- Z.23
Với được phao cứu sinh.
Tiếp tục hành trình đảo bỉ ngạn.
Vào tới làng Vân Thê, tôi hỏi thăm nhà dì ấy, mấy người đàn bà trên bến nước tranh nhau chỉ đường nhưng ánh mắt cứ ngài ngại. Một người đàn ông có hàm răng to cáu bẩn thóc mách hỏi tìm nhà o Ngâu có chuyện chi, tôi giả bộ không nghe, tảng lờ bước đi. Nhà dì Ngâu ở giữa làng. Ngang qua phủ thờ, ngoặt vào đường xóm hẹp, con bé dẫn đường chỉ cho tôi người đàn bà gầy nhom, khoác áo cánh nâu, đang ngồi sàng gạo dưới mái hiên. Tôi đi thẳng vào.
Đàn gà bu quanh táo tác chạy ra vườn. Thay khách lạ đường đột, bà ngỡ ngàng. Tôi đứng im một lúc rồi đọc chậm họ và tên tôi. Bà chớp mắt liên tục. Tôi đọc tên mẹ tôi, tên cha tôi, tên ngoại tôi. Bà cúi mặt hồi tưởng. Sau cùng, tôi đọc tên móc nôi của tôi.
- Thằng Cu Quảng!
Bà vất sàng, ôm lấy tôi. Không ngờ gặp lại đứa cháu một thời từng ẵm bồng nâng niu, dì xúc động gọi tên mẹ tôi, khóc bù lu bù loa. Tôi tỉnh táo đưa dì vào nhà. Hàng xóm có người chạy đến hỏi han khiến tôi lo. Nhưng điều làm tôi khấp khởi mừng là dì Ngâu không chồng, sống độc thân trong ngôi nhà rường nhỏ đã tới hồi rệu rã. Ngày xưa chắc không đến nỗi nào, giờ dì sống đời cơ cực, cái ăn chỉ do bòn mót ruộng đồng sông nước mà sức đã tới hồi cạn kiệt. Vật đáng giá nhất trong nhà này là cái án thờ, cũng là gánh nặng đè lên vai một người đàn bà ở tuổi xế chiều, uống xong chén nước, lảng giềng rõ ngọn ngành gia tộc dì cháu chúng tôi, họ kiếu về. Dì Ngâu xuống bếp thổi cơm.
Trước khỉ tắm rửa, tôi mở cái tủi xách và vô cùng bỡ ngỡ. Cả cũ lẫn mới có mấy bộ áo quần, cả đồ mặc lót, chỉ thiếu chiếc cà vạt mừng sinh nhật của Cẩm Khuê. Bên dưới, một ít hàng quân tiếp vụ, có cả dao cạo râu, kem đánh răng, bàn chải, một xấp tiền trong bao thư và mảnh giấy nguệch ngoạc dòng chữ: Phan Ne, làng Thanh Thủy.(15) Đây không phải viết lách tình cờ, tôi hiểu. Đọc lại, tôi nhai mảnh giấy, nuốt vào bụng. Bây giờ tôi hiểu ngày hôm kia đại úy Bửu Dương đã sai trung sĩ cầm giấy giới thiệu đến nơi nào và cuộc đào thoát đã được người chủ mưu tính toán chi li. Bữa trưa chỉ có hai dì cháu, tôi thú thật hoàn cảnh mình. Dì Ngâu nghẹn thắt cổ họng.
(15) Thanh Thủy: thuộc huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế, cách thành phố Huế 6 km về phía nam. Làng có con cầu ngói nổi tiếng (thượng gia hạ kiều) mang tên Thanh Toàn - tên cũ của làng. Ngày nay, Thanh Thủy là nơi thường tổ chức Chợ Quê mỗi kỳ Festival Huế.
- Cháu sẽ đi ngay!
Tôi nói để xua bớt sợ hãi trong người bà. Dì có phần bình tĩnh trở lại, nhưng không nuốt nổi miếng cơm nào nữa, chỉ ngồi chờ chực xới đơm.
- Dì có biết làng Thanh Thủy không? Từ đây đến đó bao xa? Cuối bữa, tôi bạo dạn hỏi.
Dì im lặng, thu dọn chén bát xuống bếp như không quan tâm, hoặc chưa hề hay biết. Ngồi một mình, tôi đưa mắt quan sát. Ngôi nhà ọp ẹp tọa lạc giữa vườn chuối lưa thưa, rào giậu ba phía tiếp giáp hàng xóm, một phía ruộng đồng. Cơ ngơi trống trải khó dung thứ người như tôi lúc này! Đó là chưa tính dì lấy đâu ra cơm gạo nuôi cháu lâu dài. Tôi lục lại cái bao thư và đếm từng tờ giấy bạc. Ngoài số tiền ít ỏi của tôi giao nạp tại ty cảnh sát, có lẽ Bửu Dương đã trút cả tháng lương vào đây? Lòng dạ rưng rưng, tôi nhớ đến mẹ và em gái anh ta, những bữa ăn đạm bạc còn eo thắt hơn nữa. Nhìn ngọn lửa đèn dầu liu điu le lói trên án thờ trước mấy giá gương phủ nhiễu đỏ, tôi tự hỏi liệu tổ tông có soi sáng cho cháu chắt ngõ thoát nào không?
- Chỉ cách có một cánh đồng!
Một lúc, dì trở lại nói nhỏ vào tai tôi, trên tay cái bình sứ bịt bạc sứt vòi, hai cái tách cũ kỹ trốc men.
- Cách đồng nhưng phải ngang qua đồn lính! Dân hai làng đi lại thì không răng…
Dì trở xuống chái bếp, chốt chặt cửa rồi lên ngay, rót nước vào hai tách, nói tiếp.
- Ban ngày dân hai làng đi lại thì không răng, nhưng người lạ khó mà qua mắt chúng. Còn ban đêm, có việc phải xách lồng đèn theo…
- Dì có biết ông Phan Ne bên đó không?
Tôi thăm dò.
- Chồng mụ Nậy chớ ai! Dì cầm chắc. - Anh quen biết nhà nớ? Mở to đôi mắt đục, dì nhìn tôi chăm chăm.
Bây giờ tôi mới thấy hết nét già nua trên mặt bà, những đường nhăn vòng quanh miệng, bao quanh mắt rõ như nét chạm. Tôi chợt nhớ mẹ tôi. Tuy cao thấp chênh lệch nhưng hai chị em có đôi nét giống nhau.
- Nhà ông ấy ở cuối làng, nằm sâu trong đường xóm! Dì nói thêm.
- Cháu chưa bao giờ tới đó và chưa bao giờ gặp mặt ông ta… Tôi nói. - Nhưng có người giới thiệu để nhờ ông ấy giúp đỡ!
Tôi kéo dì ngồi xuống bên cạnh, tìm cách cài vào trí óc mệt mỏi của bà cái tên Bửu Dương, An Cựu.
- Rứa thì dì phải qua trước coi ra răng đã!
Bà đẩy tôi vào buồng ngủ chẳng khác cái tổ giẻ.
- Bọn Bình Định Xây Dựng Nông Thôn (16) đang ba cùng (17) trong làng, dì khóa trái cửa trước khi đi, ai kêu cũng không mở!
(16) Chương trình Bình Định Nông Thôn ở miền Nam có từ 1955. Trung ương có một bộ đặc trách, mỗi xã có đoàn Bình Định Nông Thôn (ban đầu quân số 59 người, về sau giảm dần, cuối cùng chỉ còn (10 người). Qua từng thời kỳ, chương trình có sự thay đổi tên, nhưng nhân dân quen gọi như ban đầu. Chương trình được coi là biện pháp chiến lược quan trọng, tiến hành liên tục với nỗ lực cao, chi phí lớn và gây nhiều khó khăn, tổn thất cho phía CS, nhất là những năm 1959-1960 và 1969-1972. Đến đầu năm 1975, chương trình Bình Định Nông Thôn thất bại hoàn toàn.
(17) Ba cùng: cùng ăn, cùng ở, cùng làm với dân.
Bà dặn, vói chiếc áo sa đen bợt màu cò lửa, xuống bếp sục sạo một lúc nhưng ra đi hai bàn tay không.
Tôi ở lại trong bóng tối căn buồng giữa ban ngày, lắng nghe và cảnh giác bất cứ động tĩnh nào. Không một biểu hiện bất thường xảy đến, dần dần tôi bình tĩnh, tìm cách thư giãn, nghỉ ngơi. Nằm dài lên giường tre ọp ẹp, dùng túi xách đôn cao đầu, tôi muốn tạm quên tất cả. Nhưng bóng dáng Bửu Dương cứ lởn vởn. Có lẽ con người này còn lãng đãng trong tôi đến cuối đời hoặc khi tôi không may lâm bệnh ngặt nghèo có phương hại đến trí nhớ. Thú thật, tôi chưa thấy hết, hiểu hết anh ta. Những gì Bửu Dương vô tình hoặc cố ý để lộ đủ cho tôi khẳng định anh ta là người am hiểu về lịch sử dân tộc, lịch sử thế giới và học thuyết Marxiste - Leniniste, quán triệt hơn cả cấp lãnh đạo của tôi, vượt xa một số cán bộ tuyên huấn trên bưng, nhưng quyết liệt chống Cộng Sản đến hơi thở cuối cùng. Anh ta có cái nhìn khách quan về ngoại giới và khắc kỷ đến độ nghiệt ngã với bản thân. Từ đó hình thành một nhân cách và nhân sinh quan soi sáng bằng trí tuệ. Anh ta thâm thù thực dân Pháp, nghi ngờ đế quốc Mỹ, đế quốc Nga, đế quốc Tàu, đoạn tuyệt với phong kiến cả Âu lẫn Á, phủ định Bảo Đại, Ngô Đình Diệm, Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh, Phan Huy Quát, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỷ… Anh ta sùng kính Minh Mệnh, Hàm Nghi, Tôn Thất Thuyết, Thành Thái, Duy Tân, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Ái Quốc và cả Ngô Đình Nhu. Đối với Bửu Dương, tuy một người nhưng Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh khác nhau rất xa, tuy anh em ruột thịt nhưng Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu gần như đối lập, Cộng Sản Nga không giống Cộng Sản Tàu, Cộng Sản Việt không giống Cộng Sản Lào, Cộng Sản Triều Tiên không giống Cộng Sản Cuba, nhưng Cộng Sản nào cũng là ác quỷ, cần tận diệt sớm ngày nào hay ngày ấy.
- Vậy tại sao anh khổ công giúp tôi? Tôi hỏi cái bóng Bửu Dương lảng vảng trong đầu mình.
- Đáo bỉ ngạn! Và tự tôi lặp lại lời anh ta.
- Thử nghiệm ư? Tôi hỏi.
- Không! Anh ta khẳng định. Đáo bỉ ngạn là hãy qua bờ bên kia để chứng nghiệm.
- Bờ bên kia là bờ nào?
- Bờ Đỏ, bờ mang nhãn hiệu Xã Hội Chủ Nghĩa, made in Russia, made in China.(18) André Lalande,(19) triết gia Pháp định nghĩa thế nào nhỉ? Trong Manifeste Communiste, (20) Karl Marx và Engels tuyên bố những gì? Tôi cố nhớ. - Xã Hội Chủ Nghĩa là chủ nghĩa tiêu diệt tự do kinh tế, xóa bỏ cạnh tranh, là truất quyền sở hữu đất đai và cả sở hữu trí tuệ, tập trung tín dụng, tập trung công kỹ nghệ và giao thông vận tải, tập trung phương tiện sản xuất. Nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa tổ chức và lãnh đạo kinh tế toàn dân dưới dạng công trường tập sản, công xã. Tôi ngờ ngợ, có phải từ giáo điều này mà đưa đến cải cách ruộng đất ở Trung Quốc, rồi ở miền Bắc Việt Nam những năm 55-56, giết oan khoảng bảy trăm ngàn người, hủy hoại hạ tầng nông thôn, làm sụp đổ luôn cả đạo lý truyền thống dân tộc? Nhưng ngay khi ấy, tôi cảm thấy tài liệu tôi đọc không đủ khách quan xác tín do chính quyền miền Nam phát tán tuyên truyền chống đảng. Tôi tiếp tục ôn cố. Để thực hiện đường lối chính sách ấy, nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa chủ trương đơn nguyên, độc đảng, khống chế các mặt sinh hoạt như quân đội, công an, giáo dục, y tế, văn hóa, thông tin, văn học, nghệ thuật, báo chí… và cả tôn giáo. Khi phát triển đến mức cao nhất và thống trị toàn diện, Xã Hội Chủ Nghĩa sẽ trở thành Cộng Sản Chủ Nghĩa. Nhưng Xã Hội Chủ Nghĩa và công cuộc giải phóng dân tộc, như hoàn cảnh Việt Nam có quan hệ hữu cơ tất yếu nào? Ấn Độ, Mã Lai, Indonesia, Philippines… cũng bị thực dân Âu Tây xâm chiếm, họ giành độc lập sớm hơn, tốn rất ít xương máu và không để lại hận thù nào, có cần đến Marx-Mao đâu? Tự dưng tôi tiếc không quen biết Bửu Dương sớm hơn để cùng nhau khẩu chiến cho rõ trắng đen. Từ khi bắt đầu ý thức, tôi đã mất nhiều thì giờ đi tìm chính nghĩa dân tộc nhưng cơn khát ấy chưa bao giờ được đáp lại. Hành trình sưu khảo ấy, tôi thường đối mặt và cọ xát với nhiều thành phần. Bọn bảo thủ phong kiến hủ bại khư khư ôm lấy vàng son một thời nào hay thế giới không ngừng chuyển động. Bọn hèn nhát lăn theo vết mòn nô lệ ngoại bang do cha ông lỡ lầm khuất phục vì miếng cơm manh áo, mặc nhiên điểm tô ngụy quyền phi chính nghĩa. Bọn hạ đẳng được cài mớm hận thù chỉ giỏi đui mù cướp giật bất cố liêm sỉ, đêm ngày hong hóng quả thực. Bọn thông thái rởm không dám đối mặt với thực tế, viễn mơ ngụy tín giấu mình trong tháp ngà kinh điển… Lan man như thế, tôi trôi vào giấc ngủ lúc nào chẳng hay, mãi tới khi dì Ngâu trở về. Bước vào nhà, dì châm dầu cho cây đèn bé xíu làm bằng vỏ chai. Tiếp đến, dì xuống bếp lo cơm nước. Nôn nóng nhưng tôi không dám bộp chộp, bép xép. Chới với từ cú đẩy của Bửu Dương, tuy lành lặn và tạm bình an nhưng chưa hẳn hoàn hồn, về tới đây, lúc này không còn ai hơn để tôi phó thác sinh mệnh ngoài dì ấy. Không được manh động! Phải thận trọng! Ngồi lặng im trên giường một lúc, tới khi xôn xao trong mình lắng xuống, tôi lần ra vũng sáng vàng vọt do ánh lửa từ chái bếp loi lên. Đêm đã xuống bên ngoài, tối tăm thăm thẳm. Lan trong tiếng ếch nhái vườn sau, những tiếng nổ xa xa vọng về. Có một bóng người mặc quần cộc đi chân đất xách đèn lồng xồng xộc vào ngõ.
(18) Made in Russia, in China, tiếng Anh: chế tạo sẵn tại Nga, tại Trung Hoa.
(19) André Lalande (1867-1963): triết gia Pháp, đặc biệt quan tâm đến các học thuyết chính trị.
(20) Manifeste Communiste, tiếng Pháp: Tuyên Ngôn Cộng Sản.
Thoáng thấy, dì Ngâu bỏ bếp đón ngay bậc cửa.
- Người cháu của o đã đi chưa?
Khách hỏi, giọng nam trung niên, hao hao như của người đàn ông tỏi đã gặp ở bến nước lúc vào làng.
- Rồi! Dì nói.
- Mà chú hỏi có việc chi?
Ngay tức khắc, tôi nhón lẻn vào buồng trở lại.
- Nếu chưa đi thì phải khai báo tạm trú.
Khách yêu cầu.
- Mời chú vô nhà uống nước!
Dì nói nhưng hai tay vẫn chắn ngang khung cửa.
- Để bữa khác thư thả, trở trời mạ tui không khỏe.
Khách nói rồi đi ngay.
- Ông ta là ai? Tôi hỏi khi dì trở vào.
- Trưởng thôn hai mang! Dì nói.
Tôi không hiểu, dì giải thích.
- Ban ngày làm việc cho Quốc Gia, ban đêm làm việc cho Cộng Sản, có rứa mới yên thân mà nuôi mẹ!
Dì quày quả xuống bếp rồi trở lên giục tôi ăn cơm.
- Phải đi đường vòng… Dì nói. -… vượt An Lưu, xuống Sư Lỗ!
Thấy tôi ngơ ngớ, dì không dài dòng thêm.
- Bên kia sông Như Ý? Tôi đồ chừng, dì gật đầu.
- Rứa dì đã gặp ông Phan Ne chưa?
Tôi dò tới, quên cả chuyện ăn.
- Rồi! Dì nói, rước cái chén trong tay tôi. - Đêm ni vợ chồng họ thức đợi dì cháu mình.
Cuối bữa, tôi để lại cho dì một ít tiền và mấy hộp thịt quân tiếp vụ, bà cằn nhằn từ chối và khóc thút thít. Tôi không hiểu hết những giọt nước mắt thương tủi ấy. Dì khóc vì chợt nhớ mẹ tôi lưu lạc nơi xa? Dì khóc vì mình nghèo khó không bù chì cho đứa cháu lúc khó khăn? Dì khóc vì phút chia tay không hứa hẹn ngày gặp lại? Dì khóc vì biết đang đưa cháu vào chốn hiểm nguy? Càng nghĩ, tôi càng nao lòng, bần thần rã rượi.
- Phải qua cầu trước khi trăng mọc!
Dì nói, đưa trả đèn lên bàn thờ, vén cao mấy tấm nhiễu, cắm hương vào bát, thì thầm khấn vái. Tôi nhìn theo, thấy phía sau có vài ba bức ảnh khoác phẩm phục đội mũ cánh chuồn(21) Muốn hỏi các vị ấy liên hệ họ hàng với mẹ tôi thế nào nhưng đang lúc dì tất bật, tôi thấy chưa tiện. Dì Ngâu qua nhà hàng xóm một lúc. Khi về dì cài chặt cổng ngõ. Vào nhà, dì chuyển cây đèn hột vịt từ bàn thờ móc vào cột gỗ sát vách.
(21) Mũ quan văn.
Khoảng tám giờ tối, tôi cùng dì Ngâu ra khỏi nhà, đi tắt vườn sau, men theo một bờ ruộng rồi lên đường cái. Vượt cầu An Lưu, trăng vừa ló khỏi ngọn tre, dì dặn tôi len lách vào vũng bóng mà đi. Không có bọn Bình Định Nông Thôn hoạt động nhưng vùng này thuộc lãnh địa oanh kích tự do. Đôi khi máy bay trực thăng ngang qua, quét đèn xuống, bắn hạ tất cả những gì di động trên mặt đất. Nghe dì nói, đang đi, lâu lâu tôi cảnh giác nhìn lên trời. Ban đầu tôi nghi ngại những thứ bao quanh mình, rồi mắt quen dần bóng tối, tôi gần như thấy rõ cả ngọn cỏ cành cây, chân không còn vướng vấp, chỉ khổ đôi giày da bết bùn nặng chịch.
Có lúc quên hẳn thực tại hiểm nguy, tôi chợt nhớ và hỏi về ông bà ngoại tôi. Dì cho hay ông tôi làm đến chức Phó Đô Thống triều Duy Tân. Khi Pháp đày vua, ông tôi cáo quan về hưu an nghỉ trong phủ đệ tại phía tây Nội Thành. Tôi hỏi về di sản cơ nghiệp. Dì nói tan hoang hết cả. Tôi hỏi đến anh chị em ruột thịt của mẹ tôi. Dì nói xiêu lạc tứ phương, có người ở tận bên Tây, cỏ người đã chết, có người đi theo Việt Minh. Nghe đến đó, tôi ngậm ngùi, soát xét trong ký ức, đằng sau chiếc bóng xác xơ của mẹ, bên trên vàng son cổ kính, một khoảng trống dài hun hút lặng ngắt. Có phải vì trót mang tai tiếng, mẹ tôi muốn đoạn tuyệt quá khứ và khóa chặt cánh cửa ngược dòng thời gian? Cách ly con với họ mạc nhà mình, đối với một người đàn bà, quyết định ấy hẳn phải đau đớn và thấm đẫm nước mắt. Bất chợt tôi nhớ tới Cẩm Khuê. Thì ra số phận an bài đời tôi giữa hai người nữ khốc liệt, một già một trẻ, một người tôi nhận máu xương nhập thế gian, những mong chuyển xoay địa trục, gầy dựng cơ đồ và một người tôi mong gởi được máu xương lại thế gian, những mong định trụ thiên hà, chung xây ngôi nhà hạnh phúc. Tuy dị biệt và cách đại, nhưng cả hai số phận ấy đều là nạn nhân của động lực lịch sử, chịu thương tích từ bến bãi, từ khói sương mơ màng của một dòng sông vương giả. Nhưng mẹ tôi, có lẽ bà không bao giờ hối hận vì đã tự nguyện dấn bước, còn Cẩm Khuê, ắt hẳn bi phẫn trọn đời… Bất chợt, tôi đứng sững, hai mắt cay xé. Lưng lửng trời mây, bên trên ngọn cây đọt cỏ, ai như mẹ tôi đang dắt tay Cẩm Khuê bước xuống.
- Ngươi không cha, may mắn gặp thầy, đã không chịu học lại còn quay lưng quậy phá. Ngươi xa mẹ, may mắn có người yêu thương, đã không gắn bó còn nhũng nhiễu tai ương!
Xáp mặt, bà mắng, vung roi giáng xuống đầu tôi, còn cô ta, đau đớn gập mình run rẩy.
- Con lạy mẹ…! Tôi chưa kịp quỳ xuống, cái bóng dì Ngâu đã chờn vờn trước mắt.
- Mau lên! Khuya rồi, người ta đang thức đợi!
Dì réo thúc, tôi sực tỉnh. Biết mình vừa mông muội, tôi xấu hổ cúi mặt sải bước.
Đến Sư Lỗ, không hiểu do đâu, dì kể về quãng đời xuân xanh của mẹ. Nếu ký ức dì Ngâu không sai lạc, câu chuyện cô tôi mang về Thường Đức tâu lại với bà tôi chỉ có một nửa, ví như phần nổi của một tảng băng, mà một nửa sự thật đâu phải sự thật. Đúng là mẹ tôi có xuống đò ca hát, không phải một lần với tay mật thám đang thụ lý hồ sơ cha tôi, nhưng chưa bao giờ ăn ngủ với hắn. Dì Ngâu đoan quyết mẹ không thất thân, ỡm ờ chịu đựng vuốt ve để đổi lấy bản án giảm khinh cho chồng. Dì dặn mẹ tôi hắn có đòi hỏi cứ nói mấy ngày ni chưa tắm rửa được. Phải sắm một lúc ba cái quần lót, hòa phẩm điều bôi vào đũng trong rồi đem phơi khô. Và những chiếc quần lót ấy do tay dì Ngâu khâu chết vào thắt lưng mẹ tôi mỗi lần xung trận. Cũng chính dì kiểm chứng mỗi đêm khuya mẹ tôi bải hoải về lại nhà. Phải dùng dao kéo cắt xẻ một lúc dì mới đẩy được người chị khốn khổ vào buồng tắm rửa kỳ cọ. Khi cha tôi trốn thoát khỏi tù, hắn vẫn đeo bám mẹ tôi, ra sức vẽ vời công lao cứu độ, và thêm lời lẽ đường mật ve vãn. Có chuyện con vợ thằng mật thám đánh ghen, vu vạ làm ầm ĩ cả khu phố giữa thanh thiên bạch nhật. Có chuyện cô tôi vụng dại mang tôi chữa cháy, lê la đầu đường cuối ngõ, vừa phát tán vừa cải biên dư luận những mong chấn chỉnh gia phong. Có chuyện mẹ tôi hứng chịu đòn thù của bầu đoàn gia tộc con vợ hắn và phải uổng cả chục thang thuốc mới hết rêm rã mình mẩy. Có chuyện xung đột dai dẳng giữa chị dâu em chồng và cô tôi phải quay về quê đầy ắp bi phẫn. Sau đó không phải vì xấu mặt, mẹ tôi bỏ Huế ra đi. Từ nhẫn nhục thành căm thù, người ta không còn thiết sống nữa. Mẹ tôi bàn với dì Ngâu cho độc dược vào rượu khử hắn. Và dì bí mật đi mua thạch tín. Việc bại lộ, dì Ngâu trốn về làng, mẹ tôi mang hai con vào đất Quảng, ngược lên Trường Sơn. Chị em xa nhau từ ngày ấy. Giọng thấm đẫm nước mắt, dì Ngâu đi sát bên tôi, có lúc dừng lại nghe ngóng, có lúc xen vào một ý nghĩ chợt đến, có lúc đồ đậm một chi tiết bấy lâu luồn sâu ẩn kín trong tâm can mình.
Len bờ xuống ruộng suốt bốn tiếng đồng hồ, may mắn chúng tôi không gặp một ai. Rưng rưng trong mỗi bước chân, tôi không thấy đường dài, không thấy vất vả và cả hiểm nguy.
- Đã về tới làng Thanh Thủy!
Dì Ngâu nói khẽ vào tai tôi khi qua khỏi con cầu khỉ bằng tre chon von lắt lẻo. Nơi đây trống trải, bờ bụi lấp xấp, gió gào réo chạy dài trên đồng vắng, ánh trăng chao lượn mặt sông như ngấn tuyết lăn tăn trên nền nhung lam. Chúng tôi men theo con đường đất nhỏ, một bên trơ vơ mấy vòm rớ chài, một bên nương bãi rơm rạ bạc thếch. Có lẽ hết giờ giao hoan, ếch nhái đã về lại hang, chỉ còn côn trùng rỉ rỉ kêu than.
- Ngày trước làng ni lúa tốt nhất tổng! Dì Ngâu cho biết. - Sau Mậu Thân những trận càn qua lại như cơm bữa, chính quyền hốt dân vào các khu dồn, chỉ một ít nghe theo Cách Mạng bám trụ, thiếu người nên chi đất đai hoang hóa.
Thì ra mình đang lần về phía trận địa. Tôi thầm nghĩ. Như một cánh bèo, tôi chỉ xuôi dòng, mong sao dừng lại một bến bờ, sau đó hẵng hay. Tôi tin mình sẽ vượt được. Phải bình tĩnh, liều lĩnh nhưng thận trọng. Đã vào sâu trong xóm mà vẫn lạnh, vẫn chưa có một biểu hiện sinh hoạt của người và vật.
- Ông Ne ở đây!
Dì chỉ tay về phía cụm nhà lụp xụp bè bè trong bóng tối. Nhưng hai lần một mình qua ngõ, dì vẫn không chịu vào. Nhìn kỹ, trong bờ rào và sau hàng cây thưa, có ánh đèn le lói dưới bóng chái đen kịt như một miệng hang. Chúng tôi nép vào hõm rào tối, bất chợt có tiếng chó sủa, tôi đảo mắt nhìn quanh, vườn tược lờ mờ. Đứng sát bên tôi, dì Ngâu bụm hai bàn tay vào miệng. Trong cảm giác rờn rợn, tôi biết chẳng có chó mèo nào gióng tiếng. Ngay tức khắc ánh đèn bên trong vụt tắt. Ám hiệu. Tiếng chó lại nhắng lên. Đèn bên trong sáng trở lại, cứ thế, không liên tục nhưng đến ba lần. Dì Ngâu mạnh dạn đẩy cánh cổng tre, băng ngang một giàn cây lá to bản rồi kéo tôi chui qua đòn ngáng ngõ chuồng trâu. Chúng tôi vào nhà theo một khung cửa mở hờ tối om và được một người không rõ mặt khép cánh ngay sau đó. Đèn sáng trở lại. Bên bếp lửa che khuất bằng một tấm cót, ông Phan Ne đón khách lúc nửa đêm. Có tiếng ho hen, tôi thầm đoán người vừa khép cánh đã trở lại giường và đang nằm nghỉ cách vách đâu đó.
- Vào làng có gặp ai không?
Ông Ne hỏi, rót nước vào hai cái chén.
- Dạ không! Dì Ngâu nói.
Ông nhìn thẳng vào tôi, lúc lắc đầu tóc bờm xờm, đẩy tới hai cái đòn, khoát tay mời. Dì Ngâu kéo tôi cùng ngồi xuống. Ông Ne cho thêm mấy gốc tre khô vào bếp.
- Thân tui cơ cực lại đàn bà, gặp cháu đương lúc nguy nan không cứu được phải nhờ anh chị!
Uống xong chén nước, Dì Ngâu chắp tay, lắp bắp.
- Chị yên tâm! Ông Ne nói. - Tưởng ai xa lạ, chớ anh ấy đã gởi, tui coi như người nhà!
Dì Ngâu xúc động, kéo vạt áo dậm mắt. Tôi bùi ngùi nhưng tinh thần có chiều êm ả. Người ông Phan Ne vừa nhắc là Bửu Dương, hai bên khác họ, chẳng rõ tình sâu nghĩa nặng với nhau thế nào? Đây là mấu chốt tôi cần biết. Quan hệ này sẽ đảm bảo an sinh những ngày phiêu bạt của người như tôi bây giờ. Có nên khai thác tìm hiểu bằng cách giả vờ thăm hỏi? Tôi phân vân.
- Anh chị tui chỉ lưu lại có hột máu ni…
Dì Ngâu nói, nghẹn khóc, bỏ lửng. Ông Ne đưa tay chận lại, nhướng mắt bảo dì không nên bi lụy.
- Anh ráng chịu gian khổ hé?
Ông động viên và tôi gật đầu.
- Đã ăn uống chi chưa? Ông hỏi.
- Dạ rồi. Dì Ngâu nói.
- Tốt! Theo tui!
Ông vỗ vai tôi, chống gối đứng dậy. Uống vội chén nước lá chát quéo lưỡi, tôi chẳng kịp có một tiếng chào dì, ôm túi xách theo ông ta lui vào một nơi không rõ ở đâu trong ngôi nhà tranh ẩm mốc.