- Z.30
Sài Gòn thất thủ. Khắc phục khó khăn, ước mơ ấm no hạnh phúc.
Về tới Sài Gòn, tôi ở chung phòng trọ với Trần Xuân Vinh, sinh viên năm thứ III khoa công nghệ trường Bách Khoa Phú Thọ. Vinh người Điện Bàn là bạn cùng lớp ba năm đệ nhị cấp trường Phan Chu Trinh, Đà Nẵng. Tôi thú thật hoàn cảnh mình, xin Vinh giữ bí mật, giúp tôi nạp hồ sơ thi lại Tú Tài, kỳ II, diện thí sinh tự do. Sau đó, cũng nhờ Vinh, tôi xin được chân gia sư và một chân phụ thợ dệt ở ngã tư Bảy Hiền, ca đêm. Khỏi phải ôn tập bài vở, tôi tập trung kiếm tiền dành dụm. Đúng như dự liệu, cuối tháng 9 năm ấy, tôi đỗ Tủ Tài ban A, hạng bình. Trần Xuân Vinh khuyên nạp đơn vào Đại Học Nông Lâm Súc. Tôi làm theo. Lại tập trung kiếm tiền, tôi vẫn vượt qua thi tuyển. Đáng ra báo tin vui cho mẹ, nhưng sợ sơ hở tôi im luôn. Sau một tuần nhập học, thấy không đủ sức khỏe và thời gian, tôi xin thôi làm thợ dệt. Bất chấp khó khăn, tôi quyết tâm học tập, thu hẹp phạm vi giao tiếp, giới hạn bạn bè và không lân la với một cô bà nào. Một thời gian dài, không ai thăm hỏi tôi và tôi cũng không thư từ cho ai.
Sài Gòn đầu thập niên 1970 đầy biến động cả về chỉnh trị, xã hội, kinh tế. Những trận đánh lớn đã thọc sâu vào một số tỉnh quanh thủ đô. Các đơn vị thiện chiến Việt Nam Cộng Hòa đụng độ liên tục với các sư đoàn chủ lực miền Bắc. Hòa hội Paris vẫn giậm chân tại chỗ. Báo chí trong và ngoài nước đưa tin cuộc khẩu chiến bốn bên chẳng khác hàng thịt hàng cá đốp chát nhau ở chợ, thậm chỉ đôi khi như con trẻ đến độ buồn cười. Bao nhiêu cơm áo, bao nhiêu của tiền, bao nhiêu đi về, mất một năm trời mới nhất trí về kiểu dáng mặt bàn và chỗ đặt ghế. Khi ngồi yên vào rồi lại nói giọng trời ơi. Nguyễn Thị Bình tuyên bố ở đâu có tiếng súng ở đó thuộc lãnh thổ quân Giải Phỏng. Nguyễn Cao Kỳ khẳng định Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam không phải là một thực thể chính trị. Lê Đức Thọ quỷ quyệt, nay Hà Nội mai Paris mốt Bắc Kinh. Đổi lại, Kissinger cũng giảo hoạt không kém, xách cặp chạy quanh Washington - Bắc Kinh - Sài Gòn - Hà Nội. Nghe nói tổng thống Mỹ Nixon có thư hối thúc, hứa hẹn nhưng tổng thống Thiệu không chịu ký. Bắc-Nam ráo riết tăng tốc chiến tranh, hâm nóng các mặt trận, gây áp lực hỗ trợ cho đàm phán. Lưỡng viện quốc hội Mỹ dồn dập tạo sức ép buộc tổng thống Mỹ ban lệnh rút quân. Những cánh rừng dọc Trường Sơn hóa thành đồi trọc. Đêm đêm, tiếng đại bác vọng về thành phố như chuyển động tự nhiên của đất trời. Ngày ngày pháo đài bay ngang bầu trời để lại những luồng khói trắng thẳng như kẻ chỉ. Bệnh viện dã chiến mọc như nấm khắp các đô thị mà thương bỉnh vẫn thiếu chỗ nằm. Các nghĩa trang áp cận vùng dân cư chen chúc mộ mới kề bên nhau. Những cuộc triển lãm xác Việt Cộng rải khắp các đô thị miền Nam. Những vụ đặt mìn khủng bố của du kích, của đặc công khắp các giao lộ và hàng quán. Lệnh đôn quân được ban hành, các quân trường quá tải. Vật giá leo thang, đời sống đắt đỏ, đoàn quân đói ngụy trang dưới lốt đĩ điếm, ma cô len lỏi hang cùng ngõ hẻm. Tệ nạn xã hội rải khắp đường phố, đe dọa trường học, gia đình. Sau mấy đợt vùng lên, thế lực Phật Giáo muốn tham chính, muốn nhân danh đa số nắm vận mệnh dân tộc, mở một vận hội mới, nhưng thất bại do tự bản chất từ bi hỷ xả, họ lùi về cố thủ. Sau khi Ngô Đình Diệm bị giết, thế lực Công Giảo không còn cơ may, họ dấn thân vào con đường xã hội, quyết liệt chống tham nhũng. Nhưng cô thế do thiểu số và nội bộ chia rẽ, họ quay sang báo chí. Phong trào phản chiến từ Việt Nam lan sang Mỹ rồi dội ngược về, những cuộc xuống đường của học sinh sinh viên liên tục từ thủ đô các tỉnh lẻ. Chính quyền Miền Nam Việt Nam như một đại thụ bị lung lay từ gốc đến ngọn, không những do lâm tặc hoành hoành mà cả chính ngay bọn bảo vệ rừng. Được chào mời và nhiều phía lôi kéo, tôi vẫn bình thân như vại. Bỏ ngoài tai hết thảy, kể cả đường mật tình yêu, tôi úp mặt vào sách vở.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Sài Gòn thất thủ, tôi vẫn dửng dưng. Cán bộ nằm vùng ra mặt kêu gọi nhân dân họp hội, mít-tinh chào mừng bộ đội giải phóng, tôi tảng lờ. Đã mấy lần thất bại vượt thoát bằng đường hàng không ở sân bay Tân Sơn Nhất, nay Trần Xuân Vinh hốt hoảng lao theo dòng người di tản bằng đường bộ. Còn lại một mình, đáng ra trả phòng trọ cho chủ, về quê như một số bạn học, tôi lần lữa chờ thông báo của ban giám hiệu mới từ Bắc vào tiếp quản, và chờ cơ hội bán những gì kỹ sư Trần Xuân Vinh để lại - một chiếc Honda 67, một truyền hình đen trắng 14 inches, một tủ lạnh cỡ nhỏ, một số vật dụng điện máy, chỉ giữ lại cái Radio Cassette xách tay hiệu Sony.
Tới hồi tạm lắng, thấy con không về, mẹ tôi bương chải vào Sài Gòn. Chỉnh quyền mới ra sức bình ổn trật tự xã hội, loa đài ra rả kêu gọi Ngụy Quân Ngụy Quyền trình diện tập trung học tập cải tạo, ra rả kêu gọi nhân dân hội họp học nghị quyết và hô khẩu hiệu, ra rả cảnh báo bọn gián điệp lén lút phao tin đồn nhảm chực chờ ngóc đầu dậy, ra rả hô hào bài trừ tàn dư văn hóa đồi trụy địch để lại như sách báo, phim ảnh, thời trang… và ra rả kêu gọi con em nhân dân lao động trở lại trường. Tôi đi học. Mẹ tôi yên tâm trở về quê nhà. Đáng ra khóa tôi tốt nghiệp kỹ sư nông lâm cuối hè năm ấy, nhưng ban giám hiệu mới muốn tẩy não, triển hạn thêm bốn tháng để nhồi sọ lũ sinh viên Ngụy một mớ trích đoạn học thuyết Marx-Lénine, năm ba nghị quyết của trung ương, của thành phố, một số phát biểu của Hồ Chỉ Minh, của Lê Duẫn, của Phạm Văn Đồng… Để thấm nhuần lao động vinh quang, tuần nào chúng tôi cũng đi dọn vệ sinh đường phố và trồng sắn khoai bất cứ nơi nào có đất, kể cả công viên, hè phố. Ban đêm chúng tôi thường sinh hoạt tổ và được khuyến khích tố lẫn nhau, phấn đấu vào đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chỉ Minh. Từ đó, dấy lên cuộc thanh lọc, buộc một số sinh viên có lý lịch xấu thôi học, đưa về địa phương quản lý. Mỗi cuối tháng, ban giám hiệu còn đưa chúng tôi ra vùng ven hoặc lên vùng cao tăng cường sản xuất. Cơm nước tự túc, chúng tôi làm bất kỳ việc gì cán bộ địa phương yêu cầu - xóa mù, giây cỏ, đào giếng, tải phân… Rồi, ngày con chim rời tổ cũng đến. - Đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên! Bí thư chi đoàn hô khẩu hiệu và chúng tôi rộn rã lên đường, bụng rỗng nhưng tim đầy ắp hy vọng, pha lẫn một tí hoang mang không dám nói ra. Như con cò đói tìm về sông nước, chắp cánh bằng một quyết định, tôi tha mảnh bằng kỹ sư lâm nghiệp lên Tây Nguyên với ước mơ ấm no hạnh phúc, xây dựng quê hương xã hội chủ nghĩa giàu đẹp.
Nơi tôi đến nhận công tác là một xí nghiệp chế biến lâm sản tọa lạc phía tây nam cách trung tâm thị xã năm cây số, có quốc lộ 14 ngang qua. Là cao nguyên nhưng nội thị và vùng phụ cận đất không đỏ hẳn. Thung lũng lớn này mang sắc thái bình nguyên vì những ngọn núi lửa ngày xửa ngày xưa không phun tới. Thủ trưởng của tôi là Võ Văn Cang, gốc Bình Định, cao gầy, da ngăm, giọng lai tạp, bố trí tôi phụ trách bộ phận thống kê, lương tháng 36 đồng Giải Phóng, (112) ăn cơm tập thể, ngủ giường tầng, đêm nào cũng họp dưới hai ngọn cờ đỏ rực, tuần nào cũng chực chờ tranh thủ vài món hàng mậu dịch quốc doanh. Sau thời gian chịu đựng gian khổ không dám kêu than, chẳng mất công tìm hiểu, mặt trái mặt phải của cơ quan dần dần phơi bày trước mắt. Xí nghiệp nguyên là năm cơ sở khai thác chế biến gỗ tư nhân có từ cuối thập niên 50, nghe nói dưới triều Ngô Đình Diệm làm ăn phát đạt, nhưng thời Nguyễn Văn Thiệu thì chững lại do chiến tranh lan tràn không thể đưa công nhân vào rừng. Sau khi Tây Nguyên thất thủ, bước đầu chính quyền cách mạng cử cán bộ chính trị đến lãnh đạo từng cơ sở và một số cán bộ chuyên môn theo dõi tình hình sản xuất. Cán bộ lãnh đạo kêu gọi các nghiệp chủ tiếp tục hành nghề, động viên bỏ vốn mở rộng kinh doanh mua thêm máy móc thiết bị, tăng lao động, thực hiện các khoản nghĩa vụ.
(112) Trong khoảng 10 năm (kể từ khi miền Nam thất thủ), nhà nước CHXHCN Việt Nam ba lần đột ngột đổi tiền với những quy định như sau:
* Lần 1 năm 1975 (khoảng tháng 9)
- Từ Quảng Nam-Gia Lai-Kontum trở vào: 500d Sài Gòn ăn 1d Giải Phóng
- Từ Thừa Thiên Huế trở ra: 1000d Sài Gòn ăn 3d Miền Bắc
* Lẩn 2 năm 1978, sau khi thống nhất Nam-Bắc:
- Miền Bắc: 1đ Bắc (cũ) ăn 1đ Thống Nhất.
- Miền Nam: 1d Giải Phóng ăn 0,8đ Thống Nhất.
* Lần 3 năm 1985:
- Toàn quốc: 10d Thống Nhất (cũ) ăn 1d Việt Nam (mới)
Năm 77, đột ngột trung ương hạ lệnh cải tạo công thương nghiệp. Tiếp được nghị quyết, địa phương rầm rộ triển khai. Mở đầu, cán bộ lãnh đạo xách động công nhân đòi làm chủ nhà máy, hăm he đào mồ chôn tư sản. Tiếp theo, các nghiệp chủ được mời tới hội trường Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam tỉnh học tập chính sách của đảng và nhà nước để thấy rõ tội ác bóc lột của mình những năm sống với Mỹ-Ngụy. Cán bộ truyền đạt rất xảo quyệt, vừa động viên vừa hù dọa. Sau cùng, mỗi học viên viết bản thu hoạch theo dàn bài có sẵn, tự kiểm điểm và bày tỏ nguyện vọng. Một nghiệp chủ có ba con trai đang học tập cải tạo, ngoan ngoãn chấp hành, làm đơn xin hiến trọn cơ ngơi, ra về hai tay không, cười như mếu. Nhưng ông ta không cứu được đứa con nào thoát khỏi tù tội trước hạn định. Một nghiệp chủ xuất thân thợ thuyền có cha là liệt sĩ thời chống Pháp, không giao nộp tài sản, viện cớ địa phương lệch lạc vận dụng không đúng nghị quyết trung ương. Ông ta chỉ trụ được hai năm sáu tháng ba ngày, tới khi đổi tiền lần thứ hai thì tê liệt do vốn liếng bị giữ trong ngân hàng, kèm theo một số giải thích ậm è của phó giám đốc đặc trách tiền mặt. Một nghiệp chủ góa chồng khai có công vì trước đây mỗi khi đưa xe vào rừng đã ủng hộ tiền, gạo cho du kích nên xin được đi theo tài sản vào quốc doanh với một chức danh khiêm tốn trong đội ngũ quản lý. Bà ta được lãnh đạo nhất trí. Qua một năm, từ phó giám đốc bà ta được điều xuống quản đốc phân xưởng sáu tháng, rồi điều qua phó phòng kiểm tra chất lượng sản phẩm. Do một sơ suất xếp loại nhóm gỗ, bà được cho nghỉ sớm với lý do mất sức. Một nghiệp chủ lấy cớ đang mang công mắc nợ chưa giao được. Trong thời gian ấy, ông ta tẩu tán tài sản ra ngoài tỉnh bằng cách tháo bán lẻ phụ tùng linh kiện. Thậm thụt gần hai năm, ông làm đơn hiến tài sản, bản kê trưng thu gồm máy móc hư hỏng, vật dụng rẻ tiền, kho tàng trống rỗng và một mặt bằng hoang tàn. Xỏ lả cỡ đó, nhưng Võ Văn Cang không dám có ý kiến vì ông ta họ Phạm, người Mỹ Đức, Quảng Ngãi, nghe nói anh em thúc bá với đương kim thủ tướng. Nghiệp chủ cuối cùng là cặp vợ chồng trẻ có học thức, tham dự không sót buổi học tập nào, không chịu giao cơ nghiệp. Trong giờ thảo luận, ông ta kịch liệt phê phán chính sách kinh tế sai lầm của đảng và nhà nước, yêu cầu chấm dứt và đưa ra một số kiến nghị mà ông ta tin chỉ trong mươi lăm năm đất nước sẽ thoát cảnh đói nghèo, đuổi kịp những quốc gia tiên tiến trong khu vực. Tất cả nhiệt tình đó chỉ là sóng xao đầu vịt, nước đổ lá khoai và nhận lại một ít đặt điều vu vạ từ tuyên huấn tỉnh. Buồn tình đàn gảy tai trâu, ông ta bỏ lại tất cả, âm thầm đưa vợ con về Quy Nhơn tìm đường vượt biên.
Chưa tới ba năm, công cuộc cải tạo hoàn tất. Ăn mừng chiến thắng vĩ đại này, Võ Văn Cang tổ chức một lễ bàn giao rất long trọng, có sự tham dự của lãnh đạo cao cấp địa phương và cả trung ương. Các nghiệp chủ đều được mời tham dự và cài mớm phát biểu. Nén chặt nỗi niềm con đau của xót, tất cả đều hồ hởi phấn khởi. Một năm sau, xí nghiệp mới dưới quyền giám đốc Võ Văn Cang bắt đầu xuống dốc. Trong ngoài nhan nhản biểu hiện tiêu cực. Trộm cắp, cắt xén, mánh mung, móc ngoặc. Tài khoản âm, nợ khó đòi phát sinh, thu chi mất cân đối. Kho tàng trống rỗng do vật tư phụ tùng không mua được vì thiếu tiền mặt. Xe cộ các loại nằm chết trong ga-ra, trong bãi phế liệu và cả trong rừng. Công nhân vốn là nông dân lai, quay về cầm cuốc, chân trong chân ngoài, bỏ bê nhà xưởng. Nhưng tới kỳ phân phối lương thực, thực phẩm và một số hàng hóa nhu yếu, chẳng cần thông báo xí nghiệp cũng đông kín người. Những buổi họp hội phát động chỉ tiêu, mặc thủ trưởng nói thủ trưởng nghe, công nhân chực chờ ngoài hiên đòi nợ lương và cán bộ tài vụ cứ thập thò như chuột chù lấp ló cửa hang, ba hồi hứa cuội, ba hồi trút vạ cho ngân hàng. Thời điểm này, công nhân vô cùng hối hận đã nhẹ dạ nghe theo đảng đào mồ chôn tư sản quá sâu! Những ngày chao đảo như thế, giám đốc Võ Vãn Cang vẫn bình thân tọa thị, ung dung pha trà, xăm xoi nõ điếu, vẫn đọc báo Nhân Dân mỗi sáng, khóa trái cửa phòng giám đốc lên tỉnh họp hội đều đặn, vẫn rao giảng nghị quyết bằng chất giọng Nam Trung Bộ lai Bắc với chiếc cần cổ gân guốc, vẫn báo cáo giòn rã mỗi năm hai kỳ với các thành tích vượt chỉ tiêu, vẫn làm lễ đón nhận bằng khen của tỉnh và trung ương, vẫn hăng say phát động thi đua chào mừng các ngày lễ lớn, vẫn cho ngả bò mổ heo liên hoan tiệc tùng thắng lợi. Phần mình, tôi âm thầm giấu mẹ những ngày sống cực khổ hơn chó bằng những lá thư ngắn chẳng khác điện tín với lời lẽ sáo mòn. Mặt khác, tôi quyết phấn đấu công tác tốt, chấp hành nghiêm chỉnh nội quy, trung thành tuyệt đối với lãnh đạo và phấn đấu vào đảng.
Lao động miệt mài, rồi tôi cũng làm đơn xin phép về thăm quê. Lãnh đạo giải quyết cho đi nửa tháng. Một thời gian dài dè sẻn, tôi chỉ mang về biếu mẹ một túm đường cát, một gói kẹo dừa, hai mét vải bông to sợi. Nghe làng xóm báo tin, mẹ tôi gởi bầy trâu của hợp tác xã cho một bà bạn già, chạy bộ về gặp con. Nhưng nấu xong nồi cơm, bà lại ra đi chập tối mới về, chui vào bếp vừa luộc rau vừa kho mắm. Hai mẹ con ngồi ăn trên bộ phản trước bàn thờ nội trong ánh sáng tù mù của cây đèn làm bằng vỏ lon sữa bò mang nhãn thời Mỹ-Ngụy.
- Răng không lấy vợ? Mẹ tôi hỏi, bấm đốt lóng tay, tìm con giáp. Tôi cười chống chế, bà tiếp.- Không còn nhỏ dại nữa, đã một đống tuổi trên đầu! Mẹ nhìn tôi với ánh mắt trìu mến nhưng không kém xót xa.
- Con lấy vợ cũng được thôi, nhưng sợ bỏ mạ!
Lua hết chén cơm, tôi nói.
- Đã quen sống cô quạnh, mạ chấp nhận chuyện đó, chỉ mong anh tìm được người nết na! Mẹ nói.
Tôi không dám hứa, bắt chuyện khác, hỏi mẹ về tình hình hợp tác xã bà đang là xã viên. Mẹ cho hay năng suất lúa và hoa màu khác không cao như trước, trâu bò đưa vào tập thể bị dịch bệnh chết dần, trị giá công điểm thấp, tiếp tục đi xuống. Thu nhập còi cọc, tạm song qua ngày nhưng ước mơ đổi đời thì chẳng biết mô mà lần. Thế mà mẹ tôi không kêu than. Ngoài việc hương khói tổ tiên, tôi hồ nghi bà còn vương vấn chuyện khác. Và, đã đến lúc tôi thấy mình không thể im lặng.
- Cha con còn không? Giữa bữa, tôi lên tiếng.
Đang nuốt, bà nghẹn thắt cổ họng. Rót cho mẹ chén nước, đợi bà ổn định trở lại, tôi thưa tiếp.
- Chiến tranh đã dứt, đất nước đã thống nhất, mạ phải cho con biết! Tôi gác đũa vào mâm, chờ đợi.
- Chắc là còn! Sau một lúc im lặng, bà nói, ánh mắt khô ráo như đang bàn chuyện người dưng.
- Chỉ phong phanh phất phưởng thôi sao? Tôi hỏi.
- Vì chưa bao giờ nghe báo tử! Bà nói, chống tay xuống mặt phản như đỡ lấy thân mình.
- Thế tại sao không về? Tôi lại hỏi.
Mẹ tôi bật khóc. Những giọt nước mắt dồn nén ba mươi năm òa vỡ. Đây là lần duy nhất thấy mẹ khóc, tôi không buồn không xót. Bảy năm đất nước hòa bình, bao nhiêu đoàn quân chiến thắng ngang qua ngõ hát khúc khải hoàn, cha tôi còn mãi ở tận nơi đâu? Và suối nước mắt ngầm của mẹ hôm nay biết có theo về một hình bóng? Có thể cha tôi còn sống và đảm nhận một nhiệm vụ ở nước ngoài? Cũng có thể cha tôi đã có vợ khác và đang an hưởng hạnh phúc ở một quê hương mới?
- Sau kỳ nghỉ phép này, con sẽ gởi thư đến đài báo trung ương nhờ tìm cha, mẹ có đồng ý không?
Tôi đề nghị, bà đưa tay ngăn lại.
- Cha anh cỏ thể hận vợ vì nghe ai đơm đặt, xuyên tạc này nọ. Nhưng đã là người, ông ấy không được quên mồ mả tổ tiên và con mình. Núi sông Thường Đức có ai đào đổ đi đâu, ngày ra đi ông ấy bảo vì tổ quốc, nay sao lại mù mờ nơi chốn! Bà nói, đưa tay gạt nước mắt.
- Vậy là con còn phải dài cổ chờ cha!
Tôi cúi mặt, khẽ than, nghe lành lạnh.
- Lần này con về quyết đưa mạ theo? Muốn khỏa lấp thương tủi trong lòng, tôi bắt sang chuyện khác.
- Tốt thôi! Nhưng nghe nói xã hội chủ nghĩa cào bằng tất cả, ai làm nấy ăn, lương cán bộ công nhân viên chức chỉ đủ cầm hơi, không có phụ cấp cha già mẹ yếu con thơ như thời Mỹ-Ngụy, mạ vào trong nớ anh lấy chi nuôi? Bà nói.
- Trong đó cũng có hợp tác xã nông nghiệp, Tây Nguyên đất rộng người thưa, chịu khó như mạ, cần kiệm như con, không lẽ đói sao! Tôi nài nỉ.
- Ờ, để mạ tính! Bà nói, nhìn lên bàn thờ.
- Ruộng rẫy đã trưng thu vô tập thể, nhà từ đường mạ giao lại cho ai đó?
Biết mẹ chưa nỡ lìa xa hương khói, tôi ướm thử.
- Ừ, nhưng mà thư thư cho mạ! Bà lừng khừng.
- Hay là năm sau? Tôi đề ra thời hạn.
- Anh đừng làm mạ rối tinh lên! Bà than.
Trong kêu than ấy tôi hiểu mẹ khổ tâm theo một hướng khác.