt, anh ta nằm bẹp gí trên đống phân, nước tiểu, mồ hôi và nước dãi của mình. Cánh tay bị gãy đặt trên vùng ngực nổi đầy những mảng tím. Cái đùi bị gãy duỗi dài một bên, trông kỳ lạ như một con rối bị đứt dây. Những cơn rung giật từ sâu bên trong vẫn còn khuấy động mảng da thịt này. Cái hàm trật khớp làm miệng anh ta há hốc, lưỡi thè ra tím bầm và đẫm máu. Đôi mắt liếc qua liếc lại một cách chậm chạp, đều đều từ phải sang trái, rồi từ trái sang phải.
- Anh ta bị rơi vào tình trạng hôn mê, - Groix giải thích.
- Nếu anh ta không còn thở nữa, hãy làm hô hấp nhân tạo, - Doutreval ra lệnh cho Tillery. - Hãy chuẩn bị chất Lobeline.
Tillery chạy đến chiếc bàn nhỏ, chuẩn bị một cái gì đó. Nhưng bệnh nhân đã dần dần tỉnh lại. Anh ta bắt đầu thở thật sâu, hai hay ba lần nhìn xung quanh bằng ánh nhìn sợ sệt, và thốt lên tiếng kêu kinh hãi, cố gắng ngồi dậy, định chạy trốn. Groix giữ lấy hai vai anh ta. Ngồi giữa đống phân với những cái nấc cụt nặng nề, người điên bắt đầu nôn ói. Tuy nhiên, Doutreval cố gắng tạo ra những phản xạ nơi cơ thể bệnh nhân: thọc lét gan bàn chân, gõ lên đầu gối của anh ta, và ghi chú.
- Thế nào? - Doutreval hỏi Vallorge khi đưa anh ta ra xe hơi. - Cậu thấy sao về cuộc thí nghiệm này?
- Thật đáng sợ, - Vallorge vừa nói vừa đưa chiếc khăn tay bằng vải phin lau gương mặt đẹp hôm nay hơi tái xanh của mình.
- Phải… Nhưng ở đây chúng tôi bắt đầu quen với những cuộc thí nghiệm như thế.
- Còn bệnh nhân? Anh ta có nhớ được gì không?
- Họ rất sợ hãi. Hầu như chúng tôi không thể thuyết phục anh ta tiếp tục chữa trị, nếu ngay từ cuộc thí nghiệm đầu tiên, bệnh trạng của anh ta không được cải thiện một cách rõ rệt.
- Đó là một điều bất tiện…
- Dĩ nhiên. Nhưng tôi đã nói với cậu rồi, sự cải thiện đã lên tới bốn mươi lăm phần trăm.
- Còn vấn đề gãy xương?
- Dĩ nhiên, đó là điều đáng buồn. Nhưng theo ý tôi, chữa lành một người điên với giá một cái chân hay một cánh tay bị gãy, vẫn còn lãi chán.
- Đúng! - Vallorge nhận định. - Một cái xương dài bị gãy hay quai hàm bị sai khớp chẳng có gì quá nghiêm trọng!
- Hơn nữa, tỉ lệ gãy xương chỉ chiếm ba phần trăm các cuộc thí nghiệm. Tuy thế, có lần đã xảy ra một vụ cổ xương đùi bị gãy đến hai lần. Đúng là trở ngại. Tôi đã nghĩ đến việc gây hôn mê bằng chất insuline trước lúc cơn động kinh xảy ra. Tôi hy vọng rằng trên một cơ thể bị chìm trong tình trạng hôn mê, tác dụng của chất thuốc gây ra chứng động kinh sẽ kém dữ dội hơn. Cho đến nay, tôi vẫn chưa thành công. Nhưng tôi đang tiếp tục nghiên cứu… Dẫu sao, ngay từ bây giờ, tôi nghĩ rằng những kết quả đạt được rất đáng khích lệ, phải không?
Doutreval đưa Vallorge băng qua dưỡng trí viện đến tận xe hơi. Dọc đường, họ gặp đó đây một người điên đang đi lang thang, miệng nói lảm nhảm hoặc đang cuốc đất và làm vườn cho ban quản trị. Nhiều người chào Doutreval và mỉm cười với ông. Ông bắt chuyện với một anh chàng nhỏ thó, có gương mặt vui vẻ.
- Này, Vallorge, đây là Nénesse, anh chàng mang chứng hoang tưởng. Thế nào, Nénesse? Các giọng nói của anh bây giờ thế nào?
Người đàn ông giơ một ngón tay lên:
- Chúng vẫn nói luôn luôn.
- Còn con rắn của anh?
Nénesse chỉ vào bụng mình:
- Nó vẫn ở trong đó. Lại thêm những con nhện nữa, chúng băng qua tôi, từ tai bên này qua tai bên kia…
- A!
- Phải. Nhưng bây giờ tôi nuốt chúng vào bụng. Như thế tốt hơn.
- Tốt hơn nhiều! - Doutreval nói.

Image
Last edited by bevanng on 02 Oct 2022, edited 1 time in total.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Thể Xác Và Tâm Hồn - Maxence Van Dek Meersch

Postby bevanng » 30 Sep 2022

Rồi Nénesse nói về cuộc cách mạng và về bầu trời. Anh ta giải thích rằng, trong lúc này, có thể anh ta đang nhỏ lại, và muốn khoe của quý của mình cho hai người xem!
- Khỏi cần, - Doutreval nói. - Còn vợ của anh?
- À! Đúng rồi, tôi có nhận được một lá thư.
Anh ta lấy ra một tờ giấy có vẻ bẩn. Doutreval đọc to:

“Anh bạn nhỏ bé thân ái của tôi ơi, lá thư vừa rồi của anh đã làm cho cả nhà cười bể bụng, nhưng chúng tôi không hiểu hết những gì anh muốn nói. Ở nhà, mọi chuyện đều tốt đẹp. Thằng bé Léon của chúng ta sẽ đi làm. Hy vọng bệnh trạng của anh sẽ tiếp tục thuyên giảm, và anh sẽ trở về nhà vào mùa đông năm nay…”

Kẻ khốn khổ nhìn hai người và mỉm cười.
- Bệnh giang mai, - Doutreval nói trong lúc bước đi cùng với Vallorge. - Chỉ trong một năm nữa, anh ta sẽ phải ở chung trại với những người điên không thể kiểm soát được sự bài tiết của mình. Này, còn kia là người lúc nào cũng mang các huy chương.
Một ông già ăn mặc tươm tất mang một sợi dây huy chương ở nút áo, tiến đến chỗ hai người.
- Chào ông bác sĩ!
- Anh có khỏe không? - Doutreval hỏi.
- Rất mạnh khỏe! Sức khỏe của tôi tốt đến độ tôi không hiểu vì sao người ta còn bắt tôi phải ở lại đây!
- Vì sao anh không chịu ăn uống?
- Đó là quyền của tôi. Hơn nữa, người ta lại cho tôi uống một thứ nước dơ bẩn gì đó… Bây giờ tôi thấy buồn nôn!
Doutreval cười, giải thích với Vallorge:
- Đó là ba mươi gam dầu thầu dầu! Khi họ bướng, không chịu ăn uống, tôi cho họ nếm thứ đó! Không nguy hiểm gì! Và điều này sẽ khiến họ không dám tái diễn trò đó nữa.
- Ngoài ra, tôi không còn nhận được tin tức gì của con gái tôi nữa! - Ông già nói tiếp.
- Có chứ! Cô ấy có viết thư cho tôi. - Doutreval nói.
- Tôi chẳng biết gì cả. Nhưng điều chắc chắn là tôi không bao giờ được gặp lại nó nữa!
Doutreval rời ông già, kéo Vallorge đi.
- Ông ấy có một người con gái à? - Vallorge hỏi.
- Phải, đã có chồng. Cô ta không thể chăm sóc ông ấy ở nhà được, vì khi lên cơn, ông ấy rất hung dữ.
- Một ngày nào đó, ông ấy có thể gặp lại con gái của mình không?
- Có thể. Khi ông ấy không còn tự chủ trong việc bài tiết và không còn nguy hiểm nữa, nhưng đồng thời cũng không còn biết gì cả. Vả chăng lúc đó, cô con gái có còn muốn chăm sóc ông ấy không? Nói chung, những đứa con không thích chăm nom một người cha như thế! Bạn thân mến, ở đây người ta không còn muốn tin vào một điều gì nữa. Nơi đây, sự thất vọng và sự chán nản ngự trị hoàn toàn.
- Ông có bao nhiêu bệnh nhân ở đây?
- Ba ngàn người, và con số đó cứ tăng lên mãi. Dưỡng trí viện thì quá nhỏ. Tất cả những dưỡng trí viện ở Pháp đều quá nhỏ. Kể cho cậu nghe những con số cũng vô ích, điều này chẳng nói lên được cái gì. Nhưng cậu hãy nghĩ rằng nếu số người điên tiếp tục gia tăng như hiện tại thì, chừng hai thế kỷ nữa, trái đất này chứa toàn những người mất trí! Do đâu mà loài người bị suy tàn đến thế? Lý do rất đơn giản: rượu và bệnh giang mai. Món thứ nhất thường là nguyên nhân gián tiếp của món thứ nhì. Năm trăm ngàn quán rượu ở Pháp! Trong những xứ lân cận, một người dân chỉ uống từ ba đến bốn lít mỗi năm, còn người Pháp uống tới mười lăm lít! Và quốc hội lại vừa chấp thuận cho mở thêm hai mươi ngàn quán rượu mới! Chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Người chủ quán là người cử tri có nhiều thế lực… Chính quyền Pháp là một “chính quyền của những quán rượu”…
Vallorge và Doutreval chia tay nhau, cả hai đều rất mến nhau. Ông bác sĩ già mời cậu bác sĩ trẻ đến dự bữa ăn tối ở nhà ông vào tuần sau.

Doutreval sắp xếp lại các ghi chép của mình, phân phối công việc ngày mai cho các phụ tá và sinh viên nội trú. Xong việc, ông lấy xe hơi trở về Angers. Ông để xe ở phía sau Vũ đình trường thành phố, đi bộ về phía văn phòng của tờ Tiến bộ xã hội, tờ báo lớn nhất trong vùng mà Jeanne Chavot là thư ký tòa soạn. Mặc dù đi khập khiễng nhưng thân hình cao thon, với bộ com-lê màu xám cắt rất khéo làm tăng thêm nét thanh lịch của ông. Ngay lúc đó, có nhiều người phụ nữ quay lại nhìn theo ông.
Doutreval kết hôn từ khi còn trẻ, đã góa vợ hơn mười lăm năm nay. Vì các con, ông không chịu đi bước nữa. Là người hay hoài nghi, trong thâm tâm ông tin vào sự hư vô của mọi thứ đồng thời với sự cần thiết phải che giấu triết lý bi quan này khỏi những điều thô tục. Ông là một trong số những con người trung thực mà đối với họ, chính sự trung thực của bản thân lại là điều phi lý, và họ sống trong sự ngay thẳng tương đối mà họ gọi là một điểm yếu. Mơ ước của Doutreval là có thể bóp nghẹt ý thức trong mình. Nhưng chưa bao giờ ông đạt được điều đó một cách trọn vẹn.
Từ thời sinh viên, Doutreval đã là niềm hy vọng của các ông thầy. Ông được giải thưởng khoa học trong kỳ thi tuyển toàn quốc, là sinh viên y khoa nội trú chiếm giải thưởng của các bệnh viện ở Paris, được giao quản lý cả một ban ngành của bệnh viện Saint-Louis. Doutreval đã xuất bản một luận văn rất nổi tiếng về phương pháp trị liệu chứng sốt rét. Ông chuẩn bị thi lấy bằng thạc sĩ y khoa và bằng quản lý dưỡng đường. Nhưng đúng lúc đó, ông gặp phải một đối thủ lợi hại là con trai của ông thầy mình. Giáo sư Lechesne phải ưu tiên ủng hộ con trai. Ông ta giải thích điều đó và để đền bù cho Doutreval, ông giao cho Doutreval một nhiệm vụ nghiên cứu khoa học tại Đức. Lechesne có thế lực rất lớn trong chính phủ. Thế là Doutreval, lúc ấy đã có hai con: Mariette và Michel, lên đường sang Đức. Tại đó, ông quen biết với nhiều nhà hóa học. Khi ông trở về, con trai của Lechesne đã bảo vệ xong bằng thạc sĩ. Hai năm sau, Lechesne ủng hộ cho Doutreval đậu thạc sĩ. Trong lúc này, ông đã bắt đầu nghiên cứu cách trị bệnh điên bằng phương pháp co giật.
Chiến tranh làm ông phải ngưng các công cuộc nghiên cứu trong một thời gian. Rồi vợ ông qua đời khi bà sinh Fabienne. Nhưng chiến tranh làm cho Doutreval không còn tâm trí để nghĩ đến nỗi đau khổ của mình. Ông được bổ nhiệm vào một nhóm y tế ở mặt trận, đầu gối lãnh một miếng đạn trái phá, khiến ông phải đi khập khiễng, rồi rời khỏi chiến trường với tư cách bác sĩ quân y tại Val-de-Grâce. Sau chiến tranh, ông tiếp nhận ghế giáo sư thần kinh học tại Angers, thành phố quê hương, và tiếp tục những công trình nghiên cứu của mình. Giờ đây, ông tự nhủ bản thân đã đến đích.
Doutreval dự định sẽ gả cưới Mariette trong hai hay ba năm nữa. Đó là một cô gái thực tế và vui vẻ. Cô học ít một chút và không chú trọng mấy đến khoa học… Nhưng sự trung thành và tình thương thì khỏi phải nói. Riêng Michel, anh sẽ tiến xa trên con đường công danh. Anh có vẻ quá liều lĩnh, quá say mê những thú vui. Nhưng anh cần phải tận hưởng tuổi trẻ của mình. Hơn nữa, là một thanh niên theo chủ nghĩa duy vật và có tính hoài nghi, anh không để mình bị lệ thuộc vào những gò bó, lạc hậu. Với sức mạnh đó, chắc chắn anh sẽ có được một cuộc sống phong phú và huy hoàng mà cha anh từng mơ ước cho chính mình nhưng không dám thực hiện. Biết được trò hề của đạo đức là gì, hiểu rõ từ khi còn trẻ rằng mọi nghệ thuật chẳng qua đều là để giữ thể diện, đó quả là một sức mạnh! Sức mạnh ấy, Doutreval, không thể có nó đủ cho bản thân, đã từ từ, kín đáo, bí mật để con trai mình thấm nhuần nó. Đôi khi ông có cảm giác rằng Michel, dù không nói ra, hiểu được điều đó. Và ngay cả những sự vượt quá giới hạn của chàng trai trẻ, bị khiển trách công khai, cũng không phải là không ngấm ngầm khiến trái tim Doutreval sung sướng trong sự mãn nguyện thầm kín. Ông khâm phục Michel về một vài sự cứng rắn, thái độ bất cần, khinh ngạo với đàn bà cũng như đối với nền luân lý cổ xưa, điều mà chính ông không thể nào làm được. Ông tự nói với mình, trong một niềm vui pha lẫn sợ hãi:
- Thằng đó sẽ thành công hơn mình nhiều.
Còn con gái út Fabienne, là niềm vui của ông. Cô rất thông minh và kiêu hãnh, nghĩa là rất giống ông. Ông thích có cô bên cạnh. Tuy còn nhỏ, cô đã giúp ông một cách đắc lực. Ông xem cô như là một nữ phụ tá có giá trị.
Tòa nhà của tờ báo chiếm trọn một góc của Vũ đình trường. Trong bóng tối của ngày đã tàn, nổi bật những hàng chữ bằng ánh sáng điện chạy trên tiền đình của tòa báo, một loại quang báo mà đám đông dừng lại để đọc, khi đi ngang qua:

“Ông Olivier Guerran, đại biểu của Angers, Bộ trưởng Bộ Canh nông, đã tiếp một phái đoàn đại diện cho những người trồng nho trong vùng…”

Doutreval tiến vào phòng ngoài của tòa nhà rộng lớn dùng làm tòa soạn, len lỏi giữa những người rảnh rỗi đang đọc báo mới dán trên tường. Đi theo một chiếc cầu thang kín đáo, ông leo lên lầu hai, gõ vào cánh cửa có ghi mấy chữ “Phòng thư ký” và bước vào. Ông trông thấy Jeanne Chavot ngồi một mình trong một góc của căn phòng bề bộn sách vở và các tập hồ sơ. Bà ngước mặt lên. Một thứ ánh sáng chói chang phát ra từ những bóng đèn diện soi sáng gương mặt mệt nhọc dưới lớp phấn hồng.
- Anh đấy à? Vẫn khỏe chứ?
- Vẫn khỏe! - Doutreval đáp, đẩy chồng giấy tờ trên ghế sang một bên để có chỗ ngồi.
Jeanne Chavot ba mươi chín tuổi, góa chồng và không có con. Doutreval là bạn của bà từ năm năm nay. Ra khỏi vài cuộc phiêu lưu tình cảm khá khó chịu và suýt chút nữa khiến ông mất đi tự do, ông hài lòng khi gặp được bà. Cho dù bằng giá nào đi chăng nữa, ông cũng không muốn có một cuộc hôn nhân mới khiến các con mình rơi vào cảnh mẹ ghẻ con chồng. Và Jeanne Chavot, cũng đã góa chồng, không có con cái, yêu vô cùng sự độc lập của bản thân nên không dại gì đánh mất nó. Hơn nữa, thật khó cho bà nếu phải từ bỏ vị trí quản lý quan trọng và thú vị mà bà đang đảm nhiệm tại tòa báo.
Hai người nói chuyện với nhau một lúc lâu. Jeanne Chavot vừa tiếp một bác sĩ nổi tiếng ở Paris. Ông này đề nghị sẽ trả năm mươi ngàn franc nếu bà đăng một bài báo nói về phương pháp của ông ta: mang lại sự trẻ trung cho con người bằng huyết thanh bò đực. Rồi họ nói đến việc nghiên cứu của Doutreval, đến việc quảng cáo về ngành y, đến những tờ báo lớn ở Paris mà cổ phần ở trong tay những hiệp hội dược khoa và do đó, những hiệp hội này dễ dàng đầu độc dân chúng bằng những lời láo toét. Rồi, cũng như những lần khác, Doutreval lại trở về vấn đề các cuộc tìm tòi khoa học của chính ông. Lúc sáu giờ, người ta đem lên cho Chavot một bữa ăn nhẹ, gồm có nước trà, thịt nguội và các lát bánh mì có phết bơ. Hai người cùng ăn với nhau. Sau đó, Doutreval đứng lên, ra về.
- Anh về nhà tối nay à?
- Không. Anh có công việc phải làm.
Ông hôn lên trán bà. Bà đưa ông ra đến tận cầu thang, rồi trở vào bàn giấy của mình. Điều quan trọng nhất mà ông muốn tìm kiếm nơi Jeanne Chavot là có một người bạn gái để nghe những lời tâm sự của ông, những ước mơ mà ông muốn thực hiện.
Ông trở về nhà qua lối phòng thí nghiệm nằm cách biệt với ngôi nhà bởi một khu vườn rộng, và hướng ra một con phố nhỏ. Phòng thí nghiệm sáng trưng ánh đèn, Groix và Regnoult có mặt ở đó. Doutreval ra khỏi phòng, băng qua khu vườn tối đen, chỉ có một vệt ánh sáng nhỏ từ trong bếp rọi ra. Ông bước vào nhà phụ, gặp Mariette đang ngồi trên ghế, tay ôm một con gà trống già đang đứng trên đầu gối của cô.
- Con làm gì thế?
Mariette ngước nhìn. Gương mặt hồng hào của cô lòa xòa vài sợi tóc màu vàng. Cô lau trán.
- Con đang chăm sóc cho Titi. Nó bị một mảnh chai găm vào chân.
Con gà trống già Titi, mấy con chó, mấy con gà mái và bầy bồ câu là những bạn thân của Mariette.
- Ba đoán chắc là con đã chuẩn bị xong món bánh mứt.
Cô nhìn vào đôi cánh tay tròn trịa của mình, trên đó có một chút bột còn dính trên những sợi lông tơ.
- Vâng! Con làm bánh nhân táo. Bố sẽ được ăn tối nay. Đang nướng rồi. Chị nấu bếp đang trông chừng chúng.
- Thật là tuyệt!
- Ba ăn rất khỏe! Michel giống ba ở điểm đó! Titi! Titi! Mày chịu nằm yên chứ? Ba giúp con một tay đi ba!
Cô cố gắng giữ chặt con vật đang sợ hãi đập cánh và cào cào vào mặt cô. Doutreval nắm chặt Titi và giơ cái chân bị thương của nó cho Mariette. Cô nghiêng đầu dò xem chiều sâu của vết thương. Mái tóc của cô cạ vào mặt ông và ông ngửi thấy mùi mồ hôi nhẹ của cô pha lẫn với mùi thơm dịu của hoa oải hương mà cô thường thích đặt vài nhánh vào áo trong.

Image


- Thế là xong rồi! Cảm ơn ba! Nào Titi, bây giờ hãy gáy lên!
Cô nắm chân Titi và cho nó đậu lên vai mình. Titi đưa đôi mắt tròn nhìn những cái răng trắng ngà của cô một cách thèm thuồng và tìm cách mổ chúng. Mariette cười giòn tan. Doutreval nhìn con gái mình nở nang và mạnh khỏe, với mái tóc mịn màng lấm tấm những giọt mồ hôi nhỏ ở chân tóc. Ông nhìn gương mặt tươi trẻ, hai hàm răng duyên dáng của cô. Người cô toát ra - cùng với mùi hoa oải hương giản dị của đồng quê - một cái gì như hương thơm của sức khỏe, của lòng ngay thẳng, một cái gì khiến người ta nghĩ đến thiên nhiên. Cô tựa như một đóa hoa đồng nội. Một cây ô liu nhỏ bé. Phải rồi. Cô không phải văn nhân, cũng không phải là một nhà bác học. Cô không có gì giống Fabienne và Michel. Không có gì phức tạp hay đặc biệt cả, mà chỉ là một cây non mạnh mẽ, quê mùa và ngay thẳng, được mọc lên vững chắc trên mặt đất. Một cơn xúc động kỳ lạ siết chặt trái tim Doutreval.
- Nào, con đúng là một cô bé ngốc!
Ông hôn cô. Titi vỗ cánh và buông ra những tiếng kêu sợ hãi. Doutreval đi sang phòng thí nghiệm gặp Groix và Regnoult, trong khi Mariette quay lại trông chừng những chiếc bánh.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Next

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 25 guests