Những Bài Viết Ngắn Chọn Lọc (Sưu Tập)

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Re: Những Bài Viết Ngắn Chọn Lọc (Sưu Tập)

Postby bevanng » 21 Apr 2018

Người Đàn Bà Trong Gương


Sáng nay chị dậy muộn hơn mọi ngày. Tối qua chồng chị lại không về. Ngoài vườn cây cối ủ rũ vì rét.
Mấy hôm trước lũ chim hót ríu rít, vậy mà hôm nay chị không nhìn thấy con nào. “Chắc hôm nay chủ nhật chúng chưa ngủ dậy!”. Chị bật cười vì ý nghĩ ngồ ngộ của mình.
Chị bước tới bàn trang điểm. Người đàn bà trong gương làm chị giật mình. Người ấy lên tiếng:
- Chào bạn! Sao hôm nay nhìn bạn hốc hác thế?
- Tối qua mình mất ngủ.
- Thức đêm là kẻ thù của sắc đẹp phụ nữ đấy.
- Mình biết, nhưng mình không thể chợp mắt được. Mình không muốn uống seduxen.
- Sao bạn không ngủ được?
Người đàn bà trong gương tò mò hỏi. Chị còn đang phân vân, người ấy đã lên tiếng:
- Đừng ngại. Tôi có thể chia sẻ và giữ bí mật cùng bạn. Bạn có biết rằng từ lâu tôi đã rất yêu quý bạn không?
Chị nhìn người đàn bà trong gương ngờ vực. Cuộc đời đã dạy cho chị biết cách không tin tưởng. Khuôn mặt vừa quen vừa lạ trong gương nhìn chị đăm đăm. Cũng đôi mắt với hàng mi dài, cong vút, chiếc mũi thanh thoát và đôi môi có khóe miệng hơi vếch lên như đang cười… nhưng tất cả những đường nét ấy đều vô hồn, rời rạc. Chị im lặng. Người đàn bà trong gương cũng không nói gì. Chỉ có gió ngoài vườn lao xao.
Chị với chiếc lược chải đầu. Người ta đua nhau đi nhuộm tóc, làm đầu theo mốt Hàn Quốc, chị vẫn giữ nguyên mái tóc đen, dài. Mấy năm trước, mái tóc là niềm tự hào của chị. Chồng chị chê mái tóc quê mùa. Chị cũng đâm ra ghét nó.
Chị rời khỏi gương. Chăn màn của chị xộc xệch, nhàu nhĩ. Chị chỉ ngủ một mình. Vậy mà có lần vắng nhà chị đã nghi ngờ chồng chị không chung thủy.
Chị khe khẽ hát. Tâm trạng chị đã vơi đi phần nào. Chị dọn dẹp nhà cửa, giặt giũ chăn màn… Làm việc gì chị cũng nghĩ đến chồng, hy vọng khi về anh sẽ rất vui. Chị đi chợ, nấu những món ăn ưa thích. Chị không bao giờ ăn thịt chim bồ câu, chị không chịu nổi khi nhìn vào mắt chúng. Ánh mắt hiền dịu, tội nghiệp như van xin của bồ câu khi bị giết làm cho những người có lòng trắc ẩn nao lòng. Nhưng vì chồng, chị sẵn sàng làm tất cả. Trưa nay, chị đã nhắm mắt lại khi bóp mũi chết ba con chim bồ câu. Chị cố gắng nghĩ đến gương mặt thỏa mãn của chồng khi ăn. Đồng hồ điểm mười hai giờ. Chồng chị vẫn chưa về. Chị ngồi bên mâm cơm đã dần nguội.
Chị đứng dậy, đi đi lại lại trong phòng. Người đàn bà trong gương nhìn chị. Người đó không còn vẻ tiều tụy như ban sáng, thay vào đó là khuôn mặt đã được trang điểm, ưa nhìn, duy chỉ có đôi mắt màu tuyệt vọng. Trưa nay, chồng chị lại không về. Chị không gọi điện vì đã quen với hoàn cảnh. Ngày trước, chị cũng đã từng lồng lộn, điên cuồng gọi điện cho chồng, đi tìm anh khắp nơi, nhưng anh lạnh lùng bảo chị không phải làm như vậy, khi nào thích anh sẽ về. Ngày không về, đêm anh cũng không về. Hồi mới cưới, một tuần anh chỉ một ngày hoặc một đêm không về; dần dần con số ấy tăng lên tỷ lệ nghịch với tình cảm. Dường như chồng chị không còn yêu chị; anh đã có người đàn bà khác, nhưng vẫn không muốn mất chị. Trong tình yêu, đàn ông đa tình nhưng không chung tình, đàn bà chung tình nhưng tuyệt tình. Chị cảm thấy khó có thể yêu người khác. Chị quá yêu chồng. Tình yêu không được đền đáp, chị uống thuốc ngủ để tìm đến cái chết, đúng hôm đó chồng chị về, kịp đưa chị vào viện.
Sau cái chết không thành, chị trầm lặng hơn. Chị cố gắng sống với hoàn cảnh thực tại của mình. Chị không muốn chia tay, chồng chị cũng vậy. Cả hai đều muốn giữ vỏ gia đình hạnh phúc, không muốn những người thân của mình đau khổ. Bố mẹ chị và anh đều đã già. Chị sẵn sàng hy sinh bản thân vì hai chữ Bình An của hai gia đình. Chị tự an ủi mình rằng nhiều người phụ nữ khác còn khổ hơn chị, người nai lưng kiếm tiền, người bị chồng đánh đập, người mắc bệnh hiểm nghèo… Người ta cứ mãi đấu tranh cho việc nam nữ bình quyền, song chị nghĩ ở thời nào cũng vậy, phụ nữ đều phải chịu thiệt thòi, hy sinh. Cũng như họ, lâu ngày chị sống quen trong cái khổ nên không biết mình khổ.
- Thôi đi ăn cơm đi. Muộn rồi, anh ấy không về đâu.
Người đàn bà trong gương lên tiếng làm chị giật mình.
- Mình không thấy đói.
- Nhưng vì sắc đẹp và đảm bảo sức khỏe, bạn phải ăn. Đấy là hai điều quý giá nhất của người phụ nữ. Bạn không nên vì một người đàn ông mà hủy hoại mình. Bạn sẽ sống như thế này đến bao giờ?
- Mình không biết, nhưng mình chịu đựng được.
- Thật vớ vẩn. Người phụ nữ như bạn đáng ra phải được hưởng hạnh phúc, đằng này bạn sống mà như không, bạn đang chết dần đấy. Hãy tỉnh táo lên đi Hoài ơi. Bạn có thể chịu đựng được năm năm, mười năm, thậm chí lâu hơn, nhưng chắc rằng bạn không thể sống một đời như vậy. Bạn hãy chia tay và làm lại từ đầu trong khi bạn đang có cơ hội. Bạn còn trẻ, còn sắc đẹp…
- Không, mình không thể.
- Tùy bạn. Tôi không còn gì để nói với bạn nữa.
Nói rồi người đàn bà trong gương biến mất. Đã ba năm nay, kể từ ngày lấy chồng, chị luôn phải sống những tháng ngày buồn tẻ, chị nhiều lần độc thoại với chính mình mà chưa tìm thấy lối thoát. Nhiều đêm không ngủ được, kể cả những đêm có chồng hoặc vắng chồng, chị đi lang thang trong vườn, ngồi bên cạnh bờ ao cho tới sáng. Chồng chị không hề tỉnh dậy đi tìm chị.
Chị đã nhiều lần đối diện với cô đơn, nhưng lần này đây chị thấy cô độc lên đến đỉnh điểm. Chị biết rằng, những khi đối diện với chính mình, độc thoại với bản thân là khi buồn bã nhất, cô quạnh nhất như nàng Kiều ở lầu Ngưng Bích. Soi vào mình, cảm nhận được sự cô đơn cùng cực, dự cảm những ngày kế tiếp đầy giông tố.
Những lời của người đàn bà trong gương lại vang lên trong đầu chị. Đây không phải lần đầu tiên người đó nói như vậy với chị. Chị không nhận ra trời đã tối từ khi nào. Lúc này chị mới cảm thấy đói. Nhìn mâm cơm chị bật khóc. Chị không hiểu mình khóc cho mấy con chim xấu số kia hay khóc cho bản thân chị? Lâu lắm rồi chị mới lại có cảm giác ấy.
Nửa đêm chồng chị về. Khác với mọi ngày, chị không dậy mở cửa. Anh có chìa khóa riêng nên tự mở cửa vào nhà. Chị vẫn nằm im, giả vờ như ngủ say. Chồng chị thay quần áo và quẳng lên ghế. Anh lên giường, ngó qua chị rồi nằm xuống bên cạnh. Một lát sau, anh đã chìm vào giấc ngủ vô tâm.
Ánh ban mai chiếu qua khe cửa báo hiệu một ngày đẹp trời. Chị rón rén bước qua người anh, với tay khoác chiếc áo choàng lên người. Chị bước ra vườn. Trời xanh ngát. Một quả hồng rơi ngay sát chân chị. Chị nhặt lên ngắm nhìn. Vỏ của nó màu chín vàng, ngon ơi là ngon. Nhưng biết đâu đấy, bên trong nó lại chát đắng, cũng như cuộc sống của vợ chồng chị. Chị nắm chặt, vung tay ném trái hồng ra xa…
Trần Thị Ngọc Hiền
Last edited by bevanng on 12 Feb 2023, edited 1 time in total.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong, Thuvang

Re: Những Bài Viết Ngắn Chọn Lọc (Sưu Tập)

Postby bevanng » 21 Apr 2018

Một Bộ Sử Loài Người Rút Ngắn Thành Một Câu


Ngày xưa có một nhà vua, tuổi quá ngũ tuần rồi mà chưa được xem một quyển sách nào. Bộ sách ông thèm khát được đọc là bộ “Lịch sử loài người”; nhưng khốn nỗi, cuộc đời ông từ mái đầu xanh cho đến tóc điểm bạc, không lúc nào ông được rảnh rang.
Đời ông luôn luôn sống trên mình ngựa, nằm sương gối tuyết bên bãi chiến trường. Nay chinh phục nước này, mai ngăn chận nước kia xâm lấn. Mắt ông toàn nhìn thấy sắt và máu lửa, không bao giờ hân hạnh được nhìn trọn một chương sách của thánh hiền. Ông rất ân hận.
Nay nước nhà hòa bình và cuộc chiến đấu phải nhường cho một thế hệ mới: thế hệ trẻ hơn ông. Ông định xem cho kỳ được bộ sử loài người để tìm xem con người xưa nay sống để làm gì? Đó là điều mà ông thường băn khoăn và tò mò muốn biết rõ. Nhưng thảm thay, tuổi ông cao, mắt ông mờ mà bộ lịch sử loài người, nhìn mà phát khiếp.
Sách toàn là những mảnh da trâu dày cộm, chất dẫy đầy trong hàng chục gian nhà của viện Tàng cổ. Nhà vua làm sao đọc hết được một bộ có hàng trăm quyển như thế? Ông bảo viên sử thần già:
- Đời trẫm chỉ có một điều mong muốn là đọc được bộ lịch sử loài người trước khi nhắm mắt theo các tiên vương, nhưng trẫm đã già mà bộ sử thì quá nhiều, vậy hiền khanh cố chìu ý trẫm là rút ngắn bộ lịch sử ấy chỉ còn độ phân nửa có được không?
Viên sử thần tâu:
- Được. Nhưng hạ thần xin bệ hạ cho thêm 50 người phụ giúp…
Nhà vua tươi cười, ngắt lời:
- Bao nhiêu người cũng được. Tùy hiền khanh chọn lựa.
Viên sử thần lại tâu:
- Hạ thần xin đội ơn bệ hạ. Nhưng thời gian quyết định 10 năm mới làm xong.
Nhà vua bỗng sa sầm nét mặt, lẩm bẩm tính:
- Năm nay ta đã 55 tuổi, 10 năm nữa, ta sẽ 65 tuổi. À, 65 tuổi trẫm sẽ đọc được bộ lịch sử loài người. Kể ra muộn. Nhưng muộn còn có hơn không.
Thế là viên sử thần già nhận chức Trưởng ban tu sử, cầm đầu một ủy ban gồm 50 người nỗ lực bắt tay vào việc.
Bộ sử viết bằng da trâu nằm yên bấy lâu trong viện Tàng cổ nay bỗng chốc được người nâng dậy, giở từng mảnh, từng chương, lục soạn, thảo tra. Bị xốc lên tuôn bụi mịt mù chẳng khác bãi sa mạc đương cơn gió lốc. Mùi bụi bặm hôi ẩm nồng nặc bắt mọi người phải nghẹt thở nôn ọe. Nhưng ai cũng phải chịu đựng cố gắng.
Họ tự an ủi vì mạng lệnh của nhà vua; và vì đây là một công trình vĩ đại đối với hậu thế. Công việc làm gian lao của người trước đổ cho người sau hưởng lấy và tiếp tục xây dựng hoàn thiện. Đó là công việc đồng lân. Chớ muốn biết lịch sử loài người mà phải đọc cả hàng tá quyển đựng trong hàng chục căn nhà thì phỏng còn ai muốn biết cái lịch sử loài người là cái quái gì cho phải khổ thân.
Trải qua ngày tháng năm, ủy ban tu sử cặm cụi làm việc ngày đêm bất kể. Ông Trưởng ban tu sử lưng càng còm, và mắt càng lờ dưới đôi kính trắng đã mấy lần thay đổi.
Mười năm qua, bộ sử hoàn thành còn 50 quyển.
Một sáng sớm, ông Trưởng ban tu sử cho chở bộ sử trên 10 thớt tượng to khệ nệ vào triều, dâng lên vua. Nhà vua chóa mắt thở dài, bảo:
- Công lao của hiền khanh thật to. Nhưng đáng tiếc trẫm đã già, sức mòn mỏi mà đối với bộ sử còn quá nhiều, trẫm không đủ sức đọc được. Vậy phiền hiền khanh chịu khó rút gọn lại còn độ 5 quyển được không?
Vị Trưởng ban tu sử tâu:
- Được. Nhưng hạ thần năm nay đã ngoại thất tuần rồi, hạ thần e rằng không còn đủ ngày giờ sống để hoàn thành bộ sử cho bệ hạ xem nữa. Điều này, hạ thần rất lấy làm lo ngại.
Nhà vua vuốt chòm râu bạc, mỉm cười:
- Điều lo ngại của hiền khanh chẳng khác nào điều lo ngại của trẫm. Trẫm năm nay đã 65 tuổi, vì hồi trẻ lao tâm lao lực quá nhiều, ngày thấy càng suy nhược. Trẫm nghĩ không biết trẫm còn sống để hân hạnh nhìn lấy cái kết quả vẻ vang của hiền khanh đây nữa. Nhưng trẫm không chán nản, bi quan. Vậy hiền khanh khá vì trẫm mà cố gắng hoàn thành bộ sử trong thời gian 5 năm, để trẫm biết lịch sử loài người sống để làm gì trước khi trẫm yên dạ nhắm mắt.
Viên Trưởng ban tu sử vâng vâng dạ dạ, bái tạ lui về.
Thế là ủy ban tu sử lại nỗ lực tiếp tục làm việc. Họ quên cả ngày đêm, lơi cả ăn ngủ. Họ gìn từng giờ, tiếc từng phút, tiện từng giây.
Năm năm, bộ sử hoàn thành còn được 5 quyển. Những ủy viên tu sử bây giờ, người nào cũng ốm gầy như cây khô, mặt mày võ vàng như sắp chết. Còn ông Trưởng ban tu sử thì râu tóc như bông, lưng còm cơ hồ sát đất, giọng nói khàn khàn, tay chân run lẩy bẩy, đi phải chỏi gậy. Trông họ thật thiểu não.
Một sáng sớm, vị Trưởng ban tu sử cho một thớt tượng chở 5 quyển sử vào triều. Chuyến này ông không còn sức đi bộ được nữa mà phải nằm nhờ kiệu khiêng đi.
Vừa đến nơi, bỗng có tên nội giám từ trong cung nhà vua bươn bả chạy ra, kêu to:
- Bệ hạ sắp thăng hà, các quan ai có chuyện cần kíp quan trọng thì hãy gấp vào cung để gặp mặt lần cuối cùng, và muốn tâu gì thì tâu.
Vị Trưởng ban tu sử hoảng hốt, cho kiệu đi tuốt vào cung. Nhà vua nghe tin, vội vén màn, nói với vị Trưởng ban tu sử, giọng phều phào:
- Ta… ta rất cảm động… và cám ơn… công khó nhọc của… của hiền khanh. Ta sắp chết… Ta rất ân hận… vì không biết… không biết lịch sử loài người. Vậy… vậy hiền khanh hãy tóm tắt bộ sử bằng… bằng một câu… Một câu thôi.
Vị Trưởng ban tu sử lập bập tâu:
- Hạ thần xin vâng mạng. Lịch sử loài người từ khai thiên lập địa đến giờ là: “Loài người sinh ra để khổ rồi chết”.
Nhà vua gật đầu. Đôi môi khô héo của nhà vua bỗng nở một nụ cười tươi tắn mãn nguyện… rồi tắt thở. Và giữa lúc ấy, vị Trưởng ban tu sử đáng mến nấc lên mấy tiếng, đoạn trút hơi thở cuối cùng trên kiệu tại hoàng cung.
Last edited by bevanng on 12 Feb 2023, edited 1 time in total.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong, Thuvang

Re: Những Bài Viết Ngắn Chọn Lọc (Sưu Tập)

Postby bevanng » 21 Apr 2018

Nhang Khói



Bà bác sĩ tên Xinh từ phòng cấp cứu bước ra, tiến đến gần anh: Xin chia buồn cùng anh. Chúng tôi đã cố gắng hết sức. Nhưng không thể. Chị đã mất.
Anh nghẹn ngào, nói:
- Các anh chị có chậm trễ, chủ quan từ ngày đầu điều trị vợ tôi không?
Anh biết mình muốn gì qua câu hỏi này - đây là câu hỏi sẽ mở đầu cho những suy nghĩ của anh về người đàn bà bác sĩ này, một con người ác tâm, thiếu y đức như anh linh cảm từ lần gặp mặt đầu tiên với một va chạm nhỏ.
Bà Xinh lắc đầu, lạnh lùng:
- Không đâu anh!
- Thôi, dù sao tôi cũng cám ơn các anh, các chị.
Vợ anh nằm đó. Không còn thở hào hển, mệt nhọc nữa. Mắt nhắm nghiền, không cái ánh nhìn quyến luyến thiết tha hiền từ khi chầm chậm lướt qua những người thân, và nhất là khi lướt qua anh và con trai. Phương đã chết! Một đạo binh kinh hoàng đang trùng trùng kéo tới xâm chiếm cõi lòng trống vắng của anh.
Vợ anh nằm đó, vĩnh viễn thoát khỏi mọi ưu tư, lo lắng về bệnh tật, chết chóc. Anh chưa kịp biết rằng cái mất mát đường đột này sẽ gieo rắc hậu quả lên đời sống anh ghê gớm như thế nào trong những ngày tháng về sau.
Anh chắc chắn rằng trong đầu óc đơn giản của vợ anh, chưa bao giờ xuất hiện một mảy may suy tư về sự chết, về siêu hình, về hư vô, về thế giới bên kia, về sự xa cách vĩnh viễn những người thân. Trái lại, một tuần trước khi mất, những dự định về cuộc sống vẫn còn đầy ắp trong nàng. Dự định sống gần gũi hơn với chồng con; dự định sống với một công việc nhẹ nhàng phù hợp với sức khỏe đã suy yếu; dự định sống với những bữa ăn ngon, những đêm nghe nhạc; dự định mua một căn hộ mới sau khi bán căn hộ cũ; dự định một cuộc ra đi lớn, bỏ quê hương nơi chôn nhau cắt rốn để theo chồng… Gần hơn cả là dự định sống với một bài hát hay nàng hứa sẽ hát tặng ông bác sĩ trưởng khoa… “Lúc nào lành bệnh, em sẽ hát tặng bác sĩ một bài hát.” “Ồ, hay quá! Cô là ca sĩ à?”
Tóm lại, cái chết không len lỏi vào đâu được trong tinh thần nàng; nó chỉ xâm chiếm cơ thể nàng lần hồi mà thôi.
Khác hẳn với cái chết của những người già yếu, bộ máy tinh thần đã sụp đổ, chết đối với họ chỉ là sự bốc hơi, là dấu chấm hết đặt sau dòng chữ cuối cùng - cái chết của vợ anh đậm đặc quá. Làm sao chấp nhận những phút giây sống động, lạc quan mới đó của nàng giờ đã thành kỷ niệm? Anh cảm thấy mình bị ai lừa một vố nặng - đổi trắng thay đen. Lại cảm thấy như bị vét sạch một cú trắng tay, không còn gì nữa trên đời. Một sự trống rỗng hoàn toàn. Cái năng lực tâm thức dồi dào trong anh luôn ban cho thế giới khách quan (những mối quan hệ, những món nợ đời, những toan tính…) ý nghĩa chủ thể-khách thể giờ đột nhiên ngưng hoạt động. Và cái thế giới khách quan muôn vẻ, muôn sự đó biến mất!

Hưởng dương 42 tuổi, vợ anh được hầu hết mọi người đến viếng tiễn cho là “chết trẻ” và vì thế “tội nghiệp quá”, “tiếc quá”.
Một bà cụ già hàng xóm trên sáu mươi vừa thắp nhang vừa rấm rức khóc: “Sao con lại chết trẻ vậy hả con, Phương?”
Anh đứng bên cạnh bàn thờ, nghe câu hỏi nhói lòng ấy, đầu óc chợt căng thẳng suy nghĩ, cảm thấy như câu hỏi ấy đặt ra cho anh, buộc anh phải trả lời. Người đàn bà già yếu tốt lành kia từng trải một cuộc đời cô đơn túng quẫn – nghĩ gì mà thốt lên câu nói xót thương ấy? Phải chăng bà tiếc cho vợ anh chưa nếm đủ mùi vị cuộc đời? Phải chăng như Herman Hesse từng nói: “Dù cho khổ đau quằn quại mấy, ta vẫn yêu thương trần gian này tha thiết”?
Ngược lại, một đồng nghiệp viết văn của anh, vốn ưa triết lý, thì lại nói: “Cuộc đời này chỉ là một giai đoạn trong nhiều giai đoạn khác nhau của kiếp làm người. Bà ấy khôn, chết trước để được chồng con thờ phượng một cách tuyệt đối.” Rõ một giọng bi quan! Anh nhìn người bạn. Hắn bình thản, tự tại quá. Không lộ vẻ gì bi quan qua câu nói đượm màu yếm thế, tiêu cực. Hắn từng nói hắn là tông đồ của Lão Trang, nhưng không như những kẻ hiểu sai hoặc hiểu chưa tới Lão Trang; hắn nói người theo Lão Trang không khinh chê cuộc sống trần gian này, họ luôn luôn sống hòa điệu tinh thần lẫn thể chất mình với sự tuần hoàn của vũ trụ để được sống lâu dài và mạnh khỏe, nhưng nếu như cái chết ập tới hoặc từ từ tiến tới, họ vui vẻ đón chờ, vui vẻ bắt tay, “thần chết ơi, chào mi!”. Hèn gì mà thần thái, phong độ của hắn trông đẹp quá - năm mươi tuổi mà cứ như trai tráng ba mươi.
Anh nhìn lên ảnh vợ, cố tìm trong đôi mắt ấy một lời xác nhận: “Vâng, em sung sướng được chết. Anh đừng tiếc thương em nữa, đừng ân hận dày vò làm gì”. Nhưng sự lạnh lẽo càng lúc càng lan rộng trong hồn anh. Không có một âm thanh thần bí nào vang lên. Nhưng đột nhiên một dòng chữ rõ ràng chạy trong đầu anh: “Thượng đế đã ban ơn cho chúng tôi được chết”. Anh nhớ rồi, đây là lời nói sau cùng của Edmund Husserl. Bộ óc Đức vĩ đại này đã tiết ra những ý tưởng đó trong phút lâm chung. Làm sao anh len lỏi được vào trong tâm tư của Edmund Husserl phút giây ông tự tin bộc lộ niềm hoan vui được chết? Cái chết là gì mà quyến rũ vậy? A, hình như một đôi lần, trong thoáng chốc, anh cảm thấy nhẹ nhõm và gần như được giải thoát với ý nghĩ rồi mình cũng sẽ được chết; rồi tất cả những bất hạnh, khổ đau, bất toàn, thất bại của cuộc đời mình rồi sẽ chấm dứt cùng với cái chết. Không có cái chết, con người sẽ đi về đâu? Chẳng lẽ cứ loay hoay với bệnh tật, kéo lê thân xác, cứ mỗi ngày một suy sụp, mỗi lúc một rã rời… làm cho bẩn nhục những ban mai, những trăng sao mặt trời mọc lên thức dậy? Anh muốn nhận mặt, gọi tên thần chết: nó là một cứu cánh tối hậu! Vợ anh, thân xác đã tàn héo, hư hao; nàng cần phải rũ bỏ cái vỏ thể chất đó đi, để cho phần hồn, phần tinh thần của mình được thoát ra, trú ngụ trong anh, trong con và những người thân một cách khác, thiêng liêng.

Vài ngày sau khi nàng nhập viện, bà bác sĩ Xinh gọi anh ra, nói giọng nghiêm trọng:
- Chị bị Lupus ban đỏ! Anh biết bệnh này không?
- Không, - anh trả lời trong hoang mang.
- Đây là bệnh nan y! Bệnh của chị đang ở giai đoạn bùng phát.
- Không thể cứu vãn được?
- Trên lý thuyết, bệnh này đối với người này chỉ là bệnh nhẹ, nhưng đối với người khác lại là bệnh chết người. Chị là trường hợp sau.
- Nguyên nhân của căn bệnh là gì? Chị biết không?
- Tôi không biết. Và y văn thế giới nói là không biết. Người ta chỉ suy đoán có thể là do gen.
Vậy là anh sắp mất một người thương yêu anh nhất trên đời này, người bạn đời của anh. Lý trí anh nói vậy, nhưng lòng anh lại không tin vào một biến cố như thế, hay nói đúng hơn anh không cảm nhận được một sự thực bạo liệt như thế. Người ta đã quen hình dung ra hơi ấm của một thân thể, một giọng nói, một tiếng cười hay những lời trách móc, chì chiết, những biểu hiện hờn giận lạnh nhạt của bạn đời mình; người ta không sao tưởng tượng được tất cả những chi tiết thân quen đó rồi sẽ có lúc vĩnh viễn không xảy ra nữa.
Bằng lý trí, anh nhìn lên hai vành tai nàng - nhỏ quá; sách tướng nói như thế là yểu mệnh. Anh lén nhìn đôi lông mày nàng - thưa quá; sách tướng nói đó cũng là dấu hiệu yểu mệnh, nhưng niềm tin trong anh mách bảo rồi nàng sẽ lành bệnh, sẽ ra viện, sẽ trở lại đời sống vợ chồng bình thường với anh. Anh nôn nóng mong cái ngày ấy đến. Anh sẽ không quỵ lụy nhờ vả ai nữa, kể cả cái bệnh viện hiện đại vào bậc nhất Việt Nam này. Hai mươi năm trước đây, mẹ anh cũng vào đây, và không bao giờ về với gia đình nữa. (Anh sợ một sự trùng hợp tai ương.) Người ta chụp thuốc mê để mổ thận cho mẹ anh; ca mổ không phức tạp gì lắm, nhưng mẹ anh không tỉnh dậy được vì… thuốc mê quá liều. Bà ngoại anh lồng lộn, đòi kiện tụng. Nhưng cha anh và anh khuyên bà thôi đi, vì nhiêu khê và tốn tiền, tốn thời gian lắm. Cái bệnh viện này hiện đại thật đấy. Những trang thiết bị, phương tiện, giường bệnh, phòng bệnh tối tân; những hành lang sạch đẹp, mát lạnh; những thang máy êm nhanh… Nhưng cái phần hồn của một bệnh viện là y đức và trình độ chữa bệnh, cứu người thì không tương ứng với “phần xác” của nó. Với riêng anh, từ chỗ là nhà thương nó đã trở thành nhà thù oán. Anh cay đắng và cảm thấy đầy ứ trong cuống họng mỗi khi lầm bầm, nhai nghiến cái ý nghĩ đó.
Mỗi ngày bà bác sĩ Xinh lại vô tình hoặc cố ý “bổ sung” thêm một đoạn trong bản án tử hình dành cho vợ anh. Chắc là để tra tấn anh. Hoặc là để trừng phạt anh vì cái tội bất tuân… Hôm ấy, bà Xinh đề nghị vợ anh làm một việc nhỏ (?) - trả lời trước ống kính của đài truyền hình thành phố một vài ý kiến được chuẩn bị trước về vấn đề bảo hiểm y tế. Anh biết chuyện, gạt phắt. Lúc ấy, vợ anh nhìn anh gần như van lơn, như muốn nói: “Hãy cứ nhận lời đi anh. Em như con cá nằm trên thớt của bà ấy mà!”. Anh sẽ không bao giờ quên ánh mắt u buồn, cam chịu ấy của vợ anh. “Chồng mình đã phạm phải một sai lầm khủng khiếp, nhưng mình không can ngăn anh ấy được, anh ấy nóng tính và cương trực quá”. Đôi mắt nàng lên tiếng.
Bà Xinh, sau một thoáng hụt hẫng vì bị từ chối, đã hiện nguyên hình, là đại diện của thần chết, dù bà có làm ra vẻ rất tiếc và thông cảm với những lý do “không” anh đưa ra. Chợt, anh lạnh buốt sống lưng khi bắt gặp cái nhìn đanh ác đầy đe dọa của bà. Và anh trực cảm rằng sinh mạng của vợ anh thực sự đang nằm trong tay bà ta. Cái sinh mạng mong manh dễ vỡ ấy sẽ không được nâng niu; nó sẽ được tự do cuốn theo cơn lốc của sự kết thúc mà không có ai tìm cách giữ gìn níu kéo.
Anh không thể nào hiểu nổi, và đã có lúc la lớn lên vì bức xúc, tại sao con người thường có khuynh hướng thích nhìn người khác đi dần vào chỗ chết, thích tìm những bằng chứng, những dấu hiệu cho thấy người kia sắp sửa ra đi khỏi cuộc đời đông vầy này. Tại sao? Phải chăng, một kết thúc hoàn toàn của một người này sẽ để lại thêm đất sống cho hiện hữu thiếu thốn của người kia? Phải chăng, người với người là sói, từ căn tính, nên người này muốn “giết chết” người kia trong thầm lặng, trong vô thức, trong bản năng? Không thể giết người giữa khung cảnh trần thế, người ta tìm cách giết người bằng tư tưởng, để dễ dàng phi tang… Họ nghĩ gì trong đầu khi nói những điều tiên liệu xấu, những linh cảm u tối về sinh mệnh của vợ anh? Phải chăng vì vợ anh đã ngã ngựa giữa đường đời, đã “bệnh hoạn”, tức là, vợ anh đã đánh bạn với cái chết, đã trở thành thù nghịch với sự sống say sưa. Cho nên cần phải thanh toán bệnh hoạn, bằng cách thanh toán cái con người mang bệnh hoạn ấy. Anh từng đọc trong những trang sách của Karl Jaspers câu nói: “Bệnh hoạn nói lên cái gì rất nhân thế của con người.” Và anh hiểu, đã là người tất phải mang bệnh, dù sớm hay muộn, dù biểu hiện lên trên cơ thể hay tàng ẩn bên trong cấu trúc của cơ quan nội tạng. Đạo Phật cũng nói “ bệnh” là một trong bốn giai đoạn trong hành trình sinh hoại của con người. Con người sinh ra là để tiến tới cái chết của mình; đó là một suy tư triết lý minh mẫn nhất có thể có cho một con người. Vội vã hay chần chừ, ý thức hay mù lòa thì cũng vậy, tất cả mọi người ai cũng có một sở hữu chung quyết là cái chết, ai cũng được về tới đích cuối cùng của mình. Mỗi ngày trôi qua là một bước dấn thêm về nấm mồ của chính ta, ở cuối đường kia. Mỗi ngày chúng ta chết một ít, để lần hồi tiến đến cái chết toàn phần, toàn triệt. Do vậy, cái hiện hữu tròn đầy của chúng ta đã bị nứt rạn lặng lẽ từng ngày - và sự nứt rạn đó chính là bệnh hoạn. “Tôi bệnh hoạn, vậy tôi là người”; “Tôi bệnh hoạn, vậy tôi tồn tại.” (Để bắt chước cách nói của René Descartes.)
Anh giấu nàng những lời nói dữ, những lời nguyền rủa vô tình của mọi người dành cho nàng. Nhưng về sau này, khi nàng đã mất, theo lời kể của cô em gái theo dõi săn sóc nàng trong bệnh viện, thì nàng đã biết tất cả về căn bệnh hiểm nghèo của mình, nhưng nàng không muốn cho anh biết! Và cũng theo lời của cô em gái thì bà bác sĩ đã úp úp mở mở, từng ngày rót “độc dược” vào tai nàng. Nhưng nàng vẫn bình tĩnh, quá bình tĩnh. Đến nỗi bà bác sĩ Xinh đã điên tiết lên. Trong một lần khám cho vợ anh, thấy vợ anh bình thản, bà Xinh hỏi cộc lốc (thật ra là muốn đánh quỵ tinh thần của người bệnh): “Đã biết bệnh gì chưa? Lupus ban đỏ đó. Trời kêu ai nấy dạ thôi!”. Vợ anh nhăn mặt không đáp. Chỉ nắm tay bà Xinh, như để cám ơn đã cho biết sự thật, rồi lặng lẽ khóc.
Trời ơi, sao lại có một vị bác sĩ ác độc như thế? Y đức của bà ta ở đâu? Thoạt nghe kể, anh đã bất giác kêu lên như vậy. Nhưng thật ra, anh đã đặt những câu hỏi không đúng luận lý. Vì bà Xinh là một con người độc ác đi làm nghề chữa bệnh chứ bà ta không phải là một bác sĩ đúng nghĩa. Với những con người ác độc bị đưa nhầm vào môi trường đòi hỏi sự nhân ái, vị tha, hiền lành, lương thiện như ở đây, bệnh viện này, thì những ca bệnh đặc biệt hiểm nghèo chính là cơ hội cho cái khối ác trong người họ bộc lộ rõ ràng, đầy đủ nhất. Chiếc áo blouse trắng, những dụng cụ y khoa trong sạch trong tay họ, và đặc biệt sự lạnh lùng chính xác của những quy trình, thao tác điều trị, đã trở thành tấm màn nhung che đậy dã tâm của họ.
Không biết tự bao giờ đã ăn sâu trong trí mọi người một ấn tượng rằng, đã là bác sĩ thì không biết xúc động, không nên xúc động, không được xúc động trước tình cảm khổ đau của bệnh nhân. Từ đâu đến một luận điệu vô nhân đạo như vậy? (Sự xúc động thì ảnh hưởng gì ghê gớm đến công việc chuyên môn?) Chắc chắn là luận điệu đó đến từ trong ngành y, và còn chắc chắn hơn nữa là từ một con người ác độc mà tinh thông nghề chữa bệnh, nhưng hắn đã trở thành một cỗ máy, hắn không còn liên hệ với con người bệnh tật trước mặt hắn như liên hệ với một thân phận làm người, mà chỉ như một cỗ máy sinh-vật lý bị thiếu sót, bị hư hỏng, và không được hoàn hảo như hắn.
Không xúc động thì không có công cuộc cứu nhân độ thế!
Đức Phật Thích Ca, nếu không nhạy cảm xúc động khi thấy những con người bệnh tật, già yếu, khi nghe những tiếng khóc than xót thương người chết, hẳn ngài đã không bỏ cả một giang sơn lộng lẫy của riêng mình để đi tu hòng tìm kiếm cho ra phương thuốc chữa trị cho dứt khổ đau của loài người. Đức Phật là một thầy thuốc vĩ đại!
Chỉ có những ai mất hết nhân tính mới không còn xúc động trước khổ đau của tha nhân.
Chỉ có những tên đao phủ mới không cần sự xúc động.
Vậy mà thật trớ trêu, anh đã gặp giữa khung cảnh dễ gây xúc động nhất này những bộ mặt lạnh lùng, những cử chỉ vô hồn, những lời nói băng giá. Lạ lùng nhất và kinh tởm nhất là khi thấy những cô cậu bác sĩ thực tập, họ còn trẻ nhưng đã kịp khoác lên trên chiếc áo choàng trắng tinh khôi sự khinh bỉ và vô cảm trước bệnh nhân.
Những ngày nuôi vợ bệnh, anh còn rút ra một sự thật đau lòng… Cái bệnh viện này đón bệnh nhân như đón những người khách không mời mà đến. Nếu bệnh nhân chết, đó là tất yếu, do bệnh nan y, trầm trọng, do sự ngu dốt, chậm trễ, chủ quan của người bệnh. Còn nếu bệnh nhân đã được lành bệnh, được cứu sống, thì đó là nhờ cái bệnh viện và các quý vị y-bác sĩ kia - họ trở thành những kẻ cứu tinh. Do vậy, sự sợ hãi, quỵ lụy, cầu xin luôn hiện lên trên những khuôn mặt mệt mỏi, buồn lo của các con bệnh.
Đây không phải là bệnh viện. Đây chính là tòa phán xét để đưa những con người không may vào địa ngục. Những người bệnh nặng như vợ anh nằm đó để cho bọn họ ngày ngày biểu diễn bộ mặt đạo đức trá ngụy của mình. Anh tưởng như có thể đọc được từng dòng ý nghĩ của bà bác sĩ Xinh: “Tao chưa bao giờ thấy ai chống lại ý kiến bác sĩ như mầy, rồi mầy xem, tao chỉ cần mỗi ngày lơ là với vợ mầy một chút là vợ mầy sẽ nhanh chóng đi chầu diêm vương. Tao sẽ không nói rõ nguyên nhân, diễn biến căn bệnh của vợ mày đâu. Để cho vợ chồng mầy cứ lừa dối nhau, trốn tìm nhau từng giờ từng ngày. Để cho vợ chồng mầy cùng đột ngột kinh hoàng khi cái chết ập đến trên thân xác của vợ mày. Ha ha, tao có dịp trả thù mầy mà vẫn yên ổn lương tâm, vì tao chỉ là kẻ hành quyết, còn bản án tử hình là do vị thần chết mang tên Lupus ban đỏ tuyên quyết.”
… Câu nói cuối cùng anh dành cho bà Xinh khi nghe bà báo tin vợ anh đã chết sau hai đợt hô hấp nhân tạo là câu nói không chuẩn bị trước, bật lên từ đáy sâu vô thức. (“Các anh chị có chậm trễ, chủ quan từ khi nhận điều trị vợ tôi không?”) Họ đã cho phép mình có quyền đủng đỉnh chậm trễ, có quyền lạnh lùng chủ quan… Họ cho phép họ tất cả, chỉ trừ trách nhiệm. Họ không giành phần trách nhiệm từ tay của thần bệnh.

Nàng đã nằm im dưới huyệt mộ. Một tuyệt đối về nàng đã hình thành.
Buổi trưa khi từ nghĩa trang trở về nhà, anh kinh hoàng thấy mình bước vào cõi chết do nàng để lại.
Anh tìm chiếc chìa khóa để mở ngăn tủ đầu gường ngủ - không thấy! Nàng đã đánh mất nó trong bệnh viện? Ngăn tủ không mở ra được vì không có chìa khóa? Không phải! Chính là vì không còn có nàng nữa. Nên không riêng gì cái ngăn tủ mà tất cả sự vật, đồ đạc, tranh ảnh… trong căn nhà này dường như đã chối từ sự hiện hữu, chối từ sự phơi bày, chối từ sự lên tiếng. Chúng đã chết theo nàng. Cái thế giới đồ vật chung quanh anh đây là thế giới đã bị tước đoạt hết hơi ấm linh hồn nàng thổi vào trong đó. Chúng đang để tang nàng bằng sự câm lặng đáng sợ. Vâng, anh sợ khi phải chạm trán chúng - từ cái chổi nằm ở góc nhà, cái bình nước, những con dao làm bếp, những chai lọ đựng gia vị, cái tivi, cái cassette, cái xe đạp… tất cả đều toát lên sự hờn oán, tất cả đều như muốn lên tiếng nói: “Bà chủ của tôi đâu rồi? Sao không cho “chúng tôi” đi theo bà ấy đến mọi chân trời.”
Anh nhớ trong lịch sử Đông Tây kim cổ, các vị vua chúa, các bậc quyền quý khi qua đời đều mong muốn mang theo tất cả những gì thân thiết nhất đời mình. Bởi vì cái thế giới thân thiết mà họ từng là “chủ thể” ấy sẽ không thể nào sống nổi trên cuộc đời này khi không còn họ nữa.
“Bà chủ của tôi đâu rồi?” Chiếc xe đạp kêu khóc… Chiếc xe đạp là khách của nàng, không là khách của ai khác, kể cả anh, cho dù anh đã nhiều lần sử dụng nó. Anh tưởng như chiếc xe đạp này không bao giờ di chuyển được nữa! Cái yếu tính của nó là sự-chuyển-động-mang-theo-một-con người-nào-đó đã hoàn tất. Nàng đã mang đi mất rồi cái yếu tính của nó.
Và những con dao làm bếp! Anh nhìn chúng đăm đăm, đến mức quên mất đó là vật gì. Ngày trước anh vẫn thường nhìn thấy nàng cầm con dao nhỏ thoăn thoắt gọt trái táo, trái su… và anh hồi hộp sợ lưỡi dao phạm phải bàn tay không cầm dao. Anh vẫn thường thấy nàng cầm một con dao khác, lớn hơn, xẻ bụng một con cá, xắt nhỏ những miếng thịt… Bây giờ không còn nàng cầm lên, những con dao kia đã chết, vì chúng chỉ có thể sống được trong mối tương quan với nàng mỗi trưa, mỗi chiều trong bếp; chúng chỉ thức dậy cái-yếu-tính-cắt-xẻ của chúng trong bàn tay nội trợ của nàng.
Anh chưa từng biết thế giới đồ vật dụng sống như thế nào, nhưng hôm nay anh biết thế giới đồ vật dụng cụ chết như thế nào.

Nhiều tháng đã trôi qua, sự vắng mặt của nàng đã trở thành một thành phần sống động trong đời sống hàng ngày của anh. Anh thấy được sự vắng mặt của nàng trên từng nơi chốn anh đi qua. Chỗ này anh đã ngồi ăn tối với nàng. Con đường kia, anh chở nàng và con đi qua, dừng lại bên hè phố, ăn kem.
Nhưng cái quán rượu bình dân anh thường ngồi gần như mỗi ngày, cái quán ấy nàng chưa bao giờ đến với anh, vì vậy sự vắng mặt của nàng ở đó là đậm nét nhất. Và nhiều nơi chốn khác, nhiều không gian khác, nhiều thời đoạn khác. Sự vắng mặt của nàng chiếm hữu trọn vẹn. Sự nhìn ngắm của anh trước những hiện tượng ấy đã bị sự vắng mặt của nàng lũng đoạn. Sự vắng mặt của nàng đã làm héo úa những vẻ mới, vẻ lạ của một ngày, một chiều, một sáng lần đầu xuất hiện với anh. Ngày mai không hứa hẹn gì nữa; một chỗ nào chưa đến không mời mọc gì nữa; vì sự vắng mặt của nàng đã sớm hiện ra ở đấy rồi và làm cho tang tóc tất cả.
Bây giờ anh phải sắp đặt làm quen với một thế giới-nơi-nàng-vắng-mặt, một thế giới với những dự phóng không có nàng, những đêm say không có nàng, những đêm không say không có nàng, những trang viết không có nàng, những trang giấy trắng không có nàng…
Mai Sơn
Last edited by bevanng on 12 Feb 2023, edited 1 time in total.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong, Thuvang

Re: Những Bài Viết Ngắn Chọn Lọc (Sưu Tập)

Postby bevanng » 22 Apr 2018

Từ “Diễm Xưa” Đến “Một Cõi Đi Về”


Lê Hữu


Gió trời xin ngủ bình yên
coi như giấc mộng ưu phiền đấy thôi

Nguyễn đình Toàn

Nói về Trịnh Công Sơn (TCS) thì chẳng bao giờ hết chuyện. Chỉ cần ghi lại một buổi tranh luận giữa bạn bè về nhạc, về con người TCS, là đã có biết bao điều để nói. Người ta cũng có thể viết những cuốn sách rất dày nói về ông, về nhạc của ông, với những phê phán, nhận định, khen chê hay dở… Cái khó bao giờ cũng vẫn là bắt đầu như thế nào…
Khi ấy là vào những năm 66-67 thì phải. Tôi nhớ, lần đầu nghe tình khúc TCS, cái cảm giác ấy lạ lắm, thú vị lắm. Một vài ca sĩ đã trình bày Diễm Xưa trước đó, nhưng phải đợi đến lúc TCS tìm ra được Khánh Ly, người nghe mới thực sự nghe ra Diễm Xưa. Sau đó là những Nhìn Những Mùa Thu Đi, Lời Buồn Thánh, Tuổi Đá Buồn, Hạ Trắng, Mưa Hồng, Nắng Thủy Tinh…, tất cả đều rất mới, rất lạ, rất là cuốn hút người nghe. (Những Ướt Mi, Thương Một Người trước đó ít được biết đến dù được thể hiện qua những giọng ca khá nổi tiếng thời ấy).
Người ta chờ đón những tình khúc tiếp theo nữa của TCS, và ông đã không làm mọi người thất vọng. Những Biển Nhớ, Tình Nhớ, Tình Xa, Tình Sầu, Như Cánh Vạc Bay, Ru Ta Ngậm Ngùi… lần lượt theo nhau ra đời, lần lượt được người nghe tán thưởng. Có thể nói đây là thời kỳ viết nhạc sung sức nhất của TCS, và những tình khúc hay nhất, phổ biến nhất, quyến rũ người nghe nhất đã ra đời trong thời kỳ này. Nhạc tình TCS đã hoàn toàn chinh phục trái tim người nghe vì cái mới, cái lạ, cái đẹp, đến mức có một lúc nào đó mọi người tưởng như đã quên đi tên tuổi của các nhạc sĩ khác, quên đi những ca khúc thịnh hành trước đó, và chỉ còn lại có nhạc TCS. ở mỗi quán café, mỗi góc phố, mỗi con đường đều nghe vẳng ra tiếng đàn guitar bập bùng, những nốt nhạc đệm rời rạc, và giọng hát khao khao cất lên những lời buồn bã kể lể về thân phận, về quê hương chiến tranh và cả về tình yêu của những lứa đôi trong thời buổi ấy nữa. (Ngày nay không còn ai hát nữa những Ca Khúc Da Vàng của một thời, chỉ nhạc tình TCS là còn ở lại).
Nhạc TCS có ma lực gì mà cuốn hút, mê hoặc người nghe đến như vậy. Chắc không phải là một loại “thời trang nhạc tuyển”. Nếu chỉ là nhạc thời trang hoặc một cái mốt thời thượng thì đâu có sống lâu đến vậy, nhiều lắm cũng chỉ qua được mấy mùa. Thử nghe lại bài Diễm Xưa xem sao. Về giai điệu, cũng chẳng có gì đặc biệt lắm, cũng là tiết tấu chầm chậm, dễ dãi, những ngắt câu ngắt nhịp, lặp đi lặp lại. Câu nhạc đầu lại na ná câu đầu một bài hát thể điệu slow rock phổ biến từ những năm trước đó (Bước Chân Chiều Chủ Nhật, Đỗ kim Bảng). Không có gì đặc biệt. Vậy thì cái hay, cái lạ của nhạc TCS, của bài hát, là ở lời chứ đâu phải ở nhạc. Đến cái tựa “Diễm Xưa” cũng đã là lạ, cũng đã gợi ra nhiều dấu hỏi. Tại sao là Diễm, Diễm nào vậy, Diễm xưa thế nào, Diễm nay ra sao? Diễm xưa, mà sao lại chỉ kể toàn chuyện mưa. (Hạ trắng, mà sao lại chỉ kể toàn chuyện nắng). Mưa TCS cũng lạ, không giống những cơn mưa của những bài nhạc khác. “Nghe lá thu mưa reo mòn gót nhỏ…”, rồi lại “trên bước chân em âm thầm lá đổ…” Vậy thì mưa rơi hay lá rơi, nghe tiếng mưa hay nghe tiếng lá? Ngôn ngữ TCS nghe cũng lạ với những “tầng tháp cổ, vết chim di, xanh buốt, đau vùi, bia đá, đá sỏi, phiêu lãng, lãng du…” Người ta vẫn nói chuyến xe, chuyến tầu, chuyến đò, chuyến phà, chưa thấy có ai nói “buổi chiều ngồi ngóng những chuyến mưa qua”. Lại còn những câu hỏi: “Làm sao em biết bia đá không đau? Làm sao em nhớ những vết chim di?”. Biết đâu mà trả lời. Những ý tưởng có khi chẳng dính dấp, liền lạc gì với nhau. “Mưa vẫn hay mưa cho đời biển động” thì có liên hệ gì đến chuyện bia đá đau hay không đau. “Xin hãy cho mưa qua vùng đất rộng” thì có liên quan gì tới vụ “người phiêu lãng quên mình lãng du”. Nghe như ông nói gà bà nói vịt, hoặc lấy câu trong bài hát này bỏ vào bài hát kia vậy. Vậy mà tuổi trẻ ngày ấy đã phải lòng Diễm Xưa, đã nghe đi nghe lại, nghe mãi nghe hoài không biết chán. Diễm Xưa, Trịnh Công Sơn. Trịnh Công Sơn, Diễm Xưa. Tôi không rõ từ thành đến tỉnh đã có bao nhiêu quán café mang tên Diễm Xưa, bao nhiêu quán café mang tên Tình Nhớ, Hạ Trắng, Mưa Hồng…, và những cô chủ quán hay những cô cashier xinh đẹp không đợi khách yêu cầu đã tự động cho chạy liên tục hết cuốn băng này đến cuốn băng khác những Ca Khúc Da Vàng, những Tình Khúc Trịnh Công Sơn, mà không cần phải bận tâm lắm đến chuyện café ngon hay không ngon.
Nhạc TCS quyến rũ người nghe đến như vậy, nhưng có một điều lạ là không phải ca sĩ nào cũng hát được nhạc TCS. Con số những ca sĩ hát nhạc họ Trịnh này nghe được không có nhiều, chỉ một vài. Ngay đến những ca sĩ tên tuổi thời ấy, hát thử TCS vài bài, cũng không thành công, cũng không nghe ra TCS. Từ đó, biết là không ăn, thôi không hát thêm nữa. Những ca sĩ khác, tự lượng sức mình, không chơi nhạc TCS, vì không muốn “như cánh chim chìm xuống”. Làm sao biết được giọng hát nào là thích hợp, là thể hiện được nhạc TCS? Cứ thử hát đi, thính giả sẽ nói cho biết, người nghe sẽ trả lời. Nghe nhạc TCS từ một giọng ca không phải để hát nhạc TCS giống như là uống rượu giả vậy. Từ khi những giọng ca chuyên hát nhạc TCS bỏ nước ra đi, ở trong nước người ta vẫn loay hoay tìm kiếm, cố gắng tìm cho bằng được những giọng ca khác để thay thế, cố gắng lăng-xê một vài tên tuổi, nhưng kết quả vẫn là “gần như niềm tuyệt vọng”, và người nghe vẫn nhắc nhở đến tên những ca sĩ cũ gắn liền với nhạc TCS. Có vẻ nhạc TCS thích hợp với giọng nữ nhiều hơn, chỉ một vài nam ca sĩ thể hiện được một đôi bài… Phải nghe Khánh Ly hát Diễm Xưa mới biết thế nào là “trong cơn đau vùi”, mới thấy đau xót “làm sao có nhau”, mới thấy “hằn lên nỗi đau”, mới hiểu được tại sao “sỏi đá cũng cần có nhau”. Còn phải nghe “sầu thôi xuống đầy” bằng những nốt nhạc luyến láy mềm mại ở chữ “xuống”, và bằng chính giọng hát ấy, mới thấy được cánh lá khô lả tả xoay vòng trước khi chạm đất, là dấu chấm “cuối cùng cho một tình yêu”. Phải nghe Lệ Thu hát Hạ Trắng mới nghe ra được tận cùng cái thê thiết của “gọi tên em mãi suốt cơn mê này” trong tiếng kèn saxo réo gọi. Và còn phải nghe cả “Ru Ta Ngậm Ngùi”, bằng chính giọng hát ấy, mới nghe ra nỗi cô đơn sâu thẳm của “người về soi bóng mình, giữa tường trắng lặng câm”.
Cái mới trong ngôn ngữ TCS:

Trong những lời nhạc TCS, người ta nhặt ra được rất nhiều cái mới, từ cách dùng chữ cho đến những ý tưởng. Về màu sắc chẳng hạn, trước đây ta đã có xuân hồng, hạ đỏ, thu tím, thu vàng… thì nay lại có thêm “hạ trắng”, và cả những cơn “mưa hồng” (của những cánh phượng rơi), “mưa xanh” (của những lá me bay) cho đủ sắc màu. Về nắng thì có “nắng thủy tinh vàng”. Sau tóc mềm, tay mềm, vai mềm, nay lại có thêm “ngoài kia không còn nắng mềm” (Chiều Một Mình Qua Phố). Đôi lúc cái mới được đẩy đi quá đà: hết nắng sớm, nắng chiều, lại đến “có khi nắng khuya chưa lên” (vẫn Chiều Một Mình Qua Phố). Tại sao không? Nhạc sĩ họ Trịnh có thể nói, “Có mưa khuya thì cũng phải có nắng khuya chứ.” Và “nắng như môi hoàng hôn trên phố” (Chiều Trên Quê Hương Tôi) cũng phải được kể là… nắng mới.
Ta có nghe bể mắt, hồ mắt, giếng mắt, giòng mắt… chứ chưa nghe ai nói “chiều đã đi vào vườn mắt em” (Nắng Thủy Tinh).
Ta có nghe giọt buồn (chắc là giọt café), sợi buồn (con nhện giăng mau) chứ chưa thấy ai nói “ta thấy em trong tiền kiếp với cọng buồn cỏ khô” (Rừng Xưa Đã Khép). Nghe hay hơn là “cọng cỏ khô buồn”. Tương tự, “tóc xanh mấy mùa”, “hoa vàng mấy độ”, “sen hồng một nụ”, “quỳnh hương một đóa” nghe hay hơn là mấy mùa tóc xanh, mấy độ hoa vàng, một nụ sen hồng, một đóa quỳnh hương.
Ta cũng đã nghe giọt mưa, giọt nắng, giọt đắng, giọt sầu… nay lại có thêm “giọt chiều trên lá, như mắt người cười giữa chiều phai” (Chiều Trên Quê Hương Tôi).
Có rất nhiều những cái mới như vậy trong lời nhạc TCS.
Lối sử dụng tính từ như một danh từ, và ngược lại, trước ông vẫn có người dùng, thế nhưng những chữ ông dùng nghe vẫn cứ mới và thú vị, như “nghe những tàn phai”, “tôi là ai mà còn trần gian thế?…”
Có những chữ dùng rất cũ, qua tay TCS, như được làm mới lại, vì được sử dụng với những ý mới mẻ:
Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt, rọi suốt trăm năm một cõi đi về… (Một Cõi Đi Về).
“Nhật, nguyệt” là những chữ thật xưa cũ, đi với “trên hai vai ta” và “rọi suốt trăm năm” lại nghe như có vẻ mới.
Chữ “cõi” trong cõi sống, cõi chết, cõi nhân gian, cõi người ta…, dùng trong “một cõi đi về” như được khoác cho chiếc áo mới. Nói “một chốn đi về” nghe vừa hẹp, vừa không được trọn ý.
Đôi tay nhân gian chưa từng độ lượng… (Một Cõi Đi Về)
“Nhân gian” thì cũ, nhưng “đôi tay nhân gian” quả là chưa có ai dùng, và cũng không thể tìm ra được chữ nào hay hơn để thay thế.
Em theo đời cơm áo, mai ra cùng phố xôn xao… (Yêu Dấu Tan Theo).
“Cơm áo” là chữ dùng quá thường, nhưng “đời cơm áo” thì nghe lại mới, nhất là đi với “phố xôn xao”.
Thôi em đừng khóc nuối, cho môi còn chút thanh tân… (Yêu Dấu Tan Theo).
Thực khó tìm ra được chữ nào hơn “thanh tân” để chỉ đôi môi chưa hôn ai một lần.
Chữ “chút” ở câu trên cũng hay được ông dùng. Cái gì cũng chỉ chút chút thôi, không nhiều lắm, chỉ là một thoáng mong manh. Chữ ấy tuy cũ mà lại mới, làm đẹp thêm câu hát:
Có chút tình thoảng như gió vội… (Như Một Lời Chia Tay)
Có chút nắng trong tiếng gà trưa… (Em Còn Nhớ Hay Em Đã Quên)
Đi về đâu hỡi em, khi lòng không chút nắng… (Đời Gọi Em Biết Bao Lần)
Tôi xin làm chút gió, mát thêm những bờ vai… (Vì Tôi Cần Thấy Em Yêu Đời)
Tóc nào hãy còn xanh, cho ta chút hồn nhiên… (Ru Ta Ngậm Ngùi)
Dịu dàng trao chút hương hoa mùa xuân… (Vẫn Có Em Bên Đời)
Cho ta còn mãi mãi, chút mùi phấn hương bay… (Yêu Dấu Tan Theo)
Có rất nhiều “chút” như vậy trong những lời nhạc TCS.
Khi nói “tự do như gió thổi trên đồng rộng”, hoặc “hạnh phúc như đón mẹ đi chợ về” là mượn hình ảnh để cụ thể hóa những ý niệm trừu tượng. Ở TCS, ta gặp rất nhiều những lối diễn đạt như vậy.
Sau mỗi chữ “như” là mỗi hình ảnh, mỗi ý tưởng giàu tính sáng tạo:
Tôi như từng cánh diều vui… (Nguyệt Ca)
Chuyện trò với lá cây, rồi buồn như lá bay… (Tình Sầu)
Nhìn người đi như mây vô danh… (Hãy Cứ Vui Như Mọi Ngày)
Em cười em nói, như sóng đùa biển khơi… (Tuổi Đời Mênh Mông)
Đời sao im vắng như đồng lúa gặt xong, như rừng núi bỏ hoang… (Ru Ta Ngậm Ngùi)
Cho con mắt người tình, ấm như lời hỏi han… (Những Con Mắt Trần Gian)
Có rất nhiều, rất nhiều những cái “như” như vậy trong lời nhạc TCS.
Ta còn gặp những cách ví von khác: “Chiều nay em ra phố về, thấy đời là những quán không” (Nghe Những Tàn Phai), hoặc: “Đời ta có khi tựa lá cỏ, ngồi hát ca rất tự do” (Đêm Thấy Ta Là Thác Đổ).
Trái tim TCS dễ bắt được những rung động của thiên nhiên. Trong những lời nhạc của ông, hoa cỏ, núi đồi, sông suối, nắng gió, mùa màng… cũng đều biết cảm xúc, biết nhớ biết thương, biết cười biết khóc, biết vui biết buồn…
Tóc em cười trong gió… (Yêu Dấu Tan Theo)
Gió đến chơi từ bờ biển xa… (Chiều Trên Quê Hương Tôi)
Gió sẽ mừng vì tóc em bay, cho mây hờn ngủ quên trên vai… (Như Cánh Vạc Bay)
Suối đón từ bàn chân em qua, lá hát từ bàn tay thơm tho… (Như Cánh Vạc Bay)
Dưới chân ngày cỏ xót xa đưa… (Cỏ Xót Xa Đưa)
Nhớ gì mà nắng vàng cánh rừng… (Vẫn Có Em Bên Đời)
Ngày mai em đi, đồi núi nghiêng nghiêng đợi chờ, sỏi đá trông em từng giờ… (Biển Nhớ)
Phải có một trái tim thật là nhạy cảm, những giác quan thật là bén nhạy, mới có thể đọc được, nghe được và hiểu được ngôn ngữ kỳ diệu của thiên nhiên, mới có thể “chuyện trò với lá cây”, hay “hôn một nụ hồng, hỏi thăm về giọt nắng”, hoặc “đi trong sương mù, gọi cây lá vào mùa”.
Thử làm một sự so sánh giữa TCS và các nhạc sĩ khác trong cách diễn đạt lời nhạc: Trong lúc Phạm Duy viết: “Nghìn trùng xa cách, người đã đi rồi…” (Nghìn Trùng Xa Cách), thì ông viết: “Từ lúc đưa em về, là biết xa nghìn trùng…” (Như Cánh Vạc Bay). Cung Tiến viết: “Lòng cuồng điên vì nhớ…” (Hoài Cảm), thì ông viết: “… chợt từng bước em là từng mũi đinh cuồng điên” (Tưởng Rằng Đã Quên). Phạm đình Chương viết: “Người đi qua đời tôi…” (Người Đi Qua Đời Tôi, thơ Trần Dạ Từ), thì ông viết: “Đời tôi có ai vừa qua…” (Đêm Thấy Ta Là Thác Đổ).
Ngôn ngữ TCS đôi lúc cũng được đi vào những sinh hoạt thường ngày trong cuộc sống. Bạn hỏi thăm sức khỏe: “Hồi này có gì lạ?”, trả lời: “Thì cũng một ngày như mọi ngày thôi.” Bạn rủ ra quán nhậu, không muốn đi, bèn nói: “Ngồi nhà nhậu thoải mái hơn, đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt.”
Cái lạ trong ngôn ngữ TCS:

Cái mới được đẩy đi xa chút nữa dễ trở thành cái lạ. Cái lạ dễ thấy trong lời nhạc TCS trước tiên là những điều không lý giải được. Những ý tưởng trong một bài nhạc lại như có vẻ chắp vá, thiếu mạch lạc, thậm chí đứt đoạn, rời rạc, thường tạo những khó hiểu hoặc bất ngờ cho người nghe:
“Tim nào có bình yên” mà sao lại “ta rêu rao đời mình”?
“Từ khi trăng là nguyệt” mà sao lại “trong tôi có những mặt trời”? (mà không phải là mặt trăng).
“Đôi khi thấy trăm vết thương” mà sao lại “rồi như đá ngây ngô”?
“Mặt trời nào soi sáng tim tôi” mà sao lại “để tình yêu xay mòn thành đá cuội”?
“Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng” mà sao lại “ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau”?
Người nghe tuy có thích nhạc TCS nhưng lại ít khi thuộc được trọn bài nào của ông cũng vì những chỗ khó hiểu và những ý tưởng không liền lạc như vậy.
Ta còn gặp những cái bất ngờ thú vị khác. “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng, để làm gì em biết không?” Ông hỏi vậy, và người nghe chưa kịp suy nghĩ để trả lời thì ông đã giải đáp luôn: “Để gió cuốn đi”. Lát sau lại hỏi tiếp: “Sống trong đời sống cần có một mối tình, để làm gì em biết không?” Câu trả lời vẫn là “để gió cuốn đi”. Một người bạn tôi gọi những câu hát này là “đố vui để học”.
Đến cả những cái tựa bài hát nghe cũng là lạ. “Gần Như Niềm Tuyệt Vọng” nghĩa là sao? Mới chỉ gần gần thôi, chưa đến nỗi tuyệt vọng lắm, vẫn còn có chút hy vọng (?). Vậy thì cũng được an ủi phần nào. “Cỏ Xót Xa Đưa” nghe cũng hay hay, nhưng đến “Tình Xót Xa Vừa” thì lại hơi khó hiểu. Biết thế nào là vừa. Là xót xa vừa phải thôi, không nhiều lắm chắc? “Nghe Những Tàn Phai” nghe cũng hay hay, nhưng đến “Xanh Lòng Phai Tàn” thì lại hơi lấn cấn. Nghe giống như… “xanh vỏ đỏ lòng”.
Có những chữ TCS hay dùng đi dùng lại nhiều lần, đôi lúc có hơi lạm dụng, nghe không được ổn lắm. “Khói trời mênh mông” hoặc “tuổi đời mênh mông” nghe vẫn hay và dễ hình dung hơn là “mắt cười mênh mông giữa đôi bàn tay” (Vẫn Có Em Bên Đời). Dù là mắt cười hay môi cười thì cũng khó mà mênh mông được (không giống như “mắt em mênh mông buồn”). Tương tự, không dễ gì hình dung được thế nào là một tiếng hát… rực rỡ, xanh xao, hay vàng vọt, như là “nghe tiếng hát xanh xao của một buổi chiều” (Lời Buồn Thánh). Nhưng cũng không hề gì, người hát vẫn cứ hát, người nghe vẫn cứ nghe, có khi lại thấy thích vì những cái là lạ ấy.
Có khi những cái sai vẫn cứ được mọi người chấp nhận, và đấy cũng là một cái lạ nữa. “Một trăm năm đô hộ giặc Tây” (Gia Tài Của Mẹ), câu ấy một đứa bé lên mười ở Việt nam cũng biết là sai, vậy mà vẫn cứ được hát đi hát lại một thời nào ở trong nước. Lỗi ấy hoặc vì thiếu chữ (để sánh đôi với “một ngàn năm nô lệ giặc Tầu” ở câu trước), hoặc vì trong lúc đặt lời phải chịu gò ép theo những nốt nhạc cao thấp, trầm bổng. (Phạm Duy chẳng hạn, cũng không vượt qua được cái khó tương tự. “Chuyện đôi ta… buồn ít hơn vui” là câu hát mà ông rất muốn viết ngược lại để kể về một chuyện tình buồn thảm mà hai kẻ yêu nhau nay đã “Nghìn Trùng Xa Cách”). Hoặc, trong một lúc vội vàng, nhạc sĩ họ Trịnh đã viết nhầm một chữ trong câu hát, đọc thành “công viên chiều qua rất… ngắn” (Nhìn Những Mùa Thu Đi), và đến nay nhiều người vẫn cứ hát theo như vậy mà không bao giờ chịu đổi lại thành “rất nắng”, cũng không bao giờ tự hỏi đâu là sự khác biệt giữa… công viên ngắn và công viên dài.
Sau một quá trình nhiều năm nghe nhạc TCS, và lắm lúc còn hát nghêu ngao nữa, tôi thấy cần phải thú nhận một điều, có đôi khi nghe những lời nhạc của ông, tôi thực tình không hiểu ông muốn nói điều gì, và tôi nghĩ may ra chỉ có ông mới giải thích nổi. Tôi nói “may ra” là bởi vì, nói thật, nhiều khi tôi chắc ông cũng không hiểu gì… hơn tôi lắm. Có khác một điều, ông viết ra những lời ấy là xong, là “thân nhẹ nhàng như mây”, còn lại người nghe là chúng tôi thì cứ phải suy gẫm, phải loay hoay giải đoán này nọ, thật là mệt mỏi.
Tôi có đứa cháu thích nhạc TCS. Có hôm cháu hỏi: “Cháu thích bài này. Nhưng mà có mấy câu cháu không sao hiểu được. Tại sao “trong khi ta về lại nhớ ta đi”? Nghe giống như “Vân Tiên cõng mẹ chạy vô chạy ra” quá. Còn “từng lời bể sông nghe ra từ độ suối khe” nghĩa là sao?” Sau khi loay hoay giải thích những đối nghịch và tương quan giữa đi, về, sông, biển mà đứa cháu có vẻ vẫn không chịu hiểu, tôi đành phải nói: “Vấn đề là cháu thích nghe hay không thích nghe, thế thôi. Nếu thích là tốt, cứ tiếp tục nghe. “Đừng băn khoăn, đừng nghi ngại”. Nhạc TCS là nhạc “đừng hỏi tại sao”. Tất nhiên là câu trả lời không làm đối tượng thỏa mãn, nên sau đó tôi lại phải đưa ra lối giải thích khác: “Câu hỏi của cháu là những “lời bể sông”, mà cách đây ba mươi năm, nghĩa là “từ độ suối khe”, chú cũng đã từng hỏi như vậy.” Không rõ đối tượng có thỏa mãn hơn, nhưng từ đó không thấy hỏi han gì thêm nữa, trong lúc nghe thì vẫn cứ nghe. Nói điều này để thấy rằng đã có đến hai thế hệ nghe và yêu thích nhạc TCS.
Cái lạ được nâng lên một bậc nữa lại đi đến chỗ cầu kỳ, lập dị, hoặc sáo rỗng, vô nghĩa, thường thấy trong những bài nhạc TCS viết ở thời kỳ đầu, như: “Ngựa hồng đã mỏi vó, chết trên đồi quê hương…”, hay “người hãy nhớ mang theo hành trang qua khoang trời vắng chân mây địa đàng” (Xin Mặt Trời Ngủ Yên); hoặc như: “Có khi nắng khuya chưa lên, mà một loài hoa chợt tím…” (Chiều Một Mình Qua Phố); hoặc như: “Bài ca dao trên cồn đá, trên ngai vàng quê nhà… (Vết Lăn Trầm), hoặc như: “Rồi dòng sông cũng mang theo tên người vào huyền thoại, tay hư vô che dấu, chiều qua truông mây sâu…” (Lời Của Dòng Sông). Những lời lẽ khiến người nghe cứ phải suy gẫm mãi và dễ cảm thấy mình… “rồi như đá ngây ngô”.
Tôi nhớ có lần nghe TCS loay hoay giải thích ý nghĩa về cái tựa một bài hát của ông và câu “giật mình ôi chiếc lá thu phai”, và về chữ “da du” do ông sáng chế trong câu “chờ ta da du một chuyến” (Vết Lăn Trầm). Ông sợ người nghe không hiểu rõ ý nghĩa những từ này, thế nhưng, ông càng cố gắng giải thích, người nghe là tôi lại càng… thấy khó hiểu. Ông muốn nói gì thì nói, với tôi, chiếc lá thu phai là… chiếc lá thu phai. Như thế là đủ, như thế là hay rồi, đâu có cần lời giải thích nào thêm nữa. Ngày xưa chúng tôi đã không đòi ông phải cắt nghĩa thế nào là “lời buồn thánh” với lại “vết lăn trầm”, thì bây giờ có lẽ nào lại đi thắc mắc vớ vẩn về chữ nghĩa của TCS.
Cái đẹp trong ngôn ngữ TCS

Có người gọi TCS là thi sĩ. Tôi không cho là như vậy. Ông có làm thơ, và trong những câu nhạc của ông ta nhặt được những ý thơ và cả những câu thơ thật là đẹp nữa, nhưng ông mãi mãi là nhạc sĩ, không phải là thi sĩ. (Cũng như ông có vẽ tranh, nhưng không phải họa sĩ). Nếu ông chỉ làm thơ, tôi không chắc ông sẽ được bao nhiêu người biết tên. Không có ông, ta còn nhiều thi sĩ khác. Nhưng chỉ có một TCS thôi. Tôi có đọc ít bài thơ ông, có bài hay, nhưng vẫn không gây cho tôi ấn tượng nào rõ nét lắm, nghĩa là dưới mỗi bài thơ ông không để lại dấu ấn đậm nét nào có khắc tên ông. Thế nhưng nhạc của ông thì đúng là nhạc TCS. Dường như chỉ khi ông viết lời nhạc, cái thi hứng mới trào ra, những lời ấy như hóa thành thơ, và nhạc lẫn thơ bay lên. Người nghe đôi lúc khó phân biệt những câu dưới đây là nhạc hay thơ, là thơ hay nhạc, vì nhạc thơ, thơ nhạc quyện lẫn vào nhau:
Ta vẫn mong, ta chờ mãi trong từng ngày quạnh hiu
Ta vẫn mong em về đây cho đời bày cuộc vui…
(Rừng Xưa Đã Khép)
Vườn năm xưa em đã đến, nay trăng quá vô vi
Giọt sương khuya rụng xuống lá, như chân ai lần về…
(Nguyệt Ca)
Ta nghe nghìn giọt lệ, rớt xuống thành hồ nước long lanh…
(Như Cánh Vạc Bay)
Những giọt mưa, những nụ hoa, hẹn hò gặp nhau trước sân nhà…
(Bốn Mùa Thay Lá)
Sau lưng ngày con gái. Môi son đừng biếng lười. Cho ta còn mãi mãi.
Chút mùi phấn hương bay… (Yêu Dấu Tan Theo)
Lời TCS hay đến mức, ở một đôi bài, nhạc không bắt kịp lời. Gặp phải những bài như thế tôi vẫn cứ tiếc, và đôi lúc nghĩ rằng ông ghép nhạc vào lời hơn là ghép lời vào nhạc. Những Nắng Thủy Tinh, Như Cánh Vạc Bay, Ru Ta Ngậm Ngùi, Yêu Dấu Tan Theo, Nguyệt Ca, Đêm Thấy Ta Là Thác Đổ… là những bài thơ hơn là những bài nhạc. “Nắng Thủy Tinh” hoặc “Nhìn Những Mùa Thu Đi” chẳng hạn là những bài đẹp cả về lời thơ lẫn ý nhạc. Những nốt nhạc mềm mại rót xuống ở cuối câu “đưa em về nắng vương nhè nhẹ…”, nghe sao mà “nhè nhẹ”. Và tiếng hát Khánh Ly, Lệ Thu quấn quýt, đan quyện vào nhau đã luôn luôn là những tiếng hát của một mùa nào lãng mạn, ru tôi trong chiếc nôi đời êm ái, nhìn những cụm mây mùa thu bay đi, bay đi.
Trong nhạc TCS không phải chỉ có thơ mà còn có cả tranh vẽ nữa, và những bức tranh sinh động của ông cũng thể hiện qua những lời nhạc giàu hình ảnh, có khi chỉ là những nét ký họa, có khi là những bức tranh cảnh vật đầy mầu sắc, có khi là những bức chân dung của… “người về soi bóng mình, giữa tường trắng lặng câm”, hoặc những tranh tĩnh vật như “… thấy đời là những quán không, bàn im hơi bên ghế ngồi”, và còn có cả những bức vẽ trừu tượng nữa. Thử dạo qua một vòng phòng tranh TCS:
Hồ Tây chiều thu mặt nước vàng lay, bờ xa mời gọi. Mầu sương thương nhớ, bầy sâm cầm nhỏ vỗ cánh mặt trời… (Nhớ Mùa Thu Hà Nội)
Mây và tóc em bay trong chiều gió lộng, trời làm cơn mưa xanh dưới những hàng me… (Tuổi Đời Mênh Mông)
Trong lòng phố mưa đêm trói chân, dưới hiên nhìn nước dâng tràn, phố bỗng là dòng sông uốn quanh… (Em Còn Nhớ Hay Em Đã Quên)
Một vài bức khác, đòi hỏi cần có chút tưởng tượng:
Ta thấy em trong tiền kiếp với cọng buồn cỏ khô. Ta thấy em đang ngồi khóc khi rừng chiều đổ mưa… (Rừng Xưa Đã Khép)
Giòng nước mắt sẽ bay trong trời, làm cơn mưa rớt trên chăn gối, lời cỏ cây hát trên da người… (Hãy Khóc Đi Em)
Có rất nhiều những bức vẽ giàu hình ảnh và màu sắc như vậy.
Cái đẹp, cái hay có khi chỉ nằm ở một chữ trong câu hát, như là chữ “suốt” trong những câu dưới đây chẳng hạn:
Ngọn gió hoang vu thổi suốt xuân thì… (Một Cõi Đi Về)
Gọi tên em mãi suốt cơn mê này… (Hạ Trắng)
Đường đi suốt mùa nắng lên thắp đầy… Hạ Trắng)
Hãy nghiêng đời xuống, nhìn suốt một mối tình… (Để Gió Cuốn Đi)
Lá hát như mưa suốt con đường đi… (Em Còn Nhớ Hay Em Đã Quên)
Rọi suốt trăm năm một cõi đi về… (Một Cõi Đi Về)
Chữ “suốt” ở câu trên hay đến vậy lại bị một số ca sĩ đổi thành “xuống” thì quả là “nỗi đau phiền muộn” cho những người yêu nhạc TCS. Tương tự, trong “Hướng Về Hà Nội” của Hoàng Dương, ở câu hát “thanh bình tiếng guốc reo vui…”, tiếng “guốc” bị một số ca sĩ đổi thành tiếng “hát” cũng là một “nỗi đau” khác, vừa vô nghĩa (tiếng hát làm sao mà reo được), vừa không nghe ra được những âm thanh rộn rã rất “thanh bình” trong tiếng guốc khua vang trên những vỉa hè, đường phố Hà nội, và hình ảnh thướt tha của những tà “áo mầu tung gió chơi vơi”. Hát sai một chữ làm hỏng một câu nhạc, có khi cả một bài nhạc.
Có những bài nhạc tôi chắc là TCS thích, vì vẫn nghe ông nhắc đến, nhưng lại ít có người hát, ít có người nghe. Có khi ông muốn nói nhiều quá, người nghe lại ít chịu nghe. Những bài hát được ông lồng vào những triết lý, những thiền vị chẳng hạn, dường như ít được thành công, hiểu theo nghĩa ít được phổ biến. Người nghe dễ đón nhận hơn nếu chỉ một vài nét chấm phá và một chút thi vị: “Yêu em lòng chợt từ bi bất ngờ…” (Ru Em), hoặc “Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ…” (Mưa Hồng).
Cái đẹp còn ở những lời tả tình tả cảnh về một quê hương, một nơi chốn thân quen trong mỗi trái tim người Việt:
Chiều trên quê hương tôi, có những chốn riêng cho mọi người, những con đường lứa đôi, những góc hè phố vui… (Chiều Trên Quê Hương Tôi)
Hoặc:… quê nhà đó năm xưa có em, có bóng dừa, có câu hò, có con đò chở nắng mưa đi.” (Em Còn Nhớ Hay Em Đã Quên)
Thật khó mà viết được những lời đẹp đến vậy nếu không có trái tim nặng trĩu tình yêu quê hương. “TCS đã hát về quê hương đất nước bằng cả tấm lòng của một đứa con biết vui tận cùng những niềm vui, và đau tận cùng những nỗi đau của tổ quốc mẹ hiền,” Văn Cao đã viết về ông như vậy.
“Đời Gọi Em Biết Bao Lần”, “Vì Tôi Cần Thấy Em Yêu Đời”, và “Tuổi Đời Mênh Mông” nữa…, là những bài hát thể hiện cái đẹp của lòng nhân ái.
Tôi có nghe đâu đó nói rằng nhạc TCS được cả người Nhật yêu thích, hoặc được dịch ra thứ tiếng này tiếng nọ. Tôi không tin lắm. Phải đau cái đau của thân phận máu đỏ da vàng, của một đất nước chìm ngập trong khói lửa chiến tranh, phải mang trong tim mình một quê hương rách nát, phải nghe được những lời “đại bác ru đêm”, phải thấy được “từng vùng thịt xương có mẹ có em”, phải thấy được xác những người lính chết vội chết vàng, “nằm chết như mơ”, và còn phải sống phải yêu thiết tha, sôi nổi trong những máu xương lửa đạn ấy, nghĩa là phải có trái tim hòa cùng một nhịp đập với trái tim người Việt mới nghe ra được từng lời nhạc TCS thấm vào từng mạch máu, từng tế bào. Nếu họ có tìm đến TCS, nhiều lắm cũng chỉ để “khảo sát một hiện tượng” được nhiều người Việt nói đến. Còn nếu nói rằng họ chỉ yêu thích những tình khúc TCS, tôi cũng còn chút ngờ vực cho đến khi có ai đó nói rằng có thể chuyển dịch được những lời nhạc của ông sang thứ tiếng nào đó để người ngoại quốc có thể hiểu được thế nào là “tóc em từng sợi nhỏ, rớt xuống đời làm sóng lênh đênh”.
Ngôn ngữ TCS quả đã làm giàu và đẹp thêm cho kho tàng tiếng Việt, hoặc ít ra có thể nói mà không sợ lầm, ông là người viết lời đẹp nhất cho những ca khúc. Những lời đó trước đây và cả về sau nữa, tôi tin vậy, chưa từng có ai viết, và cũng không ai bắt chước, không ai làm giả được. (Nếu có hàng mạo hóa, người nghe sẽ nhận ra ngay những TCS “giả”). Như thế thì cái chết của ông, ít nhiều gì cũng gây nên những mất mát và thiệt thòi, ít ra là đối với những người có cái nhìn khách quan về những đóng góp của ông.
Tất nhiên không phải mọi ca khúc TCS đều hay cả. Có một số những bài hay, một số những bài trung bình, có bài chỉ nhặt ra được một hai câu, có bài không được kể là nhạc vì không bắt nguồn từ một cảm xúc nào, hoặc được làm theo đơn đặt hàng, như bài hát về công trình xây đắp thủy điện Trị an: “Dòng điện như dòng sông, cho đời một tấm lòng…” chẳng hạn. Cũng nói đến “dòng sông”, cũng nói về “tấm lòng”, nhưng người nghe thấy gượng ép, giả tạo. Những bài nhạc ấy không tồn tại được, không được ai hát. Chúng biến mất ngay khi vừa mới ra đời, và không được người đời nhắc tên. Những bài hát mang một số phận khác.
Nghe nhạc TCS giống như là nhấm nháp từng ngụm café hay từng ngụm trà nhỏ, từng ngụm nhỏ thôi, để nghe được cái hương vị đậm đà chầm chậm, từ từ thấm vào đầu lưỡi. Nghe nhạc TCS là phải nghe trong những lúc thư thả, không bận rộn, nghe “không cần vội vã”, nghe với “trái tim thật thà”, để nghe được từng câu, từng chữ, từng lời nhạc khe khẽ, nhẹ nhàng len lỏi, luồn lách vào mọi ngóc ngách trong cơ thể, thấm vào từng mạch máu, chạm khẽ đến trái tim.
Tình yêu trong nhạc TCS

Mùa xuân thay lá mùa đông, để nghe chim hót chuyện tình…
(Thành Phố Mùa Xuân)
Câu hát ấy là một trong những câu tôi thích trong những ca khúc TCS. Có hai lý do: thứ nhất, câu ấy làm nhớ tới câu thơ ngày xưa của Vũ Thành:
Đàn chim về hót trong thành phố
Kể chuyện hai người xa cách nhau
Thứ hai nữa, đấy là một câu hiếm thấy trong những câu viết về tình yêu trong nhạc TCS: có mùa xuân, có cây lá đâm chồi nẩy lộc, có chim hót líu lo kể chuyện tình. Tình yêu trong nhạc TCS có một khí hậu riêng, có một bộ mặt khác, không giống như những ca khúc viết về tình yêu của những người viết nhạc khác. Dường như ông ít khi viết một chuyện tình nào trọn vẹn, tròn đầy, ông chỉ viết phần cuối, hoặc về một tình yêu đã mất. Cứ đọc thử những cái tựa bài hát là đủ thấy: Cuối Cùng Cho Một Tình Yêu, Hãy Khóc Đi Em, Tình Nhớ, Tình Xa, Tình Sầu… Ông viết về những hạnh phúc buồn bã, những nỗi vui ngậm ngùi, những bất an và bất trắc của những cuộc tình không may… Những kẻ yêu nhau trong nhạc TCS có vươn tay về phía nhau nhưng không chạm tay vào nhau được.
Nghe nhạc TCS cũng là nghe những lời đau xót, những nỗi dằn vặt, giằng xé, dày vò, những “mưa quanh chỗ nằm”, những “đêm đổ xuống đời ta”, “đêm thì thầm tiếng buồn”… ở những lời ông viết ta đọc thấy những lần chia tay, những nỗi chia lìa:
Từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ… (Tình Xa)
Dù ngày mai em như chim bay, bỏ quên đây một người… (Hãy Cứ Vui Như Mọi Ngày)
Từ lúc đưa em về, là biết xa nghìn trùng… (Như Cánh Vạc Bay)
Đâu ngờ tình như lá úa, khiến tôi chia lìa từng giấc mơ… (Trong Nỗi Đau Tình Cờ)
Ông cũng có những lần tự thú trong tình yêu, trái tim ông quá đỗi yếu mềm đến độ lắm lúc ông rất muốn quên đi một hình bóng mà vẫn không sao quên được. “Tưởng Rằng Đã Quên” chỉ là “Tình Nhớ” nối dài. Chỉ có khác một điều, “những bước chân mềm mại đã đi nhẹ vào đời” ở “Tình Nhớ”, đã đổi thành “chợt từng bước em là từng mũi đinh cuồng điên” ở “Tưởng Rằng Đã Quên”. Ông đã phải thú nhận, “Tưởng rằng có thể quên đi dễ dàng một cuộc tình, nhưng hóa ra chẳng bao giờ quên được.” Trái tim ông cũng đầy những mảnh vá. “Mượn cuộc tình này để xóa cuộc tình kia chỉ là một sự vá víu cho tâm hồn,” ông nói, “những mảnh vá ấy chỉ đủ để làm phẳng lặng bên ngoài mà thôi…”
Có lắm lúc ông thật hồn nhiên trong tình yêu: “Tôi đã yêu em như trẻ thơ…”, hoặc “tôi đã yêu em bao ngày nắng, tôi đã yêu em bao ngày mưa, yêu em bên đời lặng lẽ…, yêu em trái tim thật thà” (Trong Nỗi Đau Tình Cờ). Cách yêu của ông cũng có vẻ hơi khác thường. Ông yêu thật từ tốn, thật chậm rãi, không phải vội vàng, như người ngồi nhấm nháp và thưởng thức từng ngụm trà nhỏ, hoặc ngồi nhìn từng giọt café rót xuống từng giọt, từng giọt, trong lúc lắng nghe từng nốt nhạc… “Yêu em không cần vội vã, yêu trong nỗi vui đợi chờ.” (Trong Nỗi Đau Tình Cờ). Thậm chí, còn có những khi “yêu em, yêu thêm tình phụ, yêu em lòng chợt từ bi bất ngờ.” (Ru Em) nữa. Những lời lẽ nghe thì dịu dàng, nhẹ nhàng và đơn sơ như vậy, nhưng lại có bao nhiêu là vết thương. Những vết thương sâu mà ông gọi là… “vết thương hồn nhiên”. Những nỗi đớn đau mà ông gọi là… “niềm đau ngọt ngào” hay “nỗi đau tình cờ” (trong khi ông cũng biết chắc là khó mà ngọt ngào hay tình cờ nổi). Trong lòng ông luôn luôn dâng lên nỗi khát khao muốn được đi lại từ đầu, muốn được yêu thêm một lần nữa, muốn được bắt đầu lại một chuyện tình với trái tim mới biết yêu. Ông khẩn khoản: “Cho tôi đi xây lại chuyện tình…” (Xin Cho Tôi), những chuyện tình chắc hẳn đã để lại trong ông rất nhiều hối tiếc.
Trong những tình khúc TCS, tình yêu vừa là mật ngọt, vừa là mật đắng, “mật ngọt trên môi, mật đắng trong đời”. Tại sao lại như vậy? Người viết những ca khúc ấy không có lời giải thích, chỉ nghe ông nói, “Con người không thể sống mà không yêu. Có người yêu thì hạnh phúc, có người yêu thì đau khổ. Nhưng dù đau khổ hay hạnh phúc, con người vẫn muốn yêu. Tình yêu vì thế mà tồn tại.”
Những chuyện tình ông viết thường là những chuyện tình lặng lẽ, không sóng gió, không sôi nổi, nhưng không phải là không đắm say, nồng nàn.
Tôi xin làm cây xa, đứng nhìn em rực rỡ. Tôi xin làm nụ cười, chờ em giữa đôi môi. Tôi xin làm mộng nhỏ, em vừa giấc ngủ say… (Vì Tôi Cần Thấy Em Yêu Đời).
Trong nhạc tình TCS, không có những lời thề non hẹn biển, mà chỉ có “ta gặp tình cờ như là cơn gió”, và những lời hẹn thề chỉ “là những cơn mưa”. Cũng không có những lời thở than, sướt mướt “duyên kiếp lỡ làng rồi”, mà chỉ có những lời cố làm ra vẻ hững hờ, dửng dưng như “ừ thôi em về…”, hoặc là “em về hãy về đi, ta phiêu du một đời…” Chuyện gì cũng cho là tình cờ, như cơn mưa bất chợt, vội vàng đến vội vàng đi. Ngay đến cả tuổi thọ của những chuyện tình xem ra cũng chẳng dài lâu, chỉ “mong manh như nắng” và “thoảng như gió vội”.
Ta gặp tình cờ như là cơn gió… (Hoa Vàng Mấy Độ)
Em ra đi như thoáng gió thầm… (Tạ Ơn)
Tình đến lặng lẽ, “tình đi âm thầm, lạnh lùng như dấu chim…”, trong khi ông còn ngồi lại đó, “bên đời hiu quạnh”, khi mà hạnh phúc đã khô queo như một dòng suối cạn, nhưng vẫn cứ mong đợi hoài những giấc mơ sẽ không bao giờ đến.
Ta vẫn mong, ta chờ mãi trên từng ngày quạnh hiu.
Ta vẫn mong em về đây cho đời bầy cuộc vui… (Rừng Xưa Đã Khép).
Ông cũng hay nói về những giấc mơ. Một bài hát có những lời và hình ảnh thật là đẹp nhưng lại ít được người nghe ở đây đón nhận chỉ vì có những câu mà người ta không muốn nghe chút nào, chẳng hạn “thành phố vẫn có những giấc mơ…” Nghĩ cho cùng, chẳng ai ngăn cấm được những giấc mơ. Ngay cả khi thân ta bị giam hãm tù đày, những giấc mơ vẫn còn được tự do. Người ta đã không thể nhốt được gió thì cũng không thể nào giam giữ, bỏ đói, hay giết chết được những giấc mơ. Và cuộc sống không thể nào thiếu được những giấc mơ. TCS có một cái tội mà ngay chính ông cũng khó lòng tha thứ cho ông được (vì có tha thứ rồi cũng sẽ tái phạm): đó là ông đã có những giấc mơ (chẳng hạn giấc mơ về thành phố mà ông đang sống, và giấc mơ nối được một vòng tay lớn). Ông đã sống cùng những giấc mơ đó, và đã chết cùng những giấc mơ đó. Chính những giấc mơ đó, chứ không phải ai khác, không phải điều gì khác, đã khiến ông bị oán ghét. Nhưng ông không thể nào đổ lỗi cho những giấc mơ, mặc dầu ông đã phải trả giá cho những giấc mơ ấy. Đã có người nào đó nói rằng ca khúc TCS là “những bản tình ca không có hạnh phúc”, tôi nghĩ, đấy còn là những bản tình ca về những giấc mơ rạn vỡ.
“Sống mà giữ mãi trong lòng những hờn oán thì cũng nặng nề… Ta biết tha thứ những điều nhỏ thì cuộc đời sẽ tha thứ cho ta những điều lớn hơn,” ông nói vậy, và ta cũng nhận là đúng thôi. Khi còn sống, trong những năm cuối đời, ông có được lắm kẻ yêu và cũng nhiều người ghét, ông nhận được cả những lời ngợi ca và những câu nguyền rủa, cho ông thấy “những con mắt thù hận, cho ta đời lạnh câm” (Những Con Mắt Trần Gian). Yêu và ghét, cũng như tốt và xấu, hai mặt của cuộc sống, có khi chỉ là một. Những người ghét ông, là bởi vì trước đó họ đã trót yêu ông quá đấy thôi. Nếu không yêu ông lắm người ta đã không ghét ông nhiều đến vậy. Tình yêu biến thành tình hận. Ông giống như một người tình phụ bạc vậy. Đúng là do lỗi ông thôi, ông không thở than vào đâu được. “Đời tôi ngốc dại, tự làm khô héo tôi đây…” (Chiếc Lá Thu Phai), ông cũng chẳng từng đấm ngực tự thú đó sao. Nhưng cũng đâu có phải vì mối hận tình đó mà tấm nhan sắc kia bỗng đổi thành xấu xí, những bản tình ca kia chẳng còn ai muốn nghe… Còn những người yêu ông thì lại càng yêu ông hơn sau ngày ông lặng lẽ rời bỏ “một cõi đi về” này…
Thế còn ông, vì ông đã nói những lời trên, tôi chắc ông cũng chẳng cay đắng, hờn trách chi cuộc đời. Một người từng có những lúc “chuyện trò với lá cây” thì khó mà có thể giận hờn ai được. “Đời Cho Ta Thế,” ông nói trong một ca khúc, có nghĩa là, dẫu có hay dở, tốt xấu thế nào ông cũng sẵn sàng và vui vẻ mở gói quà tặng của cuộc đời. TCS, ông là ai vậy? “Tôi biết rõ rằng tôi chỉ là một loài chim nhỏ hót chơi trên đầu những ngọn lau,” ông nói. Nếu không muốn nghe những lời chim hót, tôi chắc cũng chẳng ai đành lòng ném đá xua đuổi để con chim nhỏ ấy phải bay đi nơi khác.
Tôi có người bạn, nghe tin TCS mất và thấy nhiều người tỏ lòng thương tiếc người nhạc sĩ tài hoa, anh nhún vai nói: “Chẳng nên bi lụy thái quá. Có những kẻ chết nhiều lần trước khi chết thật. Cái tin này chẳng qua chỉ là xác nhận lại một cái chết từ năm bảy mươi lăm mà thôi.” Thế nhưng sau đấy, có một lúc nào đó tôi nghe được từ miệng anh câu hát vu vơ: “Tình mong manh như nắng, tình còn đầy không em?…” Như vậy là anh bỏ TCS, chứ TCS đâu có bỏ anh. Tôi nghĩ là chúng ta sẽ dễ dàng quên TCS thôi nếu một ngày nào đó không còn ai hát nữa những câu nhạc tình vu vơ như vậy. Chắc là phải đợi cho đến lúc ở quanh ta không còn có những cặp tình nhân, không còn có những kẻ yêu nhau và phụ nhau, cũng không còn ai muốn nói với ai những lời tình tự ngọt ngào. Và nếu như thế, cuộc sống sẽ buồn tẻ biết chừng nào.
Nghe nhạc TCS có được chút hạnh phúc là có ông chia sớt, san sẻ cùng ta những nỗi vui, niềm đau. Ông nói hộ ta những điều ta muốn nói. Ông cũng bày tỏ, thố lộ dùm ta những tình cảm sâu kín nhất trong ta. Khi nghe những lời ông tự vỗ về, an ủi, ta như cũng được vuốt ve, xoa dịu. Trong những ca khúc TCS, ông đã vừa nói với ông lại vừa nói với ta nữa. Nhạc TCS, như vậy, cũng có thể được gọi là những “tự tình khúc”, như là tựa một bài hát của ông vậy.
Có ai trong mỗi chúng ta lại chẳng có một chút TCS, theo cái nghĩa đó. Chỉ cần một chút thôi (nói theo chữ ông hay dùng) cũng đủ giúp ta có lúc tạm quên đi cái gánh nặng “đời cơm áo”. Vậy thì cũng nên cám ơn ông lắm chứ, vì ông đã gánh nhẹ dùm ta những nỗi phiền muộn của đời sống, và cũng vì chút lẽ công bằng (biết đâu lại chẳng khiến ông phải ân hận mà rút lại lời trách móc nhẹ nhàng “đôi tay nhân gian chưa từng độ lượng”). Và, cuộc đời như thế cũng sẽ đẹp thêm lên một chút.
Nỗi cô đơn và cái chết trong nhạc TCS

Như hầu hết các nhạc sĩ sáng tác, TCS không có giọng ca tốt. Ông chỉ là người soạn ca khúc, muốn những ca khúc đó tới được người nghe, ông phải mượn đến những giọng ca khác. Ông nói giọng Huế và khi hát, ông không thoát ra được âm hưởng nằng nặng của chất giọng địa phương đó. Những ca sĩ khác làm được nhưng ông không làm được. Điều này cũng hơi bất tiện cho ông, chẳng hạn khi ông muốn giới thiệu một ca khúc mới, người nghe không dễ gì “cảm” được ca khúc ấy khi nghe ông hát lần đầu. Có thể người ta vẫn chịu khó nghe ông vì họ muốn được nghe bằng chính giọng ca của người làm nên ca khúc đó. Còn nếu ông có ý định thực hiện một đĩa nhạc chỉ với giọng hát của ông thôi, tôi e rằng đấy sẽ là một trong những đĩa nhạc bán chậm nhất. Tuy nhiên, có một lần nào đó được nghe ông hát “Một Cõi Đi Về”, tôi lại có cái cảm giác thật khác với những lần tôi nghe những ca sĩ khác hát cùng bài hát ấy. Khi ông cất giọng, giọng của ông nghe vốn đã yếu, lại như vẳng ra nỗi cô đơn thăm thẳm từ một đáy vực nào. Cái giọng hiu hắt ấy theo tôi từ câu đầu tới cuối bài hát. Lại thêm tiếng đàn đệm guitar nữa, không rõ có phải tiếng đàn của ông, nghe sao thật rã rời. Cùng với những lời buồn bã của bài hát ấy, tất cả như toát lên nỗi tuyệt vọng thảm sầu… Rõ ràng là tôi chưa hề nghe một giọng hát nào cô đơn đến vậy.
Nếu những ca khúc ông viết ra từ những bài đầu tiên đến những bài cuối cùng, là những bài gần đây nhất, đã trải dài suốt cuộc đời ông, đọc lại lời nhạc trong những ca khúc đó, ta như thấy nỗi cô đơn ấy cũng trải suốt những năm tháng cuộc đời ông, cũng chẳng khác chi “ngọn gió hoang vu thổi suốt xuân thì” vậy. Những chữ “hoang vu”, “âm u” được ông dùng nhiều lần trong lời nhạc của ông. Ông như một người bước đi chập choạng trên nỗi cô đơn từng ngày. Ta tưởng tượng chỉ có một mình ông thôi trên “con đường dài vắng người” ấy. Ông hay nói “một mình”, cái gì cũng chỉ “một mình” thôi. “Một ngày như mọi ngày, đi về một mình tôi”, “bóng đổ một mình tôi” (Một Ngày Như Mọi Ngày), hoặc “trời cao đất rộng, một mình tôi đi; đời như vô tận, một mình tôi về, một mình tôi về với tôi” (Lặng Lẽ Nơi Này). Câu hát “làm sao em biết đời sống buồn tênh” nghe như tiếng thở dài thật nhẹ, nhưng cũng đủ thấy lòng chùng xuống. Ông từng trải qua những nỗi cô đơn cùng tận đến có lúc ông phải tự thốt lên lời vỗ về, an ủi chính mình: “Tôi ơi, đừng tuyệt vọng”, nghe như lời kêu cứu thảm thiết để ông phải chạy lại mà cứu lấy chính ông ra khỏi vũng lầy tuyệt vọng.
Không phải là thế giới quanh ông không mang đến được cho ông chút ý nghĩa nào để ông thấy cuộc đời đáng sống, hoặc chẳng có ai chia sớt cùng ông những niềm vui nỗi buồn trong cõi sống mịt mùng này, ông vẫn có những khi hạnh phúc, vẫn có những thú vui, thế nhưng ngay cả khi ông nói về những nỗi vui, ta vẫn nghe pha chút ngậm ngùi: “Hãy cứ vui chơi cuộc đời, dù ngày mai em như chim bay…” (Chim bay xa rồi làm sao vui được!), hoặc “hãy cứ vui như mọi ngày, bên trời còn nắng, lá trời còn xanh, phố còn người đông, rồi quên rồi quên…” (Quên được chắc cũng còn lâu lắm!), hoặc “ôi trái tim phiền muộn, đã vui lại một giờ…” (Một giờ thì có ăn thua gì!).
Những ý tưởng trong bài “Một Cõi Đi Về” thực ra không mới, chỉ là tổng hợp những ý đã từng được ông lập đi lập lại nhiều lần, rải rác trong những bài trước đó. Trong những lời của bài hát ấy, có một câu khiến tôi phân vân. “Chẳng biết nơi nao là chốn quê nhà”. Ở ngoài nước người ta đã hát như vậy, ở trong nước người ta cũng hát như vậy. Vậy thì quê hương thực sự ở đâu? Ở trong tim mỗi người có lẽ. Tôi chắc là ý ông cũng muốn nói như vậy. Ông không nói ra điều này với những người lớn, nhưng với những em bé thì ông bảo rằng: “Tim mỗi người là quê nhà nhỏ” (Em Là Hoa Hồng Nhỏ), và còn dặn dò, khuyên nhủ: “Này em trong mỗi con tim, nhớ mang quê hương của mình” (Như Hòn Bi Xanh). Còn riêng ông thì sao? Liệu có đúng là mỗi người đều cần có một quê hương, một nơi chốn để mà trở về… (?)
Ta cũng nghe ông hay nói về gió, những làn gió bay, những hơi gió thoảng… “Em ra đi như thoáng gió thầm…” (Tạ Ơn). “Lòng tôi có khi mơ hồ, tưởng mình đang là cơn gió…” (Lời Thiên Thu Gọi). “Một ngày kia đến bờ, đời người như gió qua…” (Phôi Pha). “Đường trần rồi khăn gói, mai kia chào cuộc đời, nghìn trùng con gió bay…” (Những Con Mắt Trần Gian). Và ông cũng hay nói đến những hẹn hò: “Những hẹn hò từ nay khép lại, thân nhẹ nhàng như mây…” (Như Một Lời Chia Tay). “Đất hoang vu khép lại hẹn hò…” (Hát Cho Người Nằm Xuống). Và ông cũng đã sắp đặt lại mọi thứ mọi việc cần làm: “Về thu xếp lại…, vội vàng thêm những phút yêu người…” (Chiếc Lá Thu Phai). Và sau cùng, ông cũng ngỏ lời cảm tạ cuộc đời, cảm tạ mọi người, như cách mà người ta vẫn làm trước một chuyến đi xa: “Dù đến rồi đi, tôi cũng xin tạ ơn người, tạ ơn đời, tạ ơn ai đã cho tôi còn những ngày ngồi mơ ước cùng người…” (Tạ Ơn). Cái chết như một nỗi ám ảnh, như được báo trước, hay ít ra cũng đã được chuẩn bị. Chết là hẹn hò với lòng đất, là nói lời chia tay với cuộc đời mà ông đã sống, đã yêu thiết tha, “dù còn phút cuối, xin em nụ cười…” (Vẫn Nhớ Cuộc Đời), và cũng là nói lời chia tay với hết thảy mọi người, những người yêu ông và ghét ông. Cái chết, thật là nhẹ nhàng đối với ông, như là “một hôm buồn ra ngắm dòng sông, một hôm buồn lên núi nằm xuống” (Tự Tình Khúc).
Sau cái chết của ông, ta có chút hụt hẫng. Không hụt hẫng sao được. Lâu nay vẫn có ông bên cạnh mà ta không để ý, đến lúc ông bỗng nhiên bỏ đi ta mới ngơ ngác. Ta đã cùng đi với ông một đoạn đường dài, đã lỡ theo chân ông tới đây. Rồi bỗng nhiên ông đột ngột chia tay, “bỏ mặc con đường”. Trước đây, ta cảm thấy có ông đứng cạnh ta, mỉm cười nói: “Hãy cứ vui chơi cuộc đời…”. Còn bây giờ, ta thấy ông như đứng phía trước ta, đứng giữa con đường, và ông khẽ quay lại, khẽ mỉm cười, lắc lắc đầu nói: “Thôi về đi, đường trần đâu có gì…”. Rồi ông biến mất, trong lúc ta còn đứng giữa con đường. Biết làm sao bây giờ? Chắc là phải quay về thôi, phải đành nghe theo lời ông vậy. “Đường trần đâu có gì,” ông nói vậy. Nhưng biết làm sao quay về. Ông “đi bỏ lại con đường, bỏ mặc tôi ngồi giữa đời tôi…”
Từ khi ông mất, ta nghe cái chết có vẻ như nhẹ nhàng hơn, biên giới giữa sống và chết có vẻ như cận kề hơn, và ta nghe nhạc của ông dường như cũng “thấm” hơn.
Con chim đau, và giấc mộng ưu phiền

Nói đến TCS, không thể nào không nhắc đến tiếng hát đã gắn liền với tên ông, gắn liền suốt chiều dài của những năm tháng mà những ca khúc ông viết ra còn được nhiều người biết đến. Tiếng hát ấy đã không ở lại cùng ông sau ngày ông chọn ở lại, nhưng đã không có lúc nào ngưng hát nhạc của ông. Tiếng hát ấy đã từng là chiếc cầu bền chắc nối liền những ca khúc của ông với trái tim người nghe. Không có tiếng hát ấy, không ai biết chắc số phận những ca khúc của ông sẽ ra sao. Và ngược lại, không có những ca khúc ấy, không ai biết chắc số phận của tiếng hát ấy sẽ như thế nào. Dù sao, nghe lại một lần nữa tiếng hát ấy sau ngày ông mất, trong băng hình của một chương trình ca nhạc, cũng thấy được rằng trước sau giọng hát ấy vẫn gắn liền với ông. Chị đã thật có lý khi chọn hát Diễm Xưa. Qua bao nhiêu là năm tháng, bao nhiêu là tang thương dâu bể, bao nhiêu là vật đổi sao dời, và như cánh chim sau một vòng bay quá dài, chị vẫn muốn tìm về Diễm Xưa. Giọng hát chị không còn trẻ nữa, làn hơi chị không còn khỏe nữa, nhưng những cảm xúc ngày ấy, tôi nghe vẫn còn nguyên vẹn. Diễm Xưa bây giờ lại còn xưa hơn cả ngày xưa. Và tôi nghe lại những “cơn đau vùi”, những “làm sao có nhau…, bước chân em xin về mau”. Còn bước chân ai nữa? Biết làm sao cho có nhau? Giọng hát ấy, tôi nghe như tiếng chim kêu bi thương, thảm thiết. Tiếng chim kêu ấy ngày xưa nghe đã bi thiết, nay lại càng bi thiết hơn. Chị đứng đó một mình trông trơ trụi quá. Sân khấu chỉ còn lại những cây guitar và những nốt nhạc đệm rời rạc, những cây guitar của hơn ba mươi năm về trước. Tôi tưởng trông thấy được những giọt nước mắt chị, (như vẫn thấy ở những ca sĩ khác trong những màn trình diễn tương tự), nhưng chị không khóc, cho dù chị vẫn có thể khóc mà không ai cấm được. Vì nhạc TCS không phải để sụt sùi, hay vì trái tim “hằn lên nỗi đau” đã khiến chị tê dại. Chị không nói lời tình yêu, chị nói đến “định mệnh”, đến “bóng với hình”, đến “một nửa cuộc đời” chị, những lời ấy tôi nghe gấp nhiều lần tình yêu. Chị đã hát sai lời, đã quên cả lời trong những bài sau đó. Nhưng không hề gì, khán giả vẫn xúc động, vẫn có những giọt nước mắt… Gọi là liên khúc nhưng những câu hát ấy đôi lúc chẳng có liền lạc gì với nhau, nghe sao đứt đoạn, gãy vụn… như là những giấc mơ rạn vỡ. Tôi đã nhận ra chị, tôi đã nhận ra Khánh Ly. Chị là con chim đau trong lời nhạc TCS. Đã từ lâu lắm, ở một góc nào đó thật sâu kín trong trái tim chị “con chim đau nằm yên, ngủ dài lâu mang theo vết thương sâu”. Tôi cầu mong “một sớm mai chim bay đi triền miên, và tiếng hót tan trong trời gió lên”.
Có một chỗ chị hát sai lời mà tôi muốn được nhắc. Chị không cần thiết phải thêm chữ “vùi” vào cuối câu hát “không có ai từng ngày, không có ai đời đời ru anh ngủ…” Thêm hoặc bớt, dù chỉ một chữ, sẽ không còn là ngôn ngữ TCS. Và hơn nữa, TCS, ông không ngủ vùi đâu. Ông chỉ ngủ trong chốc lát. Chị có thể cầu cho ông giấc ngủ bình yên. Như thế là đủ. Có lẽ ông cũng chẳng muốn gì hơn. Tôi nhớ là ngày xưa, ông đã từng có lúc ước mơ được là trẻ thơ, ước mơ được “ngủ trong vòng nôi”, để được nghe những lời mẹ ru theo nhịp võng đong đưa. “Xin cho tôi, xin một lần thôi…,” ông khẩn khoản. (Giấc mơ ấy hình như có được ông kể lại trong bài hát nào, lâu lắm rồi tôi không còn nhớ tên). Thế nhưng cuộc sống ông thì lại khác, chẳng có nhịp võng đong đưa, chẳng có lời mẹ ru ngọt ngào, chỉ có những lời “ta ru ta ngậm ngùi”… “Đừng tuyệt vọng, tôi ơi! Tôi ơi, đừng tuyệt vọng!…” Ông cô đơn đến mức chỉ còn trò chuyện được với chính mình, và phải tự đánh lừa mình để biến niềm tuyệt vọng thành “thú đau thương”, biến nỗi đớn đau thành những “niềm đau ngọt ngào”. Nhớ có lần ông nói, “Hãy đi đến tận cùng của tuyệt vọng để thấy tuyệt vọng cũng đẹp như một bông hoa.” Quả là có thứ hạnh phúc buồn bã đến như vậy sao?
Tôi thực tình không định cầu chúc ông hái được những bông hoa của tuyệt vọng, nói như vậy nghe sầu thảm quá. Thôi nói chuyện gì khác vậy. Vì ông vẫn hay nói đến gió, và vì ông cũng là gió của trời nữa, tôi muốn đọc cho ông nghe chơi câu thơ của Nguyễn đình Toàn:
Gió trời xin ngủ bình yên
Coi như giấc mộng ưu phiền đấy thôi…

Vì ông vẫn hay nói đến gió, thôi thì hãy để gió cuốn đi, cuốn đi cho sạch hết mọi nỗi buồn phiền và “những giấc mơ đời hư ảo”. Riêng tôi, nếu có nhớ đến ông, nhiều lắm cũng chỉ là thỉnh thoảng ngồi hát chơi cho vui mấy câu nhạc tình ông để lại cho đời, cũng như là ngày xưa, tôi vẫn nghêu ngao trong những lúc thất tình: “Người ngỡ đã đi xa, nhưng người vẫn quanh đây…”
Trịnh Công Sơn, tôi chắc là ông còn ở lại với chúng ta lâu lắm. Ông chỉ quanh quẩn đâu đây thôi. Ông chưa đi xa lắm đâu.
Lê Hữu
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong, Thuvang

Re: Những Bài Viết Ngắn Chọn Lọc (Sưu Tập)

Postby bevanng » 22 Apr 2018

Những Mảnh Đời


Uống hết lon bia thứ hai, Toàn chậm rãi nói với Tuấn: “Dung đi rồi”.
Tuấn giật mình, nhả vội miếng khô mực: “Cậu nói gì?…”.
Toàn cười khẩy, gật gù nhắc lại: “Dung bỏ đi rồi”.
Tuấn biết bạn nói thật. Trước nay Toàn ít khi nói chơi. Tuấn ngơ ngẩn hỏi bạn: “Sao vậy?”.
Toàn im lặng, đôi mắt chăm chăm nhìn muôn ngàn ánh điện nhảy múa lấp lánh trên mặt sông phía trước…
Một chiếc ca-nô lướt qua, cắt vụn dòng sáng rực rỡ ấy.
Tuấn phân vân… Anh dựa người vào lưng ghế đá, một cảm giác chán chường lạnh lẽo xâm chiếm. Vô lý thật! Sao Dung lại bỏ đi? Họ yêu nhau và hạnh phúc đến thế? Toàn hay Dung có lỗi?…
Thỉnh thoảng Tuấn vẫn hỏi thăm và mừng cho gia đình bạn, dẫu sao anh cũng là ông mai…
Tuấn biết Dung trước Toàn. Trong dịp đám cưới vợ chồng anh, Tuấn hướng về một cô gái mắt đen và hỏi vợ: “Cô nào xinh thế?”. Thúy trả lời: “Em họ em - con bà dì đấy”. Tuấn hỏi tiếp: “Có chồng chưa?” - “Chưa. Nó ngoan nhưng có vẻ kén. Anh định?…”. Tuấn cười: “Làm mai cho anh Toàn nhé?”. Thúy gật: “Em cũng định thế. Chỉ sợ anh Toàn vua kén”.
Toàn là bạn thân của Tuấn, ngoài ba mươi rồi vẫn độc thân. “Tớ tuổi ngựa thong dong” - Toàn nói vậy. Tuấn cười: “Cậu kén bỏ xừ!”. Toàn gật: “Qua tuổi háo hức rồi, lấy vợ hơi khó…”
- “Thôi cậu ơi! Lớn tuổi rồi, nhắm một cô nào đó - tương đối thôi, cười cho xong. Cậu dư điều kiện mà”. Tuấn gật, trầm ngâm: “Chắc tại tớ dân văn nghệ… Có dịp quen nhiều cô, nhởn nhơ đâm lì. Trẻ đẹp dĩ nhiên là thích rồi, nhưng cái đầu phải thông minh và “già” một chút”. Tuấn cười chọc bạn: “Ghê nhỉ? Khó kiếm đấy. Thế thì cậu nên kiếm cái đầu bà tiến sĩ nào đó, ráp vào thân thể một cô người mẫu”. Toàn gật đầu cười: “Bởi vậy tớ toàn nói chuyện với các bà cô, rồi đi chơi với các em”. Tuấn cười lắc đầu. Toàn nói tiếp: “Đùa vậy thôi, vợ chồng là duyên số đấy cậu ạ. Lấy cho xong thì dễ rồi, hợp nhau mới khó. Nói thật với cậu, tớ thích lấy vợ quê hơn, đẹp tự nhiên không cần son phấn, trình độ chỉ cần tương đối, học cao quá có khi xem thường chồng. Nhất là làm ra tiền dễ tự lập, dễ xa nhau, như vợ chồng bên Tây vậy”. Tuấn gật gù: “Biết ý cậu rồi”.
Nên khi thấy Dung xinh đẹp giản dị, Tuấn nghĩ ngay đến Toàn.
Sau đám cưới, Tuấn rủ bạn về quê vợ mình chơi.
Quả nhiên sau đó một tháng, vợ chồng anh được tin Toàn hỏi cưới Dung. Cô giáo còn chờ gì nữa mà không ưng thuận.
Ngày cưới, Dung còn chưa biết sơn móng tay, vậy mà đẹp ơi là đẹp, nàng e lệ sung sướng, còn Toàn thì khoác tay cô dâu hớn hở cười với các bạn, ra vẻ “Thấy chưa?”, sau đó kề tai Tuấn: “Cảm ơn nhiều nhé”.
Lấy nhau nửa năm rồi mà Dung còn chưa dám ôm eo Toàn mỗi khi chồng chở đi chợ. “Vợ tớ quê không tả được” - Toàn vừa nói vừa cười - “Nhưng tớ lại khoái”. Tuấn vỗ vai bạn: “Cậu chắc cú”.
Thế mà sống với nhau được hai mặt con, đùng một cái Dung bỏ đi. Lỗi ở Toàn rồi.
“Tại cậu phải không?” - Tuấn hỏi bạn. Toàn trầm tư: “Có lẽ…”.
Toàn hơi cúi đầu: “Học cái khổ khó. Học cái sướng dễ. Cái sướng dễ làm hư người”. Tuấn nhìn bạn: “Cậu muốn nói gì?”. Toàn nhún vai: “Người giàu chẳng thiết đeo vàng. Vợ tớ khi biết tô môi thì bắt đầu kén chọn son này kem kia, mốt này hiệu nọ. Tưởng gần kẻ giàu có tăm tiếng là vinh dự lắm. Tớ chịu không nổi sự kệch cỡm ấy”
- “Sao cậu không khuyên Dung?”
- “Tớ đã bao lần nói xa nói gần mà Dung vẫn không hiểu. Hay không muốn hiểu? Còn cho là tớ có ý ngăn cản vợ mình tiến thân. Cậu biết tính tớ rồi đấy: Quan trọng là cái tinh thần. Tinh thần đã không hợp thì sống chung chỉ làm khổ nhau. Thà trả tự do cho nhau. Khổ một lần còn hơn.”
- “Không được. Còn con cái…”
- “Tớ nuôi. Nếu Dung muốn nuôi thì tớ cấp dưỡng, thỉnh thoảng đến thăm con vậy!”. Toàn cúi đầu: “Tội chúng nó quá!”.
Tuấn nhìn thẳng vào mắt Toàn: “Tớ nói cậu đừng buồn. Chẳng biết tớ nghĩ có đúng không? Tớ cho rằng cậu lấy Dung không phải hoàn toàn vì yêu, mà còn muốn Dung phải phụ thuộc vào cậu. Có thể điều này làm Dung bất mãn muốn vượt thoát?”.
Toàn gật gù: “Cậu tinh thật! Quả là tớ cứ tưởng mình yêu vợ và làm ra tiền là bảo đảm được hạnh phúc. Hà hà! Không ngờ tớ lại bị trả giá bằng chính đồng tiền của mình”.
Ngừng một chút, Toàn nói tiếp: “Tớ có anh bạn cũng dân văn nghệ, bốc lắm! Lấy ngay một gái nhảy - mặc gia đình và bạn bè ngăn cản. Thế mà không ngờ cô ta thành vợ hiền. Hay không bằng hên. Còn tớ, tính không bằng trời tính”.
Toàn kể đến đây, chua chát: “Có thể đất nhà tớ không tốt”.
Tuấn siết hay bạn: “Cậu chắc buồn nhiều?”. Toàn gật: “Nhiều chứ. Buồn vì mất Dung thì ít, mà buồn nhiều vì chẳng được như ý. Thôi vậy! Sau này có thể tớ sẽ có vợ khác, Dung sẽ có chồng khác – nghĩ cho cùng thì cũng là việc thường tình – Lúc đó biết đâu mới hiểu nhau hơn, thì chuyện cũng đã lỡ rồi. Dù sao cũng là duyên – dù ngắn ngủi”.
Toàn nói xong, lẩm bẩm: “Đám cưới cho lớn để rồi bỏ nhau…”.
Tuấn thở dài, biết nói với Toàn những gì bây giờ sau những tan vỡ của gia đình bạn, mà anh là ông mai…
Toàn nhấp ngụm bia, nói tiếp: “Có voi đòi tiên. Càng đòi hỏi càng làm khổ mình. Tớ sợ Dung sẽ khổ thôi. Còn tớ, biết đâu sẽ thành triết gia? Đâu phải có tiền là mua được hạnh phúc cậu nhỉ? Nó chỉ giúp mình đỡ khổ về vật chất…”.
Toàn vừa nói vừa nhìn về góc trái, rồi chỉ Tuấn: “Cậu nhìn hai vợ chồng sống bụi ở góc kia kìa. Chẳng có tài sản nhà cửa gì mà vui chưa? Bà vợ yêu đời ca vọng cổ. Ông chồng phanh áo nằm khểnh ngắm trăng sao, tha hồ tận hưởng gió trời. Họ chẳng mất tiền ghế như mình, mà thoải mái chưa? Coi thiên hạ cứ như không”.
Tuấn gật gù, lẩm bẩm: “Coi thì vậy…”.
Người đàn ông trung niên nằm gác chân hút thuốc thỉnh thoảng liếc nhìn Toàn và Tuấn. Ông ta gật đầu mỉm cười như muốn làm quen, sau đó bật dậy cài nút áo, thong thả tiến lại chỗ hai người, nhỏ nhẹ nói: “Chút nữa hai thầy cho vui xin mấy cái lon bia”. Tuấn gật đầu: “Được mà”. Rồi nghĩ đến sự so sánh vừa qua của Toàn, anh hỏi: “Coi bộ ông sướng quá?”. Người đàn ông cười, khoe hàm răng sún: “Đời mà thầy! Sướng lúc nào hay lúc đó”. Toàn gật gù kéo ghế: “Ông làm lon bia chứ? Tôi mời”. Người đàn ông như chỉ chờ có thế, gật đầu ngồi xuống ngay.
Dù Toàn mời nhưng Tuấn cũng thấy hơi khó chịu vì sự tự nhiên nhanh chóng của người đàn ông này, không phải anh phân biệt nhưng cảm thấy ông ta thuộc diện “Ai kêu tui đó?”.
“Cảm ơn thầy” - Người đàn ông xoa xoa hai bàn tay - “Chắc bữa nay hai thầy có chuyện vui?”. Toàn lắc đầu, khui lon bia: “Buồn thì có. Thấy vợ chồng ông yêu đời tôi thấy thèm”
- “Vậy sao?… Xin lỗi, hai thầy là?…”.
Toàn quay qua Tuấn: “Anh bạn tôi là nhà báo, thích nghe ngóng viết lách. Ông có chuyện nào hay kể nghe chơi, biết đâu…”.
Người đàn ông vỗ nhẹ tay: “Chà! Hai thầy là nhà báo - thiệt hân hạnh! Còn tui thứ tư, thường kêu Tư Phè”.
Tuấn cũng thấy vui vui, anh nổi máu nghề nghiệp: “Vợ chồng ông vui vẻ hạnh phúc vậy… Xin lỗi, có khi nào… lục đục không?”
- “Hà hà! Vợ chồng lục đục là chuyện thường - Với bà này thì chưa. Mới sống chung có ba tháng hà”
- “Vậy sao?…”.
Người đàn ông gật, cười rất hồn nhiên, coi như đương nhiên chuyện đời là vậy: “Bà này thứ ba đó”.
Toàn giật mình: “Thứ ba?… Vậy hai bà kia đâu?”.
Người đàn ông đáp tỉnh bơ: “Qua phà rồi”.
Tuấn hơi ngớ ra, rồi hỏi: “Ông có con cái nhiều không?”
- Có chớ. Tổng cộng sáu đứa lận. Hai đứa chết. Hai đứa con của tui gửi phía nội. Còn hai đứa con riêng của bà này gửi ngoại. Tụi tui khỏe re. Con cháu thì ông bà nào hổng thương”.
Tuấn lắc đầu: “Ông bà vô tư thật! Xin lỗi nhé?… Ông bà… sống bằng gì?”.
Người đàn ông đáp ngay: “Sông nước nuôi”. Rồi chỉ qua bên kia sông: “Sáng sáng bốn giờ còi tàu hụ là tôi bên này sông, bả bên kia sông, tà tà vừa thả bộ tập thể dục vừa lượm bao ni lông, lon bia, vỏ đồ hộp… Nghĩa là đủ thứ trên đời mà thành phố này thải ra, trôi dạt vô bờ. Thứ nào nhắm bán được là bỏ vô bị. Có khi tui bắt được nguyên cái hàng rào. Tháng trước vợ tui vớt được nguyên cần xé vịt con…”.
Tuấn bật cười, nghĩ: “Chuyện hay đây!”, rồi hỏi: “Ông bà đi có xa không?”
- “Vài ba cây số thôi. Đoạn trên của người khác. Lâu lâu tui chán bên này thì đổi cho bả bên kia. Coi như vừa tập thể dục vừa du lịch, vừa đi làm” - Tuấn mỉm cười: “Còn ăn uống?…”
- “Tụi tui tự nấu ăn cho đỡ tốn. Có gì đâu? Kê ba cục gạch là thành bếp, có gì ăn đó. Lâu lâu trúng mánh leo xích lô coi hát, đưa bả đi ăn cơm Tàu cho biết với người ta”.
Ông Tư Phè kể xong nhón vài hột đậu phọng nhai tóp tép, uống một hơi bia dài, khà! Rồi mới kể tiếp: “Tụi tui sống nhờ Trời. Cúi xuống sông có gạo, ngước lên trời có củi”.
Toàn và Tuấn nhìn ông ta có vẻ thắc mắc. Ông ta cười, chỉ tay lên những vòm me tây: “Củi trên đó. Vợ tui lượm cành khô, còn tui lấy cây sào có móc giựt, khều, cành nào khô đụng sơ là rụng, chụm được liền. Cành nào chưa khô thì để dành. Tụi tui còn đổi củi lấy cơm lấy bún”.
Toàn và Tuấn nghe mà lắc đầu, lại thấy thú vị. Ông Tư Phè cao hứng thả lỏng tâm sự: “Ngày nào xào ngày đó. Có dư chỉ dành chút đỉnh thôi. Chớ nhiều thì mắc công giữ, mắc công lo. Gạo mua từng ký, có chỗ cất đâu mà mua nhiều? Ở đây nhiều chuột lắm! Chà! Thịt chuột nướng lên cũng bắt à nghe”.
Tuấn nhăn mặt, cười: “Mùa mưa đến thì sao?”
- “Thì tản cư xuống gầm cầu. Mưa hơi cực nhưng đỡ phải xin nước”.
Toàn lắc đầu: “Chịu ông thật! Không lẽ cuộc sống vậy mãi?”
- “Chớ thầy nghĩ tui còn biết làm gì khi hổng có chút vốn liếng? Mà làm được tui đã làm rồi”
- “Thế ông không lo gì sao?”.
Người đàn ông im lặng, sau đó hỏi lại: “Xin lỗi nghen. Vậy chớ thầy có biết hồi nào… mình ngỏm không?”.
Toàn sửng người! Phân vân!… Anh lắc đầu: “Vô lo như vợ chồng ông kể cũng sướng. Nhưng tôi thấy không ổn. Đâu phải lúc nào cũng suôn sẻ, còn mưa nắng, đau bệnh…”
- “Thì ai mà chẳng bệnh, rồi chết. Tui nói có thể hai thầy nghĩ rằng tui nói liều, nhưng nghĩ cho cùng thì ai cũng phải vậy”.
Ba người im lặng một chút. Người đàn ông nói tiếp: “Để tôi kể hai thầy nghe, tui hổng nói dóc đâu - Mà hai thầy có nghĩ tui nói dóc cũng được. Hồi trước, ba má tui giàu lắm! Bởi vậy tui mới ỷ lại, mới sinh hư. Tui ăn chơi cờ bạc phá nát tài sản, trở thành nghèo khổ. Rồi có lúc tui lại lên hương chút đỉnh. Đời người ai cũng có đôi lúc lên hương, lên nhiều lên ít. Ăn thua biết giữ thì bền. Còn tui là thằng ngu. Những thằng có máu chơi rút cục thua người ta hết. Nhưng nhờ đó, tui thấy mỗi lúc mình lên voi xuống chó, con người ta nhìn tui mỗi khác. Khi tui giàu có kẻ ganh, lúc tui trắng tay nhiều khi họ lại thương. Đời mà! Nên giờ tui chán rồi! Hổng phải bất mãn đâu. Tui nghĩ giàu nghèo đều có số hết. Thiếu gì người dở hơn tui mà vẫn giàu. Thiếu gì người giỏi hơn hai thầy mà vẫn nghèo. Thôi thì trời cho sao nhờ vậy. Miễn phè là sướng. Người Bắc như hai ông nói nhàn là phè đó. Mà phè nghe hay hơn nhàn à nghen - Lè phè bình dân mà. Gì chớ giàu mà cực mà lo cũng đâu có sướng phải hông hai thầy?”.
Toàn gật gù: “Giàu nghèo đều có cái lo cái khổ của nó”.
Tư Phè gật: “Nhưng nói đi cũng phải nói lại. Giàu dù sao cũng đỡ hơn nghèo. Người giàu trong trứng làm sao biết được hết cái khổ của người nghèo? Giờ tui chỉ mong ngày hai bữa thường thường, mà thoải mái tâm hồn là dui rồi”.
Tuấn cười: “Hiện giờ chắc ông đang thoải mái?”
- “Phải. Bữa nay trúng mánh, được hai thầy cho uống bia, sướng quá đi chớ”.
Tuấn cười: “Ông lâu lâu chắc cũng trúng mánh?”
- “Có. Nhiều khi trúng đậm, phè cả tháng. Nói thiệt hai thầy nghe: Lâu lâu tụi thủy thủ chôm đồ dưới tàu, chúng đâu dám mang ra, phải bọc trong mấy lớp ni lông, nháy tui, rồi thả xuống sông. Tui tà tà lội ra vớt, bán chia hai. Tụi nó còn cho nhậu. Hi hi! Tui khổ dài dài. Lâu lâu vô mánh thấy thiệt sướng. Hai thầy uống bia hoài đâu thấy hết cái ngon?”. Ông ta nói xong nháy mắt: “Cám ơn hai thầy bữa nay nghen!”.
Tối hôm ấy, trên đường về, Toàn nói với Tuấn: “Vợ chồng họ sống vô trách nhiệm, nhưng biết phận mình. Tớ cảm thấy họ cũng khổ”. Tuấn gật đầu: “Ông cụ tớ lúc còn sống thường bảo: “Sống trên đời này, thân nhàn và tâm nhàn mới là sung sướng”.

Bờ sông này, băng ghế đá này, giờ chỉ còn mình Tuấn ngồi, anh nhấm nháp lon bia và nhớ lại từng gương mặt cũ…
Toàn đã đi Pháp nghiên cứu thêm điện ảnh. Tuấn biết bạn muốn quên. Dung đang lao vào ánh đèn, hay đang khóc trong bóng tối? Lâu rồi cả anh và Thúy cũng ngại không đến hỏi thăm.
Rồi có một ngày nào đó, như anh bây giờ, cả Toàn và Dung cũng phải ngồi một mình và nhìn lại…
Còn đôi vợ chồng vô tư kia?…
Đã lâu rồi - thỉnh thoảng Tuấn có qua đây, anh không thấy họ sinh sống ở góc thềm ấy nữa. Sóng đời cuốn họ về đâu? Họ đáng thương hay đáng trách? Tuấn chợt thấy lòng chùng xuống…
“Chút thầy cho tui xin cái lon bia…”.
Tiếng nói sau lưng làm Tuấn giật mình quay lại bắt gặp người đàn ông hôm xưa… Ông ta gãi đầu nhăn nhó cười.
Tuấn buột miệng: “A! Ông Tư…”.
Người đàn ông tròn mắt nhìn Tuấn, sau đó mừng rỡ gật đầu: “Tui nhớ rồi! Thầy nhà báo…”.
Tuấn ái ngại: “Dạo này ông ốm quá!”.
Người đàn ông thở dài: “Tui bệnh!…”. Rồi ngần ngại hỏi: “Còn… thầy kia đâu?…”.
Tuấn nói tránh đi: “Bạn tôi đi công tác”. Rồi xích sang một bên: “Ông ngồi chơi… Thế nào? Vợ ông đâu rồi?”.
Người đàn ông ngồi phịch xuống ghế, gương mặt đen sạm hóp hẳn lại: “Qua phà rồi”.
- Tuấn hơi giật mình, nhưng lần này anh bớt ngạc nhiên hơn. Cuộc đời giàu nghèo sướng khổ cũng có thể bỏ nhau được, chẳng biết đâu mà lường.
“Lâu chưa” - Tuấn hỏi.
Người đàn ông im lặng, rồi nói: “Thầy còn muốn nghe chuyện tui nữa không?… A! Thầy là nhà báo thì cũng nên nghe lắm. Từ bữa tui gặp hai thầy, chiều hôm sau con vợ tui trúng số, tụi tui lại lên hương. Tui nghĩ lần này mình phải rút kinh nghiệm. Già rồi! Phải lo mần ăn. Đâu còn nhiều thời gian nữa. Ai dè con vợ tui ôm tiền trốn theo một thằng nhóc”.
“Thầy nghĩ có buồn không? Có đau không? Đau quá đi chớ! Mà thôi. Đời mà! Tui và nó cặp nhau cho vui, cho có đôi. Cả hai cũng biết là tạm bợ, như gạo chợ nước sông, như đám lục bình cặp kè… hổng biết rã hồi nào… Có điều buồn là lúc nghèo thì hổng sao…”.
Tuấn lặng im nghe, cảm thấy chán chường như dạo nào…
Anh đẩy lon bia mới về phía ông Tư Phè: “Ông uống đi…”.
Người đàn ông lắc nhẹ đầu: “Cảm ơn thầy, bữa nay tui bệnh. Chỉ xin thầy cái lon”.
Tuấn gật: “Thì ông cứ cầm lấy, hết bệnh rồi uống”.
Tuấn gọi trả tiền, dúi cả số tiền thối lại vào túi ông Tư Phè: “Ông cầm lấy uống thuốc”.
Người đàn ông rơm rớm nước mắt: “Cảm ơn thầy…”.
Tuấn cười: “Vui lên chứ? Ông lạc quan lắm mà?”.
Ông Tư Phè gượng cười, nụ cười tươi tươi trở lại: “Phải!… Lạc quan mới sống được… Để rồi thầy coi, tui sẽ lấy vợ nữa. Có một bà bán ổi vẫn hay cười với tui”.
Tuấn bật cười rồi lắc đầu. Cuộc đời thật sống động!
Anh nhìn theo bóng người đàn ông chìm trong màn đêm.
Giọng ca của con nhỏ bán vé số ngồi bên kia chợt cất lên một câu hát cải biên ngồ ngộ: “Không phải tại em cũng phải tại anh, tại vàng lên giá hai đứa mình xa nhau…”.
Tuấn giật mình! Đời thật!…
Hạnh phúc như cái bóng. Hơi thở lạnh của tiền bạc vật chất đang phủ mờ cái bóng ấy. Tuấn nghĩ mình phải về ngay, phải về ngay - dù anh mới gây với vợ chiều nay…
Ánh mắt bé Vy cứ sáng lên soi rọi lối anh về!
Phan Đức Nam
Last edited by bevanng on 12 Feb 2023, edited 1 time in total.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong, Thuvang

Re: Những Bài Viết Ngắn Chọn Lọc (Sưu Tập)

Postby bevanng » 23 Apr 2018

Ô Cửa Sổ Bệnh Viện


Hai người đàn ông bị bệnh nặng cùng nằm điều trị chung một phòng bệnh. Một người bị bệnh nước trong phổi, còn người kia bị liệt nửa người. Vào mỗi buổi trưa, người bị bệnh phổi phải ngồi dậy khoảng một tiếng để phổi được khô ráo. Giường của ông ta đặt gần ô cửa sổ duy nhất trong phòng. Còn người bị liệt thì suốt ngày phải nằm trên giường. Họ thường trò chuyện với nhau hàng giờ về gia đình, bạn bè, cuộc sống… và cùng nhau ôn lại những kỉ niệm thời còn phục vụ trong quân ngũ.
Mỗi trưa, khi người đàn ông trên giường bệnh gần cửa sổ ngồi dậy, ông ta thường tiêu khiển bằng cách kể lại cho người bạn cùng phòng nghe về những gì mình nhìn thấy bên ngoài cửa sổ.
Qua lời kể của bạn, người bệnh ở giường bên kia như được sống lại trong thế giới muôn màu muôn vẻ bên ngoài khung cửa. Nơi đó là một công viên xanh ngát với hồ nước trong xanh, thơ mộng cùng đàn thiên nga thong thả lượn quanh. Cạnh đó, những đứa trẻ đang thả lên mặt hồ phẳng lặng những chiếc thuyền bằng giấy. Những đôi tình nhân tay trong tay đang dìu nhau như một bức tranh thơ mộng đầy màu sắc. Trong khi người bệnh gần cửa sổ say sưa kể thì ở giường bên kia, bạn của ông đang lim dim đôi mắt, mường tượng trước mắt mình một khung cảnh đẹp như mộng.
Vào một buổi chiều ấm áp, người bệnh ở giường gần cửa sổ kể lại cho bạn mình nghe về một cuộc diễu binh đang diễn ra bên ngoài. Mặc dù không nghe được dàn nhạc đang tấu khúc quân ngoài kia nhưng người bạn bị liệt vẫn có thể hình dung ra quang cảnh hùng tráng ấy.
Ngày tháng lặng lẽ trôi qua…
Một buổi sáng, như thường lệ, cô y tá trực đem nước đến cho hai người, thì phát hiện ra người bị bệnh phổi đang nằm bất động trên giường cạnh cửa sổ. Ông ấy đã trút hơi thở cuối cùng trong giấc ngủ yên lành đêm qua.
Sau cái chết của bạn, người đàn ông bị liệt yêu cầu được chuyển sang chiếc giường cạnh cửa sổ. Trên chiếc giường mới, nén đau đớn, ông tìm mọi cách chống tay từ từ ngồi dậy và bắt đầu phóng tầm nhìn ra thế giới bên ngoài. Nhưng trước mắt ông chỉ là bức tường trắng xóa.
Mãi sau này ông mới biết được sự thật: người bạn quá cố của ông là một người mù, thậm chí ông ấy không thể trông thấy được bức tường vô cảm kia. Điều ông ấy muốn là đem lại cho bạn mình niềm vui và sự an ủi.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong, Thuvang

Re: Những Bài Viết Ngắn Chọn Lọc (Sưu Tập)

Postby bevanng » 25 Apr 2018

Quà Của Mẹ



Chị suy đi tính lại mãi. Sinh nhật… “Sinh nhật là chuyện của những đứa con nhà giầu”. Chị lẩm bẩm thành tiếng: “Nó không thể trách mình được, lo cho bầy con ăn học hàng ngày là một chuyện vất vả lắm rồi. Còn sinh nhật, picnic… Trời ạ!”
Chị thấy tội cho con gái. Mười lăm tuổi, lứa tuổi bạn bè mơ mộng này nọ, thì nó, ngoài giờ học phải khom người bên cái cối xay đậu nành giúp chị, rồi khi chị gánh đậu hũ đi bán thì cơm nước giặt giũ… Tội nghiệp, buổi tối nó xin chị đi học thêm tiếng Anh mà tám ngàn đồng mua quyển sách chị vẫn chưa cho con tiền mua. Tối nào nó cũng mượn sách của bạn về ngồi chép lại bài.
“Nếu mình có tiền…” Chị thở dài, nỗi ước mơ thường hiện trong tâm trí. Thôi thì lại an ủi con: “Nhà mình nghèo quá, tìm cách khéo khéo từ chối bạn bè nghe con”. Đã bao nhiêu lần nhận được thiệp mời sinh nhật của bạn bè, con chị phải lắc đầu kiếm cớ không đến…
Nhưng tấm thiệp màu hồng chiều nay thật khó xử - “Đây là lần cuối cùng tao còn gặp gỡ bạn bè. Vài ngày nữa tao theo ba má xuất ngoại. Nhớ đến với tao nghe Thùy”.
Nhìn con gái cứ đọc đi đọc lại tấm thiệp rồi cắn môi nhìn đâu đó trên trần nhà, chị lo lắng “… Con gái lớn… Biết đâu…”
- Đọc cho mẹ nghe cái thiệp viết gì vậy Tèo?
Thằng Tèo, đang học lớp hai, phồng môi phồng má đánh vần những dòng chữ bay bướm nghiêng nghiêng. Chị nghe xong thở dài!
Nếu một ngày dài ra thêm một buổi thì chị sẽ gánh thêm hàng đi bán. Nếu mình trúng số… Nếu… Nếu… Nhưng chẳng có cái “nếu” nào xảy ra cả. Chị buồn rầu nhìn con lặng lẽ làm công việc thường ngày và vẫn ngoan ngoãn “dạ” mỗi khi chị gọi.
- Con có định dự tiệc chia tay với bạn không? - Chị bật hỏi.
- Gần thi rồi, con ở nhà học bài mẹ ạ!
Con chị trả lời thản nhiên nhưng chị thấy nỗi luyến tiếc đầy trong mắt nó.
Chị thấy thương con đến quặn lòng:
- Sang năm mẹ sẽ tổ chức sinh nhật cho con - Chị buột miệng. Vì muốn bù đắp cho con nên chị muốn nói điều gì đó thật đặc biệt mà chị không kịp suy nghĩ.
Thùy kinh ngạc mở to mắt nhìn mẹ.

Cuộc sống dường như có mục đích mới. Chị tằn tiện dè sẻn từng đồng. Chị nhất định cho con có một ngày vui. Mục đích này khiến chị phấn chấn hơn. Chừng như chị đã vượt qua được những lo toan cơm áo hàng ngày để vươn tới một mối quan tâm tốt lành hơn.
Buổi tối, khi các con ngủ say, chị ngồi nhẩm tính đã giành dụm được bao nhiêu. Rồi chị làm một việc rất ư lãng mạn là nhớ ngày sinh của các con. Ngày sinh thằng út là ngày buồn nhất vì anh chết trước đó mấy tháng. Thằng Tèo sinh ra vào một ngày mùa hè, cây phượng ngoài sân bệnh viện sản đỏ rực hoa. Còn Thùy là một ngày giáp Tết, anh chị đã mua sắm cho đứa con đầu lòng bao nhiêu là quần áo thêu xinh xắn… Chị mỉm cười vui vui tưởng tượng đến một ngày sang năm, con của chị mặc một cái áo đầm màu hồng kết thật nhiều ren và những cái nơ xinh xinh cài trên tóc.
Trận sốt xuất huyết của cu út làm tiêu tan số tiền dành dụm của chị. Thùy dường như đã quên lời hứa đột ngột của mẹ, cô bé vẫn làm công việc như thường ngày và dạo này lại còn nghêu ngao hát. Chị lặng im vì biết vậy là thôi rồi. Biết là thôi mà lòng vẫn bứt rứt. Càng gần đến ngày sinh của Thùy, chị càng thấy nao nao.
Buổi chiều vào đúng ngày sinh của Thùy, chị đặt gánh đậu hũ dưới bóng mát của mái hiên một cửa hàng bán sách. Cô bán hàng gọi một chén đậu hũ.
Trong lúc ngồi chờ cô bán hàng ăn, chị nhìn dãy kệ cao chất bao nhiêu là sách bìa trắng, bìa đỏ, bìa vàng… Đập vào mắt chị là quyển sách quen thuộc mà đêm đêm Thùy mượn bạn bè về ngồi chép lại. Chị không biết chữ nhưng quyển sách quen đến nỗi chị nhận ra ngay - Bìa màu xanh dương, dày khoảng một đốt rưỡi ngón tay và hàng thẳng, chỗ dài, chỗ ngắn chị nhớ rất rõ.
- Quyển sách đó bao nhiêu vậy cô? - Chị rụt rè hỏi.
- Quyển nào hở chị?
- Dạ đó, quyển có chữ đầu cong cong…
- À! Streamline tập một. Tám ngàn!
Chị thò tay nắm cuộn giấy bạc được cột dây thun cẩn thận trong túi. Nó cần quyển sách này từ năm ngoái, thằng út mới đau dậy, tiền thuốc, tiền thầy… đủ thứ tiền trên đời.
- Cô bán cho tôi quyển đó đi… Rồi cô viết dùm…
-…
- Cô viết dùm tôi… “Mẹ tặng con vào ngày mẹ sinh ra con” - Chị bối rối đến đỏ mặt…
- Viết như thế này hay hơn - Cô bán hàng vui vẻ cầm bút - “Con yêu quý của mẹ, mẹ tặng con nhân ngày sinh nhật. Mẹ yêu con lắm”.
- Dạ… cám ơn cô!
- Có cần gói giấy màu thắt nơ không chị?
Chị ngần ngừ. Cô bán hàng nhìn vẻ phân vân của chị rồi cô nhìn ra gánh đậu hũ bên ngoài, giọng cô dịu dàng:
- Con của chị bao nhiêu tuổi?
- Dạ… mười sáu!
- Tôi tặng chị giấy gói và cái nơ màu tím này.
Cô bán hàng gài cái nơ thật khéo lên gói giấy màu vàng hoa cúc và mỉm cười trao cho chị.

Sợ lũ nhỏ ganh tỵ, chị đợi cho tất cả đi ngủ rồi mới đưa gói quà cho Thùy.
- Sao mẹ biết con thích màu tím? - Cô bé thì thầm.
- Ừ… màu tím - Chị nhìn cái nơ và thì thầm lập lại. Chị quên mất chính cô bán hàng đã chọn cái nơ màu tím tặng cho chị. Hình như chính chị đã chọn cho con gái. Đúng như vậy!
- A… Mẹ! Thùy kêu lên khi mở gói giấy ra.
- Con cần quyển sách này phải không?
Thùy mân mê quyển sách và ngước nhìn chị. Hai mẹ con ôm nhau dưới ánh đèn khuya.

Cô bán hàng nhìn cô bé mười sáu tuổi ngập ngừng bước đến:
- Hôm qua mẹ em đã mua quyển sách này ở đây phải không chị?
- Hôm qua… Mẹ em là ai? À… Có phải bà bán đậu hũ không?
- Dạ phải.
- Có chuyện gì vậy?
- Em đã học xong quyển một rồi mà mẹ em không biết nên… Chị đổi dùm em tập hai được không?
- Nhưng… Mẹ em đã viết vào sách rồi, làm sao tôi bán cho người khác được?
- Viết? - Cô bé mở to mắt - Mẹ em viết?
- Tôi viết dùm. Em không mở sách ra sao?
Cô bé ấp úng:
- Em đã thuộc lòng quyển sách này, vả lại mở ra em sợ dơ khó đổi. Xin lỗi chị… Em không biết mẹ em đã…
Cô bán hàng nhìn theo cô bé đang dợm chân quay ra. Cô suy nghĩ rất nhanh:
- Này cô bé, đưa đây tôi đổi cho.
Cô bé nhìn cô bán hàng rồi cúi lật trang đầu của quyển sách trên tay. “Con yêu quý của mẹ…”
- Thôi, chị… Em không đổi đâu - Cô bé nhẹ lắc đầu. Ánh mắt cô bé đọng lại nơi bàn tay của cô bán hàng đặt trên quầy - Lời yêu thương của mẹ được viết bởi bàn tay này. Trái tim cô bé thổn thức đập.
Cảm thấy bàn tay mình nong nóng, cô bán hàng rụt tay lại. Khả năng giao tiếp linh hoạt thường ngày biến mất, cô lặng im nhìn cô bé ôm quyển sách màu xanh bước đi giữa trời trưa nắng.
Nguyên Hương

Last edited by bevanng on 12 Feb 2023, edited 1 time in total.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong, Thuvang

Re: Những Bài Viết Ngắn Chọn Lọc (Sưu Tập)

Postby bevanng » 26 May 2018

Thử Thách Lòng Chân Thành



John Branchad đứng dậy, vuốt lại bộ quân phục rồi nhìn về phía đám đông người đang ào ào bước ra khỏi ga tầu điện ngầm Central. Anh cần tìm một phụ nữ có bông hoa hồng đính trên ngực áo, người anh yêu quý từ lâu nhưng chưa bao giờ gặp mặt.
… Chuyện xảy ra trong một thư viện ở bang Florida cách đây đã một năm. Hôm ấy, John lấy từ trên giá sách xuống một cuốn sách để đọc. Nội dung sách không làm anh quan tâm lắm, song những lời bình luận viết trên chỗ trống của các trang sách lại cuốn hút anh. Chữ viết bằng bút chì, nét chữ rắn rỏi phóng khoáng, lời bình sắc sảo, nhất định người viết những dòng này phải là người thông thái, ưa suy ngẫm.
John thấy tên của chủ nhân cuốn sách ấy ở trang lót đầu sách – miss Haris Meres. Qua nhiều lần cố gắng tìm kiếm, cuối cùng anh còn tìm được địa chỉ của người ấy. Anh bèn viết thư cho Haris Meres, tự giới thiệu mình và đề nghị được trao đổi thư từ với cô. Thư gửi đi hôm trước thì hôm sau đơn vị bộ đội của John bất ngờ được lệnh rời nước Mỹ sang mặt trận châu Âu chiến đấu chống phát xít Đức.
Trong thời gian một năm trời xa quê hương, John và Meres luôn trao đổi thư với nhau. Mỗi bức thư như một hạt giống gieo trên mảnh đất mầu mỡ. Một mối tình thơ mộng nhè nhẹ nẩy mầm. Có lần John đề nghị Meres gửi ảnh cô cho anh, nhưng cô từ chối. Meres nghĩ, nếu John thực sự để ý đến mình thì hình thức con người cô ấy thế nào đi nữa, điều đó đâu có gì quan trọng.
… Cuối cùng, cái ngày John mong đợi bao lâu nay ấy đã đến. Anh được về nước, và hai người hẹn gặp nhau tại sân ga metro New York Central vào 7 giờ tối hôm nay. Đây là lần đầu tiên họ gặp nhau.
“Anh sẽ nhận ra tôi ngay ấy mà,” Meres viết trong thư, “vì tôi sẽ đính một bông hoa hồng trên ngực áo.” Và thế là tối hôm nay, John với trái tim xao xuyến hồi hộp đến nhà ga Central từ sớm chờ gặp người con gái anh thầm yêu trộm nhớ bao lâu nay mà chưa hề biết mặt.
John Branchad kể lại lần gặp mặt cảm động ấy như sau:
Tôi nhìn thấy một cô gái đi về phía mình. Thân hình cô mảnh mai thon thả, mái tóc vàng óng, đôi mắt xanh biếc ánh lên niềm vui tươi như đóa hoa mới nở, môi hơi mím lại. Trong bộ váy áo mầu lam nhạt, cô lướt nhẹ tới như một làn gió mùa xuân. Tôi bật dậy, xăm xăm bước về phía cô gái mà không để ý tới việc trên ngực áo cô có đính bông hoa hồng hay không. Cô nhìn tôi, khóe môi hé nở một nụ cười ý nhị sâu sắc, khẽ nói: “Xin chào, anh lính hải quân!” Tôi hầu như không sai khiến nổi đôi chân của mình nữa. Khi lại gần đám đông, tôi mới nhìn thấy Haris Meres mà mình cần gặp – một phụ nữ có đính bông hoa hồng trên ngực đi sau cô gái áo xanh. Đó là một thiếu phụ khoảng 40 tuổi, mái tóc ló ra dưới vành mũ đã có sợi điểm bạc, vóc người đẫy đà, đôi chân hơi thô, đi một đôi giầy gót thấp.
Lúc ấy, cô gái áo xanh đã nhanh chóng biến đâu mất. Người tôi như chia ra làm hai mảnh, một nửa muốn đuổi theo cô gái kia, một nửa muốn đứng lại trò chuyện với người phụ nữ hơn một năm qua đã dùng nghị lực và tình cảm của mình giúp tôi vững vàng vượt qua bao gian khó của cuộc chiến tranh ác liệt.
Thiếu phụ đứng lại, khuôn mặt đầy đặn hơi nhợt nhạt cùng đôi mắt mầu tro của bà ánh lên vẻ dịu dàng đầy thông cảm. Tôi cả quyết bước tới, tay giữ chặt cuốn sách nhỏ bìa da mầu lam năm ngoái tôi lấy từ thư viện. Cuốn sách ấy quý giá biết bao, có lẽ còn quý hơn cả tình yêu, vì nó chứa đựng một tình cảm từng làm tôi xúc động bao lâu nay và có lẽ mãi mãi.
Tôi ưỡn ngực, dập gót chân, giơ tay lên trán chào bà theo kiểu chào của quân đội, rồi chìa cuốn sách ra, nói với giọng hơi ngắc ngứ vì đau khổ, thất vọng: “Chắc hẳn bà là Haris Meres chứ ạ? Tôi là John Branchad, thượng úy hải quân. Tôi rất sung sướng thấy bà đã đến đây. Tôi có thể mời bà cùng ăn tối được không ạ?”
Thiếu phụ nở một nụ cười thông cảm, khoan dung. “Em ơi, ta không biết tất cả những chuyện này là thế nào cả,” bà vừa từ tốn nói vừa gạt cuốn sách tôi chìa ra, “Cô gái áo xanh vừa rồi nài nỉ ta cài bông hồng này lên ngực áo ta và dặn là nếu anh mời ta đi ăn tối thì hãy nói với anh là cô ấy chờ anh ở nhà hàng bên kia đường. Cô ấy bảo là muốn thử thách anh đấy! Thế nhé, bây giờ ta có thể chia tay anh được rồi chứ? Chúc hai anh chị hạnh phúc!”
… Bạn có thể đoán ra hồi kết của câu chuyện lãng mạn này rồi chứ? Haris Meres thật trí tuệ và John Branchad thật chân thành. Hai trái tim ấy tất nhiên sẽ trọn đời bên nhau.

Truyện ngắn Mỹ
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong, Thuvang

Re: Những Bài Viết Ngắn Chọn Lọc (Sưu Tập)

Postby bevanng » 27 May 2018

Ai ơi, về ăn cơm


Đôi vợ chồng trẻ vừa được bố mẹ cho ra riêng. Sáng hôm ấy, sau khi thổi cơm và nấu món xong, chị vợ bèn ra thửa vườn phía sau nhà và lên tiếng gọi:
– Ai ơi, về ăn cơm.
Anh chồng dừng tay, ngước mắt lên tình tứ:
– Ai gọi ai đấy?
Chị vợ trả lời ngọt như mía lùi:
– Ai gọi ai chứ ai nữa.
Anh chồng hỏi tiếp:
– Cơm ai nấu ngon lắm hử?
Chị vợ chu miệng một cách rất duyên dáng và trả lời:
– Ai nấu làm sao ngon bằng ai được.
Từ mẩu đối thoại ngắn ngủi, nhưng cũng rất dễ thương và ý vị kể trên, gã xin “bàn ra tán vào” một chút về cách xưng hô của những người đang yêu. Thực vậy, thuở ban đầu, nếu chỉ một mình Adam sống trong vườn địa đàng, thì mọi sự thật đơn giản và trong sáng, chẳng có chi là nhiêu khê và rắc rối. Lúc bấy giờ, đối với Adam, chỉ có “cái tôi” hay “cái ta” là cùng:
Đi ra, chỉ một mình tôi,
Đi vào, ta cũng mà thôi một mình.

Thế nhưng, Thượng Đế lại ngậm ngùi và động lòng thương xót trước cảnh tượng cô đơn vò võ của Adam, nên chờ lúc ông ngủ say, đã lấy một chiếc xương sườn của ông mà dựng nên Eva. Sau đó, Ngài dẫn Eva tới giới thiệu cùng Adam. Nhìn thấy Eva, đôi mắt Adam đã rực sáng lên. Và cũng từ “phút đầu gặp nhau, tinh tú quay cuồng” ấy, mọi sự bỗng trở nên khác. Adam không còn nói với chính mình nữa, những nói là nói với người khác, nói cho người khác. Và cũng từ đó, vấn đề xưng hô được nảy sinh.
Người nước ngoài thường nhận xét: Dân Việt nói cứ như y như hát và tiếng Việt là một trong những thứ tiếng khó học nhất. Có những cha thừa sai học tiếng Việt suốt năm, sáu năm mà vẫn không dám đứng giảng trước công chúng, vì sợ phát âm sai, làm hỏng cả bài giảng.
Chuyện rằng: Một cha dòng Tên nọ đang giảng cho giáo dân trong thánh lễ sáng Chúa nhật, bỗng thấy mọi người phì cười. Ngài bèn dừng lại và nói:
– Ai muốn cưới, thì ra ngoài sân mà cưới.
Cả nhà thờ lại cười ồ, cho dù tiếng cười hơi bị vô duyên và không mấy lịch sự, bởi vì ngài chỉ muốn bảo rằng: Ai muốn cười, thì ra ngoài sân mà cười.
Đặc biệt trong phạm vi xưng hô. Người nước ngoài khó mà nắm bắt được nét tinh tế trong cách xưng hô của dân Việt ta. Thực vậy, Đối với tiếng Anh, tiếng Pháp, khi nói chuyện, người ta chỉ dùng “I-You”, “Je-Tu”, bất kể là nam hay nữ, già hay trẻ, lớn hay bé và cũng bất kể tâm tình hỉ, nộ, ái, ố của hai người lúc bấy giờ. Đúng thế, khi chuyện trò, thì ông tổng thống cũng tự xưng là “I”, là “Je” và gọi người khác là “You”, là “Tu”. Trong khi đó, anh lính quèn cũng tự xưng là “I”, là “Je” và gọi người khác là “You”, là “Tu”. (Với tiếng Pháp, chữ “Vous” thay thế cho chữ “Tu” trong một số trường hợp).
Tiếng Việt ta thì không như vậy. Khi nói chuyện, một người có thể đóng nhiều vai trò khác nhau. Chẳng hạn một chị đàn bà: Với ông bà nội, chị xưng là “cháu”; với ba má, chị xưng là “con”; với chồng, chị xưng là “em” và với mấy đứa con, chị xưng là “mẹ”. Nhưng rốt cuộc, chị vẫn là chị, chỉ một con người mà thôi.
Đã vậy, người Việt ta lại có thói quen thích đóng các vai giả. Chẳng hạn, một anh đàn ông 50 tuổi có thể gọi một anh đàn ông khác chừng 30 tuổi là “bác” và xưng là “cháu”. Sở dĩ như vậy vì người ấy đang nhập vai đứa con của mình để gọi người khách. Trong quan hệ vợ chồng, người ta cũng hay nhập vai con để gọi người phối ngẫu. Vợ sẽ không gọi chồng là “anh” mà là “bố thằng cu”, “bố nó”, hay ngắn gọn hơn chỉ là “bố”. Và ngược lại, chồng sẽ không gọi vợ “em”, mà là “mẹ thằng cu”, “mẹ nó” hay ngắn gọn hơn chỉ là “mẹ” theo kiểu:
– Bố ơi, chiều nay bố có đi chợ không?
– Có. Mẹ cần gì không?
– Ờ, bố mua cho mẹ chục xoài nghe.
– Xoài gì mà xoài. Mới ăn tuần trước đó thôi. Xoài nóng, ăn nhiều đâu có béo bở gì.
– Nóng với chả niếc. Bố sao nhiều chuyện thế. Mùa này xoài đang rẻ, cứ cho con ăn đã. Hết mùa thì chúng lại nhịn.
– Mẹ mày cứ hay chiều con.
Cách xưng hô của người Việt Nam thường đặt nền tảng trên huyết thống của gia đình. Và ngay cả xã hội cũng được coi như là một gia đình mở rộng. Người nào ngang tuổi ông bà, thì tự động trở thành “ông”, thành “bà”. Người nào ngang tuổi chú bác cô dì, thì tự động trở thành “chú”, thành “bác”, thành “cô”, thành “dì”. Người nào ngang tuổi anh chị, thì tự động trở thành “anh”, thành “chị”. Chỉ trừ tòa án là nơi duy nhất loại bỏ cách xưng hô dựa trên hệ thống thân tộc. Chẳng lẽ vị quan tòa lại phán với bị cáo:
– Cháu tuyên án bác 30 năm tù khổ sai vì tội giết người.
– Anh phạt em 2 năm tù ở vì tội ăn cắp.
Như vậy, cách xưng hô trong đời thường đã khá phức tạp và phong phú, huống chi trong tình yêu, cách xưng hô lại càng phức tạp và phong phú hơn nhiều.
Khi bắt đầu quan tâm đến nhau
Cậu con trai và cô con gái học cùng một trường, đi cùng một lối, hay ở cùng một xóm, hằng ngày gặp gỡ và trò chuyện, họ có thể gọi nhau bằng “tớ” với “cậu”, “mình” với “bạn”, “đằng ấy” với “đằng này”. Nhưng khi bắt đầu quan tâm đến nhau, họ liền thay đổi cách xưng hô, đễ mỗi ngày một gần gũi và thân mật hơn.
Trước hết, cô con gái có thể gọi cậu con trai bằng “ông” và xưng mình là “tôi”. Chữ “ông” ở đây không phải là đã quá già, mà tôi với ông, chúng ta có một tư thế tương xứng để đối thoại, vì chúng ta là những người lớn với nhau. Ít ra cậu con trai phải ý thức mình “lớn” trước cô con gái đối diện. Nhưng không vì thế mà ông lại “ngây thơ cụ” gọi cô con gái bằng “bà” và xưng là “tôi”, bởi vì đối với một cô con gái chưa chồng mà bị kêu bằng bà, thì đó quả là một xúc phạm. Bộ người ta già lắm rồi sao? Sự già của đờn bà con gái là một “thảm trạng”, là một tai nạn. Người ta cố tránh để thấy rằng mình vẫn còn trẻ, còn đẹp, còn xinh và còn duyên.
Tuy nhiên, cậu con trai cũng có thể gọi cô con gái bằng “cô” và xưng mình là “tôi”. Tiếng “cô” ở đây có nghĩa là cô gái, cô nàng với âm vang còn trẻ, còn tự do, còn ở một mình, chưa lâm vào số kiếp “gái có chồng như gông đeo cổ”. Ở một mình nhưng không buồn tẻ và cô đơn, bởi vì đây là thời gian tích lũy biết bao nhiêu hy vọng, đây là thời gian chờ đợi nao nức, pha lẫn chút bâng khuâng và lãng mạn:
Thân em như tấm lụa đào,
Phất phơ trước gió, biết vào tay ai.

Tiếp đến, cô con gái có thể gọi cậu con trai bằng “anh” và xưng mình là “tôi”. Xem ra cậu con trai không thích được gọi bằng “ông”, bởi vì “đằng này tuy phận mày râu, nhưng râu chưa đến nỗi dài để đáng được gọi bằng ông”. Vả lại kêu bằng ông, nó có vẻ kiểu cách làm sao ấy. Thôi thì đành phải hạ xuống một bậc, gọi là anh nhé. Cô con gái gọi cậu con trai bằng “anh” và xưng mình là “tôi”.
Nhưng chữ “tôi” xem ra vẫn còn xa lạ, vậy ta nên thay thế bằng cái tên của cô con gái, để được đằm thắm hơn. Thí dụ tên của cô con gái là Thanh. Lúc bấy giờ cô con gái gọi cậu con trai bằng “anh” và xưng mình là “Thanh”. Cách xưng hô này như muốn xác định: “Anh” là phận nam, còn “Thanh” là phận nữ. Cậu con trai phải nhận ra sự dịu dàng và êm đềm của lối xưng danh này. Tình cảm bắt đầu như hừng đông ló dạng. Cũng trong giai đoạn này, cậu con trai có thể gọi cô con gái bằng “Thanh” và xưng mình là “tôi”. Cậu con trai nhủ thầm: Mình gọi nàng là Thanh, thay vì gọi là cô, bởi vì chữ cô nó cứng nhắc sao ấy, còn mình thì vẫn xưng là tôi. Nếu tình cảm giữa Thanh và tôi chẳng đi đến đâu, thì tôi vẫn còn một lối thoát. Chứ nếu vội xưng mình là “anh”, hẳn sẽ bị chọc quê: Đúng là cái anh chàng ngớ ngẩn, chư gì mà đã ham.
Khi tình cảm tiến thêm được một bước nữa, người ta có thể gọi tên của nhau. Thí dụ: “Dũng-Thanh”. Cậu con trai bỏ đi tiếng “tôi” khô khan trước kia và thay bằng tên của mình. Bỏ “tôi” để xưng là “Dũng”, thì đã vượt qua được một chặng đường. Từ đây, Dũng là Dũng đối với Thanh và Thanh là Thanh đối với Dũng. Tuy nhiên cũng vẫn còn phải chờ đợi, bởi vì tình yêu cần kiên nhẫn và cân nhắc, chứ không thể đốt giai đoạn được.
Sau cùng, cô con gái gọi anh con trai là “anh” và xưng mình bằng tên, chẳng hạn như Thanh. Còn cậu con trai cũng gọi chị con gái bằng tên, chẳng hạn như “Thanh” và xưng mình là “anh”. Anh-Thanh, cách xưng hô này nói lên sự tin tưởng và chấp nhận lẫn nhau, mang một âm hưởng thật trìu mến, vì thế nó thường được sử dụng trong chốn riêng tư hay trong vòng thân mật mà thôi.
Khi đã bước vào tình yêu
Ngày xưa, người ta thường quan niệm: Nam nữ thọ thọ bất thân và trong phạm vi hôn nhân, thì cha mẹ đặt đâu con phải ngồi đó. Vì thế, nhiều đôi mãi tới khi thành vợ thành chồng, mới biết mặt nhau và do đó không tránh khỏi những lúng túng khi phải xưng hô với nhau trong những ngày đầu. Khi nói chuyện, hai người nhiều lúc chỉ biết ấp úng, ngập ngừng và yên lặng, như mẩu đối thoại dưới đây.
Chị vợ nói với anh chồng:
– Má biểu… đem cho… cái nầy nè.
Anh chồng hỏi lại:
– Má biểu ai đem cho ai vậy?
Chị vợ nhìn xuống, đỏ mặt và thinh lặng. Phải dạn dĩ lắm, chị vợ mới đáp lại:
– Ai đây chứ còn ai nữa.
Khi tình yêu đã chín và nhất là khi đã trở thành vợ chồng, người ta thường xưng hô với nhau bằng cặp từ “Anh-Em”. Thực vậy, khi cậu con trai và cô con gái đã cân nhắc và chọn lựa, để ăn ở đời kiếp với nhau, thì hai chữ “Anh-Em” sẽ là một lời giao ước, kết nối chân tình một cách ngọt ngào và tình tứ nhất. Từ nay, anh phải là anh của em và em cũng phải là em của anh với một sắc thái thật đặc biệt, không giống như em gái hay anh trai trong gia đình.
Như trên gã đã trình bày: Sau khi Thượng Đế giới thiệu Eva cho Adam, thì mắt ông đã rực sáng và miệng ông đã vui mừng hớn hở mà kêu lên rằng:
– Này đây xương bởi xương tôi, và thịt bởi thịt tôi.
Nếu như Adam lúc bấy giờ sử dụng tiếng Việt, hẳn ông đã kêu lên:
– Mình ơi!
Hai chữ “mình ơi” sao mà khắng khít, đậm đà yêu thương đến thế. Trong tiếng Việt, chữ “mình” vừa là anh, vừa là em, vừa là chúng ta và cũng vừa là thân thể. Kể từ nay, mỗi người trở nên một phần thân mình của nhau, anh đã là mình của em và em cũng đã là mình của anh trong cương vị vợ chồng yêu thương cho nhau hạnh phúc và kết quả trải dài qua con cái:
Mình với ta tuy hai mà một,
Ta với mình tuy một mà hai.

Hạnh phúc từ trong nhà tràn ra ngoài ngõ, lan tới hàng xóm láng giềng, khiến anh chồng, chị vợ luôn hãnh diện và giới thiệu về nhau cho bàn dân thiên hạ bằng hai chữ “Nhà Tôi”. Nhà là nơi có mái để che mưa, che gió, che nắng; là nơi để người ta đi, dù chỉ một buổi làm, cũng ngong ngóng trở về. Lấy mái ấm mà đôi vợ chồng hạnh phúc sống bên nhau, để chỉ người phối ngẫu, quả là một kiểu nói thật độc đáo của người Việt ta. Trong tiếng Pháp “ma maison”, nhà tôi, dù có thân thiết lắm, cũng chỉ là một căn hộ bằng bê tông cốt thép là cùng.
Xã hội Việt Nam ngày xưa lấy nghề nông làm gốc:
Nhất sĩ nhì nông,
Hết gạo chạy rông,
Nhất nông nhì sĩ.
Làm nghề nông, công việc vất vả nên cần phải có nhiều người để cùng chia sẻ. Vì vậy, người Việt ta thường cầu chúc cho nhau: Đa tử, đa tôn, đa phú quý. Cha mẹ vui vầy bên lũ cháu đàn con và ai cũng cảm thấy sung sướng trong cảnh gia đình đông đúc. Khi đứa con đầu lòng mở mắt chào đời, đưa hạnh phúc gia đình tới tình trạng sung mãn, thì anh chồng cũng như chị vợ thường dùng tên con để gọi nhau, chẳng hạn như: Má thằng Mít, ba con Xoài… Gọi tên con như vậy là để nhắc nhở cho nhau trách nhiệm gia đình trong liên hệ đầm ấm vợ chồng con cái.
Khi con cái đùm đề, thì tên đứa con đầu lòng nhường chỗ cho kiểu nói gộp lại, chẳng hạn như: Ba bầy trẻ, má xấp nhỏ… cho hợp lý và vừa lòng con cái, đồng thời nhấn mạnh đến gia thế đồ sộ và trách nhiệm tăng lên. Từ cha mẹ cho đến con cái, mỗi người một công việc, mỗi người một bổn phận. Thật là hạnh phúc cho gia đình nào trong đó mọi người yêu thương đùm bọc và nâng đỡ lẫn nhau.
Khi tức giận
Kinh nghiệm cho thấy: Chúng ta không thể nào sống cô độc lẻ loi như một hòn đảo giữa biển khơi, hay như một pháo đài biệt lập. Trái lại, chúng ta sống là sống với người khác, nhất là với những người thân yêu trong gia đình. Thế nhưng, trong cuộc sống chung này, chúng ta không thể nào tránh đi cho hết những va chạm, bực bội và tức tối. Đối với người Việt ta, việc xưng hô còn tùy thuộc vào tâm trạng. Những khi cơm lành canh ngọt, thì lời lẽ cũng ngọt ngào theo. Còn những lúc gia đình lâm vào cảnh xào xáo, người ta sẵn sàng văng ra những ngôn từ thật khó nghe: Nào là “Cô-Tôi”, nào là “Ông-Tôi”, nào là “Mày-Tao”, nào là Thằng trời đánh, nào là Con mẹ kia… Sau đây là một vài tình huống mà gã đã lượm lặt được.
Tình huống thứ nhất: Trong một cuộc tranh cãi, anh chồng bỗng chuyển sang giọng gay gắt, buông lời đụng chạm tới bố mẹ vợ. Cảm thấy bị xúc phạm, chị vợ không khóc như mọi lần, nhưng đanh mặt lại, nhìn anh chồng và thách thức:
– Anh vừa nói gì? Anh nói lại tôi nghe xem nào.
Lúc này anh chồng cũng đã bốc hỏa lên đầu, xưng ngay “tôi-cô” và cuộc cãi vã kết thúc bằng việc anh chồng phóng xe ra đường, còn chị vợ thì ôm mặt khóc. Chưa hết, chiến tranh lạnh còn kéo dài suốt cả tuần lễ sau đó. Hai chữ “cô-tôi” sao mà lạnh lẽo và xa cách đến thế. Hai người coi nhau như kẻ thù và sẵn sàng ở vào cái thế đối đầu với nhau.
Tình huống thứ hai: Anh chồng bình thường rất chiều chuộng chị vợ, toàn gọi chị vợ bằng những cái tên thật trìu mến như: “Vợ yêu”… Nhưng đó là chuyện của năm đầu tiên chung sống. Còn sau đó, mỗi lần điên lên vì ghen, nhất là khi đã có tí men trong người, anh chồng sẵn sàng tuôn ra những tràng: “Mày-tao”, “Con kia”… Ban đầu chị vợ cả thấy rất sốc, nhưng sau đó cũng chuyển sang xưng “mày tao” với anh chồng.
Theo các chuyên gia tâm lý: Cho dù cãi nhau vì bất cứ lý do gì, ai đúng ai sai, vợ chồng tuyệt đối không bao giờ được xưng hô “mày-tao” với nhau. Điều này làm cho cả hai cảm thấy mình không được tôn trong, yêu thương và càng đẩy mâu thuẫn lên cao hơn.
Trong đời sống vợ chồng, cãi cọ cũng cần có nghệ thuật, bởi vì nếu biết cách, nhiều khi tranh cãi xong, vợ chồng thay vì nhìn nhau bằng cặp mắt hình viên đạn, thì lại hiểu nhau hơn, đồng thời giải quyết được những khó khăn và cùng nhau rút tỉa được những kinh nghiệm cho cuộc sống chung.
Theo lời một chị vợ kể lại: Hồi mới cưới, có lần vợ chồng bực nhau, chị vợ không chịu nổi, đã lớn tiếng xưng “tôi” với anh chồng. Lúc đó, anh chồng nghiêm nét mặt vào bảo:
– Em đừng xưng hô như thế với anh, nghe chướng lắm. Nếu anh cũng nói vậy, em có buồn không?
Lúc ấy, chị vợ cảm thấy ngượng, nhưng vẫn còn chống chế:
– Nếu không xưng hô như thế, thì làm sao cãi nhau được.
Anh chồng bèn ôn tồn:
– Thế thì thôi, chúng mình đừng cãi nhau nữa.
Sau lần ấy, chị vợ cảm thấy yêu và phục anh chồng. Từ đó, chị vợ không còn xưng hô như thế mỗi lần bực tức nữa.
Tóm lại, khi mâu thuẫn với nhau, vợ chồng cần phải biết kiềm chế “cái tôi” của mình, lắng nghe “nửa kia” và diễn đạt ý nghĩ của mình một cách tế nhị, đồng thời phải biết tôn trọng lẫn nhau trong cách xưng hô. Như vậy, mới tránh đi được những sứt mẻ và đổ vỡ.
(Internet)
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong, Thuvang

Re: Những Bài Viết Ngắn Chọn Lọc (Sưu Tập)

Postby bevanng » 27 May 2018

‘Sống để tận hưởng những gì mình có và không quan tâm đến những gì mình không có’


Diogenes đã để lại cho Sinop một di sản, một chìa khóa mở ra con đường dẫn tới hạnh phúc. Con đường của sự hòa ái, bằng lòng với những gì mình đang có, tiết chế dục vọng và ham muốn.
Sinop, Thổ Nhĩ Kỳ, là quê hương của nhà triết học Diogenes, người đã thách thức nhân loại với triết lý: Sống để tận hưởng những gì mình có và không quan tâm đến những gì mình không có. Đây cũng là thành phố được xếp hạng hạnh phúc nhất của quốc gia ở phía Đông Địa Trung Hải này.
Sau chặng đường dài 730 km từ Istanbul, tôi đặt chân lên bờ biển phía bắc Thổ Nhĩ Kỳ, nơi những khu rừng trải dài gặp gỡ Biển Đen. Cảm nhận đầu tiên của tôi về bầu không khí ở Sinop là vô vùng trong lành và thoáng đãng với mùi hương linh sam thoang thoảng. Và trong buổi sáng tháng 7 chan hòa ánh nắng, tôi đã tìm thấy câu trả lời cho câu hỏi tại sao cư dân tỉnh Sinop lại là những người hạnh phúc nhất đất nước Hồi giáo nằm trên cả hai châu lục này.
“Tất cả mọi người ở đây đều biết nhau và họ đều rất hòa ái. Không ai can thiệp vào chuyện của người khác”, người lái xe taxi của tôi, Bekir Balcı, giải thích khi chiếc xe của chúng tôi đi từ bến xe buýt về phía thành phố Sinop, thủ phủ của tỉnh.
Băng qua những ngọn đồi thoai thoải và những cánh đồng thấp thoáng vài chú bò nhãn nhã; Ngắm nhìn những tán lá xanh rì lướt qua cửa xe, và những bãi biển hẹp nằm dài song song với đường cái; Tôi ngả lưng vào ghế, thả mình vào vẻ đẹp tuyệt vời của phong cảnh nơi đây.
Chiếc xe đột ngột xóc lên khi băng qua ổ gà trên đường. “Chỉ có một thứ không ổn, con đường không được êm lắm,” Balcı nói thêm với một cái nhún vai.
Theo Viện Thống kê Thổ Nhĩ Kỳ, tỉnh Sinop nằm trong những tỉnh xếp hạng thiếu thốn so với các tỉnh khác của đất nước về y tế và cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, Sinop đã đứng đầu về chỉ số hạnh phúc trong cuộc khảo sát sự hài lòng với cuộc sống của Viện trong nhiều năm liên tiếp. Vậy, điều gì đã làm nên nghịch lý kỳ diệu đó?
Sinop nổi tiếng là quê hương của nhà triết học Hy Lạp cổ đại Diogenes, ông sống một cuộc sống cơ hàn của người ăn xin trên các đường phố và ngủ trong một cái trum tắm của khu chợ vào những năm 300 năm trước Công nguyên. Phong cách sống của ông định hình nên danh từ “Cynic” để miêu tả những người theo chủ nghĩa hoài nghi, yếm thế, được bắt nguồn từ một từ trong tiếng Hy Lạp cổ đại, có nghĩa là “con chó”.
Ông là một trong những người sáng lập nên trường phái triết học hoài nghi – theo đó tin rằng:
Các công ước xã hội cản trở tự do cá nhân và cản trở con đường dẫn đến cuộc sống tốt đẹp, trong khi sống thuận theo tự nhiên là cách nhanh nhất để đạt được hạnh phúc.
Chủ nghĩa hoài nghi là trường phái triết học xem xét một cách hệ thống và luôn hoài nghi, phê phán tính chính xác tuyệt đối của tri thức, nghĩa là luôn đặt ra câu hỏi liệu các tri thức và nhận thức có đúng hay không và liệu người ta có thể có tri thức thực sự hay không. Chủ nghĩa hoài nghi triết học đối lập với chủ nghĩa giáo điều triết học – trường phái cho rằng luôn tồn tại một số nhất định những khẳng định là hoàn toàn xác thực.
Giáo sư Stephen Voss ở Khoa Triết học, Đại học Boğaziçi giải thích: “Diogenes đã tìm thấy hạnh phúc trong một cuộc sống giản dị phù hợp với thiên nhiên – cuộc sống thách thức những người mà ông gặp về triết lý tận hưởng những gì mình có và không quan tâm đến những gì mình không có.”
Diogenes đã chọn sống với không có gì ngoài quần áo trên người và cái trum để ngủ; Sử dụng tính hài hước để phê bình các tín đồ tôn giáo, các nhà lãnh đạo chính trị và tất cả mọi người trung thành với điều mà ông cho là không thuận theo tự nhiên.
Theo truyền thuyết địa phương, có một lần Alexander Đại đế đã đi thăm Diogenes và thấy ông đang nằm thư giãn dưới ánh mặt trời. Khi được hỏi liệu ông có muốn gì từ nhà vua không, triết gia nói: “Vâng, vậy Ngài có thể đứng sang một bên và vui lòng đừng chặn ánh nắng”. Với ông như vậy là đủ với một đòi hỏi cho người quyền lực nhất đất nước.
Trên đường trở về, những tùy tùng của Alexander cười nhạo ông già gàn dở, nhưng Alexander bảo họ: “Các Ngươi cứ cười nếu muốn, nhưng nếu ta không phải là Alexander thì ta muốn được làm Diogenes.”
Sau 15 phút, chiếc xe taxi đã đưa tôi đến trung tâm của thành phố Sinop, nơi đây là phần hẹp nhất của bán đảo nhỏ trải dài ăn ra Biển Đen. Ngay giữa trung tâm thành phố có một bức tượng của Diogenes, được dựng lên vào năm 2006. Điều này cho thấy những quan điểm về cuộc sống có vẻ khác biệt và bị cho là cực đoan của ông một thời đã không bị lãng quên ở nơi đây.
Không có đèn tín hiệu giao thông nhưng so với những con đường hỗn loạn của Istanbul, những chiếc xe ở đây lưu thông một cách có trật tự hơn hẳn. Trên thực tế, vỉa hè chật cứng những người chọn cách đi bộ thay vì lái xe và có thể thấy không có sự vội vã nào mặc dù đó là một buổi sáng ngày thường. Thậm chí tôi còn nghe nói rằng các công chức trong bộ máy chính quyền nơi đây không đi làm sau ngày thứ Tư.
Tôi có hỏi Aylin Tok, quản lý của Teyze’nin Yeri, một nhà hàng nổi tiếng với món mantı (một kiểu bánh há cảo phủ bột hạt óc chó) rằng điều gì đã khiến Sinop trở thành một nơi ngập tràn hạnh phúc. Câu trả lời của Tok nghe có vẻ như mang phong cách của chủ nghĩa hoài nghi – dù cô ấy cố ý hay không.
“Ở đây không có sự phân biệt giữa người giàu và người nghèo” cô ấy nói với tôi. “Mọi người từ tất cả các tầng lớp trong xã hội đều đến cùng một quán cà phê để ăn một loại bánh tráng miệng kiểu Thổ Nhĩ Kỳ bao gồm hạt vừng và uống trà hay cà phê.”
Có vẻ như thành phố này đã áp dụng phong cách sống đúng như tinh thần của Diogenes: chống phân biệt chủng tộc, coi rẻ danh vọng, tiền bạc…
Thời gian vẫn tiếp tục trôi tại quê hương của Diogenes thành Sinop, người Thổ đã đến sinh sống tại đây và người Hy Lạp đã dời đi. Nhưng trong khi có một vành đai những tòa nhà hiện đại bao xung quanh thành phố cổ, thì tại đây lại không có tòa nhà chọc trời nào che mất đường chân trời, và người dân thích cách sống đơn giản hơn. Những người hàng xóm tựa vào cửa sổ để trò chuyện, mua sắm tại các tiệm bánh và các cửa hàng nhỏ của địa phương. Có vẻ như cư dân của Sinop không thực hành chủ nghĩa hoài nghi triệt để như Diogenes, nhưng các yếu tố chính của chủ nghĩa này – đặc biệt là nhấn mạnh vào cuộc sống tốt đẹp tới từ sự hài hòa ít tham vọng – vẫn vang vọng khắp thành phố.
Ngày đã chuyển chiều muộn, tôi đi tới quán Bar mang tên Castle Tower nằm bên trong thành cổ của thành phố Sinop. Mặt trời lặn dưới đám mây, mọi người bơi trên bến cảng và những con đường đầy cây xanh trong ánh hoàng hôn yên bình. Những chiếc thuyền đánh cá nhỏ mang cá vào bờ, những cặp vợ chồng tay trong tay đi dạo chơi dọc theo bờ biển và các nhạc công đám cưới trò chuyện vui vẻ từ phía sau xe. Phía xa, những ngọn đồi phủ kín màu xanh đánh dấu vị trí mà bán đảo nối với đất liền. Đối với tôi, sự nổi tiếng về hạnh phúc của thành phố này không còn là điều bí ẩn nữa.

Có vẻ như người đời chưa thật sự hiểu Diogenes, những gì ông muốn nhắn nhủ thế nhân không phải là sự yếm thế, bi quan xa rời cuộc sống thế tục. Ông dùng chính cuộc đời mình, cách sống của mình để răn dạy người đời sau rằng cuộc sống con người là phải hòa hợp với tự nhiên, thuận theo đạo Trời, coi rẻ danh vọng, tiền bạc, thoát khỏi dục vọng.
Sự hoài nghi của ông đối với tri thức của con người cũng thể hiện một cái nhìn khoáng đạt, không cố định sự hiểu biết của mình bằng những hệ thống khái niệm không đầy đủ và chủ quan. Chúng ta có thể tin rằng một sự vật, hiện tượng nào đó chính xác là như thế này nhưng trên thực tế có thể nó lại không đúng như vậy. Như cặp mắt chúng ta nhìn quyển sách đang bất động ở đây, nhưng dưới kính hiển vi, những nguyên tử cấu thành nên nó chẳng phải đang chuyển động không ngừng hay sao? Con người đã từng có thời cho rằng Trái đất là trung tâm của vũ trụ, rồi sau đó quan niệm đó bị đạp đổ bởi kiến thức mới về hệ mặt trời trong đó Trái đất quay xung quanh Mặt trời. Nhưng biết đâu đó trong tương lai, khi có thể quan sát được rộng hơn, và ở một hệ quy chiếu nào đó, con người lại phát hiện ra rằng Trái đất chính là trung tâm của vũ trụ này… Tất cả chỉ là giả định, nhưng chúng ta không nên cố định bất cứ tri thức nhỏ bé nào mà mình biết, bởi những điều chúng ta chưa biết thì rộng lớn hơn quá nhiều so với những gì chúng ta biết.
Với những quan điểm rất cởi mở, tại sao Diogenes lại chọn cách sống có phần cực đoan khiến nhiều người không thể lý giải nổi như vậy? Nếu như hòa thượng Tế Công không ăn thịt thì người đời sau cũng không nhận ra việc loại bỏ dục vọng với thịt mới là bản chất chứ không phải giới cấm thịt là loại bỏ được ham muốn đối với việc ăn thịt. Trương Quả Lão cưỡi lừa ngược cũng là để cảnh báo con người rằng tiến lên chính là thụt lùi, xã hội nhân loại càng phát triển bao nhiêu thì đạo đức con người càng bại hoại bấy nhiêu. Diogenes cầm đèn đi giữa ban ngày để tìm hiền nhân mà không thấy cũng là ám chỉ các nhà triết học đang uổng công đi tìm nguồn gốc vũ trụ và loài người từ những khái niệm và cách tiếp cận sai lầm. Con người cứ dùi mãi vào sừng bò nông cạn mà quên mất quan sát cuộc sống, tự nhiên và những điều vô hình nhưng có quy luật có thể tác động được đến đời sống của chúng ta. Các bậc thánh hiền xưa nay đều để lại những câu chuyện về cuộc đời họ và di ngôn đầy tính ẩn dụ, nên nếu thật sự muốn hiểu hết ý nghĩa sâu xa đằng sau đó, chúng ta phải thật sự khiêm nhường và cầu thị.
Diogenes đã để lại cho Sinop một di sản, một chìa khóa mở ra con đường dẫn tới hạnh phúc. Con đường của sự hòa ái, bằng lòng với những gì mình đang có, tiết chế dục vọng và ham muốn. Cuối cùng, thực tế đã chứng minh, tinh thần Diogenes vẫn vang vọng ở Sinop, thành phố hạnh phúc nhất Thổ Nhĩ Kỳ.
Joshua Allen
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong, Thuvang

Re: Những Bài Viết Ngắn Chọn Lọc (Sưu Tập)

Postby bevanng » 02 Jun 2018

Nhà phát minh Thomas Edison và lời cầu hôn không tưởng

Đối với Thomas Alva Edison, nhà phát minh thiên tài người Mỹ thì giới hạn ngắn nhất của một đời người là vô cùng ngắn ngủi, không đủ để người ta có thể vòng vo bất cứ việc gì, cho dù đấy là đại sự cả một đời như việc yêu và… lấy vợ. Bởi vậy, ta sẽ rất khó gặp trong thế giới hiện tại một nhà trí thức nào lại có cuộc hành trình nào dẫn tới hôn nhân vừa đơn giản, bất ngờ, lại hết sức chóng vánh như trường hợp của Edison.
Khi ấy (năm 1871), mặc dù mới 24 tuổi nhưng Edison đã là một nhân vật giàu có và nổi tiếng. Nước Mỹ biết ơn anh vì bởi những thành tựu: Hoàn chỉnh máy điện báo “tích cơ”, nâng cao hiệu suất chiếc máy điện báo của nhà sáng chế người Anh Gioóc Lít-tơn., tìm ra loại giấy ghi moóc-xơ có tráng pa-ra-phin, nhằm tăng độ bền…
Nhưng đó cũng là thời điểm Edison cảm thấy cô đơn nhất trong cuộc đời. Mẹ mất! Chị gái Tania – người bạn thân thiết nhất thời thơ ấu của anh đã đi lấy chồng và có con. Anh bạn Adam – vị ân nhân đã từng cứu Edison thoát khỏi tai nạn xe hơi – bấy giờ cũng đang lận đận mưu sinh ở phương trời nào! Edison cảm thấy một nỗi buồn trống vắng. Và, theo lời khuyên của người chị gái, Edison bắt đầu nghĩ đến việc lập gia đình riêng.
Một ngày thu mưa lạnh, trên đường tới nơi làm việc, Edison bất chợt nhìn thấy ở cửa xưởng của mình có hai thiếu nữ đang co ro tránh cho khỏi ướt. Sẵn có chiếc ô cầm tay, anh mời hai cô đi và hứa đưa họ về tận nhà. Trong hai cô gái, Edison để mắt đến một cô có vóc dáng thanh mảnh, nhan sắc “vừa phải” nhưng duyên dáng dịu dàng. Cô thật trùng khớp với những gì mà Edison hình dung về người bạn đời của mình. Qua giới thiệu, anh được biết tên cô là Mary Stilwell.
Ít hôm sau, như thường lệ, Edison đến văn phòng làm việc. Anh rất ngạc nhiên khi nhìn thấy Mary đang ngồi đánh máy. Quả tình chưa bao giờ Edison nghĩ là cô làm việc ở xưởng của mình. Thấy anh, cô gái cũng tỏ ra hết sức lúng túng, vội ngừng tay gõ máy. Edison khẽ khàng:
– Xin lỗi cô, vì tôi mà cô…
– Dạ, không dám ạ.
Trước sự e lệ của cô gái, Edison cảm thấy mạnh dạn hơn:
– Vâng, hôm nọ chúng ta đã làm quen với nhau “trong mưa”, thế mà tôi hoàn toàn không biết cô làm ở đây. Ồ, sao tôi lại lơ đãng thế không biết? Cô tha lỗi cho tôi nhé.
Bất chợt, một quyết định vụt lên trong đầu Edison như một ta chớp. Anh cố nén bình tĩnh nói:
– Thưa cô, tôi không muốn mất thì giờ nói những câu vô ích. Tôi xin hỏi cô một câu rất ngắn và rõ ràng: Cô có ưng làm vợ tôi không?
Cô gái hoảng hốt nhìn người chủ xưởng… Ông đang nói điều gì vậy? Cô luống cuống… Những tờ giấy đánh máy bay lả tả trên sàn. Cô như trong một cơn say, tất cả mọi vật quanh cô đều chao đảo. Cố lắm mới thốt lên lời:
– Thưa ông Edison, xin ông đừng đùa…
Edison nghiêm mặt. Cả đời ông, chưa bao giờ ông dám đùa với một chuyện động trời động đất như thế này:
– Không! Tôi không đùa! Ngược lại, tôi nói rất nghiêm chỉnh.
Cô gái lại càng lúng túng:
– Vâng! Nhưng chẳng lẽ, với một điều như vậy mà… ông muốn em phải trả lời trong một giây thôi ư…
– Những quyết định lớn đều như vậy: trong một giây thôi. Và cuộc đời ngắn ngủi quá đến nỗi ta phải cân nhắc nó đến bằng gam nữa. Ý cô thế nào? Cô nhận lời tôi nhé? Tôi xin cô hãy suy nghĩ trong 5 phút.
Mary ngạc nhiên nhìn Edison rồi khẽ khàng đáp:
– Năm phút cơ à! Em chẳng muốn ông phải chờ lâu đến thế…
– Vậy câu trả lời của cô thế nào? – Edison gặng hỏi.
– Vâng… em nhận lời.
Edison vui sướng cầm tay Mary khẽ hôn và nói:
– Hôm nay là thứ mấy nhỉ? Thứ hai à… tốt! Chủ nhật tới chúng ta sẽ làm lễ cưới!
– Thế thì hơi sớm. Chủ nhật sau có được không ạ?
– Thế cũng được. Chỉ có một điều, thưa cô đánh máy, tôi hy vọng sau lễ cưới tôi vẫn là người chỉ huy chứ?
– Dạ, vâng! Chỉ huy đánh máy chữ thôi ạ!
– Hay lắm! Tôi thích câu trả lời ấy…
Cả hai cùng cười vui vẻ.
Bởi sự việc quá bất ngờ, phần nào “trái” với logic thông thường, thành thử sau đó vài ngày, Mary vẫn chưa hoàn toàn dám tin chuyện kết hôn giữa cô và ông chủ tài năng Edison là sự thật. Một hôm cô hỏi Edison:
– Ông Edison, hôm nọ ông có hứa với em một điều. Ông còn nhớ không?
– Tất nhiên là phải nhớ chứ em.
– Đó là điều em phải hỏi cho rõ vì…
Edison lộ vẻ buồn bực:
– Thế em cho là tôi đùa với em sao? Em cho rằng tôi có thể phí thì giờ vào những chuyện ngu ngốc đó hay sao?
– Không! Nhưng em chỉ sợ đó là phút giây bồng bột của ông thôi!
Edison nghiêm nghị:
– Sao lại bồng bột?
– Vì chưa bao giờ em thấy ông tỏ ra có thiện cảm với em cả. Tất cả mọi việc đều xảy ra như sét đánh…
Edison phật ý:
– Lạ thật! Sao em chẳng hiểu rằng tôi không có thì giờ… Em xem đấy, tôi còn có lúc nào rảnh mà đi tán tỉnh em được nữa. Vả lại, tôi không biết tán phụ nữ, em ạ… Tôi chẳng bao giờ thấy chuyện làm cho một người con gái phải chờ đợi, đau đớn, khổ sở vì mình là niềm vui. Tôi cũng chưa bao giờ nghĩ đến chuyện hỏi đùa ai làm vợ cả. Những chuyện như vậy thật xa lạ với tôi quá… em hiểu không?
Đám cưới của hai người được tiến hành đúng như kế hoạch. Mọi chuyện diễn ra thật vui vẻ cho đến khi khách khứa phát hiện ra chú rể… biến đâu mất. Mọi người chia nhau lùng sục các phòng nhưng đều không thấy!
Chỉ có cô dâu là còn giữ được bình tĩnh. Cô đoán lang quân của cô đang ở phòng thí nghiệm. Hẳn chốc lát anh ấy sẽ lên. Song, thời gian cứ tích tắc trôi qua, Mary bắt đầu cảm thấy lo lắng. Cô vội bảo anh trai cô:
– Anh xuống phòng thí nghiệm mà tìm, em chắc anh ấy chỉ ở dưới đó thôi!
Quả nhiên, người anh xuống và bắt gặp chú rể đang loay hoay ở dưới đó thật. Nghe ông anh vợ hỏi, Edison giải thích:
– Anh xem! Tôi đang bận việc!
– Làm việc à, được thôi! Nhưng hôm nay là ngày chú cưới vợ. Chú để khách khứa ở trên nhà một mình thế ư?
Edison nghe vậy thì giật mình sửng sốt:
– Chết thật! Tôi thật đãng trí quá! Cám ơn anh đã xuống gọi. Chắc Mary giận tôi lắm đấy.
– Không đâu chú ạ, vì chú có cố ý thế đâu!
Mary quả là người vợ rất đỗi xứng đáng với người chồng thiên tài của mình! Cô không chỉ yêu thương, kính phục mà còn hiểu rõ mục đích công việc của chồng, vì thế mà biết chia sẻ cảm thông với chồng. Tiếc rằng, Mary chỉ chung sống với Edison được có 13 năm. Cô mất do lâm trọng bệnh, để lại cho ông ba người con: hai trai một gái. Tuy nhiên, cũng cần phải nói, đó là 13 năm tên tuổi Edison rực rỡ hơn bao giờ hết, là lúc ông cống hiến cho nhân loại những phát kiến vĩ đại: phát minh ra máy ghi âm, đèn điện, tàu điện, máy chiếu bóng,…
Một nhà khoa học đã nhận xét về Edison qua một giả định: Nếu đánh rơi một chiếc kim vào trong đống rơm, Edison sẽ là người lần lượt gỡ từng cọng rơm để tìm chiếc kim đó, thay vì việc – như một số người khác – phán đoán chiếc kim rơi ở quãng nào. Nhận xét đó mang hàm ý: Bởi không được học hành cơ bản, Edison đã phải đổ rất nhiều thời gian cho những công đoạn vô ích, mặc dù ông có một nghị lực phi thường và được trời phú cho trí tuệ siêu đẳng. Có thể nói, trong việc tìm kiếm người bạn đời mà chúng ta đã chứng kiến ở trên, Edison không phải tẩn mẩn nhặt từng cọng rơm. Trong chớp nhoáng, ông đã tìm ra ngay được chiếc kim vàng của mình, chiếc kim quý giá đã cùng ông thêu lên chiếc áo của thành công và hạnh phúc.
Sưu tầm
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong, Thuvang

Re: Những Bài Viết Ngắn Chọn Lọc (Sưu Tập)

Postby bevanng » 08 Jun 2018

Đứa Con Của Stalin


Cách đây 50 năm, con gái của Stalin, Svetlana Alliluyeva, đã trốn chạy sang Mỹ. Mặc dù là con gái của một nhà độc tài với quyền lực gần như không giới hạn, nhưng cuộc sống gia đình của Svetlana đã bị tàn phá bởi bi kịch, thường là do cha bà gây ra.
Mẹ Svetlana chết khi bà mới 6 tuổi. Các viên chức nói rằng nguyên nhân do viêm ruột thừa, nhưng sự thật sau đó được tiết lộ mẹ bà đã tự sát. “Bà ấy đã ra đi như một kẻ thù”, Svetlana sau này nhớ lại lời cha nói. Trong suốt thời kỳ Khủng Bố Đỏ những năm 1930, Stalin cũng không tha cho gia đình mình. Cô chú của Svetlana đã bị ông ta bắt vì dán nhãn là “kẻ thù của nhân dân” và sau đó bị hành quyết.
Svetlana viết: “Bạn không thể hối tiếc cho số phận của mình, nhưng tôi đã hối hận vì mẹ đã không lấy một người thợ mộc”.
Những anh em của bà cũng không có gì tốt hơn. Người con trai bị khinh miệt của Stalin, Yakov Dzhugashvili, đã cố gắng tự sát sau khi buồn bã vì một mối tình lãng mạn. Stalin chỉ lạnh lùng nói, “Nó thậm chí còn không thể bắn thẳng được”.
Năm 1941, Yakov gia nhập Hồng Quân và làm trung úy. Vào ngày đầu tiên của cuộc chiến, Stalin, người mà những nhà sử học tin đã giết chết 20 triệu người, nói với con trai: “Hãy tiến lên và chiến đấu”.
Tuy nhiên khi Yakov bị Đức Quốc Xã bắt giữ vào tháng 7 năm đó, Stalin đã phớt lờ con mình, vì ông tin rằng tù nhân là những kẻ phản bội Liên Sô. Ông từng nói: “Không có tù nhân chiến tranh, chỉ có những kẻ phản bội quê hương của họ”.
Yakov Dzhugashvili
Hai năm sau, khi thống soái của Đức Friedrich Paulus bị bắt, Đức Quốc Xã yêu cầu trao đổi tù nhân. Stalin đáp lại với tuyên bố nổi tiếng: “Tôi không đánh đổi một thống soái lấy một trung úy”, nó cho thấy bản chất vô cảm của ông.
Trong nhiều năm, các nhà tuyên truyền của Đức đã lừa dối các nhà sử học khi nói rằng Yakov đã bị giết trong khi cố gắng trốn khỏi tù giam. Tuy nhiên sau đó, người ta tiết lộ rằng Yakov đã lao vào hàng rào điện của trại giam để tự sát. Yakov đã bị mất tự chủ vì cảm thấy hổ thẹn sau cuộc thảm sát 15.000 người Ba Lan của Stalin ở Katyn.
Vasily Dzhugashvili, con trai thứ của Stalin, người được mô tả như 1 đứa trẻ hư hỏng, đã dùng danh tiếng của cha mình để bảo đảm 1 vị trí vững chắc trong quân ngũ và nhanh chóng thăng tiến trong chính trường.
Thói nghiện rượu cũng như tính ngang bướng đã khiến Vasily không được mọi người coi trọng so với những người đồng cấp ở Liên Sô, và ông lo sợ rằng nếu cha qua đời, người kế nhiệm sẽ vùi dập ông. Và Vasily đã đúng.
Bộ Quốc Phòng dưới thời Nikita Khrushchev đã giáng ông xuống canh giữ 1 chốt dân phòng gần Mạc Tư Khoa, và Vasily đã không tuân theo. Về sau, Vasily trải qua những năm cuối đời ra vào nhà tù vì say rượu. Sau nhiều năm vật lộn, chứng nghiện rượu cuối cùng đã giết chết ông. Vasily mất vào tháng 3/1962 ở tuổi 40.
Svetlana từng viết: “Cuộc đời của ông ấy là 1 bi kịch”.
Trước khi chết, cha Svetlana đã kiểm soát rất chặc cuộc sống của bà. Stalin đã ngăn cản bà học văn học tại Đại Học Moscow State. Ở tuổi 17, bà yêu một nhà làm phim và là nhà văn người Do Thái. Vì không tán thành mối tình này, Stalin đã gửi người đàn ông đến một trại lao động khét tiếng ở Siberia. Sau đó, bà kết hôn với một sinh viên cùng trường đại học, Stalin ngày càng nghi ngờ ông là người Do Thái và từ chối gặp mặt ông ta.
Năm 1967, Svetlana lại yêu một đảng viên Cộng Sản Ấn Độ đến Mạc Tư Khoa trị bệnh. Người này cuối cùng qua đời ở Mạc Tư Khoa và chính quyền Sô Viết cho phép bà mang tro cốt của ông về quê nhà. Với Svetlana, đây là 1 cơ hội hiếm hoi để bà bỏ chạy sang Hoa Kỳ.
Khi đến Ấn Độ, bà lẩn trốn các mật vụ Liên Sô và xin tị nạn tại Tòa Đại Sứ Mỹ ở New Delhi. “Ngài sẽ không thể tin được chuyện này. Nhưng tôi là con gái của Stalin”, Svetlana nói với một nhà ngoại giao Mỹ.
Sau khi sống tạm một thời gian ở Geneva, Thụy Sĩ, bà đã đến được Hoa Kỳ. Trong một cuộc họp báo, bà đã chỉ trích cha mình như một “con quỷ về đạo đức và tín ngưỡng” trước khi đốt Sổ Thông Hành Sô Viết.
Mãi sau khi cha qua đời, cái bóng của ông vẫn mãi ám ảnh trong ký ức bà.
“Ông ấy đã phá hỏng đời tôi. Bất luận tôi đi đâu, ở đây (Mỹ), Thụy Sĩ, Ấn Độ hoặc Úc hay bất kỳ đâu, tôi luôn là một tù nhân chính trị với tên tuổi của cha mình”, bà nói trong một cuộc phỏng vấn vào năm 2010 với tờ Wisconsin State Journal.
Năm 2011, bà qua đời tại viện dưỡng lão Wisconsin, Mỹ ở tuổi 85.
The Epoch Times
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong, Thuvang

Re: Những Bài Viết Ngắn Chọn Lọc (Sưu Tập)

Postby bevanng » 25 Jun 2018

Mất 60 Năm Để Biết Được Sự Thật


Tù binh bị đồng đội căm hận và báo thù đến chết, 60 năm sau, phát hiện từ một gốc cây gây chấn động nước Anh!
Đi qua những tình tiết bất ngờ, câu chuyện về người tù binh chiến tranh dưới đây đã khiến người đọc thực sự hồi hộp. Mất 60 năm để mọi người biết sự thật, quãng thời gian thật dài!
Roddick là một tù nhân chiến tranh người Anh. Anh bị bắt trong một lần kém may mắn và giống như nhiều tù nhân khác, Roddick bị áp giải đến một trại tập trung ở Đức.
Trong trại tập trung có gần 1000 tù binh, toàn bộ đều là người Anh. Họ bị đối đãi thậm tệ đến mức khó có gì lột tả hết, không khác gì loài vật và phải làm những công việc vô cùng nặng nhọc.
May mắn là, Roddick là một binh sĩ huấn luyện kỹ năng lái xe tải trong quân đội Anh. Trong trại tập trung của Đức, vị trí này lại thiếu rất nhiều nên tại đây, anh được chiêu mộ làm lái xe.
Tất nhiên, trong số những tù binh Anh ở trại tập trung đó, không ít người có kỹ năng lái xe nhưng chẳng ai tình nguyện làm công việc đó, bởi nhiệm vụ của việc lái xe là chuyên vận chuyển những chiến hữu chết đói và bị sát hại mỗi ngày đến nơi chôn cất.
Tuy nhiên, Roddick lại tỏ ra rất nhiệt tình với công việc này. Anh nói mình sẽ vui vẻ làm tốt công việc được giao.
Và như vậy, Roddick cuối cùng đã là một lái xe của Đức quốc xã và cũng kể từ đó, anh trở nên thô bạo và tàn nhẫn với chính đồng bào mình.
Không chỉ quát tháo, lớn tiếng với các tù nhân, anh còn dùng bạo lực, nắm đấm hướng về phía họ. Thậm chí, có tù nhân rõ ràng chưa chết, anh vẫn cố tình vứt lên xe.
Lẽ dĩ nhiên, tất cả những tù binh đều tỏ ra căm hận con người này, đồng thời dùng nhiều cách khác nhau để cảnh cáo Roddick. Nghe xong, anh vẫn bỏ ngoài tai, việc mình mình làm. Các tù binh không tiếc lời mắng nhiếc Roddick là tên cẩu tặc, kẻ bán nước, loài chó săn…
Nhưng cũng chính nhờ đó, quân Đức Quốc Xã càng lúc càng thích thú và tín nhiệm Roddick. Ban đầu, khi anh lái xe ra khỏi trại tập trung, binh sĩ Đức Quốc Xã đều chặn xe lại kiểm tra, giám sát từng cử động nhưng về sau, anh có thể ra vào thoải mái mà không hề bị kiểm soát.
Chiến hữu của Roddick cũng ngầm công kích anh, không ít lần thiếu chút nữa thì bị họ đánh cho mất mạng.
Sau một lần bị đánh thừa chết thiếu sống, Roddick vĩnh viễn mất đi một cánh tay, đồng thời, anh cũng mất đi giá trị lợi dụng. Không còn có thể tiếp tục lái xe, Roddick như chiếc bị rách bị quân Đức Quốc Xã vứt ra bãi rác.
Không còn được quân Đức bảo vệ, Roddick nhanh chóng rơi vào trận địa báo thù vô tình của các tù nhân chiến tranh Anh. Một ngày mưa, trong một hoàn cảnh cô độc đến thê lương, anh chết cạnh một góc tường ẩm ướt trong trại tập trung của người Đức.
Người cứu mạng tôi, trở thành người tôi hận nhất
60 năm đã trôi qua, người dân ở quê hương Roddick dường như sớm đã quên mất anh còn những người trong gia tộc cũng cố tình né tránh tất cả những việc làm liên quan đến con em mình.
Cứ như thế, Roddick bị chôn vùi trong cát bụi của thời gian.
Thế nhưng bỗng nhiên có một ngày, một tờ báo có lượng phát hành không nhỏ của nước Anh đã đăng tải một bài viết có tựa đề “Người cứu tôi, là người tôi hận nhất” ở ngay vị trí bắt mắt nhất trang nhất.
Nội dung bài báo như sau:
Trong tại tập trung của Đức Quốc Xã có một tên phản đồ tên Roddick, cam tâm bán mạng cho tụi Nazi (ám chỉ Đức Quốc Xã). Ngày hôm đó, tôi ốm nhưng chưa chết, thế nhưng anh ta vẫn vất tôi lên xe tải và nói với bọn Đức là đem tôi đi chôn.
Tuy nhiên, điều khiến tôi không thể ngờ đến là, khi xe chạy được nửa đường, Roddick dừng xe, nhấc tôi đang thoi thóp ra khỏi xe và đặt tôi xuống dưới gốc một cây cổ thụ, để lại vài mẩu bánh mì đen và một bình nước, vội vã nói với tôi: “Nếu như anh có thể sống, hãy đến thăm cái cây này” rồi cấp tốc lái xe đi mất.

Sau khi câu chuyện ngắn ngủi này được đăng không lâu, tòa soạn báo liên tục nhận được điện thoại gọi đến và không một ai ngoại lệ, tất cả đều là cựu binh chiến tranh Thế Giới Thứ Hai và đều là những chiến binh già không may từng bị bắt làm tù binh.
Một điều nữa càng khiến người ta không tưởng tượng được, là không một ai ngoại lệ, 12 cựu chiến binh gọi điện đến đều từng ở cùng nhau trong một trại tập trung của Đức – đó là trại tập trung mà Roddick đã ở.
Những câu chuyện do chính 12 cựu quân nhân kể ra, dường như đều là bản sao của câu chuyện đã được đăng tải trên mặt báo: Họ đều được Roddick đặt xuống dưới gốc cây và nhờ đó mà thoát chết.
Điều khiến người ta chú ý hơn là, mỗi lần Roddick lái xe ra khỏi trại tập trung, anh đều nói với các chiến hữu rằng: “Nếu anh có thể sống, hãy quay lại thăm cái cây này”.
Người biên tập và giới thiệu bản thảo của bài viết là một cựu biên tập từng tham gia chiến tranh. Dựa vào trực giác nghề nghiệp, ông phán đoán một cách nhạy cảm, rằng cái cây mà Roddick nhiều lần nhắc đến, nhất định phải chứa đựng nội dung gì đó.
Và ông lập tức tổ chức các cựu binh, hợp thành nhóm 13 người, men theo con đường năm xưa họ trốn chạy để tìm cái cây vốn không thể phán đoán liệu nó tồn tại hay không.
Khi đoàn người đến được điểm đến, rừng núi vẫn như xưa, cái cây cổ thụ vẫn ở đó. Một cựu binh không kiềm chế được cảm xúc, chạy về phía trước ôm thân cây, khóc lớn. Trong một cái hộc ở gốc cây, người này phát hiện một cái hộp sắt đã hoen gỉ từ bao giờ.
Khi mọi người xúm lại lấy và mở chiếc hộp ra, họ tìm thấy một cuốn nhật ký nhiều trang đã loang lổ và trong đó là một tấm ảnh đã mốc theo thời gian. Nhẹ nhàng lật giở cuốn nhật ký, cựu biên tập viên bắt đầu đọc:
Hôm nay mình lại cứu được một chiến hữu, đây đã là người thứ 28 rồi… cầu mong anh ta có thể sống được…
Hôm nay, 20 chiến hữu của mình đã chết…
Đêm qua, các chiến hữu lại một lần nữa mạnh tay với mình… Nhưng mình phải kiên quyết đến cùng, cho dù thế nào đi nữa mình cũng không được nói ra sự thật, như thế, mình mới có thể cứu được thêm nhiều người khác…
Các chiến hữu thân yêu, tôi chỉ có một hy vọng, nếu các bạn còn sống, xin hãy quay lại thăm cái cây này.

Giọng của vị cựu biên tập ứ nghẹn lại, những cựu binh khác đã rơi nước mắt tự khi nào không hay. Những mái đầu hoa râm đứng dưới tán cây cổ thụ, cho đến lúc đó mới hoàn toàn nhận thức thật rõ ràng, rằng Roddick đã cứu tất cả 36 tù binh của Anh Quốc.
Hôm nay, những người còn sống trên đời, có lẽ không chỉ có 13 người đi tìm lại gốc cây năm xưa.
Cuốn nhật ký và tấm ảnh liên quan đến trại tập trung được lưu lại ở hộc cây, đó là bằng chứng thép vạch trần tội ác của Đức quốc xã với thế giới, nó cũng là bằng chứng thép cho thấy Roddick không tồi tệ như các chiến hữu năm xưa đã đánh giá về anh.
Roddick đã chấp nhận mọi đau khổ, thậm chí là chấp nhận cả cái chết dù anh biết mình đã bị hiểu lầm.
Chia tay với các cựu binh, vị cựu biên tập nhanh chóng cho đăng tất cả những câu chuyện đủ hay, đủ sức lay động hàng triệu triệu trái tim trên khắp thế giới trên trang bìa của tờ báo mình đang cộng tác.
Vì được báo chí đưa tin mà khung rừng già cùng gốc cây lưu lại dấu tích của Roddick kia bỗng trở nên náo nhiệt. Không ít người đã tự tìm đến đây, cúi đầu trước người chiến binh thực sự vĩ đại, thể hiện sự tôn kính của họ dành cho anh.
Lẽ đương nhiên, Roddick trở thành anh hùng của nước Anh.
Một nhà văn đến thăm khu rừng này, bó một bó hoa rừng không rõ tên đặt trước bia kỷ niệm mộc mạc và ngồi lại dưới gốc cây thật lâu.
Về sau, ông ta lấy bút ra viết một đoạn cảm xúc ra cuốn sổ của mình. Ông cảm giác, mình có trách nhiệm phải nói với mọi người:
Sự hoàn mỹ luôn cần có cái giá để đánh đổi, không có tinh thần trách nhiệm lớn lao, không có sự hy sinh bất khuất, không có một tinh thần thép, tuyệt đối không thể làm được!
Khát vọng hoàn mỹ là quyền của mỗi con người. Có những lúc, sự hoàn mỹ đó vì bị môi trường thúc ép mà hình thức biểu hiện của nó trở nên khác với nguyện vọng ban đầu, vì thế mà tạo nên sự hiểu lầm, dẫn đến những ánh mắt thù địch.
Điều này nhất định sẽ hình thành nên một loại áp lực xã hội vô cùng lớn. Thế nhưng người có thể vì sứ mệnh cao cả của sự hoàn mỹ, từ đầu đến cuối chấp nhận mọi oan ức, đau đớn, hiểu lầm… tên tuổi của anh ta sẽ trở thành một lá cờ luôn đương giương cao, cao mãi.
Roddick là một người như thế.
Và trên thế giới này, tôi kính phục nhất một kiểu người mà trong hoàn cảnh ác liệt và tồi tệ, họ thà chấp nhận gánh nặng trên vai và bước tiếp thay vì sống vô trách nhiệm, để mặc đời muốn trôi đến đâu thì đến!

(Diệp Anh)
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong, Thuvang

Re: Những Bài Viết Ngắn Chọn Lọc (Sưu Tập)

Postby bevanng » 30 Aug 2018

NHỮNG NGƯỜI BỊ BỎ QUÊN


Một buổi chiều tháng 6 năm 1977, trong khi chồng đang ở trong tù, người vợ phải đưa đứa con gái út đang bị sốt nặng vào bệnh viện tỉnh nhà. Trong lúc làm hồ sơ bệnh lý, người y tá hỏi chồng chị đâu, thật thà, chị trả lời là anh đang “đi cải tạo chưa về”. Y không nói gì, nhưng một lúc sau, chị thấy y thầm thì gì với viên y sĩ đang khám bệnh, và sau đó kết quả là chúng bỏ mặc con gái chị nằm đợi trên sàn nhà cho tới lúc trời tối. Lúc thấy đứa bé sốt và bắt đầu mê man, nói lảm nhảm, chị hốt hoảng bồng con la hét cầu cứu. Một viên y sĩ mới lên phiên đã khám bệnh cho con chị và cho chị biết cháu bị sưng màng óc, cần phải chích một loại thuốc phải đi mua ngoài với một số tiền mà chị không thể nào có được. Chị phải ôm con suốt đêm, chờ sáng hôm sau, đến giờ làm việc mới bán được nửa lít máu, đủ tiền mua cho con một liều thuốc. Đứa bé này lớn lên, mất hết trí nhớ, thường lên cơn động kinh, trở thành tàn tật suốt đời.
Đó là điều người ta gọi là “đổi xử phân biệt”, không hề che dấu lòng thù hận một cách tàn bạo dưới chế độ Cộng Sản. Cũng như thế, hằng trăm nghìn người thương binh của miền nam, không thể nào che dấu lý lịch với đôi mắt mù, cái chân cụt và quá khứ đã là một người lính có thành tích chiến đấu chống Cộng Sản ngoài mặt trận. Không còn khả năng làm lụng để kiếm miếng cơm nuôi gia đình và chính bản thân mình, những người này còn phải sống trong không khí lạnh lùng, ngờ vực và khinh rẻ của kẻ chiến thắng không có tình người. Chính phủ, quân đội, đơn vị, cấp chỉ huy, đồng đội không còn, gia đình quyến thuộc không đủ sức cưu mang vì chính họ cũng bị nhận chìm tận cùng dưới đáy xã hội.
Trong xã hội mới, những người thương binh VNCH thật sự đã là “những người bị bỏ quên”.
Trước đây chúng ta có nghe tới 2,000 người trong cái làng Việt Nam ở Palawan và nói rằng họ là “những người bị bỏ quên”. Luật sư Trịnh Hội và nhiều cộng đồng người Việt ở khắp nơi trên thế giới đã bỏ ra bao nhiêu tiền của, sức lực và thời gian mười năm để vận động cho họ được đi định cư, có một đời sống ấm no, hạnh phúc.
Những người con gái Việt Nam vì cơm áo, đã tự nguyện bỏ nước ra đi để lấy chồng ngoại quốc, chẳng may một số rơi vào hoàn cảnh bị bạc đãi, nhân phẩm bị chà đạp, ngay chính phủ đã đẩy họ vào con đường cùng cũng không làm gì để cứu họ. Vì họ là “những người bị bỏ quên” nên nhiều vị linh mục, cơ quan thiện nguyện đã gây quỹ để có thể đến tận nơi giúp đỡ, cứu vớt họ.
Những người chẳng may mắc phải những chứng bệnh phong cùi đang sống cuộc đời nghèo đói, bất hạnh trên khắp quê hương, trong khi chính phủ Việt Nam thờ ơ, không giúp đỡ, họ là “những người bị bỏ quên”, đã được các cơ quan phước thiện mở những phong trào cứu trợ rộng lớn, để đồng hương hằng tâm hằng sản của chúng ta tận tình giúp đỡ.
Ở Việt Nam, dân chúng bần cùng là “những người bị bỏ quên”: nhiều trẻ em ở các vùng nông thôn Việt Nam bụng đói, không có áo quần mặc và vì vậy cũng không có cơ hội đến trường. Nhiều nơi, người già không có cơm ăn. Nhiều trẻ em khuyết tật cần vá môi. Nhiều người mù cần mổ mắt. Hải ngoại luôn luôn nghĩ đến quê nhà và đồng bào nên đã có những chiến dịch rộng lớn để làm những công việc ấy, thường trực và khắp nơi vì cho rằng chính phủ Việt Nam không nghĩ đến hay không đủ sức lo cho họ. Trường học cần xây thêm, chùa và nhà thờ cũng cần phát triển rộng lớn hơn.
Đã có những hội đoàn, những tổ chức, những nhóm thiện nguyện cứu đói, cứu nghèo, cứu bệnh tật, cứu gái sa chân, cứu trẻ bị bán đi, cứu già thiếu gạo…
Tôi có cảm tưởng những vùng đất cứu trợ trên đã được chính quyền trong nước cho khai quang, có khi còn giữ “an ninh bãi đáp” cho trực thăng đổ người xuống cứu trợ để đỡ tay đỡ chân cho đảng lo việc trấn áp dân chủ, nhân quyền. Còn địa hạt thương phế binh VNCH còn đầy mìn bẫy, hầm hố, thù hận khiến công việc cứu trợ phải tiến hành lén lút, bí mật hay đột kích gây thêm nhiều trở ngại, khó khăn cho cả phía những người hảo tâm và cả những nạn nhân xấu số này.
Thương phế binh, đáng lẽ là những người mà hải ngoại cần phải nhớ trước tiên, từ khi cấp chỉ huy quân đội miền nam bước chân lên Đệ Thất Hạm Đội hay đảo Guam, từ khi người vượt biển được đặt chân lên đất liền, từ khi người cựu tù được người ra đón ở sân bay, lại là những người bị quên lãng nhất.
Bà Dương Nguyệt Ánh, chuyên viên chất nổ của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, tác giả trái bom “nhiệt áp” đã nói rằng, là một người tỵ nạn chiến tranh, bà “không bao giờ quên được hình ảnh người lính Hoa Kỳ và VNCH đã từng bảo vệ cho bà có một cuộc sống an toàn ở miền nam trước đây”. Chúng ta cũng hiểu rằng người lính VNCH thiệt thòi hơn cả sau chiến tranh chính là người thương phế binh hôm nay.
Cô Liên Hương, một bác sĩ trong nhóm Huynh Đệ Chi Binh ở San Jose, cũng như chúng ta đã có mặt tại Hoa Kỳ tự do, no ấm hôm nay sau những ngày “tan hàng” đã hoạt động để cứu giúp “những người bị lãng quên”, vì cô nghĩ rằng cô đã mang ơn những người này, người thương phế binh VNCH:

“Tôi viết thư cho anh hôm nay không phải như một người Việt Kiều xa xứ được ưu đãi trong một đời sống an lành và thoải mái hơn về vật chất lẫn tinh thần đang nghiêng mình xuống với người đồng loại bất hạnh, nhưng tôi viết với tâm trạng của một cô gái năm xưa đã lớn lên yên ổn giữa thành phố Saigon, nhìn tuổi thơ ấu của mình trôi qua dưới ánh hỏa châu và những tiếng bom đạn hằng đêm vẫn vọng về từ một chiến trường xa. Ở đó, bao nhiêu xương máu và nước mắt của cả một thế hệ tuổi trẻ đã đổ xuống để che chở cho những cô gái nhỏ như tôi được tiếp tục bình yên đến trường. Ở đó vẫn có biết bao nhiêu người chiến sĩ như các anh còn ôm tay súng chiến đấu đơn độc với những giờ phút chót, để gia đình chúng tôi có cơ hội xuống thuyền ra đi tìm đến những quê hương hạnh phúc mới bên này bờ biển Thái Bình Dương.
Chính với tấm lòng tri ân và ngưỡng mộ đó mà hôm nay tôi thấy cần phải viết cho anh cho các bạn của anh, những lời các anh xứng đáng được nghe nhưng có lẽ đã chưa bao giờ được nghe từ gần ba mươi năm qua, để các anh hiểu được rằng những hy sinh của mình đã không lãng phí hay vô ích. Những tượng đài có thể bị đạp đổ, nhưng những hình ảnh thần tượng ghi khắc trong lòng sẽ chẳng bao giờ bị xóa nhòa. Chúng ta đã mất mát rất nhiều thứ, những người thương binh như các anh đã mất hết một phần thân thể, tình yêu và tuổi trẻ, và những người Việt tỵ nạn như tôi cũng đã mất hết một nơi chốn dung thân để phải tha hương lưu lạc khắp mọi phương trời. Có một điều ngày hôm nay tôi mong chúng ta sẽ không đánh mất là tình người đến với nhau, để khoảng không gian anh đang sống và hít thở bớt đi niềm lẻ loi và cô độc.
Cuối cùng dù tôi không thể gởi nguyên một bài hát về cũng xin cho tôi được tặng anh và những người bạn anh hùng không tên tuổi của anh lời tựa của bài hát “You Are My Heroes”, bởi vì cuối cùng trong cuộc đời này không có điều gì anh hùng và cao thượng hơn là hy sinh cuộc đời mình để cho người khác được quyền sống. Trong mắt tôi mãi mãi không có những người phế binh thương tật mà chỉ có những con người trai anh hùng một thời chọn cho mình con đường đi và và sống đích thực có ý nghĩa nhất”.

(trích thư của cô Liên Hương gởi một người thương phế binh VNCH)

Những dòng chữ trên đây của một người con gái, một đứa em hậu phương cũng như tất cả chúng ta đã mang một món nợ không bao giờ trả nổi, món nợ xương máu mà chúng ta đã nương nhờ, vay mượn từ lúc chúng ta được yên ổn ở hậu phương, rất xa mặt trận, và cả đến lúc chúng ta ngoảnh mặt rời quê hương ra đi. Những năm trước, bức thư này đọc trên đài phát thanh ở Bắc Cali đã làm rơi lệ hằng nghìn người nghe ở hải ngoại, nhưng rồi cơm áo đa đoan, cuộc sống bề bộn, nhiều lúc chúng ta đã quên hẳn hình ảnh người thương phế binh Việt Nam một cách phụ bạc, nhẫn tâm mà đáng ra phải canh cánh ghi nhớ trong lòng.
Ở hải ngoại từ trước đến nay, những sự quyên góp giúp đỡ cho thương phế binh được đưa xuống hàng thứ yếu sau những chiến dịch dai dẳng cho người nghèo, cho trẻ thất học, cho chùa chiền, thánh thất, cho mổ mắt vá môi… Nếu có lòng, thì cũng với những hoạt động lẻ tẻ do một nhóm người, một tổ chức quy tụ một số thân hữu giúp cho năm bảy gia đình, hay khá hơn là vài trăm thương binh. Chúng ta chưa có được một ngày dành cho thương binh, một chiến dịch rộng lớn như những ngày chúng ta đóng góp cho quỹ kháng chiến, để rồi cuối cùng sự việc chẳng đi tới đâu, khiến lòng tin của hải ngoại mỗi ngày một suy kiệt.
Ẩn mình từ trong những xóm làng xa xôi sống nhờ trên mảnh đất khô cằn khoai sắn, hay bầm giập giữa phố thị với xấp vé số trên tay, thậm chí còn trở thành kẻ hành khất kêu gọi tình thương của người qua đường đâu đó. Nỗi xót xa, tủi nhục ấy bao giờ tiêu tan được, cũng như những nỗi đau sâu thẳm trong tâm hồn họ không bao giờ hết, trong khi qua thời gian làn da nơi chân tay què cụt đã chai đá, những vết thương đã lành. Lớn hơn hết là những người thương phế binh này đã mang mặc cảm là “người đã bị bỏ quên” trên quê hương, nơi mà thù hận chưa nguôi, đối xử vẫn còn phân biệt như những người lính lạc đơn vị bị bỏ lại trên đất địch…
Ôi những vòng hoa chiến thắng ngày nào, những câu hát từ người em gái hậu phương, những mỹ từ và lời xưng tụng người ta đã dành cho anh. Số phận của người lính thất trận đã đổ nhào thêm lên tấm thân cụt què, yếu đuối. Họ sống cuộc đời cay đắng ấy (nếu còn có thể gọi đó là cuộc đời), có người mới hơn ba mươi năm, có người đã gần hết cuộc đời, thế giới ngày nay của họ có thể là một chiếc giường tre của người bị bại liệt, trên chiếc xe lăn của người què cụt lê lết hay ốm đau, già nua quanh quẩn trên sân nhà.
Thế giới hôm nay của chúng ta so với đời sống thương phế binh ở quê nhà là thiên đường và địa ngục, tương phản giữa ánh sáng và bóng tối. Dù có san sẻ tới mức nào cũng không lấp đầy nỗi thống khổ, dù bù đắp tới mức độ nào cũng không xứng đáng với sự hy sinh. Nhưng không lẽ chúng ta khoanh tay để nhìn những thương binh VNCH sống lặng lẽ cho hết một cuộc đời tàn tạ mà không bày tỏ được một cử chỉ biết ơn hay sao?

Huy Phương
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong, Thuvang

Re: Những Bài Viết Ngắn Chọn Lọc (Sưu Tập)

Postby bevanng » 24 Mar 2019

Gượng không chết


Trong trận động đất lớn ở Armenia, một kỳ tích đã xảy ra tại thủ Erevan: người ta cứu được hai mẹ con bị vùi trong đống đổ nát suốt tám ngày. Tám ngày không đồ ăn, không nước uống, lại thiếu dưỡng khí, cậu bé sống được là nhờ vòng tay che chở của người mẹ. Hơn nữa, người mẹ đã trích máu đầu ngón tay ra cho đứa con ngậm.
Đọc tin đó tôi rưng rưng nước mắt, cảnh tượng người mẹ ôm con lẩn quất trong đầu. Cứ nhắm mắt lại, hình ảnh người mẹ dùng cả thân mình để che chở, trông đợi, lại hiện ra.
Cảnh tượng đó khiến tôi nhớ lại bài báo đọc từ nhiều năm trước.
Các nhà khảo cổ đã khai quật trong lớp chôn vùi của thảm họa Pompei một tượng hóa thạch người mẹ ôm con.
Cảnh tượng thảm họa núi lửa Pompei một nghìn chín trăm bảy mươi năm trước như hiện ra mồn một. Trong chớp mắt, dòng nham thạch bao trùm những người không kịp chạy trốn. Một người mẹ thấy không còn đường thoát, đã dùng lưng và đầu mình để che kín đứa con, chống lại dòng nham thạch mà bà biết rõ không thể chống lại được.
Và người mẹ đã đông cứng trong nham thạch.
Tượng nham thạch đó là gì? Là tình yêu vĩ đại, vĩnh hằng của người mẹ khiến người đời nghìn năm sau còn thương tâm…
Sáng tạo vĩ đại nhất của Thượng Đế không phải là muôn loài, không phải là vũ trụ, mà là tình yêu! Dù không có logic nào cả, tôi vẫn khăng khăng cho rằng, điều Thượng Đế sáng tạo ra đầu tiên chính là tình yêu, mà tình yêu cao cả nhất chính là Tình mẹ!
Mà đâu phải chỉ con người mới có tình mẫu tử?!
Có lần xem tạp chí Nature, thấy trăm ngàn con chim cánh cụt đứng hướng về một phía. Lúc đầu tôi không hiểu vì sao chúng phải đứng chỉnh tề như vậy, quan sát kỹ, mới thấy trước mỗi chim cánh cụt lớn đều có một chim cánh cụt con với bộ lông mượt như nhung.
Hóa ra đó là những bà mẹ đang che chở những đứa con: bụng chim cánh cụt quá tròn, không phủ kín con được nên chúng phải đứng sát nhau để chắn gió lạnh cho con.
Thật vĩ đại làm sao, những bà mẹ chim cánh cụt!
Một lần khác đọc sách về loài nhện xanh, nhện mẹ đan tấm lưới lớn, đẻ trứng, đợi trứng nở rồi nuôi nấng hàng trăm đứa con. Sau đó từng con, từng con nhện theo dây tơ thả mình theo gió.
Tôi gấp sách lại, nghĩ, liệu nhện mẹ có cảm thấy một nỗi buồn lặng lẽ không?
Có lẽ, “sống” chính là tạo ra một sự sống khác? Chỉ cần thấy sự sống từ mình được kéo dài là cảm thấy hạnh phúc?
Không bao giờ tôi có thể quên giờ khắc con gái tôi ra đời tại một bệnh viện ở New York.
Cũng giống như bệnh viện ở Đài Loan, trẻ mới ra đời lập tức được đưa tới phòng sơ sinh, sau khi cắt rốn thì đưa đến cho mẹ ôm ấp mấy phút.
Vợ tôi sau một hồi la hét, giãy giụa cuối cùng cũng sinh được, song sức lực đã cạn kiệt. Nào hay khi con được đưa đến, mặt vợ tôi vẫn bợt vì mất máu nhưng mắt thì phát ra ánh sáng lấp lánh!
Đúng là ánh sáng! Một thứ ánh sáng hiền hòa mà cao quý phát ra từ đôi mắt còn ngấn lệ. Đúng là đổi nửa đời mình lấy một cuộc đời nhỏ! Nhìn vợ ôm ấp con, tuy không phải là phụ nữ nhưng tôi cũng có thể cảm nhận niềm xúc động của vợ.
Con là cuộc sống nối dài của mẹ, cũng chính là cuộc sống của mẹ! Hãy để tôi kể một câu chuyện từ lâu đã không định kể, thậm chí còn muốn quên đi.
Một phóng viên trở về từ chiến trường, gặp tôi ở phòng dựng, liền đưa cho tôi một cuốn băng, vẻ xúc động.
Anh ta không nói gì, tua lại đoạn băng, chỉ cho tôi hình ảnh một người:
“Anh xem! Tất cả cùng gục ngã, chỉ có một người ngã rất chậm, lại không ngã sấp mà chầm chậm khụy xuống…”
Tôi không hiểu, sau đó anh ta mới kể:
“Lúc tan bom đạn, tôi tới gần, nhận ra đó là một người mẹ trẻ đang ôm con. Bị trúng đạn, người mẹ sợ làm ngã con nên gục xuống chầm chậm. “Người mẹ đã gượng không chết!”
“Gượng không chết!”
Mỗi lần nhớ đến câu nói đó là hình ảnh từ xa một người đang gục ngã lại hiện ra, và tôi không ghìm được nước mắt…

Lưu Dung
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong, Thuvang

PreviousNext

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 31 guests