Phiên Bản Tình Yêu (Vũ Biện Điền)

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Re: Phiên Bản Tình Yêu (Vũ Biện Điền)

Postby bevanng » 04 May 2016

- Z.30
Sài Gòn thất thủ. Khắc phục khó khăn, ước mơ ấm no hạnh phúc.


Về tới Sài Gòn, tôi ở chung phòng trọ với Trần Xuân Vinh, sinh viên năm thứ III khoa công nghệ trường Bách Khoa Phú Thọ. Vinh người Điện Bàn là bạn cùng lớp ba năm đệ nhị cấp trường Phan Chu Trinh, Đà Nẵng. Tôi thú thật hoàn cảnh mình, xin Vinh giữ bí mật, giúp tôi nạp hồ sơ thi lại Tú Tài, kỳ II, diện thí sinh tự do. Sau đó, cũng nhờ Vinh, tôi xin được chân gia sư và một chân phụ thợ dệt ở ngã tư Bảy Hiền, ca đêm. Khỏi phải ôn tập bài vở, tôi tập trung kiếm tiền dành dụm. Đúng như dự liệu, cuối tháng 9 năm ấy, tôi đỗ Tủ Tài ban A, hạng bình. Trần Xuân Vinh khuyên nạp đơn vào Đại Học Nông Lâm Súc. Tôi làm theo. Lại tập trung kiếm tiền, tôi vẫn vượt qua thi tuyển. Đáng ra báo tin vui cho mẹ, nhưng sợ sơ hở tôi im luôn. Sau một tuần nhập học, thấy không đủ sức khỏe và thời gian, tôi xin thôi làm thợ dệt. Bất chấp khó khăn, tôi quyết tâm học tập, thu hẹp phạm vi giao tiếp, giới hạn bạn bè và không lân la với một cô bà nào. Một thời gian dài, không ai thăm hỏi tôi và tôi cũng không thư từ cho ai.
Sài Gòn đầu thập niên 1970 đầy biến động cả về chỉnh trị, xã hội, kinh tế. Những trận đánh lớn đã thọc sâu vào một số tỉnh quanh thủ đô. Các đơn vị thiện chiến Việt Nam Cộng Hòa đụng độ liên tục với các sư đoàn chủ lực miền Bắc. Hòa hội Paris vẫn giậm chân tại chỗ. Báo chí trong và ngoài nước đưa tin cuộc khẩu chiến bốn bên chẳng khác hàng thịt hàng cá đốp chát nhau ở chợ, thậm chỉ đôi khi như con trẻ đến độ buồn cười. Bao nhiêu cơm áo, bao nhiêu của tiền, bao nhiêu đi về, mất một năm trời mới nhất trí về kiểu dáng mặt bàn và chỗ đặt ghế. Khi ngồi yên vào rồi lại nói giọng trời ơi. Nguyễn Thị Bình tuyên bố ở đâu có tiếng súng ở đó thuộc lãnh thổ quân Giải Phỏng. Nguyễn Cao Kỳ khẳng định Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam không phải là một thực thể chính trị. Lê Đức Thọ quỷ quyệt, nay Hà Nội mai Paris mốt Bắc Kinh. Đổi lại, Kissinger cũng giảo hoạt không kém, xách cặp chạy quanh Washington - Bắc Kinh - Sài Gòn - Hà Nội. Nghe nói tổng thống Mỹ Nixon có thư hối thúc, hứa hẹn nhưng tổng thống Thiệu không chịu ký. Bắc-Nam ráo riết tăng tốc chiến tranh, hâm nóng các mặt trận, gây áp lực hỗ trợ cho đàm phán. Lưỡng viện quốc hội Mỹ dồn dập tạo sức ép buộc tổng thống Mỹ ban lệnh rút quân. Những cánh rừng dọc Trường Sơn hóa thành đồi trọc. Đêm đêm, tiếng đại bác vọng về thành phố như chuyển động tự nhiên của đất trời. Ngày ngày pháo đài bay ngang bầu trời để lại những luồng khói trắng thẳng như kẻ chỉ. Bệnh viện dã chiến mọc như nấm khắp các đô thị mà thương bỉnh vẫn thiếu chỗ nằm. Các nghĩa trang áp cận vùng dân cư chen chúc mộ mới kề bên nhau. Những cuộc triển lãm xác Việt Cộng rải khắp các đô thị miền Nam. Những vụ đặt mìn khủng bố của du kích, của đặc công khắp các giao lộ và hàng quán. Lệnh đôn quân được ban hành, các quân trường quá tải. Vật giá leo thang, đời sống đắt đỏ, đoàn quân đói ngụy trang dưới lốt đĩ điếm, ma cô len lỏi hang cùng ngõ hẻm. Tệ nạn xã hội rải khắp đường phố, đe dọa trường học, gia đình. Sau mấy đợt vùng lên, thế lực Phật Giáo muốn tham chính, muốn nhân danh đa số nắm vận mệnh dân tộc, mở một vận hội mới, nhưng thất bại do tự bản chất từ bi hỷ xả, họ lùi về cố thủ. Sau khi Ngô Đình Diệm bị giết, thế lực Công Giảo không còn cơ may, họ dấn thân vào con đường xã hội, quyết liệt chống tham nhũng. Nhưng cô thế do thiểu số và nội bộ chia rẽ, họ quay sang báo chí. Phong trào phản chiến từ Việt Nam lan sang Mỹ rồi dội ngược về, những cuộc xuống đường của học sinh sinh viên liên tục từ thủ đô các tỉnh lẻ. Chính quyền Miền Nam Việt Nam như một đại thụ bị lung lay từ gốc đến ngọn, không những do lâm tặc hoành hoành mà cả chính ngay bọn bảo vệ rừng. Được chào mời và nhiều phía lôi kéo, tôi vẫn bình thân như vại. Bỏ ngoài tai hết thảy, kể cả đường mật tình yêu, tôi úp mặt vào sách vở.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Sài Gòn thất thủ, tôi vẫn dửng dưng. Cán bộ nằm vùng ra mặt kêu gọi nhân dân họp hội, mít-tinh chào mừng bộ đội giải phóng, tôi tảng lờ. Đã mấy lần thất bại vượt thoát bằng đường hàng không ở sân bay Tân Sơn Nhất, nay Trần Xuân Vinh hốt hoảng lao theo dòng người di tản bằng đường bộ. Còn lại một mình, đáng ra trả phòng trọ cho chủ, về quê như một số bạn học, tôi lần lữa chờ thông báo của ban giám hiệu mới từ Bắc vào tiếp quản, và chờ cơ hội bán những gì kỹ sư Trần Xuân Vinh để lại - một chiếc Honda 67, một truyền hình đen trắng 14 inches, một tủ lạnh cỡ nhỏ, một số vật dụng điện máy, chỉ giữ lại cái Radio Cassette xách tay hiệu Sony.
Tới hồi tạm lắng, thấy con không về, mẹ tôi bương chải vào Sài Gòn. Chỉnh quyền mới ra sức bình ổn trật tự xã hội, loa đài ra rả kêu gọi Ngụy Quân Ngụy Quyền trình diện tập trung học tập cải tạo, ra rả kêu gọi nhân dân hội họp học nghị quyết và hô khẩu hiệu, ra rả cảnh báo bọn gián điệp lén lút phao tin đồn nhảm chực chờ ngóc đầu dậy, ra rả hô hào bài trừ tàn dư văn hóa đồi trụy địch để lại như sách báo, phim ảnh, thời trang… và ra rả kêu gọi con em nhân dân lao động trở lại trường. Tôi đi học. Mẹ tôi yên tâm trở về quê nhà. Đáng ra khóa tôi tốt nghiệp kỹ sư nông lâm cuối hè năm ấy, nhưng ban giám hiệu mới muốn tẩy não, triển hạn thêm bốn tháng để nhồi sọ lũ sinh viên Ngụy một mớ trích đoạn học thuyết Marx-Lénine, năm ba nghị quyết của trung ương, của thành phố, một số phát biểu của Hồ Chỉ Minh, của Lê Duẫn, của Phạm Văn Đồng… Để thấm nhuần lao động vinh quang, tuần nào chúng tôi cũng đi dọn vệ sinh đường phố và trồng sắn khoai bất cứ nơi nào có đất, kể cả công viên, hè phố. Ban đêm chúng tôi thường sinh hoạt tổ và được khuyến khích tố lẫn nhau, phấn đấu vào đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chỉ Minh. Từ đó, dấy lên cuộc thanh lọc, buộc một số sinh viên có lý lịch xấu thôi học, đưa về địa phương quản lý. Mỗi cuối tháng, ban giám hiệu còn đưa chúng tôi ra vùng ven hoặc lên vùng cao tăng cường sản xuất. Cơm nước tự túc, chúng tôi làm bất kỳ việc gì cán bộ địa phương yêu cầu - xóa mù, giây cỏ, đào giếng, tải phân… Rồi, ngày con chim rời tổ cũng đến. - Đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên! Bí thư chi đoàn hô khẩu hiệu và chúng tôi rộn rã lên đường, bụng rỗng nhưng tim đầy ắp hy vọng, pha lẫn một tí hoang mang không dám nói ra. Như con cò đói tìm về sông nước, chắp cánh bằng một quyết định, tôi tha mảnh bằng kỹ sư lâm nghiệp lên Tây Nguyên với ước mơ ấm no hạnh phúc, xây dựng quê hương xã hội chủ nghĩa giàu đẹp.
Nơi tôi đến nhận công tác là một xí nghiệp chế biến lâm sản tọa lạc phía tây nam cách trung tâm thị xã năm cây số, có quốc lộ 14 ngang qua. Là cao nguyên nhưng nội thị và vùng phụ cận đất không đỏ hẳn. Thung lũng lớn này mang sắc thái bình nguyên vì những ngọn núi lửa ngày xửa ngày xưa không phun tới. Thủ trưởng của tôi là Võ Văn Cang, gốc Bình Định, cao gầy, da ngăm, giọng lai tạp, bố trí tôi phụ trách bộ phận thống kê, lương tháng 36 đồng Giải Phóng, (112) ăn cơm tập thể, ngủ giường tầng, đêm nào cũng họp dưới hai ngọn cờ đỏ rực, tuần nào cũng chực chờ tranh thủ vài món hàng mậu dịch quốc doanh. Sau thời gian chịu đựng gian khổ không dám kêu than, chẳng mất công tìm hiểu, mặt trái mặt phải của cơ quan dần dần phơi bày trước mắt. Xí nghiệp nguyên là năm cơ sở khai thác chế biến gỗ tư nhân có từ cuối thập niên 50, nghe nói dưới triều Ngô Đình Diệm làm ăn phát đạt, nhưng thời Nguyễn Văn Thiệu thì chững lại do chiến tranh lan tràn không thể đưa công nhân vào rừng. Sau khi Tây Nguyên thất thủ, bước đầu chính quyền cách mạng cử cán bộ chính trị đến lãnh đạo từng cơ sở và một số cán bộ chuyên môn theo dõi tình hình sản xuất. Cán bộ lãnh đạo kêu gọi các nghiệp chủ tiếp tục hành nghề, động viên bỏ vốn mở rộng kinh doanh mua thêm máy móc thiết bị, tăng lao động, thực hiện các khoản nghĩa vụ.
(112) Trong khoảng 10 năm (kể từ khi miền Nam thất thủ), nhà nước CHXHCN Việt Nam ba lần đột ngột đổi tiền với những quy định như sau:
* Lần 1 năm 1975 (khoảng tháng 9)
- Từ Quảng Nam-Gia Lai-Kontum trở vào: 500d Sài Gòn ăn 1d Giải Phóng
- Từ Thừa Thiên Huế trở ra: 1000d Sài Gòn ăn 3d Miền Bắc
* Lẩn 2 năm 1978, sau khi thống nhất Nam-Bắc:
- Miền Bắc: 1đ Bắc (cũ) ăn 1đ Thống Nhất.
- Miền Nam: 1d Giải Phóng ăn 0,8đ Thống Nhất.
* Lần 3 năm 1985:
- Toàn quốc: 10d Thống Nhất (cũ) ăn 1d Việt Nam (mới)
Năm 77, đột ngột trung ương hạ lệnh cải tạo công thương nghiệp. Tiếp được nghị quyết, địa phương rầm rộ triển khai. Mở đầu, cán bộ lãnh đạo xách động công nhân đòi làm chủ nhà máy, hăm he đào mồ chôn tư sản. Tiếp theo, các nghiệp chủ được mời tới hội trường Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam tỉnh học tập chính sách của đảng và nhà nước để thấy rõ tội ác bóc lột của mình những năm sống với Mỹ-Ngụy. Cán bộ truyền đạt rất xảo quyệt, vừa động viên vừa hù dọa. Sau cùng, mỗi học viên viết bản thu hoạch theo dàn bài có sẵn, tự kiểm điểm và bày tỏ nguyện vọng. Một nghiệp chủ có ba con trai đang học tập cải tạo, ngoan ngoãn chấp hành, làm đơn xin hiến trọn cơ ngơi, ra về hai tay không, cười như mếu. Nhưng ông ta không cứu được đứa con nào thoát khỏi tù tội trước hạn định. Một nghiệp chủ xuất thân thợ thuyền có cha là liệt sĩ thời chống Pháp, không giao nộp tài sản, viện cớ địa phương lệch lạc vận dụng không đúng nghị quyết trung ương. Ông ta chỉ trụ được hai năm sáu tháng ba ngày, tới khi đổi tiền lần thứ hai thì tê liệt do vốn liếng bị giữ trong ngân hàng, kèm theo một số giải thích ậm è của phó giám đốc đặc trách tiền mặt. Một nghiệp chủ góa chồng khai có công vì trước đây mỗi khi đưa xe vào rừng đã ủng hộ tiền, gạo cho du kích nên xin được đi theo tài sản vào quốc doanh với một chức danh khiêm tốn trong đội ngũ quản lý. Bà ta được lãnh đạo nhất trí. Qua một năm, từ phó giám đốc bà ta được điều xuống quản đốc phân xưởng sáu tháng, rồi điều qua phó phòng kiểm tra chất lượng sản phẩm. Do một sơ suất xếp loại nhóm gỗ, bà được cho nghỉ sớm với lý do mất sức. Một nghiệp chủ lấy cớ đang mang công mắc nợ chưa giao được. Trong thời gian ấy, ông ta tẩu tán tài sản ra ngoài tỉnh bằng cách tháo bán lẻ phụ tùng linh kiện. Thậm thụt gần hai năm, ông làm đơn hiến tài sản, bản kê trưng thu gồm máy móc hư hỏng, vật dụng rẻ tiền, kho tàng trống rỗng và một mặt bằng hoang tàn. Xỏ lả cỡ đó, nhưng Võ Văn Cang không dám có ý kiến vì ông ta họ Phạm, người Mỹ Đức, Quảng Ngãi, nghe nói anh em thúc bá với đương kim thủ tướng. Nghiệp chủ cuối cùng là cặp vợ chồng trẻ có học thức, tham dự không sót buổi học tập nào, không chịu giao cơ nghiệp. Trong giờ thảo luận, ông ta kịch liệt phê phán chính sách kinh tế sai lầm của đảng và nhà nước, yêu cầu chấm dứt và đưa ra một số kiến nghị mà ông ta tin chỉ trong mươi lăm năm đất nước sẽ thoát cảnh đói nghèo, đuổi kịp những quốc gia tiên tiến trong khu vực. Tất cả nhiệt tình đó chỉ là sóng xao đầu vịt, nước đổ lá khoai và nhận lại một ít đặt điều vu vạ từ tuyên huấn tỉnh. Buồn tình đàn gảy tai trâu, ông ta bỏ lại tất cả, âm thầm đưa vợ con về Quy Nhơn tìm đường vượt biên.
Chưa tới ba năm, công cuộc cải tạo hoàn tất. Ăn mừng chiến thắng vĩ đại này, Võ Văn Cang tổ chức một lễ bàn giao rất long trọng, có sự tham dự của lãnh đạo cao cấp địa phương và cả trung ương. Các nghiệp chủ đều được mời tham dự và cài mớm phát biểu. Nén chặt nỗi niềm con đau của xót, tất cả đều hồ hởi phấn khởi. Một năm sau, xí nghiệp mới dưới quyền giám đốc Võ Văn Cang bắt đầu xuống dốc. Trong ngoài nhan nhản biểu hiện tiêu cực. Trộm cắp, cắt xén, mánh mung, móc ngoặc. Tài khoản âm, nợ khó đòi phát sinh, thu chi mất cân đối. Kho tàng trống rỗng do vật tư phụ tùng không mua được vì thiếu tiền mặt. Xe cộ các loại nằm chết trong ga-ra, trong bãi phế liệu và cả trong rừng. Công nhân vốn là nông dân lai, quay về cầm cuốc, chân trong chân ngoài, bỏ bê nhà xưởng. Nhưng tới kỳ phân phối lương thực, thực phẩm và một số hàng hóa nhu yếu, chẳng cần thông báo xí nghiệp cũng đông kín người. Những buổi họp hội phát động chỉ tiêu, mặc thủ trưởng nói thủ trưởng nghe, công nhân chực chờ ngoài hiên đòi nợ lương và cán bộ tài vụ cứ thập thò như chuột chù lấp ló cửa hang, ba hồi hứa cuội, ba hồi trút vạ cho ngân hàng. Thời điểm này, công nhân vô cùng hối hận đã nhẹ dạ nghe theo đảng đào mồ chôn tư sản quá sâu! Những ngày chao đảo như thế, giám đốc Võ Vãn Cang vẫn bình thân tọa thị, ung dung pha trà, xăm xoi nõ điếu, vẫn đọc báo Nhân Dân mỗi sáng, khóa trái cửa phòng giám đốc lên tỉnh họp hội đều đặn, vẫn rao giảng nghị quyết bằng chất giọng Nam Trung Bộ lai Bắc với chiếc cần cổ gân guốc, vẫn báo cáo giòn rã mỗi năm hai kỳ với các thành tích vượt chỉ tiêu, vẫn làm lễ đón nhận bằng khen của tỉnh và trung ương, vẫn hăng say phát động thi đua chào mừng các ngày lễ lớn, vẫn cho ngả bò mổ heo liên hoan tiệc tùng thắng lợi. Phần mình, tôi âm thầm giấu mẹ những ngày sống cực khổ hơn chó bằng những lá thư ngắn chẳng khác điện tín với lời lẽ sáo mòn. Mặt khác, tôi quyết phấn đấu công tác tốt, chấp hành nghiêm chỉnh nội quy, trung thành tuyệt đối với lãnh đạo và phấn đấu vào đảng.
Lao động miệt mài, rồi tôi cũng làm đơn xin phép về thăm quê. Lãnh đạo giải quyết cho đi nửa tháng. Một thời gian dài dè sẻn, tôi chỉ mang về biếu mẹ một túm đường cát, một gói kẹo dừa, hai mét vải bông to sợi. Nghe làng xóm báo tin, mẹ tôi gởi bầy trâu của hợp tác xã cho một bà bạn già, chạy bộ về gặp con. Nhưng nấu xong nồi cơm, bà lại ra đi chập tối mới về, chui vào bếp vừa luộc rau vừa kho mắm. Hai mẹ con ngồi ăn trên bộ phản trước bàn thờ nội trong ánh sáng tù mù của cây đèn làm bằng vỏ lon sữa bò mang nhãn thời Mỹ-Ngụy.
- Răng không lấy vợ? Mẹ tôi hỏi, bấm đốt lóng tay, tìm con giáp. Tôi cười chống chế, bà tiếp.- Không còn nhỏ dại nữa, đã một đống tuổi trên đầu! Mẹ nhìn tôi với ánh mắt trìu mến nhưng không kém xót xa.
- Con lấy vợ cũng được thôi, nhưng sợ bỏ mạ!
Lua hết chén cơm, tôi nói.
- Đã quen sống cô quạnh, mạ chấp nhận chuyện đó, chỉ mong anh tìm được người nết na! Mẹ nói.
Tôi không dám hứa, bắt chuyện khác, hỏi mẹ về tình hình hợp tác xã bà đang là xã viên. Mẹ cho hay năng suất lúa và hoa màu khác không cao như trước, trâu bò đưa vào tập thể bị dịch bệnh chết dần, trị giá công điểm thấp, tiếp tục đi xuống. Thu nhập còi cọc, tạm song qua ngày nhưng ước mơ đổi đời thì chẳng biết mô mà lần. Thế mà mẹ tôi không kêu than. Ngoài việc hương khói tổ tiên, tôi hồ nghi bà còn vương vấn chuyện khác. Và, đã đến lúc tôi thấy mình không thể im lặng.
- Cha con còn không? Giữa bữa, tôi lên tiếng.
Đang nuốt, bà nghẹn thắt cổ họng. Rót cho mẹ chén nước, đợi bà ổn định trở lại, tôi thưa tiếp.
- Chiến tranh đã dứt, đất nước đã thống nhất, mạ phải cho con biết! Tôi gác đũa vào mâm, chờ đợi.
- Chắc là còn! Sau một lúc im lặng, bà nói, ánh mắt khô ráo như đang bàn chuyện người dưng.
- Chỉ phong phanh phất phưởng thôi sao? Tôi hỏi.
- Vì chưa bao giờ nghe báo tử! Bà nói, chống tay xuống mặt phản như đỡ lấy thân mình.
- Thế tại sao không về? Tôi lại hỏi.
Mẹ tôi bật khóc. Những giọt nước mắt dồn nén ba mươi năm òa vỡ. Đây là lần duy nhất thấy mẹ khóc, tôi không buồn không xót. Bảy năm đất nước hòa bình, bao nhiêu đoàn quân chiến thắng ngang qua ngõ hát khúc khải hoàn, cha tôi còn mãi ở tận nơi đâu? Và suối nước mắt ngầm của mẹ hôm nay biết có theo về một hình bóng? Có thể cha tôi còn sống và đảm nhận một nhiệm vụ ở nước ngoài? Cũng có thể cha tôi đã có vợ khác và đang an hưởng hạnh phúc ở một quê hương mới?
- Sau kỳ nghỉ phép này, con sẽ gởi thư đến đài báo trung ương nhờ tìm cha, mẹ có đồng ý không?
Tôi đề nghị, bà đưa tay ngăn lại.
- Cha anh cỏ thể hận vợ vì nghe ai đơm đặt, xuyên tạc này nọ. Nhưng đã là người, ông ấy không được quên mồ mả tổ tiên và con mình. Núi sông Thường Đức có ai đào đổ đi đâu, ngày ra đi ông ấy bảo vì tổ quốc, nay sao lại mù mờ nơi chốn! Bà nói, đưa tay gạt nước mắt.
- Vậy là con còn phải dài cổ chờ cha!
Tôi cúi mặt, khẽ than, nghe lành lạnh.
- Lần này con về quyết đưa mạ theo? Muốn khỏa lấp thương tủi trong lòng, tôi bắt sang chuyện khác.
- Tốt thôi! Nhưng nghe nói xã hội chủ nghĩa cào bằng tất cả, ai làm nấy ăn, lương cán bộ công nhân viên chức chỉ đủ cầm hơi, không có phụ cấp cha già mẹ yếu con thơ như thời Mỹ-Ngụy, mạ vào trong nớ anh lấy chi nuôi? Bà nói.
- Trong đó cũng có hợp tác xã nông nghiệp, Tây Nguyên đất rộng người thưa, chịu khó như mạ, cần kiệm như con, không lẽ đói sao! Tôi nài nỉ.
- Ờ, để mạ tính! Bà nói, nhìn lên bàn thờ.
- Ruộng rẫy đã trưng thu vô tập thể, nhà từ đường mạ giao lại cho ai đó?
Biết mẹ chưa nỡ lìa xa hương khói, tôi ướm thử.
- Ừ, nhưng mà thư thư cho mạ! Bà lừng khừng.
- Hay là năm sau? Tôi đề ra thời hạn.
- Anh đừng làm mạ rối tinh lên! Bà than.
Trong kêu than ấy tôi hiểu mẹ khổ tâm theo một hướng khác.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Christiane

Re: Phiên Bản Tình Yêu (Vũ Biện Điền)

Postby bevanng » 04 May 2016

- Z.31
Về lại Huế, lần theo dấu xưa, từng bước ngỡ ngàng, run rẩy.


Có nên đi Huế không?
Tôi thao thức suốt đêm. Sáng dậy, người bơ phờ, nhìn quanh, nhà cửa trống vắng. Mẹ tôi đã ăn cơm sớm để kịp đến hợp tác lùa trâu lên núi. Tôi thơ thẩn xuống vườn, dạo quanh, phát hiện rẫy nhà mình đã bị chia năm xẻ bảy cho những hộ mới tới. Tất cả đều xa lạ, đa phần là cán bộ hồi kết. Ở vùng cao như quê tôi, đất rộng nhưng xấu, người thưa nhưng nghèo, diện tích canh tác ông bà để lại chẳng nhiều nhặn gì, hoa mầu hàng năm chẳng đáng là bao, giờ tranh nhau, chen chúc, biết sống làm sao! Xót xa, thờ thẫn một lúc, tôi vào nhà, ngồi ăn một mình, những miếng cơm gạo lức nguội cứng khó nhai khó nuốt. Có nên đi Huế không? Tại sao không? Ừ, tại sao không? Có ai cản bước tôi trở về vùng đất ấy? Để làm gì? Còn ai đón ai đưa nữa đâu! Tôi tự hỏi tự đáp. Chưa chi đã nghe rêm rả từng mảng bồi hồi. Quả thật, dẫu có chết đi, không thể không về. Bất chợt, trong đầu hiển hiện buổi chia tay với Cẩm Khuê, tôi run. Nhưng không phải vì thế mà chùn bước. Trái lại, như có một lực đẩy mỗi lúc một gia tăng. Có phải đây là thứ khát khao sau bao ngày yên ắng đào thoát của một can nhân muốn quay lại hiện trường? Có thể. Nhưng tôi không mong cất được lời nguyền, nhận được ân xá. Đông Âu sụp đổ, Liên Xô tan rã, Đông Đức tàn lụi, nhưng Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa còn đó, và Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam còn đây…
Đời người so với vận hội lịch sử tích tắc như bóng câu, phép mầu nào giúp tôi tăng tốc vượt ngưỡng thời gian? Thắp hương lên bàn thờ, tôi tần ngần rất lâu trước ảnh bà, thầm ước người xưa lên tiếng mách bảo. Khi tôi quay ra, nắng đã vào tới hiên. Đàn gà lẩn thẩn kiếm ăn ngang qua sân. Tiếng còi xe lan man len lỏi trong gió. Có nên đi Huế không? Trong từng khắc khoải, tôi mơ tưởng đến cô ấy thức dậy từ biển khơi với cảm giác thơ ngây của người đọc truyện cổ tích. Thì ra, dù sông xưa đổi dòng, mây trời thay sắc, dù lối đi tách ngả, ngõ chiều lạnh căm, tôi không thể không về! Viết mấy chữ để lại cho mẹ, tôi cắp túi xách lao ra đường.
Tôi hối thúc tôi trên mỗi bước chân. Vớ được chiếc xe chở gia súc xuống Đà Nẵng, tôi leo lên ngay. Hai giờ chiều tôi theo kịp chuyến tàu chợ, cổ đắng khô bụng trống rỗng. Tàu đi cà rịch cà tàng trên đường rầy rệu rã, chạng vạng tôi tới Huế. Rời ga với cái túi xách nhẹ tênh, tôi cuốc bộ vì trong đầu chưa định được nơi đến. Lâng lâng cảm giác của người đội mồ trở về, tôi rà xét từng chi tiết nhưng lưu lại trong đầu chỉ vỏn vẹn cái địa chỉ úa vàng của một thời. Khi ngang qua bệnh viện, tôi sực nhớ Đặng Dự. Tôi tin những âm linh sẽ phù hộ độ trì cho anh ta vượt qua bao nhiêu biến động vật đổi sao dời. Người xưa chưa tái ngộ, cảnh cũ dần dần phục hồi, tôi rẽ vào một lối tắt dẫn tới con đường qua phía sau bệnh viện. Cửa mở hờ. Những căn phòng chứa xác ngày trước giờ trống trơ toang hoác. Hòa bình, người ta ít chết hay đã thay đổi chức năng xử dụng? Nghe hơi lạnh vách vôi như thấm vào mình, tôi sải bước, lần tìm nơi mình từng nấp lánh.
- Xỉn lỗi, ông Đặng Dự còn ở đây không?
Tôi gõ cửa, hỏi một người đang ngồi co ro trên giường sắt, tỉ mẩn soi gương nhổ râu.
- Có phải Dự một mắt? Anh ta đồ chừng.
- Phải! Tôi đáp.
- Hiện là trưởng phỏng tổ chức ty y tế! Anh ta nói.
- Tôi là bạn của Dự từ xa đến, làm ơn giúp tôi gặp được ông ấy, hoặc cho biết địa chỉ nhà ở! Tôi nói.
Anh ta cau mặt một lúc, cho mảnh gương nhỏ vào túi áo, thòng chân xuống đôi dép râu cong vênh như da trâu khô. Cải dáng xương xẩu lóc phóc theo anh ta mỗi bước đi. Đưa tôi trở lại cổng, anh ta len vào phòng trực, trật trầy quay điện thoại. A lô một hồi, chẳng có gì, anh ta vỗ bành bạch vào máy, quay tiếp. A lô! vẫn im hơi lặng tiếng. Lại vỗ, lại quay. Đến lần thứ ba, anh ta ló mặt qua cửa sổ lắc đầu, ngao ngán. Tôi đứng lặng một lúc trong bóng tối mờ mờ. Đi đâu? Tôi hỏi thăm bác sĩ Xuân Hoa, anh ta bặm môi, nhướng đôi mắt sâu mày rậm, hai khóe ria đều nếp nhăn. Biết hỏi ai bây giờ? Tôi đứng đơ. Sau cùng, tôi xuất trình giấy chứng minh công nhân nhà nước đi phép, thú thật với anh ta lâm thế tứ cố vô thân và xin giúp đỡ.
- Được thôi!
Anh ta nói, đưa tôi ngoặt vào một hành lang hang hủng. Đến căn phòng nhỏ cuối dãy, anh ta banh liếp cửa tôn sét rỉ đẩy tôi vào. Chỉ kịp phản ứng bằng một cái giật thót, tôi đứng lặng nhìn theo. Không hướng dẫn, không dặn dò, người đâu mà kiệm lời đến khiếp! Tối tăm ngập mắt, tôi lần tìm mở đèn. Ánh sáng mờ vàng ệch nhưng cũng đủ cho tôi xác định đây là đâu. Chiếc bàn đá dài đen ánh quen quen gây cảm giác rờn rợn. Mười lăm năm lưu lạc, tôi không ngờ mình về đúng nơi mình ra đi, những cô hồn ngày ấy ai còn chìm đắm, ai đã siêu thăng? Vẫn để cửa, tôi nhìn ra ngoài một lúc, dùng dằng. Ở hay đi? Nghĩ đến túi tiền eo hẹp, tôi ngồi xuống. Dùng tủi xách làm gối, tôi ngả mình lên bàn đá. Vất vả suốt ngày, được nghỉ ngơi, tôi cảm thấy dễ chịu. Châm điếu thuốc, vắt chân chữ ngũ, tôi lơ mơ. Dù sao cũng hơn năm xưa, được thả cửa, không bị săn đuổi và, dẫu có cô hồn nào lảng vảng, biết đâu hâm lại chút nghĩa cũ càng. Đến hồi thả mẩu tàn thuốc, tôi nghe đói cồn cào, khát khô cổ. Bốn bề vắng lặng, ngại đi lại còn hơn cả ngày trước, tôi động viên tôi để được thanh thản trôi vào giấc ngủ. Đêm dài đến ngút ngợp, tôi cứ ngủ thức chập chờn, hết mộng mỵ lại ngỡ ngàng lan man.
Dự tìm gặp tôi vào sáng sớm, rất oai vệ trong bộ đại cán màu xanh lá cây, chân đi xăng đan (113) nhựa. Dạo này anh ta mập hơn, nước da đen mốc nay đỏ au, nhưng bộ tịch vẫn thô kệch lầm lì. Dự đèo tôi đi ăn sáng ở cửa hàng mậu dịch quốc doanh bằng xe đạp Phụng Hoàng (114) màu đen. Qua chuyện vãn, tôi biết anh rất bằng lòng với hoàn cảnh hiện tại. Trong nói năng, Dự thường chen một số từ đao to búa lớn và ngữ điệu rất hãnh tiến. Anh khoe từ ngày được bác sĩ Xuân Hoa móc nối rồi kết nạp vào đảng, anh hoạt động liên tục, không nhiệm vụ nào không hoàn thành, không khó khăn nào không vượt qua. Huế được giải phóng, chỉ ba thảng sau, lãnh đạo quan tâm cho anh đi học bổ túc văn hóa một năm ba lớp rồi vào trường y tế tỉnh. Tốt nghiệp y sĩ, từ nhân viên quèn anh được cất lên ngồi ghế phó phòng tổ chức. Vừa rồi anh được trung ương tặng thưởng Huân Chương Chống Mỹ Cứu Nước hạng Ba và được tỉnh cấp nhà ở thành phố, đó là chiến lợi phẩm của cách mạng, cơ ngơi của một thiếu tá Ngụy để lại. Vợ Dự hiện là thủ kho cửa hàng bách hóa mậu dịch quốc doanh, con trai lớn đang là đối tượng đảng, cán bộ công đoàn khách sạn Hương Giang, (115) con gái thứ là bí thư chi đoàn Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh, đang theo học cao đẳng Sư Phạm, con trai út là học sinh giỏi của trường Quốc Học. Với đà phát triển này, anh đang phấn đấu nhắm tới vai trò lãnh đạo ty, chí ít cũng phó giám đốc. Nhân lúc Dự hồ hởi, tôi yêu cầu anh ta tái vũ trang cho tôi. Dự cười, không nói gì. Khi chia tay, anh ta rút từ dưới áo khẩu K54 ém gọn vào túi xách tôi.
(113)Xăng-dan từ sandale, tiếng Pháp : một loại dép có quai sau. Trước 1975, ở miền Bấc, loại dép này do Trung Quốc viện trợ.
(114)Xe đạp Phụng Hoàng: loại xe đạp dàn ê-ke, sơn đen, nhãn hiệu Phụng Hoàng, Trung Quốc, được tiếng chắc và bền.
(115) Khách sạn Hương Giang: xây từ hồi tổng thống Ngô Đình Diệm, khoảng năm 1960, tại bờ nam sông Hương, nhìn sang bờ bắc là chợ Đông Ba.
- Cám ơn! Tôi nói, bắt tay từ biệt.
Từ chỗ Dự, tôi tìm gặp Xuân Hoa ở một trạm y tế phường phía nam ngoại thành. Ban đầu tưởng nhầm dân đi khám bệnh nhưng rồi chị giật mình.
- Có phải Lê Huy không? Chị hỏi, sửng sốt.
- Vâng, tôi đây! Tôi nói, bộ tịch lờ đờ.
Qua phút bàng hoàng, chị bảo ngồi chờ. Tôi lần tới cái ghế nhỏ ở xó góc phía ngoài. Nhưng khách mỗi lúc một đông. Chốn công cộng không tiện hàn huyên, tôi hỏi chị địa chỉ và được hẹn chiều mai. Chẳng biết làm gì cho hết giờ giấc, từ An Cựu tôi đi bộ qua cầu Trường Tiền, chọn một bao lơn (116) khoảng giữa dòng, đứng nhìn tứ phía đất trời. Sau biến cố 75, Huế không đổ nát như hồi Mậu Thân 68 nhưng se thắt buồn thảm như một chứng nhân trĩu nặng tang thương thế sự thăng trầm. Và nền nã của Huế cũng theo đó phôi pha, không còn trang nghiêm đài các nữa. Nhưng sông Hương vẫn an nhiên tự tại, vẫn mặc thây dời đổi, vẫn xanh thẳm mơ màng. Hai bờ rải rác những con đò cũ kỹ chắp vá, nhưng bóng cá, bóng mây, bè rong, sóng gợn, cành lay, gió thoảng vẫn như ngày nào. Khi ánh mắt chạm tới vùng ngã ba sông nước phân dòng, tự dưng tôi quay phắt, lần bước, âm vang một thời cứ ầm ào đeo bám. Sang tới bờ bắc, tôi phân vân chưa biết rẽ hướng nào, đường Trần Hưng Đạo vắng vẻ, ngang qua trước mắt. Tôi chợt nhớ nhà sách Ưng Hạ, chợ Đông Ba, cư xá Hội Đồng châu Quảng Nam và cắm cúi bước đi. Như oán cừu chờ nhau, khi dừng chân, tôi ngỡ ngàng đang đứng ngay giữa cầu Gia Hội. Người xe thưa thớt qua lại. Tất cả đều xa lạ, bẽ bàng, lãnh cảm, ngăn cách. Một công an còn trẻ từ đâu xuất hiện, nghiêm mặt đẩy tôi vào làn đường đi bộ. Chút day dứt mơ hồ, tôi đặt tay lên thành cầu xù xì sứt mẻ, nghe xung động cồn cào lan truyền dưới da thịt. Ta đây, im nào! Tôi thầm thì. Đừng sợ! Ta đây, nhưng không như xưa nữa. Ngày ấy ta chấp hành chỉ thị âm mưu sát thủ và đã bất thành, nhưng nay trở về ta xin lỗi ngươi. Ta chân thành xỉn lỗi ngươi và cả sông nước thanh bình vì ta mà đã một thời náo loạn. Con cầu sởn gai oằn mình, háy hó nhận dạng hung thủ. Ừ, ta đây! Lê Huy đây! Ta vì muốn phân thây xẻ thịt ngươi mà phải thân tàn ma dại. Nhưng, thôi nào! Đã tàn cuộc binh đao, đã qua thời lửa đạn. Xót xa, xấu hổ nhưng tôi vẫn khấp khởi mừng thầm. May mà đối thủ vẫn nguyên vẹn, vẫn không sao. Và cả tôi nữa, còn sống sót và kịp làm lại cuộc đời. Trận quyết đấu đã diễn ra không như ý muốn nên cả hai vẫn toàn mạng! Yên tâm, tôi tì hai tay lên vài cầu, cúi nhìn sông nước bên dưới, săm soi tọa độ kích nổ. Nước trong như mắt mèo, đáy sông hiển hiện, rêu xanh phủ kín trụ cầu. Không biết đêm ấy Cung cỏ thoát không? Anh xin lỗi em. Tôi nói vào khoảng không trước mắt. Chúng ta đều là tình nguyện nhưng với vai trò trực tiếp chỉ huy anh không thể không xin lỗi em. Tôi nhìn về phía đông, mé bờ Gia Hội, nơi Cung xuất phát. Những cụm lau khô vật vờ. Nhìn xa hơn, tôi bắt gặp Đập Đá thăm thẳm bên kia, nơi mỗi lần từ biệt người yêu trở về tôi thường dừng lại ngoái đầu lưu luyến. Bao kỷ niệm dấy lên. Có nên sang bên ấy? Tại sao không? Nhưng quả thật tôi sợ. Than thở một lúc, tôi vuốt mặt, nắng không gắt nhưng lóa cả mắt. Do loay hoay, có thể tôi vụng về gây ngáng trở, vài ba bộ hành ngang qua căm căm háy hó.
(116) Bao lơn - bao lan: balustrade, balcon, tiếng Pháp, là chỗ xây nhô ra ở trên lầu, ở trên cầu dể đứng ngắm phong cảnh. Khoảng 1995-2000, các bao lơn trên cầu Trường Tiền đã bị cắt bỏ trong đợt chỉnh sửa và làm lại một vài bị đánh sập từ mùa xuân năm Mậu Thân 1968. Vì thế, cầu mất một phần vẻ đẹp thanh lịch, khách bộ hành không còn chỗ nhàn du sông nước.
- Ông làm gì ở đây? Sinh nghi, tay công an xuất hiện trở lại, gí thẳng dùi cui vào bụng tôi.
- Không! Không làm gì hết! Nhưng mà… ngày ấy… Tôi lắp bắp, lẫn cẫn, lấc khấc.
- Thế thì đi đi! Anh ta khua dùi, ánh mắt xỉa xói.
- Vâng! Thì đi…! Tôi lảm nhảm.
Rồi cứ đứng, tôi đứng ì, lần lữa. Nương theo đầu mút chiếc dùi cui, mắt tôi gióng xuống sàn cầu. Chỗ đó, ngay dưới đôi bàn chân mang dép râu kia, hai mươi năm trước đáng ra phải là đường xé rách thân cầu làm hai mảnh. Có thế hồi đó chú mày đang còn nằm nôi, hoặc chưa sinh ra. Biết đâu bây giờ chú mày vào được công an nhờ cái hồng phúc cha mẹ đã có công chuyển chất nổ vào thành phố cho ta đánh cầu… Bồi hồi, tôi thầm thì, lẩn thẩn, gàn gàn. Rồi tôi lần bước nhưng vẫn không biết đi đâu!
Buổi chiều, sau một giấc ngủ dài nhầy nhụa bực dọc, từ gian nhà trọ bất đắc dĩ, tôi cuốc bộ lên Bến Ngự lần tìm nhà Xuân Hoa. Ngờ ngợ, tôi thẳng vào một đường kiệt hai bên chi chít nhà cửa, mừng thầm mỗi bước một quen dần. Trần Kỳ Hải bắc ghế ngồi chờ ở hiên. Thấy tôi, anh thả rơi tờ báo, lao ra. Chúng tôi ôm chầm lấy nhau đến ngạt thở. Rồi Hải đẩy tôi dãn xa, ngỡ ngàng ngắm nghía.
- Chưa đến nỗi nào! Anh gật đầu, nhay nháy mắt.
- Vâng, chưa đến nỗi nào! Tôi cũng gục gặc theo.
- Xỉn mời!
Xuân Hoa thấp thoáng trong rèm cửa thúc giục. Trần Kỳ Hải đưa tôi vào phòng khách, đẩy xuống chiếc ghế nệm thấp.
- Quả thật chưa đến nỗi nào!
Anh lại nói trong lúc dốc ngược bình trà nhỏ vào cụm tách trên mặt bàn. Uống xong chén nước, tôi được Hải dẫn tiếp vào đúng gian phòng ngày trước.
Hôm nay không bày trò đánh bạc giả để triển khai chỉ thị, một cuộc tề tựu gần như đủ mặt thân hữu. Qua giới thiệu, Trần Kỳ Hải cho hay đều là dân phong trào đấu tranh đô thị và hoạt động nội thành trước và sau thập niên 1970. Thoáng nhìn, một số khuôn mặt quen nhưng tôi không nhớ tên và một số đã từng nghe tên nay mới biết mặt.
Trong khi tôi muốn hỏi thăm những người đã cùng tôi một thời sống mái, Nguyễn Đình Phố và Ngô Hiếu đẩy cửa bước vào. Sau mấy giây ngỡ ngàng tưởng như chiêm bao, ba chúng tôi ngồi xuống bên nhau, mừng mừng tủi tủi, nước mắt lưng tròng. Tôi hỏi thăm Trần Cáp, Phổ cho hay sau đêm ấy Cáp tìm đường về quê ở Quảng Trị rồi không rõ xiêu lạc nơi nào.
Tôi hỏi tới Lê Văn Cung, Phổ lầm lì cúi mặt.
Thấy vậy Trần Kỷ Hải bắt sang chuyện khác để đánh lảng nhưng không ai hưởng ứng.
- Thì ra trên đường đào thoát, anh chưa bao giờ ngó lại! Hiếu cụp mắt, buồn bực.
- Đúng vậy! Tôi thú nhận.
- Thật đáng trách.
- Nhưng hồi đó, chính tôi cũng không chắc có mang nổi mình! Tôi gỡ gạc chống chế.
- Giờ không phải lúc phê bình kiểm điểm!
Thấy căng, Trần Kỳ Hải lại xen vào.
Phố đứng dậy, kéo tôi đến bên cửa sổ.
- Rồi anh sẽ biết! Phổ nói, đưa mắt nhìn ra vườn.
- Đối với lũ chúng ta, bây giờ xót thương, tủi phận cũng bằng thừa. Lòng rưng rưng nhưng tôi cố tỏ ra bình thản, miễn cưỡng gật đầu. Phổ nói tiếp.
- Em đã khuyên giải nhiều lần, rứa mà hắn không nghe, cứ để bụng, giận đời oán người làm chi cho khổ thân!
Tôi lại gật đầu, nhưng xót xa hơn nữa. Cũng may Xuân Hoa xuất hiện, chào hỏi và mời mọi người vào chiếu.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Christiane

Re: Phiên Bản Tình Yêu (Vũ Biện Điền)

Postby bevanng » 04 May 2016

- A.45
Nguyên nhân sự cố.
Tìm cách cứu mình cứu người.


Ra khỏi cổng tư thất chủ tịch, cả người lẫn xe cứ long nhong. Đến một chắn tư, đèn đỏ, tôi dừng lại và lơ mơ không biết mình đang đi đâu.
- Anh cho em về nhà mình! Thảo cầu xin.
- Bắt tắc xi hé?
Tôi gợi ý, rút điện thoại di động khỏi túi.
- Không! Em sợ!
Tôi bấm chưa đủ số, cô ta vội đổi ý. Nhưng tôi không thể mang một gái đĩ chui vào con đường đất ấy, ngang qua nhà Cẩm Bình, dù là chạy trốn, dù chỉ một lần, dù là đêm hôm. Tôi cho xe rẽ hướng khác, nhắm một khách sạn nhỏ ở ngoại ô. Sau khi nhận phòng, tôi đưa cô ta từ xe vào thẳng toa-lét, điều chỉnh hai vòi nóng lạnh cho nước vào bồn. Cô ta vẫn run bần bật, ngây dại nhìn tôi với đôi mắt cá ươn. Trong lúc chờ đợi, tôi lột trần Thảo ra, khám xét trên người xem có thương tích gì không. Ngoài cái mùi hăng nồng mà tôi nghi của chủ tịch lây sang, mấy dấu răng bầm tím ở mé * và ở gò mu, tất cả đều lành lặn, không có gì đáng ngại.
- Bên trong… có thấy gì khác…?
Tôi vừa hỏi vừa dùng tay ra dấu.
- Không ạ! Thảo nói.
Tôi yên tâm đẩy cô ta vào bồn. Như một cái xác heo sống lại vẫy vùng bên ngoài nồi trụng, cô ta quờ quạng kháng cự, tránh xa. Tưởng mình sơ ý, tôi xem lại nhiệt độ nước, rồi cúi xuống bế cô ta thả tõm vào. Chới với, Thảo đấm lung tung vào mặt tôi.
- Phải tắm đến hai lần đấy!
Tôi xẵng giọng, ném xà phòng và bàn chải lên người cô ta, mở cửa ra ngoài, nhăn nhó phủi những bụi nước vừa tung tóe lên áo.
Ngẫm nghĩ một lúc, tôi bấm máy gọi lễ tân mang lên phòng hai suất ăn nhẹ rồi nằm dài lên giường, thở hắt bực dọc. Ôn lại những gì vừa xảy ra, tôi thử xem mình có sơ suất nào, thử xem mình có bỏ sót chi tiết nào, thử xem mình có vướng víu vào khâu nào. Khách quan mà xét, thật khó mà êm xuôi mát mái, ngại nhất là mấy phát súng! Tôi hình dung sự thể. Đường đường một đấng chủ tịch, quyền uy và khỏe như voi, sáng tiếp khách, chiều liên hoan, có ngày nào không xuất hiện trên tivi, đùng một cái, lặc lè tử hỷ. Chẳng khác gì trò chơi trận giả của con trẻ, làm sao không có kẻ nghi ngờ! Nhưng nếu phải bước đường cùng, cực chẳng đã không thoái thác được, tôi vẫn có bằng chứng ngoại phạm. Hai Đa còn đó. Rõ ràng ông ta giục tôi đến gặp chủ tịch. Tay công an còn kia. Rõ ràng anh ta chận bước tôi ngay khi chạm cửa. Còn Bull? Chẳng là cái thá gì khi chủ nó đã tắt lặn hào quang. Xã hội sẽ sớm vùi nó vào xó, đó là số phận của những thứ theo đóm ăn tàn. Đường về âm cảnh, phận người còn nhập nhằng, việc gì phải nặng lòng đeo đẳng cái bóng chó.
Đang lan man, chợt có tiếng động bên trong toa-lét khiến tôi nhớ đến sự hiện diện của Bích Thảo. Cái đáng bận lòng là đây, ngòi nổ là đây, liên lụy là đây. Tôi thầm nghĩ, nhìn chăm chăm vào cánh cửa. Và mình đang mang nó như một oan nghiệt tương tụ, chưa biết dốc tháo bến bãi nào! Nếu hướng điều tra cứ lần theo dấu đào thoát, nếu bí thư Nguyễn Thanh Cưỡng còn nuôi hận chủ tịch, nếu giám đốc Tạ Thao muốn gây thanh thế để về sau thế ngôi Phạm Tư trong phe EnTiBi, nếu mấy tay bác sĩ pháp y muốn tâng công đi sâu vào chuyên môn, AND (117) sẽ nói lên tất cả, cô ta khó mà chối cãi, và sẽ thú tất tần tật. Đến nước đó, tôi cũng khó tránh trớ và phải ra hầu tòa. Nhưng tôi vẫn có đủ bằng chứng bảo vệ mình vô tội. Luật sư của tôi sẽ trưng dẫn với bồi thẩm đoàn, rằng nhiều lần quan hệ với bị can nhưng thân chủ ông ta chưa bao giờ giới thiệu cô ta với chủ tịch Phạm Tư. Thoát? Ăn chắc, đương nhiên không tránh khỏi trầy da tróc vảy. Sau đó, khi người tôi đã bị bóc trần với bao thứ phanh phui đơm đặt, liệu có cứu nổi thanh danh mình, liệu có yên ổn ghế ngồi?
(117) AND, Acide Désoxyribonucléique (Pháp) hay DNA, Desoxyribonucleic Acide (Anh): Thành phần Cơ bản của tế bào sống, mang thông tin di truyền về nhiễm sắc thể.
Tôi tự hỏi, rồi đâm quẫn.
Có tiếng gõ nhẹ, tôi vươn dậy mở cửa. Phục vụ khách sạn mang thức ăn đến rồi lui ngay. Tôi ngồi vào chiếc bàn con bên cạnh cửa sổ, trước mặt hai tô xúp măng cua bốc mùi thơm thoang thoảng. Tôi mở tủ lạnh, khui một lon bia. Từ toa-lét bước ra, Thảo chỉ quấn quanh mình chiếc khăn bông.
- Váy đâu mà cứ nần nẫn ra thế? Tôi hỏi mắng.
- Em vừa giặt và đang hong trong đó! Cô ta nói.
- Tốt! Nhưng lúc về biết làm sao? Tôi cười mỉa.
- Từ giờ đến sáng, thế nào cũng khô! Cô ta nói.
- Ai bảo chúng ta qua đêm ở đây? Tôi đanh giọng.
- Mới có chừng đó mà anh đã nổi ghen! Cô ta nói.
- Đừng vu vạ bậy, không hay đâu! Tôi chận họng.
- Thế sao bỗng dưng nặng mặt với em? Cô ta nói.
- Muốn giết luôn tôi đêm nay nữa a?
Tôi nói quá cho nư giận.
- Nếu anh không chịu nán lại tới lúc đó, em đành mặc ướt mà về còn hơn đeo đẳng hơi hám con dê già ấy.
Cô ta nói, kéo một chéo khăn lau tóc, hớ hênh để hở quá nửa thân trần. Muốn gọi phục vụ khách sạn ủi khô chiếc váy, nhưng ngại tai bay vạ gió, tôi thôi ngay.
- Thế khi ông ta còn sống mùi mẽo thế nào?
Tôi cạnh khía.
- Là cận thần, anh không biết a? Thơm tho, ngọt ngào, béo bổ nhất tỉnh! Cô ta dấm dẳn lỡm trở lại.
- Tổn thất quá lớn lao, vậy xin chia buồn cùng em!
Tôi đáp trả.
- Cám ơn! Em không buồn, chỉ sợ và tiếc thôi!
Cô ta nói.
- Tiếc cái khỉ gì nữa?
Tôi hỏi, thoáng nghĩ tới chùm củ trối của chủ tịch.
- Đổ mồ hôi sôi nước mắt mà thất thu! Cô ta nói.
- Có thích bù lỗ không? Tôi hỏi.
Tưởng đùa, Thảo nhướng mắt câng mặt muốn nổi cáu nhưng lại uể oải ngồi xuống một góc giường. Tôi đứng dậy rút ví, thảy hết mớ tiền tay công an trao qua xuống mặt nệm.
- Của đâu không biết, anh đã cho thì em nhận!
Cô ta nói, vươn tới gom nhặt từng tờ giấy bạc, rồi không biết cất giấu vào đâu, đưa mắt nhìn quanh. Tôi thảy luôn chiếc mu-soa cho cô ta đùm lấy rồi dùng bộ điều khiển từ xa tắt hẳn máy điều hòa. Thảo mang theo túm tiền đến ngồi vào chiếc ghế đối diện, tỉ mẩn đếm, gom thành cọc.
- Ăn đi! Tôi giục, đẩy về phía cô ta tô xúp.
- Em không đói! Cô ta nói, vẫn cắm cúi vào tiền.
- Chúng ta còn bao nhiêu việc chưa làm, không đói cũng phải ăn! Tôi dằn giọng.
Cô ta miễn cưỡng cầm nĩa, cúi húp từng muỗng xúp nhỏ. Tôi cũng nhấm nháp qua loa.
- Do đâu mà chủ tịch biết em?
Đang ăn, tôi đổi giọng luồn lách điều tra.
- Anh đã bảo không ghen mà?
Thảo lập lờ lấp liếm.
- Muốn giấu thì thôi nhe, tự mà lo liệu lấy!
Tôi đứng phắt dậy, mang theo cả lon bia uống dở đên bên cửa sổ.
- Em không rõ! Cô ta muốn rút lại vì lỡ lời.
- Nói vậy mà nghe được a? Tôi cười gằn.
- Thiệt mà!
Cô ta e ngại nhìn tôi một lúc rồi cúi mặt, nĩa muỗng trong tay nhưng chẳng thiết tha ăn uống.
- Vào một buổi tối, cách nay chừng ba tháng, chuông reo, em uể oải cầm máy, một cú gọi đích danh,; tuy chất giọng kệch cỡm nhưng xởi lởi. Em hỏi vì sao mà biết tên em, ông ta bảo có người thân tín giới thiệu. Sau khi bày tỏ ước muốn được cùng hàn huyên chăn gối, ông cho em địa chỉ. Kinh nghiệm nghề nghiệp mách bảo, đã ở vào khu phố thượng lưu, không quý ông chí ít cũng đại gia, em trang điểm thật kỹ rồi thuê một cuốc tắc xi…
- Thế Dream bỏ đâu? Tôi ngắt lời cô ta.
- Trước đó ba hôm, em thua bạc phải cấn nợ…
Cô ta giải thích, rồi kể tiếp.
- Vào khoảng chín giờ, em đến nhưng không gặp ngay ông ta. Người đón em ở hiên là thằng mặt lép trọ trẹ lạnh lùng kia. Hắn đưa em vào một phòng kín đích thân sờ nắn, hôn hít, lùng sục từ người đến cả xách tay. Sau đó, chỉ đường cho em lên mật thất. Thú thật, được quan hệ với một nhân vật quyền uy em lấy làm thích thú và hãnh diện. Ông ta cục mịch, thô lỗ, đòi hỏi nhiều nhưng boa cũng đậm. Từ đó, ngựa quen đường cũ, cứ nhận tín hiệu là em đến ngay. Mặc sức vui chơi, mặc sức ăn uống, mặc sức ngủ ngóm, nhưng tất cả phải được chấm dứt trước khi trời sáng. Lần hồi em cũng biết ông ta là ai và đi lại kín kẽ hơn nữa…
- Đêm nay có biểu hiện gì khác thường không?
Chợt nhớ, tôi ngắt lời cô ta.
- Ông ta đem khoe một thứ thần dược do một tay giám đốc nào đó vừa gởi biếu, uống một lúc ba viên, lại bôi thêm thuốc mỡ, háo hức đẩy em lên giường.
Tôi phì cười, cô ta ngước nhìn lên, sởn mặt.
- Anh có tin hay không thì tùy nhưng quả đúng là thần dược, ông ta quần em mệt muốn chết! Đang lúc ham hố vồ vập, một tiếng nấc trào từ cổ họng chẳng khác trâu bò ợ cỏ, ông ta rướn mạnh như muốn luồn hết cả vào trong em. Liền sau cái giật thót thể hiện khoái cảm cực độ, cả tấm thân đồ sộ hung hãn bỗng cứng ngắc. Đổ sức như thế đáng ra phải buông lơi hít thở, đằng này im re, phẳng lặng như gỗ đá! Ngay lúc đó, ba tiếng súng chát chúa vang lên, đang lơ mơ rên rỉ em bừng tỉnh. Súng lại nổ, em ra sức gạt mạnh, cái khối thịt hâm hấp nhầy nhụa chuồi xuống mặt giường…
Bất chợt cô ta cau mặt, thảng thốt thả rơi nĩa muỗng, người đờ đẫn như bị câu rút vào đâu đó.
- Rồi sao nữa?
Tôi nhắc khẽ. Cô ta dãn mặt, thảng thốt nhìn lên.
- Em nói ra sức vì không hiểu sao cái… của ngài chủ tịch cứ dính mắc vào em y như chó tháng năm!
Cô ta nhăn nhó. Tôi lại phì cười. Cô ta bực tức đứng phắt dậy. Nhưng thay vì nộ khí xung thiên, cô ta đưa cả hai tay chận lấy cổ họng lao vào toa-lét. Nghe ọe mửa một lúc, rồi tiếng nước giật xả bên trong cánh cửa vang lên. Bây giờ tôi tin cô ta tởm ngài chủ tịch thật sự.
- Kể tiếp đi!
Tôi giục khi Thảo lão đảo trở lại ghế, mặt tím tái.
- Anh đã tin em rồi phải không?
Thấy tôi tập trung, cô ta băn khoăn và dịu ngọt.
- Tin! Nói vậy, nhưng không biết vì sao bộ tịch tôi cứ cà rởn như thể thích thú vì được đứng ngoài cuộc.
- Đàn ông các anh…
Thấy vậy, cô ta vít vào, trở giọng mắng xan xát vào mặt tôi.
- … Đặc biệt những thằng đàn ông quyền thế, sau khi thỏa mãn thì rất súc vật, chẳng thiết gì ngoài mê muội lún sâu vào ngủ nghê.
- Biết vậy, sao cứ dính chết vào? Tôi đía.
Cô ta không màng nghe, vẫn phân bua tiếp.
- Khi ngồi lên, quay lại, thay vì một cuốc boa hào phóng, em quờ phải một cái xác nằm kề, mắt trắng dã, râu tóc dựng đứng, chân tay khuỳnh khoáng. Chỉ kịp vơ lấy mấy thứ, em tháo chạy!
Nói đến đó, cô ta nhỏm dậy nháo nhác hất đổ tô xúp. Tôi với bắt đẩy cô ta vào ghế.
- Em không biết vì sao ông ta ra nông nỗi ấy!
Cô ta đau xót, căng mắt than thở, van xin như thể tôi là cán bộ viện kiểm sát đang thụ lý hồ sơ án mạng.
- Ông ta bị lạm phòng.
Thấy cô ta quá khổ sở, tôi hé mở, Thảo vẫn lắc đầu tỏ ý không hiểu. Tôi nói tiếp.
- Nhất lạm phòng, nhì lòng lợn! Đã thạo nghề sao thiếu ngón, đáng ra em phải biết mà mang theo cái trâm cài tóc, lỡ khi gặp tai biến thì châm ngay vào đốt xương cụt của nạn nhân.
- Thế khi lên tới, hai anh có kịp cứu ông ta không?
Cô ta hỏi, ánh mắt le lói hy vọng.
- Rất đáng tiếc! Chậm mất rồi, cô em ạ! Phải làm ngay khi nạn nhân đang còn thượng mã (118) mới hiệu nghiệm! Tôi nói.
(118) Lạm phòng (Lạm: vượt quá. Phòng: nơi ngủ nghỉ) hay Thượng mã phong (Thượng mã: trên ngựa. Phong: bệnh đột xuất): Là trạng huống trụy tim mạch (Collapsus Cardiovasculaire) dẫn đến tử vong do nạn nhân tiêu tốn quá nhiều sức lực trong lúc hành lạc. Cũng như đang yếu sức mà ham ăn lòng lợn, rất dễ gây nên chứng thương thực.
- Nhưng em đâu có cố ý! Cô ta chống chế.
- Vâng, em đâu có cố ý. Nhưng nếu công tố viên thấu hiểu thương tình, em cũng khó thoát khỏi tội ngộ sát, mà ngộ sát một chủ tịch tỉnh, chí ít cũng mười ba năm khổ sai!
Tôi giảm nhẹ hạn tù, nhưng Thảo vẫn sợ hãi.
- Không, em hoàn toàn vô tội, nếu theo anh nói, chỉ tại tiếng súng… Cô ta quyết vượt theo hướng khác.
- Không có bằng chứng, liệu ai tin em khi hầu tòa? Tôi nói. Cô ta điếng lặng một lúc.
- Vậy làm sao hở anh?
Không chịu đựng nổi, cô ta thống thiết cầu cứu.
Để yên cho hồ ly khóc, tôi đưa mâm bát ra ngoài, đóng cửa lại, đi thẳng xuống phòng lễ tân thanh toán các khoản. Tiện thể, tôi ghé qua căng tin gần đó, uống một ly rượu mạnh rồi tản bộ ra đường. Tôi cần có không gian cách ly và thời gian suy nghĩ. Đầu óc bùng nhùng, tôi cắm cúi qua cầu rồi dọc theo bờ sông. Đi một đoạn, sực nhớ tôi vội cho gói thịt bò bíp-tếch trôi theo dòng nước. Vài ba cặp trai gái ôm nhau trong bóng tối, lẩn lút giữa những lùm cây. Gió mát từ sông lên làm người tôi thư thái. Giữa đất trời bao la, tôi muốn điểm lại hành tung của mình từ khi rời nhà. Thử mượn con mắt của tòa, tôi nhìn xuống một người như tôi đứng trước vành móng ngựa. Đêm hôm, không mời mà đến? Liên can? Đồng lõa? Tình ngay lý gian. Biết đâu trong vụ này, mình lâm thế đùn đẩy? Có thể. Vậy chiếc gậy từ đâu ra? Từ âm mưu của phó chủ tịch Hai Đa? Sẽ có đảng dập. Từ Bích Thảo? Chưa có ai lo. Không sớm chận, sẽ kích lan. Tôi nghĩ tới bọn Hồ Minh Dũng với những lượn lờ bấy lâu, giờ sẽ có một mẻ bòn rút giả danh điều tra. Tôi nghĩ tới giám đốc đài phát thanh truyền hình Võ Chí Thái với những chiếc loa giăng khắp thị xã, sẽ có một cuộc khủng bố tinh thần giả danh đưa tin. Tôi nghĩ tới Triệu Sung và đám phóng viên vô công rỗi nghề, sẽ có một đợt điền dã giả danh phóng sự. Không hẹn, nhưng vì phe phái, bọn họ sẽ vô tình đồng bộ vây lấy tôi. Và lỡ khi tôi dính trận, chắc lãnh đạo sẽ quay lưng, thí chốt, loại tôi ra khỏi cơ cấu hội đồng nhân dân khóa tới. Lại nữa, từ khi tình cờ gặp Tường Vi và muốn hành xử theo ý mình, tôi phát hiện Bích Thảo là nhân tố lưỡng diện vừa tác phúc vừa giáng họa. Nếu không có những khoản giúp đỡ kịp thời của cô ta, chắc chi dì cháu Tường Vi trụ nổi đến hôm nay. Nhưng vì thế mà cô bé tập tò son phấn, liều lĩnh lần mò đến chốn yên hoa, dám kiếm sống bằng cách trần mình trước đám đông… Dẫu Bích Thảo khăng khăng rằng cả hai diện ấy đều phát xuất từ trắc ẩn và thiện nguyện, cũng không vì thế mà để Tường Vi duy trì quan hệ thêm nữa. Không phải trắc ẩn nào, thiện nguyện nào cũng mang lại thành quả tốt đẹp. Bấy lâu tôi muốn nạo vét mớ rác rê trắc ẩn và cả ung độc thiện nguyện kia ra khỏi cô bé, sau đó, cách ly vĩnh viễn bọn họ. Nhưng bí bức vì chưa có cơ hội. Còn bây giờ, như có ai vừa thắp lên trong đầu tôi một ngọn đèn, đúng là ngàn năm có một. Tôi quay bước trở về khách sạn.
Làm sao hở anh? Trong mỗi bước chân, tôi mãi nghe tiếng cô ta ong óng trong đầu. Bây giờ là hiệp hai, một lần nữa, quả bóng đặt vào chân mình. Tôi nhận định. Tạt về đâu? Tôi đề ra một số tình huống. Chẳng hạn, mượn tay công an nâng tầm cô ta lên, khóa cứng trong tù, không tử hình thì cũng chung thân. Luật pháp hồ đồ, tam quyền không phân lập, thủ đoạn này ngày nay người ta xử dụng khá hữu hiệu. Hoặc, vạch một ranh giới, cách ly can nhân, phó mặc cô ta tự cứu lấy thân. Xác xuất cô ta vô tội rất thấp và rất dễ cho những tay cơ hội khai thác dây máu ăn có. Đó là khôn ngoan hèn hạ, lương tâm chấp chới giữa hai bờ thiện ác. Hoặc, tung tài vật dang tay cứu vớt, chỉ đường làm lại cuộc đời nhưng đương sự phải cao bay xa chạy? Phần mình, đề phòng đào phạm phản phé, treo một thanh kiếm lơ lửng trên đường về? Đó là thứ khí tiết quân tử Tàu thời phong kiến và nét hào hoa mã thượng hiệp sĩ Tây thời trung cổ, tuy cũ rích nhưng trong hoàn cảnh của tôi xem ra có chiều khả thi.
Đã khuya, nhưng tôi chẳng mụ mỵ tí nào. Đẩy cửa bước vào, tôi thấy Bích Thảo đang nằm trên giường, khăn bông vắt qua nửa người, đầu gối lên tay, mắt láo liên đang lao lung suy tính. Gian phòng tĩnh lặng, rạng rỡ ánh đèn nê-ông. Tôi ngồi xuống cuối giường, điếu thuốc hút dở trên tay. Thảo ngước mắt nhìn lên.
- Anh đã nghĩ ra cách cứu em chưa?
Cô ta nói, giọng nũng nịu nhưng nguội lạnh.
- Rồi! Tôi nói, chắc nịch, tự tin.
Cô ta xoạc tay háy mắt vời tới, tôi vẫn bất động, có chút đề phòng sợ yêu tinh lung lạc.
- Nói đi anh yêu!
Cô ta van nài, thườn thưỡn cái thân trần như nhộng tại chỗ. Tôi giật lấy tấm khăn, buộc cô ta nghiêm chỉnh ngồi lên để tập trung lắng nghe.
- Váy áo chưa khô! Cô ta hét, vùng vằng níu lại.
- Muốn sống, em phải xa chạy cao bay khỏi vùng đất đỏ độc địa này! Tôi nói, buông khăn, vung tay như mở rộng khoảng không trước mắt.
- Nãy giờ nằm một mình em có tưởng tới cách đó!
Thảo nói, vẫn lê mê.
- Nhưng nghĩ lại, biết lấy gì mà chạy mà bay!
Cô ta than thở, xoay người úp mặt xuống nệm.
- Anh sẽ cho ít tiền. Em cố học lấy một nghề.
Nhìn đôi mông tròn trĩnh, tôi nhỏ nhẹ như dỗ trẻ.
- Bao nhiêu?
Cô ta ngẩng cao đầu, quên cả mình đang lõa lồ.
- Năm chục triệu! Tôi đưa bàn tay, xòe đủ ngón.
- Chừng đó bay được bao xa, em sợ nửa đường gãy giò rã cánh! Cô ta xìu mặt, gập đầu trở lại.
- Vậy thì bao nhiêu? Tôi hỏi.
- Chí ít, cũng một trăm! Cô ta nói, kéo một chéo khăn vắt qua người.
Một trăm, cái giá phòng chống lây lan đĩ thỏa xem ra quá đắt, nhưng bình an cho một trinh nữ thì rẻ mạt Tôi cười. Thảo hiểu và cũng cười theo.
- Ừ, một trăm! Tôi tái khẳng định.
Cô ta ngồi thẳng dậy, hai tay túm lấy mép khăn.
- Một trăm thì khó mà rã cánh, em sẽ bay xa. Nhưng xin đừng trừ cái khoản đó! Cô ta nói.
- Khoản nào? Tôi hỏi, hơi ngỡ ngàng.
- Khoản em giật tạm để sắm xe Dream ấy mà!
Tôi chợt nhớ và lại cười. Thảo nói tiếp.
- Cám ơn! Nhưng anh ơi, đã thương thì thương cho trót, một lần trọn gói đấy nhé!
- Ừ, trọn gói! Tôi cũng thuận theo.
- Bao giờ hở anh? Được thể, cô ta lần tới.
- Muốn thoát thì phải nhanh chân, lừng khừng chỉ có rước họa! Tôi nói.
- Vậy em phải về nhà thôi!
Như chợt ngộ, cô ta nói, cho hai chân xuống giường. Tôi gật đầu khích lệ. Có cuộc chia ly nào mà không luyến lưu đôi chút, Thảo tung khăn ôm chầm lấy tôi. Cả hai ngã toài ra giường.
- Nhưng anh ơi, em yêu anh! Cô ta áp môi lên má tôi, hai hàng nước mắt nóng hổi tuôn chảy.
- Muộn rồi! Tôi rưng rưng một lúc, rồi gượng dậy gỡ cô ta đặt ngồi trở lại giường.
- Ngày mai khoảng sáu giờ, anh sẽ giao cho em tại bến xe liên tỉnh! Tôi nghiêm mặt, đanh giọng.
- Còn đi đâu thì tùy, không những anh mà bất kỳ ai cũng không nên biết, coi chừng mũi chó vó công an!
Nói vừa dứt, tôi quay lưng.
- Khoan đã! Chiếc túi xách của em đang trong xe anh, áo váy cũng chưa khô!
Cô ta hốt hoảng chới với nhao lên.
- Nửa giờ nữa, tắc xi sẽ đến đón em dưới kia.
Tôi nói, vói lấy túm tiền trong khăn mu-soa ở đầu giường đặt vào tay cô ta.
- Còn túi xách, ngày mai em sẽ nhận với cả quà tặng trong đó!
Tôi lao nhanh qua cửa.
- Anh ơi!
Nghe tiếng Bích Thảo kêu thét nhưng tôi không buồn quay lại. Xuống lưng chừng cầu thang, tôi lén nhìn lui. Khăn bông lòa xòa, cô ta lấp ló dùng dằng trong vũng sáng khung cửa.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Christiane

Re: Phiên Bản Tình Yêu (Vũ Biện Điền)

Postby bevanng » 04 May 2016

- A.46
Tin buồn của tỉnh ủy.
Muôn đời thương nhớ chủ tịch. Bên dưới vòng hoa truy điệu.


Sáng tinh mơ hôm sau, tôi bắt xe ôm lên bến xe với chiếc ví của Bích Thảo và cả khoản tiền đã hứa. Ngại chường mặt, tôi chỉ người đang ngồi ở băng ghế ngay sau tài xế có mái tóc ngắn nhuộm hoe, nhờ thằng lơ chuyển rồi đi ngay. Trên đường về, tôi gọi điện hẹn gặp bác sĩ Hoàng Văn Luân, cùng nhau điểm tâm ở quán người Hoa Quảng Châu.
Cố tự nhiên, nhưng tôi nói năng lật bật không như thường khi. Bữa ăn như cái mùng che chắn hoặc như một thứ ngoại phạm vớt vát. Hình như Luân nhận thấy sao đó tuy không buồn thắc mắc. Buổi trưa tôi không về nhà, dùng bữa với Mai Thị Dung và Ma Ngát ở căng tin, lâu lâu lại ghé mắt lên màn hình tivi. Một ngày bận rộn với nhiều người, nhưng từng giây lòng tôi vẫn trì trịch. Buổi tối, tôi về nhà muộn. Trước khi thay áo xống, tôi mở tivi, cho âm thanh khá lớn. Cơm nước xong, tôi định cù Khánh đi hát karaoke nhưng nghĩ lại, khó mà vui được lúc này nên vào phòng nghe đài BBC, tiếp đến RFI, rồi VOA. Cứ mỗi đầu giờ tôi lại mở tivi nghe đài địa phương. Chẳng có gì! Chắc nội bộ đang rối tinh? Lãnh đạo chưa định rõ hướng kịch bản, đạo diễn làm sao dựng tiết mục! Nôn nóng cứ khoét vào lo lắng, thao thức mãi, tôi phải dùng thuốc an thần mới ngủ được.
Hôm sau thức dậy, trước khi tắm rửa, tôi lại mở tivi. Suốt một giờ, vẫn chẳng có gì! Đến lúc phải đi làm, lòng tôi vẫn canh cánh. Tôi tin Thảo đang bình an với vận tốc đường dài và bay đã khá xa. Còn Mã Đáo, dù tôi đã cố hết sức, anh ta vẫn là con rối lạo khạo quanh quẩn hiện trường. Liệu có đóng trọn vai như mình gợi ý? Suốt buổi sáng, tôi làm việc với các giám đốc công ty, không nghe ai nói gì khác ngoài công việc, vài ba vấn đề khá căng thẳng, nhờ thế mà thời gian qua mau.
Buổi chiều, sau khi Mai Thị Dung báo một khách hàng cáo lỗi không đến đúng hẹn, tôi lại rơi về trì trịch. Uống vội tách trà, tôi xuống căng tin, muốn chơi bi-da với cô quản lý, nhưng đúng ngay vào buổi phát thanh chiều của đài truyền hình địa phương. Thoáng nghe nhạc hiệu hơi lạ, sinh nghi tôi bảo cô ta tăng âm. Tuy hút hớt, tôi cũng kịp nắm bắt phần mở đầu tin.
… Do nhiệm vụ nặng nề chồng chất, do phải liên tục lao động căng thẳng ngoài giờ, đồng chí chủ tịch Phạm Tư kính yêu của chúng ta trong lúc nghiên cứu nghị quyết trung ương và tập trung đề ra biện pháp triển khai thực thi tại địa bàn huyện thị, đã đột quỵ…
Vừa rải bi, tôi vội ngừng, giả tảng phủi bụi trên mặt bàn, kỳ thực gióng tai lắng nghe
… Tuy phát hiện kịp thời, được đội ngũ y bác sĩ khu vực tỉnh tận tình ứng cứu, nhưng vì tai biến quá trầm trọng, đồng chí chủ tịch đã tạ thế lúc 22 giờ cùng ngày…
Bên kia bàn, cô quản lý chống cơ đón nhận tin buồn, mặt mày dửng dưng.
… Chủ tịch Phạm Tư ra đi lúc sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội tại tỉnh nhà đang dở dang, để lại vô vàn thương tiếc trong lòng các đồng chí, gia đình, bè bạn và nhân dân. Chủng ta quyết biến đau thương này thành hành động, nguyện học tập đạo đức và làm theo mong muốn của Người.
Một khúc nhạc réo rắt rồi nữ phát thanh viên trang phục toàn đen xuất hiện trên màn hình thông báo linh cữu đồng chí chủ tịch quàn tại hội trường ủy ban nhân dân tỉnh, lịch kỳ thăm viếng, phúng điếu, truy điệu, ngày giờ di quan. Tôi tập trung ghi nhận những chi tiết này. Sau cùng, một nam phát thanh viên cũng trang phục toàn đen, công bố ban tang lễ gồm có mười hai vị, đồng chí quyền chủ tịch tỉnh Phí Đu làm trưởng ban.
Tôi không nhớ hết danh tính mười một vị còn lại, vì lúc đó, tôi thật sự ngậm ngùi. Suốt đời đồng chí Phạm Tư luôn luôn sống, học tập, chiến đấu và lao động theo gương Hồ chủ tịch. Nhiều thế hệ cán bộ xưng tụng ông ta là phiên bản thu nhỏ của lãnh tụ vĩ đại. Chuyện đó miễn bàn, điều đáng nói - tôi nhẩm tính một lúc, rồi quyết chắc - không ngờ sinh thời đã thế, lúc mất đồng chí chủ tịch tỉnh ta còn vươn theo kỳ được vị cha già dân tộc. Sống thêm một ngày không thở, một ngày không phải của mình! Thân nhân có ai buồn lòng vì sự bất kính ấy không, chỉ có trời biết. Riêng tôi, qua cơn bàng hoàng thì khấp khởi mừng thầm. Đúng là cầu được ước thấy. Thoát! Chắc chắn rồi!
Nhường cho cô quản lý đi trước, tôi ra hiệu phá bi khai trận. Cô ta ngẩn một tí rồi làm theo. Lòng dạ tôi lâng lâng, chỉ tiếc vui vẻ mà không dám ra mặt. Rõ ràng đảng và chính quyền đang tống tiễn chủ tịch đúng hướng kịch bản tôi đã phác thảo cho Mã Đáo, nhưng còn lâu Lê Huy Phong này mới dám tâng công.
- Mở cho tôi lon bia! Tôi nói, cúi gập xuống mặt bàn, đưa đầu cơ vào bi cái của mình.
- Ông tổng giám đốc chưa uống đã say! Cô ta nói, đặt lon bia Heineken và cái cốc lên mặt chiếc ghế nhỏ.
- Sao vậy? Tôi hỏi, rút về chỗ ngồi dành cho cơ thủ sát bên cửa sổ.
- Thường những thế bi như thế, em chỉ có chết với ông thôi! Cô gái nói, tặc lưỡi, xoay người cầm lấy cơ. Những người quen đều biết tôi chơi bi-da không tồi, thế mà chiều nay trầy trật mãi, nhưng chỉ tôi biết lý do. Mỗi lần chạy bi, tôi lại vô tình tạo thế cho đối thủ kiếm điểm. Cô nhân viên quản lý có dịp cười ngặt nghẽo mỗi khi kết thúc ván.
- Ông tổng giám đốc chơi nữa thôi? Cô ta hỏi.
Tôi chưa biết trả lời thế nào thì nhân viên văn phòng đến báo có khách đang chờ ở phòng lễ tân.
Đầu giờ sáng hôm sau, tôi lệnh cho Võ Kế, vừa chuyển qua trưởng phòng tổ chức, bảo tài vụ xuất quỹ tương tế đặt một vòng hoa lớn với dải băng lụa tím gắn hàng chữ ngân nhũ Vô cùng thương tiếc đồng chí chủ tịch Phạm Tư, đính kèm phong thư ba mươi triệu đồng, một bức trướng gấm vàng với bốn đại tự đỏ rực như lửa Hậu Thế Lưu Danh, lạc khoản đề Tổng giảm đốc Lê Huy Phong và toàn thể cán bộ công nhân viên chức TCTTH - XNK. Mã Tho hớt hải chạy đến xin góp ý. Lấy cớ chưa từng lo liệu tang sự, tôi sẵn sàng tiếp thu.
- Ai điếu như thế có nghĩa chôn rồi là hết thương tiếc, hết nhớ hết nhung! Ông ta nói. - Không được, phải chữa lại! Ông ta gào tướng lên.
- Chữa thế nào? Võ Kế nổi cáu.
- Đời đời chứ lị!… Xúc động quá, ông ta không nói nên lời, ôm mặt khóc như con trẻ vừa mất cha.
- Đời đời, hai từ đó dành riêng cho Hồ chủ tịch rồi, không được phạm thượng! Võ Kế bẻ lại.
- Vậy thì… muôn đời…!
Mã Tho chịu nhường nhưng vẫn bảo thủ.
- Tốt thôi! Chuyện không đáng tranh cãi, tôi quyết ngay, bảo Võ Kế làm theo đề xuất của Mã Tho. Muôn đời thương tiếc, muôn đời nhớ nhung đồng chí chủ tịch Phạm Tư. Thắng lợi dễ dàng và vượt cả yêu cầu, Mã Tho thỏa mãn, rút về phòng mình. Tiếp đến tôi chỉ thị làm công văn báo tin buồn đến mười ba công ty con, yêu cầu tập trung đúng ngày giờ quy định để đi phúng điếu, dự lễ truy điệu, sắc phục toàn đen và có băng tang.
- Ai khóc được có thưởng! Tôi nhấn mạnh.
- Thưa anh, không ruột rà, không yêu thương làm sao khóc được? Có lẽ vì tôi nghiêng về Mã Tho, Võ Kế đâm bực, muốn gỡ gạc.
- Tại sao không! Tôi gắt. - Đợi tới ngày đó, chống mắt lên mà coi! Đã xem phim đám tang Hồ chủ tịch chưa? Xem phim đám tang Mao chủ tịch chưa? Xem phim đám tang Kim chủ tịch chưa?…
- Rồi ạ! Võ Kế khẳng định, chặn họng thủ trưởng.
- Xem rồi sao không thấy giọt ngắn giọt dài cuồn cuộn như sông suối mùa lũ lụt hả? Viết đi!
Tôi giục, có một tí khịa khọt kèm theo.
- Có phải thành phần cấu tạo nước mắt cũng như nước đái nên cứ lắc cứ rặn là vọt ra thôi? Võ Kế ghì tay lên mặt giấy, miệng mồm tưng tửng rề rỡn.
- Có thể là thế. Nhưng đây là chuyện nghiêm túc, đừng có đùa với lửa! Tôi đe.
- Em không đùa! Anh ta nói, viết được nửa dòng lại ngẩng mặt lên.- Staline chết tận bên Nga, nghe nói ông Tố Hữu nhà ta ngồi ở Việt Nam làm thơ khóc sụt khóc sùi! Anh ta tí tởn dẫn chứng.
- Không tin hả? Tôi đổi giọng.
- Em dốt văn, nhưng quyết chắc làm thơ phải có hứng thật sự, dù có sắp chữ cũng không dễ như thợ hồ sắp gạch! Anh ta vừa níu vừa buông, vừa day vừa thả.
- Ông Stalỉne ơi, ông Staline ơi! Hỡi ơi, ông mất! Đất trời còn không? Thương cha, thương mẹ, thương chồng. Thương mình thương một thương ông thương mười. (119) Tôi đọc theo lối diễn cảm, Võ Kế chẳng cảm chút nào, đực mặt trố mắt nhìn lên.
(119) Thơ Tố Hữu.
- Đồ quỷ, sao mà thộn ra thế? Gai mắt, tôi mắng.
- Em mà có thằng con như Tố Hữu sẽ bóp mũi khi mới lọt lòng mẹ nó. Em mà có thằng chồng như Tố Hữu, thà ngủ với chó còn hơn! Anh ta đùng đùng nổi cơn thịnh nộ. - Rõ khỉ! Bài thơ là tâm sự của phụ nữ, còn ông đường đường một đấng mày râu kia mà!
- Thôi ngay cái thói xỏ xiên ấy đi, chết có ngày đấy! Từ nạt nộ, tôi hạ giọng. - Mặc ai bất hiếu bất mục bất nhân bất nghĩa, làm nhanh lên cho tôi nhờ!
Ba hôm sau, thông qua văn tế truy điệu do Phí Đu đọc, kết hợp với nhàn đàm của mấy cụ hội cựu chiến binh, lý lịch cố chủ tịch Phạm Tư sáng tỏ chút ít.
Thì ra, nghiệp nhà no cơm ấm cật nhờ nghề nuôi heo thả giống. Thuở nhỏ mãi theo chân anh nọc này đến mẹt chị nái kia, tới năm 1953, Phạm Tư mới tập tò du kích thôn. Bước qua năm 1954, tập kết ra Bắc, công tác ở một trại giam tít Sơn La, Lai Châu gì đó. Khoảng thời gian 55-56, từ trại giam, đồng chí Phạm Tư được điều về làm đội phó đội cải cách ruộng đất tại một xã thuộc huyện Giao Thủy, Nam Định. Sau khi sửa sai, đồng chí được đảng cho đi học chế tạo tên lửa tầm xa ở Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Triều Tiên, đã hân hạnh được một lần bắt tay và hai lần nhìn thấy chủ tịch Kim Nhật Thành trong cuộc duyệt binh quốc khánh hàng năm. Mười hai năm sau, đồng chí trở lại miền Nam, luôn luôn ở đơn vị hậu cần giáp giới vùng tam biên.
Mùa xuân đại thắng 1975, đồng chí có tên trong ban quân quản thị xã. Hai năm sau, đồng chí được cử giữ chức chủ tịch một huyện sát biên giới nước bạn Campuchia và có chân trong hội đồng nhân dân tỉnh. Nghe nói quá trình công tác ở địa bàn huyện, đồng chí Phạm Tư hai lần bị Fulro phục kích nhưng chẳng hề hấn. Nhờ những chiến công quả cảm ấy, khóa hội đồng kế tiếp, đồng chí được tái cơ cấu và trúng cử, rồi được đề bạt giữ chức phó chủ tịch tỉnh. Từ đó, đường công danh của Phạm Tư như diều gặp gió - chủ tịch tỉnh hai khóa và đại biểu quốc hội một nhiệm kỳ rưỡi.
Cũng qua văn tế truy điệu, đồng chí Phạm Tư là người con ưu tú của cách mạng, đã đem hết nhiệt tình phục vụ nhân dân, quyết tâm xây dựng thiên đường xã hội chủ nghĩa. Do suốt đời trung với đảng hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng, đồng chí Phạm Từ được đảng và nhà nước tặng thưởng nhiều huân huy chương cao quý và nhiều bằng khen vẻ vang, đáng kể nhất là huân chương Chống Mỹ Cứu Nước hạng Nhất, huân chương Anh Hùng Lao Động hạng Hai và huân chương Độc Lập hạng Ba.
Chưa bao giờ nghe nói đến vợ con chính thức của Phạm Tư, nhưng hôm đưa tiễn tôi thấy theo sau linh cữu nhiều người đàn bà mặc tư thôi đội mũ mấn, loại tang phục thân tộc trực hệ hoặc đồng phối. Trong lúc âm công vun nấm, đám tùy tùng quan chức hạng trung, chúng tôi ngồi chờ bái biệt, Mã Đáo than thở về cảnh chướng tai gai mắt suốt mấy hôm cử hành tang lễ. Sống không vợ, suốt đời vì nước vì dân, tới lúc chết, nhiều bà đòi xin phục tang. Buồn cười nhất, một mụ ở tận Thái Bình, khóc to nhất đám và đòi chia của trước khi di quan. Cân nhắc cả buổi, Hai Đa mới quyết giao ngôi chánh thất cho bà Đặng Thị Ga, đương kim chủ tịch hội Liên Hiệp Phụ Nữ tỉnh. Theo đại tá Trần Bá Thạp, nguyên giám đốc sở, tiền nhiệm của Tạ Thao, dù gì họ đã thông qua đảng, có ra mắt đoàn thể và đã từng ăn nằm với nhau, sống không con, tới lúc chết cả tá trai gái trong và ngoài tỉnh tranh giành trưởng tử. Lại tốn thêm một buổi nữa, Hai Đa mới quyết giao bát hương, linh ảnh cho hai người, một phó bí thư huyện đoàn, một phó giám đốc sở kế hoạch đầu tư. Bà Đặng Thị Ga không nhất trí. Tuy chẳng có tý nhau với chủ tịch Phạm Tư, bà quyết chắc chính Phạm Khánh mới là đích tử. Nhờ bà Cù Thị The và Nguyễn Thị Là hỗ trợ, cuối cùng Hai Đa nhượng bộ. Cháy nhà ra mặt chuột, đồng chí Phạm Tư không những lúc sống noi gương Hồ chủ tịch, lúc chết còn y hệt khuôn mẫu cố tổng bí thư Lê Duẫn, đầm đìa thê noa đái tử, gầm gừ chưởi bới nhau bên quan tài.
Có hai thứ suốt thời gian cử hành tang lễ không nghe nhắc tới, cả trong điếu văn, cả trong hội cựu chiến binh và ngoài quần chúng là khoa bảng và tài sản của chủ tịch. Ngoại trừ những tâm hồn thanh cao, họa hiếm ngôi sao thần đồng rơi nhằm lều cỏ, thế thường trong những đất nước nghèo nàn lạc hậu, vô sản bao giờ cũng gắn liền với vô học. Cộng Sản lấy giai cấp vô sản làm chuyên chính, vì ngu dễ lừa phỉnh, dốt dễ sai khiến, nghèo dễ xúi giục, hèn dễ căm thù nên cán bộ lãnh đạo cao cấp thiếu văn hóa là chuyện đương nhiên.
Nhưng với lịch sử lập quốc bốn ngàn năm văn hiến, nhân dân ta coi trọng học vấn, đề cao lễ nghĩa, ước mơ một nền sĩ trị. (120) Biết đó là truyền thống, là đạo lý, là phong hóa dân tộc, Cộng Sản Việt Nam thường chơi gian ở cửa này. Ngoài việc thành lập một bộ giáo dục rất vô giáo dục, và khoảng sáu mươi sở chuyên ngành ở các tỉnh thành rất kém văn hóa, nhưng có tài phụ họa, khôn khéo tạo ra thành tích, giỏi báo cáo láo, cấp văn bằng bừa bãi. Bộ và sở còn phổi họp bày đặt hệ bố túc, chuyên tu, tại chức để các trường đại học, cao đắng, trung học phổ thông có lý do chính đáng bình dân học vụ hóa các loại văn bằng.
(120) Tước hữu ngũ, sĩ cư kỳ liệt. Dân hữu tứ, sĩ vi chi tiên - Thơ Nguyễn Công Trứ (1778 - 1858): Tước vị có năm bậc (công-hầu-bá-tử-nam), kẻ có học ở vị trí quan trọng. Dân có bốn hạng (sĩ-nông-công-thương), kẻ có học ở vị trí đầu tiên.
Trên hành tinh này, không nơi nào có nhiều vua và quan học giỏi và đa năng như ở nước ta. Trên hành tinh này không nơi nào hội tụ những sắc tộc cực kỳ thông minh như ở nước ta, bất luận nông thôn hay thành thị, bất luận thủ đô hay huyện đảo, bất luận Kinh hay Thượng, hễ thi là đỗ, và đỗ từ 95 đến 100%, nếu ứng vào giai cấp vô sản chuyên chính thì còn siêu hơn nữa, một năm ba lớp vẫn ngon ơ liền liền. Vậy nên lý lịch anh hùng như cỡ chủ tịch Phạm Tư bất tất phải lý tới trường lớp, cử nhân, tiến sĩ… muốn học vị nào thì cứ trương lên.
Còn tài sản? Hồ chủ tịch thường lấy tiêu chí của thánh nhân Đông phương để rèn cán chỉnh quân, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Theo đó, chân dung người Cộng Sản được vẽ vời như một chính nhân quân tử an bần lạc đạo:
Nhưng bản chất của họ là gì? Ti tiện.
Ham muốn của họ là gì? Cướp bóc.
Ước mơ của họ là gì? Nuốt lấy cái thứ móc từ cổ họng kẻ khác.
Mao Trạch Đông đã trắng trợn khẳng định như thế. Nếu không cho cướp, lấy ai theo đảng? Nếu không cho ăn bẩn, lấy ai trung thành. Đã gian thì phải ngoan - Nói như Mã Tho, đảng chỉ trị cái tội không biết chùi mép. Nên chi bàn dân thiên hạ, nếu không may bội thực sự cố xã hội chủ nghĩa thì phải coi chừng.
Vì sao? Khi mâu thuẫn quyền lợi bản thân, các đồng chí Cộng Sản thẳng cánh khử nhau. Nhưng kẻ ngoại đạo chớ vội tí tởn bi bo. Bứt dây động rừng, họ tự động liên thông bảo vệ nhau, sẵn sàng xử dụng bạo lực khóa khẩu những ai bép xép. Bọn nhà văn nhà báo thường bị tai lây vạ gió vì không hiểu quy luật đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu này. Vậy viết lên trang sử oai hùng của giai cấp lãnh đạo chuyên chính vô sản như cỡ chủ tịch Phạm Tư đố ai dám đính kê tài sản khoản này mục kia.
Suốt thời gian cử hành tang lễ, trưởng ban Phí Đu khá vất vả, nghe nói ông ta căng thẳng đến độ bỏ ăn bỏ ngủ, nhưng cũng đáng đồng tiền bát gạo. Phạm Tư đột ngột qua đời, có ai dám tranh cái ghế chủ tịch với Hai Đa đâu! Honoré de Balzac, (121) một nhà văn Pháp, đã nói: Lịch sử rao giảng là lịch sử giả dối, lịch sử đích thực là lịch sử trong bóng tối! Suốt dọc đường theo sau linh cữu, tôi cứ dai dẳng suy nghĩ những thực giả bao quanh cái chết của chủ tịch Phạm Tư.
(121) Honoré de Balzac (1799-1850): Là nhà văn lớn của Pháp nửa đầu thế kỷ 19, bậc thầy của tiểu thuyết hiện thực, ông là tác giả bộ tiểu thuyết đồ sộ La Comédie Humaine - Tấn Trò Đời.
Mặt trời lên rồi, hoan hô. - Ừ, hoan hô! Màn đêm buông xuống, đả đảo. - Ừ, đả đảo!
Xưa nay thế gian phù thịnh chứ ai phù suy.
Nếu được ngồi vào chiếc ghế ủy viên công tố ở một đất nước dân chủ thật sự, tôi sẽ gọi Hai Đa ra vành móng ngựa, gọi đích danh là chánh phạm, còn ngộ hay cố sát thỉ tùy quyết định của bồi thẩm đoàn. Ngay khi ông ta đánh hơi và can thiệp vào cuộc ăn chơi trác táng ở phòng Vip số 1 nhà hàng Karaoke Adam, tôi đã lờ mờ thấy có điều hôn ám, nhưng không ngờ vận dụng sâu rộng tới mức ấy! Nghe quân hầu chọc thèm, ông ta truy bức tôi về cô bé Tường Vi. Nhằm đánh lạc mục tiêu, bí bức tôi phải xùy Bích Thảo ra chắn đỡ chào mời. Tôi nhớ mình chỉ hấp hé chừng đó, vững tin và dừng lại, chẳng cần cầu cứu tới một nhân vật quyền thế nào chia lửa. Vậy do đâu mà ngài chủ tịch Phạm Tư có số phone của cô ta? Bên vành móng ngựa, ngoài Bích Thảo còn phải có Diêu Sểnh đứng cạnh Hai Đa. Thằng lái thương Tàu lai đó bấy lâu ghen ăn tức ở, muốn xúc xiểm lãnh đạo hại tôi, nay gặp dịp dùng ngay ngón nghề thả tép câu tôm. Chủ tịch Phạm Tư thiếu gì phụ gia bổ dưỡng tăng cường, phục hồi sinh lực trước và sau hoang phí dục lạc, hà cớ chi còn săn lùng, cung phụng biệt dược với nhau thai sản xuất tít tận bên Thái bên Tàu?
Nghĩ cho cùng, cả hai đương sự tuy cách thức khác nhau nhưng mục đích không ngoài quyền lợi cá nhân và đã vô tình góp phần giết chủ. Biết vậy nhưng còn lâu tôi mới dám tố giác, hoặc san xẻ với ai chuyện này, kể cả Hoàng Văn Luân và Mai Thị Dung.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Christiane

Re: Phiên Bản Tình Yêu (Vũ Biện Điền)

Postby bevanng » 04 May 2016

- A.47
Dư chấn rền rĩ. Lẩn trốn vào công việc. Nghiệt chướng vẫn dai dẳng.


Tống tiễn được Bích Thảo khỏi vùng đất Tây Nguyên, sau cái tang lễ huy hoàng của chủ tịch Phạm Tư, tôi tin chắc mình thoát khỏi tai bay vạ gió, nhưng dư chấn vẫn rền rĩ nhức buốt tim óc. Vợ con ở xa, ngôi nhà vốn vắng vẻ nay quạnh hiu hơn nữa. Bạn bè giờ cũng dè chừng, gìn giữ lời ăn tiếng nói. Chứng mất ngủ trở lại, đêm đêm tôi có cảm tưởng như một con dơi cô độc treo thân giữa hang động. Rất nhiều lần bấm máy, định gọi cho Luân, cho Khánh, cho Kỳ và cả cho Võ Kế, nhưng ngay sau đó thì thôi ngay. Mỗi buổi tan tầm, tôi thường rong xe theo các con đường vắng trong thị xã, những mong gặp được Miki. Đôi khi muốn đập phá, phỉ nhổ với Đỗ Minh ở một nhà hàng nào đó nhưng tôi không đủ can đảm nối kết!… Tất cả như muốn bỏ tôi, nôn nả cho kịp vận hội. Đã thế, Đào Thị Liên tỏ ra nghễnh ngãng, nguội lạnh. Từ khi thú nhận, chị ta không tự nhiên nữa, đi đứng ké né, nói năng hút hớt, hết giờ thì về ngay. Mạng cấp nước đã dẫn khắp vườn, ngay việc tưới cây mỗi tuần ba lượt mở van, chị ta cũng quên. Nhiều chậu cảnh đáng ra trổ hoa từ lâu nay cứ trơ cành bạc lá. Nhiều buổi tối, vào giờ lên giường ngủ, tôi muốn liều lĩnh gọi điện cho Tường Vi, kêu xin hãy ra khỏi nhà và cùng tôi lang thang dưới trăng sao. Nhưng tự siết lòng mình, dầu thế nào tôi cùng phải để yên cho bé cúi xuống sách vở.
Tổng công ty sau khi triển khai quy chế tản quyền để thu hồi vốn, có biến chuyển lớn. Cả núi việc trước tập trung ở tổng công ty nay phân thành những ngọn đồi vệ tinh. Ban đầu các giám đốc lo lắng, nhưng với kinh nghiệm tích lũy, họ hăng hái xông vào trận mạc. Cơ chế thay đổi kéo theo sinh hoạt, ngoài những hội họp định kỳ, dạo này tôi ít gặp gỡ các giám đốc, chè chén, bù khú cũng có phần lơi lỏng. Nhưng với cương vị tổng giám đốc, tôi không quên trách nhiệm quản lý ở tầm vĩ mô - định hướng kinh doanh, hạch toán kinh tế khách quan và năng lực nhân sự đầu tàu. Trong ba nét cơ bản đó, tôi coi trọng nhân sự, và vẫn tinh tế theo dõi từng người.
Phạm Khánh, sau khi rinh được linh ảnh chủ tịch Phạm Tư dẫn đầu đám rước trước mắt lãnh đạo tỉnh, có nhiều đổi thay đáng kể - mua nhà mới, sắm xe hơi, ăn mặc chỉn chu hơn, nói năng từ tốn hơn, muốn phát triển công ty to lớn hơn và nuôi tham vọng leo cao hơn.
Lê Viết Kỳ vẫn duy trì cung ứng gỗ bi cho các tỉnh phía nam, vẫn lai rai qua Campuchia. Anh ta mua trạm suốt lộ trình, không mở bãi kho lộ thiên, chuyển thẳng từ rừng khai thác về nơi nhận hàng. Đó là sáng kiến phù hợp với tình thế, nhưng vì không có Mơ, anh ta chỉ làm ăn cầm chừng.
Mai Trung và Tô Thoan gặp khó khăn trong việc tìm nguyên liệu cho ván lạng xuất khẩu, loại gỗ dẻo mềm, xốp, có ý muốn bỏ cuộc. Tôi khuyên rút về chế biến ván ép cỡ nhỏ, tận dụng mạt cưa ở xí nghiệp gỗ xẻ của Kỳ và tìm thêm thị trường nội địa.
Các cửa hàng Điện, Máy và Vật Liệu Xây Dựng tôi khuyên hai vị giám đốc mạnh dạn vay vốn ngân hàng, không ngừng hiện đại hóa nhập xuất, mở rộng mạng lưới về các huyện với các mặt hàng đã bão hòa ở nội thị. Công ty May Gia Công do Phí Cuông điều hành ngày một lụn bại, tôi phó mặc cho chú cháu nhà họ. Thực tình, tôi chuẩn bị nó đổ, nhưng tránh lây lan.
Dạo này Đỗ Minh không còn lai vãng, Mã Tho cũng bớt thập thò hí húi. Nhìn chung, tổng công ty vẫn ổn định phát triển, công nhân vẫn đảm bảo công ăn việc làm, các giám đốc bận rộn nhưng ai ai cũng phấn khởi. Hình như chỉ mình tôi không bình yên để hòa nhập. Mỗi buổi sáng, tôi gắng lao vào các công việc nhàm chán ở tổng công ty. Trong giao tế, ứng xử với mọi người tôi trở nên khó tính, lạnh lùng, đôi khi vô cớ bẳn gắt. Mai Thị Dung là nạn nhân cho thứ tính khí thất thường ấy nhưng chưa bao giờ cô ta để lộ than oán.
Để khỏa lấp và thoát khỏi tâm trạng bực dọc u ám, sau một đêm gần như thức trắng, sáng dậy tôi tìm đến một nhà thầu xây dựng, bàn bạc và phác thảo họp đồng. Ban đầu nhà thầu rất ngại xây một ngôi nhà mà ông ta cho là đi ngược xu thế thời đại. Cách nhìn ấy có xúc phạm ít nhiều đến tôi. Nhưng không việc gì tranh cãi, tôi động viên khắc phục khó khăn. Ông ta than không tìm ra đốc công mà giao việc. Tôi đề nghị nên về miền xuôi tham quan, tìm thợ. Vẫn chưa thuyết phục, cuối cùng tôi tăng tiền công mười lăm phần trăm, ông ta mới vui vẻ nhận lời. Thỏa thuận xong, tôi đưa nhà thầu đến gặp Cẩm Bình. Tuy đã thống nhất và báo trước, cô ta vẫn dùng dằng vào vai chủ, lại thêm Tường Vi cứ vúc vắc vục vặc.
- Cậu muốn xây thế nào tùy ý. Xin đừng đùn đẩy bắt tôi làm chủ cơ ngơi, tôi chưa sẵn sàng vào vai ấy!
Cô ta gọi tôi ra hiên, đồ lại ý mình.
- Đã chủ đất thì phải chủ nhà. Xưa nay và bất kỳ ở đâu đều thế cả. Chị xem có cách nào tránh được không?
Tôi không cho cô ta cơ hội thoái thác.
Sau cùng, cả ba ngồi vào bàn làm việc. Chúng tôi chọn giao thầu trọn gói, chìa khóa trao tay, thực hiện đúng thời hạn có thưởng. Thỏa thuận xong, tôi đưa nhà thầu ra vườn, giao mặt bằng, định mốc khởi điểm nền móng, lưu ý một số yêu cầu không có trong thiết kế. Nhà thầu ra về, tôi vào nhà, viếng linh ảnh Cẩm Khuê.
Được một lúc, Cẩm Bình mang nước lên. Như thường lệ, tôi ngồi lại hỏi thăm cô ta về bệnh tình, về đời sống hằng ngày, về học hành của Tường Vi.
- Chị thấy chỗ nào chưa ổn cứ bảo để tôi cho chỉnh sửa! Nhìn xuống bản thiết kế ngôi nhà, tôi nói.
- Quả thật, đã cố làm quen nhưng tôi cứ ngờm ngợp thế nào! Cô ta than, bộ tịch bần thần.
- Tại chị không chịu ngồi đúng vị trí! Tôi nói.
Cô ta gượng cười.
Ra khỏi nhà Cẩm Bình, tôi chợt nhớ bấy nay đến bữa Liên cứ hỏi Miki. Lần đầu tôi cho hay nó bị đau bụng nên gởi thú y chạy chữa. Lần thứ hai tôi bịa đặt nó đi theo một con chó cái ở xóm trên, vài ba hôm có ghé về nhưng ăn xong lại đi. Lần thứ ba tôi phịa chuyện do yêu cầu của Ma Ngát nên đã đưa nó lên rẫy cà phê, hỗ trợ vợ con anh ta phòng chống kẻ cắp. Chưa bao giờ Liên hồ nghi nhưng tôi còn dựng chuyện được bao lâu!
Hôm nay chủ nhật, cũng không hẹn hò với ai, còn chút thời gian rảnh tôi quyết tâm mở rộng tìm kiếm Miki. Mở đầu, tôi dong xe theo con đường ngang qua nhà cố chủ tịch Phạm Tư, rúc vào mấy con hẻm. Không có! Tôi tuốt về khu thương mãi tỉnh, gởi xe, len lách vào chợ, đặc biệt để mắt đến hàng thịt, hàng cá và mấy bãi rác. Không có! Tôi vòng xuống xóm lò mổ, ghé mấy quán thịt cầy hỏi thăm, bắn tiếng xin chuộc. Không có! Tôi lên phi trường bỏ hoang, thốc tới khu quy hoạch lò gạch. Không có! Tôi mở rộng vùng ngoại ô phía bắc đến tận nghĩa trang, vẫn không có!
Lần mò làm sao tôi lại vào đúng nhà Đỗ Minh. Anh ta vừa đi bán vé số về, người teo như củi khô, mồ hôi giọt ngắn giọt dài. Trót vào, tôi giấu chuyện đi tìm chó, mở ra cuộc viếng thăm. Đang hớn hở đón khách, chợt phát hiện bàn ghế bẩn, anh ta cởi phắt chiếc áo đang mặc, vừa lau dọn vừa cằn nhằn vợ con ăn ở không ngăn nắp, sinh hoạt bừa bãi. Tôi chỉnh ghế trên mặt nền lỗ chồ, ngồi xuống, bóc thuốc mời chủ nhà. Anh ta rút một điếu, quay vào trong rống gọi sai bảo vợ con. Tôi gạt chuyện trà nước, hỏi thăm sức khỏe rồi đề nghị anh ta trở lại tổng công ty làm việc.
- Mã Tho, Võ Kế còn đó không? Anh ta hỏi, ngồi xuống chiếc ghế bên kia.
- Còn. Nhưng dạo này Mã Tho chỉ ki bo về hưu, còn Võ Kế đã thay đổi chút ít! Tôi nói.
- Vậy thì cám ơn, nhưng tôi đành phụ lòng ông tổng giám đốc! Anh ta nói.
- Sợ a? Tôi lớn giọng, có ý khích.
- Chỉ tổ rách việc, chẳng lợi cho ai! Anh ta đứng bật dậy, ngơm ngớp nhìn vào trong.- Mẹ nó ơi, mang cho tôi chai rượu thuốc với hai cái ly cơ cao chân!
Anh gọi lớn, dáo dác ngồi trở lại, dang hai tay về trước như khoe mẽ bộ xương của mình. Vợ anh mang ấm tách lên, quần ống thấp ống cao. Khi nhận ra tôi, chị cúi chào rồi lui ngay. Sự nhầm lẫn của vợ, lại thêm ly tách cấu bẩn khiến anh phát bẳn… Vừa rót nước ra, anh đổ hắt, lùa tất cả vào khay, đưa lui sau.
- Nắng gió đã quen, thu nhập của tôi bây giờ còn hơn đồng lương kỹ sư hợp đồng! Anh nói, lúc trở lại bàn. - Lại nữa, dại gì không ăn mà chịu, Liên Xô tan rã rồi, tôi đồ chừng sang năm đến lượt Trung Quốc, sau đó thì Việt Nam, Lào, Campuchia! Anh ta đầy tin tưởng.
- Nói năng hon cả thánh! Tôi bông phèng.
- Ông tổng giám đốc không muốn có cái ngày ấy, nhưng vạn sự bao giờ cũng tuân theo quy luật khách quan của nó! Anh ta nói.
Bất chợt thằng bé từ ngoài sân chạy xộc vào, trên tay một cái nịt da màu be. Thấy khách lạ, nó chững lại.
- Chú Lê Huy Phong, tổng giám đốc. Chào khách đi con! Đỗ Minh giới thiệu và nhắc nhở con.
Thằng bé quay lại phía tôi, cúi đầu lý nhí.
- Xuống nhà bảo mẹ mày thay bình nước mới cho bố, trà lá cái kiểu gì mà như nước đái bò! Anh ta cằn nhằn, xua tay hối thúc con.
Thằng bé dợm bước, tôi chận nó lại.
- Cho chú xem cái vòng da trên tay cháu! Tôi nói.
Thằng bé đưa cái nịt về phía tôi bằng cả hai tay.
Cha nó nhìn theo không hiểu chuyện gì. Tôi rước lấy săm soi. Tuy sây sát và lấm lem, hai chữ cái MK liền kề nhau còn rõ nét. Dây tròng cổ của Miki! Tôi quyết chắc.
- Do đâu cháu có được cái đai này? Tôi hỏi.
Đỗ Minh nhìn con với ánh mắt e ngại.
- Cháu nhặt ở bãi rác, cháu thường theo bọn nhôm nhựa tới đó… Nó nói.
- Vùng này có ai làm nghề mổ chó không? Tôi day lại hỏi riêng Đỗ Minh.
- Có! Anh ta nói. - Nhưng ông tổng giám đốc thiếu gì thịt ngon thịt lành mà phải xài thứ trời ơi đó!
Anh ta đứng lên, lóng nhóng nhìn về phía bếp. Tôi vờ không nghe, quay sang thằng bé.
- Cháu có bán không? Tôi hỏi, đưa cao cái đai.
- Không ạ, nhà cháu không nuôi chó, chú thích cứ lấy! Nó nói. Đỗ Minh ngồi trở lại, gật đầu tán thành.
- Thôi, không nói mua bán nữa, lần đầu gặp nhau chú gởi chút tiền quà cho cháu!
Đặt cái nịt chó lên mặt bàn, tôi mở ví. Đỗ Minh đứng dậy đưa tay chặn không cho con nhận tiền. Nhét tờ giấy bạc một trăm ngàn vào túi áo thằng bé, vói lấy cái nịt, tôi vỗ vai tạm biệt anh ta.
Buổi trưa tôi về nhà hơi muộn. Liên vẫn ngồi chờ ở hiên, nón lá và túi xách đã máng sẵn vào xe. Thoáng nhìn, tôi hơi lạ, biểu hiện này là chuyện bất thường.
- Chị chưa về? Tôi hỏi chào chiếu lệ.
- Em có việc cần thưa với cậu! Chị ta nói, đứng dậy đi vào trong. Sao không nói ngay đi, việc gì nhỉ? Tôi phân vân nhìn theo, nhận ra chị ta xanh xao hơn, những nốt tàn nhang ở hai gò má kết thành một mảng như vết nám. Tôi đưa xe thẳng vào ga-ra. Khi quay ra, nhân tiện tôi mắc cái đai da lên nóc chuồng Miki, rồi đi dọc hành lang, ngang qua bếp.
- Cậu đã ăn uống ở đâu chưa? Chị ta hỏi vọng ra.
- Chưa! Tôi nói, dừng lại ngưỡng cửa.
Liên đang hâm canh, đầu quấn khăn vải tím, mình mang tạp dề trắng. Thấy chị ta bận, tôi lên lầu thay áo xống rồi trở xuống.
- Em muốn thưa với cậu cho em thôi việc kể từ hôm nay! Tôi vừa ngồi, chị ta nói, xới cơm vào chén.
- Gần đây do công việc đột xuất, tiệc tùng liên miên, tôi đi về không đúng giờ giấc, bỏ bê cơm nước!
Thấy mình vô tình gây phiền hà cho chị ta, tôi tìm cớ nói đỡ. Nhưng không ăn nhập vào đâu, chị ta vẫn đắm chìm trong ý định của mình.
- Trước đây em đã có lần xin nhưng cậu không thuận khiến chầy rầy mãi, nay thì không thể nữa.
Chị ta nói, run run để rơi cái vá xuống mặt bàn.
- Vậy ai nấu cho tôi ăn, ai giặt ủi cho tôi mặc, ai quét trước dọn sau cho tôi yên tâm mỗi ngày hai buổi đến tổng công ty? Tổng giám đốc của một tổng công ty, chị tưởng tôi rảnh lắm a!
Tôi vừa kể vừa than, vẫn như nước đổ lá khoai.
- Lâu nay mợ Mơ thường đi vắng, Miki không ở nhà, khách vào ra thưa thớt, việc nhà chẳng có bao nhiêu, cơm nước cậu đặt ở tiệm đến bữa người ta mang tới, áo quần dơ đã có máy giặt, bụi bặm có máy hút, những việc khác nếu cậu muốn thì em giới thiệu người chuyên dịch vụ! Chị ta nói như có soạn sẵn.
- Cám ơn! Nhưng chị đã nghĩ kỹ chưa? Mơ hồ có chuyện bức xúc, tôi cố ý hòa hoãn, làm dịu tình huống.
- Dạ, rồi! Chị đặt chém cơm xuống trước mặt tôi.
- Có thể cho tôi biết lý do được không? Tôi hỏi, dịch chuyển thế ngồi, ưỡn thẳng người lên. Chị ta đứng im lặng, tôi nói tiếp. - Có phải chị đã tìm được chỗ tốt hơn? Chị ta vẫn im lặng. - Hay muốn về quê? Tôi gợi ý.
Chị ta cắn chặt môi, cả người như rúm lại. Tôi kéo ghế mời chị ta không ngồi.
- Có phải còn để bụng chuyện cho người lạ vào nhà, và tôi đã nặng lời? Tôi thấy cần rõ ngọn ngành. Chị ta lắc đầu, tháo khăn cầm tay, vẫn gằm gằm. - Không có lý do chính đáng, tôi khó đồng ý cho chị thôi việc!
Ngay lúc đó, Liên quay lưng lao đi nhưng tới cửa thì dừng lại, gập người như đột ngột đau thắt ruột gan.
Tôi bước đến đứng bên, chưa biết làm gì, chị ta vụt quay vào, chống tay xuống bàn, bật khóc. Hơn một năm nay tính khí Liên thay đổi, nhưng tôi không ngờ đến mức ấy. Tôi thầm nghĩ, vẫn chưa định liệu thế nào.
- Hãy đánh em đi! Bất chợt chị ta kêu xin, mặt tím tái, mắt môi nhợt nhạt.
- Vì sao? Tôi gắt.
- Thằng cha ấy lại đến gạ gẫm… Chị ta nói.
- Thằng cha nào? Tôi ú ớ. Chị ta lắc đầu, đưa tay gạt nước mắt.
- Không lẽ Bùi Phước, Hồ Minh Dũng a? Tôi hỏi.
- Em chưa bao giờ biết tên chúng, hắn thấp, da trắng, nói giọng Nghệ An! Chị ta chỉ rõ.
Theo mô tả đó, tôi quyết hắn là Bùi Phước.
Phạm Tư chết rồi, Bích Thảo bay xa, Tường Vi đã trở lại trường, mọi chuyện gần như đã khuất lấp, chúng muốn gì mà còn giở giói đây? Tôi bực đến thừ cả người.
- Lần này hắn trả chị bao nhiêu?
- Có nhỉnh hơn trước chút ít, nhưng việc em làm bây giờ, cậu chớ nghĩ… vì tiền! Chị ta nói.
- Thế thì? Tôi nghẹn thắt.
- Hôm nay em trình báo, nhưng cậu chớ tưởng con này hối cải, nếu hắn trở lại nữa, chắc em cũng không từ.
Lúc tôi há hốc đứng lặng, chị ta buông thả lòng dạ.
- Sao vậy? Nghe lạ, tôi hỏi, đưa tới một chiếc ghế, đẩy chị ta ngồi xuống. - Nói đi! Tôi giục.
Đáp lại, chị ta khóc to hơn, úp mặt vào hai tay. Tôi rót cho chị ta cốc nước, ép uống rồi dãn xa, im lặng chờ.
- Tại vì… Hình như em đã nói rồi… Càng ngày cậu càng giống ảnh mà em thì… Chị ta tiếp tục khóc.
Tôi giật mình. - Giống thì đã sao? Biết chị ta ví von mình với ai, tôi giả bộ vô cảm, dửng dưng.
- Đối với cậu thì không sao, nhưng bản thân em chuyện đó hết sức bức thiết, hết sức khổ sở! Chị ta nói, nhìn lên, nhãn cầu tứa đầy gân máu.
- Trên mặt đất này rất nhiều người giống nhau! Tôi cô nói tiếp. - Nhưng chỉ là giống thôi, còn sống thay cuộc sống cho nhau thì không thể! Tôi phân giải.
- Sao không? Nhưng em có quyền gì bắt ép cậu, chỉ khổ sao lòng dạ mình cứ se thắt, cứ réo thúc! Chị ta nung nảy ỡm ờ, rồi đột ngột hạ thấp giọng.
- Lạ? Đã một lần qua ngõ, nay sao cứ ngại đường đi! Chị ta chanh chua, khó chịu.
- Không nên bóng gió quanh co! Tôi nhắc nhở.
- Nói vậy mà cậu không hiểu a? Chị ta gắt, gần như nạt nộ.
- Vâng! Tôi bực.
- Là thế này, không có mợ Mơ ở nhà, đêm nào cậu cũng đi. Nghe đến đó, tôi nhìn cười. - Đừng tưởng em ngu, không biết gì…
- Đúng thế, nhưng chuyện riêng của tôi, không việc gì chị phải bận tâm! Tôi nhìn nhận, cảnh cáo.
- Có thể như vậy, nhưng cậu với em đều là… Tại sao một tháng ba mươi ngày, cậu không hề đoái tưởng…
Liên nghẹn giọng, nhưng tôi cũng hiểu điều chị ta muốn đòi hỏi.
- Cái thời ấy đã qua lâu rồi mà! Tôi lập lại điều từng nói với chị ta. - Đẹp đẽ gì đâu, rác rưởi cả, cho nó trôi đi!…
- Nhưng với em, nó có trôi được đâu! Chị ta nói, thần sắc có phần tươi tỉnh trở lại.
- Trời ơi!… Tôi điên tiết, nhưng chị ta phó mặc
- Cậu biết không, dầu đã cố cưỡng, sáng nào dọn phòng mà em không chui vào giường cậu một lúc, nằm nghe hơi ấm còn lại dưới chăn gối, rạo rực ước mơ… Tới khi nhận biết mình ảo tưởng, lịm tàn trong nguội lạnh, em bừng tỉnh. Rồi thì căm hận… Rồi em phải…
- Rõ rồi! Tôi nạt lớn, ngắt lời chị ta. - Cám ơn đã thành thật cho hay. Từ nay chuyện giường chiếu mùng màn tự tôi sẽ thu xếp lấy. Nhưng thôi việc hay không, chị phải đợi nhà tôi về!
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Christiane

Re: Phiên Bản Tình Yêu (Vũ Biện Điền)

Postby bevanng » 05 May 2016

- A.48
Tìm vui thấy buồn. Chới với chơi vơi. Vươn lên từ hố lạnh sâu hút.


Buổi chiều, tan tầm tôi ghé tiệm cơm ngoài phố ăn qua loa. Khi ra đến xe, chợt nghĩ giờ này có thể bà Liên còn lần khân lẩn quẩn sân trước vườn sau chờ mình, thay vì về nhà, tôi đổi ý. Đứng nhìn trời một lúc, tôi gọi Phạm Khánh hẹn gặp ở Family Karaoke Thanh Xuân. Tuy cự ly và lộ trình khác nhau, chúng tôi vào ngõ cùng lúc. Lâu ngày không lai vãng, vừa thấy mặt, cô chủ nũng nịu hờn trách. Tôi nhắc lời chào hàng trước đây, đòi cô chủ thu xếp cho tôi với nữ tiếp viên hát hay nhót giỏi ở riêng một phòng.
- Rất hân hạnh! Nhưng thưa anh, em nó tên gì ạ? Cô ta hỏi.
- Hồng Nhung! Tôi nói.
Cô ta gật đầu, ngún nguẩy đi trước dẫn đường. Tự dưng tôi hồi hộp, biết đâu lại là Tường Vi? Lạ? Muốn biết thực hư, sao sợ đối mặt! Đến khúc gấp hành lang, một tốp tiếp viên từ phòng trang điểm đi ra, nức mùi nước hoa, rặt một giuộc mắt xanh môi đỏ. Nhận biết người quen, Khánh dừng lại với mấy em, ra hiệu tôi đi tiếp. Theo cô chủ, tôi lên lầu ba, vào một phòng nhỏ kín bưng, cảm giác được cách ly, được chứa chan trong ánh đèn hồng, được hòa quyện trong không khí mát dịu. Giữa phòng một bộ xô pha hai ghế màu cánh gián, xoay hướng về một tivi màn hình cỡ lớn. Phía sau cùng, dưới bức tranh thủy mặc vẽ phong cảnh, chiếc giường đôi trang trí chẳng khác khuê phòng mệnh phụ phu nhân.
Sau khi chỉnh máy điều hòa, cô chủ hỏi tôi về thực ẩm đơn rồi lui ngay. Tôi ngồi xuống bên chiếc bàn nhỏ lần giở catalogue, (122) lo lắng, bồn chồn. Biết đâu? Tôi chợt nghĩ về Tường Vi, rồi tự giận mình nghĩ linh tinh. Mấy phút sau, cửa mở, một cô gái bước vào. Không phải Tường Vi! Tôi mừng, nhưng không để lộ cảm xúc.
(122) Catalogue, tiếng Pháp: Mục lục, bản tổng kê.
- Em xin lỗi đã để ông anh chờ hơi lâu! Cô ta nói, quay lại rước lấy cái khay nhỏ từ ngoài đưa vào.
- Không sao! Tôi nói, gấp cuốn catalogue. - Nghe nói em ở Huế mới vào? Tôi hỏi chào.
- Vâng ạ! Cô ta mở tủ lạnh, bày các thứ lên bàn.
- Sao em không nói giọng Huế? Tôi thắc mắc.
Cô ta ngừng tay, nhìn tôi một lúc, ánh mắt u tối.
- Anh không tin ư? Rồi cô ta gượng cười, hơi ngượng, đôi môi mỏng phớt màu son đỏ.
- Đương nhiên…! Tôi ngờ ngợ.
- Cha em người Huế, tập kết ra Bắc, mẹ em người Hà Tây, sinh em ở Hà Nội. Đến năm 80, em mười tuổi, gia đình trở lại cố đô.
Cô gái giãi bày như khai lý lịch với cơ quan công quyền, đặt các thứ xuống bàn, nghểnh cổ lùa tóc qua vai. Tôi níu cô ta ngồi xuống chung ghế với mình.
- Sống ở quê cha, em đi học, mỗi khi chuyện trò bạn bè nghe không quen tiếng cứ nhùng nhằng! Hồng Nhung tiếp tục giãi bày. - Để dễ hòa đồng, em muốn thay đổi nhưng cha bảo giọng Huế khó nhái lắm, không khéo hóa ra người Nghệ-Tĩnh mất, nên thôi.
Vậy là hai năm rõ mười, không có gì dính dáng tới Tường Vi! Lần nữa, tôi mừng thầm, giở lại tập catalogue. Tôi tìm Buồn Tàn Thu của Đặng Thế Phong. Không có! Tìm Đố Ai của Phạm Duy. (123) Không có! Tôi tìm Bến Xuân của Văn Cao. Cũng không có! Lừng khừng một lúc, tôi tìm Diễm Xưa của Trịnh Công Sơn. (124) Có, nhưng không phải Khánh Ly biểu diễn.
(123) Phạm Duy (1921), tên thật Phạm Duy Cẩn, nhạc sĩ, ca sĩ, được coi là một nhạc sĩ lớn nhất của nền tân nhạc VN. Sau 1975, Phạm Duy định cư ở Mỹ, nhạc của ông bị cấm phổ biến trong nước, nhưng dân chúng vẫn lưu hành chui ở một số tụ điểm karaoke, hoặc băng cassettes.
(124) Trịnh Công Sơn (1939-2001) là một trong số nhạc sĩ lớn nhất của tân nhạc Việt Nam. Trong sự nghiệp âm nhạc, ông đã viết hơn 600 tác phẩm, phần lớn là tình ca. Nhiều ca khúc của ông coi như thông điệp phản chiến vào thời kỳ chiến tranh Việt Nam (1954-1975), do đó bị chính quyền Việt Nam Cộng Hòa và cả chính quyền Cộng sản sau này ngăn cấm. Người thành công nhất thể hiện nhạc của Trịnh Công Sơn là nữ danh ca Khánh Ly.
- Em có thích bài này không? Tôi hỏi.
- Lặng lẽ nơi này! Cô gái ghé mắt vào, khẽ đọc rồi bấm mã số lên bộ điều khiển từ xa. Màn ảnh hiện hình một nữ ca sĩ xinh xắn và từng câu chữ cỡ to. Tình yêu mật ngọt, mật ngọt trên môi. Tình yêu mật đắng, mật đắng trong đời - Chúng tôi cùng hát - Tình yêu như biển, biển rộng hai vai, biển rộng hai vai. Tình yêu như biển, biển hẹp tay người, biển hẹp tay người lạc lối… Hát đến đây chợt nhớ Cẩm Khuê, tôi im bặt, nghe đau thắt ruột gan. Cô gái vẫn tiếp tục… Em đi về nơi ấy, nơi đâu nơi đâu, sông cạn đá mòn. Trăng treo đầu ngọn sóng, tan theo tan theo chút tình xa vắng… Đi mua vui, tự dưng rước lấy buồn, tôi cảm thấy càng hát càng se thắt, nhưng không lẽ bỏ về sớm. Cô gái không nhận ra hoặc giả bộ không biết, mải mê hát rồi ân cần nâng ly mời khách. Tôi uống cạn, Cô ta chỉ nhắp chiếu lệ.
- Em mới đi khách về phải không?
Tôi hỏi, kiếm cớ.
- Anh thấy nhàu nát lắm sao? Cô bé đứng dậy, nhăn nhó nhìn xuống người mình, se lại dây treo, hây hẩy bờ vai, he hé đôi gò bồng đảo.
- Không phải các thứ đó, cái mùi Martini (125) kia kìa! Tôi nói, nhướng mũi, nhỉnh môi.
(125) Martini: một thương hiệu rượu nổi tiếng của Italia.
- Anh tinh thật! Nhưng tận ngày hôm qua cơ, mà chỉ một cốc nhỏ thôi, giờ em vừa tắm xong và từ nhà mình tới thẳng đây! Cô gái nói.
Chỉ nên tin năm mười phần trăm, nhưng không sao, tôi chuyển qua một ghế khác, xa màn hình hơn. Cô gái mang catalogue theo rồi ngồi ghé lên tay vịn.
- Đến lượt em!
Tôi mời, quàng tay ôm eo cô gái, nắn nót, đong đưa. Đang ở thế ngấp ngỏng, cô ta ngã theo, hai tay vẫn nắm cứng catalogue. Chúng tôi bỗ bã mơn trớn giỡn đùa. Tới khi ôm chầm lấy nhau, tôi ra hiệu bằng tay, cô gái mở lại catalogue, chọn bài Tiếng hát trên đường quê hương của nhạc sĩ Huy Thục, và hát một mình, không cần nhìn lên màn hình. Tôi từng nghe bài này nhưng không thuộc lời. Rồi vẫn yên ở trong lòng tôi, cô ta chọn tiếp bài Những cô gái Quan Họ của Phó Đức Phương, cũng hát một mình. Sau đó, cô ta chuyển catalogue cho tôi. Trị An âm vang mùa xuân! Tôi chọn bài này vì từng quen tác giả, cô gái từ chối cùng hát.
- Sao vậy? Tôi hỏi.
- Âm hưởng miền Nam, giọng em không họp!
Cô ta nói. Buông thả cô gái, tôi hát một mình.
Một dòng nước trong hát câu chờ mong âm vang dỏng sông. Một tình nước non thắp trong lòng anh sáng trong lòng người. Lặng nghe gió reo nhớ bao ngày qua ước mơ dạt dào. Lặng nghe nước reo cháy trong lòng ta ước mơ rực sáng. Dòng điện thắp lên sảng trong lòng ánh sáng trong lòng em… Lạ! Một bài hát vui thế tôi vẫn không thoát khỏi man mác buồn, trầm trịch nhớ nhung.
Cô gái mở khúc nhạc Tây điệu Tango, chúng tôi cùng nhảy. Tiếp đến một khúc khác, điệu Valse, tôi dìu cô gái về cuối phòng. Nhạc vẫn tiếp tục nhưng cô ta chẳng thiết đến ca hát nữa, chỉ một vài cử động nhỏ thành thạo, váy áo tuồn tuột khỏi người. Tôi nằm dài lên giường, đôn cao đầu bằng chiếc gối, nhìn lên. Tuy hơi gầy nhưng thân dáng Hồng Nhung cũng dễ coi, đôi mắt nhỏ tròn, đen nhánh. Cô gái cho đồ uống vào khay đưa đến phục vụ tận nơi, nhưng tôi bảo không cần, châm thuốc. Làn khói mỏng vật vờ lưng lửng. Điệu nhạc thân quen, nhè nhẹ miên man như sóng vỗ bờ. Đúng là Danube Blue! Tôi chợt nhớ lần đi xem phim Toute la ville danse (126) cùng Cẩm Khuê ở rạp Châu Tinh, chuyện kể về năm tháng lênh đênh ở xứ người của nhạc sĩ tài hoa Johann Strauss. (127) Danube Blue, tác phẩm bất hủ là cuộc tình buồn được khắc ghi bằng những nốt nhạc xanh theo điệu Valse…
(126) Toute la ville danse, tiếng Pháp: Cả thành phố cùng nhảy múa.
(127) Johann Strauss (1804-1849) nhạc sĩ người Áo, một bậc thầy về diệu Valse.
- Anh sẵn sàng chưa?
Đang lơ mơ, tôi nghe cô gái hỏi. Trả lời sao nhỉ? Sực tỉnh, tôi thầm nghĩ. Không hiểu sao, tôi gượng cười. Tưởng đồng thuận, cô ta cúi xuống, lần tay tháo giúp cà vạt. Nửa chừng, cô ta nhón người lên, rút tay về.
- Anh sao thế? Đã thấy gì bất thường, cô ta hỏi.
- Sợ bỏng ư? Tôi giễu ác độc.
- Không, tay em như nhót phải băng tuyết!
Cô ta than, làm bộ nhức buốt. Tôi gắng ôm cô ta, xoay người đặt xuống nệm. Thân dáng xương xương, săn chắc, màu da ngăm ngăm, Hồng Nhung là mẫu con gái có duyên ngầm. Cha em tập kết lấy vợ Hà Tây. Nhìn suốt dọc người cô gái, tôi ngẫm nghĩ. Năm năm sau mùa xuân đại thắng mới mang vợ con hồi kết, vậy là ông không tình nguyện vào Nam đánh Mỹ-Ngụy. Có phải vì thiếu thành tích chiến đấu nên bị ghẻ lạnh, bây giờ con phải làm nghề tiếp viên? Trong đầu tôi, thoáng lướt hình ảnh những góc phố ngõ phường có dịp ngang qua, và nghe vang vọng tiếng cười đùa tiếu lâm thời sự của dân phu ở các nhà ga bến tàu. Đầu đường thiếu tá vá xe, cuối đường đại tả bán chè đậu xanh. (128) Trong đoàn quân thất sủng ấy có cha cô gái này không?
(128) Đầu đường thiếu tá vá xe, cuối đường đại tá bán chè đậu xanh - Ca dao, phát xuất khoảng 1980-1990, hình ảnh những sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam về hưu, hoặc sa cơ thất thí, tranh thủ làm thêm ngoài giờ để cải thiện đời sống gia đình.
- Hình như anh đang tơ tưởng đến ai? Bất chợt cô gái hỏi, vói tay cất điếu thuốc trên môi tôi.
- Có! Tôi nhận. - Nhưng không hẳn thế? Tôi cười.
- Vậy em vụng về quá phải không?
Cô gái nói, quàng tay vít vai tôi.
- Cũng không phải! Tôi nói, hơi lểnh lảng.
Cô gái ngồi lên, nhìn tôi với ánh mắt bực dọc.
- Làm ơn mở lớn âm thanh, nhạc gì cũng được!
Tôi nói, nhìn lên màn hình. Cô gái rời giường rồi trở lại với bộ điều khiển. Một khúc nhạc Rock xập xình.
- Lớn nữa! Tôi yêu cầu.
Cô gái làm theo. Âm lượng ấy chắc náo động cả bên ngoài. Mặc thây, tôi đang cần thứ giúp mình tản mạn phân thân, chí ít cũng tạm quên mình đang tồn tại. Cô gái nằm xuống chờ đợi. Tôi nằm theo nhưng có cảm giác đang ở một mình. Khúc nhạc đến hồi độc tấu trống, tiếng gõ giòn giã, rân ran. Cô gái nghiêng người, dùng ngón tay viết chữ lên bụng tôi. I love you (129) Tôi đoán mò và đọc. Cô ta cười khúc khích. Theo đường khói thuốc từ cái gạt tàn, tôi nhìn trần nhà, vẫn mung lung.
(129) I love you! Tiếng Anh: Em yêu anh!
- Giờ thì anh sẵn sàng chưa nhỉ? Em bắt đầu rồi đấy! Cô gái nói, vuốt ve dọc theo người tôi.
Đáp lại, tôi nắm lấy bàn tay cô ta không cho manh động rồi ngồi thẳng dậy.
- Ơ! Thế a?
Cô ta khẽ kêu, ánh mắt kẻ chì sắc nét quét dọc người tôi. Khối xương da mịn màng chồm lên. Tôi đỡ lấy, rất dịu dàng, dìu cô ta nằm xuống lại. Ánh mắt si dại căm căm, hai bầu zú núm hồng non nỏn, hai cánh tay thon thon chống xuống giường nẩy cao gò ngực về phía trước. Cô gái cứ bậm môi ngằn ngặt. Tôi ra khỏi giường, chỉnh lại áo xống, mở ví đặt xấp tiền lên mặt gối. Cô gái toài người, vít tôi ngồi xuống.
- Chị chủ bảo anh hào phóng, nhưng đêm nay tiền bạc thôi không đủ, em muốn…!
Cô gái nũng nịu, chớp nháy đôi mắt đen lay láy.
- Em ngoan lắm! Nhưng cảm phiền nhé!
Tôi cúi xuống nựng cằm cô ta, day day, rồi đứng thẳng lên, bước ra khỏi phòng. Có tiếng gọi gióng giả sau cánh cửa nhưng tôi không quay lưng.
Về đến nhà mới sực nhớ, tôi gọi cho Khánh xin lỗi đột ngột rút trước, rồi đi tắm, chuẩn bị nghe đài BBC. Khi vào giường, tai đã gắn earphone, nhìn lên, tôi ngỡ ngàng cửa nhà vắng lạnh. Rồi bao thứ muốn quên đi, khuất lấp đâu đó cứ lượn lờ. Bỗng dưng tôi thấy mềm yếu như chưa bao giờ và rơi vào trạng thái tủi hờn xót xa, thứ tình cảm tôi muốn đoạn tuyệt từ hồi lên trung học. Chương trình phát thanh bắt đầu bằng đoạn nhạc dạo. Thay vì lắng nghe tôi hốt hoảng rời phòng. Tới hành lang, tôi chững lại đứng lặng nhìn lên bầu trời rực sáng muôn sao. Lòng dạ mung lung, tôi thấy mình lơ lửng với một nỗi khát khao mù mờ. Chới với chơi vơi, suýt gieo mình vào khoảng không trước mắt, tôi níu lấy lan can, chợt tỉnh. Trở vào, tôi ngơ ngác nhìn quanh phòng. Phần tin tức dứt, phát thanh viên bắt sang mục bình luận. Đáng ra vớt vát lắng nghe, tôi đột ngột mở di động, bấm số đã cài mặc định.
- Alô! Tôi gọi.
- Em đây! Bên kia đáp lại, đúng giọng Tường Vi. Trời hỡi, vì sao lại nhằm vào cô bé? Nhưng đã lỡ.
Mà có thật lỡ không?
- Em đang ở đâu? Tôi vội hỏi.
- Em vừa ra khỏi lớp đêm Tiếng Anh ở Trung Tâm Ngoại Ngữ và đang trên đường về nhà! Cô bé nói.
- Ghé qua đây một chút được không?
Tôi van xin. Lại trượt dài trong ngớ ngẩn!
- Có việc gì? Cô bé tỏ ra lo lắng.
- Không việc gì hết!
- Bình thường như mọi ngày?
- Vâng, bình thường! Tôi la lên trong máy như muốn ngăn chặn. - Nhưng mà… Bất chợt, tôi thở dài.
- Ở đâu ạ? Cô bé bồn chồn.
Tôi ngập ngừng, chưa biết tính sao.
- Cà phê Saint Valentine? Cà phê Melody? Cà phê Băng Tâm? Không thích hả? Cô bé ướm thử. Tôi vẫn ngập ngừng. - Được rồi, ông muốn đâu, em tới đó, tới ngay bây giờ… Cô bé tiếp.
- Tôi đang ở nhà một mình! Tôi nói.
- Vâng! Cô bé vui vẻ. Nhưng tôi đổi ý. - Thôi, không cần nữa! Alô! Em nghe không? Không cần nữa!
Cúp máy rồi ư? Tôi phát hiện mình với hụt và đã vi phạm, rồi đứng lặng. Radio tiếp tục phát, một đoạn nhạc ngắn rồi chuyển mục. Thế là vi phạm! Tôi lầm bầm lẩm bẩm xen kẽ với tiếng phát thanh viên. Khi thấy chẳng khớp vào đâu, tôi cúi nhìn xuống, muốn mở lại điện thoại di động. Vừa vung tay, tôi lại dập tắt radio, sừng sững cố neo mình vào không gian lạnh lẽo. Chợt nghe tiếng động y như réo thúc, tôi khấp khởi xuống lầu, thẳng ra ngõ. Không có ai, tôi vẫn mở rộng cửa, nhìn lên đầu dốc. Trở vào, theo mỗi bước chân lẩn thẩn, tôi lọc mớ thanh âm ong óng trong đêm và chợt có ý quay lại khóa cổng. Thi cử cận kề, em về ôn tập đi! Mình sẽ ở bên trong nói vọng ra như thế. Nhưng đã đến mà không cho vào, thế nào cô bé cũng hờn? Hành động quềnh quàng, tiền hậu bất nhất, ai chịu nổi không? Rồi cô bé sẽ thông cảm, không bây giờ thì còn cả mai sau. Nghĩ vậy nhưng tôi nào có đổi thay, cứ thẳng mạch vào tới hiên mới dừng. Tiếng gió xào xạc bên ngoài. Tiếng còi xe qua phố. Tôi lắng nghe đất trời chuyển mình, chờ bước chân thân quen, vẫn cô tịch, vẫn khao khốc. Tôi thốc lên lầu, nhưng được mấy bước thì dừng, cừ rừ ngồi xuống bậc thang, chống hai tay lên gối ôm lấy đầu.
Có tiếng vang khẽ đâu đó, tôi dóng cả tai mắt. Cái bóng long nhong hiện ra ở khung cửa chỉ được chiếu sáng lờ mờ bên ngoài, chiếc cặp trong tay.
- Sao không mở đèn?
Đoán chừng tôi đang ở đâu đó, cô bé hỏi khống.
Không nghe lên tiếng, cô bé rụt rè quay ra. Tôi đứng bật dậy, lặng lẽ đưa tay lên. Khoảng không giữa hai chúng tôi vẫn tĩnh lặng như tờ.
- Ông ở đâu? Giọng cô bé có vẻ hớt hải.
Tiếng chân lạt sạt đi lại trong sân cát, rồi cái bóng thoăn thoắt sải bước về phía cuối vườn.
- Miki! Miki ơi! Chị mang đồ ăn tới cho em đây!
Ngang qua chuồng chó, cô bé ngả người gập đầu mở cặp, lần tìm. Tôi ngồi xuống trở lại. Họ thân nhau từ bao giờ mà mình không hay?
- Miki! Miki! Cô bé vừa đi vừa gọi.
Đáp lại, chỉ có tiếng dế từ xa. Tôi vẫn ngồi im, muỗi mòng bao quanh. Rồi cô bé sẽ ra về, mình sẽ lấy lại bình an. Tôi hạ quyết tâm và thầm nghĩ. Một lúc, cô bé quay lại, nhận ra cửa mở hờ, lần lên thềm, tần ngần lê bước dừng ngay ở chân cầu thang.
- Ông đấy phải không? Cô bé đã nhận ra tôi.
- Vâng! Tôi lên tiếng.
- Sao ngồi đây?
Cô bé ngó lên mặt tường, có lẽ tìm chỗ mở đèn. Tôi vẫn ngồi bất động, nhìn xuống. Bóng tối bao quanh, ngôi nhà như sắp cựa mình. Cô bé rón rén dò từng bước. Mặt cầu thang khẽ rung. Lên tới, cô ta máng túi xách vào vai, ngồi sát xuống bên tôi, đề huề như đôi bạn.
- Bệnh à? Cô ta hỏi. Tôi khẽ lắc đầu.
Cô bé áp bàn tay lên trán tôi rồi bắt sang má mình.
- Không bệnh, sao ủ ê thế này? Cô bé lại hỏi.
- Nhớ em!
Ma quỷ xúi dại, tôi thú thật rồi dang tay ôm lấy cô bé. Trời hỡi, tôi chưa ôm ai mà nghe êm ấm thế này!
- Thiếu… phải không nào? Cô bé thì thầm.
Tôi ngủng nghỉnh miễn cưỡng không nhận, nhưng cảm thấy mình vừa vươn lên từ một hố lạnh sâu hút.
- Em cũng vậy! Cô bé nói, ngả đầu tựa lên vai tôi.
Cảm thấy như được chắn che đầy đủ, tôi im lặng.
- Ông không nói gì với em sao? Cô bé hỏi.
- Có, trước khi em đến! Giờ thì không cần nữa!
Tôi nói. Chúng tôi trở lại im lặng trong bóng tối.
Bình an! Vô cùng bình an, tưởng như động tĩnh đất trời không còn nữa. Và cả êm dịu, như thanh khí ngưng tụ quanh mình. Bỗng dưng, tôi ngồi thụp xuống, úp mặt vào ngực cô bé.
- Xin được lây lan một chút của em!
Tôi nói, không ngờ mình nói thế. Cô bé đưa tay mở nút áo. Tôi gập đầu. Cô bé trật dây treo yếm khỏi vai. Môi tôi chạm vào vùng thịt da sần sần, có lẽ đầu một chóp *. Rồi tôi hít thật sâu mùi thơm thân thể từ người cô bé. Tường Vi quàng cả hai tay qua vai tôi. Chúng tôi họp thành một thể thống nhất, tồn tại bên ngoài thời gian và cả không gian. Không rõ cô ta thế nào, trong tôi chỉ dấy lên cảm xúc duy nhất - được trở về và với tới. Nhưng đến một thời điểm, không biết cái thể thống nhất ấy đã tồn tại bao lâu, chợt nghe tiếng rơi của vật gì, tôi hốt hoảng nhìn quanh. Như những sinh thể ngời ánh lân tinh, chúng tôi rực sáng trong bóng tối, bốn mắt gặp nhau.
- Khuya rồi, em về đi!
Tôi hối tiếc nhưng giục và tưởng như ai lên tiếng.
- Vâng, em về ngay!
Cô bé nói, hai tay lùa tóc qua vai, vói túi xách.
- Có lẽ giờ này bà ấy đang chong đèn ngồi đợi.
Tôi nói, dang tay bế lấy cô bé bước xuống cầu thang, lần ra cửa.
- Từ nay về sau nếu tôi gọi vào giờ giấc ngặt nghèo thế này, em đừng đến!
Tôi dặn, đặt cô bé đứng thẳng xuống mặt thềm.
- Vì sao?
Tường Vi hỏi, đưa tay sờ soạng cài lại nút áo.
- Nguy hiểm!
Mù mờ, tôi nói, mặc cô bé muốn hiểu thế nào thì tùy.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Christiane

Re: Phiên Bản Tình Yêu (Vũ Biện Điền)

Postby bevanng » 05 May 2016

- A.49
Mơ về, say sưa kể chuyện nước Mỹ, lên kế hoạch dời cư


Mơ rút ngắn thời hạn lưu lại ở Mỹ, quay về nước. Tôi nghi cô ta đã nhận được thông tin của ai nhắn, hoặc do một sáng kiến bột phát ngay khi du lịch. Ngôi biệt thự bớt trống vắng, những bữa cơm kéo dài, đầm ấm. Cô ta say sưa kể về nước Mỹ trong bất cứ hoàn cảnh nào bất chấp người nghe muốn hay không.
- Dân mình lo chạy ăn từng bữa bở hơi tai, ở Mỹ không nghe ai than thở vì đói vì khát. Dân mình thiếu tủ bàn, thiếu radio cassette, thiếu ti-vi, thiếu tủ lạnh, ở Mỹ cứ ra ở mấy ngã tư đường phố hoặc công viên khiêng đồ cũ người ta vất bỏ về mà xài. Anh biết không, ngoài những nhà dưỡng lão sang trọng như khách sạn ba sao, trại cứu tế từ thiện nơi nào cũng có, nhà nước lo liệu chu đáo, tôn giáo còn hoàn chỉnh hơn, chỉ bực là ở đâu cũng phải xếp hàng nếu có hai người đến cùng lúc. Trẻ con mình thiếu sữa, ở Mỹ là thức ăn của mọi nhà, người ta còn phân loại cho người già người trẻ, người béo người gầy, người bệnh người khỏe. Trong sinh hoạt hằng ngày, lương thực chỉ chiếm khoảng một phần năm thu nhập của một công nhân mới vào nghề, đảm bảo chất lượng và an toàn vệ sinh. Mỗi tuần người ta đi siêu thị mua đủ thứ, tống vào tủ lạnh, dùng cả tuần. Khi còn ở trong nước, em tưởng nhà bên Mỹ đắt lắm, thật là bé cái lầm! Đừng có chòi vòi ở khu thượng lưu, biệt thự gò đồi, giới lao động bình dân chỉ cần bảy tám chục ngàn đô cũng mua được căn hộ đầy đủ tiện nghi cho một cặp vợ chồng hai con, có sân trước vườn sau với hoa cỏ bốn mùa để ngắm để thở. Nếu mình có thu nhập ổn định, còn được mua theo diện trả góp. Thuận lợi thế mà có người chỉ thích ở nhà thuê! Anh biết sao không? Người ta so kè tính toán, kén cá chọn canh đến khiếp! Đem gởi ngân hàng số tiền dự tính mua nhà tính ra lãi còn cao hơn giá thuê căn hộ. Lần đầu người bạn gái đưa em đến một thành phố kế cận, ra tới xa lộ, một trời xe hơi bóng lộn, nườm nượp vun vút như nước chảy mây tuôn, lướt trên những làn đường cao tốc thẳng băng, êm như chạy trên thảm nhung. Anh biết chủ nhân xe là ai không? Bí thư, chủ tịch, giám đốc? Không! Đa phần là của công nhân và nông dân. Hối hả như thế, bận rộn như thế, nhưng dọc đường phát hiện có người cần được giúp đỡ họ dừng lại ngay, rất lịch sự, rất nhiệt tình…
Trong bữa ăn sáng hôm sau, Mơ lại tỉ tê.
- Ở nước mình xe chạy nhanh một tí đã bị công an bắn tốc độ thổi phạt, còn ở Mỹ phải phóng đến trăm cây nếu không sẽ gây ùn tắc giao thông. Do coi thời gian là vàng bạc, dân Mỹ rất thích xài ô tô con đầy đủ tiện nghi và đạt tốc độ cao, mỗi gia đình sắm tới hai ba chiếc là thường, chơi sang chút đỉnh, đổi mốt đời mới dài dài. Dân nhập cư, trong đó có đồng bào ta, mới qua Mỹ vài ba năm đã tậu được xe, loại second hand, (130) nhưng chất lượng không đến nỗi nào. Khi ở trong nước, em không hiểu sao những bao hàng viện trợ từ thiện ở Mỹ đưa sang cho các nhà thờ Tin Lành và Thiên Chúa Giáo phát chẩn, không ít bộ áo quần mang tiếng đồ cũ nhưng mới toanh, chưa cắt chỉ, chưa thông khuy. Thì ra, chạy theo thời trang. Fashion spring and summer, fashion fall and winter, (131) người ta mặc theo mùa theo mode, không như dân mình khư khư giữ của hoặc xài tới rách! Ở Mỹ cưỡng bách giáo dục triệt để từ trung học trở xuống, chứ không bừa bãi tạo thành tích báo cáo như bên mình. Phụ huynh nào không đủ điều kiện nuôi dạy trẻ, luật pháp buộc phải giao con em cho nhà nước chăm lo, ngoan cố sẽ bị cưỡng chế ngay, nhưng nơi đưa chúng về mà không đảm bảo chất lượng ăn ở học hành cũng không tránh khỏi búa rìu dư luận.
(130) Second-hand (tiếng Anh): Đã qua tay, hàng cũ, đã xài rồi.
(131) Fashion - spring and summer, fashion - fall and winter (tiếng Anh): Thời trang - mùa xuân và mùa hè, thời trang - mùa thu và mùa đông.
Chiều thứ bảy, Mai Thị Dung đến, Mơ lại say sưa.
- Trẻ con được quản lý chặt chẽ, đang giờ học tập, nếu phát hiện có nhóc nhí nào lang thang đầu đường xó chợ, người ta sẽ gọi báo ngay và cơ quan hữu trách ứng phó kịp thời. Ở Mỹ thời gian nghỉ ngơi nhàn tản quý hiếm nhưng phương tiện truyền thông, giải trí rất phong phú, đa dạng. Người dân có quyền công khai phê phán tổng thống, chủ tịch lưỡng viện quốc hội, thống đốc bang, bộ trưởng, giám đốc CIA và cả giám đốc FBI… mà không sợ ai quy chụp phản động, trả thù, trù dập. Báo chí, phát thanh, truyền hình là sinh hoạt tư doanh, độc lập với chính quyền và các đảng phái, tin tức vì thế đảm bảo trung thực, nếu phao tin đồn thổi nhảm nhí sẽ bị nguồn đối lập phanh phui ngay. Phóng viên được phép moi móc tin tức từ cơ quan nhà nước thấu tận nhà trắng nhà đen, (132) không ngại giới chức nào, không sợ thế lực nào. Văn nghệ sĩ tự do sáng tác, tự do xuất bản, tác quyền được luật pháp bảo vệ, có tài sẽ được vinh danh, không ra gì sẽ bị đào thải. Ở Mỹ không có thứ văn nghệ sĩ ăn ké lương nhà nước, làm tay sai cho đảng, kể cả đảng cầm quyền. Do đó, sáng tác không rập khuôn theo nghị quyết, theo chỉ thị. Đảng phái, tôn giáo, hội đoàn đều là tư nhân, được luật pháp bảo vệ, không phải quỵ lụy cầu xin ô dù nào che chắn hoặc thông đồng với nhà nước để được độc quyền. Cục Điều Tra Liên Bang, Cục Tình Báo Trung Ương, Bộ Quốc Phòng, Ngũ Giác Đài là lực lượng của Liên Bang Mỹ, ăn lương nhà nước, phục vụ nhân dân, diệt thù trong chống giặc ngoài, tuyệt đối không làm công cụ cho cá nhân, cho đảng phái, cho thế lực nào, như bộ đội, công an ở đất nước mình. (133)
(132) Nhà trắng nhà đen: ý nói từ cơ quan lớn nhất - nhà trắng (white house: nơi làm việc của tổng thống) đến nơi ở của dân bình thường.
(133) Dầu ngân sách quốc phòng được trích chi từ tiền thuế của dân, nhưng châm ngôn của lực lượng vũ trang Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa việt Nam, dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản là “trung với đảng” trước, “hiếu với dân” sau. Rõ ràng là một biển lận, sổ toẹt vào mặt toàn dân, cơm nước cho quân ăn như thế thà cho chó còn hơn.
- Anh biết không, người Mỹ chúa ghét chuyên chính độc tài như kiểu Cộng Sản, nhưng ở Mỹ cũng có đảng Cộng Sản sinh hoạt bình đẳng với các đảng khác. Thời tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, bọn đảng viên tụi mình cứ phân vân, theo Trung Quốc thì mất nước, theo Mỹ thì mất đảng. Không đâu! Mỹ vẫn còn đảng Cộng Sản làm sao ta mất. Có mất chăng là mất cái độc quyền lãnh đạo vô liêm sỉ thôi!
Hoàng Vãn Luân đến chơi và tôi không ngờ câu chuyện cũng được Mơ lái về nước Mỹ.
- Có đi mới biết anh ơi, ngày ở nhà em cứ tưởng bên Mỹ chỉ có hai đảng Dân Chủ và Cộng Hòa, thông đồng chuyên quyền thay ngôi tổng thống. Chị bạn đưa em đến tham quan hạ viện Mỹ, người ta cho hay Mỹ có đến hàng chục đảng lớn nhỏ. Hiến pháp Mỹ cho phép nhân dân tự do lập đảng, lập hội để thể hiện ước mơ và nguyện vọng trung thực của mình. Nhưng muốn ngồi vào ghế cầm quyền phải qua tự do ứng cử và bầu cử. Đảng Cộng Sản Mỹ chưa bao giờ nắm chính quyền vì chưa bao giờ được dân tín nhiệm. Đảng Dân Chủ, đảng Cộng Hòa thay nhau cầm quyền vì họ được cử tri dồn phiếu, nhưng chỉ cầm quyền trong hạn định nhiệm kỳ. Đảng nào không hoàn thành nhiệm vụ nhân dân giao phó hoặc lộ bộ mặt lừa bịp, kém năng lực, tham quyền cố vị, quá lắm chỉ kéo dài bốn năm, đất nước tuy có thiệt hại hoặc trì trệ chút đỉnh, nhưng kỳ bầu cử tới nhân dân bổ cứu bằng cách đổi thay nhân sự lãnh đạo. Em nghĩ, thế mới là dân chủ tự do, mới là văn minh tiến bộ. Từ đó, khơi nguồn sáng tạo và phát triển trong mọi lãnh vực, trong mọi ngành nghề, trong mọi tầng lớp…
- Nhưng ồn ào, tốn kém, mất đoàn kết, không tập trung, không nhất trí cao như ở ta!
Nhân lúc Mơ tìm từ diễn tả, tôi vơ một ít khẩu hiệu chen vào. Hoàng Văn Luân hiểu ý, nháy mắt đồng tình, nhưng cũng thầm lo tôi dám cả gan chặn họng vợ.
- Các anh thích chuyên chính độc quyền, độc đảng, độc lợi, độc ác hả? Mơ gào to. - Học không bằng người ta, tài không bằng người ta, đức không bằng người ta mà cứ tham quyền cố vị. Này nhá… Mơ đưa tay ra, lần lượt chìa từng ngón… Hồ Chí Minh, chủ tịch đảng và chủ tịch nhà nước hai mươi lăm năm, Phạm Văn Đồng, thủ tướng ba mươi lăm năm, Lê Duẫn, tổng bí thư ba mươi hai năm! Mở miệng là chửi phong kiến với tư sản, cộng hòa nhân dân kiểu gì mà bám ngai đến rục cốt long cồi, già khú đế mà cứ muôn năm, cứt đái tè he, thở thóp tới hồi ngắc ngoải mà cứ đời đời sống mãi! Lãnh đạo vạn thọ vô cương như thế, nhân dân được gì? Chiến tranh, khủng bố, đấu tố, hận thù, đói khổ!
Mơ sục sôi mỗi lúc một hăng hơn, rồi mỉa mai.
- Ai tối mắt thì cứ nhào vô, còn em, đã ngấy tận cổ cái trò hề dân chủ giả hiệu, chưa ứng đã bầu, chưa bầu đã trúng, chưa trúng đã tọa thị!
- Anh biết không? Một bữa vợ chồng đang cúi xuống những hồ sơ đất cát, đầu óc Mơ vẫn chưa rời khỏi cuộc đi vừa qua. - Mỹ có hàng ngàn phi trường dân sự lớn, cứ mỗi phút có một máy bay lên xuống! Mỹ có hàng vạn tuyến giao thông đường sắt với đầu tàu cao tốc ba trăm cây số/giờ. Mỹ có cả chục hạm đội rải khắp bốn biển năm châu kịp thời ứng chiến bất cứ nơi nào bằng máy bay siêu tốc không người lái, đại pháo tầm xa, hỏa tiễn liên lục địa. Mỹ có bộ máy chiến tranh khổng lồ, hiện đại, ngân sách quốc phòng gấp mười lăm lần Liên Xô, gấp hai mươi lần Liên Minh Âu Châu, gấp năm mươi lần Trung Quốc, không quốc gia nào sánh kịp. Mỹ có kho vũ khí nguyên tử lớn nhất thế giới, đủ tiêu diệt mọi thế lực đối kháng trong tích tắc. Nhưng vì hòa bình nhân loại, họ rất thận trọng mỗi khi xử dụng, nghiêm chỉnh chấp hành các hiệp định tài giảm quân sự. Mỹ đang dẫn đầu thám hiểm không gian, phóng tàu vũ trụ bay đến mặt trời và các vì sao, mở rộng lãnh thổ tới cung trăng, đang đi tìm người ngoài hành tinh!…
- Thế bây giờ có dùng súng AK nằm ngửa bắn máy bay Mỹ nữa không? Xuôi theo vợ, tôi đùa.
- Chỉ gãi ngứa cho chúng thôi! Cô ta thở dài. - Còn thành tích, bắn trúng hay không là việc của tuyên huấn, của báo chí, phát thanh, truyền hình! Ánh mắt cô ta trở nên heo hút. - Cái thời ếch ngồi đáy giếng nghe xúi dại ấy nhắc lại làm gì, thêm xấu hổ! May mà nhân dân Mỹ không muốn tiếp tục chiến tranh, buộc chính quyền Mỹ rút quân! Cô ta thật sự tẽn tò hối hận.
- Thế mà ta thắng Mỹ! Tôi cà khịa, cười khan.
- Thắng cái hạt nút nhưng thua cả chiếc áo! Thắng cái dải khố nhưng thua cả chiếc quần! Thắng cái gốc rạ nhưng thua cả cánh đồng. Thắng một quân tốt nhưng thua cả ván cờ! Thắng đời ông nhưng thua đến đời cháu! Cô ta đùng đùng nổi giận, dấm da dấm dẳn.
- Thế mà chân dép lốp ta lên tàu vũ trụ!
Học đòi theo Tố Hữu, tôi cố nhẩn nha.
- Anh tưởng mình ngon lắm a? Người ta đưa các nhà bác học hàng đầu vào vũ trụ quan sát, nghiên cứu, thí nghiệm. Ông Phạm Tuân (134) nhà mình biết cái cóc khô gì mà lên trên ấy. Bùa phép tuyên truyền, đế quốc Cộng Sản màu mè lòe bịp, làm như san sớt khoa học kỹ thuật tầm cao cho đàn em. Chả trách dân Hà Nội gọi sô diễn đó là quá giang vũ trụ, đi ké giật le, coi chừng dép lốp vấy bẩn tàu thuyền người ta, lên xuống còn giập đầu vỡ trán chết bỏ bu!
(134) Phạm Tuân (1947) sĩ quan Không Quân trong Quân Đội Nhn Dn VN. Ngày 23-7-1980, được phóng vào vũ trụ từ sân bay Baikomur cùng hai phi hành gia Nga trên con tàu Soyuz 37, và 8 ngày sau thì an toàn trở về. Tố Hữu làm thơ ca tụng có “Chân dép lốp mà lên tàu vũ trụ”
Cô ta nói, bức bối, xót xa, đắng cay, căm hận. Đằng sau những biểu hiện ấy, tôi nhận ra Mơ đã đổi thay lớn lao và triệt để. Khi như thế, rất dễ đi đến một thái độ, một chọn lựa cực đoan. Tôi lo nhưng không dám bày tỏ. Lần đi xa này, cô ta không mua thứ quà nào, kể cả cho chồng, không đến tổng công ty chuyện vãn với chị em, không thăm viếng bà này ông nọ.
Một buổi sáng ngày nghỉ cuối tuần, Mơ gọi tôi vào phòng. Đinh ninh vợ muốn khoe thành tích tu bổ nhan sắc và các loại mỹ phẩm, nhưng tôi lầm.
- Em nghĩ sớm muộn gì mình cũng dời cư qua Mỹ. Cô ta nói với chất giọng người lo toan, quán xuyến.
- Muốn đổi thay môi sinh a? Tôi nén giận.
- Có thể còn hơn thế nữa! Mơ khẳng định.
- Em làm như thể mình là chim thiên di, chuyển dịch theo nắng theo gió, không đơn giản đâu!
Tôi xua tay, đứng bật dậy, không muốn nghe.
- Tại sao không? Cô ta xoay người, vói tay níu tôi lại. - Anh đọc nhiều hiểu rộng, chắc chưa quên người xưa đã dạy, có phải đất lành chim đậu không nào?
- Đúng! Tôi nói, vẫn muốn bỏ đi.
- Vậy thì… Cô ta vin ngay, run giọng.
- Vậy thì Việt Nam ta là đất dữ a?
Biết cô ta sắp nói gì, tôi chận đầu.
- Anh bảo không dữ, sao lại sinh toàn cây dại trái chua? Anh bảo lành, sao lại sinh toàn con khùng cháu điên? Gà nhà không đá nhau, đằng này anh em cùng tông cùng tộc mà tương tàn đến hơn hai mươi năm và còn háo hức hăm he tiếp tục nữa! Cô ta nói.
- Vì vướng thuốc lú bùa mê ngoại bang! Tôi nói.
- Bao giờ mới giải được độc? Cô ta hỏi.
- Còn lâu! Tôi không ngờ rơi trở về tiền đề của vợ.
- Thì ra anh còn thấy rõ hơn cả em! Mơ liền chóp lấy, coi như đã thống nhất. - Vậy kế hoạch là thế này, em sẽ qua trước, xếp đặt, tạo dựng cơ ngơi. Chờ lúc gặp thời hoặc chậm lắm tới khi nghỉ hưu thì anh dông, lót đường bằng vàng, xa mấy cũng tới. Từ nay đến ngày ấy, ta phải điều chỉnh kinh doanh, thu gom tiền của. Thực tế, xuất ngoại, khó nhất không phải chuyển vận người mà là di tản tài sản. Anh chưa đi ngay được, em dự trù để lại một phần ba?
Mơ nhìn tôi chờ đợi sự ưng thuận. Rõ ràng cô ta đã thăm dò, đã thực chứng, đã nghiền ngẫm, và đã chi li vạch sẵn lộ trình. Tôi thầm nghĩ, bước đi lòng vòng một lúc, rồi ngả người lên giường, thở dài thườn thượt. Tự dưng tôi nghĩ về mẹ và nhớ đến con. Hai lực nhớ thương nghịch hướng ấy khiến tôi se thắt. Cô ta vẫn tiếp tục với ước nguyện của mình.
- Em đã có đường dây chuyển khoản chui khá tin cậy, tuần tới ta sẽ gởi đi một ít và bắt đầu rao bán một số diện tích cà phê, cao su. Nếu có ai hỏi, anh cứ phịa mình cần đầu tư cho một chi nhánh ở thành phố Hồ Chí Minh, mất gì mà không bảo với họ sắp tới thế nào đất nước cũng mở cửa, đa phương hóa bang giao, đó là bệ phóng tiền của tổng công ty ta…
Đáng ra vùng lên chống đối vợ, quỷ tha ma bắt làm sao, tôi im lặng rồi miễn cưỡng gật đầu.
Những ngày tiếp theo, Mơ âm thầm gấp rút thu vén. Tôi thấy khoảng cách giữa vợ chồng nới rộng dần nhưng không biết làm sao cứu chữa.
Tháng sau, từ trong đến ngoài vạn sự hoàn toàn yên ắng. Một buổi sáng, Hai Đa cho gọi tôi lên ủy ban. Vừa bước qua cửa văn phòng chủ tịch, bất chợt tôi xúc động, ngậm ngùi tưởng nhớ Phạm Tư. Nơi này tôi vào ra nhiều lần nhưng hôm nay thấy khác. Có lẽ lần đầu làm việc với tân chủ tịch, tôi ngờ ngợ, chưa quen với vai trò mới của Hai Đa. Tuy có khập khựng chút ít, ngay sau đó, tôi cố quên tình xưa nghĩa cũ, gạt phăng đám mây mù lảng vảng trong đầu, bám lấy hiện thực. Như lệ thường của các quan chức xã hội chủ nghĩa, càng lên cao càng khệnh khạng, càng vòng vo, đôi khi uống đến vài ba tuần trà, hút hết cả gói thuốc, Hai Đa đề nghị tôi rời chức tổng giám đốc tổng công ty để ngồi vào một trong hai ghế, chỗ khuyết ông ta vừa rời khỏi hoặc chỗ khuyết ở sở tài chính nếu giám đốc Võ Xuân Chiến lên giữ chức phó chủ tịch. Dạo này tình hình kinh doanh bình ổn, nhưng việc nhà xáo trộn do sáng kiến dời cư của Mơ, tôi chỉ cám ơn qua loa, không có ý kiến ngay. Không ngờ tôi lừng khừng, Hai Đa nheo mắt, giảu môi giễu cợt. Tôi xin trả lời dứt khoát vài tuần tới. Về nhà, thuật lại gợi ý của Hai Đa cho Mơ nghe, cô ta phản đối.
- Chúng ta ở vào thời điểm củng cố chứ không phải phát triển. Mơ nói. - Đang cầm lái cơ nghiệp gia đình, anh phải tìm cách hạ cánh an toàn, bãi đáp nằm ở dưới đất chứ không ở trên mây mù thiên đường Cộng Sản. Từ nam chí bắc, thoát thai vô sản bần cùng, mạnh dạn đớp hít, nhan nhản những thằng trọc phú đỏ nhanh tay lẹ mắt, anh không thấy sao? Vai mang bị bạc, lại còn chen lấn giành chỗ ngoi lên. Ghen ăn tức ở, hỏng cẳng chúng tìm cách tố điêu, đao bút trong tay các ngài trung ương sẽ lao ngay xuống địa phương giáng họa trước khi kiếm chác, ban ơn! Mơ nói.
- Ngày trước chúng ta dùng chính trị tạo lập kinh tế. Nay ta dùng kinh tế tạo lập chính trị. Có lót trong bọc ngoài, sợ gì va đập, sợ gì kèn cựa! Tôi cãi lại. - Nếu theo cái đà đó, một ngày kia anh sẽ ngồi vào ghế chủ tịch tỉnh thay Hai Đa, hoặc ghế bí thư tỉnh ủy thay Nguyễn Thanh Cưỡng!
Tôi chưa kịp lắc đầu, cô ta đã nói tiếp.
- Mang cái nhãn mác trung ương ủy viên đảng Cộng Sản Việt Nam vượt biên sang thế giới Tư Bản Tự Do tìm đường cứu nước thì đắc sách, nhưng làm kinh tế hoặc tìm chỗ hạ cánh an toàn thì lầm to, chỉ tổ chọc cười thiên hạ.
Cô ta phân tích và tôi thấy có lý.
Nhưng phải qua một đêm trăn trở, tôi mới bình ổn trở lại.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Christiane

Re: Phiên Bản Tình Yêu (Vũ Biện Điền)

Postby bevanng » 05 May 2016

- A.50
Âm mưu tranh ghế. Những đấu thủ cùng môn phái tung đòn hiểm.
Chớp thời cơ, rao bán bất động sản


Chưa biết phải phúc đáp với Hai Đa thế nào cho phải đạo, tôi nhận được điện của giám đốc Tạ Thao hẹn gặp riêng. Gì thế nhỉ? Biết anh ta có việc cần mới hạ cố, tôi vẫn thắc mắc rồi lo nghĩ mung lung. Ba bốn năm nay, chúng tôi chỉ quan hệ chừng mực trong nhũng kỳ họp hội, dừng lại ở mức độ thù tạc mỗi khi yến ẩm, chẳng ân chẳng oán, đường ai nấy đi việc ai nấy làm. Vậy cớ chi nhẩn nha quán xá? Lệ thường ngành công an cũng như quân đội, bất cứ nơi đâu sĩ quan cũng có sân chơi riêng! Đó là chưa kể do đặc tính cửa quyền, trong chè chén bao giờ họ cũng kênh kiệu và do quán tính nghề nghiệp, trong xã giao bao giờ họ cũng thận trọng cảnh giác. Quanh quẩn một lúc, vẫn mù mờ, tôi tự nhủ cứ xáp mặt hẵng hay. Dầu vậy, đầu óc tôi vẫn căng thẳng cho tới khi đưa xe vào bãi đỗ. Giám đốc Tạ Thao mày râu nhẵn nhụi, trong trang phục dân sự, đón tôi ở hành lang nhà hàng Sesan gần khách sạn Indochine rồi đưa ngay lên lầu ba. Chúng tôi im lặng đi bên nhau, bước vào một nội bài trí trang nhã như ở phòng khách tư thất. Có lẽ đã được báo trước, chủ nhà hàng đích thân mang rượu và thức nhắm lên.
- Dạ thưa, thứ thiệt đây ạ!
Ông ta nói, lừng khừng chờ sai bảo. Tạ Thao ra hiệu bằng tay, ông ta móc túi đặt cái khui vào khay rồi đi giật lùi. Đợi tôi chọn món xong, Tạ Thao cho luôn cô tiếp viên nõn nà tươi tắn rút lui, tự tay mở nút chai.
- Có thiếu đạn cho K54 không?
Đang ngồi rót như chĩa súng vào đối phương, đột ngột anh ta xởi lởi. Thoáng nghe tưởng như đùa, kỳ thực, anh ta muốn cảnh báo đã biết tôi xử dụng bất hợp pháp loại vũ khí gì.
- Trước đây thiếu, nhưng nay ối thừa vì không cần nữa! Tôi nói, tửng tửng mặc nhận cũng tỏ ra bất chấp.
- Sao vậy? Anh ta cười, đặt ly rượu trước mặt tôi.
- Thay đổi nhiệm vụ, đeo đẳng thêm nhọc nhằn, tớ gởi nó về thành đội Huế lâu rồi!
Từng hoạt động đơn tuyến nội thành, tôi phịa và tin chắc còn lâu anh ta mới dám phanh phui.
- Phải xa xôi vất vả đến thế a?
Tạ Thao nhướng đôi mày rậm làm bộ kinh ngạc.
- Nhận đâu trả đó, nguyên tắc mà!
Tôi nói, nghĩ tiếp cách ứng phó nếu anh ta thốc tới. Tạ Thao như quên ngay chuyện đó, mời tôi nâng ly. Rượu Tàu hảo hạng nồng độ cao, uống vào giờ bụng rỗng, tôi cố ăn chút đỉnh lót dạ phòng khi bị mai phục.
- Loại này còn hơn cả Minh Mệnh thang (135) đấy, có nó trên bảo dưới mới nghe, một người uống mà cả hai cùng sướng đến mê! Thông qua bốc tục, anh ta khề khà khoe mẽ khi rót tuần rượu thứ hai.
(135) Minh Mạng thang: Thang thuốc do vua Minh Mạng yêu cẩu các ngự y nghiên cứu, chế tạo nhằm phục hồi sức khỏe sau khi giao hoan.
- Mao Đài hả? Tôi hỏi, liếc nhìn chai rượu có hình quả bầu eo màu da lươn, nhãn vàng chữ Tàu đỏ.
- Không! Thang dược Đường Minh Hoàng!
Anh ta nói. Tôi chợt nhớ tình sử Dương quý phi đời Đường, nâng ly uống cạn, làm vẻ hưng phấn.
- Đi xa về bà Mơ có vui không?
Tạ Thao khơi hướng khác, cũng với cách vặt đầu cá vá đầu tôm. Tôi biết đây là cú chớp nhá thứ hai.
- Thằng nhỏ chuệch choạc tiếng Anh, kỳ nào cũng phải thi đi thi lại, liên tiếp mấy kỳ nghỉ hè không thể về thăm. Nhớ con, cực chẳng đã bà ấy phải bương, có thong thả đi chơi như người ta đâu mà vui!
Tôi đỡ cho vợ, ngả bài giữa chợ vẫn giấu tẩy.
- Đà này, chắc còn qua lại Thái Bình Dương dài dài? Anh ta làm bộ sẵn sàng xí xóa, nếu biết ăn biết ở.
- Không đâu, bà Mơ nhà tôi là nhân viên cốt cán của tổng công ty, vắng mặt biết lấy ai thay thế!
Tôi nói nhưng anh ta chẳng màng quan tâm.
- Một ký của lạ bằng một tạ của quen, dù sao cũng có cơ may tự do tung tăng thỏa thích, em út phỉ lòng hả dạ. Anh ta nói, híp mắt gật gù.
Ban đầu tôi nghi Tạ Thao muốn dai dẳng bốc tục. Khi hiểu ra lối phiếm định như bắn đạn ria, chắc anh ta không xí xọn tới phòng Vip số 1, tôi lờ luôn.
- Nghe nói ông cụ sắp chuyển công tác?
Một lần nữa, Tạ Thao đổi hướng, vói tay dài hơn. Tôi kinh ngạc hành tung vượt đèn đỏ này. Ở Việt Nam, công an chỉ ngán bộ đội, hai ngành rất kỵ nhau. Đồng bệnh sinh ẩu đả đã xảy ra nhiều đụng độ và bao giở công an cũng lép vế vì thiếu súng to, nhân dân thường ngả về phía bộ đội và được một phen âm thầm hả hê.
- Là cha con, nhưng tớ chưa biết chuyện đó.
Làm bộ mù mờ, tôi đổi tông.
- Còn mấy năm nữa về hưu? Anh ta tiếp tục dò.
- Tuổi thực thì đã nhưng tuổi giả còn lâu!
Tôi lại phịa. Thấy cả ba chiêu phủ đầu, tôi chẳng hề nao núng, Tạ Thao ngả người ra ghế mồi điếu thuốc.
Ngay lúc đó, bất ngờ Mơ gọi hỏi tôi có về dùng bữa ở nhà, tôi cho hay đang bù khứ với giám đốc Tạ Thao tại nhà hàng. Mơ chúc ngon miệng và vui vẻ. Anh ta biết tôi vừa nói với vợ nhưng vờ chẳng buồn lén nghe. Một phút lệch lạc, chúng tôi tạm thời rời nhau, cả hai hình như không ai được nghỉ ngơi. Tiếp viên mang lên món tê tê nướng, tôi thích thú tập trung ăn uống. Tạ Thao cứ loay hoay, gắp lên bỏ xuống, bấm chuông gọi nhà hàng sai bảo chẳng rõ việc, như ngầm thể hiện cái hống hách hoặc khuất lấp hụt hẫng bối rối. Cáo già mà cứ thập thò cửa hang khiến tôi nghĩ anh ta chưa đi vào trọng tâm buổi gặp mặt. Đã vậy, tôi phải dè chừng, còn anh ta, rõ ràng đang gờm mặt đối thủ. Ăn uống tới hồi khẳm dạ, sao mình không khơi ra rồi về sớm? Tôi lưỡng lự. Nhà hàng thay món mới, tôi cứ chiếu cố cao lương mỹ vị, nhưng Tạ Thao vẫn lừng đừng lững đững, chỗ ngồi có sao đâu mà bắt đổi ghế, thuốc chưa tàn đã dập, rượu chưa cạn đã châm. Việc gì mà loay hoay như gà mắc đẻ? Tôi chờ xem.
- Mình mới hay tin thường vụ tỉnh đề bạt ông vào ghế khuyết của chủ tịch Hai Đa.
Lúc tiếp viên lui ra, Tạ Thao hé mở. Thoáng nghe như chuyện ngồi lê đầu đường xó chợ, nhưng tôi biết, với anh ta cực kỳ khó nói và phải vô cùng thận trọng.
- Chỉ là đồn thổi thôi, đó là chỗ của giám đốc tài chính Võ Xuân Chiến nay mai!
Tôi nói ngay, như chuyện đã rồi.
- Đồn thổi, không có lửa làm sao có khói?
Anh ta nhìn tôi một lúc.
- Theo mình biết, còn lại là đang chờ ý kiến của đương sự! Anh ta muốn chứng tỏ năng lực nghiệp vụ. Nhưng thấy người nghe vẫn im lặng, anh ta trầm giọng.
- Chỗ quen biết, mình xin ông không nên nhận…
- Vì sao? Nghe lạ, tôi hỏi ngay.
- Có thật ông mù mờ? Giọng Tạ Thao hơi ngớ.
- Vâng! Tôi vẫn làm bộ nghễnh ngãng.
- Là vì tớ cũng thích! Anh ta nói, chỉ vào ngực.
Thì ra là thế! Trò mặc cả, pha lẫn chút bóng gió đe dọa, như Mao Trạch Đông năm xưa giở giói tranh chức với Vương Minh. Ngụm rượu vừa qua họng, tôi thấy đắng nghét. Tuy Tạ Thao lòng vòng, nhưng giờ đã rõ.
- Là thế này, tôi quyết chắc mình nghĩ không sai, đột nhập nhà hàng Karaoke Adam, tranh cướp gái, vi phạm an ninh, nhưng tớ cho qua. Không phải cán bộ lực lượng vũ trang, xử dụng súng không có giấy phép, trắng trợn phạm pháp, nhưng cứ giữ mà phòng thân. Ỷ mình là vợ tổng giám đốc, vãi vung tiền bạc lót đường, lén lút đi xứ người, chẳng cần qua phòng xuất nhập cảnh công an, nhưng bảo với bà ấy cứ tiếp tục tùy thích. Dầu ông cụ có đáo hưu hoặc hết chức hết quyền, ô dù không còn, cứ mạnh dạn đầu tư phát triển kinh doanh, tranh thủ thắng lợi kinh tế. Đỗ Minh là thằng phản động bậc nhất dưới gầm trời Tây Nguyên, tổng giám đốc Phong là đảng viên Cộng Sản, không tố cáo còn bao che, nhưng không sao, Mã Tho mật báo bao nhiêu cũng bằng thừa. Sau cùng, từ nay đất nhà đêm hôm cứ mặc tình thả cửa, tớ sẽ lệnh không cho bất cứ tên nào hom hem dò dẫm…
Tuyệt khéo, ai bảo công an thiếu ngôn ngữ ngoại giao! Dầu có hơi hướm cửa quyền, cuộc trao đổi khá sòng phẳng! Bỗng dưng tôi cảm thấy nhẹ hẳn người. Thay vì muốn bỏ về, tôi thích thú ngồi lại.
- Không sao cả! Được thôi! Tốt quá chứ lị!…
Thói thường khi nhanh chóng thắng lợi lớn người ta hoang mang, tôi đồ đi đồ lại cho anh ta tin chắc. Chợt nhớ con cáo trong bài thơ ngụ ngôn La Fontaine với tới chùm nho quá dễ, tôi liền eo sách tí đỉnh, và cũng là cách di dời mục tiêu lỡ khi bất trắc.
- Chỉ e chỗ bí thư Nguyễn Thanh Cưỡng…! Ngại chỗ chủ tịch Phí Đu…! Còn chủ tịch A Tuk thì…
Tôi lảm nhảm.
- Cảm ơn, chuyện đó tớ đã có bùa!
Tạ Thao quả quyết, dằn tay xuống bàn. Rồi đề phòng trở mặt, anh ta đích thân rót đầy hai ly, trịnh trọng mời tôi cùng uống cạn, coi như ký tắt. Nồng độ cao, dồn dập, tôi sợ mình gục, nhưng không thể dừng.
- Phó chủ tịch đặc trách tài chánh công thương là chức vụ vô cùng quan trọng của tỉnh nhà, có lẽ lãnh đạo thấy tôi lèo lái ổn định tổng công ty thời gian qua, tưởng thế là có khả năng quản lý tất tần tật. Kỳ thực, tôi tự xét không quen nghiệp vụ hành chánh, luật pháp thì mù mờ, uy tín không rộng rãi!
Đổi giọng khề khà theo men rượu, tôi thả nhũn. Tạ Thao sung sướng tràn mặt, chồm qua bàn chộp tay tôi day day dật dật đến muốn rã.
- Giữa chúng ta không còn gì phải bàn nữa! Khi anh ta rút về lại ghế, tôi tỏ rõ dứt khoát. - Nhưng phía đồng chí phải tự thân phấn đấu, hai mũi hiệp đồng giáp công, đại sự ắt phải thành.
Tôi vênh mặt. Anh ta hiểu tôi nói gì, ngẫm nghĩ rồi gật đầu. Có qua có lại mới toại lòng nhau, tôi liền tự tay rót rượu và trân trọng nâng ly. Coi như uống thề, giám đốc Tạ Thao vô cùng xúc động. Sau đó, chẳng còn thiết tha mâm bát, cũng không còn gì bàn bạc, chúng tôi vẫn ngồi rề rà như đôi tri kỷ cả tiếng đồng hồ mới ra về.
Tưởng thế là xuôi chèo mát mái, nhưng tuần sau không biết do đâu bọn BiTiBi đang dựa hơi Nguyễn Thanh Cưỡng và gàn đây được Võ Xuân Chiến tài trợ chè chén, bắt đầu phao tin đồn nhảm. Chúng rỉ tai nhau Tạ Thao là cháu ba đời Tạ Đức Quang ở Bình Khê, Bình Định. Rõ nỡm! Gạo đã thành cơm lại đào bới tổ tông tam đại làm gì nữa? Bổ sung lý lịch a? Khi lập hồ sơ vào ngành, có tay nào ngu dại bỏ sót cái tam đại bần cố! Bọn EnTiBi trước đây quy tụ dưới trướng Phạm Tư, đang co cụm củng cố, tạm thời dựa hơi Tạ Thao, phản đòn ngay. Nhưng bọn BiTiBi là tập thể đa năng, sinh động và đang ở thế thượng phong. Tửu nhập ngôn xuất, chúng phóng bừa bất cứ nơi nào có dịp tùng tam tụ ngũ. Riết rồi người lãnh cảm cũng khó ngoảnh mặt bít tai. Vậy Tạ Đức Quang là ai? Đang mù mịt, bàn dân thiên hạ trở nên khúc mắc. Tướng Ngụy lẩn trốn sau khi tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng? Người của CIA cài đặt đến lúc phải trồi đầu lộ mặt? Lãnh tụ chống Cộng ở quốc ngoại? Tôi lần mò tìm hiểu.
Không! Tạ Đức Quang là cha Tạ Sởi, ông nội Tạ Thao! Lê Viết Kỳ, quê quán ở đất An Khê, Bình Định, cung cấp cho tôi như thế.
- Thì có sao đâu! Thoáng nghe, rờn rợn nhưng tôi cũng kịp dãi đãi, trung hòa.
- Tạ Đức Quang là phạm nhân năm xưa bị tri huyện Bình Khê đang lúc say đăng đường, đánh chết!
Lê Viết Kỳ chỉ rõ.
- Cứ cho là thế, nhưng tri huyện Bình Khê nào chứ? Tôi nạo tới.
- Là phó bảng Nguyễn Sinh Sắc cha đẻ của Nguyễn Sinh Cung tức chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu của ta. Rủi thay, ngày ấy Tạ Đức Quang có người bà con tùng sự tại tòa khâm sứ Huế, thế là hắn tâu lên quan Pháp. Nghe nói trước đó Nam triều có nhận khải tấu của tuần phủ Bình Định nhưng bỏ qua, nay khâm sứ yêu cầu phải điều tra làm rõ tội trạng. Theo luật Gia Long, sát nhân giả tử. Hay tin, Hồ Sĩ Tạo (136) cho người vào kinh chạy án, tri huyện Nguyễn Sinh Sắc bị cách bốn bậc, lạc hồi thứ dân. xấu hổ, ông ta đi tuốt vào Nam kiếm sống!
(136) Hồ Sĩ Tạo: thầy đồ, cha đẻ Nguyễn Sinh Sắc còn Nguyễn Sinh Nhuận là cha nôm.
Lê Viết Kỳ ghé sát tai tôi, vừa nói vừa ngó quanh.
- Thế a? Tôi hồ nghi, anh ta ghé sát hơn nữa.
- Không tin, anh về Bình Khê mà hỏi!
Lê Viết Kỳ hướng dẫn khá tường tận.
- Trời hỡi, Phong này đã hứa với Tạ Thao! Nhưng nếu có, chuyện đó cũng đã qua lâu rồi!
Tôi xả đùa, muốn giảm nhẹ tình huống.
- Qua hử? Đảng ta đang sơn son thiếp vàng pho tượng cố chí sĩ Nguyễn Sinh Sắc ở Đồng Tháp, đùng một cái Tạ Thao trồi đầu chẳng khác bằng chứng sống nhắc nhở bàn dân thiên hạ đó chỉ là khối gỗ mục, nhung nhúc sâu bọ! Anh ta dấm dẳn rồi thoắt đi ngay.
Nhưng cái ngữ bới bèo ra bọ chạy trời cũng không khỏi nắng. Tuần sau Lê Viết Kỳ phải đến tổng công ty làm việc với tổng giám đốc Lê Huy Phong.
- Ông xạo!
Ký tá xong, tôi mời nước rồi chỉ mặt anh ta.
- Không tài liệu nào nói Tạ Đức Quang có con trai là Tạ Sởi. Vẽ rắn thêm chân, động đến lãnh tụ đi tù mọt gông đấy! Tôi đe.
- Tạ Sởi là con rơi, ngoài gia phả. Không phải người Bình Khê làm sao anh biết chuyện đó, hoang sử ấy mà! Lê Viết Kỳ lằng nhằng.
- Được! Cứ cho là thế, đảng ta cũng dư sức vì đã từng thay xác đổi hồn cho những đứa con thay vì nằm gai nếm mật nuôi thù kẻ hãm hại cha mình thì gục đầu bái lạy tôn phò đao phủ như thánh sống!
Đuối lý, nhưng tôi kịp thời biến báo.
Lê Viết Kỳ khật khịa, nhe nháy mắt môi.
- Không tin hả? Này nhá!…
Tôi vỗ bàn, trích dẫn hiện thực vô cùng sống động.
- Này nhá, vì ghen tỵ tài năng, Hồ Chí Minh mật lệnh cho ủy ban kháng chiến Thừa Thiên giết học giả Phạm Quỳnh, một người yêu nước, đấu tranh bất bạo động trực diện với Pháp. Ba mươi năm sau, Phạm Tuyên, con trai Phạm Quỳnh, hân hoan giòn giã ngợi ca như có bác Hồ trong ngày vui đại thẳng? (137)
(137) Lời trong một tác phẩm của nhạc sĩ Phạm Tuyên.
Có bằng chứng tươi sống khá phổ cập, tôi thật sự hả hê. Nhưng Lê Viết Kỳ chẳng phải tay vừa.
- Ở quê em người ta lại truyền miệng thế này, đời cha không may bị rắn cắn, đời con thấy lươn cũng sợ, khác giống còn tởm đến vậy huống chi đây là chính thống, máu mủ mới có ba đời!
Lê Viết Kỳ ví von rít rát. Tôi chưa kịp có ý kiến phản bác, anh ta lấy cớ bận việc thoắt bỏ đi.
Bỗng dưng tôi nhớ lại và nhận ra Mơ nói rất đúng. Vai mang bị bạc, còn muốn chen chân mà ngoi lên đài danh vọng, thế nào cũng có đứa ghen ăn tức ở mà tố điêu. Giám đốc sở công an Tạ Thao còn vậy huống gì mình. An toàn là trên hết, tôi liền gọi điện cho Hai Đa bày tỏ do năng lực hạn chế không dám nhận bất cứ chức vụ nào cao hơn. Chỉ nghe đến đó, ông ta cười khằng khặc. Một lần nữa, Hai Đa mắng tôi ngu.
- Vâng, em xin nhận sự non nớt ấy!
Tôi nói và tin ông ta thật lòng. Ngược đường danh lợi đôi khi cũng trầy da tróc vẩy! Tôi thầm nghĩ. Có lẽ tôi không có mạng làm quan? Nhưng không sao, bù lại trời đã cho tôi cái gan làm giàu.
- Hôm nay có thể vì một lý do nào đó, chú từ chối… Trước khi cúp máy, Hai Đa nói. - Nhưng biết đâu vài ba tuần tới chú sẽ thấy rõ vinh dự và quyền lợi của chiếc ghế phó chủ tịch tỉnh như thế nào. Vì vậy, nhân danh thủ lãnh BiKi, với tình nghĩa thiết cốt anh em ta, tôi chưa vội trao cho ai đặc ân ấy đâu.
- Cám ơn anh! Tôi nói. Và sau đó thì quên ngay.
Chuyện rắn chuyện lươn tiếp tục đồn thổi trong nội thị, từ bọn BiTiBi lan sang hội Cựu Chiến Binh, các cụ lại một phen chao đảo, bí bức. Dạo này tuy công tác có phần giảm tải nhưng tư tác dồn dập, vợ chồng tôi đều tất bật, có ngày không thấy mặt nhau. Đỗ Minh đôi lần lượn lờ qua lại tổng công ty, nhưng Ma Ngát kịp thời can ngăn, khuyên anh ta không nên vào. Rồi, trong một phiên họp Hội Đồng Nhân Dân tỉnh, tôi không thấy Tạ Thao có mặt như lệ thường, thay vào đó một người nói giọng Bắc, sắc phục công an, mang quân hàm đại tá. Đầu giờ, chủ tịch A Tuk giới thiệu ông ta được trung ương chi viện thay thế đồng chí Tạ Thao vừa thôi chức và đang chờ nhận nhiệm vụ mới. Chuyện như đùa mà có thật a? Tôi tá hỏa! Suốt tháng, mỗi khi xáp mặt Lê Viết Kỳ, tôi ngơ ngơ, thèn thẹn. Đêm về, tôi tự xét mình đã sòng phẳng và cố tiếp tục giữ sòng phẳng với Tạ Thao, đúng là Võ Xuân Chiến có mạng làm quan!
Ngày ra mắt công ty Chế Biến Ván Ép do Mai Trung, em trai Mai Thị Dung làm giám đốc và Tô Thoan phụ trách kỹ thuật, được tổ chức linh đình. Đây là vệ tinh thứ mười bốn của tổng công ty, nếu Tạ Thao còn tại vị, chưa chắc được hình thành. Ngoài quan chức trong tỉnh, còn có khách hàng ngoại quốc từ Đài Loan, Malaysia, Singapore và Nhật Bản. Đặc biệt, Wemer Von Merkel đang công tác ở Hà Nội cũng vội vã bay vào. Anh chàng tiến sĩ người Đức tóc vàng như râu bắp nhanh nhạy xin ngay mẫu sản phẩm và hứa sẽ chào hàng ở những nơi nay mai anh ta đặt chân đến.
Nhân dịp này, cuối cuộc liên hoan Mơ rỉ tai rao bán toàn bộ diện tích trồng tiêu và khoảng bảy mươi hectas cà phê. Khách mua là Nguyễn Thị Là. Tiêu và cà phê là hai mặt hàng đang lên giá ở thị trường thế giới, Mơ bán hạ chút đỉnh, từ đó một làn sóng ngầm lan tỏa đến mọi nhà có máu mặt trong thị. Những cú điện thoại thăm hỏi suốt đêm ngày. Rồi bà Đặng Thị Ga hẹn gặp riêng Mơ ở hội phụ nữ tỉnh. Trưa về, Mơ cho hay bà chủ tịch hội Liên Hiệp Phụ Nữ muốn mua tất tần tật cao su của vợ chồng mình, tôi không đồng ý.
- Bà ấy hứa trả bằng vàng hoặc ngoại tệ mạnh!
Biết tôi không thích ôm đồm đồng bạc Việt Nam,
Mơ nói thêm. Tôi vẫn không đồng ý.
- Tiêu, cà phê nặng công chăm sóc nhưng khi thu hoạch, sản phẩm sẽ có người mua ngay, không thị trường nội thì ngoại! Mơ nói. - Còn cao su, vẫn biết qua năm thứ sáu coi như ký gởi cho trời đất nhưng tới kỳ thu hoạch, quản lý không dễ đâu! Đó là chưa tính đến phải lập nhà máy sơ chế và đối phó với bọn trộm cắp. Em nghĩ ở vào hoàn cảnh gia đình mình, bán đám còn hơn bán mủ, ăn non hơn ăn già.
Tôi vẫn bảo lưu ý mình, Mơ nói tiếp.
- Thôi được, em để lại cho anh một ít.
Tôi im lặng. Cô ta về phòng rồi trở lại với chiếc cặp da, lôi ra những tấm bìa màu đỏ rải la liệt trên mặt bàn. Săm soi một lúc, cô ta tách riêng một tấm đặt xuống trước mặt tôi.
- Sáu mươi lăm hectas có chung bờ rào với rẫy Ma Ngát, hiện nay đang thuê mướn vợ anh ấy coi ngó, anh thấy thế nào? Cô ta gợi ý.
Ngẫm nghĩ một lúc, tôi gật đầu. Lại rút ra một tấm bìa đỏ nữa, nhưng lưỡng lự một lúc, Mơ đút trở vào. Tâm bìa ấy là hô sơ lô đất sáu mươi hectas trồng cà phê sát bờ thửa với Cù Thị The, rất thuận lợi tưới tiêu, năng suất rất cao, tôi rất muốn giữ lại. Nhưng chợt nghĩ đến con nơi xa, tôi im lặng cho qua.
Chỉ vỏn vẹn mươi lăm hôm, Mơ và bà Đặng Thị Ga hoàn tất xong thủ tục mua bán.
Bà Cù Thị The gọi điện cho tôi hỏi về đất cát.
Rồi bà Lò Thị Ngải hẹn gặp riêng tôi ở rẫy, ngoài những vuốt ve như thường khi chúng tôi ở chỗ không người, cũng bóng gió muốn gia tăng diện tích nông trang. Tôi cho cả hai bà hay cần vốn đầu tư ở thành phố Hồ Chí Minh, Mơ đã sang nhượng tất cả. Họ không vui.
Tôi bàn với Mơ rao bán mấy lô thổ cư.
Bà Cù Thị The đòi mua. Hai Đa gọi điện bóng gió bảo tôi không nên nghiêng về một phía. Tôi đồng ý và dành cho bà Lò Thị Ngải hai lô. Vàng và đô thu về khá nhiều khiến tôi đâm lo. Nhà to cửa lớn kín cổng cao tường bỗng biến thành cái vỏ mỏng manh bao quanh khối của. Sợ lời ong tiếng ve, không dám gởi ngân hàng, tôi đề nghị mua cái két sắt lớn nhưng Mơ phớt lờ.
- Anh để em!
Cô ta nói thế rồi dùng cái phòng nhỏ bên cạnh làm kho chứa, đề nghị tôi bảo vợ Ma Ngát cho người đưa Miki về lại nhà.
Sáng hôm sau, đầu giờ tôi gọi Ma Ngát lên vãn phòng tổng giám đốc, nhét vào đầu anh ta câu chuyện bịa đặt về Miki, phòng hờ Mơ hoặc ai đó hỏi tới. Chuyện láo nhưng tôi tin sẽ qua khỏi nhờ lòng trung thành của anh ta và dạo này Mơ gần như không lai vãng đến tổng công ty. Người tôi ngại nhất lúc này là Đào Thị Liên. Vợ chồng tôi đã mất khá nhiều thời gian bàn bạc về chị ta. Mơ hứa sẽ cho Liên thôi việc khi tìm được người thay thế, nhưng không hiểu sao, sau đó lại lững đững lờ đờ. Do đó, tôi phải giả bệnh nằm nhà, giữ của.
Vô hình trung, cửa nhà tôi biến thành văn phòng giao dịch của tổng công ty. Chừng vài tuần, như một phép mầu, tất cả vàng và hột xoàn đều biến thành đô. Rồi cũng như một phép mầu, tất cả đô không cánh nhẹ nhàng bay theo những người lạ mặt đến nhà tôi vào giờ giấc khuya khoắt.
Tôi vội vàng bắn tin cho con trai. Và lần nào nó cũng nói ba khỏi lo, con đang theo dõi và quản lý tất cả, không thiếu một đồng. Mặt mũi Mơ tươi tắn dần, không còn cái vẻ phờ phạc mang từ Mỹ về.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Christiane

Re: Phiên Bản Tình Yêu (Vũ Biện Điền)

Postby bevanng » 05 May 2016

- A.51
Giấc mơ Mỹ. Nuôi ong tay áo.
Lâm thế nội phản. Trơ tráo, nhập nhằng.


Một buổi tối, tôi vừa nghe xong đài BBC, Mơ đẩy cửa bước vào, áo xống sơ sài, tóc tai bù rối. Đáng ra nghe tiếp đài VOA, tôi tắt máy, dành thì giờ chan hòa cùng vợ.
Cô ta ngồi xuống bên tôi dáng vẻ khô lạnh. Tôi quay lại, nhận ra trong mắt vợ có cái gì khác lạ.
- Em sao thế? Bệnh ư?
Tôi áp tay lên trán Mơ rồi lần khắp mình mẩy.
- Không! Cô ta gạt tay tôi, nằm dài xuống giường. Cách nhau chỉ một quãng với, thế mà đầu gối tay ấp như ở tận đâu. Tôi chợt nhớ mấy tháng qua do công việc căng thẳng cuốn hút, cả hai đều lao về phía trước xao lãng các khoảnh khắc ân ái. Nhằm khắc phục, tôi nhích tới nằm xuống vắt tay qua người cô ta. Lệ thường, chúng tôi thường tĩnh lặng mấy phút trước khi quấn lấy nhau. Nhưng hôm nay thời gian lắng nghe bước đi rạo rực của tình yêu là một khoảng dài lạnh ngắt.
- Hôn em đi!
Bất chợt, cô ta nói, giọng không bình thường, mắt mở lớn nhìn trần nhà, tôi làm theo yêu cầu.
- Không! Không phải thế!
Cô ta nói, gần như vừa bẳn gắt vừa van xin, nhưng tuyệt nhiên chẳng có chút ham muốn nào. Thấy lạ, tôi nhỏm dậy, nhìn xuống người Mơ. Tuy có già đi theo thời gian, tuy có phôi pha do bương chải, tuy có gày đi vì công việc mưu sinh, Mơ vẫn còn mặn mà xuân sắc.
- Hãy hôn em như hồi chúng ta ở sâu trong đất, không có ánh sáng, không có tương lai, mưa gió dầm dề, lửa đạn bao quanh, thiếu từ cơm ăn tới áo mặc, bạn thù mù mờ…
Nói vậy là sao? Tích lũy để bù lỗ khi ở núi ư?
Thầm nghĩ, tôi cúi xuống áp miệng mình lên môi vợ, một tay len vào ngực, nắm bắt nâng niu từng phân da thịt. Những cạnh xương cồm cộm, tôi không ngờ cô ta gầy đến mức này. Và cả hơi hướm nữa, khao khao mùi nắng gió!
- Em cần phải nghỉ ngơi lấy lại sức vóc.
Tôi nói, cô ta khẽ thở dài rồi vòng tay qua cổ tôi.
- Anh ơi!… Toàn thân Mơ run bần bật.
Nhưng tôi nhận ra không phải cảm xúc ái ân. Tôi lại hôn Mơ, lần tay cởi từng hạt nút áo chỉ cài tạm. Đột ngột cô ta đẩy tôi dãn xa và đảo mắt lượn lờ nhìn quanh.
- Gì thế? Tôi hỏi.
- Cuối tháng này, em vào thành phố rồi qua Mỹ.
Mơ nói. Tôi bàng hoàng.
Mặc chồng váng vất, cô ta nói tiếp.
- Đáng ra phải báo từ lâu nhưng em sợ anh phản đối và buồn!
Thì ra ánh mắt thăm thẳm ấy là khoảng cách từ bờ đông tới bờ tây Thái Bình Dương.
Tôi điếng lặng, ngao ngán gần như quên thở.
Nhớ thuở thanh xuân thường lui tới Centre Culturel Francaise, tôi từng nghe người ta chào xá Francophiles,(138) nhưng khi lớn lên làm chồng làm cha tôi chưa bao giờ nghĩ đên vợ tôi, Phan Thị Mơ, một cô gái quê chưa phai mùi bùn, một du kích chưa nhạt mùi súng, lại trở thành Américaniste! (139) Đó là giấc mơ Mỹ ư? American dream? (140) Đúng rồi! Giấc mơ về dân chủ và thịnh vượng. Ngoại trừ những đầu óc có tế bào thần kinh tê liệt do Cộng Sản nhồi nhét tư tưởng, thế giới còn lại và cả sách báo đều khẳng định thế. Nhưng do đâu và từ bao giờ nó đã len vào nhà tôi? Mù mờ đường đi nước bước, tôi thật sự ngỡ ngàng. Đô la? Không phải! Tôi muốn gào cho đất trời cùng nghe thấu, vợ con tôi mơ màng nước Mỹ không phải vì nghèo đói! Rõ ràng cô ta vừa chuyển chui qua bên ấy cả chục triệu đô! Vậy do sức ép của độc tài đồng chủng nội địa, từ đó dấy lên lực hút của dân chủ, của tự do ư? Có thể! Nhưng hiện nay, với thân thế với quyền lợi, có ai dám đè đầu cỡi cổ chúng tôi. Vậy thì, ý thức nhân bản, công bằng xã hội, tình tự dân tộc? Cũng có thể! Nhưng có thật bên ấy là bồng lai dân chủ, có thật bên ấy là tiên cảnh tự do? Tôi tự hỏi rồi chợt nhớ Trần Xuân Vinh với hối thúc của anh ta vào thời điểm Sài Gòn thất thủ, bảo tôi bỏ lại tất cả, cùng nhau tìm đường ra phi cảng. Tôi cũng chợt nhớ mươi năm sau ngày mùa xuân đại thắng, người chú họ bỏ công ăn việc làm lên Tây Nguyên thúc giục tôi theo về vượt biên. Và, tôi cũng nhớ vào những năm đầu thập niên 80, nhân dân cả hai miền Nam-Bắc bất kể sóng gió đại dương, bằng những phương tiện thô sơ tìm đến nước Mỹ. Hồ giáo sư, con lạy thầy, nhà tiên tri thời đại, con đã mạo muội cầu xin và may mắn diện kiến, con đã được giáo huấn nhưng chưa đủ can đảm xé tung bức màn vô minh. Quả thực cuộc cờ vừa qua chúng nó đều thắng cả, chỉ có tổ quốc và dân tộc ta thua!
(138) Francophiles (tiếng Pháp): Những người thân Pháp, mê Pháp.
(139) Américaniste (tiếng Pháp): Người thân Mỹ, mê Mỹ.
(140) Américan dream (tiếng Anh): Giấc mơ Mỹ.
Sáng chủ nhật, khi uống cà phê với vợ ở phòng khách, tôi tìm cách khuyên Mơ hoãn lại chuyện đi Mỹ.
- Chúng ta không mang công mắc nợ ai, cũng không thất bát làm ăn, đảng và nhà nước đang cần người như chúng ta, hà cớ ra đi như trốn chạy! Tôi nói.
- Chúng ta chỉ có một cuộc đời để sống và làm sao sống thật tốt đẹp, môi sinh nhiễm bẩn mà đầu nguồn vẫn tọa thị bọn ác bá gian manh, nửa đời về trước chúng ta đã bị đầu độc, nếu không nhanh chân em sợ lỡ mất vận hội nửa đời về sau, và hủy hoại luôn cả đời con mình! Mơ nói.
- Vận hội bao giờ chẳng có, biết đâu vài ba năm nữa Mỹ sẽ tiến tới bình thường hóa bang giao, đất nước sẽ thay ngôi đổi chủ. Tôi nói.
- Trời hỡi, anh vẫn ngây thơ và hoang tưởng như ngày nào! Mơ kêu lên. - Ai đã nói với em Mỹ và các nước đồng minh của Mỹ chưa bao giờ hạ quyết tâm tiêu diệt tức khắc Cộng Sản trên hành tinh này, chỉ chậm thôi. Nay Đông Âu đã vùng lên, Liên Xô sụp đổ, Đông Đức hòa tan, Trung Quốc đổi cốt, việc gì Mỹ còn bận tâm lo đến nọc độc Cộng Sản nữa. Trái lại, họ đang cần mấy rẻo Đỏ còn ngoi ngóp rải rác như Việt Nam, Triều Tiên, Cu Ba để làm vật chứng cái họa chuyên chính khốn nạn thế nào đối với sự phát triển của nhân loại, và lấy đó mà bảo ban, mà răn đe nhân dân Mỹ chưa phải lúc buông lơi cảnh giác! Cô ta nói, cười mỉa.
- Thế tại sao chúng chịu bỏ cấm vận? Tôi cãi lại.
- Bỏ cấm vận để ngăn chận làn sóng người Việt ồ ạt vượt biên tới Mỹ! Mơ nói. - Thôi, đó là chuyện của thế giới, của đất nước, còn chúng ta, em đã quyết ở hẳn bên đó đâu mà anh quýnh quáng lên thế! Mơ đấu dịu.
- Biết vậy, nhưng phải xa nhau khá dài! Tôi nói.
- Mua xong nhà cho con, em sẽ quay về! Mơ hứa.
Tôi yên tâm. Mưa lâu thấm đất, tôi tin mình sẽ từng bước thuyết phục vợ từ bỏ giấc mơ Mỹ. Một ngày gần đây cô ta sẽ nhận ra một cành chiết có thể đơm hoa kết trái trên thân ghép, nhưng với người khó mà tìm thấy hạnh phúc trên cái gốc không phải của mình. Và khi đã đi khắp gầm trời cuối đất, cô ta sẽ còn nhận ra không nơi nào đẹp bằng quê hương mình. Nhưng trước mắt không nên quyết liệt ngáng trở. Dục tốc bất đạt, hãy tạm gác mớ bòng bong ấy lại. Đó là tôi, còn Mơ, vẫn là mơ. Cô ta nghĩ đã thuyết phục được chồng, hăm hở phát khởi một sự nghiệp mới. Uống cạn tách cà phê, Mơ đưa mắt nhìn quanh như tìm người sai bảo. Tôi định đem chuyện Liên xin thôi việc ra bàn một lần nữa rồi quyết luôn, nhưng Mơ đã đứng lên.
- Giờ này chắc Mai Thị Dung chưa đi đâu!
Cô ta đồ chừng, vói tay nhấc máy điện thoại bàn.
Ngay lúc đó, Liên lật đật ngang qua hành lang, Mơ đang bấm số vội ngưng cuốc gọi. Bộ tịch khác thường của chị ta khiến chúng tôi quan ngại, nhưng chưa ai đoán được chuyện gì. Tiếng mở cổng rổn rảng, có ai hỏi han ngoài ngõ. Mấy phút sau chị ta trở lại, chùm chìa khóa lủng lẳng trong tay, dẫn theo một cô gái mà thoạt nhìn tôi sửng sốt đến độ không muốn tin vào mắt mình.
- Thưa cậu, có người cần gặp!
Chị ta lạnh lùng nói rồi lui ngay, để lại Tường Vi sừng sững một mình ngay lối vào. Quần jean xanh, áo lụa trắng hai mảnh hở cổ trần tay, giày da cao gót, cô bé tinh tươm xinh đẹp như một đài huệ hé nụ trong ánh nắng ban mai, vẻ thơ ngây ngỡ ngàng.
- Em tìm gặp ai?
Đang bên bàn điện thoại, Mơ thả rơi ống nghe, hỏi gióng ra. Cô bé đứng sững, chớp mắt. Lúng túng, tôi muốn lên tiếng nhưng chưa biết nói năng thế nào.
- Có phải chị là Phan Thị Mơ? Cô bé hỏi vói vào.
- Vâng! Nhưng em là ai? Mơ bước về phía cửa.
- Em à? Em là… Qua phút ngỡ ngàng, cô bé lấy lại bình tĩnh, nửa như mỉm cười nửa như e lệ. - Mà thôi, chị biết làm gì? Nghe đến đó, Mơ quay lại nhìn tôi.
- Khách của anh?
- Vâng! Thay vì giới thiệu cô bé, tôi chắn đỡ.
Những giọt nắng rực sáng lung linh ở thềm cấp.
Tiếng chim hót lảnh lót ngoài vườn hoa. Không biết vì sao đang lúc căng thẳng tôi vẫn để ngoại cảnh thu hút.
- Mời em vào! Mơ quay lại, nói với Tường Vi, lịch sự nhường chồng lại cho khách, nhưng giọng hơi xẵng, rồi nặng bước ra khỏi phòng. Nhìn dọc theo hành lang, tôi thấy cô ta đi nhanh về phía bếp. Tiếng chim hót, vẫn lảnh lót nhưng rộn ràng hơn, khớp nhịp với tiếng giày Mơ vọng lại. Tường Vi bước vào phòng khách, ngồi xuống chiếc ghế Mơ vừa rời bỏ, chợt nhận ra mình đến không đúng lúc, ngơ ngác nhìn quanh. Tôi nghe và có thể cả Tường Vi cũng nghe, thoang thoáng giọng Mơ bực dọc chì chiết Liên và vài ba tiếng vật dụng rơi vỡ. Rồi cô ta quay lại, ngang qua chỗ chúng tôi, mắt môi sưng tay cả lên.
Tôi chưa kịp phân trần, Mơ đã thoăn thoắt lên lầu.
- Có việc gì? Tôi day lại hỏi Tường Vi.
- Không! Cô bé nói ngường ngượng, nhương nhướng đôi mày, miệng mở hờ.
- Vậy tại sao đến?
Tôi hỏi, đã cố nhưng giọng vẫn không dịu dàng.
- Không phải ông cho gọi em sao? Cô bé cau có.
- Ai bảo thế? Tôi gắt.
- Chị Liên! Cô bé nói, đưa mắt dõi theo hướng trước đó Liên rút lui.
- Thế à! Tôi nấc nghẹn cộc lốc.
- Nghĩa là?… Cô bé nheo mắt, tưng tức.
- Nghĩa là có sự cố bất ngờ đáng tiếc, một trục trặc nào đó, có thể chị ấy nghe nhầm lúc trao đổi… Tôi nối tiếp ý cô bé. - Nhưng không sao, em đã tới, hãy ở lại chơi! Ngẫm nghĩ mấy giây, tôi nói thêm.
Xem ra bất lực và vô tác dụng. Tôi muốn tốc lên lầu, cầu cứu Mơ xuống tiếp ứng.
- Sáng nay có việc xuống chợ mua sắm, nhân tiện em ghé qua. Tưởng ông cần… Thì ra không có gì, vậy em về thôi!
Cô bé nói, bặm môi lún sâu hai lúm đồng tiền. Tôi đưa cả hai tay lên, miệng ú ớ. Tường Vi đứng dậy, bước nhanh qua cửa. Liên mang nước vào, đứng đơ như tượng, mặt mày tím tái nhưng thần sắc khe khắt kiên định. Mặc chị ta với khay tách trên tay, tôi theo Tường Vi ra ngõ, cô bé chẳng có một lời chào, ngồi lên xe đạp, đi ngay. Phố xá rộn ràng, nhưng sao cô bé lẻ loi lạc lõng! Tôi đứng vẩn vơ trong nắng một lúc, lắng nghe động tĩnh. Khi quay vào tôi thấy Mơ thấp thoáng, len lách từ vườn sau đi tới, đầu trần, bộ dạng thờ thẫn. Trở lại phòng khách, khay tách im lìm, Liên đã lui về bếp, tôi dập ống nghe vào ô. Trục trặc này do tình cờ hay âm mưu cài đặt? Tôi bần thần, tự hỏi. Không lẽ chị ta thâm độc đến mức ấy? Uống vội tách trà nguội, tôi lên phòng mình. Phải can đảm đối phó? Phải thẳng thắn hóa giải? Hẳn rồi! Nhưng bắt đầu từ đâu? Tôi thật sự bối rối.
- Con bé ấy là gì của anh?
Chừng nửa giờ sau, Mơ bước vào, hỏi ngay. Đang vận hành máy vi tính, tôi im lặng. - Nó từ đâu tới?
Mơ dồn thúc, căm tới nỗi như muốn banh xác tôi ra. Tôi vẫn im lặng.
- Sao chuyện như thế anh lại giấu em? Cô ta ngồi phóc lên bàn, ngổ ngáo hỗn xược như chưa bao giờ.
- Không phải giấu nhưng chưa tiện nói vì khó nói!
Tôi đấu dịu do đầu óc cứ rối tinh rối mù.
- Khó nói do bấy lâu nay anh lén lút phản bội em?
Cô ta vẫn trên đà thốc tới.
- Chưa bao giờ! Tôi phản đối.
- Tốt! Rất cám ơn anh! Nhưng em không ngây thơ đến độ ấy nữa đâu!
Mắt long lên, cô ta đứng phắt dậy, hất vỡ một vật gì sau lưng tôi rồi ra khỏi phòng, chẳng cần ý tứ đóng cửa như thường khi. Tôi nhìn theo, âm hưởng bước chân Mơ dội lại như những chấm ngắt dứt khoát, quyết liệt. Lạ, đang lúc này tôi vẫn nghe thấy tiếng chim hót và cả gió sớm lùa trên mái nhà! Chừng mươi phút sau, Mơ trở lại, áo váy chỉn chu, ngập ngừng trước cửa một lúc. Tôi có ý chờ nhưng cô ta lạnh lùng quay gót xuống lầu. Tôi lao theo tới lưng chừng cầu thang thì dừng lại nhìn xuống người mình. Khi tiếng xe máy Mơ vang lên ngoài cổng ngõ, tôi quay về phòng thay áo xống. Tôi hy vọng đưa cô ta đến một không gian khác và tìm cách giải thích rồi dàn hòa. Nhưng trên đường ra ga-ra, tôi lại tạt vào nhà ăn. Liên đang lúi húi bên bồn rửa, hai bếp ga tóe lửa xanh lè dưới đáy nồi.
- Chị nhắn cô bé ấy đến phải không?
Đang bức bối, tôi tra hỏi. Liên gật đầu, hai tay vẫn không ngưng chà xát vào mặt tấm thớt, quay lưng về phía tôi nhưng tai mắt như dửng cả lên.
- Bà Mơ nhờ chị? Tôi hỏi. Liên lắc đầu. - Vậy chị tự ý? Tôi vặn ngược lại. Liên khẽ gật. Tôi giận đến hóa điên. - Tạo ra một cuộc đụng độ như thế chị cảm thấy sung sướng, hả hê lòng dạ lắm ư?
Tôi đay nghiến. Liên im lặng mặc nhiên thú nhận, mím chặt đôi môi tím tái. Tiếng bát dĩa va chạm loảng xoảng. Tiếng nước chảy xè xè vào bồn. Liên cúi gập người như vói nhìn một vật gì ngoài cửa sổ.
- Sao chị cứ dai dẳng nối tiếp một chuyện đáng ra kết thúc từ lâu? Tôi hỏi, sấn tới.
- Không! Chị ta quả quyết.
- Không ư? Vậy đó là gì? Tôi gắt.
- Giờ em chỉ phá thôi! Chị ta nói.
- Tại sao? Tôi nôn nao.
- Để bớt nghe đau! Chị ta nói.
- Tôi có bao giờ hành hạ ai? Tôi nói.
- Vì ngày xưa, cậu đã… Chị ta nói.
- Biết rồi! Quên đi! Tôi chận họng.
Chị ta vẫn nói cho bằng được.
- Vì ngày xưa, cậu đã… và cả hôm nay… Những gì bao quanh đời em đan xen với hành tung của cậu khiến em không thể…
Cô ta gượng thẳng lên, nhưng lấp lửng quanh co.
- Tôi thật sự không hiểu chị muốn gì!
Tôi áp cận, chị ta cố tình xoay người tránh mặt.
- Căn phòng tít lầu ba mấy năm qua có ai ở đâu, thế mà một lần cậu bảo thay ga giường, bất ngờ em phát hiện một sợi tóc dài ánh mướt lưu lại trên mặt gối. Bốn bề cửa đóng then cài, của ai vào đây? Tóc mợ Mơ to sợi và hơi khô, tóc em đã cắt ngắn từ lâu và sớm se màu! Chị ta tỉ tê rỉ rả. - Một lần cho các thứ vào máy giặt, em phát hiện cái áo khoác màu be cậu thường mặc đi chơi đêm ướt sũng máu. Hôm sau, để ý quan sát em thấy người cậu chẳng có thương tích nào. Một lần lau chùi toa-lét, em nhặt được mấy cái cặp tóc loại ba lá màu xanh lơ. Nhà chỉ có hai người đàn bà, mợ Mơ và em đều không dùng thứ đó. Thì ra sau lưng vợ, trong cái nhà này cậu còn có một người khác!…
- Đó là chỗ riêng tư sâu kín của tôi, chị không được phép! Tôi nạt.
- Đúng, một con ở thì không được phép rình mò, tra xét chủ. Không cần cậu dạy bảo em cũng biết thân phận mình! Chị ta bật khóc, nói năng chít chát. - Nhưng một gái làng chơi ai dám cấm nó không được lân la, không được kêu xin, không được ghen tuông?
Chị ta nhìn thẳng vào tôi, ánh mắt sắc lạnh.
- Chị không có quyền! Tôi nạt to hơn nữa.
- Đúng! Nhưng vì cậu ăn ở không cân phân, vì cậu chẳng chịu xuôi theo vết mòn khiến em phải bạc ác. Có phải tình cũ không rủ cũng tới không nào, mợ Mơ đi vắng, cái khoảng trống đó là của em.
Chị ta nói, cúi gầm mặt, toàn thân run rẩy, một cái cốc đâu đó rơi xuống nền nhà, tiếng vỡ toang thủy tinh làm tôi bình tĩnh trở lại.
- Ngày ấy chúng ta tình cờ gặp nhau do sinh hoạt và sinh kế của mỗi người, còn bây giờ chị không phải là Đào Thị Hà năm xưa, và tôi đâu còn là Chu Bá Ngôn nên không việc gì phải chung gối chung chăn.
Nói năng sỗ sàng kiểu đó thật bất nhã, nhưng đã đến nước này, tôi nghĩ giữ ý giữ tứ làm chi nữa.
- Tại sao không? Ngược lại mới lạ! Cậu đã từng kia mà! Em còn nhớ mãi rung động ân ái đêm ấy.
Chị ta xuống giọng rồi đứng đơ như bắt vạ.
- Sông có khúc người có lúc, hồi đó tôi là cái thứ gì chị biết không? Tôi hỏi.
- Cậu hoạt động cách mạng, giả dạng sinh viên chui rúc nội thành để đánh phá Mỹ-Ngụy! Chị ta nói.
- Thế bây giờ? Tôi lại hỏi.
- Cậu đang hưởng thành quả cách mạng, làm ông chủ kinh tế, tiền non bạc biển, dưới trướng cả ngàn người chực chờ sai bảo! Chị ta nói.
- Biết vậy, tại sao chị cứ bướng bỉnh đảo ngược thời gian, tráo trở hoàn cảnh? Tôi nói.
- Lúc làm cách mạng cậu nhanh nhạy kết hợp vận dụng em, lúc an hưởng thành quả cậu điệu đà giả tảng lãng quên em! Chị ta nói.
Có lối vin cành hái quả theo cách đó a? Lệch lạc, nhấp nhem nhưng khó mà giải thích! Tưởng đến một số huân chương Chống Mỹ Cứu Nước treo nhan nhản khắp mọi nhà như lá mùa thu, tôi rùng mình. Thì ra từ khi lên Tây Nguyên và nhận ra tôi, chị ta lãng đãng mơ màng. Và dọc theo năm tháng, chị ta luôn khơi gợi, vuốt ve hoang tưởng. Tranh với người khôn không lại, cãi với người dại không cùng! Tôi thầm nghĩ và cảm thấy xấu hổ. Bích Thảo đã xa chạy cao bay nhưng hiểm nguy cho Tường Vi bất ngờ mở ra từ hướng khác. Nóng giận nguội dần, tôi thấy đã đến lúc phải dứt khoát.
Rút ví da khỏi túi, tôi dốc hết tháng lương vừa nhận hôm qua xuống mặt bàn.
- Kể từ giờ phút này coi như chấm dứt hợp đồng thuê mướn, việc gì còn dở dang chị cứ để lại đó!
Tôi lùa tiền đến tận mé bàn, dùng con dao chặt xương dằn lên. Chị ta liền tháo tạp dề vất vào xó, tắt hết các bếp ga, đổ tất cả những gì đang nấu vào bồn rửa. Ngoài chủ đích phá phách chút đỉnh cho bõ ghét, thái độ ấy còn biểu tỏ chẳng còn gì lưu luyến nữa.
Để mặc chị ta tự thu xếp, tôi lên lầu trở lại.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Christiane

Re: Phiên Bản Tình Yêu (Vũ Biện Điền)

Postby bevanng » 05 May 2016

- A.52
Tình dục là của Trời?
Tình yêu là của Người?


Vậy là đi tong cái ý định đuổi kịp theo Mơ! Sực nhớ, tôi căm tức Đào Thị Liên hơn nữa. Đã sẵn tinh tươm áo xống, tôi muốn xuống phố, lang thang đâu đó cho khuây khỏa. Nhưng chợt nghĩ từ giờ phút này không thể giao nhà cho hạng người như thế nữa, tôi cứ đi đi lại lại trong phòng, gióng tai nghe ngóng, cảnh giác kẻ ác đang cận kề cài đặt tai họa. Lúc uống xong cốc nước khoáng, tôi phát hiện một cánh cửa tủ mở hờ, mấy ngăn hộc bàn toang hoác, chăn gối xốc xếch. Tất cả khẳng định có ai sục sạo và báo động có điều bất ổn. Lật tốc đầu nệm, tôi phát hiện khẩu K54 đã biến mất. Chỗ ngủ nghỉ, không ai vào đây ngoài vợ chồng tôi. Ngẫm nghĩ một lúc, tôi quyết chắc nó đang trong túi xách của Mơ. Một người sành sỏi xử dụng vũ khí như cô ấy, đang trong tâm tưởng bị chồng phản bội, không thể không quan ngại. Có thể Mơ sẽ dùng súng chấm dứt đời mình để sớm thoát khỏi căm hận giày vò? Có thể Mơ sẽ ra tay sát phạt kẻ dám cướp giật hạnh phúc của mình? Suy đoán theo hướng nào cũng làm tôi hoảng. Có nên gọi báo cho Cẩm Bình? Có nên gọi báo cho Tường Vi? Có nên gọi báo cho công an? Không! Thoáng nghĩ đến bọn Hồ Minh Dũng, tôi khẳng định. Đáng ra phải hành động ngay, tôi lại ngồi vào giường, vò đầu vặt tóc suy nghĩ, nhưng chỉ có bóng tối ngập tràn tâm trí. Rồi từ trong cái vũng âm u ấy, hiện lên một du kích Phan Thị Mơ len lách, truy bức, hạ sát Việt gian. Rõ ràng cô ta đã kinh qua và chưa lùi bước trước máu. Ngày ấy chấp hành lệnh cấp ủy, Mơ đã giòn giã đến thế, bây giờ vâng theo trái tim mình, cô ta sẽ năng nổ đến mức nào! Đang lúc mải miết lo toan, chợt nghe tiếng mở cổng, tôi lao ra bao lơn nhìn xuống. Bóng Liên liêu xiêu dắt xe qua ngõ, những tờ giấy bạc sút khỏi tay chị ta rơi vãi dọc lối đi. Tình yêu là hoa văn của tình dục. Thời trai trẻ, mỗi khi đấu hót triết thuyết hiện sinh duy vật và trào lưu lãng mạn hippy, (141) trong bạn bè có người đã khẳng định với tôi như thế. Bây giờ tôi mới nghiệm thấy Liên đang sống theo hệ lụy do tình dục chủ đạo. Tình dục là hoa văn của tình yêu. Thời trai trẻ, mỗi khi đấu hót triết thuyết hiện sinh duy tâm và trào lưu lãng mạn hippy, trong số bạn bè cũng có người khẳng định với tôi như thế. Và bây giờ tôi nghiệm thấy mình đang sống theo hệ lụy do tình yêu chủ đạo. Ở vào độ tuổi bất hoặc như Khổng Tử từng nói, (142) tôi nhận ra vạn vật đều mang tình dục, nhưng chỉ con người mới có thêm tình yêu. Vậy tình dục là tiên thiên, âm mưu của Trời, để phủ dụ vạn vật dẫu có khổ lụy trên đường đấu tranh tồn tại cũng không thể thoát khỏi vòng sinh hóa. Còn tình yêu, là hậu thiên, ý nguyện của Người, dẫu biết hư vô là ngõ về chung cuộc, vẫn vinh danh cho ai dám vượt thoát cô đơn trên bến nước trần gian. Đó là điều tôi muốn Đào Thị Liên phải hiểu nhưng không thể truyền thông do hạn chế của mỗi cá nhân trong quan hệ!
(141) Phát xuất từ triết học hiện sinh, hình thành một trào lưu muốn thoát khỏi những tiện nghi vật chất công nghiệp, thoát khỏi thủ đoạn chính trị và kỹ thuật chiến tranh tối tân, một số thanh niên Âu Mỹ quay về với thiên nhiên, yêu hòa bình, chống lại nếp suy nghĩ của phong tục tập quán cũ, thích vui chơi, nhảy nhót, hưởng thụ.
(142) Khổng Tử (551-479 TCN) nhà tư tưởng vỹ dại của Trung Hoa, nói “Tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri thiên mệnh, lục thập nhi nhĩ thuận, thất thập nhi tùng tâm sở dục bất du củ” (Ba mươi tuổi mới đứng vững, bốn mươi tuổi không còn do dự, năm mươi tuổi hiểu được mệnh trời, sáu mươi tuổi thấy mình không nghịch với lẽ phải, bảy mươi tuổi làm việc gì cũng trúng theo ý muốn)
Suốt tuần Mơ không về nhà.
Xen kẽ với từng sinh hoạt thường ngày, tôi có cảm tưởng mình đang đón chờ một tai họa. Rồi nghĩ đến Tường Vi thơ ngây, tôi càng kinh hãi hơn nữa. Dù đổ vấy cho ai, suy nghĩ theo hướng nào, tôi vẫn thấy mình là đầu mối phát tán hiểm nguy. Nếu có thám tử chuyên trách chắc tôi đã thuê bí mật dò la hành tích vợ và bảo vệ cô bé. Những cuốc điện thoại tôi gọi tới máy di động của Mơ chỉ nhận lại phản hồi tự động của tổng đài truyền thông - tạm ngưng hoạt động, xin vui lòng gọi lại sau! Biết cô ta khóa máy, tôi nhờ Mai thị Dung bỏ công thăm tìm. Suốt hai ngày, khi dùng điện đài, khi dùng xe, Dung đến những nơi Mơ thường lai vãng, không lần thấy vết tích nào. Tôi gọi tới các khách sạn trong tỉnh, tất cả nhân viên lễ tân đều cho hay chưa có hân hạnh đón tiếp một khách hàng mang tên Phan Thị Mơ, hoặc một người có khổ dạng như thế. Quẫn quá, tôi đi dọc hai bờ sông, săm soi đến từng lùm cây, cụm cỏ, gầm cầu. Rồi tôi nghĩ tới những nơi xa hơn Mơ có thể đến. Tôi gọi về thị trấn Khâm Đức ở huyện Phước Sơn (143) cho mẹ. Nghe thấy gì ở tôi, bà khóc. Tôi gọi về Huế cho Xuân Hoa. Cô ta cho hay từ lâu đã mơ hồ sẽ có rạn nứt nhưng không ngờ trầm trọng như bây giờ. Tôi gọi ra Hà Nội cho cha. Ông lặng đi một lúc rồi khuyên tôi không nên buông thả tình cảm thái quá, phải biết giới hạn và phải tự thân gánh lấy số phận. Tôi gọi về Sài Gòn cho mấy người quen. Không nơi nào có tí ti tin tức, ngược lại họ bàng hoàng sửng sốt, có người còn tưởng tôi pha lẫn thăm hỏi đùa bỡn tí đỉnh cho vui vẻ. Sau cùng, tôi quyết định thu xếp công việc ở tổng công ty, gởi nhà cho con Ma Ngát trông coi, đi tìm vợ…
(143) Phước Sơn tên huyện mới của quận Thường Đức trước 1975.
Nhưng đột ngột, với chìa khóa sẵn có, giữa khuya cô ấy lặng lẽ trở về, áo xống tả tơi, sực nức mùi rượu, thân tàn ma dại. Sau khi tắm rửa, khoác tạm khăn bông, Mơ vào phòng mình, khóa chặt cửa. Đợi mãi không thấy ra, mấy lần tôi thăm dò, chẳng nghe động tĩnh.
- Em không mở, anh phải phá mà vào thôi!
Nghĩ tới khẩu K54 cô ta đang giữ, tôi nói qua lỗ khóa. Van nài đến lần thứ ba, không có biến chuyển, tôi phải dùng máy cưa điện cầm tay định cắt bản lề, Mơ mới chịu hé cửa. Tôi vào ngồi xuống phía cuối giường, cô ta phủ kín chăn tận đầu, nằm quay lưng, bất động.
- Đã tới nước này, anh không thể bình tĩnh nữa.
Tôi khởi cuộc trò chuyện. Mơ vẫn im lìm.
- Có chịu nghe anh nói không, điều gì khiến em bức xúc? Tôi thận trọng từng lời.
Nài nỉ năm lần bảy lượt, Mơ mới xoay người, hé chăn, nhướng đôi mắt cuồng dại sâu hút nhìn lên.
- Con bé ấy có phải tình nhân của anh không?
Cô ta hỏi, giọng khàn khàn nhưng khá rõ.
- Không! Tôi quả quyết. Thấy nói năng chừng đó chưa đủ thuyết phục, tôi muốn dàn trải nhưng ngại chuệch choạc, phức tạp thêm.
- Nó từ đâu tới? Cô ta hỏi.
- Huế! Tôi nói ngay. - Hình như…? Cô ta chồm dậy, ú ớ rồi tắc tị.
- Con gái của Bửu Dương! Biết hồi ức đã đẩy ý thức Mơ tới tiệm cận, tôi nói thay những gì cô ta hút hớt, ngặt thắt cổ họng.
- Với Cẩm Khuê? Cô ta hỏi tới.
- Vâng! Tôi khẳng định.
- Hèn gì!
Mơ đập tay xuống giường, thở dài, nằm trở lại. Tôi chờ cô ta lên tiếng, mãi không thấy. Tôi muốn tìm cách khai giải nhưng ngại kích động cô ta đang lúc thủ súng. Vật vã một hồi, cô ta oằn ẹo ngồi lên, lết về góc xa, thúc đầu vào giữa hai gối và khóc. Tình huống này không có trong dự liệu, ảo não nhưng tôi không bi lụy theo những giọt lệ tươm tướp từ một tấm thân héo hắt. Rõ ràng hơi vô tâm, nhưng tôi chỉ chờ nghe và muốn giải đáp.
- Đã là con gái Cẩm Khuê, em khó mà tin những gì anh vừa khẳng định! Hai mắt nhòe nhoẹt, Mơ cúi mặt tức tưởi. - Một khi thịt da máu xương chị ấy réo thúc, dẫu có trời phật và cả mẹ cha cũng không ai cản nổi bước chân anh!
Cô ta nói và khóc to hơn, máu trào ra hai đầu khóe mắt, ràn rụa xuống tay. Có thể như vậy. Nhưng những gì Mơ vừa vẽ vời chỉ là hư huyễn. Tôi tự nhủ, e sợ nghĩ tới một người vợ mù lòa trong nay mai. Và đó là một hiện thực. Tôi run rẩy nhắc bổng người Mơ, đặt cô ta nằm xuống giường, dùng gối kê cao đầu, lau khô mặt mày. Người cô ta lạnh, cứng dơ như một cái xác. Tôi vạch mắt điểm thuốc, đắp chăn phủ kín tấm thân trần. Rồi chẳng biết nhờ vả ai, tôi đích thân lặng lẽ xách cặp lồng xuống phố, tìm mua thứ gì thường ngày cô ta ưa thích. Khi ngang qua chỗ bán cao lầu, nhà hàng đã đóng cửa, tôi tới một tiệm ăn người Hà Nội mua phở và ít chả giò. Về nhà, Mơ đã ngủ hoặc đã lùi sâu vào mông muội.
- Em cố mà ăn tí đỉnh cho khỏe người!
Tôi van xin cầu may, cô ta vẫn thiêm thiếp mụ mỵ. Tôi cứ van xin và đi đi lại quanh giường. Được một lúc, tôi lên phòng mình, giở tìm chồng báo cũ, nằm đọc để giết thì giờ. Đồng hồ gõ đúng mười hai tiếng, tôi quay xuống, Mơ vẫn nhắm nghiền mắt, nhưng nhịp thở đã đều. Nhìn đàn kiến đang leo lên chiếc bàn nhỏ ở đầu giường, bất chợt tôi phát hiện chiếc cặp lồng nguội lạnh. Mở ra xem, những sợi bánh nứt nớt lềnh bềnh như cháo loãng, mỡ màng đóng váng và đã có mùi khăm khẳm. Tôi nếm thử rồi đem đổ vào bồn cầu. Phải mua cho được cao lầu! Vừa trở ra, tôi lại nghĩ tới việc xách cặp lồng xuống phố lần nữa. Nhưng liệu Mơ có chịu ăn? Tôi ngập ngừng. Không chịu ăn uống, vậy cô ta trở về làm gì? Cùng đường? Không! Đấu tranh. Có thể. Nhưng mục tiêu? Buộc tôi từ bỏ, nhượng bộ. Thú thật, ở vào cảnh này tôi không dám từ bỏ và không biết nhượng bộ là nhượng thế nào! Tôi chỉ phấn đấu thực hiện những gì mình không thể làm khác. Tôi bảo mật không phải vì xấu hồ mà vì cảm thấy không việc gì phải công khai. Và hình như công khai là lố bịch, là xúc phạm lương tri và nhân phẩm. Với ý nghĩ ấy, tôi đứng ì quan sát thần thái Mơ, tâm tư trì trịch. Tới lúc nghe mỏi, tôi ngồi xuống chiếc ghế bành cạnh bàn phấn. Hy vọng cô ta sẽ có một biểu hiện tích cực, tôi kiên nhẫn chờ đợi…
Khi thức giấc, tôi nhận ra mình vẫn trong chiếc ghế bành, đầu ngã lên thành dựa và Mơ đang đứng cạnh, bên ngoài trời đã sáng. Cô ta chưa bình thường hẳn, nhưng thấy vợ có phần tươi tỉnh, tôi vô cùng phấn khởi. Có lẽ một tuần bỏ nhà ra đi đủ cho Mơ hồi tâm phản tỉnh nhận biết đã xử thái quá với chồng. Phần mình, tôi thấy giờ là lúc thể hiện yêu thương bằng mềm mỏng nhẫn nhịn. Tôi đưa Mơ vào toa-lét, điều hòa nước vừa đủ ấm, đích thân tắm táp cho cô ta. Mơ thuận theo bộ dạng cứ sững sờ ngờ nghệt, đến nỗi xiêm y cũng không muốn mó tới. Như một bảo mẫu cần mẫn tôi soạn áo xống, mặc đủ các thứ cho vợ. Tiếp đến, tôi đặt Mơ vào chiếc ghế bành trước bàn trang điểm, dùng phấn xoa mặt, dùng chì kẻ mi, dùng son tô môi. Rồi tôi ngỏ ý cùng nhau đi ăn sáng, cô ta khẽ nhếch mép gật đầu. Tôi về phòng mình, vội vàng làm vệ sinh cá nhân, sửa soạn một số việc thường ngày. Xuống phòng khách, tôi gọi điện báo cho Mai Thị Dung hay Mơ đã về nhà, lưu ý hôm nay tôi vắng mặt ở tổng công tỵ, và không muốn ký một giấy tờ nào đưa tới. Bất chấp công việc kinh doanh, bất chấp quan hệ cấp trên cấp dưới, tôi ngắt điện thoại bàn, khóa luôn điện thoại di động, quyết dành trọn thời gian cho vợ. Mơ chậm rãi xuống lầu, túi xách quàng vai, người xác xơ nhưng dáng vẻ đằm thắm, thần sắc tươi tỉnh. Thấy vợ đổi thay, tôi mừng. Sau cơn mưa trời lại sáng, tôi thầm nghĩ, cho xe ra tới ngoại ô, chọn một nơi điểm tâm thuộc hạng cao sang nhất thành phố.
- Mẹ con em sẽ chờ anh bên đó! Cuối bữa ăn sáng Mơ nói. Tôi giật mình đánh rơi cả dao nĩa.
- Mẹ con em sẽ chờ anh bên đó!
Tưởng tôi lơ đễnh không nghe rõ, cô ta lặp lại.
- Nghĩa là không về nữa?
Vẫn nghi ngờ và hy vọng, tôi thăm dò, cô ta khẽ gật đầu. Tôi thóp cả ruột gan.
- Mới đó mà em đã đổi quyết định?
Tôi than, chẳng nuốt nổi thêm miếng nào.
- Trong quan trường và cả thương trường, bấy lâu biết anh đàn đúm chơi bời, biết anh đi lại hết bà này tới cô kia, em chấp nhận. Tin anh, em cảm thấy không sao và bình thản từng ngày! Mơ nói, điềm đạm như một nghệ nhân phát biểu khi được phỏng vấn.- Nhưng nay đối mặt với Cẩm Khuê, em không thể…
- Cô ấy chết rồi! Tôi ngắt lời Mơ.
- Thế ư? Cô ta nhìn tôi. - Em chết thì có!
Cô ta nói, dùng tay dịch sửa kính màu che mắt, ép nát một giọt lệ vừa ứa trào.
- Em đã nhầm, đó là con gái của cô ta!
Tôi ghé sát tai Mơ, tách bạch.
- Em chưa mụ mẫm tới nỗi trông gà hóa cuốc! Em có mù đâu mà không phân được thực giả! Nhưng quả thật chị ấy chưa chết!
Mơ khẳng định như dao chém xuống đá.
- Vậy trước đây ai báo cho anh hay cái tin dữ ấy?
Tôi hỏi vặn, thầm mong dập tắt ảo ảnh trong đầu Mơ, nhưng cô ta cứ lờ đờ.
- Anh biết không, mãi cuối năm 79, thiếu tá Bửu Dương mới đi tù về. Hay tin, cha lên thăm. Cả nhà không có cái ăn, cha bảo mạ chia lương thực nhà mình làm hai, bảo em mang một nửa lên cứu đói. Từ làng quê tới phố phường có ai no đâu, bà mẹ từ chối, nhưng Bửu Dương xin nhận, bảo vợ viết thư thăm hỏi và cám ơn. Lúc ngồi chờ, có dịp ngắm nghía, em thấy những gì trước đây anh vẽ vời tâng bốc chị ta chẳng ngoa tí nào. Xanh xao nhưng vẫn sắc nước hương trời! Đói khổ triền miên, xạc xài nắng gió mà còn xinh đẹp cỡ ấy, vậy khi ấm no, thanh thản chắc hẳn hoa nhường nguyệt thẹn. Những ai từng cận kề như em, giờ khó mà hồ nghi chị ấy đang hiển hiện trong con bé. Và cả anh nữa, có phải chị ấy đã trở về trong anh bấy lâu? Trời ơi, mãi lao về phía trước, giờ em mới thấy được phía sau. Nhưng đã muộn mất!
Mơ nói, an nhiên, tỉnh táo.
- Em điên mất rồi! Tôi la lên rồi thở dài, ngơ ngác.
Ngày Mơ bàn tìm cách đưa con đi du học, tôi không ngờ mở đường phân ly, chia cắt gia đình. Ngày tôi rong chơi, gặp Tường Vi, không ngờ thuyền tình vẫn lững lờ sông nước. Oan nghiệt trần gian đòi nợ, nhưng tôi chỉ có một con tim. Hình như bấy lâu tôi nuôi hy vọng về cả hai phía bằng huyễn mộng. Nghĩ đến đó, dạ đau thắt, nước mắt ứa tràn tôi để mặc cho tuôn chảy.
- Nếu đã không cưỡng nổi lòng mình, sá gì chút nghĩa cũ càng bùn chua cỏ úng, anh hãy can đảm đạp lên mà sống! Giọng Mơ cay độc đến lạ.
- Không! Tôi tiếp lời cô ta, không rõ muốn nói gì.
- Thuê côn đồ hành hung, tạt acide hủy hoại nhan sắc, yểm bùa cho vong mạng kẻ đoạt tình, con quỷ Liên bày đủ chước, hứa hết mình giúp, nhưng anh yên tâm, em không bao giờ hèn hạ nghe theo! Cô ta nói. - Em đau đớn mất anh. Nhưng anh sẽ không mất em và con!
Thấy tôi quá thống thiết, cô ta nói thêm. Cảm thấy xốn xang, tôi im lặng. Nhà hàng đang đông khách, chỗ ngồi không kín đáo, chúng tôi không lưu lại lâu hơn. Mơ lạnh lùng đến quầy trả tiền rồi cùng tôi xuống lầu. Vài ánh mắt dõi theo, âm thầm thèm khát hạnh phúc trong bước song hành của vợ chồng tôi. Lúc băng qua đám cỏ đến bãi đỗ, tôi lén nhìn Mơ, phát hiện lòng mắt cô ta như có ánh lửa. Rõ ràng không khí yên ắng sáng nay chỉ dấu báo hiệu một cơn bão khác sắp tới! Biết vậy nhưng tôi chưa tìm ra cách thức chống đỡ.
- Cũng như Cẩm Khuê ngày chị ta đến từ biệt anh ở nhà xác, hồi nãy em có khuyên anh đạp lên mà sống! Mơ đồ lại ý mình, tôi gật đầu. Cô ta tiếp. - Tới nước đó mà không vượt được hãy nhờ đến cái này.
Khi xe sắp lăn bánh, cô ta nói rồi mở ví rút khẩu K54 đặt lên mặt ghế trống giữa hai chúng tôi. Trước một ngày vào trận, Trần Kỳ Hải mới giao súng. Tôi nghĩ đến mục tiêu đánh phá là con cầu bê-tông đồ sộ, nên hỏi để làm gì, anh ta bảo nếu không kịp hướng đến kẻ thù thì hãy nhắm vào mình. Chợt nhớ, tôi rùng mình. Một thoáng hồi tưởng giúp tôi hiểu thấu sở nguyện của Mơ… Dừng xe, tôi úp mặt vào tay lái suy nghĩ một lúc rồi thu lại súng cho vào thắt lưng.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Christiane

Re: Phiên Bản Tình Yêu (Vũ Biện Điền)

Postby bevanng » 07 May 2016

- Z.32
Nỗi đau từ một giấc mơ tự do. Những tâm hồn một thời đáp lời non sông gọi. Công thần dân tộc, tội đồ thời đại?


An định chỗ xong, Trần Kỳ Hải sắp sửa tuyên bố lý do, người ngồi đối diện cứ ngơm ngớp nhướng nhón đưa tay ra hiệu bảo dừng. Chúng tôi nhìn xuống chiếu. Trước mặt đũa chén bày sẵn, những dĩa thức ăn đã phân đều, cách quãng những ly rượu nấu bằng sắn lát khô bốc mùi hăng hắc. Còn chờ gì nữa, tôi đưa mắt thăm dò Trần Kỳ Hải rồi lướt khắp mọi người.
Tự dưng không khí trầm hẳn, tất cả như ngờ nghệch, mất khí sắc háo hức ban đầu. Lộn sòng, lạc bạn, lẻ bầy? Nhận ra cảm giác bất thường ẩy, nhưng tôi nghĩ do mình ở xa tìm về, chưa kịp hòa nhập với lề thói.
- Chị Xuân Hoa ơi, cho chúng tôi xỉn thêm mẩy chiếc cốc nữa! Người ra hiệu lúc nãy lên tiếng.
- Thiếu ư? Người ngồi cạnh anh ta kiểm tra bằng cách đưa tay phân cụm thực khách, rồi đối chiếu với ly tách. - Hai mươi tư, đủ! Anh ta hô to.
- Không, thiếu mà! Người xin thêm cốc vẫn ương bướng, hong hóng.
- Để làm gì? Một người khác tóc đã hoa râm húi theo kiểu thể thao hỏi, ánh mắt săm soi.
- Cúng! Người xin thêm giải thích.
- Có ngay! Thấy vậy, Trần Kỳ Hải chiều khách, đứng dậy rời chiếu làm thay vợ.
- Kẻ sống người ta còn muốn quên, người chết việc chi phải tơ tưởng? Ai đó cay chua.
- Đúng! Nhưng đó là chủng nó, còn chúng ta, thì không thể! Người xỉn thêm cốc quyết bảo vệ ý mình.
- Vì sao? Một người ngồi góc trong gióng tiếng mặt gằm gằm.
- Người chết mới thực là anh em ta, bây giờ nhân phẩm hạ giá, người sống biết đâu mấy chốc trở nên thù.
Nói xong người xin thêm cốc hóng mắt về phía cửa. Trần Kỳ Hải trở lại với hai chồng cốc trên tay, một bạn gái rước lấy phân đều thành một vòng tròn nhỏ chính giữa hai vuông chiếu. Người đối diện tôi mặc áo quần bộ đội, kính cẩn cầm chai rượu, hai tay run run.
- Chủ nhà thay mặt anh em khấn đi! Rót xong, anh ta chỉnh lại sáu cái cốc cho ngay ngắn rồi giục.
- Khấn gì, mà biết khấn những ai? Anh em chúng ta chết nhiều quá!
Người có giọng chua cay lúc nãy lại lên tiếng. Tất cả ái ngại nhìn nhau, ánh mắt u uẩn. Xuân Hoa ngầm ra hiệu bằng mắt cho chồng. Trần Kỳ Hải liền quỳ xuống, chắp hai tay trước ngực, mấp máy môi, lâm râm. Cách chẳng bao xa, tôi không nghe được gì, chỉ biết liền sau đó anh ta xúc động đến lả người. Một khách nữ đưa tay bưng mặt, nghiêng người núp sau lưng một bạn gái. Tôi không ngờ không khí đang hân hoan phút chốc bi lụy đến thế.
- Em không được khóc! Người khách chua cay lúc nãy lại lên tiếng. - Em mà khóc làm sao các anh cầm được nước mắt.
Ngô Hiếu buông đũa, chống tay xuống mặt chiếu, co rúm hai vai, nghẹn nấc. Phổ vừa nâng ly vội đặt trở lại, bực dọc nhìn sang bạn.
- Khi mô cũng rứa! uống đi! Anh ta gắt gẩm.
Một tiếng nấc khác cất lên, Xuân Hoa rời chiếu ôm mặt lui vào trong, Trần Kỳ Hải thương cảm nhìn theo.
Ước gì tôi còn nước mắt như chị ấy! Tôi cũng nhìn theo Xuân Hoa như Trần Kỳ Hải và thầm nghĩ.
- Có anh chị em nào về không nhỉ?
Bỗng dưng một người hỏi khống.
- Không! Không có đâu, mà dại gì…
Ai đó cay đắng hụt hẫng mai mỉa.
- Sao vậy? Có người khẽ khàng lên tiếng.
- Dầu chưa hoàn thành nhiệm vụ, nhưng đã may mắn gục ngã sớm, tại sao không thanh thản mà ra đi!
Anh ta thì thầm giải thích.
- Đó là lòng anh, còn tai em đang nghe các anh chị ấy lê bước! Một giọng nữ nhẹ nhàng cãi lại.
Đang cúi gằm vào khoảng không trước mặt, tôi vội ngước mắt nhìn lên trên đầu mọi người.
- Ôi Hồ Chí Minh! Bất chợt một người gào to.
Tôi không xác định được kẻ vừa uất ức dằn tiếng, ban đầu thoáng nghe rất lạc lõng.
- Đừng có cào bậy! Ông ta đã ngỏm trước đó đến sáu năm! Một người khác hãnh hách nạt nộ.
- Đối với lịch sử, sáu năm chỉ là ánh chớp!
Thêm người không đồng tình. Thì ra đề tài vẫn nóng hổi. Tôi thầm nghĩ. Chính xác là ngày 2 tháng 9 năm 1969. Tôi chợt nhớ. Đúng hôm tôi ra Huế ghi danh đại học Luật, đêm đầu tiên ở nhà trọ vừa nghe đài BBC đưa tin vừa nghe đại bác ầm ào ngang qua thành phố.
- Quan trọng là cái gốc, ngọn kể làm gì! Quan trọng là người trồng, kẻ hái trái kể làm gì! Nên chỉ ông ta không tránh khỏi cái tội đầu mối của mọi tai họa cho cả dân tộc, ác thay cái bóng ma ấy còn di hại lâu dài!
Người vừa dằn tiếng kết thúc cuộc tranh cãi do mình khơi gợi.
- Tìm đường cứu nước mà thế a!
Vẫn có người chưa chịu dừng lại.
- Cái tròng kép Nga-Hoa hiểm độc hơn cả phong kiến phương Bắc, tàn ác hơn cả thực dân phương Tây!
Một người khác phụ họa.
- Ông ta còn mượn màu tuyên ngôn độc lập của Mỹ để tô vẽ! Người rót rượu cúng lúc nãy bồi thêm.
- Ngón nghề bịp bợm nào mà chả thế, mặc cha chúng nó, uống thôi! Ai đó lớn giọng hối thúc.
Chúng tôi nâng chén. Đến lúc này, mỗi người một tiếng, tôi không còn phân biệt được nguồn phát.
- Chỉ tội ông cha mình ngu dại kéo theo con cháu!
- Không ngu sao được? Khôn thì đã làm bồi Tây!
- Dân ta như bầy ngựa, uất hận trăm năm đô hộ (144) khát khao độc lập, bị thôi thúc như lửa đốt đít, làm sao không lao tới dưới làn roi mã phu chuyên chỉnh!
- Nghĩa là nhắm mắt mà chạy ùa tới?
- Có thể!
- Và lũ chủng ta nứt mắt ra cứ vớ * mẹ mà bú rồi cứ theo chân cha mà tiếp bước.
- Ngộ quá nhỉ, trí thức mà thế a?
- Thôi nào! Đang lúc nhà cháy không ai tỉnh trí được đâu!
- Tại sao không? Phan Châu Trinh đã nói rõ là gì! Khai dân tri. Chấn dân khí. Hậu dân sinh.
- Nhưng tầm nhìn của dân ta chưa tới mức ấy, chỉ biết nóng đâu phủi đó.
- Thế là ngu! Đã ngu thì phải ráng chịu.
- Nhất trí thôi! Nhưng giờ ta đã hết ngu chưa?
(144) Tính từ năm 1858 (31 tháng 8, tàu chiến Pháp tấn công cảng Đà Nẵng) đến 1954 (20 tháng 7, hiệp định đình chiến Genève bắt đầu có hiệu lực), chính xác: 96 năm.
- Chưa! Và cỏn hèn thêm nữa.
Mỗi người một ý, không khí căng thẳng dồn ứ, bản thân tôi cũng cảm thấy bí bức. Xuân Hoa trở lại với chiếc khăn nhỏ ém trong lòng tay, mắt còn ngấn nước.
- Xin lỗi các bạn, mình không tự kiềm chế được!
Chị nói, quắp chân tém tẻ ngồi xuống, gắp bỏ thức ăn vào chén hai người bạn gái cạnh mình. Nối lời vợ, Trần Kỳ Hải yêu cầu mọi người thật lòng dẫu thức ăn đồ uống quá đạm bạc. Nhưng tất cả thực khách không còn ai màng tới chuyện ăn uống.
- Nghĩ cho cùng trước sau đều do Mỹ!
Bầu không khi ưu uất vẫn hừng hực, một người khác muốn trở lại đề tài.
- Lãnh đạo phe Đồng Minh trong thế chiến 2, tổng tư lệnh hai mặt trận Đại Tây Dương, Thải Bình Dương, diệt Phát Xít (145) Đức-Ý-Nhật, giải phóng nhân loại khỏi đại họa, nhưng lại ủng hộ thực dân Pháp tái chiếm nước ta. Rao giảng tự do, dân chủ, nhân quyền, nhưng trong thực tế lại chơi đẹp với thực dân Anh và thực dân Pháp, hai đế quốc có nhiều thuộc địa nhất nhì thế giới.
(145) Chủ nghĩa Phát Xít, (tiếng Ý Fasium, tiếng Anh: Fascism, tiếng Pháp: Fascisme): phát xuất từ một phong trào ở Ý. Rất nhiều đặc điểm được quy cho chủ nghĩa Phát - Xít bởi nhiều học giả khác nhau, tựu trung như sau: dân tộc cực đoan, tư bản bá quyền, độc tài quân sự, độc trị thế giới… Nói chung, phát xít đồng nghĩa với cực đoan, độc đoán, tàn bạo, vô nhân đạo.
- Hơn ai hết, chúng ta phải phân biệt bản chất hai cuộc kháng chiến vừa qua! Một người ngắt ngang.
- Không phân biệt được đâu, hương hoa lẫn với cứt đái, biết đâu thơm, biết đâu thối.
- Phải cố mà phân chứ lị!
Người đề nghị vẫn cương quyết.
- Muộn mất rồi!
- Muộn còn hơn không!
- Vâng, nhập nhằng, nhấp nhem mà khác nhau!
Một bạn gái lên tiếng và được một số lắng nghe.
- Người Mỹ quá hời hợt về lịch sử đấu tranh của Việt Nam ta, họ không biết độc lập là ưu tiên hàng đầu của dân tộc.
- Tại Hồ Chí Minh, ông ta hăm hở mang Cộng Sản về, áp đặt chuyên chính mà người Mỹ thì bất đội trời chung với Độc Tài, Căm Thù Giai cấp nên hồ đồ.
- Theo tôi, Mỹ chỉ chủ quan thôi. Kennedy hạ bệ Diệm, tưởng đưa quân vào lùng và diệt được Việt Cộng ngay tức khắc, nhưng thực tế chứng minh ngược lại.
- Vậy đừng trách Mao Trạch Đông thâm độc, đừng trách Nixon bất nhân, việc nhà ai nấy lo!
Trong lúc cánh nam chiếm đa số đang sục sôi, một giọng nữ lẻ loi cất tiếng dàn hòa.
- Họ phải bảo vệ quyền lợi đất nước họ trước đã, ta ưu tiên độc lập, họ sống chết với tự do. Chỉ tại cha ông ta không sáng suốt, không thấy được độc lập và tự do là anh em song sinh, bất khoan nhượng với kiếp sống nô lệ, lú lẫn tới nỗi ai đời đang cao trào chống ngoại xâm, đùng một cái nồi da xảo thịt, đấu tranh giai cấp.
- Hổ lổn hổ lão, hằm bà lằng! Theo tôi chỉ có trách trời! Một giọng nữ khác.
- Tại sao một loạt anh hùng như Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Thái Học, Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu, Duy Tân đều chết sớm, chỉ có ông ta thọ đến tuổi tám mươi!
- Anh hùng bất luận chết trẻ hay chết già!
Một người khác nổi nóng, giật cục.
- Biết rồi! Điều quan trọng là làm được gì cho dân cho nước. Cho giai cấp mình thôi thì đã đủ chưa?
Người tóc hoa râm cao giọng khật khịa cạnh khía.
- Giai cấp là bè phái. Đã bè phái thì bất công.
- Đã bất công là đạo tặc! Một người khác chống lại, nghe ra như đối lập nhưng rõ ràng họ khớp khao.
- Đề nghị mọi người không nên quên ý nghĩa cuộc hội ngộ hôm nay! Một lần nữa, Trần Kỳ Hải lên tiếng.
Thực khách miễn cưỡng chấp hành nâng chén, bầu không khí dịu dần. Xuân Hoa vẫn đề phòng, chị gọi con trai lớn đóng kín các cửa kính, đưa những chiếc xe đạp trước hiên ra phía sau, khóa cổng ngõ, tắt đèn ngoài, mở to đài tiếng nói Việt Nam.
- Dậy mà đi! Dậy mà đi! Ai chiến thắng không hề chiến bại… Từ chiếu trong, bất ngờ ai đó cất tiếng và mọi người nhịp nhàng hát theo.… Ai nên khôn không khốn một lần. Dậy mà đi! Dậy mà đi! Dậy mà đi, hỡi đồng bào ơi!… Bài hát của phong trào đấu tranh đô thị miền Nam vào những năm cuối thập niên 60, một thời vang khắp đường phố qua các tỉnh thành.
- Đừng tiếc nữa can chi khóc mãi! Dậy mà đi núi sông đang chờ! Dậy mà đi! Dậy mà đi! Dậy mà đi, hỡi đồng bào ơi! Bao nhiêu năm qua dân ta sống không nhà. Bao nhiêu năm qua dân ta chết xa nhà. Dậy mà đi! Dậy mà đi! Dậy mà đi, hỡi đồng bào ơi! (146)
(146) Sáng tác Nguyễn Xuân Tân. Lời ca có vài câu trùng ý bài thơ Dậy Mà Đi của Tố Hữu.
Ngày trước tôi đã nghe và cùng hát. Và mỗi lần tiếng hát cất lên, chúng tôi sục sôi xung trận, án ngữ một số trục đường nội đô, chiếm đài phát thanh, tố cáo tham nhũng, kêu gọi chấm dứt chiến tranh, đòi hỏi tự do. Bây giờ hát lại và nghe, tuy hoàn cảnh khác xưa, bi phẫn vẫn dâng tràn, và còn một cảm giác nữa, sao ai oản quả, y như dàn hợp xướng có thêm một bè từ cõi âm vọng về! Ba mươi năm máu lửa tương tàn, hòa bình vừa ló dạng, còn phải dậy mà đi nữa sao?
- Xin nhất trí không nên than khóc làm chi nữa!
Bài hát chấm dứt, một người ngồi góc trong cùng nãy giờ ỉm lặng, ăn uống cầm chừng, bất ngờ lên tiếng.
- Xin nhất trí núi sông đang chờ. Nhưng các bạn có biết Lê Duẫn là ai không? Tay gác ghi mạt hạng ở nhà ga xe lửa Quảng Trị đấy! Một người khác trả lời, giọng cứng cỏi, nhấn rõ từng âm tiết.
- Đúng là thế, nhưng hắn luôn tự đắc là thành phần cốt cán của giai cấp công nhân, khôn ngoan, giảo hoạt hơn cả Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp! Anh ta nói thêm như một cảnh báo. - Rút kinh nghiệm thảm sát Mậu Thân ở Huế, hắn không lộ liễu ra tay như Pôn Pốt (147) ở Campuchia, nhưng mở nhà tù từ Nam chí Bắc, liên tục bày trò đổi tiền, cải tạo công thương, tản dân lên rừng để cướp nhà, dồn vào tập thể để cướp đất, ngăn sông cấm chợ để trưng thu tất cả phương tiện sản xuất, quản lý chặt hộ khẩu để siết chặt lao động nô lệ, nắm giữ thực phẩm để biến người thành súc vật… Và tiếp tục chiến tranh để đánh tráo phẫn nộ toàn dân!
(147) Pôn Pôt (Pol Pot, tên chính là Saloth Sar, Sinh 1928) Sau khi giành được chính quyền (1975), Pôn Pốt làm thủ tướng chính phủ Campuchia Dân chủ (1975-1979), thực hiện chính sách tiêu diệt trí thức và công thương gia, thành lập các trại tù tập trung, đã giết hại chừng ba triệu ngươi dân vô tội.
Một người khác hăng tiết bồi thêm.
- Chiến tranh kể cả chiến tranh vệ quốc, là phương tiện chứ không phải cứu cánh.
- Chiến tranh là bùa phép của giới thống trị, chính bè lũ Lê Duẫn kích thích Đặng Tiểu Bình mở mặt trận biên giới phía Bắc dạy cho Việt Nam một bài học.
- Thế a? Nhưng bài học gì? Một người ở phía trong cùng, hỏi như nhắc tuồng. - Bài học phản phúc, ăn cháo đá bát, đổi thiên triều, một bề theo Nga ư?
- Đương nhiên rồi, nhưng có được gì đâu, trước sau cũng quỹ đạo đỏ, cũng đặc sai, cũng ủy nhiệm!
- Theo tôi, chẳng có gì phản phúc, Lê Duẫn rất nghiêm chỉnh tiến cống thượng quốc. Này nhá, Nga Cam Ranh thì Tàu Hoàng Sa. Nhưng Tàu chê ít, muốn cả miền Nam Việt Nam, ham muốn ấy Mao đã chỉ thị cho Chu Ân Lai ve vãn Ngô Đình Diệm thông qua Ngô Đình Luyện đứng sau hậu trường hội nghị Genève ở Thụy Sĩ năm 1954…
Mọi người một câu xoay quanh chủ đề đất nước.
- Vậy tương lai Việt Nam ta đi về đâu? Hãy nhìn qua Trung Hoa vĩ đại khắc rõ!
- Nhưng Mao đã chết?
- Mao chết nhưng xác thối còn đó, ruồi bọ vẫn bu bám. Nghe nói Lê Duẫn dạo này rất yếu, vừa sang Nga chữa bệnh. Dẫu hắn có chết, vẫn còn Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Đỗ Mười, Lê Đức Thọ và bè lũ con cháu nối nghiệp.
- Một ma chứ mấy mồ!
- Đúng rồi! Rau nào sâu nấy, chuyên chính mà lị!
- Ôi quốc tổ Hùng Vương, vậy thì mù mịt quá!
Người bạn gái ngồi bên Xuân Hoa cất tiếng than.
- Hát nữa đi, các bạn! Ai đó hô hào.
… Nếu là chim tôi sẽ là loài bồ câu trắng. Nếu là hoa tôi sẽ là một đóa hướng dương. Nếu là mây tôi sẽ là một vầng mây ấm. Nếu là người tôi sẽ chết cho quê hương… Cũng như lần trước, anh ta đột ngột bắt giọng và được mọi người hưởng ứng. -… Là chim tôi sẽ cất cao đôi cánh mềm. Từ Nam ra ngoài Bắc báo tin nối liền. Là hoa tôi nở tình yêu ban sớm, cùng muôn trái tim ngất say hòa bình…
Tôi nhận ra không tình cờ anh ta chọn bài này.
- Là mây theo làn gió tôi bay khắp trời. Nghìn xưa oai hùng đó tôi xin tiếp lời. Là người xin một lần khi nằm xuống, nhìn anh em đứng lên phất cao ngọn cờ!
(148) Vừa dứt tiếng hát, năm ba người lẻ tẻ xì xào.
(148) Tự Nguyện - sáng tác của Trương Quốc Khánh (1947-1999)
- Cờ nào? Xen trong tiếng vỗ tay, một người hỏi.
- Cờ đỏ sao vàng của dân tộc hay búa liềm của quốc tế Cộng Sản? Một người khác tách bạch.
- Cả hai!
Một người rướn cỗ giả bộ ngây ngô xách mé.
- Không! Đó là bè lũ bịp bợm của Hồ Chí Minh, duồng gió bẻ măng. Còn chúng ta, như con một mẹ, như nước một nguồn, màu gì cũng được nhưng chúng ta chỉ có một ngọn thôi!
- Nói thế mà nghe được a?
Một giọng nữ rất quê mùa cất cao đến khét khắt.
- Khi kết nạp các anh đặt tay lên lá cờ nào? Búa liềm hay sao vàng? Cô ta ngồi giữa hai người bạn trai, hét xong cúi mặt nghẹn thắt như muốn khóc.
- Búa liềm chứ! Đúng rồi, búa liềm!
Ngay sau tiếng hét, một số như chợt tỉnh lẩm bẩm.
- Nhưng tôi đã trả lại thẻ đảng!
Người ngồi cạnh cô ta cung tay chỉ ngực mình.
- Tôi cũng thế! Có ai bật cười hềnh hệch.
- Tự ý hay khi sắp bị đuổi khỏi đảng mới trả?
- Tôi thì tự ý.
- Tôi thì người ta không cấp thẻ mới nhưng đếch khiếu nại.
- Người ta viện cớ gì mà không cấp thẻ mới?
Nãy giờ chỉ lắng nghe, tôi lên tiếng. Nhiều người quay nhìn tôi, không phải vì giọng Quảng Nam lạc lõng, mà do vẻ ngô ngố của anh chàng từ vùng cao mò về.
- Chuyện là thế này… là thế này…!. Người ngồi cạnh Trần Kỳ Hải, đạo mạo nhất đám, nói tiếp nhưng cứ ngập ngừng. Xuân Hoa nháy mắt khích lệ, anh ta trở nên mạnh dạn.
- Chuyện là thế này, người ta bảo hồ sơ kết nạp đương lúc chiến tranh nay đã mất.
- Nghe nói hồ sơ kết nạp đảng của ông Phạm Văn Đồng, ông Lê Đức Anh cũng mất mà! Ai đó xen ngang.
- Ở chỗ mình, lãnh đạo bảo hồi đó các anh được kết nạp không đúng đối tượng, không đúng tiêu chuẩn, không đúng thể thức! Một người khác bổ sung.
- Không đúng giai cấp chứ! Một người chỉnh sửa.
- Nghe nói các ông Trần Văn Giàu, Nguyễn Hộ ở trong Nam, các ông Tôn Quang Phiệt, Đồng Sĩ Nguyên ở miền Trung, các ông Hoàng Minh Chính, Nghiêm Xuân Yêm ở miền Bắc… được kết nạp cũng tùy tiện, lộn xộn, tầm bậy, tầm bạ cả! Ai đó lại xen ngang.
- Ở chỗ mình, lãnh đạo bảo sau thời kỳ thử thách không mấy người đạt yêu cầu, phải cho ra để thanh lọc hàng ngũ đảng.
- Ở chỗ mình, lãnh đạo bảo do hấp thu quá đậm văn hóa đồi trụy của Mỹ-Ngụy nên các anh chuyên thì có nhưng hồng thì không.
- Ở chỗ mình… Ở chỗ mình…
- Có một nghìn lẻ một lý do ở chỗ mình, nhưng tôi muốn được nghe cái mà người ta không nói ra? Tôi nói, đưa tay lên lưu ý một số nôn nao muốn phản ánh.
- Đời nào đảng ta nói thật!
Người đạo mạo nhất đám lên tiếng rồi căng mắt lơ láo nhìn khắp mọi người.
- Không lẽ Thiệu đúng?
Lặng lẽ ngồi bên tôi nãy giờ, bất ngờ Hiếu thầm thì, tất cả mọi người đều nghe.
- Ông ta nói gì?
Cô gái có vẻ mặt nữ tu liền hướng về cậu ta.
- Bà chị chớ giả dại mà móc máy em, không biết thật à? Hiếu nghi ngờ.
- Tôi ra bưng giữa năm 1965, trước khi Thiệu lên làm tổng thống! Cô ta nói.
- Chị về lấy dao cạo lớp sơn ở mặt tiền cửa chợ Đông Ba mà đọc… Hiểu nói.
- Không chỉ cửa chợ Đông Ba mà cả Ngọ Môn, Kỳ Đài, Phu Văn Lâu, bến Thương Bạc, cửa trường Quốc Học, miếu Văn Thánh… Danh ngôn ấy không phải của Thiệu đâu, ông ta chỉ thuội theo Kinh Thánh thôi!
Người ngồi đối diện vội ngắt lời Hiếu.(149)
(149) Nguyễn Văn Thiệu nói “Đừng nghe những gì Cộng sản nói, hãy nhìn những gì Cộng Sản làm.” Kinh Thánh: “Đừng nghe những gì hắn nói, hãy nhìn những gì hắn làm”
- Không cần truy nguyên, quan trọng là đúng với sai, vậy những ai và phải như thế nào mới được ngồi yên trong đảng? Tôi trở lại vấn đề do mình nêu lên.
- Bọn con hoang gọi dạ bảo vâng dẻo miệng nịnh hót, bọn chịu đấm ăn xôi bất cố liêm sỉ, bọn thui chột lý trí cứt đái lộn đầu, bọn cuồng tín hô khẩu hiệu, nói chung, một lũ người ngợm béo tốt chỉ giỏi ăn hại đái nát! Người đạo mạo kết luận.
Không còn nghe ai muốn nói năng thêm, Trần Kỳ Hải ra hiệu cho vợ, Xuân Hoa đứng dậy đi vào trong.
- Ngày mai cỏ ai muốn theo em xuống đường biểu dương lực lượng không? Bất ngờ cô gái khóc lúc nãy vừa dậm mắt vừa lên tiếng khiêu khích.
- Xuống đường là chuyện bức xúc nhất thời, tức nước vỡ bờ thôi! Một người đang mồi thuốc đáp trả.
- Xuống đường là thể hiện bất bình một cách khiêm tốn nhất! Một người khác bổ sung.
- Xuống đường chỉ có tác dụng với kẻ cầm quyền có văn hóa, biết thế nào là công bằng, thế nào là dân chủ, là tự do…
Một người khác chán ngán không nói hết ý.
- Rứa là thừa nhận bọn Mỹ-Ngụy có văn hóa, biết thế nào là công bằng, dân chủ, tự do hả?
Cô gái cố ý đưa đẩy.
Cuộc hỏi đáp theo đó diễn ra mạch lạc, giòn giã.
- Đương nhiên!
- Như rứa là thừa nhận Cách Mạng Chuyên Chính Vô Sản vô văn hóa a?
- Đương nhiên! Bằng chứng, ở Ấn Độ Mahatma Gandhi (150) hô hào đấu tranh bất bạo động đòi độc lập, đến một lúc thực dân Anh phải trao trả độc lập. Nhưng ở Tiệp Khắc, năm 1968, Dubcek mới hô hào cải cách dân chủ thì Liên Xô xua quân đàn áp Praha ngay. Ở Trung Hoa, năm 1989, sinh viên tụ tập tại Thiên An Môn đòi tự do thì Lý Bằng và Đặng Tiểu Bình cho thiết giáp bắn giết một đêm đến năm ngàn người, máu ngập quảng trường! Ai đỏ dẫn chứng.
(150) Mohandas Karamchand Gandhi (1869-1948) còn gọi là Mahatma Gandhi, lãnh dạo nhân dân Ấn Độ chống thực dân Anh bằng phương pháp đấu tranh bất bạo động và đã thành công.
- Như rứa là thừa nhận dân mình hèn nhát hé?
Vẫn cô gái lén khóc, vẫn lối móc máy cay độc.
- Các anh đây đau đớn lắm, bà cô nhỏ xỉnh đẹp có thôi đi cái giọng oanh vàng acide được không? Hai mươi năm giết nhau, chết chừng đó chưa đủ ư?
Người xin thêm cốc lúc nãy chấp tay vái cô gái.
- Không! Nhất định không! Cô gái giáng trả. - Và hơn ai hết, xin vua xách động xuống đường năm xưa, có chết cũng không được sống hèn!
- Bà chị ơi, chết không đúng lúc là chết ngu chết dại đấy! Một người khác dàn hòa.
Nhưng những cuộc cãi vã tay đôi tiếp diễn từng cặp một, bốp chát thẳng thừng.
Xuân Hoa trở lại, hai tay khệ nệ hai khay xôi, đứng nghe một lúc.
- Này các bạn, đời đời nhớ lấy!
Bất chợt chị lên tiếng, nhỏ nhẹ nhưng thu hút. Một người đang theo dõi hai bạn tranh cãi, quay phắt lại.
- Nhớ gì?
Anh ta nhắc khẽ, nhưng Xuân Hoa đang bận bịu, ké né ngó xuống tìm chỗ.
- Nào, đưa đây cho em! Nói đi, đời đời nhớ lấy là nhớ cái gì cơ?
Cô gái ngồi ngay lối vào, cao giọng Bắc trẻ trung, vói lấy khay.
- Không cuộc chiến nào tủi nhục bằng cuộc chiến chung một ông cha. Không có cuộc chiến nào tổn thất bằng cuộc chiến chung một mái nhà. Không có cuộc chiến nào đau nhức bằng cuộc chiến giữa anh em ta. Xuân Hoa phát biểu, như đọc tuyên ngôn.- Không có bài ca nào xấu xa bằng bài tụng ca cuộc chiến ấy.
Đoạn cuối chị cao giọng, rưng rưng như sắp khóc.
- Xuân Hoa sám hối?
Hai ba người cùng lên tiếng.
- Có thể! Chị ta đáp, đưa tay áo lau mắt.
- Không chỉ Xuân Hoa, tất cả chúng ta cũng nên sám hối! Người ngồi cạnh Hiếu đứng bật dậy, hưởng ứng hô hào.
Ngay sau đó, mọi người đều cúi mặt.
- Nhưng hôm nay chúng ta quần tụ nơi đây ngoài chuyện tâm tình san xẻ buồn vui, còn chào đón một người gần mười lăm năm biệt tích đội mồ trở về. Đề nghị anh chị em nâng chén chúc mừng!
Trần Kỳ Hải chuyển đề, phá tan bầu không khí gần như nghẹt thở. Được giới thiệu, tôi hướng mặt ra giữa chiếu, cúi chào. Tất cả hoan hỉ nâng ly. Những tràng vỗ tay cất lên, vài ba người từ bên kia vói sang bắt tay tôi.
Vợ chồng Xuân Hoa đã hợp đồng xua tan đám mây mù trong đầu bạn bè. Đến tuần rượu thứ ba, mấy tay giỏi tiếu lâm thời thế khơi được tiếng cười.
- Hồ Chí Minh đến thăm một lớp học rèn cán chỉnh quân, (151) học viên hô “Hồ chủ tịch muôn năm!” Ông ta vội cải chính “Hồ chủ tịch muốn nằm.”
(151) Rèn cán chỉnh quân: Rèn luyện cán bộ, chinh đốn quân đội.
- Láo!
- Láo gì? Đó là quy luật!
- Xạo đó! Ông ta không bao giờ có cái đức khiêm cung đó đâu!
Lại cãi vã. Nhưng chuyện tiếu lâm chính trị vẫn tiếp nối và khá tập trung.
- Người chú họ ra Hà Nội thăm bỉ thư thứ nhất đảng Cộng Sản Việt Nam Lê Duẫn. Sau khi mời tráng miệng bằng bánh bít quy, ngài bí thư biếu tặng luôn chú cái vỏ hộp ngũ sắc có nhãn mác chữ ngoại. Người chú họ mang về quê hương Quảng Trị treo lên giường thờ. Cán bộ địa phương tọc mạch ngó vào, rỉ tai nhau. Từ đó, thê noa đái tử ông ta đều vinh thân phì gia.
- Coi bộ vỏ quý hơn ruột a? Đúng! Sắp tới, bọn ve chai đồng nát giàu to.
- Lao động vinh quang. Lang thang chết đói. Hay nói ở tù!
Ai đó khề khà cảnh báo.
- Muốn sang lấy thợ điện. Muốn trưng diện lấy thợ may. Muốn ăn mày lấy thầy giáo (152)
(152) Những bài vè nổi tiếng ở miền Bắc sau 1975, truyền vào miền Nam.
Một người cất giọng đọc vè tha từ Hà Nội về.
- Thầy giáo tháo giày, tháo cả ủng thủng cả áo, lấy giáo án dán áo. Nhà trường nhường trà, nhường cả hoa nhòa cả hương, lãnh lương hưu lưu hương! Một người khác đọc hai câu đối thuộc dạng tuyệt kỹ, bảo tác giả là miêu duệ thứ 38 của trạng nguyên Mạc Đỉnh Chi. Rồi phát xuất từ cánh nữ lan sang, chuyện gia đình, chuyện cơ quan, chuyện mậu dịch quốc doanh, phân chia đám khách thành từng cụm. Thú thật, cho tới lúc này tôi vẫn là anh mán lai kinh, không nhập được vào đâu dẫu mọi người đang dang tay mời gọi.
Vì sao? Rõ ràng mấy năm nay tôi ngụy tín miệt mài phấn đấu liên tục, phấn đấu đến hộc máu, tranh thủ bằng bất cứ giá nào cái mà anh em mình bắt đầu chối bỏ, phỉ nhổ.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Phiên Bản Tình Yêu (Vũ Biện Điền)

Postby bevanng » 07 May 2016

- Z.33
Bã trầu, bã rượu, bã chanh… đã thành bã chã, dẫu có bã hơi, chỉ tổ bã bọt mép.


Sau cơn mưa, khách ra về hết, chỉ còn lại Phổ, Hiếu và tôi. Trần Kỳ Hải giúp vợ thu dọn, ba chúng tôi trở lại phòng khách, ngồi quanh bình trà. Chị Xuân Hoa sai con mang thêm bảnh ngọt. Đến lúc này, tôi mới thấy hết Phổ đen đúa đến mức nào và Hiếu xương xẩu làm sao.
- Đã lấy vợ chưa? Tôi thương xót hỏi.
- Hiếu chưa biết có chịu và tới lúc mô, còn em thì đã nhưng vừa bỏ nhau! Phổ nói.
- Do bên nào? Tôi lại hỏi.
- Huế mình bây giờ rách lắm anh ơi! Chủng em làm không đủ sống nên tan đàn rẽ nghé! Phổ nói thêm.
- Sao không xin vào công nhân nhà nước để kiếm gạo hàng ttháng? Chợt nhớ đám công nhân chân trong chân ngoài ở xí nghiệp mình, tôi khuyến khích.
- Xin rồi nhưng không được giải quyết. Bây giờ việc gì cũng qua công an! Hiếu buồn bực thổ lộ.
- Cũng tại cái vụ đó cả, mù mờ như ma xó, lý lịch tụi em cỏ vấn đề, năng nổ mà bất thành chỉ khiến người ta ghét mình! Nói đến đó, bắt gặp ảnh mắt sắc lạnh của Trần Kỳ Hải, anh ta ỉm ngay.
- Em xỉn lỗi anh…
Thay vào hụt hẫng Hiếu để lại, Phổ lên tiếng, nắm lấy tay tôi và cả tay của Trần Kỳ Hải, day day.
- Chuyện gì nữa? Tôi hỏi.
- Đêm hôm đó… Phổ run lên và tôi cũng run theo. - Đêm hôm đó em không làm tốt nhiệm vụ anh giao. Thuyền đến bến Thừa Phủ, em đang khoắng chèo ở đằng lái, Hiếu đưa chị ấy lên bờ. Gặp lúc trời nổi gió, không rõ áo xống vướng chỗ mô, vít chị ấy xuống nước, quần rách toạc tới gối. Gần bờ nhưng bợt hẳm, chị ấy hụt chân, nước cuốn một đoạn, cũng may em bỏ chèo kịp thời lao xuống. Lên khỏi nước chị kêu lạnh nhưng không chịu mặc chiếc áo em sang qua. Đêm khuya đường về ngoại ỏ, gọi tới chiếc xích lô thứ ba, người ta mới chịu đi, hai đứa chạy bộ hai bên. Suốt dọc đường, chị như người mất hồn, về tới nhà vẫn chưa định tỉnh…
- Buồn quá, đừng nói nữa! Ngày mai chúng ta đi lên mộ thắp hương cho Cung.
Tôi đưa tay ngắt lời Phổ, nhăn nhó đánh trống lảng. Hiếu hả hốc nhìn tôi, mắt dửng ngược.
- Có mô mà thắp! Phổ nói thay bạn.
- Vậy là Cung chưa chết? Tôi vui sướng.
Trần Kỳ Hải đứng phắt dậy bỏ vào trong.
- Anh còn nhớ không?
Phổ nói, e ngại nhìn theo Trần Kỳ Hải.
- Có một lần trong buổi họp anh thuyết trình sa bàn, đúng lúc nhấn mạnh về tọa độ phân thủy, Cung hỏi nếu không thoát được vòng vây phải làm sao. Anh Hải nói mỗi cá nhân tùy cơ ứng biến nhưng phải đảm bảo bí mật, em lén nhìn thấy nó bặm môi suy nghĩ. Tới hồi ra về, Cung hỏi thân xác người ta tăng trọng chừng ba kí thì đủ chìm chưa. Em nói muốn ăn chắc, thêm chút nữa, Cung ngẫm nghĩ rồi gật đầu.
- Thế sau đó địch không bủa vây, cào vớt sao?
Tôi lại hỏi.
- Có! Nhưng chỉ làm chiểu lệ, không thấy chi hết!
- Làm sao chú biết? Tôi vẫn nghỉ ngờ.
- Thằng Cáp cam đoan với em như rứa. Súng nổ, tuân thủ lệnh của anh, hắn quanh quẩn trên cầu. Rồi sau đó, giả làm dân thường len lỏi vào đám nhân dân tự vệ, hắn tò mò theo dõi đến khuya! Phổ khẳng định.
- Vậy đến giờ chú ấy còn nằm tận đáy sông?
- Cỏ thế, nhưng chết ở dưới nước khác với chết trên cạn, khó biết ở khúc mô! Phổ nổi.
- Theo em, đã trôi ra biển từ lâu, Huế mình năm nào cũng vài ba cơn lụt lớn! Hiểu nói.
- Tại sao sau ngày giải phỏng, anh Hải và các chủ không ai báo cáo với cơ quan hữu trách? Tôi lớn giọng.
- Báo a? Báo mà làm chi! sống nhăn trên đất như tụi em đây còn chưa muốn vớt huống hồ…! Phổ nói.
Trần Kỳ Hải từ nhà dưới đi lên, đưa tay, lắc đầu. Tôi hiểu ý anh không muốn đào sâu quả khứ, nhìn sang Phổ, sang Hiếu, cả hai cũng tiu nghỉu cúi mặt.
- Cái thứ đầu têu vô tích sự như tôi vật vờ đã đành, còn chú ấy dẫu không hoàn thành nhiệm vụ cũng đã hy sinh trong chiến đấu, phải được tìm kiếm, cải táng, truy điệu hẳn hòi chứ?
Tôi bực tức nhưng ngay đó thấy mình không thực tế, thời cuộc đã đổi thay mà cứ lang mang. Từ nhà bếp, Xuân Hoa tiễn hai bạn gái về rồi quay lại phòng khách.
- Đã ghé đây thì ở lại đây, vợ chồng tôi muốn giữ cậu cho tới khi hết gạo! Chị nói với tôi rồi quay sang ra hiệu cho chồng lên lầu gặp con.
- Cảm ơn! Nhưng tôi còn bao nhiêu việc và đã tiêu quả nửa thời gian đi phép! Tôi nói.
- Mười mấy năm nay anh Hải vẫn đinh ninh cậu còn sống và cứ lóng ngóng chờ!
Chị nói, nhếch môi cười nhẹ. Ngay lúc đó, Phổ và Hiếu bực dọc cáo từ, tôi theo tiễn tới ngõ.
- Rồi anh sẽ hiểu vì răng em không chịu lên bộ đổi đời mà cứ sống cùng sông nước, năm mô đến ngày đó em cũng thắp hương, trưa mô đứng bóng em cũng úp mặt ngó xuống, nỏ chộ cải đách chi!
Níu tay vào trụ cổng, Phổ lắc lư, khóc ngất.
- Em đang đạp xích lô, anh có cần đi ngày mai em tới đón? Hiếu nói.
- Chú ở đâu? Tôi hỏi, nghĩ tới một cuộc bù khú tay ba.
- Em không có nhà! Hiếu nói. Tôi nghẹn thắt họng, đứng đơ. - Anh ơi, bọn mình mê muội quá phải không? Khi từ biệt, bất ngờ Hiếu nắm cứng tay tôi, rên rỉ.
Tiếng than của Hiếu như tới tai ma quỷ, kích động âm binh. Trong lúc dõi theo, tôi thấy đi ngược chiều hai bạn một tốp lóc nhóc, gậy gộc lố nhố. Đến cổng họ ùa vào, chia thành hai cánh bao vây nhà Trần Kỳ Hải. Tôi vượt lên, đến hiên gặp mấy tay dẫn đầu.
- Xin lỗi, các anh là ai? Tôi hỏi.
- Chính quyền và công an tổ dân phổ.
Một người trạc tuổi trung niên sấn sổ lên tiếng.
- Có việc chi mà đi đông đến thế? Tôi lại hỏi, lần này ông ta không muốn nghe, phất tay làm hiệu cho bầu đoàn tiến theo mình.
- Anh là ai? Một trung sĩ công an quay qua hỏi.
- Khách từ xa đến! Tôi nói.
- Đăng ký tạm trú chưa? Anh ta hạch.
- Chưa ạ! - Tôi nói.
- Sao vậy? Anh ta nhướng mày như muốn hất tung tôi văng khỏi địa bàn mình quản lý.
- Mới tới! Tôi lếu láo.
- Ông Trần Kỳ Hải đâu?
Một trung úy công an gọi vào trong. Anh ta rống riết đến lần thứ ba, Trần Kỳ Hải và Xuân Hoa mới ló mặt qua cửa.
- Chúng tôi được nhân dân phản ánh nhà này tổ chức hội họp bất hợp pháp, quy tụ một số phản động!
Tay trung úy công an dõng dạc. Trần Kỳ Hải đứng đơ như cây trồng. Xuân Hoa mời tổ trưởng dân phố, công an khu vực, an ninh tổ vào phòng khách nhưng không một ai chiếu cố.
- Báo cáo các anh, đây là đồng chỉ Lê Huy Phong nguyên đội trưởng Đặc Công, bạn thân của chúng tôi từ Tây Nguyên về thăm.
Xuân Hoa bước hẳn ra hiên, đưa tay giới thiệu tôi.
- Nhân hội ngộ, gia đình có bữa cơm liên hoan thân mật. Bạn bè lâu ngày xa cách, nhắn nhe nhau tới hàn huyên. Tinh cờ tụ hội nhưng không làm gì bất hợp pháp, xỉn các anh thông cảm! Xuân Hoa phân bua.
- Chúng tôi cần khám nhà và lập biên bản, sau đó sẽ có ý kiến! Tay sĩ quan công an thông báo.
- Vậy thì xin mời!
Ngay tức khắc, Trần Kỳ Hải mở rộng cửa, đứng qua bên nhường lối, ba du kích cắp súng theo sau hai công an và tổ trưởng dân phố. Xuân Hoa muốn đi trước dẫn đường, nhưng một tốp gậy gộc đứng ở thềm chặn lại. Chúng tôi bước hẳn xuống sân cát, mặc họ tùy tiện tự tung tự tác. Chừng năm phút sau, đứa con lớn của Xuân Hoa hớt hải chạy ra, mặt mày xanh mét. Nó bị lục soát khắp mình may trước khi được phép rời phòng học. Bên ngoài hàng xóm bu lại, có người muốn vào nhưng bị hai du kích cản lối. Cuộc lục soát kéo dài chừng nửa giờ, tổ trưởng dân phố gọi chúng tôi vào phòng khách đế theo dõi thư kỷ lập biên bản. Mở đầu ông ta yêu cầu tôi xuất trình giấy tờ chứng minh. Tiếp đến, ông ta đề nghị khai báo thành phần tham dự, Xuân Hoa cho hay cuộc tụ hội ngoài vợ chồng chủ hộ và tôi, khách đột xuất ở thành phố chỉ có bảy người, bốn nam ba nữ. Tay trung sĩ công an yêu cầu khai báo nội dung sinh hoạt. Tôi cho hay chỉ là mớ kỷ niệm vui buồn thời sôi động đã qua, đan xen những thăm hỏi về gia đình.
- Theo báo cáo của nhân dân, các anh có ca hát và hô khẩu hiệu.
Tay sĩ quan muốn tỏ ra sâu sát địa bàn phụ trách.
- Ca hát thì có nhưng hô khẩu hiệu thì không.
Trần Kỳ Hải xác nhận, thẳng thắn, cương quyết.
- Hát nhạc gì? Trung sĩ công an hỏi dồn tới.
- Nhạc cách mạng! Trần Kỳ Hải nói.
- Cụ thể là những bài nào?
Tay sĩ quan công an day qua hất hàm hỏi tôi.
- Trồng Cây Lại Nhớ Đến Người của Đỗ Nhuận, Xuân Chiến Khu của Xuân Hồng, Như Có Bác Hồ Trong Ngày Vui Đại Thắng của Phạm Tuyên.
Tôi muốn cung cấp hơn nữa nhưng bị chặn họng.
- Có đọc thơ không?
Tay sĩ quan công an mở rộng.
- Có ạ! Trần Kỳ Hải nói.
- Thơ của ai? Tay công an lại hất hàm hỏi tôi.
Giải Đi Sớm của Hồ Chí Minh, Đêm Nay Bác Không Ngủ của Tố Hữu, Yêu Con Gái Địa Chủ của Trường Chinh…
Cũng như trước, đang hăng tiết tôi bị chận lại.
- Tốt! Nhưng đúng ra phải đăng ký đây!
Anh ta ưỡn ẹo hách dịch, vẫy tay bảo thư ký ghi vào. Xuân Hoa mời nước không một ai chịu uống kể cả mấy du kích lấp ló ở hiên. Sau khi ký biên bản, tổ trưởng dân phố còn ngồi nán, hết ba hoa công lao cách mạng của mình, lại lên lớp đường lối chính sách của đảng và nhà nước. Trước khi về, ông ta còn quanh co giả ân giả nghĩa vì hạnh phúc của mọi nhà, vì an ninh của xã hội. Xuân Hoa cảm ơn, đưa tiễn tổ trưởng dân phố ra cổng. Tôi ngao ngán nhìn theo.
- Thẳng lùn đó trước đây là thợ sửa xe đạp, do có tật ở mắt và thiếu trọng lượng nên Nha Động Viên bộ Quốc Phòng Việt Nam Cộng Hòa chê, khỏi phải vào quân trường. Sau 1975, nhờ cha là đảng viên hồi kết, hắn có chân trong hội đồng phường rồi được chỉ định làm tổ trưởng, giờ hống hách coi trời bằng vung.
Trần Kỳ Hải tiết lộ.
- Có lẽ chúng ta cũng nên lì đòn mà sống như Phan Khôi (153) là hay hơn cả!
(153) Phan Khôi (1887-1959): cháu ngoại tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu, Tú Tài chữ Hán năm 19 tuổi, nhưng lại cổ vũ cho phong trào Thơ Mới. Ngoài danh nghĩa một học giả tên tuổi, ông còn là nhà thơ, nhà văn, nhà báo, dịch giả nổi tiếng, về sau là trụ cột của nhóm Nhân Văn - Giai Phẩm, ông là người tiết tháo, thẳng tính, tán thành cuộc kháng chiến chống Pháp nhưng rất ghét Việt Minh (tên gọi tổ chức Cộng Sản Việt Nam lúc bấy giờ). Trước và sau 1954, chính quyền Cộng Sản nhiều lần tìm cách mua chuộc nhưng ông luôn giữ vững lập trường, quan điểm. Sau khi tham quan Trung Quốc về, biết đảng sắp sửa đàn áp, khủng bố văn nghệ sĩ, để khẳng định thái độ bất khoan nhượng, ông làm bốn câu thơ tự trào như sau: Có sao cũng chẳng làm sao. Dẫu có thế nào cũng chẳng làm chi. Có chi cũng chẳng làm chi. Dầu có làm gì cũng chẳng làm sao. Đời ông lắm tai họa cũng vì trực tính. Nhưng trước sau, Hồ Chí Minh không dám đưa ông vào tù.
Khi trở vào, Xuân Hoa nói, rồi gượng cười. Trần Kỳ Hải lừ mắt nhìn vợ. Tôi hiểu vợ chồng bạn muốn nói gì và tìm cách gạt bỏ thứ rác rê ra khỏi đầu mình.
Coi như tai qua nạn khỏi, Trần Kỳ Hải bảo tôi theo sang phòng bên. Vào tới nơi anh ta lại nguội lạnh ngồi xuống chiếc ghế bên cửa sổ, đưa tay chống cằm, lặng lẽ nhìn ra vườn. Vậy là Hải chưa muốn ngủ, tâm tư chẳng thanh thản gì! Tôi thầm đoán. Phần mình, tôi còn đeo đẳng mối bi lụy của Phổ và Hiếu. Bốn mũi thương đau còn sống sót vừa chụm lại đánh thức bao xốn xang một thời, đây là cơ hội duy nhất, tôi quyết khai thác.
- Hãy giải thích vì sao vỡ kể hoạch đánh cầu?
Tôi banh vết thương cũ, ngồi ngay lên chiếc bàn con. Trần Kỳ Hải vụt quay lại, mặt mày u ám do bí bức. Chủng tôi nhìn nhau, căng thẳng tột độ. Xuân Hoa mang đồ ngủ vào, đứng bên chồng, dùng kéo cắt nối dây mùng. Không biết chị có bắt mạch được tình huống và có muốn can thiệp, nhưng tôi cần được khai giải dù phải nhận đau đớn. Tôi thầm nghĩ, hạ quyết tâm hơn.
- Cung đã tự sát để bảo mật, bình ắc-quy và chất nổ thả xuống đáy sông, bốn người ở thuyền lớn chúng tôi đêm ấy và những ngày sau không ai sa lưới, vậy do đâu tôi bị đón lõng ở trạm tuần cảnh Cống Bạc?
Tôi tách bạch, Xuân Hoa và Trần Kỳ Hải tập trung lắng nghe nhưng đều im lặng. Tôi tiếp.
- Chẳng lẽ Cẩm Khuê báo thù tôi? Chẳng lẽ gia đình Hồ giáo sư nhân dịp này muốn trừ khử tôi?
Bất chợt Trần Kỳ Hải đứng dậy, bộ tịch lập chập liêu xiêu. Nhưng chạm ánh mắt của vợ, anh lại ngồi xuống mép giường.
- Đừng có nghi ngờ mà oan cho cô ấy!
Đang giăng mùng, Xuân Hoa lên tiếng. Trần Kỳ Hải vẫn lầm lì đến lạ! Tôi xỉn phép vào toa-lét thay đồ ngủ. Nhân tiện sẵn dao, tôi tỉ mẩn cạo gọt râu ria.
- Có nên không? Đang lúc muốn xén ngắn bớt tóc mai, tôi thoáng nghe Trần Kỳ Hải hỏi khẽ vợ.
- Hôm nay chủng ta tiếp tục ỉm lặng, chắc chẳng còn cơ hội nào nữa, và đến chết cậu ta sẽ không nhắm mắt! Xuân Hoa bày tỏ. - Đó là chưa kể còn nghi ngờ lung tung, hậu quả sẽ vô cùng tai hại về mặt tình cảm.
Một tỉa sáng xuất hiện trong đầu, tôi phấn khởi đến nỗi để dao cứa phải hàm. Cả cuộc chiến dài dằng dặc ngang qua một đời người, rút lại chỉ có bấy nhiêu? Ngay sau đó, lòng dạ chùng xuống, tôi tái tê tự hỏi.
- Pha cho bọn anh bình trà mới!
Trần Kỳ Hải nói với vợ. Tôi lắng nghe bước chân Xuân Hoa, rồi dặng hắng trước khi mở cửa.
Ngoài trời bắt đầu một trận mưa khác, có lẽ nặng hạt hơn ban chiều. Không khí trong phòng trở nên lạnh. Tôi đưa tay khép cửa sổ, buông luôn cả màn che, ngồi xuống chiếc ghế đối diện với Trần Kỳ Hải.
- Bạn có bao giờ nghe nói tới một người tên Phùng Xá? Anh ta hỏi và tôi cảm thấy bất ngờ.
- Chưa! Tôi trả lời, cố làm ra vẻ bình thường.
- Phùng Xá người Thần Phù, có cha là liệt sĩ thời kháng chiến chống Pháp, có hai anh tập kết ra Bắc sau hiệp định Genève. Hắn lên sinh sống và lấy vợ ở Ngự Bình, làm nghề hàng mã! Trần Kỳ Hải nói. - Sau Mậu Thân 68, thành ủy giới thiệu hắn làm giao liên cho tôi. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ, chúng tôi thống nhất, toàn bộ nghị quyết, thông tư, chỉ thị trên bưng gởi xuống cho tôi, và ngược lại, toàn bộ báo cáo, thỉnh thị, đề xuất lớn nhỏ tôi đạo đạt lên trên ấy, đều qua trung chuyển của Phùng Xá, điếm trạm là quán bánh bèo đầu đường vào chùa Trà Am. (154) Ngay đêm bạn vượt thoát đến bệnh viện, Xuân Hoa cho Dự về báo. Lấy cớ gia đình lục đục, tôi lánh lên ngủ nhờ nhà người bà con ở cầu Lòn, (155) nghe ngóng. Không có gì đáng quan ngại, hai hôm sau tôi đi làm lại thì bị ty cảnh sát gọi với lý do cần làm sáng tỏ bản báo cáo điều tra về vụ mất cắp vật liệu xây dựng của ty công chánh trước đó một tháng. Chiều hôm ấy, tôi đi xe máy lên Ngự Bình, nhờ Phùng Xá chuyển một báo cáo khẩn. Hơn ba tháng sau, thời gian chờ đợi chỉ thị của thành ủy tôi bị bắt lúc đang trên đường kiểm tra công trình. Hai viên chức mật vụ mặc thường phục đưa tôi về ty cảnh sát, đại úy phó ty, tốt nghiệp ngạch biên tập viên, bạn đồng môn Quốc Học với tôi, chờ sẵn ở phòng làm việc. Vừa giáp mặt, hẳn tự tay tháo dây nịt quần tôi rồi dùng răng trợ lực tước làm hai mảnh. Một súc giấy nhỏ gấp theo chiều dài rơi xuống mặt sàn. Đó là bản sao nghị quyết của khu ủy, tài liệu tối mật. Thì ra chân tơ kẽ tóc của ta chúng biết cả! Tôi đứng sững. Đọc xong bản sao, phó ty ra lệnh đưa tôi vào một phòng gần đó, khóa trái cửa. Đứng ỉm một lúc, tôi suy nghĩ nhưng chẳng giải đoán được việc gì! Rồi tôi chậm rãi bước đi chỉ vì muốn chuyển động. Trước mắt tôi trên hai chiếc bàn dài, những bản phô-tô sắp hàng ngay ngắn. Chính giữa hai bàn, một chiếc khay khảm cừ với ba lon Coca Cola, một cái cốc thủy tinh, một gói Marlboro, một cái kính cận đúng thị độ của tôi, tất cả đặt ngay trước chiếc ghế gỗ bọc nệm. Có lẽ do quán tính một người từng sinh hoạt chữ nghĩa, tôi ngồi vào, bóc thuốc hút, cúi đọc. Chỉ thoáng qua, thịt da tôi lạnh toát, sởn gai ốc. Đây là toàn bộ bản sao suốt ba năm của tất cả những gì đã qua tay Phùng Xá. Nhị trùng! Tôi đã vướng, vướng khá sâu vào bẫy gián điệp, uống hết lon Coca, hút tới điếu thuốc thứ ba, đọc đến bản tài liệu cuối, tôi nghiệm ra chúng đã nuôi tôi một thời gian khá dài để bòn rút tin tức. Đến khi no mồi hoặc động ổ, thì hốt. Chừng nửa giờ sau, lấy lại bình tĩnh, tôi phối kết mọi diễn biến, soạn một bản cung khai giả nhưng tin tưởng có thể qua mắt địch, nhìn nhận những gì đã hiển nhiên để chối bỏ những gì còn mù mờ, lật ngửa bài vẫn giữ tẩy, chấp nhận thiệt hại cục bộ nhưng bảo vệ được toàn phần, làm ra vẻ thành khẩn nhưng chỉ thí bỏ những gì không thể thí bỏ. Đó là cách xử lý trong y học khi thân thể bị hoại thư. Phải chọn như thế, có lẽ tôi chịu ảnh hưởng của bác sĩ Xuân Hoa khi không thể bảo toàn cả hai lá phổi một lúc.
(154) Chùa Trà Am (hay Tra Am) sau đổi thành Mật Sơn Tự, là một ngôi chùa nhỏ nằm cạnh lưng núi Ngự Bình. Cũng như bao chùa khác ở Huế, Trà Am cũng có vườn cây trái như mít, chuối, vả và hàng tre xanh bao quanh.
(155) Con cầu vượt xe lửa nhỏ trên bờ nam sông Hương gần cầu Giả Viên chừng vài trăm mét. Dân chúng gọi Cầu Lòn vì lên về Long Thọ phải đi lòn qua cầu này.
- Và anh đã thí bỏ tôi?
Nôn nóng, tôi ngắt lời Trần Kỳ Hải.
- Không có bạn trong bảng phong thần ấy đâu!
Anh ta cáu bẳn như bị ong châm. Xuân Hoa bước vào, đặt bình trà lên khay, ngồi xuống bên chồng, ra hiệu thoải mải tiếp tục nhưng không nên lớn tiếng.
- Chính xác là bao nhiêu mống? Tôi hỏi.
- Bốn, kể cả Phùng Xá! Trần Kỳ Hải nói.
- Không kể thằng nhị trùng, anh đã đổi lấy bình an của mình bằng ba sinh mạng đồng chí? Tôi nổi đóa.
- Với cách khai báo của tôi, họ chỉ tù tội ít lâu thôi, vợ con còn có hy vọng! Anh ta quả quyết nhưng tôi không tin.
- Tại sao không bịt đầu mối theo cách chúng ta đã chọn? Tôi cay đắng thắc mắc, có ý chê trách.
- Tôi cứ tưởng như lần trước, cần làm sáng tỏ hồ sơ vật tư công chánh. Trần Kỳ Hải phân bua. - Lại nữa, trước khi đẩy vào phòng, hai tay cảnh sát đã rà soát khắp người tôi, tịch thu hết những gì chúng quan ngại, kể cả chiếc nhẫn platin có cyanures ém dưới mặt ngọc, xế trưa, chúng đưa tôi ra khỏi phòng, cho ăn uống rồi dẫn đến làm việc với phó ty. Hẳn hỏi tôi bạn đã đọc hết chưa, tôi nói rồi. Hắn hỏi có tài liệu nào giả mạo, tôi thừa nhận không. Hẳn cười, mời tôi hút thuốc, hỏi nghĩ thế nào, tôi nói đã đến nước này không còn gì che giấu. Ban đầu tôi khai cầm chừng, nhưng hắn không tin, đành phải tăng thêm mới đủ thuyết phục. Ba tháng sau, hoàn tất hồ sơ, chúng đưa tôi ra tòa rồi đày đi Côn Đảo.
- Chị ở nhà có được yên không?
Tôi hỏi, nhận tách trà từ tay Xuân Hoa.
- Sau ba đợt thẩm vấn, họ vẫn cho tôi tiếp tục công tác, vẫn cho giữ chức trưởng khoa và hưởng lương đúng ngạch trật! Chị nói. - Biết mình nằm trong tầm ngắm, tôi an phận phát huy tối đa năng lực chuyên môn.
- Thế bây giờ? Tôi hỏi.
- Bác sĩ lưu dung, danh dự gần như bị sỉ nhục! Đặng Dự hiện là lãnh đạo của tôi đấy. Anh ta sợ lây lan, lạnh mặt như chưa hề quen biết nhau! Chị than.
- Nếu lấy công lao mà đãi ngộ, làm sao cỏ chuyện đó? Tôi thắc mắc.
- Tại cái ông này! Chị âu yếm vỗ nhẹ vai chồng.
- Đã đi tù không chịu tủng (156) lại muốn tung.
(156) Tủng: điếc, cố ý chơi chữ, dùng ba từ liên tiếp có phụ âm đầu đều “t”
Trần Kỳ Hải xua tay phản đối vợ rồi kể cho tôi hay hôm ấy anh đang hành dịch ở bãi đá ngoài Côn Đảo cùng bạn tù, không rõ từ đâu một thằng bé mặc đồng phục học sinh mang cặp da tìm đến nhờ anh xem lại bài toán hình học. Đề có ba câu, cậu nhóc chỉ làm được một, anh giúp nó phần còn lại, nhân tiện chỉ luôn phương pháp giải toán quỹ tích. Hôm sau, nó mang đến một ít thịt hộp làm quà biếu và nhờ anh chỉ giúp bài toán đại số. Chuyện ấy thường xảy ra vào giờ nghỉ của tù và tái diễn hằng tuần dưới bóng một tán bàng. Được kèm cặp, thằng bé học tập tiến bộ, kết thúc học kỳ đứng đầu toàn khối. Còn anh, mỗi lượt nhận quà đều san xẻ cho các bạn, cải thiện bữa ăn, tăng cường sức khỏe. Cuối năm học, thằng bé được lãnh thưởng, nó đưa cha tới cám ơn, đám tù căng mắt sửng sốt. Thì ra ông ta là chúa đảo. Ác độc ở đâu không thấy, trước mặt chúng tôi là một thiếu tá nói giọng Bắc, cao to, nhã nhặn, đặc biệt rất thích thơ Quang Dũng. Ngày đất nước hoàn toàn giải phỏng, về lại quê nhà, trong thời gian an dưỡng, có bạn tù báo cáo với tổ chức là Trần Kỳ Hải đã đem kiến thức khoa học phục vụ con em kẻ thù, lãnh đạo nâng tầm, quy cho anh thiếu cảnh giác, mất lập trường.
- Án chung mà tội riêng! Xuân Hoa bình luận.
- Đó là diện chứ không phải điểm! (157)
(157) Cách nói của cán bộ Cộng Sản - Diện : mặt ngoài, mặt nổi, hiện tượng giả. Điểm: chính yếu, cốt lõi, đích thực.
Trần Kỳ Hải khăng khăng cải chính.
- Vậy điểm ở đâu? Không nghe anh lên tiếng, tôi thúc. Trần Kỳ Hải đứng dậy, tảng lờ, vỗ vỗ tay lên đầu.
- Đêm nay chắc khó ngủ! Anh ta nói không hẳn với tôi. Xuân Hoa hết nhìn chồng lại nhìn tôi.
- Bệnh cũ tái phát?
Tôi có cảm giác mình trở về làm khổ bạn.
- Còn ở chơi lâu với nhau, khuya rồi, nghỉ thôi! Xuân Hoa nói, kéo ngăn tủ lục lạo các chai lọ.
Trần Kỳ Hải bần thần, nhận từ tay vợ ba viên thuốc bỏ ngay vào mồm, uống cạn tách trà rồi lẩn thẩn một mình ra khỏi phòng.
- Đến bây giờ cả hai chúng tôi đều bị treo đảng. Anh ấy coi đó là một bất công, đôi khi ray rứt trắng đêm.
Nhìn theo chồng, Xuân Hoa than thở.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Phiên Bản Tình Yêu (Vũ Biện Điền)

Postby bevanng » 07 May 2016

- Z.34
Sao anh không về kêu đòi cơm áo, dân chủ, tự do cho nhân dân?


Hôm sau Trần Kỳ Hải dậy sớm đèo vợ đi chợ rồi trở về cùng tôi xuống phố.
- Thích ngồi đâu? Ra tới đường anh hỏi.
- Cercle Sportif còn không? Tôi muốn thăm lại nơi chúng tôi thường đến mỗi khi có việc quan trọng.
- Còn, nhưng bết lắm! Anh nói.
- Vậy đến cà phê Tổng Hội Sinh Viên ở đường Trương Định? Tôi đề nghị, có ý lê la lần mò kỷ niệm.
- Ở đó giờ là trụ sở Thành Đoàn, vẫn kinh doanh như cũ, nhưng chị Lài đã bị đuổi! Trần Kỳ Hải nói.
- Vì sao? Tôi hỏi.
- Không ăn cánh! Anh ta nói.
Chị Lài là cơ sở của chúng tôi. Ngày ấy chị có chồng đi tù ở Phú Quốc. Chúng tôi khó nhọc mới đưa được chị về trụ sở Tổng Hội Sinh Viên, đề nghị chị mở bán cơm và cà phê. Vốn liếng ít ỏi nhưng chị luôn bao bọc, vui vẻ làm chủ nợ sinh viên. Và kỹ sư Trần Kỳ Hải, lâu lâu lại hào phóng, tự động xóa bớt ít nợ cho bạn bè.
- Thôi, tùy anh! Cảm thấy mù mờ trong thành phố mình vắng bóng quá lâu, tôi bán cái. Trần Kỳ Hải im lặng đạp xe, tôi ngồi sau lơ láo ngang qua những phố xá vắng vẻ, ảm đạm. cỏ cây vẫn còn đó, nhà cửa vẫn còn đó, người người vẫn còn đó, chợ quán vẫn còn đó, sông nước vẫn còn đó… Nhưng thần hồn như đang ở nơi đâu. Trần Kỳ Hải dừng xe, tôi ngơ ngác nhìn quanh. Qua bảng hiệu, tôi biết đây là một cửa hàng ăn uống quốc doanh tự phục vụ theo kiểu miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa, cùng đường nhưng nằm về phía đông dòng Chúa Cứu Thế. Có lẽ mới bồi mới xây, ngày tôi xa Huế doi đất này là một nhỏn đồng nhỏ len sâu vào thành phố.
Chúng tôi sắp hàng mua vé, đi thẳng đến chái bếp nhận thức ăn đồ uống qua ô cửa nhỏ hình bán nguyệt cáu bẩn, tự kiếm chỗ ngồi. Húp xong bát phở lạt lẽo, đang mùa thu ở Huế, phòng chật người đông, mồ hôi hai đứa vã ra như tắm. Không giấy lau, không tăm xỉa, chúng tôi dùng đũa gạt mồm, dùng tay móc răng.
- Anh biết không?… Tự dưng nhớ lại những ngày sống chung với Ma Ngát ở lán trại lâm trường, tôi vừa cười vừa nói. - Ở Tây Nguyên người Bahnar, người Djarai, người Édé, mỗi khi ra rừng ỉa xong thường bẻ que cạo đít như bây giờ chúng ta dùng đũa gạt mồm.
Trần Kỳ Hải nhíu mày cúi mặt, rồi bảo tôi mang cà phê theo anh ra hiên. Ngoài này thoáng hơn, bớt vẻ sống sượng, mùi lợm mửa nhưng chói chang nắng.
- Có lẽ đến chết tôi vẫn không nhắm mắt nếu hôm nay anh không chịu hé mở! Lợi dụng cơ cảnh, đối ẩm sinh tình, tôi gợi ý theo cách của Xuân Hoa đầu hôm. Trần Kỳ Hải im lặng, tôi nói tiếp. - Mấu chốt vấn đề ở Phùng Xá, tên gián điệp hai mang, chứ không phải chuyện vớ vẩn vẽ vời giúp trẻ con học tập, tại sao anh không giải trình lãnh đạo để minh oan? Trần Kỳ Hải tảng lờ, đẩy bao thuốc Tam Đảo về phía tôi, vẫn đăm chiêu. Bực mình, tôi đổi thế ngồi quay mặt ra sân, muốn chứng tỏ với bạn mình hết ham muốn hàn huyên tâm sự. Quá khứ bao giờ cũng đẹp, nhưng sao chúng tôi lại làm khổ nhau bằng những mảng ký ức đớn đau? Tôi cảm thấy buồn, gởi ỷ nghĩ mình tan theo khói thuốc.
- Mấy năm trước cứ đến ngày hương khói cho Cung, thằng Phổ thằng Hiếu tìm đến nhà mình, cơm không ăn nước không uống, ngồi chưa nóng đít đã giận dỗi bỏ về, riết rồi chúng không tới nữa!
Chừng mươi phút sau, lúc tôi đã hết kiên nhẫn, bất chợt Trần Kỳ Hải lên tiếng.
- Hôm qua Xuân Hoa nhắn, chúng đến là nể bạn lắm đấy. Hờn nhau thế chỉ vì đòi hỏi không được thỏa mãn. Chúng yêu cầu cùng làm đơn đi kiện đảng nhưng mình không đồng thuận!
Nói đến đó, anh ta ư hử rồi tắc tị luôn, điếu thuốc ngún cháy đến tận mẩu tàn mà không hay.
- Vì sao? Tôi nhắc.
- Mình đã nói đến đâu? Anh ta ngớ ngẩn hỏi.
- Không thuận cùng nhau kiện đảng… Tôi lặp lại.
- Kiện đảng là kiện làm sao? Hai chú ấy chưa từng là đảng viên, chưa bao giờ sinh hoạt đảng nên tưởng bở! Anh ta nhăn nhó.
- Nhưng vì sao mà phải đi kiện?
Bỏ qua chi tiết, tôi níu vào mấu chốt.
- Trận đánh phá cầu Gia Hội thất bại, trên đường tẩu tán, hai chú ấy cứ nghĩ do tôi sơ hở. Hòa bình, anh em gặp nhau, Xuân Hoa vô tình kể về nhị trùng Phùng Xá. Ngay tức khắc, chúng hỏi tôi tự ý liên kết Phùng Xá hay do tổ chức, Cơ quan, đoàn thể nào điều động. Tôi nói từ thành ủy, cụ thể do phó bí thư thường trực Hồng Vân. Chúng nói Phùng Xá tội chết đã rõ nhưng bà ấy cũng phải liên đới. Theo nguyên tắc tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách, vậy thành ủy và bà Hồng Vân chịu trách nhiệm, chớ sao trút vạ cho chúng ta. Tôi nói phải rồi, nhưng hai chú có biết bà Hồng Vân bây giờ đang giữ trọng trách gì và phu nhân của ai không. Chúng nói không cần biết, còn tôi nói phải cần biết. Con kiến mà kiện củ khoai hả? Dưới gầm trời xã hội chủ nghĩa, sáu mươi năm qua, bao nhiêu sinh linh đồ thán từ Nam chí Bắc, có ai dám kiện Đảng, kiện Công An, kiện Bộ Đội? Cứ cãi lẫy nhau dằng dai như thế, người chết đã không yên mà kẻ sống cũng không ổn! Trần Kỳ Hải than.
Buồn quá! Buồn đến nỗi không nghe cà phê có vị đắng, không nhận ra ba gian cửa hàng bợt bạt nắng ngập tràn hiên. Mặt trời đã lên tới ngọn cây, nhìn quanh chỉ còn hai chúng tôi loi choi giữa ghế bàn lổng chổng, ngoài kia khoảnh sân vắng hoe.
- Thế Phùng Xá có sao không?
Tôi gắng gượng hỏi.
- Hắn vẫn sống nhăn, tươi rói, huân chương, bằng khen treo khắp nhà, lại chức quyền ở địa phương nữa! Nghe nói dạo này như vua một vùng, hắn hét ra lửa, hết lùa bọn tù mới mãn hạn cải tạo về đi khai hoang phục hóa tại Bình Điền, Linh Miêu, lại xua dân đi đào sông dẫn thủy nhập điền ở Ngũ Tây, Chín Hầm!(158)
(158) Ngày nay ai đến Huế, lên thăm tổ đình Thuyền Tôn phải đi dọc theo một bờ sông hoang hóa như khe suối thiên nhiên tạo thành. Kỳ thực, đó là tàn tích của Sông Hương B - một kế hoạch thủy lợi tiêu tốn công sức, tiền của và sinh mạng nhân dân vào những năm cuối thập kỷ 70 thế kỷ 20, rút cục hoàn toàn thất bại do trí tuệ cán bộ lãnh đạo thô thiển ngay từ những bước điều tra, khảo sát cơ bản.
Trần Kỳ Hải đứng bật dậy, tôi theo anh đến chỗ gởi xe.
- Ngày trước bọn mình nằm vắt chân lên bụng nhau thức suốt đêm bàn chuyện sơn hà xã tắc, mơ ước hòa bình, dân chủ, tự do, anh có khi nào tưởng tới hòa bình, dân chủ, tự do như thế này không?
Tôi túc tắc hỏi, văng vẳng trong đầu tiếng hát Khhánh Ly… Mẹ vỗ tay reo mừng chiến tranh. Chị vỗ tay hoan hô hòa bình. Người vỗ tay cho thêm thù hận. Người vỗ tay xa dần ăn năn. (159)
(159) Hát Trên Những Xác Người - Nhạc Trịnh Công Sơn. Khánh Ly ca
- Không! Trần Kỳ Hải nói.
- Còn bây giờ?
Tôi cười không hiểu vì sao mình cười.
- Ai thế nào không biết, bản thân mình nhức nhối hơn cả lúc chiến tranh.
- Vì sao? Tôi lại hỏi.
- Ngày ẩy tuy cận kề gian nguy nhưng đầy ắp yêu thương và hy vọng!
Anh nói, trả tiền và nhận xe từ tay một nhân viên mặc áo quần bộ đội môi tím khô tóc đã hoa râm.
Biết đâu sau cuộc thảm sát năm Mậu Thân ở Huế, Trịnh Công Sơn đã trở nên một nhà tiên tri, và Khánh Ly mang thần khúc ấy báo động xuống thế gian? Mẹ vỗ tay reo mừng chiến tranh. Chị vỗ tay hoan hô hòa bình. Người vỗ tay cho thêm thù hận. Người vỗ tay xa dần ăn năn. (160) Tôi lừng khừng nối tiếp suy nghĩ chợt đến.
(160) Như chú thích 532.
Có lẽ sáng nay chúng tôi là những người rời cửa hàng ăn uống sau cùng. Trên đầu, những tia nắng nhọn hoắt, bức bối. Dưới chân, mặt đất vàng bủng, lao xao lá khô và rác vụn. Tôi ngơ ngẩn nhìn quanh, người ngợm, cỏ cây, nhà cửa xác xơ, dật dờ.
Trần Kỳ Hải kéo tôi ra cổng, đẩy lên yên sau.
Đường lộ gần như vắng bóng ô tô và gắn máy, thưa thớt một ít xe đạp, đa phần đi bộ, lủi thủi như đàn mối mù lòa lần mò kiếm ăn. Cái lỗ đen sâu hút bên bờ lịch sử chôn chặt uẩn khúc phe ta chiến thắng chúng ta chiến bại nay đã được bạch hóa, nhưng chuyện lãnh đạo thí bỏ tôi rồi vớt vát buộc tôi trả ơn bằng máu không biết nhân dịp này có nên mở ra không? Ngồi sau, úp mặt vào lưng Trần Kỳ Hải, tôi tự hỏi.
Ngang qua dòng Chúa Cứu Thế, phố xá càng vắng vẻ. Vượt cầu Bến Ngự một đoạn, Trần Kỳ Hải dừng lại, giao xe cho tôi.
- Mình còn phải làm một số việc ở cơ quan.
Anh ta nói, đi qua một cổng sắt lớn, bên trên có khẩu hiệu “Không có gì quý hơn độc lập tự do.” Đã nhàm, tôi vẫn lướt đọc và đoán đây là nơi phụ trách công trình công cộng đô thị, bên trong ngổn ngang những khung sắt, dầm cầu, cần trục, máy trộn hồ.
Từ giã Trần Kỳ Hải, xuống dốc, tôi men theo con đường dọc bờ nam sông An Cựu, chẳng mấy chốc dừng lại trước cổng một phủ đệ hoang tàn. Ngờ ngợ mấy giây, tôi dắt xe thẳng vào. Lối đi quen thuộc khiến tôi mạnh bước. Không có người, tôi tựa xe vào một gốc cây. Mũ nồi cầm tay, tôi lần theo hành lang.
- Ông hỏi ai? Một giọng nữ vang lên, tôi nhìn tới.
Một nữ tu mảnh khảnh đang đứng trên thềm, áo lam quần nâu. Tôi ngờ ngợ.
- Ủa, ai như…? Cô ta há hốc một lúc.
- Có phải Diễm Thúy không? Tôi bước về phía cửa nhà bếp, nơi đã từng lên xuống ăn uống.
- Nếu em không nhầm, anh là Lê Huy?
Cô ta chớp mắt, tháo hẳn vuông khăn màu lam choàng đầu. Trước mắt tôi một nỉ sư trẻ, nước da xanh mét, đôi mắt khô quầng thâm.
- Vâng, Lê Huy đây! Tôi nói. - Em xuất gia từ bao giờ? Lời tôi nghẹn ngào đứt khúc.
Trong vồn vã, tôi vô cùng kỉnh ngạc, xót xa, nhưng cô làm mặt tự nhiên.
- Sau khi anh Bửu Dương mất một năm…
Vừa lên tiếng, Diễm Thúy chợt bỏ lửng. Thoáng nghe, tôi khựng cứng cả người.
- Xin lỗi, vẫn biết bản lai vô nhất vật, (161) nhưng em chưa thể an nhiên tự tại mỗi khi nhắc tới chuyện nhà! Cô ta đặt tay lên ngực, cố dằn những thổn thức.
(161) Bản lai vô nhất vật: Vạn vật trước sau vốn không - Lời lục tổ Huệ Năng.
- Vì sao Bửu Dương mất?
Sau cơn choáng, tôi hỏi, nôn nóng.
- Anh không biết thật ư? Cô ta đau đớn hỏi trở lại.
- Không! Tôi nói.
- Học tập cải tạo về, anh ấy cùng vợ mang con vượt biên, tàu ra chưa tới hải phận quốc tế bị công an biên phòng bắn chìm! Diễm Thúy nói.
Tôi nhìn xuống chân mình, chiếc bóng lắc lay. Kẻ phải chết là tôi đây thì không chết, người đáng sống là anh ấy thì không sống. Tôi thầm nghĩ. Tới khi chiếc bóng biến thành cái vòng gai thít chặt lấy chân, tôi không dám cúi nhìn lâu hơn nữa.
- Thế bà cụ?
Nhướng mắt lên, tôi hỏi, hy vọng sắp được gặp lại.
- Chút của tiền dành dụm từ hồi cha em chưa mất mẹ đã trút hết cho vợ chồng anh ấy dùng làm lộ phí, không ngờ vô tình góp phần đưa con cháu vào sóng gió, bà suy sụp, sau đó ít lâu cũng ra đi!
Cô ta khoát tay mời tôi đì ngược trở lại hành lang.
- Ngôi nhà này là từ đường, em đã giao lại cho dòng họ trước khi lên chùa.
Diễm Thúy giải thích, tôi hiểu vì sao đang đứng ở tiền sảnh cô không mời tôi vào bên trong. Muốn hỏi xem vợ Bửu Dương là ai nhưng cảm thấy bất tiện, tôi xỉn phép đi quanh quẩn một lúc, ngắm vườn tược, cỏ cây, và dừng lại nhìn vào thư phòng, nơi Bửu Dương đã đưa tôi về ẩn cư sau một lần xuống đường thất bại.
- Bấy lâu anh ở đâu?
Diễm Thủy hỏi khi tôi ra tới giếng nước.
- Về quê, vào Sài Gòn rồi lên Tây Nguyên lập nghiệp! Tôi nói.
- Thế mà Bửu Dương cứ bảo anh chết rồi mỗi khi mẹ hỏi tới! Cô ta nói, lần dây thả gàu vào lòng giếng.
Tôi bùi ngùi im lặng.
- Có lẽ anh ngỡ ngàng khi gặp lại em trong áo tu?
Cô ta thăm dò. Tôi khẽ gật đầu, giành lấy dây gàu.
Diễm Thúy buông tay, nói tiếp.
- Nếu không kịp tìm thấy nhiệm mầu trong Tam Bảo (162) chắc em cũng đã theo mẹ và anh ấy từ lâu. Nay phiền não tạm qua đi, em chỉ còn biết thanh cư hỷ đạo. Còn anh, trong cơn tao loạn vật đổi sao dời thân tâm có thường an lạc không? Diễm Thúy lo lắng hỏi.
(162) Tam bảo: Phật, Pháp, Tăng.
- Cảm ơn, nhờ đã quen sống ngoài gia đình, anh vẫn không sao! Tôi nói.
- Anh biết không? Cô ta ngập ngừng mấy giây, hình như có chút e thẹn của thời xuân sắc.
- Sau ngày anh Dương và mẹ mất, dẫu biết hão huyền nhưng có một dạo em mong những người như anh sống sót trở về… Cô ta lại ngập ngừng.
- Để làm gì? Tôi hỏi.
- Bây giờ mới đúng là lúc xuống đường đấy, kêu đòi cơm áo, dân chủ, tự do cho nhân dân! Cô ta nói.
Không ngờ ngày ấy mình đã gây ấn tượng và còn lưu lại sâu đậm đến thế, tôi bẽ bàng xấu hổ, cảm giác như vừa xù nợ.
- Anh xin lỗi Diễm Thúy và tất cả những ai đã sống, đã suy nghĩ và mong ước như em. Hãy tha thứ cho anh, đời người đôi khi lực bất tòng tâm!
Tôi nói, muốn phủ phục ôm lấy đôi bàn chân nhỏ nhắn nhăn nheo nứt nẻ để tạ tội.
- Nam mô A Di Đà Phật! Thậm tai, em lại lỡ lầm lan man hoang ngôn vọng niệm mất rồi!
Thấy tôi bối roi, cô ta nói, chắp hai tay xá lễ.
Đặt gàu nước lên mặt tang giếng, tôi chào tạm biệt Diễm Thúy, lòng dạ rưng rưng.
Gặp gỡ bất ngờ, ra đi vội vã như trốn chạy, cô ta sững sờ nhìn theo, tôi cúi mặt đạp xe qua ngõ, đi tiếp con đường dọc bờ sông.
Xuống tới cầu An Cựu, bên kia chợ búa, phố xá vắng hoe, nhưng tôi cũng tìm được người hỏi thăm đường về Thanh Thủy. Thì ra Thanh Thủy là ngôi làng nhỏ nổi tiếng nhờ có thẳng cảnh cầu Ngói Thanh Toàn (163) từ xa xưa - xây cất theo kiểu thượng gia hạ kiều, tọa lạc hướng đông nam, cách kinh thành chừng sáu cây số, rất nhiều người biết và từ phố về có đến hai ba ngả đường. Mày mò, tôi chọn cự ly ngắn nhất và thầm tiếc không dám men theo lối cũ có đò Ba Bến, có đình Vân Dương, có làng Vân Thê.
(163) Ca dao: Ai về cầu ngói Thanh Toàn. Cho em về với một đoàn cho vui.- Ai về cầu ngói Dạ Lê. Cho em về với thăm quê bên chàng!
Làng có cầu ngói, tên lúc khai canh là Thanh Toàn, thuộc tổng Dạ Lê. Về sau chữ Toàn bị kỵ húy tên vua Thiệu Trị - Nguyễn Phúc Toàn, nên đổi Toàn thành Thủy.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Phiên Bản Tình Yêu (Vũ Biện Điền)

Postby bevanng » 07 May 2016

- Z.35
Đoàn tụ. Vượt lên mất máu hướng về tương lai.


Tôi vừa đi vừa hỏi. Khoảng mười giờ, tôi rời Lang Xá, vượt Bến Lội, băng ngang một cánh đồng đang mùa lúa chín. Qua được con cầu độc mộc nằm cạnh hồ đình, tôi ngồi nghỉ dưới một tán đa, chờ người thăm hỏi. Một thanh niên dùng que vẽ lên mặt đường sơ đồ làng, giúp tôi xác định phương hướng. Giờ thì tôi nắm chắc địa hình. Thanh Thủy là một rẻo đất trung bộ nhưng cốt cách phong thủy nam bộ, nhìn xa như một cồn nhỏ, ruộng đồng sông nước bao quanh, ngòi lạch chằng chịt, phương tiện vận chuyển phần lớn bằng ghe đò. Tôi lầm lũi đi trong bóng tre, ngang qua những nhà thờ họ cổ kỉnh đổ nát, nhiều bến nước bằng đá tảng chênh vênh lở lói. Tôi để mắt tới những khu vườn rộng nhưng nhà cửa thấp bé tuềnh toàng. Hơn mười năm hòa bình lập lại, vẫn chưa khỏa lấp dấu vết chiến tranh tàn phá và khó nghèo đeo bám. Đương trưa, gió ngoài đồng hây hẩy thổi vào, không khí thoáng mát, những con đường xóm hẹp té, sâu hút. Đến cuối làng, gặp một ngã ba, tôi dừng lại, bên trái lạ hoắc, bên phải quen quen như đã từng. Sau mấy giây tần ngần, tôi biết vì sao mình có cảm giác ấy. Đây là cảnh quan đã hút vào mắt những lúc bình minh, những buổi hoàng hôn trước khi xuống hầm tôi lén nhìn qua hàng tre gai một cách nuối tiếc. Giờ thì chẳng cần ai chỉ dẫn tôi cũng định được hướng Phường Nam phía nào. Chi mươi bước rẽ phải, cảnh vật trở nên thiết thân hơn. Bao năm vật đổi sao dời, đất trời nơi đây vẫn âm thầm lưu tồn kiên định vẻ căn cơ vĩnh hằng. Tôi tới nhà ông Phan Ne lúc mọi người đang ở cả ngoài đồng. Vườn tược vắng vẻ, tôi chỉ gặp một thằng bé đang chơi lò cò ở ngõ.
- Chú tìm ai? Thấy tôi ngấp nghé, nó hỏi, cúi nhặt một mảnh sành liếc lia cho nhảy cà tưng trên mặt nước.
- Ông Phan Ne! Tôi nói.
Vừa nghe, nó ù chạy. Với cảm giác về lại nhà, tôi dắt xe vào sân, thả bộ loanh quanh. Nói chẳng ai tin, tôi không tài nào xác định được vị trí ô cửa hầm bí mật! Trong ngôi nhà này, nơi quen thuộc nhất đối với tôi là chái bếp và xó bồ. Khi tôi quành lại sân, ông Phan Ne nhớn nhác đi vào, thằng nhỏ lúc thúc theo sau.
Thấy tôi ông đứng sững, trố mắt.
- Có thiệt là Lê Huy đó không?
Định tỉnh, ông hỏi. Tôi lao tới ôm lấy con người thấp bè, xương xẩu, râu ria xồm xoàm. Thằng bé ngơ ngác, choạc chân đứng ngẩn tò te. Ông Ne đưa tôi vào nhà, quay lại gọi thằng bé, ghé tai nó nói nhỏ.
- Dạ! Nó hét, vùng chạy như bay.
- Anh ngồi đây đã!
Ông kéo chiếc ghế gỗ long chân tựa vào cột nhà, loay hoay một lúc rồi xách ấm xuống bếp. Tôi đưa mắt quan sát, hơn mười năm chẳng có gì thay đổi, vẫn nền đất, cột tre, mái tranh. Chuồng trâu phía trước đã tháo bỏ, thay vào đó, một cái giàn với những dây bầu úa vàng chằng chịt. Ông Ne đun chưa sôi ấm nước, bà Nậy hớt hải lon ton chạy về.
- Mô? Mô? Một tay cầm hái, một tay cắp chiếc nón cời, bà hỏi thằng bé đang theo sát bên cạnh. Tôi đứng bật dậy, chưa biết phải làm gì. Bà bước vào nhà, thảy các thứ xuống nền, níu lấy tôi, khóc bù lu bù loa.
- Hòa bình rồi, ai cũng trốn biệt tận mô, chỉ có anh mò về! Bà đẩy tôi ngồi xuống bộ phản ngay giữa gian thờ. Ông Ne ôm bình chạy quanh xóm vay trà.
- Thời buổi cái chi cũng khó khăn!
Thoáng thấy chồng len rào, bà than. Nhìn xuống hai bàn tay không, tôi xấu hổ, tự trách mình vô tâm. Bà Nậy thăm hỏi một lúc, kéo vạt áo lau mặt rồi vào buồng đong gạo.
Ông Ne quay về, sục sạo dưới bàn thờ một lúc, bê ra chiếc khay gỗ sứt mẻ và mấy cái chén nhỏ rạn nứt. Bà Nậy đưa nước lên, chuyển vào bình.
- Bấy lâu ni ở mô?
Ông Ne rót trà, ngồi xuống phản đối diện với tôi.
- Cháu về quê Thường Đức, vô Sài Gòn rồi lên Tây Nguyên!
- Bà cụ còn khỏe chớ? Ông hỏi thăm mẹ tôi.
- Dạ! Tôi nói.
- Đã vợ con chi chưa? Ông lại hỏi.
- Dạ chưa! Tôi nói, ông gật gật đầu, vấn thuốc lá.
- Trong nớ có dễ thở không?
Ông hỏi, lè lưỡi liếm chuôi điếu thuốc.
- Chỉ được rau củ dễ kiếm, ngoài ra các thứ còn thắt ngặt hơn cả ngoài mình! Tôi nói.
Ông châm thuốc rít một hơi, uống hớp trà, đẩy cái chén còn lại về phía tôi. Bà Nậy lấp ló ở cửa, ngoắt chồng xuống bếp. Thằng bé ngang qua sân, dừng lại nhìn tôi khá lâu rồi vụt chạy ra ngõ nhập với mấy đứa bạn cùng trang lứa.
Tiếng vịt kêu quang quác từ chái hồi.
- Anh công tác nhà nước hay ở ngoài?
Ông Ne trở lại, hỏi.
- Dạ, nhà nước, đã vào biên chế (164) Tôi nói. - Ở ngoài dễ đói lắm!
(164) Biên chế (Biên: ranh giới. Chế: đặt ra phép tắc): Vào biên chế: Chọn lựa theo phép tắc quy định cho vào bên trong ranh giới mà xử dụng. Tuyển chọn cho nhập ngạch trật công chức. Ngược lại, Ra biên chế: Bị sa thải.
- Tốt! Ông nói, nhưng bộ tịch lướng vướng. Ngay lúc đó, có tiếng hét từ đường xóm vọng vào rồi thằng bé níu tay kéo Mơ qua ngõ.
- Đó tề! Đó tề! Vô đi! Nó nói.
Cô ta vùng vằng.
Tôi bước xuống hiên, hớn hở dang rộng hai tay, nhưng Mơ ngoặt vòng về phía giàn bầu lánh mặt, làm như không hay biết nhà đang có khách.
- Mơ! Có anh Huy về thăm!
Áng chừng con gái đã vào tới chái bếp, ông Ne gọi. Không nghe ai lên tiếng. Tôi vào nhà trở lại, ngồi xuống chỗ cũ, không còn bình thản như trước. Ông Ne gọi đến lần thứ ba, Mơ mới cừ rừ bước lên, quần ống thấp ống cao, mặt mày lấm tấm mạt thóc và bông cỏ, thằng bé vẫn theo bên cạnh.
- Ngồi xuống đây! Ông đứng bật dậy, chỉ xuống chỗ của mình. - Cha có việc phải qua bên nhà thờ họ! Ông nói, vói lấy cải dù đen móc ở vách rồi đi ngay. Thằng bé đẩy Mơ ngồi xuống, lấm lét nhìn tôi.
- Khỏe không? Sau mấy giây dao động, tôi hỏi.
- Dạ, bình thường thôi!
Mơ nói, vít thằng bé vào lòng.
- Anh thấy em gầy và sạm hơn trước!
Tôi tỏ vẻ lo lắng và thương xót.
- Ngày ấy em chỉ hoạt động ban đêm và ở hầm, cận kề với súng đạn không nắng gió bao lăm. Mơ nói.
- Lam lũ thế mà có được… an vui… với…?
Tôi tỏ vẻ quan ngại, run giọng.
- Dạ, không có chi! Cô ta muốn tỏ vẻ dửng dưng nhưng không che mắt được ai.
- Vậy sao cứ ngẩn ngơ ngây dại ra thế? Tôi hỏi.
- Tại em… tại em không ngờ anh về!
Một lúc lâu, Mơ nói, vẫn cúi mặt.
- Hòa bình lập lại, tưởng sung sướng, thanh nhàn, hóa ra ai cũng vất vả! Tôi có ý chia xẻ.
- Vất vả em đã quen từ nhỏ, chừ chỉ có túng thiếu, vì rứa mà quanh năm đầu tắt mặt tối! Mơ nói, khẽ thở dài, co chân lật xả mấy lớp quần bo xắn tận gối.
- Đôi khi nhờ thế mà khỏi nhớ nhung mung lung?
Tôi hỏi, lấp lửng.
- Nhớ chớ! Nhất là lúc đêm về, lúc ốm đau. Nhưng biết ai có còn nhớ mình không!
Mơ nghẹn ngào rồi khóc. Thằng bé ngước mặt lên, đưa tay níu cổ Mơ rồi căm mắt nhìn tôi.
- Có lẽ… con anh… đây?
Nhìn mấy giọt nước mắt lốp bốp trên vai thằng bé, bất chợt tôi hỏi, líu cả lưỡi. Mơ vẫn khóc. Tôi lần tới. Thằng bẻ vụt nhảy lên phản, quỳ nấp sau lưng Mơ.
- Phải không? Nói đi!
Tôi quay lại đặt tay lên vai cô ta, day mạnh.
- Anh đi chưa đầy tháng, em tắt kỉnh…
Mơ nói, gạt nước mắt. Tôi dang tay ôm lấy cả hai mẹ con, thằng bé vùng vằng ngã toài lên mặt phản, hai mắt hơ hải nhìn tôi.
- Cha con đó! Mơ nói, day lui với hụt thằng bé.
- Không phải! Nó nạt lại mẹ nhảy xuống đất, bỏ chạy. Mơ ngó theo, nhăn nhó cười trong nước mắt.
Ông Ne trở về. Bữa cơm bày trên phản, tuy hơi muộn nhưng khá chất lượng, thịt vịt, nước mắm gừng, canh bầu nấu tôm, cá trê nướng, dưa môn chua, rau thơm sống. Bốn người ngồi vào không thấy thằng bé.
- Cha con đã nhận nhau chưa?
Vừa bưng chén, ông Ne hỏi, dè chừng.
- Dạ rồi! Tôi nói.
Mơ liếc nhìn tôi như kiểm tra độ chân thật.
- Nói đúng, cha nhận con mà con chưa cho!
Tôi phân giải.
- Cháu còn nhỏ dại, không ngày ni thì ngày mai!
Bà Nậy nói đỡ.
- Con không trách nó, chỉ tại mình! Tôi nói.
- Không tại ai hết! Ông Ne hỷ xả xí xóa.
- Anh còn nhớ em đã nói thế nào khi mình chia tay? Đang xới cơm, Mơ day qua, hỏi khẽ.
- Nhớ nhưng anh không thể tha thứ cho mình!
Tôi nói. Và có lẽ chỉ hai chúng tôi hiểu. Thằng bé trở lại, mang thêm ba đứa bạn cùng lứa, mặt mày lem luốc, rụt rè, lượn lờ ngang sân. Bà Nậy vẫy tay gọi cháu vào. Cả tốp như không nghe thấy.
- Đó! Đó tề! Cái ông ngồi bên mạ tao là cha tao!
Thằng bé kéo bạn lần vào hiên, chỉ trỏ, khoe mẽ.
- Rứa răng cả làng ni ai cũng nói mạ mi chửa hoang?
Con bé đen nhẻm, hấp háy đôi mắt chua ngoa vặn vẹo bắt bẻ thằng bé. Nghe đến đó, tôi buông chén, bước xuống hiên, cả bốn đứa đồng loạt ù chạy. Tôi theo đến ngõ, chúng đã ở tận đầu đường. Tôi chưa biết làm gì, Mơ đã ra tới, đưa tay ngoắc, thằng bé lừng khừng đi lại. Tôi cúi xuống bế nó, nó không phản đối. Khi tôi đặt lên má một cái hôn, nó đưa tay phủi lia lịa. Mang được thằng bé vào nhà, tôi thấy mình đã với tới một cái gì ngoài tầm. Bà Nậy nhìn cha con chúng tôi, sung sướng cười. Mơ đơm đầy một chén cơm, kèm theo đôi đũa đặt xuống chỗ phản còn trống.
- Mạ mi! Có cha rồi không đói à?
Bà mắng yêu cháu. Tôi đặt thằng bé vào chỗ của tôi, Mơ níu con ngồi xuống. Bữa cơm tiếp tục trở lại, vui hơn. Bỗng dưng tôi không còn thiết ăn uống nữa.
- Cả làng mình nói bậy phải không ngoại?
Cầm lấy chén, thằng bé ngoảnh mặt hỏi ông.
- Ừ, nói bậy! Ông Ne gật đầu, xác nhận.
Thẳng bé ngoác miệng lùa cơm, nhom nhoàm nhai, mặt mũi hí hỏm. Sau bữa ăn, tôi xin phép ông bà cho chúng tôi sống đời vợ chồng. Ông Ne vui vẻ, bình thường, nhưng bà Nậy cứ ủ ê, ngài ngại.
- Rứa họ hàng mần răng?
Quay quắt một lúc, bà miễn cưỡng hỏi chồng.
- Khó khăn chi, biện một mâm cơm, trước cáo tổ tiên sau ra mắt bà con! Ông nói.
- Còn bên phía anh ấy?
Ý bà muốn nói đến gia đình tôi.
- Xa xôi cách trở, ra Vân Thê mời bà Ngâu vô đại diện! Ông đề nghị
.- Người ta mất bảy tám năm rồi ông còn muốn dựng dậy lo việc nhà mình! Bà Nậy nhắc nhở chồng.
- Ừ hí! Ông Ne giật thót, è hèm rồi ngồi lặng im.
Tôi cúi mặt ngậm ngùi. Đã tới giờ ra đồng, một người đàn bà tay cầm hái ngang qua ngõ bai bải gióng gọi bà Nậy. Ông Ne xua tay, bà ta bương bả vào sân.
- Mi ở nhà, để mạ xin phép ban quản trị hợp tác xã cho! Bà Nậy dặn con gái, vớ chiếc nón cời.
- Thôi khỏi, mạ ơi! Muốn phê, muốn trừ bao nhiêu công điểm mặc họ! Mơ nói.
Bà Nậy vội vã theo bạn gặt đi ngay, thằng bé lao cái chén vào mẹt tre, buông đũa chạy theo.
- Anh có lúc mô kể cho mạ trong nớ nghe chuyện tụi mình? Đang dọn chén bát, Mơ hỏi.
- Có! Tôi nói. - Nhưng anh chỉ làm công việc đề phòng, ngăn chận bà mang trầu cau đến nhà người ta.
- Nghĩa là mạ không đồng ý ngoài ni?
Mơ nghi ngại. Tôi cười.
- Thời loạn, chim trời cá nước, mần răng bà ấy biết tăm hơi mô mà lần! Ông Ne nói đỡ cho tôi.
Mơ thụng mặt, tiếng chén bát loảng xoảng.
- Lúc đó mạ không có ý kiến, nhưng nay biết mình có đứa cháu trai xinh xắn anh tin chắc bà rất mừng. Ai có đổi vàng chắc chi mạ đã khứng chịu! Ghé sát tai Mơ, tôi thủ thi, nhưng không chỉ mỗi cô ta nghe.
- Rứa là tốt!
Nói xong, ông Ne thong thả lên nhà, vừa đi vừa lần bấm đốt tay, tôi không rõ ông tính xem xung hợp tuổi tác hay chọn ngày lành tháng tốt. Tôi giúp Mơ đưa các thứ xuống chái bếp và cùng chùi rửa niêu chén.
Lúc ông Ne lỉm dim mắt, Mơ đưa tôi vào xó bồ, nơi này bây giờ ngăn nắp hơn, có một cái giường tre khá lớn, có giăng dây máng áo quần sát vách, được che chắn bằng tấm màn vải sậm màu loang lổ vết ố thâm. Chúng tôi vạch màn qua bên, nằm dài lên chiếu, dùng gối tre kê cao đầu, tỉ tê chuyện vãn. Mở đầu, tôi báo cho Mơ hay mình đã đổi tên, làm lại giấy khai sinh.
- Anh bây giờ là Lê Huy Phong. Phong trẻ hơn Huy mấy tuổi nhưng năng động không bằng. Phong khôn ngoan hơn Huy chút ít nhưng chẳng tranh thủ được gì cho bản thân! Tôi nói.
- Mấy năm qua răng anh không viết thư về?
Mơ thắc mắc.
- Sau ngày Sài Gòn thất thủ anh có gởi thư đề tên Phan Thệ nhờ trao lại cho Phan Thị Bống, sao đợi mãi chẳng thấy hồi âm. Có thể thất lạc, có thể hồi đó hệ thống bưu điện không về tới làng xã, có thể ai đó đã nhận và đọc nhưng ngại ngần. Từ đó anh nghĩ em đã có chồng, níu kéo chi nữa, tất cả đã lùi vào dĩ vãng.
Tôi nói, rồi kể lại những ngày sống xa nhà, vừa làm vừa học. Đề phòng, cảnh giác, giới hạn giao tiếp, chỉ biết úp mặt vào sách vở. Tới khi tốt nghiệp kỹ sư, lên Tây Nguyên công tác, đời sống vẫn khó khăn, phải bon chen khiến người tôi mụ mẫm, gần như không nghĩ tới gì cao hơn miệng mồm.
- Rứa mà em cứ tưởng…
Nghe đến đó, Mơ tặc lưỡi rồi cười khúc khích. Tôi cũng không quên than thở những khoảnh khắc cô đơn trống vắng nhưng không dám yêu ai. Nghe đến đó, Mơ vùng ngồi dậy, nhìn xuống mặt tôi.
- Có thật không?…
Chống tay xuống chiếu, cô ta hỏi, tôi mặc nhiên bằng cách lặng lờ. Sau cùng tôi bày tỏ vui mừng gặp lại Mơ và có con, mong muốn lần trở về này sẽ mang theo cả hai. Mơ nằm trở lại, vắn tắt kể cho tôi nghe khi biết mình mang thai, đã thú thật với cha mẹ, hạ quyết tâm giữ lấy và nuôi dưỡng con. Chừng nửa năm, huyện gọi về đơn vị, hứa cho đi học y tá, Mơ từ chối, đoạn tuyệt. Sau ngày giải phóng, cô ta muốn đưa con đi tìm cha nhưng vì mù mờ địa chỉ nên chưa dám. Mơ cũng không quên kể lể nhớ nhung đến đổ bệnh nhưng không cảm thấy cô đơn nhờ có thằng bé. Mơ rất mong sống đời vợ chồng dưới một mái nhà riêng nhưng vướng đủ thứ, phải đi xa lìa bỏ mẹ cha, không có công ăn việc làm và nhất là sợ làm khổ chồng thêm nữa.
- Đã tới nước này, không lẽ chúng ta mãi sống cách ly? Ngồi dậy, tôi nói, muốn động viên Mơ mạnh dạn cùng tôi đối mặt với đời.
- Không thể quay lui nhưng lao tới không thiếu chông gai! Mơ nói, thở dài. Nhưng tôi biết tận đáy lòng Mơ đã hạ quyết tâm. Rút cuốn sổ nhỏ ở túi quần, chúng
tôi cùng lên lịch một số việc cần làm từ nay đến ngày về lại cơ quan - lễ tổ tiên, ra mắt bà con, lên Huế, đi tàu vào Đà Nẵng, rẽ lên Thường Đức xin mẹ thừa nhận, giới thiệu vợ con với họ hàng, trở lại Tây Nguyên, tìm kiếm việc cho vợ.
- Lần này về Huế, anh đã đến thăm chị ấy chưa? Bất ngờ Mơ hỏi, tôi giả bộ không quan tâm. Mơ nói tiếp. - Đừng nghĩ em ghen, cũng đừng nghĩ em dò la.
- Chưa! Tôi nói và nằm xuống bên Mơ. Không lẽ mình thú thật trong hai ngày đã ba lần tới Đập Đá nhưng chân tay bủn rủn phải quay về? Không lẽ mình thú thật suốt mười năm ân hận nhưng không đủ can đảm vượt lên nguyền rủa? Không lẽ mình thú thật hèn nhát tới nỗi không dám thấy mặt ông bà Hồ giáo sư? Phân vân, bối rối, bứt rứt, tôi lặng im. Ông Phan Ne đã thức giấc, ngồi hút thuốc trên bộ phản ngay trước gian thờ. Tiếng vịt kêu quang quác vườn sau. Đàn sẻ ríu rít sà xuống hiên kiếm ăn.
- Nghĩa là anh chưa…?
Thấy tôi thin thít tĩnh lặng, Mơ chống tay ngồi dậy, lần nữa nhìn thẳng vào mắt tôi. Phải bày tỏ thế nào đây? Tôi tự hỏi mà chẳng tìm được câu trả lời.
- Có thật anh chưa biết chi? Mơ lặp lại, giọng tức tưởi dằn thúc. Tôi mím môi, ngũng ngẵng.
- Chị ấy chết rồi, chết cùng anh Bửu Dương trong một chuyến vượt biên!
Mơ nói, nằm xuống, vắt chéo hai tay gác ngang trán. Day sang, tôi thấy cô ta căng mắt nhìn lên mái nhà, môi mấp máy, cổ rung rung.
- Nghe tin dữ, cha bỏ công đi dọc bãi biển từ cửa Thuận An về đến Tư Hiền (165) những mong tìm nhặt được xác, nhưng chỉ có sóng bạc đầu và chân trời thăm thẳm. Ông điên dại chửi bới công an biên phòng, chửi luôn bọn du kích. Chính quyền các xã cha ngang qua đòi gô cổ, ông ném vào mặt chúng thẻ đảng viên và các thứ huân huy chương. Một tuần đi không về không, lại bức bối, cha đổ bệnh. Tới hồi khỏi, ông lên phủ giúp bà cụ làm chay đàn cho vợ chồng anh Bửu Dương, về lại làng, tháng sau cha nhất quyết bắt em viết giúp đơn từ chức phó chủ tịch xã. Mạ can ngăn, ông nói thà ăn cứt một mình mà làm người còn hơn ăn cơm chung với tụi nó mà làm chó!
(165) Thuận An, Tư Hiền: hai cửa sông Hương, cách nhau khoảng 40 km, đổ ra biển Đông.
Có tiếng động ở chái bếp. Ông Phan Ne dùng chổi đuổi gà, che nắng bằng cái quạt mo cau, chậm rãi bước xuống sân. Nghe tiếng ong vù vù đi tìm tổ, tôi cũng nhìn lên mái nhà nhưng không thấy gì, nước mắt lưng tròng.
- Nghĩa tử là nghĩa tận, anh muốn thì hãy khóc đi!
Mơ nói, ém vào tay tôi miếng vải nhỏ vừa dứt từ túi áo. Thằng bé lao về tốc màn nhảy phóc lên giường nằm chen vào giữa, người nức mùi lúa. Nó ngọ ngoạy nới chỗ, rồi từ túi áo nó, bay lên những con châu chấu màu cỏ úa, những con cào cào màu mạ non.
Chiếc bóng ông Phan Ne dật dờ qua ngõ.
- Mạ! Răng mạ khóc?
Nó băn khoăn hỏi mẹ rồi gượng dậy nhìn vào mặt tôi với ánh mắt hậm hực. Chợt thấy nước mắt đầm đìa trên mặt cha, nó tiu nghỉu nằm xuống. Tôi không nghe Mơ nói gì. Có tiếng người lao xao và cả tiếng súc vật về chuồng đâu đó.
- Ai đánh mạ?
Nó lục bục hỏi Mơ, đưa cao một nắm tay.
- Không ai hết! Mơ tảng lờ.
- Con có chịu theo cha lên Tây Nguyên không? Cô ta lái thắc mắc, giận dữ của thằng bé về hướng khác.
- Tây Nguyên ở mô? Nó hỏi, thả rơi nắm tay.
- Xa lắm! Mơ nói.
- Ông bà ngoại có chịu đi không?
Thằng bé ngấp nghé nhìn về phía chái bếp. Tôi chờ nhưng không nghe Mơ trả lời.
Hai mẹ con ôm lấy nhau, thầm thì.
- Không ai đánh mạ, răng mạ khóc?
Chưa thôi hồ nghi, thằng bé vẫn muốn tra xét.
Tôi lại nhìn lên mái nhà, dim mắt, lắng nghe tiếng con ong đi tìm tổ, nhưng trong vòm não cứ dấy lên một cuộc rượt đuổi, những loạt súng dồn dập, những đỉnh sóng bạc đầu cao ngất gầm gào giữa đại dương.
Tôi muốn anh sống. Nếu có thể, bằng mọi cách tôi sẽ làm cho anh sống. Nhưng chỉ khi nào nhân loại xóa sạch Cộng Sản trên mặt đất oan khiên này, ngày đó dẫu ở thế giới nào, tôi sẽ nhận lời cầu xin tha thứ kia.
Thì ra, là thế. Nhưng oái ăm…
Tôi nghẹn ngào bồi hồi nhớ lại.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Phiên Bản Tình Yêu (Vũ Biện Điền)

Postby bevanng » 07 May 2016

- Z.36
Cuộc viếng thăm bất đắc dĩ.
Dồn nén. Bi phẫn. Bùng nỗ.


Ba hôm sau, tôi đưa vợ con lên thành phố theo ngả Vân Thê. Lúc ngang qua làng, chúng tôi tìm đến ngôi nhà bé nhỏ của dì Ngâu nhưng đã bị xóa sổ. Chủ mới là một đôi vợ chồng cùng đàn con hồi kết được xã cấp đất, chẳng có dây mơ rễ má với phía ngoại tôi. Mất chì vớ chài, chúng tôi tìm đến phủ thờ ngài Nguyễn Phúc Hiệp. Thủ quỹ đi rút tiền chưa về.
Vừa lăm xăm qua cổng, một người đàn bà cỡi xe đạp chặn chủng tôi lại, nói như xua đuổi. Thú thật, tôi chẳng hiểu mô tê.
- Để em! Mơ nói rồi day sang bà ta. - Tụi tui từ bên Thanh Thủy qua. Mơ đưa tay chỉ về phía làng cách đó một quãng đồng.
- Có việc chi? Bà ta hỏi.
- Đi thắp hương! Mơ nói.
- Ở đây là nơi thu mua heo của hợp tác xã, chỉ có chuồng với kho! Bà ta nói, cho chiếc rổ mây gác ngang tay cầm, te ve cúi đạp. Mặc, đã tới chúng tôi cứ vào. Từ sân nhìn lên, tôi thấy phủ thờ toang hoác, gió thoảng mùi chua úng. Có tiếng kêu eng éc, tôi nhìn sang chái bên, người ta đang cân heo.
- Con tui đau, o làm ơn đừng ghi nợ! Người đàn ông chủ heo van xin cô gái đang gập mình ghi sổ.
Giờ thì tôi đã hiểu người đàn bà vừa rồi nói gì. Nhưng tôi đoan chắc, vì mẹ tôi đã nhiều lần nhắc nhở, đây không chỉ là nơi yên nghỉ của nguyên soái Nguyễn Phúc Hiệp, con thứ 2 của chúa Nguyễn Phúc Tần mà còn là chỗ thờ cúng của ba vị anh hùng dân tộc thời cận đại, Tôn Thất Thuyết và hai con trai là Tôn Thất Đạm, Tôn Thất Tiệp.
Chúng tôi bùi ngùi quay bước, đi tiếp lên Dạ Lê, Công Lương, Vân Dương. Đò Ba Bến vẫn còn, nhưng một sĩ quan bộ đội phục viên trấn thủ làm sinh kế. Do không có gì bịn rịn dọc đường đi, chúng tôi tới Huế khá sớm. Tôi dự tính xin vợ chồng Trần Kỳ Hải cho tá túc qua đêm để sáng mai xuôi tàu.
Khi giáp mặt, Trần Kỳ Hải nói nghe tin tôi về ông Hà Thúc Lâm có ý muốn gặp. Thú thật, tôi gần như đã quên mặt, cũng không rõ ông ấy giữ trọng trách nào trong đảng, trong chính quyền, trong mặt trận. Suốt thời gian hoạt động nội thành, đa phần chỉ thị tôi nhận từ Nguyễn Khoa Lư, sinh viên luật năm cuối, người móc nối và đưa tôi từ phong trào đấu tranh đô thị vào Mặt Trận Giải Phóng, rồi vào đảng Cộng Sản. Khi Lư hy sinh trên đường vượt Bạch Mã lên Xanh. (166) Trần Kỳ Hải thay vào vị trí ấy. Trước ngày lên bưng lần thứ hai, tôi nhớ vài ba lần có nghe Trần Kỳ Hải nhắc tới ông Lâm với thái độ nể trọng. Hình như tôi có gặp ông trong một khóa học ngắn ngày triển khai nghị quyết.
(166) Lên Xanh: Sau 1954, cách nói khác của “lên chiến khu”, “lên bưng”
Có lẽ bây giờ ông Lâm và vợ chồng Trần Kỳ Hải vẫn còn quan hệ khăng khít, ngoài tâm tình họ đặc biệt coi trọng nhau về mặt nhân cách. Còn tôi, từ khi rời làng Thanh Thủy, trốn chạy khỏi họng súng của đồng chí, tôi đã là con người khác. Vì thế, lúc này tôi dửng dưng, mặc cho Trần Kỳ Hải ân cần, thiết tha.
Sau bữa cơm tối, trong lúc Mơ bận thu dọn chén bát, tôi rề rà trò chuyện với Xuân Hoa, Trần Kỳ Hải khoác vội chiếc áo vét cũ, đưa xe đạp ra sân.
- Tôi về Huế kỳ này chủ yếu thăm bạn bè và vài nơi cần thiết, chuyện ông Hà Thúc Lâm hay ai nữa đều nằm ngoài dự tính.
Tôi nói với Xuân Hoa.
Đang bơm xe, Trần Kỳ Hải dừng lại nhìn lên.
- Ngại gì? Đi đi! Anh ấy không đến nỗi nào đâu!
Đoán được ý chồng, Xuân Hoa nói thay, rồi lấy cớ giúp Mơ, chị lui vào nhà bếp để tôi tiện theo Hải. Nhưng chợt nhớ, vừa tới cửa Xuân Hoa vội quay lại.
- Có lần cậu hỏi tôi về bí mật của Hồ giảo sư năm Mậu Thân, bây giờ hãy đến mà khai thác người trong cuộc cho thỏa!
Trần Kỳ Hải nhìn vợ, khẽ gật đầu tán thành.
- Thật thế ư? Tôi tự hỏi không nghi ngờ.
- Được, đã đứng trên đất có ngã cũng không sao!
Tôi nói, bước ra sân, ngồi lên xe cho Trần Kỳ Hải lái đi nhưng không hy vọng sẽ gặp được một người có tính cách như Xuân Hoa cho hay.
Ông Hà Thúc Lâm đón chúng tôi ở nhà riêng trong một phòng nhỏ phía sau với một bình trà và một dĩa kẹo gừng. Ông ta thuộc loại tầm thước, da trắng, trán cao, tóc đã hoa râm.
- Nghe Hải nói chú là thứ dữ trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, sao trông hiền khô!
Sau khi mời trà, ông ta lên tiếng.
- Em cũng nghe Hải nói anh là cấp lãnh đạo lảm gai góc trong những đợt kiểm tra thực hiện nghị quyết nhưng sao trông dễ dãi! Tôi đáp lễ.
- Vậy qua nhận xét của hai vị, tôi luôn luôn sai lầm mỗi khi đánh giá đồng đội? Trần Kỳ Hải đùa thêm.
Chúng tôi cùng cười, xóa tan nguội lạnh ban đầu. Tiếp đến, như lề thói của bao cán bộ Cộng Sản, buổi đầu gặp gỡ, ông Hà Thúc Lâm dọn đường bằng cách hỏi thăm tôi về đời sống và hoàn cảnh gia đình, về sinh hoạt cơ quan công tác.
Kêu khổ cũng chẳng ai thương, than nghèo cũng chẳng ai giúp, giờ chỉ biết tự mình chèo chống, không rõ còn đọa đày bao lâu nữa, tôi ỡm ờ cho qua chuyện.
Ông ta lại hỏi tôi về những ngày sống vất vả sau khi vượt thoát khỏi An Ninh Quân Đội vùng I Chiến Thuật quân đội Sài Gòn.
Nói thật cũng chẳng ai tin, kêu xin cũng chẳng ai cứu, thân này còn lành lặn đến nay là nhờ Bửu Dương và ông bà Phan Ne, tôi cũng ỡm ờ cho qua chuyện.
Nhưng đằng sau ánh mắt sáng như sao của ông ta, tôi biết mình không giấu được điều gì. Trần Kỳ Hải cũng nhận ra điều đó, lấy cớ đi châm nước vào bình trà, khẽ hích cùi chỏ vào vai tôi, ỷ muốn bảo chuyện qua rồi không nên cay cú làm gì.
Anh ta không ngờ ứng tác ngược lại. Lẳng dịu đâu chả thấy, tôi còn hằn học hơn. Đã thế, ông Hà Thúc Lâm lại đề nghị tôi nhân dịp này nên quan hệ với tổ chức xin giấy xác nhận quá trình hoạt động nội thành, chuyển đảng tịch về nơi công tác để tranh thủ quyền lợi cho bản thân và gia đình. Tôi run lên như người đột ngột nhuốm bệnh. Nỗ lực của Bửu Dương mở ra cho tôi con đường sống, những ngày ông Phan Ne lặn lội lên núi xuống đồng dầm mưa dãi nắng, hình hài của Lê Văn Cung lượn lờ ở đáy sông Hương, Cẩm Khuê đói khát mang con theo chồng vượt biên, những giọt nước mắt uất hận của các bạn gái phong trào đô thị trong bữa tiệc tại nhà Xuân Hoa, bộ tịch kênh kiệu của tổ trưởng dân phố, hách dịch của công an, vênh váo của du kích… Tất cả dồn ứ, trào lên khiến tôi điên tiết. Lại nữa, thói thường vắt chanh bỏ vỏ và trường hợp của tôi không dừng lại ở mức đó, trước khi mượn tay quân thù xóa sổ kẻ chiến bại, người ta còn muốn hắn vi phạm đạo đức nhân nghĩa. Chuyện này ông Ne bà Nậy mãi giấu, tôi chỉ lờ mờ nhận ra trong ánh mắt, trong từng cái thở dài. Tới lúc để tôi hết tơ tưởng, phải dứt khoát ra đi, cực chẳng đã Mơ mới hé mở.
- Đối với em, quá khứ chẳng khác gì một bãi rác ngập ứ sình úng thối tha, các anh đã khai tử Lê Huy và em đã chết thật rồi, bây giờ chỉ có Lê Huy Phong thôi!
Đắng nghét trào dợn cổ họng, tôi hoạch toẹt.
- Khổ nỗi kỹ sư Lê Huy Phong đang từng ngày giãy giụa trên cái xác thối biệt động thành Lê Huy. Và em đã cố hết sức nhưng không thoát được! Người như sắp vỡ tung, tôi bức bối kêu. - Trời ơi, giá mà khóc được lúc này, giá mà chết được vào đêm hôm ấy ngay trên sông nước!
- Tôi xin lỗi chú! Trong lúc tôi ngắc ngứ tắc tị, ông Hà Thúc Lâm lên tiếng, xúc động. - Rất tiếc, những ngày u ám ấy tôi đang lưu lại làm việc với thường trực khu ủy, khi về có nghe kể lại, các anh đã quyết cả rồi!
Đang nhấc bình trà, nghe đến đó, Trần Kỳ Hải hết chăm mắt vào tôi lại quay sang ông Lâm. Phần mình, tôi chỉ biết trơ lì, cúi mặt, nén đau.
- Anh có thể vắn tắt cho chúng em thấy rõ hơn một tí nữa được không? Nhân lúc chuyên trà ra chén, Trần Kỷ Hải nhỏ nhẹ kêu xin ông Hà Thúc Lâm.
Gian phòng trở nên lạnh lẽo. Ánh sáng bóng đèn điện tròn vàng ệch. Tiếng gió lao xao bên ngoài.
- Tôi từng sống qua ba mùa đông xứ Huế, có mùa thiếu áo, có mùa kiếm cơm, nhưng chưa có lúc nào se thắt như đêm nay. Sự thực là thế này…
Sau một lúc đắn đo và thấy chưa đủ tình tiết thuyết phục chúng tôi, ông Hà Thúc Lâm dằn giọng.
- Lần hội ý thứ nhất, các anh cứ bảo làm gì có chuyện đó. Thằng Ngụy gian ác, quỷ quyệt có bao giờ thương ai. Phải đề cao cảnh giác, không khéo rồi ta sẽ mắc mưu. Lần hội ý thứ hai, các anh bảo tay đại úy ấy biết thời thế sắp xoay chiều đổi hướng muốn đặt chỗ trước bên đối phương thông qua mồi chài Lê Huy, người của ta nhưng đã ngã đạn. Lần hội ý thứ ba, các anh muốn giảo nghiệm thực hư bằng cách giao súng cho ông Phan Ne, bảo hiệp cùng con gái đưa Lê Huy trở lại thành phố hoàn thành nhiệm vụ mới.
Trần Kỳ Hải lắng nghe, lâu lâu lại vò đầu bứt tóc.
- Bới lông tìm vết lúc này phỏng có ích gì?
Thấy ông Hà Thúc Lâm bồi hồi xúc động, tôi nói.
- Vậy xin anh, trong lần tương ngộ này chúng ta chỉ tập trung vào hiện tại và tương lai?
Ông ta gật đầu, Trần Kỳ Hải cũng thôi giậm giật.
Tôi nói tiếp:
- Sau 30 tháng 4 năm 75, em trở nên mù tịt những gì đã lên bưng học tập, những gì mình đã thông truyền vào máu để hành động, từ đó tự thân xấu hổ…
Tôi ngập ngừng.
- Chẳng hạn như…? Ông Hà Thúc Lâm gợi ý.
- Hiệp định Paris 1973 trang trọng ghi rõ vãn hồi hòa bình, tại sao lại trơ tráo huênh hoang cái đại thắng mùa xuân 1975 bằng chiến tranh với quốc dân đồng bào và cả với quốc tế? Ta vi phạm hay đối phương cả tin? Ta cả * lấp miệng em hay bàn dân thiên hạ ngu hèn hết thảy. Hiệp định có bao nhiêu phe phái tham dự, ký rồi trố mắt ngồi trơ như mặt thớt cả ư? Thể thống, danh dự quốc gia họ để đâu? Ta chơi với quốc tế theo luật rừng? Ta chiến thắng vì ta trắng trợn xảo trá?
Hơn hai mươi năm chiến đấu, ta rêu rao lấy nhân nghĩa để thắng bạo tàn, lấy hòa giải dân tộc để xây dựng tổ quốc, tại sao nay lại rao giảng căm thù từ Đông sang Tây, dựng nhà tù từ Bắc chí Nam, triệt hạ tôn giáo, moi móc lý lịch đến tận ba đời?
Vâng lệnh tổng thống, nửa triệu quân miền Nam được trang bị hiện đại chưa suy suyển bao nhiêu chấp nhận hạ vũ khí, một số tướng tá tự sát, bây giờ họ như con hổ đã rụng nanh vuốt, hà cớ chi ta còn cho vào chuồng sắt, bỏ đói, bố trí người cầm súng canh giữ, ngày đêm hò hét dọa dẫm? Ca khúc khải hoàn, trước anh linh tiên đế, đảng bảo công bằng cách đày đọa nhân dân một nửa non sông, lễ hiến phù này đến bao giờ mới triệt bàn dẹp án?
Rõ ràng ta nuốt lời vì chiến thắng không do sức mình mà nhờ đồng minh Mỹ của chúng ban tặng nên đâm ra hoang mang hoảng sợ. Đại cuộc mà bất nhân, đại sự mà bất nghĩa, bang giao mà bất tín, lẩm ca lẩm cẩm đến thế a? Mất nước, cụ thể là mất quyền làm người, nhân dân ta đã đổ máu giành lại, thế mà khi thắng lợi, còn bị áp bức, bốc lột hơn nữa, thậm chí thứ tự do hạn hẹp như lúc sống dưới ách thống trị của kẻ thù cũng không còn!
Rõ ràng đảng đang thay một chiếc còng nhỏ bằng một chiếc gông lớn. Giải phóng mà thế a? Thì ra, cách mạng chuyên chính vô sản là tranh với kẻ thù cái quyền áp bức bóc lột nhân dân! Thượng đế giấu mặt hoặc không tồn tại, kiến thức của nhân loại như hạt cát trong vũ trụ, con người đang lần mò tìm kiếm thiết chế chính trị cho mình và vấp phải không biết bao nhiêu nghịch lý mà chưa giải thích được, tại sao lại đơn nguyên độc đảng? Tại sao ta treo bảng hiệu cộng hỏa,(167) rêu rao toàn dân tham chính nhưng chỉ có một giai cấp nắm quyền? Lại nữa, tại sao phải nhất thiết vô sản chuyên chính trong khi luật đào thải của tự nhiên chỉ rõ đó là tầng cặn bã, kém phẩm chất, hết sức trì trệ? Tinh hoa dân tộc đã cùn mằn cạn kiệt đến mức ấy ư?
(167) Cộng hòa (trong Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, hoặc Việt Nam Cộng Hòa, hoặc Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, hoặc Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa là một thể chế chính trị trong dó chủ quyền quốc gia thuộc về toàn thể nhân dân được biểu hiện bằng tự do bầu cử và ứng cử chứ không phải độc quyền của một đảng phái nào, của một dòng họ nào)
Lịch sử đấu tranh của nhân loại phải mất hàng ngàn năm mới với tới ánh sáng nhân quyền, tại sao đảng ta lại tị hiềm, coi nó là đặc sản Âu - Mỹ, ngăn cấm nhân dân, trừng phạt những ai kêu đòi?
Tư hữu là nhân tính tiên thiên của nhân loại, nhờ nó mà con người mới biết tích lũy, biết tôn trọng công sức lao động, không ỉa đái lên lương thực mỗi khi ăn thừa như súc vật, mưu cầu hạnh phúc bền vững, tại sao đảng ta quyết liệt trừ khử? Buồn cười nhất, gần đây tuyên huấn tung hô cái vòng luẩn quẩn đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Đó chẳng qua là trò giảo hoạt ngôn từ, có thứ chủ nào vừa bị lãnh đạo vừa bị quản lý? Chỉ biết vâng lời và khép mình tuân thủ là chủ hả? Chủ đó là chủ ngó (168) thôi…
(168) Chủ ngó (nói lái): Chó ngủ! Ca dao - Tục ngữ Bình Định có một câu đố: Kỳ đà là cha tắc ké. Tắc ké là mẹ kỳ nhông. Kỳ nhông là ông kỳ đà (Cứ thế mà lặp lại...). Con nào lớn nhất? Trả lời: Con nào cũng lớn, hoặc: Không con nào lớn hơn con nào. Nhưng con nào thoáng nghe cũng sướng. Đó là trò ma mị, bịp bợm.
- Chú thắc mắc đã hết chưa?
Biết tôi xỏ xiên chơi chữ, ông gượng cười.
- Chưa! Mất cảnh giác, tôi nói to hơn nữa. - Việt Nam có những cánh đồng mầu mỡ cò bay thẳng cánh, tại sao nhân dân ta thiếu gạo? Việt Nam có núi có rừng, tại sao nhân dân ta chết phải quấn rơm bó chiếu? Việt Nam có biển có sông, tại sao nhân dân ta thiếu muối thiếu cá? Có phải chở sang trả nợ vũ khí cho Trung Quốc và Nga Xô, hay do đường lối lãnh đạo ngu xuẩn? Tại sao một dân tộc như Việt Nam ta trong quá khứ và cả hiện tại từng đánh bại những thế lực ngoại xâm to lớn lại không thể công nghiệp hóa, tiến đến mục tiêu dân giàu nước mạnh? Tại sao một dân tộc như Việt Nam ta có nền văn hóa giàu nhân nghĩa từng hòa hiếu với bao kẻ thù lại không thể quay về hòa giải với anh em? Tại sao một dân tộc như Việt Nam ta từ xa xưa ông cha đã răn dạy con cháu chí công vô tư, cần kiệm liêm chính, bao nhiêu gương anh hùng hy sinh bảo toàn khí tiết nay lại bị quốc tế xếp hạng ăn bẩn vào loại nhất nhì Đông Á? Tại sao…
Bất ngờ ông Hà Thúc Lâm đưa tay lên, tôi chợt dừng, miệng mồm đang lúc há hốc.
Và khi ông ta chưa kịp hạ tay xuống, tôi liền đứng bật dậy.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

PreviousNext

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 53 guests