Phiên Bản Tình Yêu (Vũ Biện Điền)

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Re: Phiên Bản Tình Yêu (Vũ Biện Điền)

Postby bevanng » 28 Apr 2016

- Z.23
Với được phao cứu sinh.
Tiếp tục hành trình đảo bỉ ngạn.


Vào tới làng Vân Thê, tôi hỏi thăm nhà dì ấy, mấy người đàn bà trên bến nước tranh nhau chỉ đường nhưng ánh mắt cứ ngài ngại. Một người đàn ông có hàm răng to cáu bẩn thóc mách hỏi tìm nhà o Ngâu có chuyện chi, tôi giả bộ không nghe, tảng lờ bước đi. Nhà dì Ngâu ở giữa làng. Ngang qua phủ thờ, ngoặt vào đường xóm hẹp, con bé dẫn đường chỉ cho tôi người đàn bà gầy nhom, khoác áo cánh nâu, đang ngồi sàng gạo dưới mái hiên. Tôi đi thẳng vào.
Đàn gà bu quanh táo tác chạy ra vườn. Thay khách lạ đường đột, bà ngỡ ngàng. Tôi đứng im một lúc rồi đọc chậm họ và tên tôi. Bà chớp mắt liên tục. Tôi đọc tên mẹ tôi, tên cha tôi, tên ngoại tôi. Bà cúi mặt hồi tưởng. Sau cùng, tôi đọc tên móc nôi của tôi.
- Thằng Cu Quảng!
Bà vất sàng, ôm lấy tôi. Không ngờ gặp lại đứa cháu một thời từng ẵm bồng nâng niu, dì xúc động gọi tên mẹ tôi, khóc bù lu bù loa. Tôi tỉnh táo đưa dì vào nhà. Hàng xóm có người chạy đến hỏi han khiến tôi lo. Nhưng điều làm tôi khấp khởi mừng là dì Ngâu không chồng, sống độc thân trong ngôi nhà rường nhỏ đã tới hồi rệu rã. Ngày xưa chắc không đến nỗi nào, giờ dì sống đời cơ cực, cái ăn chỉ do bòn mót ruộng đồng sông nước mà sức đã tới hồi cạn kiệt. Vật đáng giá nhất trong nhà này là cái án thờ, cũng là gánh nặng đè lên vai một người đàn bà ở tuổi xế chiều, uống xong chén nước, lảng giềng rõ ngọn ngành gia tộc dì cháu chúng tôi, họ kiếu về. Dì Ngâu xuống bếp thổi cơm.
Trước khỉ tắm rửa, tôi mở cái tủi xách và vô cùng bỡ ngỡ. Cả cũ lẫn mới có mấy bộ áo quần, cả đồ mặc lót, chỉ thiếu chiếc cà vạt mừng sinh nhật của Cẩm Khuê. Bên dưới, một ít hàng quân tiếp vụ, có cả dao cạo râu, kem đánh răng, bàn chải, một xấp tiền trong bao thư và mảnh giấy nguệch ngoạc dòng chữ: Phan Ne, làng Thanh Thủy.(15) Đây không phải viết lách tình cờ, tôi hiểu. Đọc lại, tôi nhai mảnh giấy, nuốt vào bụng. Bây giờ tôi hiểu ngày hôm kia đại úy Bửu Dương đã sai trung sĩ cầm giấy giới thiệu đến nơi nào và cuộc đào thoát đã được người chủ mưu tính toán chi li. Bữa trưa chỉ có hai dì cháu, tôi thú thật hoàn cảnh mình. Dì Ngâu nghẹn thắt cổ họng.
(15) Thanh Thủy: thuộc huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế, cách thành phố Huế 6 km về phía nam. Làng có con cầu ngói nổi tiếng (thượng gia hạ kiều) mang tên Thanh Toàn - tên cũ của làng. Ngày nay, Thanh Thủy là nơi thường tổ chức Chợ Quê mỗi kỳ Festival Huế.
- Cháu sẽ đi ngay!
Tôi nói để xua bớt sợ hãi trong người bà. Dì có phần bình tĩnh trở lại, nhưng không nuốt nổi miếng cơm nào nữa, chỉ ngồi chờ chực xới đơm.
- Dì có biết làng Thanh Thủy không? Từ đây đến đó bao xa? Cuối bữa, tôi bạo dạn hỏi.
Dì im lặng, thu dọn chén bát xuống bếp như không quan tâm, hoặc chưa hề hay biết. Ngồi một mình, tôi đưa mắt quan sát. Ngôi nhà ọp ẹp tọa lạc giữa vườn chuối lưa thưa, rào giậu ba phía tiếp giáp hàng xóm, một phía ruộng đồng. Cơ ngơi trống trải khó dung thứ người như tôi lúc này! Đó là chưa tính dì lấy đâu ra cơm gạo nuôi cháu lâu dài. Tôi lục lại cái bao thư và đếm từng tờ giấy bạc. Ngoài số tiền ít ỏi của tôi giao nạp tại ty cảnh sát, có lẽ Bửu Dương đã trút cả tháng lương vào đây? Lòng dạ rưng rưng, tôi nhớ đến mẹ và em gái anh ta, những bữa ăn đạm bạc còn eo thắt hơn nữa. Nhìn ngọn lửa đèn dầu liu điu le lói trên án thờ trước mấy giá gương phủ nhiễu đỏ, tôi tự hỏi liệu tổ tông có soi sáng cho cháu chắt ngõ thoát nào không?
- Chỉ cách có một cánh đồng!
Một lúc, dì trở lại nói nhỏ vào tai tôi, trên tay cái bình sứ bịt bạc sứt vòi, hai cái tách cũ kỹ trốc men.
- Cách đồng nhưng phải ngang qua đồn lính! Dân hai làng đi lại thì không răng…
Dì trở xuống chái bếp, chốt chặt cửa rồi lên ngay, rót nước vào hai tách, nói tiếp.
- Ban ngày dân hai làng đi lại thì không răng, nhưng người lạ khó mà qua mắt chúng. Còn ban đêm, có việc phải xách lồng đèn theo…
- Dì có biết ông Phan Ne bên đó không?
Tôi thăm dò.
- Chồng mụ Nậy chớ ai! Dì cầm chắc. - Anh quen biết nhà nớ? Mở to đôi mắt đục, dì nhìn tôi chăm chăm.
Bây giờ tôi mới thấy hết nét già nua trên mặt bà, những đường nhăn vòng quanh miệng, bao quanh mắt rõ như nét chạm. Tôi chợt nhớ mẹ tôi. Tuy cao thấp chênh lệch nhưng hai chị em có đôi nét giống nhau.
- Nhà ông ấy ở cuối làng, nằm sâu trong đường xóm! Dì nói thêm.
- Cháu chưa bao giờ tới đó và chưa bao giờ gặp mặt ông ta… Tôi nói. - Nhưng có người giới thiệu để nhờ ông ấy giúp đỡ!
Tôi kéo dì ngồi xuống bên cạnh, tìm cách cài vào trí óc mệt mỏi của bà cái tên Bửu Dương, An Cựu.
- Rứa thì dì phải qua trước coi ra răng đã!
Bà đẩy tôi vào buồng ngủ chẳng khác cái tổ giẻ.
- Bọn Bình Định Xây Dựng Nông Thôn (16) đang ba cùng (17) trong làng, dì khóa trái cửa trước khi đi, ai kêu cũng không mở!
(16) Chương trình Bình Định Nông Thôn ở miền Nam có từ 1955. Trung ương có một bộ đặc trách, mỗi xã có đoàn Bình Định Nông Thôn (ban đầu quân số 59 người, về sau giảm dần, cuối cùng chỉ còn (10 người). Qua từng thời kỳ, chương trình có sự thay đổi tên, nhưng nhân dân quen gọi như ban đầu. Chương trình được coi là biện pháp chiến lược quan trọng, tiến hành liên tục với nỗ lực cao, chi phí lớn và gây nhiều khó khăn, tổn thất cho phía CS, nhất là những năm 1959-1960 và 1969-1972. Đến đầu năm 1975, chương trình Bình Định Nông Thôn thất bại hoàn toàn.
(17) Ba cùng: cùng ăn, cùng ở, cùng làm với dân.
Bà dặn, vói chiếc áo sa đen bợt màu cò lửa, xuống bếp sục sạo một lúc nhưng ra đi hai bàn tay không.
Tôi ở lại trong bóng tối căn buồng giữa ban ngày, lắng nghe và cảnh giác bất cứ động tĩnh nào. Không một biểu hiện bất thường xảy đến, dần dần tôi bình tĩnh, tìm cách thư giãn, nghỉ ngơi. Nằm dài lên giường tre ọp ẹp, dùng túi xách đôn cao đầu, tôi muốn tạm quên tất cả. Nhưng bóng dáng Bửu Dương cứ lởn vởn. Có lẽ con người này còn lãng đãng trong tôi đến cuối đời hoặc khi tôi không may lâm bệnh ngặt nghèo có phương hại đến trí nhớ. Thú thật, tôi chưa thấy hết, hiểu hết anh ta. Những gì Bửu Dương vô tình hoặc cố ý để lộ đủ cho tôi khẳng định anh ta là người am hiểu về lịch sử dân tộc, lịch sử thế giới và học thuyết Marxiste - Leniniste, quán triệt hơn cả cấp lãnh đạo của tôi, vượt xa một số cán bộ tuyên huấn trên bưng, nhưng quyết liệt chống Cộng Sản đến hơi thở cuối cùng. Anh ta có cái nhìn khách quan về ngoại giới và khắc kỷ đến độ nghiệt ngã với bản thân. Từ đó hình thành một nhân cách và nhân sinh quan soi sáng bằng trí tuệ. Anh ta thâm thù thực dân Pháp, nghi ngờ đế quốc Mỹ, đế quốc Nga, đế quốc Tàu, đoạn tuyệt với phong kiến cả Âu lẫn Á, phủ định Bảo Đại, Ngô Đình Diệm, Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh, Phan Huy Quát, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỷ… Anh ta sùng kính Minh Mệnh, Hàm Nghi, Tôn Thất Thuyết, Thành Thái, Duy Tân, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Ái Quốc và cả Ngô Đình Nhu. Đối với Bửu Dương, tuy một người nhưng Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh khác nhau rất xa, tuy anh em ruột thịt nhưng Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu gần như đối lập, Cộng Sản Nga không giống Cộng Sản Tàu, Cộng Sản Việt không giống Cộng Sản Lào, Cộng Sản Triều Tiên không giống Cộng Sản Cuba, nhưng Cộng Sản nào cũng là ác quỷ, cần tận diệt sớm ngày nào hay ngày ấy.
- Vậy tại sao anh khổ công giúp tôi? Tôi hỏi cái bóng Bửu Dương lảng vảng trong đầu mình.
- Đáo bỉ ngạn! Và tự tôi lặp lại lời anh ta.
- Thử nghiệm ư? Tôi hỏi.
- Không! Anh ta khẳng định. Đáo bỉ ngạn là hãy qua bờ bên kia để chứng nghiệm.
- Bờ bên kia là bờ nào?
- Bờ Đỏ, bờ mang nhãn hiệu Xã Hội Chủ Nghĩa, made in Russia, made in China.(18) André Lalande,(19) triết gia Pháp định nghĩa thế nào nhỉ? Trong Manifeste Communiste, (20) Karl Marx và Engels tuyên bố những gì? Tôi cố nhớ. - Xã Hội Chủ Nghĩa là chủ nghĩa tiêu diệt tự do kinh tế, xóa bỏ cạnh tranh, là truất quyền sở hữu đất đai và cả sở hữu trí tuệ, tập trung tín dụng, tập trung công kỹ nghệ và giao thông vận tải, tập trung phương tiện sản xuất. Nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa tổ chức và lãnh đạo kinh tế toàn dân dưới dạng công trường tập sản, công xã. Tôi ngờ ngợ, có phải từ giáo điều này mà đưa đến cải cách ruộng đất ở Trung Quốc, rồi ở miền Bắc Việt Nam những năm 55-56, giết oan khoảng bảy trăm ngàn người, hủy hoại hạ tầng nông thôn, làm sụp đổ luôn cả đạo lý truyền thống dân tộc? Nhưng ngay khi ấy, tôi cảm thấy tài liệu tôi đọc không đủ khách quan xác tín do chính quyền miền Nam phát tán tuyên truyền chống đảng. Tôi tiếp tục ôn cố. Để thực hiện đường lối chính sách ấy, nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa chủ trương đơn nguyên, độc đảng, khống chế các mặt sinh hoạt như quân đội, công an, giáo dục, y tế, văn hóa, thông tin, văn học, nghệ thuật, báo chí… và cả tôn giáo. Khi phát triển đến mức cao nhất và thống trị toàn diện, Xã Hội Chủ Nghĩa sẽ trở thành Cộng Sản Chủ Nghĩa. Nhưng Xã Hội Chủ Nghĩa và công cuộc giải phóng dân tộc, như hoàn cảnh Việt Nam có quan hệ hữu cơ tất yếu nào? Ấn Độ, Mã Lai, Indonesia, Philippines… cũng bị thực dân Âu Tây xâm chiếm, họ giành độc lập sớm hơn, tốn rất ít xương máu và không để lại hận thù nào, có cần đến Marx-Mao đâu? Tự dưng tôi tiếc không quen biết Bửu Dương sớm hơn để cùng nhau khẩu chiến cho rõ trắng đen. Từ khi bắt đầu ý thức, tôi đã mất nhiều thì giờ đi tìm chính nghĩa dân tộc nhưng cơn khát ấy chưa bao giờ được đáp lại. Hành trình sưu khảo ấy, tôi thường đối mặt và cọ xát với nhiều thành phần. Bọn bảo thủ phong kiến hủ bại khư khư ôm lấy vàng son một thời nào hay thế giới không ngừng chuyển động. Bọn hèn nhát lăn theo vết mòn nô lệ ngoại bang do cha ông lỡ lầm khuất phục vì miếng cơm manh áo, mặc nhiên điểm tô ngụy quyền phi chính nghĩa. Bọn hạ đẳng được cài mớm hận thù chỉ giỏi đui mù cướp giật bất cố liêm sỉ, đêm ngày hong hóng quả thực. Bọn thông thái rởm không dám đối mặt với thực tế, viễn mơ ngụy tín giấu mình trong tháp ngà kinh điển… Lan man như thế, tôi trôi vào giấc ngủ lúc nào chẳng hay, mãi tới khi dì Ngâu trở về. Bước vào nhà, dì châm dầu cho cây đèn bé xíu làm bằng vỏ chai. Tiếp đến, dì xuống bếp lo cơm nước. Nôn nóng nhưng tôi không dám bộp chộp, bép xép. Chới với từ cú đẩy của Bửu Dương, tuy lành lặn và tạm bình an nhưng chưa hẳn hoàn hồn, về tới đây, lúc này không còn ai hơn để tôi phó thác sinh mệnh ngoài dì ấy. Không được manh động! Phải thận trọng! Ngồi lặng im trên giường một lúc, tới khi xôn xao trong mình lắng xuống, tôi lần ra vũng sáng vàng vọt do ánh lửa từ chái bếp loi lên. Đêm đã xuống bên ngoài, tối tăm thăm thẳm. Lan trong tiếng ếch nhái vườn sau, những tiếng nổ xa xa vọng về. Có một bóng người mặc quần cộc đi chân đất xách đèn lồng xồng xộc vào ngõ.
(18) Made in Russia, in China, tiếng Anh: chế tạo sẵn tại Nga, tại Trung Hoa.
(19) André Lalande (1867-1963): triết gia Pháp, đặc biệt quan tâm đến các học thuyết chính trị.
(20) Manifeste Communiste, tiếng Pháp: Tuyên Ngôn Cộng Sản.

Thoáng thấy, dì Ngâu bỏ bếp đón ngay bậc cửa.
- Người cháu của o đã đi chưa?
Khách hỏi, giọng nam trung niên, hao hao như của người đàn ông tỏi đã gặp ở bến nước lúc vào làng.
- Rồi! Dì nói.
- Mà chú hỏi có việc chi?
Ngay tức khắc, tôi nhón lẻn vào buồng trở lại.
- Nếu chưa đi thì phải khai báo tạm trú.
Khách yêu cầu.
- Mời chú vô nhà uống nước!
Dì nói nhưng hai tay vẫn chắn ngang khung cửa.
- Để bữa khác thư thả, trở trời mạ tui không khỏe.
Khách nói rồi đi ngay.
- Ông ta là ai? Tôi hỏi khi dì trở vào.
- Trưởng thôn hai mang! Dì nói.
Tôi không hiểu, dì giải thích.
- Ban ngày làm việc cho Quốc Gia, ban đêm làm việc cho Cộng Sản, có rứa mới yên thân mà nuôi mẹ!
Dì quày quả xuống bếp rồi trở lên giục tôi ăn cơm.
- Phải đi đường vòng… Dì nói. -… vượt An Lưu, xuống Sư Lỗ!
Thấy tôi ngơ ngớ, dì không dài dòng thêm.
- Bên kia sông Như Ý? Tôi đồ chừng, dì gật đầu.
- Rứa dì đã gặp ông Phan Ne chưa?
Tôi dò tới, quên cả chuyện ăn.
- Rồi! Dì nói, rước cái chén trong tay tôi. - Đêm ni vợ chồng họ thức đợi dì cháu mình.
Cuối bữa, tôi để lại cho dì một ít tiền và mấy hộp thịt quân tiếp vụ, bà cằn nhằn từ chối và khóc thút thít. Tôi không hiểu hết những giọt nước mắt thương tủi ấy. Dì khóc vì chợt nhớ mẹ tôi lưu lạc nơi xa? Dì khóc vì mình nghèo khó không bù chì cho đứa cháu lúc khó khăn? Dì khóc vì phút chia tay không hứa hẹn ngày gặp lại? Dì khóc vì biết đang đưa cháu vào chốn hiểm nguy? Càng nghĩ, tôi càng nao lòng, bần thần rã rượi.
- Phải qua cầu trước khi trăng mọc!
Dì nói, đưa trả đèn lên bàn thờ, vén cao mấy tấm nhiễu, cắm hương vào bát, thì thầm khấn vái. Tôi nhìn theo, thấy phía sau có vài ba bức ảnh khoác phẩm phục đội mũ cánh chuồn(21) Muốn hỏi các vị ấy liên hệ họ hàng với mẹ tôi thế nào nhưng đang lúc dì tất bật, tôi thấy chưa tiện. Dì Ngâu qua nhà hàng xóm một lúc. Khi về dì cài chặt cổng ngõ. Vào nhà, dì chuyển cây đèn hột vịt từ bàn thờ móc vào cột gỗ sát vách.
(21) Mũ quan văn.
Khoảng tám giờ tối, tôi cùng dì Ngâu ra khỏi nhà, đi tắt vườn sau, men theo một bờ ruộng rồi lên đường cái. Vượt cầu An Lưu, trăng vừa ló khỏi ngọn tre, dì dặn tôi len lách vào vũng bóng mà đi. Không có bọn Bình Định Nông Thôn hoạt động nhưng vùng này thuộc lãnh địa oanh kích tự do. Đôi khi máy bay trực thăng ngang qua, quét đèn xuống, bắn hạ tất cả những gì di động trên mặt đất. Nghe dì nói, đang đi, lâu lâu tôi cảnh giác nhìn lên trời. Ban đầu tôi nghi ngại những thứ bao quanh mình, rồi mắt quen dần bóng tối, tôi gần như thấy rõ cả ngọn cỏ cành cây, chân không còn vướng vấp, chỉ khổ đôi giày da bết bùn nặng chịch.
Có lúc quên hẳn thực tại hiểm nguy, tôi chợt nhớ và hỏi về ông bà ngoại tôi. Dì cho hay ông tôi làm đến chức Phó Đô Thống triều Duy Tân. Khi Pháp đày vua, ông tôi cáo quan về hưu an nghỉ trong phủ đệ tại phía tây Nội Thành. Tôi hỏi về di sản cơ nghiệp. Dì nói tan hoang hết cả. Tôi hỏi đến anh chị em ruột thịt của mẹ tôi. Dì nói xiêu lạc tứ phương, có người ở tận bên Tây, cỏ người đã chết, có người đi theo Việt Minh. Nghe đến đó, tôi ngậm ngùi, soát xét trong ký ức, đằng sau chiếc bóng xác xơ của mẹ, bên trên vàng son cổ kính, một khoảng trống dài hun hút lặng ngắt. Có phải vì trót mang tai tiếng, mẹ tôi muốn đoạn tuyệt quá khứ và khóa chặt cánh cửa ngược dòng thời gian? Cách ly con với họ mạc nhà mình, đối với một người đàn bà, quyết định ấy hẳn phải đau đớn và thấm đẫm nước mắt. Bất chợt tôi nhớ tới Cẩm Khuê. Thì ra số phận an bài đời tôi giữa hai người nữ khốc liệt, một già một trẻ, một người tôi nhận máu xương nhập thế gian, những mong chuyển xoay địa trục, gầy dựng cơ đồ và một người tôi mong gởi được máu xương lại thế gian, những mong định trụ thiên hà, chung xây ngôi nhà hạnh phúc. Tuy dị biệt và cách đại, nhưng cả hai số phận ấy đều là nạn nhân của động lực lịch sử, chịu thương tích từ bến bãi, từ khói sương mơ màng của một dòng sông vương giả. Nhưng mẹ tôi, có lẽ bà không bao giờ hối hận vì đã tự nguyện dấn bước, còn Cẩm Khuê, ắt hẳn bi phẫn trọn đời… Bất chợt, tôi đứng sững, hai mắt cay xé. Lưng lửng trời mây, bên trên ngọn cây đọt cỏ, ai như mẹ tôi đang dắt tay Cẩm Khuê bước xuống.
- Ngươi không cha, may mắn gặp thầy, đã không chịu học lại còn quay lưng quậy phá. Ngươi xa mẹ, may mắn có người yêu thương, đã không gắn bó còn nhũng nhiễu tai ương!
Xáp mặt, bà mắng, vung roi giáng xuống đầu tôi, còn cô ta, đau đớn gập mình run rẩy.
- Con lạy mẹ…! Tôi chưa kịp quỳ xuống, cái bóng dì Ngâu đã chờn vờn trước mắt.
- Mau lên! Khuya rồi, người ta đang thức đợi!
Dì réo thúc, tôi sực tỉnh. Biết mình vừa mông muội, tôi xấu hổ cúi mặt sải bước.
Đến Sư Lỗ, không hiểu do đâu, dì kể về quãng đời xuân xanh của mẹ. Nếu ký ức dì Ngâu không sai lạc, câu chuyện cô tôi mang về Thường Đức tâu lại với bà tôi chỉ có một nửa, ví như phần nổi của một tảng băng, mà một nửa sự thật đâu phải sự thật. Đúng là mẹ tôi có xuống đò ca hát, không phải một lần với tay mật thám đang thụ lý hồ sơ cha tôi, nhưng chưa bao giờ ăn ngủ với hắn. Dì Ngâu đoan quyết mẹ không thất thân, ỡm ờ chịu đựng vuốt ve để đổi lấy bản án giảm khinh cho chồng. Dì dặn mẹ tôi hắn có đòi hỏi cứ nói mấy ngày ni chưa tắm rửa được. Phải sắm một lúc ba cái quần lót, hòa phẩm điều bôi vào đũng trong rồi đem phơi khô. Và những chiếc quần lót ấy do tay dì Ngâu khâu chết vào thắt lưng mẹ tôi mỗi lần xung trận. Cũng chính dì kiểm chứng mỗi đêm khuya mẹ tôi bải hoải về lại nhà. Phải dùng dao kéo cắt xẻ một lúc dì mới đẩy được người chị khốn khổ vào buồng tắm rửa kỳ cọ. Khi cha tôi trốn thoát khỏi tù, hắn vẫn đeo bám mẹ tôi, ra sức vẽ vời công lao cứu độ, và thêm lời lẽ đường mật ve vãn. Có chuyện con vợ thằng mật thám đánh ghen, vu vạ làm ầm ĩ cả khu phố giữa thanh thiên bạch nhật. Có chuyện cô tôi vụng dại mang tôi chữa cháy, lê la đầu đường cuối ngõ, vừa phát tán vừa cải biên dư luận những mong chấn chỉnh gia phong. Có chuyện mẹ tôi hứng chịu đòn thù của bầu đoàn gia tộc con vợ hắn và phải uổng cả chục thang thuốc mới hết rêm rã mình mẩy. Có chuyện xung đột dai dẳng giữa chị dâu em chồng và cô tôi phải quay về quê đầy ắp bi phẫn. Sau đó không phải vì xấu mặt, mẹ tôi bỏ Huế ra đi. Từ nhẫn nhục thành căm thù, người ta không còn thiết sống nữa. Mẹ tôi bàn với dì Ngâu cho độc dược vào rượu khử hắn. Và dì bí mật đi mua thạch tín. Việc bại lộ, dì Ngâu trốn về làng, mẹ tôi mang hai con vào đất Quảng, ngược lên Trường Sơn. Chị em xa nhau từ ngày ấy. Giọng thấm đẫm nước mắt, dì Ngâu đi sát bên tôi, có lúc dừng lại nghe ngóng, có lúc xen vào một ý nghĩ chợt đến, có lúc đồ đậm một chi tiết bấy lâu luồn sâu ẩn kín trong tâm can mình.
Len bờ xuống ruộng suốt bốn tiếng đồng hồ, may mắn chúng tôi không gặp một ai. Rưng rưng trong mỗi bước chân, tôi không thấy đường dài, không thấy vất vả và cả hiểm nguy.
- Đã về tới làng Thanh Thủy!
Dì Ngâu nói khẽ vào tai tôi khi qua khỏi con cầu khỉ bằng tre chon von lắt lẻo. Nơi đây trống trải, bờ bụi lấp xấp, gió gào réo chạy dài trên đồng vắng, ánh trăng chao lượn mặt sông như ngấn tuyết lăn tăn trên nền nhung lam. Chúng tôi men theo con đường đất nhỏ, một bên trơ vơ mấy vòm rớ chài, một bên nương bãi rơm rạ bạc thếch. Có lẽ hết giờ giao hoan, ếch nhái đã về lại hang, chỉ còn côn trùng rỉ rỉ kêu than.
- Ngày trước làng ni lúa tốt nhất tổng! Dì Ngâu cho biết. - Sau Mậu Thân những trận càn qua lại như cơm bữa, chính quyền hốt dân vào các khu dồn, chỉ một ít nghe theo Cách Mạng bám trụ, thiếu người nên chi đất đai hoang hóa.
Thì ra mình đang lần về phía trận địa. Tôi thầm nghĩ. Như một cánh bèo, tôi chỉ xuôi dòng, mong sao dừng lại một bến bờ, sau đó hẵng hay. Tôi tin mình sẽ vượt được. Phải bình tĩnh, liều lĩnh nhưng thận trọng. Đã vào sâu trong xóm mà vẫn lạnh, vẫn chưa có một biểu hiện sinh hoạt của người và vật.
- Ông Ne ở đây!
Dì chỉ tay về phía cụm nhà lụp xụp bè bè trong bóng tối. Nhưng hai lần một mình qua ngõ, dì vẫn không chịu vào. Nhìn kỹ, trong bờ rào và sau hàng cây thưa, có ánh đèn le lói dưới bóng chái đen kịt như một miệng hang. Chúng tôi nép vào hõm rào tối, bất chợt có tiếng chó sủa, tôi đảo mắt nhìn quanh, vườn tược lờ mờ. Đứng sát bên tôi, dì Ngâu bụm hai bàn tay vào miệng. Trong cảm giác rờn rợn, tôi biết chẳng có chó mèo nào gióng tiếng. Ngay tức khắc ánh đèn bên trong vụt tắt. Ám hiệu. Tiếng chó lại nhắng lên. Đèn bên trong sáng trở lại, cứ thế, không liên tục nhưng đến ba lần. Dì Ngâu mạnh dạn đẩy cánh cổng tre, băng ngang một giàn cây lá to bản rồi kéo tôi chui qua đòn ngáng ngõ chuồng trâu. Chúng tôi vào nhà theo một khung cửa mở hờ tối om và được một người không rõ mặt khép cánh ngay sau đó. Đèn sáng trở lại. Bên bếp lửa che khuất bằng một tấm cót, ông Phan Ne đón khách lúc nửa đêm. Có tiếng ho hen, tôi thầm đoán người vừa khép cánh đã trở lại giường và đang nằm nghỉ cách vách đâu đó.
- Vào làng có gặp ai không?
Ông Ne hỏi, rót nước vào hai cái chén.
- Dạ không! Dì Ngâu nói.
Ông nhìn thẳng vào tôi, lúc lắc đầu tóc bờm xờm, đẩy tới hai cái đòn, khoát tay mời. Dì Ngâu kéo tôi cùng ngồi xuống. Ông Ne cho thêm mấy gốc tre khô vào bếp.
- Thân tui cơ cực lại đàn bà, gặp cháu đương lúc nguy nan không cứu được phải nhờ anh chị!
Uống xong chén nước, Dì Ngâu chắp tay, lắp bắp.
- Chị yên tâm! Ông Ne nói. - Tưởng ai xa lạ, chớ anh ấy đã gởi, tui coi như người nhà!
Dì Ngâu xúc động, kéo vạt áo dậm mắt. Tôi bùi ngùi nhưng tinh thần có chiều êm ả. Người ông Phan Ne vừa nhắc là Bửu Dương, hai bên khác họ, chẳng rõ tình sâu nghĩa nặng với nhau thế nào? Đây là mấu chốt tôi cần biết. Quan hệ này sẽ đảm bảo an sinh những ngày phiêu bạt của người như tôi bây giờ. Có nên khai thác tìm hiểu bằng cách giả vờ thăm hỏi? Tôi phân vân.
- Anh chị tui chỉ lưu lại có hột máu ni…
Dì Ngâu nói, nghẹn khóc, bỏ lửng. Ông Ne đưa tay chận lại, nhướng mắt bảo dì không nên bi lụy.
- Anh ráng chịu gian khổ hé?
Ông động viên và tôi gật đầu.
- Đã ăn uống chi chưa? Ông hỏi.
- Dạ rồi. Dì Ngâu nói.
- Tốt! Theo tui!
Ông vỗ vai tôi, chống gối đứng dậy. Uống vội chén nước lá chát quéo lưỡi, tôi chẳng kịp có một tiếng chào dì, ôm túi xách theo ông ta lui vào một nơi không rõ ở đâu trong ngôi nhà tranh ẩm mốc.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Christiane

Re: Phiên Bản Tình Yêu (Vũ Biện Điền)

Postby bevanng » 28 Apr 2016

- Z.24
Cuộc sống trong hầm đất. Tìm hiểu quan hệ giữa chủ nhà với Bửu Dương.
Vô tình tiếp cận dật sử.


Tôi được đánh thức lúc đàn gà xuống chuồng. Đi tiểu đi tiêu và rửa ráy trong bóng tối lờ mờ, sương rơi lộp bộp trên lá trong vườn. Có lẽ dì Ngâu đã về trong đêm. Bà Nậy bày bữa ngay cái chõng tre mà tôi vừa rời khỏi, giục tôi ăn. Cơm gạo lức ăn với muối sống và ớt tươi giã nát, cay xé họng. Cuối bữa, ông Ne vào ngồi ở đầu chõng, trên tay cái ấm đất đen sì.
- Nhà không có mùng màn chi cả, anh ngủ được không? Ông hỏi.
- Đi đường mệt, cháu đánh một giấc chẳng biết trời trăng! Tôi nói.
- Ở thôn quê muỗi to và đói hơn thành phố!
Ông cười, lộ hàm răng thưa có cái đen sì sứt mẻ.
- Không sao, cháu chịu được! Tôi nói, nhớ lại lời khuyên đầu hôm của chủ nhà bên bếp lửa.
- Chi thì chi, mình xuống hầm cho yên cái đã!
Ông đưa bình nước cho tôi, ra hiệu mang theo túi xách. Tôi bỡ ngỡ nhưng không chần chừ. Bà Nậy dùng nón cời che đèn đi trước, tiếp đến ông Ne, tôi theo sau. Thoang thoáng mùi lá khô, mùi phân ải. Gió sớm se se, lan man, len lén cái lạnh muôn thuở của đồng quê lúc bình minh. Chỉ một đoạn ngắn, cả ba dừng lại mé bờ tre sát chuồng trâu không trâu. Ông Ne gập mình bấu vào đất, bà Nậy tắt đèn ngay, tôi ôm túi xách ngồi xuống. Khi lớp bủn được gạt qua bên, ông Ne nhấc nhẹ mặt nắp, lờ mờ hiện ra một miệng hầm nhỏ hình chữ nhật.
- Anh đã có khi mô ở lâu trong đất? Bà Nậy hỏi.
- Dạ chưa? Tôi thưa.
- Bước đầu hơi khó chịu. Bà nói thêm.
Tôi hiểu ý, ngồi im. Cho cái nắp qua bên, ông Ne chống tay vào mép biên, thòng hai chân xuống miệng hầm. Loáng một cái, tôi chỉ còn thấy cái chỏm tóc ngắn lấp ló giữa ô bóng tối đậm đặc.
- Đưa túi xách cho tui!
Một bàn tay ngoi lên, giọng ông khô khao chắc nịch. Sau khi giao túi, tôi nhìn theo không thấy gì. Bà Nậy vỗ vai tôi, ra hiệu. Tôi hiểu ý, làm đúng như cách ông Ne, cho chân xuống trước, dùng tay chống cử bổng thân thể, không để bộ phận nào chạm vào mép hầm. Đã chuẩn bị tinh thần, tôi vẫn không tránh khỏi cảm giác ngờm ngợp. Vừa xuống tới, tôi thấy có một luồng sáng nhỏ chẻ đôi và bầu không khí bao quanh âm ấm. Ông Ne nắm tay tôi đưa về cuối hầm.
- Nơi ni đã nuôi giấu nhiều cán bộ mấy năm qua!
Ông đẩy tôi ngồi xuống chiếc chõng tre dài thô kệch thấp chân, quét ánh đèn pin khắp gian hầm.
- Đây là chỗ đại tiểu tiện, đây là giàn treo thức ăn đồ uống, đây là mạch tăng giảm thông hơi… Anh có thấy ngột không? Ông hỏi.
- Dạ có. Tôi nói và căng mắt dõi theo.
Ông bước tới, dùng tay mày mò tăng độ thông thoáng. Tôi muốn áp cận học cách thức điều chỉnh lỡ khi một mình, nhưng không kịp.
- Lâu rồi sẽ quen, thấy dễ chịu dần! Ông nói.
Khi trở lại miệng hầm, ông trao đèn cho tôi.
- Đã xuống đây, ăn không ngồi rồi, nhàn không ra nhàn, nhã không ra nhã. Mới đầu chán lắm! Nhất cử nhất động đều do bên trên, không được tự ý hành động. Sơ hở, chỉ có chết!
Ông ngoái lui, căn dặn rồi dùng hai tay chống vào mép miệng hầm, rút người lên. Tôi chỉ thoáng thấy cái đáy nắp và nghe vài ba tiếng động lục cục, sau đó, tối tăm đến rợn người.
Để chấn chỉnh tinh thần, tôi vội bật đèn, lần tới chiếc chõng tre, ngả mình gối đầu lên túi xách. Ánh đèn hướng dẫn mắt tôi quan sát khắp nơi. Gian hầm cấu trúc toàn bằng tre, theo kiểu chữ A. Bao lần nghe nói, bây giờ tôi mới tận mắt. Ba cây to cặp lại theo lối chéo trả làm đòn dông, được chống đỡ bằng nhiều trụ. Hai mái tạo thành hình chóp cũng là tường bao che, đối xứng và đối trọng, đều tựa lên đòn dông, có vài hốc nhỏ được gia cố đặc biệt như tủ âm tường. Nếu ý tứ đứng ngay chính giữa, có thể thẳng người được. Sàn hầm rộng, ở cửa miệng có bệ cấp lên xuống giảm bớt độ sâu. Vẫn chưa nắm hết ngóc ngách nhưng ngại xài phí pin tôi tắt đèn, cuốn người dậy, lần mò rờ rẫm, thử xem độ bền và sức chịu đựng của từng cấu kiện. Loay hoay một lúc, người bắt đầu vã mồ hôi, tôi cởi hết áo xong cho vào túi xách. Nhân thể, tôi vớ lấy chiếc ấm, ngửa cố chậm rãi uống từng hớp. Ghi nhận đầu tiên, gần ba tháng qua, nay tôi mới thấy yên ổn. Và tôi đê mê với cảm giác ấy. Rồi tôi nghĩ tới thời gian trốn tránh không có hạn định. Phải sống thế nào đây? Tôi tự hỏi, năm trở lại, cố lắng nghe những gì vang vọng trong đất. Im khe. Điếc đặc. Thít chặt. Kín mít. Nghe khó thở, tôi biết vì sao và tìm đến chỗ thông hơi. Ở đây thoáng hơn chút đỉnh, người tôi trở nên dễ chịu, nhưng phải ngồi chò hỏ ngay trên bùn nhão. Ngẫm nghĩ, tôi dịch chõng lui về sau, nằm xuống. Tự dưng tôi thèm một cuốn sách, bất luận sách gì. Nhưng đèn đâu? Trong từng hơi thở đã nghe thiếu, lấy đâu đủ oxy để thắp, nếu có, chắc cũng không chong được! Tôi nghĩ đến bất hạnh của người mù và thấy mình thừa mắt.
Có tiếng động phía cửa hầm. Tôi bồn chồn lo lắng chẳng biết làm gì hơn ngoài việc trơ mắt nhìn tới. Một luồng sáng yếu ớt thốc xuống. Rồi hai chân người trần trụi đu đưa. Tôi nhẹ hẫng, thở phào, bật đèn. Ông Ne lom khom đi lại phía tôi, trên tay một cái mẹt tre.
Thấy chõng dịch chuyến khỏi vị trí cũ, ông gật gật đầu khen tôi sáng dạ, đặt cái mẹt xuống mặt giát, ra hiệu ngắt đèn. Luồng ánh sáng phụt tắt, tôi lờ mờ thấy ông đẩy cái mẹt về phía tôi, ghẻ mông vào đầu kia.
- Ăn đi kẻo nguội! Ông giục, tôi vẫn ngồi im.
- Anh với Bửu Dương là chi của nhau?
Ông hỏi, đẩy cái mẹt gần tôi hơn nữa.
- Khó nói lắm! Tôi than.
- Anh em bên nội, bên ngoại hay bạn bè?
Ông tăn măn tỉ mỉ.
- Không bên nào hết, ban đầu xa lạ, về sau là bạn, nếu khôn khéo ăn ở có thế là anh em, tiếp nữa là đối thủ. Lung tung lang tang thế đó nhưng cả hai chưa bao giờ muốn giết nhau!
Tôi nói sau phút đắn đo, ý tứ loằng ngoằng không biết ông Ne có nắm bắt được không.
- Quan hệ lằng nhằng kiểu đó, nên chi mấy lần lên phủ tui không gặp mặt cũng phải thôi. Ông nói.
- Rứa chú với anh ấy? Tôi liền khai thác trở lại.
- Tui hả? Tui với Bửu Dương nỏ bà con chi nhưng ân sâu nghĩa nặng. Chuyện vừa dài vừa xưa, nói ra biết có ai tin, cũng không chắc đúng trăm phần như thuở ông cha hai bên đã sống, không khéo lại mang tội gọt đẽo thêm thắt! Ông nói.
- Vậy cũng lùng bùng như bọn cháu? Tôi đoán.
- Phải mà không phải! Ông cười phì.
Trong bóng tối, tôi thấy người ông rùn xuống, bè bè, nhòe nhoẹt. Có tiếng động khẽ của thứ vải dày cọ xát. Rồi một ánh lửa bật lên trên tay ông. Bập phà mấy cái, ánh lửa phụt tắt, chỉ còn cái đóm đỏ bé tí vật vờ. Mùi thuốc lá khét lẹt.
- Ở hầm không nên hút… Ông nói. - Nhưng chuyện vãn mà thiếu điếu thuốc ngắt hơi lạt miệng lạt mồm!
Ông cáo lỗi phá lệ nhưng nhớ thắc mắc của tôi.
- Vào triều Hàm Nghi Hàm Ngại chi đó, anh biết ông vua nớ chớ?
Ông dừng phắt, hỏi tôi, e hèm thông giọng.
- Dạ biết! Tôi nói.
- Cả hai cố nội tụi tui đều làm quan, bên võ bên văn, ít khi đi lại nhưng quý trọng nhau. Năm Ất Dậu, (22) ông tướng Thuyết giục vua bỏ ngai vàng chạy ra Quảng Trị. Nhân lúc biến loạn, không biết vì răng cố tui là ngài Phan Công Hắc chẳng theo phò vua lại cùng em là ngài Phan Công Vá thừa cơ lén cắp mấy cái vò đựng vỏ sọ các vua Ngụy Tây Sơn đang bị cấm cố trong nhà ngục ở Tây Lộc, vượt sông băng đồng, mang về quê. Lạ! Động trời như rứa mà cả làng hưởng ứng, tìm cách mật táng, lập đền hương khói. Từ đó, làng có lệ không được ỉa trong đất thờ, sợ ô uế vua…
(22) Năm 1885.
Thoạt nghe, tôi nghi họ muốn bón phân trực tiếp cho ruộng đồng, nhưng không dám cãi.
- Tới hồi Đồng Khánh lên ngôi, phát hiện ngục thất bị cướp, chỉ dụ truy cứu can phạm. Hai cố tui bỏ trốn, dòng tộc nội ngoại kinh hồn bạt vía, họ Phan Công sợ vạ đổi thành Phan Văn. Đúng ra hai cố tui đều bị tầm nã, nhưng nhờ ngài tằng tổ của Bửu Dương lúc đó là tả tham tri hình bộ biến báo cho. Theo báo cáo điều tra của ngài tham tri, phấn dũng tướng quân Phan Công Hắc tòng vong theo vua Hàm Nghi, còn Phan Công Vá chết trong đám loạn quân đêm hăm ba tháng năm dưới mưa đạn của quân Pháp. Nhờ đó, cả hai can nghi coi như ngoại phạm. Sau khi vua Đồng Khánh mất, sợ uy linh chúa Ngụy Tây Sơn, không ai nhắc chuyện vò sọ và vụ án nữa. Nhưng với gia tộc bọn tui, đời đời chẳng dám vong ân. Hàng năm đến kỳ húy kị ngài tham tri, bất chấp nắng mưa, nội tui dành vài ba ngày, đưa người nhà theo lên tận phủ đệ lo việc cúng bái. Mặc cho bên quê bên dinh, bên bần bên phú, bên tiện bên quý, mặc cho thời cuộc đổi thay bên Cộng Sản bên Quốc Gia, bên theo Nga bên theo Mỹ, nề nếp ấy được truyền lưu đến đời cha tui và cả anh em tui…
Đóm lửa thuốc lá từ thấp vụt lên cao rồi lóe sáng soi rõ một phần khuôn mặt đen sạm khắc khổ của ông Ne. Thật giả khó xác định, nhưng chuyện khá ly kỳ, hấp dẫn. Thấm mỏi, tôi ngồi vào chõng, tiếp tục lắng nghe. Nhưng ông Phan Ne không kể nữa.
- Rứa chú có biết cố nhà ta mang được mấy cái vò sọ theo không? Nhân lúc ông bặp thuốc, tôi khơi tiếp.
- Không rõ! Ông nói. - Sinh thời, chú tui đoán chỉ có một, cha tui quyết là hai!
- Theo cháu, là ba! Nối lời ông Phan Ne, tôi bổ sung. - Tây Sơn có đến ba vua, Thái Đức Nguyễn Nhạc, Quang Trung Nguyễn Huệ và Cảnh Thịnh Quang Toản.
- Con Mơ nhà tui học hành chưa tới mô, nhưng mỗi lần nghe cũng cãi bừa như rứa!
Ông Ne lại rít thuốc.
- Cha tui nói hai là vì cách cầu ngói Thanh Toàn chừng vài trăm thước về phía đông có ngôi mộ đôi giả danh là mộ Lang Lại (23) Đại Vương. Trả ơn cho rái cá, vua Gia Long ban tước Lang Lại Đại Vương là chỉ phong chung chung do một sự tích xa tít trong Nam, cớ chi lại sắc lập ngoài ni mà có tới hai ngôi?
(23) Lang lại: loài rái cá. Chuyện kể thời lưu lạc trong Nam, thường bị quân Tây Sơn truy kích, một hôm Nguyễn Ánh, tức vua Gia Long về sau, dẫn tàn quân chạy trốn, qua một con sông gặp rất nhiều cá do rái cá bắt để sẵn trên bờ như chờ để tiến dâng. Vì sự tích dó, khi lên ngôi, nhà vua nhớ ơn rái cá nên phong Lang Lại Đại Vương.
Ông ngừng nói, đóm lửa thuốc cũng tắt.
- Thuở đó đi lại khó khăn, chú có biết hai cố nhà ta trốn nơi mô không? Tôi khơi gợi.
- Lúc sắp qua đời, cha tui mới tiết lộ hai ngài lánh về làng Mỹ Lợi, thay đổi họ tên, lưu lại đó, lấy vợ sinh con. Về sau, cháu chắt chi thứ lên ở Phú Cam và theo Công Giáo! Ông Ne nói.
- Bây giờ ngôi miếu đôi đó còn không? Tôi hỏi.
- Thời Ngô Đình Diệm, xã cho san bằng để làm trường tiểu học! Ông Ne nói.
Phía miệng hầm sáng hẳn, có lẽ bên trên ngày đã bắt đầu. Ông Ne vội vã đứng dậy.
- Nguội cả rồi! Một lần nữa, ông giục tôi ăn.
- Cơm gạo lức mà nguội thì cứng như đá!
- Dạ! Tôi nói, kéo cái mẹt về phía mình.
Ông Ne đứng dậy níu tay vào đòn dông, lần bước.
- Chú ơi! Chợt nhớ, tôi vội vói túi xách. - Mấy hôm nay lo lắng, cháu quên!
Tôi nói, chuyển bao đồ hộp qua tay ông.
- Anh Bửu Dương gởi biếu chú thím! Tôi bịa đặt.
- Thiệt quý hóa, đúng là của một đồng công một lượng! Ông hồ hởi đón lấy, quay lưng.
Gian hầm tối trở lại. Có lẽ ông Ne vừa đậy nắp.
Về lại chõng tre, tôi mò mẫm ăn trong bóng tối. Bữa cơm đã được đổi món, thay vì muối ớt, một dĩa rau muống luộc và một tô nước ruốc. Tôi chỉ biết có thế, vì sau đó, đầu óc cuốn theo mớ hoang sử ông Phan Ne vừa kể lại. Hồi ở bậc trung học, tôi có nghe một thầy giáo dạy sử đề cập chuyện trả thù của vua Gia Long sau khi diệt Tây Sơn, thống nhất đất nước và lên ngôi hoàng đế.
Nhưng thầy tôi chỉ dừng lại ở ngục thất cấm cổ, còn ba chiếc vò trôi nổi ra sao thì ông mù tịt.
- Trong số các em mai sau cỏ ai theo chuyên ngành sử, chớ quên nghi án này! Ông nói.
Có lẽ nghĩ mình tuổi già sức yếu, ngày ấy thầy tôi trăn trối, nhưng thuở đó chúng tôi không quan tâm. Bây giờ, bỗng dưng tôi không tìm mà gặp. Ăn không ngồi rồi, vô tình thâm nhập một nghi án lịch sử, dẫu chưa biết để làm gì, tôi muốn nắm bắt càng nhiều càng tốt.
- Tới khi đất nước thanh bình, nếu có nhà nghiên cứu tìm đến sưu tra, liệu chú có bằng chứng mà giúp?
Tôi hỏi khi ông Ne mang nước xuống và lấy mẹt.
- Có ngay thôi, nếu trời cho tui còn sống, không phải chỉ một ngôi mộ đôi! Ông quả quyết. Tôi vội chiếu đèn, xích lui dành chỗ cho ông ngồi vào chõng.
- Hai mươi lăm năm trước, hồi đó tui chưa có vợ, đang tham gia du kích xã…
Ông Ne nối tiếp câu chuyện bỏ dở.
- Ủy ban kháng chiến đóng ở miếu Văn Thánh nên bọn tui thường ăn ngủ ở đó. Một bữa Tây càn qua làng, nhân, lùng sục trụ sở ủy ban, một thằng Còm-măng-đô (24) tìm thấy cờ đỏ sao vàng giấu trong ruột tượng. Thánh thần mà cũng theo Vẹm! (25) Hắn rủa, rồi phang một băng. Tượng đổ, tan xác. Xế chiều, Tây rút đi, bọn du kích tụi tui mò về. Đương lúc dọn dẹp, phát hiện cốt sống tượng làm bằng một xâu tiền cổ. Đồng chí chủ tịch trước khi theo Việt Minh là thầy giáo trường Thuận Hóa, nhặt lên ngắm nghía rồi cho hay đây là tiền Quang Trung và khẳng định tượng thờ là tượng Nguyễn Huệ chớ không phải Khổng Tử như bấy lâu dân làng thường nghĩ. Thú thật, tụi tui dốt nát, cả trung đội du kích không ai biết chữ, nhưng gặp chuyện cắc cớ thì khó bỏ qua, yêu cầu giải thích. Ông nói xưa nay chưa từng nghe thấy ai dùng tiền làm cốt, lại nữa, nếu không phải Nguyễn Huệ cớ chi người tạc tượng gởi gắm tiền Quang Trung vào đó. Một chứng cớ khác, sau khi tận diệt kẻ thù, nhà Nguyễn hạ lệnh xóa sạch mọi dấu tích Tây Sơn, nếu các cụ tổ ta ngày xưa không có lòng lưu luyến anh hùng Nguyễn Huệ cớ chi dám âm thầm vi pháp. Nghe xong, dẫu biết do giặc phá nhưng du kích tụi tui sợ đến tái mặt, liền thu gom xâu tiền và xác tượng đem chôn, rồi xây một cái tháp vôi nhỏ bên trên. (26)
(24) Com-măng-đô từ tiếng Pháp Commando: Binh chủng biệt dộng người Việt thuộc quân đội Pháp trong chiến tranh xâm lược Việt Nam.
(25) Vẹm: phất âm hai chữ VM - viết tắt của Việt Minh.
(26) Chuyện “Ba ông Vò”: Thế kỷ 19, ở Huế rất nhiều người kể về “Các Ông Vò” bắt đầu từ một “lõi lịch sử” được sử sách triều Nguyễn ghi lại: “Mùa đông (1802), xa giá của vua trở lại kinh đô, cáo ở tôn miếu và dâng hiến các tù binh Tây Sơn (…). Mộ Nhạc, Huệ bị đào phá, thi thể đổ nát, nhốt sọ đầu vào ngục thất” (Đại Nam chính biên liệt truyện, q.30, t.55b).
Hoặc, “Đem hài cốt của Nguyễn Văn Nhạc, Nguyễn Văn Huệ giã nát rồi vất đi, xương đầu lâu của Nhạc, Huệ, Toản và mộc chủ của vợ chồng Huệ thì đem giam ở nhà Đổ Ngoại, đến năm Minh Mệnh thứ 2 đổi giam vào ngục thất, cấm cố mãi mãi” (Đại Nam thực lục chính biên, đệ nhất kỷ, tập II - sử học, Hà Nội, tr. 63).
Như vậy, 20 năm từ 1802-1821, đầu lâu các lãnh tụ Tây Sơn bị giam ở nhà Đổ Ngoại tức Võ Khố sau nầy, thuộc khuôn viên trường Đại Học Nông Nghiệp hiện nay. Từ năm 1822-1885 thì giam ở Khám Đường chung với những người mắc tội đại hình hoặc tử tội trước khi hành quyết. Khám Đường nằm phía tây bắc kinh thành ở giữa An Hòa và cửa Chánh Tây, chiếm diện tích chừng 100m x 60m.
Lính canh ngục kể rằng: “Trong Khám Đường có ba cái vò đậy kín, một nhốt sọ Nguyễn Nhạc, một nhốt sọ Quang Trung và cái thứ ba có thể là của Quang Toản. Cả ba vò đều bị xiềng và giam riêng trong những ngăn cách biệt ở nhà ngục, ngoài cửa niêm phong rồi cắt lính canh phòng cẩn mật, hàng tháng có một phái đoàn đặc biệt của triều đình đến kiểm tra. Ba chiếc vò được tù nhân tôn xưng làm “Ồng Vò”, còn những lính canh ngục gọi là “Chúa Ngụy”. Năm 1885, sau vụ binh biến ở kinh thành Huế, “Ba ông Vò” biến mất. (…).
Sự mất tích của “Ba ông Vò” trong những ngày biến động đã làm hẫng đi một sinh hoạt tinh thần, tình cảm và tín ngưỡng vốn có từ lâu của một bộ phận người dân xứ Huế (...) nên họ truyền rằng “Một trong ba cái sọ ấy đã hiện ra trong cung điện nơi vua ở, khi Đồng Khánh vừa nhận ra, chiếc sọ biến thành con mèo rừng. Đồng Khánh đưa súng lên (...) lập tức con mèo hóa thành con gà vàng, nhảy lên trên chiếc tủ, rồi biến mất. Sau đó, Đồng Khánh ngã bệnh, rồi chết giữa lúc tuổi mới 25 và mới làm vua 3 năm” (Nguyễn Đình Hòe, Notes sur les cendes des Tây Sơn dans la Prison du Khám Đường, BAVH.1914, tr.145 - 146)...
Từ lâu người dân Huế đã chỉ cho tôi (tức tiến sĩ Đỗ Bang) rằng - sau vụ binh biến kinh thành Huế 1885, có một nhân vật quan trọng trong triều đã trộm chiếc vò mang về hướng đông-nam kinh thành. Chúng tôi ngỡ người mang “Ông Vò" đã vào Bình Định, quê hương các lãnh tụ Tây Sơn, nhưng sau nhiều lần sưu khảo vẫn không thấy kết quả. Có người cho nhân vật đó ở làng Thanh Thủy Chánh (...), từng coi sóc ở Khám Đường. Từ 1997, đã nhiều lần tôi đi khảo sát ở Thanh Thủy Chánh và một số làng phụ cận thành phố Huế, nhưng chưa thể kết luận được. Chuyến chuyên khảo gần đây, vào tháng 3-1988, cho phép tôi thông báo một tín hiệu đáng lưu ý: Lúc còn sống, ông Trần Công Toàn (1880-1950) có thời làm lãnh binh, giữ vị trí thứ chỉ trong làng Thanh Thủy Chánh, từng kể: Sau vụ binh biến (...) hai ông Phan Công Hắc và Phan Công Vá đã cẩn thận “giải phóng" cái "sọ đầu" trong chiếc vò, đem để vào một thạp đồng mang về chôn ở làng Thanh Thủy, nơi chôn gần Miếu Đôi. Hai ông Phan Công Hắc và Phan Công Vá vì mang tội đưa sọ đầu Quang Trung về chôn, bị phác giác, vua Đồng Khánh đã ra lệnh xử tử hình. Con cháu họ Phan từ đó không được lót chữ Công nữa nên họ phải đổi thành Văn... Trong buổi tọa đàm với bô lão trong làng ở nhà thờ tộc Phan ngày 25-3-1988, chúng tôi đã xác minh lại truyền thuyết đó và được xem các bản tộc phả, gia phả có trong nhà thờ họ Phan. Có bản chép năm Thành Thái thứ 7 (1900), bản Duy Tân thứ 3 (1909), bản có phiên âm quốc ngữ, sao chép sau này (1952). Ở chi 2, phái II, của bản gia phả, thuộc chi phái của cụ Phan Văn Tế (70 tuổi) hiện nay là đời thứ 13. Bản gia phả ghi như sau. Đời thứ 8: Phan Tất Mâng có vợ là Lê Thị Lâu, sinh hạ: Phan Công Hòa, Phan Công Hiên, Phan Công Hắc, Phan Công Hiền, Phan Công Hảo, Phan thị Dư, Phan Thị Môn… Đời thứ 9 Phan Công Hắc cải là Phan Công Quý - Kinh kỷ Thủy sư Vệ Úy Cáo thọ Phấn Dũng tướng quân. Kỵ ngày 9 tháng 6 - Tam phẩm thục nhơn.
Như vậy Phan Công Hắc đứng vào hàng tam phẩm ở triều đình là tướng chỉ huy dội quân Phấn Dũng ở kinh dô. Chúng tôi không tìm thấy ông Phan Công Vá trong các bản gia phả, nhưng các cụ cho biết đó là tục danh của ông Phan Công Hiền. Trong gia phả ghi ông Hiền làm quan tam phẩm, kỵ ngày 19 tháng 3.(...)
Như vậy, chuyện kể ông Phan Công Hắc mang sọ đầu vua Quang Trung về chôn ở làng Thanh Thủy do một số quan chức trong làng đương thời truyền lại và việc ghi chép trong gia phả họ Phan khoảng 20 năm sau vụ binh biến kinh thành có điểm khớp nhau. Chuyện kể về ông Phan Công Hắc ở làng Thanh Thủy Chánh có liên quan đến chuyện kể về cái chết của vua Đồng Khánh.
(Đế Bang - Những Khám Phá về Hoàng Đế Quang Trung - tr.173-178, NXB Thuận Hóa, Huế - Tái bản lần IV)
Kể đến đó, như chợt nhớ ra điều gì, tôi chưa kịp hỏi vị trí và sự tồn tại của ngôi tháp, ông Ne đã vội lên khỏi hầm. Tôi lại một mình với bóng tối. Giấc ngủ trưa kéo dài giúp tôi vượt qua buổi chiều nhẹ nhàng. Tiêu tiểu xong, người vẫn bần thần, lại nằm dài ra, tôi nghĩ ngợi lan man như nối dài bực dọc trong lúc mơ màng. Thời điểm này bên trên đã dịu nắng nhưng bên dưới nhiệt độ tăng, người tươm tướp mồ hôi. Cố quên cảm giác nhớp nháp, tôi ôn lại những gì ông Phan Ne vừa cho biết. Quả thật giao tình hai nhà rất sâu nặng, quá hy hữu, hết sức đặc biệt! Vậy Bửu Dương chỉ đường và gởi tôi về đây không phải tình cờ, tùy tiện. Nhưng mục đích sâu xa của tay đại ủy an ninh quân đội là gì nhỉ? Đáo bỉ ngạn! Anh ta đã nói thế. Có đáng tin không? Cho đáo bỉ ngạn để đốn ngộ hay ngu xuẩn thả hổ về rừng? Đó là ý riêng của Bửu Dương hay chủ trương của nhà nước được coi là tiền đồn chống Cộng ở Đông Nam Á? Nếu riêng, tôi cắn cỏ ngậm vành tri ân cứu tử, bái phục một tâm hồn cao cả khoan dung đại lượng, dám làm dám chịu. Nếu chung, anh ta là thứ thâm hiểm, chọn tôi làm công cụ mang chíp điện tử phát sóng cho biệt kích theo dõi, săn lùng tung tích, rúc sâu vào sào huyệt đối phương. Nghĩ đến đó, tôi hốt hoảng dốc ngược túi xách, đổ vãi những gì tôi mang theo lên mặt chõng, soi đèn vào từng chi tiết. Chưa hết, tôi lộn ngược chiếc túi, rà mắt lên mặt bố phía trong, săm soi từng đường khâu. Chẳng có gì! Tôi khẳng định. Sau đó tôi ngồi im như phỗng, tâm trí rối như tơ vò.
Bất chợt cá tiếng động từ phía cửa hầm. Không khí bao quanh có phần giảm nhiệt. Tôi nhìn tới, không nhận ra cái ô khung chữ nhật tràn ngập ảnh sáng như mấy lần trước.
- Túi rồi, anh lên đi!
Giọng ông Phan Ne gióng xuống. Tôi trờ tới, đưa một tay qua khỏi miệng hầm, ông nắm lấy. Tay còn lại tôi chống vào mặt đất bên trên, rút người lên. Ngay sau đó, ông Ne giục tôi bước nhanh nhưng đưa đến một nơi khác trong ngôi nhà, khoảng trống sát bồ lúa. Tôi ở chung với mớ nông cụ thô sơ cuốc, cào, trang, liềm…
Bà Nậy mang mẹt cơm đặt xuống mặt đất, hai cái chén và hai đôi đũa. Ông Ne túm một về rơm khô lót đít, tôi cũng làm theo và ngồi xuống.
- Mạ mi đã kéo cổng chưa? Ông hỏi vợ.
- Rồi! Khỏi lo! Tui ăn phía trước!
Bà nói rồi đi ngay. Tôi hiểu bà vừa ăn vừa canh chừng. Trong ánh đèn tù mù, ông Ne xới cơm, mời tôi cầm đũa. Vẫn gạo lức, nhưng thức ăn phong phú hơn, ngoài hai món mắm kho, cà hấp có thêm thịt hộp. Ngon miệng nhưng tôi không dám ăn no, ngại thiếu phần. Sau bữa cơm, tôi muốn xuống hầm ngay. Ông Ne ngăn lại.
- Bọn Bình Định Xây Dựng Nông Thôn vừa rút đi, ta chỉ cảnh giác người nó cài đặt thôi! Ông nói. - Đêm nay anh được ngủ nhà.
Tôi yên tâm ngồi lại. Bà Nậy vào mang cái mẹt đi.
- Răng mà ăn ít rứa? Bà tỏ vẻ không bằng lòng.
- Cháu no rồi! Tôi nói vói theo.
Ông Ne rót nước, đẩy về phía tôi một chén.
- Tết Mậu Thân, từ mặt trận thành phố, bộ đội rút qua làng, bày cách cho tui làm cải hầm kiểu chữ A để tránh đạn bom, sau đó thì nuôi cán bộ, hết người nọ tới người kia! Ông nói.
- Trong số ấy cỏ ai quay lại không? Một tia sáng lóe lên trong đầu, tôi hỏi.
- Năm ngoái có vài ba người nhưng năm ni thì chưa! Ông nói.
- Nếu họ trở lại, chú giới thiệu và gởi gắm giúp để cháu được sớm về an toàn khu! Tôi cầu xin.
Ông ngồi im vấn thuốc. Thay vậy, tôi vắn tắt kể cho ông nghe việc tôi không hoàn thành nhiệm vụ, bị sa lưới, sau đó được Bửu Dương cứu thoát. Tuyến của tôi bị vỡ, đang cháy lan và đang trong tầm truy nã, có báo cáo nhưng trục trặc sao đó. Mong muốn của tôi bây giờ là cách ly điểm nóng càng xa càng tốt.
- Rứa Bửu Dương có yêu sách anh làm chi không?
Ông Ne hỏi.
- Không! Chỉ biết anh ta muốn cháu sống. Còn sống thế nào và sống để làm gì thì không nghe nhắc tới!
Tôi nói, dè chừng vì chưa hiểu hết ý ông ta.
- Con dòng cháu giống, anh ấy mang truyền thống của cha ông, kiến nghĩa bất vi vô dũng giả, lâm nguy bất cứu mạc anh hùng. (27) Cố nội tui không tuyệt tự cũng nhờ thứ máu đó!
(27) Thấy việc nghĩa mà không làm không phải là người dũng khí, gặp người nguy khốn không cứu giúp chưa phải anh hùng.
Ông Ne nói muốn chứng tỏ mình hiểu Bửu Dương. Tôi lắng nghe, hết nghi ngại nhưng không hoàn toàn đồng tình với chủ nhà. Bửu Dương không giản đơn, không dân dã, không bộc trực như ông Phan Ne hằng nghĩ. Ngoài nhân cách trong sáng, anh ta là một triết gia chính trị sâu sắc. Anh ta không lầm lẫn tôi, và ngược lại. Chúng tôi là đối thủ, không chung với nhau nửa bước. Chúng tôi đang đụng độ và tiếp tục đụng độ. Anh ta đã xác định mặt trận và đang thí điểm sách lược. Còn tôi, vũ khí đã ở trong tay, nhưng lý tưởng mơ hồ, chỉ được cái nhiệt tình sục sôi, dám lăn xả vào mục tiêu.
- Sau thời kỳ củng cố ở an toàn khu, cháu sẽ tình nguyện nhận công tác trở lại!
Thấy ông ta lừng khừng, tôi nói thêm.
- Được thôi! Nếu anh muốn bắt liên lạc ngoài tuyến để lên bưng càng sớm càng tốt tui cũng có cách.
Ông hứa.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Phiên Bản Tình Yêu (Vũ Biện Điền)

Postby bevanng » 28 Apr 2016

- Z.25
Vỡ mặt trận, Mơ ôm súng chạy về làng, mẹ đẩy xuống hầm,
Đầu lạ, sau quen, cởi mở tâm tình.


Ngay sau đêm ấy, ông Ne vắng nhà, bà Nậy thay chồng chăm sóc, giúp đỡ tôi. Về phần mình, chỉ vài hôm tôi đã thuộc nề nếp sinh hoạt mới và nghiêm chỉnh tuân thủ. Ban ngày ở dưới đất, ban đêm ở trên đất, không lệch đường đi nước bước. Ăn uống thấp hơn chế độ dinh dưỡng ở ký túc xá nhưng tôi không thấy thiếu thốn. Bà Nậy ít khi chuyện vãn với tôi. Hình như bà không nghe quen thứ giọng hơi nhòe và nhão của tôi.
Một buổi sáng tinh mơ, bà Nậy giúp tôi xuống hầm, chừng vài giờ sau, nắp lại được bật lên. Đột xuất, tôi vô cùng kinh hãi. Sau tiếng chạm đất của một vật rơi, nắp được đóng lại ngay. Đang lúc hồ nghi, từ cuối hầm tôi bấm đèn chiếu tới. Trong chùm sáng phân kỳ, một người con gái đội mũ tai bèo, áo bà ba nâu quần đen xăn tới gối, đi về phía tôi. Trời ơi, trong đất mà cũng có ma! Suýt nữa tôi đã kêu lên.
- Em là Mơ, con gái út nhà này!
Tới giữa hầm, cô ta nói, tháo nịt đạn máng lên đòn dông, ngồi xuống đầu chõng. Tôi vẫn bấm đèn chiếu tới, sau lưng cô ta tòn teng khẩu AK đen ánh.
- Mạ em nói đợt trước em về thăm nhà đi được ba hôm thì anh đến!
Cô ta chua thêm, vói ấm nước, ngửa mặt chúc vòi rót thẳng vào miệng. Tôi tin cô ta nhưng thắc mắc.
- Em đã quen bóng tối trong hầm, anh tắt đèn đi!
Uống xong, cô ta nhắc. Tôi làm theo, nghĩ đến từ nay phải chia đôi phần dưỡng khí hiếm hoi ẩm mốc. Một tiếng động khô khốc. Tôi đoán cô ta tháo súng đặt lên mặt chõng.
- Sao anh đứng mãi, không mỏi à? Cô ta nói.
Tôi lần mò ngồi xuổng. Thứ mùi cô ta mang theo không phải toàn mồ hôi khao nắng, cũng không hẳn rạ úng bùn chua, tôi nghe khen khét, hăng hắc.
- Anh có nhận ra tiếng súng bên trên không?
Sau một lúc cả hai đều im lặng, cô ta hỏi.
- Thoang thoáng! Tôi ra vẻ tập trung nghe ngóng.
- Em vừa đụng trận, hỏa lực của chúng mạnh khủng khiếp. Mẹ kiếp, đồng không mông quạnh!
Cô ta bực dọc tháo mũ lau mặt.
- Đã thế còn pháo chùm pháo chụp hạng nặng từ hạm đội (28) bắn lên với máy bay oanh kích từ Đà Nẵng. Hỏa lực du kích là thứ gãi ngứa, rứa mà thằng xã đội trưởng cù lần một mực vâng theo cấp ủy cứ bắt chúng em nằm lì, chẳng mấy chốc trung đội bị bao vây rồi ăn đạn, ngoại trừ em, chắc không còn mống nào sống sót!
(28) Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ thường gọi Hạm Đội 7.
Giọng Mơ tưng tức nghèn nghẹn.
- Mạ em bố trí cơm nước dự phòng cho anh chưa?
Tôi chưa kịp trả lời, cô ta nói tiếp.
- Nhổ chốt xong, thế nào chúng nó cũng tràn qua làng, rồi còn dừng lại cả buổi để lùng và diệt Vi-Xi.(29)
(29) Vi-Xi: phát âm theo tiếng Anh của VC. Viết tắt hai từ Việt Cộng.
Sau thông tin sốt dẻo ấy, tôi bớt xa lạ với Mơ nhưng nhận ra hiểm nguy đang cận kề.
- Đã vào hoàn cảnh này, anh cứ tự nhiên!
Cô đưa chiếc ấm qua cho tôi. Rõ ràng đánh đấm bám theo chân Mơ. Ngay lúc đó tiếng súng bên trên rõ hơn, mặt đất rùng rùng từng đợt. Tay cầm chiếc ấm, tôi lần về phía miệng hầm nghe ngóng một lúc rồi trở lại.
- Kiểu này chắc còn lâu mới dứt!
Tôi nói và nhận ra Mơ đã nằm vắt lên chõng.
- Chúng nó sẽ bất ngờ đụng phải quân chủ lực huyện đang ở tuyến sau bọn em!
Mơ vùng lên, xích tới đầu chõng tôi đang ngồi. Ngại suồng sã, tôi đứng bật dậy và đồ chừng.
- Có khả năng ta dùng du kích để nhử?
- Có thể! Nhưng chưa biết mèo nào cắn mỉu nào.
Mơ nói. Cả hai chủng tôi cùng im lặng, gởi hết tâm trí lên bên trên. Đất rung mỗi lúc một mạnh. Từng đợt pháo gióng giả.
- Chắc chúng có tăng viện! Mơ suy đoán.
- Làm sao biết? Tôi hỏi.
- Bọn Mỹ Ngụy rất nhát gan, quen đánh đấm theo kiểu nhà giàu, thấy ngang ngửa là chúng nằm chờ, gọi pháo với máy bay tới. Nếu cục diện diễn biến đúng như thế, mặt trận phải nằm bên kia cánh đồng, cách xa làng hai con hói với một đạc ruộng. Giờ như giã gạo trên đầu mình, nhất định tuyến ta đã vỡ.
Mơ bồn chồn, như muốn đội nắp mà lên trở lại.
Có tiếng thình thịch, Mơ chộp lấy súng. Cả hai chúng tôi đều lui về cuối hầm. Lúc này đất đã hết rung từng cơn, bên trên cũng không còn tiếng nổ vọng xuống.
- Chắc chúng nó đã vào tới và đang xăm xỉa.
Mơ nói, gạt tôi qua bên. Hai tay không, tôi vâng theo nhưng vẫn áp tai vào thành hầm. Tiếng thình thịch mạnh hơn. Tôi giật lấy súng và tranh thủ vượt lên trước.
- Em có thủ pháo không? Ngoái lui, tôi hỏi.
Mơ vươn tới vói đai nịt.
- Còn một quả! Cô ta nói.
Từ giây phút ấy, yên ắng trở lại. Chúng tôi vẫn kiên thủ chờ đón tình thế phải đối phó. Một lúc sau, bất chợt chúng tôi xấu hổ, choàng vai sát cánh mà chẳng có gì xảy ra.
- Chắc là qua rồi! Không biết mạ em ra răng?
Khỏa lấp bẽn lẽn, cô ta nói, vừa mừng vừa lo. Tôi cũng hùa theo. Nhưng cả hai không ngu đến mức nóng ruột đội nắp trồi lên lúc này. sống chết là do bên trên quyết định. Cái thứ tân tòng như tôi còn thuộc nằm lòng huống hồ Mơ. Cô ta ngồi trở lại chõng, súng và đạn để ngay trước mặt. Lâu lâu tôi chớp đèn quét quanh gian hầm. Cô ta vẫn ngồi im, ngước mắt nhìn trần.
- Cha em có ở nhà, thế nào chúng ta cũng nhận được tín hiệu! Mơ cho hay.
- Bằng cách nào? Tôi hỏi.
Mơ kéo tôi về phía thông hơi, cầm cái ống bằng vỏ lon sữa bò áp sát tai. Tôi hiểu, chợt nhớ trò chơi thông tin do thầy giáo bày sau tiết khoa học thường thức ở bậc tiểu học. Hai cái vỏ lon, một cuộn chỉ, chúng tôi có thể nói chuyện từ đầu ngõ đến cuối vườn.
- Ai bày ra cải chước này?
Tôi hỏi, tỏ vẻ phục người áp dụng. Mơ chỉ tay vào mình. Hiểu ý, tôi không dám manh động linh tinh.
- Không nghe chi hết! Cô ta than.
Tôi chộp chiếc ống, áp sát tai, chờ chực, mỏi ê cả người. Chúng tôi trở lại chõng tre, không còn sợ nữa, chỉ lo lắng. Không khí trong hầm nóng hâm hấp.
- Anh cởi hẳn cho mát!
Thấy tôi mở bớt mấy hạt nút áo, Mơ nói rồi tự mình cũng làm theo. Trên người tôi chỉ còn mảnh xà lỏn, còn cô ta chỉ có cái nịt * màu đen với chiếc quần xì. Ban đầu tôi hơi ngượng nhưng mấy phút sau không còn cảm giác ấy nữa, có lẽ do chỉ có hai người và vài lề thói cấm kỵ bên trên xuống đây hóa thành thứ yếu.
- Chú thím có cho Mơ hay vì sao anh trôi nổi về đây không?
Thấy đã tới lúc nói rõ với cô ta, tôi bày tỏ.
- Em có mấy khi ở nhà! Cô ta nói. - Ba bốn năm nay thoát ly, em ăn bờ ngủ bụi. Vừa rồi trung đội tan nát, em băng đồng chạy về làng rồi ghé nhà, mạ hoảng hốt đẩy ngay xuống đây.
Tôi biết thêm gia cảnh ông Phan Ne một tí. Họ nghiêng hẳn về phía Cộng Sản. Tốt! Tôi yên tâm.
- Nhờ Bửu Dương giới thiệu, anh từ thành phố về đây tá túc! Tôi nói và cố giảm nhẹ tình huống.
- Bửu Dương ở gần cầu Kho Rèn phải không?
Mơ hỏi, vui vẻ.
- Phải! Nhà ở bờ nam sông An Cựu. Tôi đồ thêm.
- Rứa anh có biết Diễm Thúy không?
Mơ ngồi xích lại gần tôi hơn.
- Có! Tôi nói.
- Diễm Thúy là bạn em! Mơ nói.
- Thế hả? Tôi sửng sốt.
- Chinh xác, một đứa là con gái chủ nhà, một đứa là kẻ ở trọ. Năm ấy chiến tranh chưa lan tràn, học hết cấp tiểu học ở xã, em lên thành phố thi vào trường nữ công lập Đồng Khánh. Nghe tin con đỗ, mạ em lo lắng đến bỏ cơm. Không nơi thân thích, biết tá túc nơi mô mà học với hành! Bà than thở cả lúc ăn lúc làm. Sau mấy ngày suy nghĩ, cha dẫn em lên phố, đưa đến gặp mẹ anh Bửu Dương. Cha nói cơm nước và các khoản chi phí em lo, chỉ xin chị chỗ nằm với sự bảo ban. Bà cười, nói xưa nay chật bụng chớ chật chi nhà! Chú về báo với thím như rứa, yên tâm mà lo cho cháu. Khóa ấy, Diễm Thúy cũng đỗ vào Đồng Khánh. Bà cho em ở chung phòng với con gái. Từ đó hai đứa thành đôi bạn. Chúng em thân nhau nhờ có những cái chung, Thích của chua, thích hát ca, thích xem phim tình cảm, thích ăn cay, ghét phấn son lòe loẹt, ghét mặc áo dài, ghét đi guốc cao, ghét thói đỏng đảnh. Nhưng chúng em cũng có lắm cái riêng. Nó nhu mì, ít nói, thâm trầm, còn em, mạnh mẽ, xốc nổi, thẳng tính, nó học hành chỉn chu, cơ bản, ý tứ, còn em, thích chi làm nấy, văn học với sinh ngữ thì dốt tệ!… Bốn năm sau, thi Trung Học Đệ Nhất Cấp, nó đỗ em rớt. Diễm Thúy vào trường Mỹ Thuật, em rút về quê với dự tính ôn tập để thi lại kỳ hai. Rồi chiến tranh mở rộng. Một người anh đi tập kết năm xưa trở lại hoạt động tại địa phương, hứa với mạ đưa em lên bưng rồi xin cho ra Bắc học. Nhưng do nhu cầu chiến trận, vừa tới huyện em được đưa đi thụ huấn khóa quân sự hai tuần, điều về bổ sung du kích xã, chủ yếu hoạt động ở địa bàn thôn.
Nắp hầm bật mở, chúng tôi vớ lấy vũ khi.
- Mạ đây! Giọng bà Nậy gióng xuống.
Không nghe chủng tôi lên tiếng, bà hỏi tiếp.
- Hai đứa có can chi không?
Đặt khẩu AK trở lại mặt chõng, Mơ lần về phía cửa, tôi men theo.
- Răng mà lâu rứa, tưởng có chuyện chi!
Giọng Mơ khao khao, bương bướng. Không nghe bà Nậy nói năng, chủng tôi yên tâm lên khỏi hầm.
- Làng có mấy người chết, mạ phải tới lo!
Đến hiên nhà, bà dừng lại ghé sát tai con gái.
- Cơm nấu rồi, hai đứa ăn trước!
Nói chưa dứt, bà đã dợm bước.
- Mạ! Mơ níu lấy tay mẹ. - Lỡ có đột xuất lấy ai đậy nắp hầm cho tụi con?
Bà Nậy quay lại vừa lúc tôi đi tới.
- Bộ đội ta rút lui, bọn Ngụy áp tới, mặt trận đã dời qua Sư Lỗ, Xuân Ố, Xuân Đợi.
Bà nói, vớ chiếc nón cời rồi lẩn ngay vào bóng tối. Tôi theo Mơ vào nhà. Đêm nay không ngủ hầm nhưng không được yên ổn. Làng vừa trải qua trận càn lớn, tất cả đang thấm máu và nhuốm mùi khói súng. Lẻn ra đầu hồi quan sát, tôi chẳng thấy gì ngoài mấy đám cháy le lói ánh lửa cỏn con, vết tích bom đạn tàn phá đã lắng chìm dưới bóng tối mênh mông.
- Anh ơi, ăn cơm! Mơ khẽ gọi.
Tôi lần xuống nhà dưới theo một lối đi hẹp xông mùi mốc rạ ẩm.
- Không ra biền hái rau được, em phải giật tạm mấy cái trứng gà đang ấp.
Mơ nói, dập lửa, bê cái chảo nhỏ đặt cạnh nồi cơm. Trong bóng tối, tôi lần tìm góc chạn lấy chén đũa. Bà Nậy vẫn chưa về. Chúng tôi ăn ngay ở bếp bên cây đèn hột vịt tù mù.
- Anh biết chi về Bửu Dương? Bất ngờ Mơ hỏi.
- Đã gặp nhau nhiều lần, từng đọc chung một bộ sách, từng đấu đá chính trị, từng đưa nhau đi trốn, từng ăn cùng mâm, từng ngủ cùng nhà, nhưng cho đến nay anh khó mà hiểu hết tay đại ủy ấy! Tôi nói.
Mơ cúi mặt như giấu một nụ cười.
Tôi thấy mình thành thật hơi lố và không đúng lúc.
- Đời em, có hai người đáng ra phải tường tận thì em mù mờ!
Có lẽ tôi không khớp khao, Mơ tìm cách hòa đồng.
- Đó là cha em và anh Bửu Dương! Mơ vói cái chén trong tay tôi. - Chẳng biết nước ở mô trên trời mà rơi xuống mãi và đất vì răng mà cứ lơ lửng giữa thinh không, nhưng cha em nhất quyết bảo vệ cả hai thứ ấy.
Không thể nói cho ai rõ đạo lý là chi, nhân nghĩa là chi, nhưng ông chẳng nề hà đội mưa gió và cả bom đạn lên phố đúng ngày húy kỵ ngài tham tri. Còn Bửu Dương, con vua cháu chúa mà không thờ vua kính chúa, học trường Tây mà không theo Tây, thông thạo văn hóa Anh - Mỹ mà không theo Mỹ, ăn lương quân đội Việt Nam Cộng Hòa mà không ngừng phê phán từ Ngô Đình Diệm tới Nguyễn Văn Thiệu. Thâm trầm như thế, kiêu căng như thế, khó tính như thế nhưng mỗi lần cha em lên tới, Bửu Dương hết mực ân cần, đón đưa tận ngõ!…
Do mong muốn được bảo đảm bình an trong ngôi nhà này, tôi rất thích nghe Mơ nói về mối quan hệ của ông Phan Ne với Bửu Dương, nhưng không dám dồn dập khai thác, sợ bị nghi. Tới lúc Mơ hết chuyện, không lẽ mình cứ cúi mặt ăn, tôi bắt sang đề tài vua Quang Trung và cái tháp tượng ở miếu Văn Thánh, nhưng cô ta chẳng biết gì hơn và không mấy ưa thích.
- Anh vào đảng chưa? Cuối bữa, Mơ hỏi.
- Đảng nào? - Tôi hỏi lại cho chắc.
- Đảng Cộng Sản í mà!
Cô ta nhấn nhá, ý cho tôi ngớ ngẩn.
- Rồi! Tôi nói.
- Em chỉ mới đoàn thôi mà đã đủ thứ bầm giập!
Mơ thở dài rồi tiếp.
- Lúc từ làng ra đi chúng em có mười một mống, nay chỉ còn ba, kể cả một đứa đã chiêu hồi. Lần học tập nghị quyết nào lãnh đạo cũng kêu gọi phấn đấu, thư nào anh trai em cũng dặn khắc phục khó khăn, nhưng khó nuốt quá. Nghe nói sau khi vào đảng, nhất là giai đoạn thử thách, phải gương mẫu và hy sinh hơn nữa. Chắc rồi em cũng có ngày tan xác như các bạn em thôi!
Tôi lắng nghe và im lặng. Hơn ai hết, lúc này tôi sợ phải chia xẻ thứ tâm tư lừng khừng bạc nhược. Trận đánh vừa qua hẳn khủng khiếp lắm. Và tôi không ngờ di chấn ăn sâu trong Mơ đến mức ấy.
- Anh có bao giờ không chịu chấp hành lệnh của cấp ủy? Mơ hỏi.
- Chưa! Tôi nói.
- Em thì đã và không phải một lần.
- Rồi có sao không? Tôi hỏi.
- Không sao, em khéo ngụy trang! Mơ giải thích.
Tôi lén nhìn vào nồi rồi ngừng ăn. Mơ cũng buông đũa. Hình như trời chuyển mưa, phía đông, lâu lâu loe lóe ánh chớp. Thinh không im ắng. Từ đầu hôm không nghe tiếng ếch nhái, mới tối mà như đã khuya lắm.
- Anh có bao giờ giết người chưa?
Đang dọn chén bát, Mơ hỏi.
- Chưa! Tôi nói.
- Em thì rồi. Mà không phải một lần!
Cô ta nói, giọng không vui.
- Tất cả chỉ là vì nhiệm vụ! Tôi an ủi.
- Chưa vấy máu, anh không hiểu nó khủng khiếp thế nào đâu!
Chiếc rổ nhỏ sút khỏi tay, một cái dĩa vỡ làm hai, Mơ ngồi bệt xuống đất nhưng không buồn nhặt.
- Năm Mậu Thân, hồi ấy em mới vào du kích, chúng em được lệnh tiếp quản tù và hàng binh từ mặt trận thành phố Huế. Tưởng là đưa về an toàn khu tuyên truyền, giáo dục, khai thác, ai ngờ lãnh đạo hạ lệnh bắn bỏ tất cả. Du kích chỉ năm ba tiểu đội, tù binh từng đêm dồn về hàng trăm hàng ngàn. Anh có biết phải xử lý thế nào cho đạt yêu cầu nhanh gọn không? Mơ đánh đố.
Ngày mới ra Huế, đó là đề tài nóng hổi, đi đâu cũng nghe chào xáo nhưng người kể chưa ai tận mắt hoặc là người trong cuộc. Bây giờ tôi chịu thua nhưng vẫn háo hức hóng chuyện.
- Giết lầm còn hơn bỏ sót, nghĩa là giết càng nhiều càng tốt, giết càng nhanh càng tốt, chỉ cần gọn nhẹ và ít tốn đạn! Mơ bật ngay đáp án.
Choáng ngợp, tôi tỏ vẻ không tin, cô ta cụ thể.
- Mỗi lần như thế, chọn một vị trí thích nghi trong trảng cát xa cách dân cư, bảo chúng sắp hàng, ổn định trật tự. Một cán bộ đứng ra giải thích cho chúng hay trước khi mở cuộc tổng tấn công nhà nước cách mạng đã lo liệu mọi mặt, nhưng do chưa chuyển đến vùng tự do nên mấy hôm nay các người cơm không có ăn, nước không có uống, và thiếu thốn bao thứ khác. Tình cảnh này phải sớm chấm dứt, bằng mọi cách các người sẽ được đưa về vùng tự do. Nhưng phương tiện vận chuyển không có mà từ đây tới đó còn xa, đêm nay phải nghỉ lấy sức, trong khi thằng địch cứ dùng máy móc điện tử bám theo ta từng giờ từng phút. Vậy nên, để đảm bảo an toàn sinh mệnh cho mọi người, đề phòng bọn Mỹ-Ngụy đột kích hoặc đánh phá từ xa, mỗi cá nhân phải tự đào hầm chống máy bay và pháo chùm. Nghe tới đó, tất cả tù và hàng binh đều phấn khởi tin tưởng, có kẻ còn xúc động đến rớm nước mắt. Cán bộ chỉ cần ra tay cởi trói cho một tên, sau đó, bọn họ hồ hởi tự cởi cho nhau. Chủng em dãn rộng giữ vòng ngoài, tên nào manh động bắn ngay tại chỗ. Bụng lép kẹp, cổ họng khô cháy, theo chỉ dẫn của một cán bộ, bọn họ hối hả múc cát bằng hai tay thành đường hào hình chữ chi ngoằn ngoèo nối liền nhau. Do yêu cầu đào sâu, mãi đến tận khuya mới xong, tay người nào cũng tứa máu, áo xống tả tơi, hơi sức gần như cạn kiệt. Đói lả, khát cháy, mệt phờ, nhưng chưa nghỉ được đâu, còn phải diễn tập nhiều lần trong tư thế hai tay bị trói. Bước sau cùng, khi đã thuần thục, cả hai bên đều vào cuộc. Du kích chúng em được lệnh chốt các vị trí gấp khúc và cùng phía để tránh bắn vào nhau.
Còn tù và hàng binh, bất luận dân hay quân, bất luận già trẻ, bất luận nam nữ, tuân theo hiệu lệnh báo động giả, xuống hầm trở lại, nằm úp mặt sát đất. Rồi thủ trưởng khoát tay phát lệnh. Mẹ kiếp! Trước đó mỗi đứa đã tớp mấy búng rượu cay mà vẫn run tay. Rồi súng nổ, nổ đồng loạt, giòn giã, không tên nào kịp ngóc đầu dậy. Ta chỉ tốn nước bọt và ít đạn, tự chúng đào huyệt chôn mình. Còn vùi lấp, bọn dân vận mỗi xã tự lo lấy, sơ sài thôi, vài ba hôm gió sẽ mang cát và các thứ rác rến tới phủ nhòa tất cả, khỏe re!
Kể đến đó, Mơ khóc.
- Hối hận à? Đợi một lúc, tôi hỏi.
- Một phần thôi, nhưng ức lắm! Cô ta gạt nước mắt. - Làm tốt như rứa mà trên cứ phê hoang phí đạn. Rút kinh nghiệm, lần sau tụi em xé lẻ chúng thành từng cụm nhỏ, trói gô bịt mắt, đưa tới miệng hố, bảo sắp vào vùng tự do phải ngồi chờ giao liên, rồi dùng bọng cuốc mà phang…
Bà Nậy trở về, tóc rối bù, mặt thấm đẫm mồ hôi, ngồi ngay vào mâm nhưng không màng ăn uống, bộ tịch khác hẳn ngày thường.
- Đến nước ni mà có người còn đòi truy điệu với truy hồn! Bà cằn nhằn.
- Có áo quan không?
Mơ hỏi mẹ, dùng cả hai tay quệt mắt.
- Chiếu cũng không đủ mà quấn nữa là!…
Vừa cầm đũa chén lên, bà đặt xuống, nhăn nhó.
- Đã khử bùn rồi, đã chà cả lá mỏ chó rồi, đã ngâm cả người xuống hói, cọ xát đến nát cả tay chân mà vẫn cứ tanh!
Bà đứng dậy khụt khịt, muốn hắt hơi mà ngắc ngứ.
- Mạ phụ trách liệm à? Mơ hỏi.
- Chỉ đặt nằm cho ngay ngắn thôi, có xác tan bành phải mằn mò ráp mới đúng đầu đúng chân!
Bà đi ra cửa.
- Đất cát không ăn thua, mạ phải chà bằng rau muống hoặc cỏ mực với tro bếp. Máu người kinh lắm, tanh hơn cả máu chó máu cọp! Mơ nói vói theo.
Đêm yên tĩnh. Nhưng trong lặng phắc ấy, tôi mơ hồ những hồn người lãng đãng kéo nhau đi. Tiếng gáo lịch kịch, tiếng nước xè xè từ đầu hồi vọng lại, lưa thưa năm ba tiếng nhái bén uất oắt. Người đi chôn người về lẻ tẻ âm thầm qua ngõ.
- Đáo bỉ ngạn!
Tôi chợt nhớ lời Bửu Dương.
Bờ bên kia là đây ư?
- Em đi tắm trước! Mơ nói! - Mạ mắc ăn, anh ra phía hiên ngồi canh cho em.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Phiên Bản Tình Yêu (Vũ Biện Điền)

Postby bevanng » 28 Apr 2016

- A.37
Tìm hiểu nguồn gốc đất nhà dì cháu Cẩm Bình đang ở.
Ký thêm họp đồng mới.


Từ tổng công ty, tan tầm tôi thẳng đến nhà Cẩm Bình. Thừa lúc dì cháu cô ta đi vắng, tôi thanh thản tản bộ quan sát khu vườn. Một mặt bằng được phân định ranh giới hẳn hòi, bốn bề rào giậu bằng những trụ gỗ cà chít (30) đã tới hồi rệu rã, kề liền là hàng bồ kết cách quãng rải đều, tua tủa những chùm gai nhọn như vành đai phòng thủ thứ hai. Có lẽ lúc khai cơ chủ nhân có kế hoạch lập vườn lâu dài, nửa chừng bỏ dở. Lác đác đây đó, còn lưu lại những thân cổ thụ từ thời hoang hóa, lòng thòng mấy dải thanh long và dây hồ tiêu. Khoảnh đất giữa nhà và giếng có lẽ là nơi dì cháu Cẩm Bình đang canh tác, có đám đã gieo trồng nhưng hoa mầu rặt một giuộc cằn cỗi. Đông lân, một lò gạch ngưng sản xuất từ lâu, vắng ngắt. Tây lân, một vườn rau ngăn thành ô luống trên nền đất xám lớp lớp tầng lá xanh, xen kẽ sắc hoa rực rỡ. Bích Thảo ở đâu nhỉ? Thấy cảnh, tự dưng tôi nhớ đến người. Theo lời Tường Vi, hai nhà cách nhau chỉ một bờ rào. Đêm đó cô bé cho hay sẽ băng qua vườn người ta để về nhà mình. Nếu thế, cái lối mòn kia phải quanh quất đâu đây. Tôi đưa mắt dò tìm, lưa thưa từng cụm ngũ sắc xanh thẳm, voi vói mấy cành thảo nhơn đang độ ra hoa. Hẳn Bích Thảo trú ở cái chòi gạch sát đường bên góc vườn kia. Còn cái lỗ ngõ tắt băng rào? Dọc ngang chẳng thấy vết tích. Có lẽ bấy lâu không qua lại, thiên nhiên đã lấp. Tôi mừng thầm. Sâu về cuối vườn, tôi men theo luống chè xanh thưa lá, bên kia hàng dâu tằm von vón, một bãi cát vàng trải dài tận bờ sông. Khám phá này khiến tôi thay đổi cảm quan nhận thức. Thực tại hoa lợi chẳng đáng bao lăm nhưng đây là cuộc đất lớn và đẹp. Thời buổi này, dẫu sẵn tiền cơ may tìm gặp cũng không dễ. Cảnh quan còn đẹp hơn nếu đầu tư xây cất đúng mức đúng tầm. Và, giá trị bất động sản sẽ tăng chẳng thua gì đất đai nội thị khi con đường hố trũng ngoài kia được san lấp chỉnh trang. Nghĩ vậy, tôi quay lui, vừa đi vừa đếm bước, ước tính các cạnh. Với diện tích hơn mười ngàn mét vuông, khu vườn như mảng rừng nguyên sinh còn sót lại ở ven đô, lô nhô gò nông, lủng lẳng phong lan. Ngôi nhà gỗ nhỏ chênh nghiêng nép mình giữa đám cây dại. Hẳn một thời, đất và người từng gắn bó nhưng nay rõ ràng sự nghiệp hoang phế đã đến hồi lụn tàn. Theo mỗi bước đi, tôi có cảm tưởng chân mình lay động đại ngàn đang khuất thân yên nằm ngoài cõi thế gian.
(30) Cà-chít, tiếng Bahnar: loại cây có gỗ rất cứng, chịu đựng mối mọt và cả nắng mưa.
- Cậu đến lâu chưa? Nghe tiếng người, tôi nhìn lên, hai dì cháu Cẩm Bình vừa xuống xe, lững thững qua ngõ. Có lẽ họ vừa ra chợ mua sắm về. Cẩm Bình trao giỏ xách cho Tường Vi, như nhắc mang trước vào nhà. Cô bé chưa chịu đi ngay, nhẩn nha, đưa tay vẫy chào khách. Mấy tuần rồi không gặp, trông cô bé cao hẳn, tươi tắn như có tô vẽ phấn son.
- Mùa mưa tới, tôi sẽ thuê người cày xới và khởi sự gieo trồng trở lại!
Cẩm Bình nói khi chúng tôi dừng bước ở sân.
- Để làm gì? Tôi hỏi, đưa mắt khắp khu vườn.
- Đất đai bỏ hoang uổng phí! Dầu thu hoạch không bằng người ta cũng góp chút ít vào sinh hoạt hằng ngày.
Cô ta tỏ vẻ tin lời mình nói.
- Làm nông ít vốn nhưng đòi hỏi sức khỏe và kinh nghiệm, không phải ai cũng đương nổi, đôi khi còn lợi bất cập hại! Tôi nói.
Cẩm Bình im lặng, không đồng tình. Tôi nói thêm.
- Thời dĩ nông vi bản đáng ra phải qua lâu rồi, các nước tiên tiến phất lên bằng con đường công nghiệp, xã hội chỉ cần một số ít làm nghề này và đạt năng suất rất cao. Riêng chị, trời sinh ra không phải để cầm cuốc.
- Vậy tôi phải cầm gì để mưu sinh? Cô ta hỏi, giọng nghẹn thắt.
- Cầm cân tiểu ly… Tôi nói, hơi đường đột vì ý nghĩ có sẵn trong đầu. -… không phải buôn vàng bạc mà cân đo đạo đức anh hùng lịch sử để chỉ cho thiên hạ thấy rõ chính tà.
- Bây giờ không ai trả thù lao cho người làm công việc khó khăn, nguy hiểm đó! Cô ta nói.
- Nếu có người chịu, chị có chấp nhận không?
Tôi nói đường đột hơn nữa nhưng rất chí tình. Mãi không nghe lên tiếng, tôi day qua, bắt gặp cô ta cúi mặt như sợ người khác đọc được những gì lộ trong mắt. Thấy vậy, tôi tảng lờ không biết lấy gì khuất lấp, vì đề xuất là một bức xúc lớn của thời đại và đã cứa mạnh vào tâm tư cô ta. Đã thế, ánh chiều như muốn khơi dậy u uẩn trong lòng. Tôi im lặng theo Cẩm Bình đến hiên. Lệ thường mời khách cùng vào, cô ta đưa tay khép cánh cửa vừa mở ra. Đã đặt chân lên thềm, tôi vội rút lại, đổi hướng. Ngay lúc đó, gió thổi mạnh, có lẽ trời sắp mưa. Khu vườn chuyển động. Lá khô lào xào chạy dọc theo hè. Ngôi nhà rên lên từng cơn. Tôi có cảm tưởng các loại vật liệu cấu kết đã tới hồi không chịu khắng khít nhau nữa. Xưa kia khuê các kín cổng cao tường, giờ sương gió phong phanh, hở hang tứ phía. Bất chợt lòng tôi chạnh thắt. May mà vườn rộng, cỏ cây rậm rạp chắn che, nếu không, khó qua mắt kẻ bất lương!
- Mời cậu! Cẩm Bình vừa thay xong bộ áo quần mặc ở nhà, mở cửa trở lại đón tôi.
Như mọi lần, cô ta thoắt đi đâu đó, dãn xa, dành cho tôi mươi lăm phút một mình quanh quẩn bên án thờ.
- Dì ơi, nước bình thủy còn nóng không?
Vừa đưa tay vén tấm nhiễu điều, tôi thoáng nghe tiếng cô bé.
- Để làm gì? Cẩm Bình hỏi lại.
- Cháu pha ca-cao mời ông ấy. Cô bé nói.
- Mời thì phải ướm thử khách có thích không đã! Biết đâu… Cô ta nhắc nhở.
- Thích mà! Cô bé quả quyết.
- Vậy thì pha đi! Nhưng sao cháu cầm chắc thế?
Cô ta hơi ngại vì cách võ đoán của cháu, cũng có thể tinh tế điều tra. Tôi không nghe Tường Vi lên tiếng. Có lẽ cô bé đã kịp phát hiện mình sơ hở. Coi chừng giấu đầu hở đuôi! Tôi cắm vội ba cây hương vào bát rồi quay ra ngay, Cẩm Bình đi lên, mang theo dĩa hoa quả và con dao nhỏ. Chẳng chờ mời, tôi tự động ngồi vào bàn.
- Có lần chị cho hay cơ ngơi này của người bà con xa bên họ ngoại?
Tôi hỏi, chợt nhận ra mình thiếu tế nhị, nhắc nhở hoàn cảnh ăn nhờ ở cậy của hai dì cháu. Nhưng Cẩm Bình không lộ xúc cảm nào.
- Cậu muốn biết hiện trạng pháp nhân vườn tược nhà này? Cô ta hỏi, chọn lấy một quả táo.
Tôi khẽ gật đầu. Cô ta nói tiếp.
- Bấy lâu dì cháu chúng tôi chỉ được tạm thời xử dụng và thực thi nghĩa vụ thuế, đến bây giờ chủ sở hữu đất nhà vẫn không có gì thay đổi.
Cô ta nói, mời tôi dùng táo rồi chọn một quả khác cho mình, không mấy quan tâm điều tôi muốn tìm hiểu.
- Nghĩa là thi hành nghĩa vụ không có quyền lợi đi kèm! Tôi cười.
- Ủy ban phường bảo nếu tôi không thực hiện đúng, chính quyền sẽ đưa đất này vào diện vắng chủ và nhà nước sẽ trực tiếp quản lý ngay. Sau đó, nếu muốn tiếp tục ở, tôi được ưu tiên họp đồng thuê lại.
Cô ta cau mặt rồi gượng cười.
- Thực tế bất động sản này vẫn là thứ động sản phất phơ phấp phổng, của một đằng người một nẻo.
Ngẫm nghĩ một lúc, tôi nhận định.
- Có thể! Cẩm Bình tán thành.
Cô ta cho hay hồi đó ứng vào thời điểm bỏ của chạy lấy người, chủ nhà làm giấy ủy quyền cho cô, nhưng chính quyền cách mạng không chịu chứng. Thấy trước khó khăn phức tạp, ông ta khuyên cô ráng bám trụ tới lúc nào hay lúc đó. Rồi chiều hôm trước trao chìa khóa cho Cẩm Bình, sáng hôm sau ông ta đưa vợ con vượt biên. Tuy gian nan vất vả phải đi bằng đường bộ sang ngả Campuchia, nhưng trót lọt. Hiện gia đình ông ta định cư ở Toronto, Canada.
- Từ đó đến nay ông ta có thư từ với chị? Tôi hỏi.
- Chưa bao giờ, nhưng không hẳn bặt vô âm tín, lâu lâu có nhờ người chuyển lời thăm hỏi! Cô ta nói.
- Ông ta đi, mang theo cả hồ sơ nhà đất?
Tôi tìm hiểu sâu hơn.
- Chắc vậy, ban đâu họ có ý giao trích lục cho tôi giữ, nhưng phút cuối bà vợ không thuận. Cô ta nói.
- Thế thì căng đấy! Tôi nói.
- Tôi không hiểu cậu đang vướng mắc điều gì?
Ngưng gọt táo, cô ta hỏi, đặt con dao vào dĩa, không giữ vẻ bàng quan nữa.
- Xa xôi cách trở thế nếu muốn thăm dò biết làm sao! Tôi nói.
- Ông ta còn người em vợ đang sống trong nội thị.
Cô ta nói, ngờ ngợ nhìn tôi.
- Chị hãy tìm gặp ông em ấy đi! Nếu được, nhờ hỏi xem anh chị ông ta có muốn sang nhượng cơ ngơi này không? Tôi nói.
- Cậu muốn mua ư? Cô ta hỏi, ánh mắt ngỡ ngàng.
- Vâng! Tôi nói.
- Chắc chắn họ sẽ bán vì nghe đâu nhà nước sắp ban hành lệnh thu hồi đất thổ cư vắng chủ. Nhưng cậu thiếu gì mà chọn nơi tồi tàn thế này! Cô ta thắc mắc, đẩy dĩa hoa quả về phía tôi.
- Đúng là tôi đã có đất, có nhà nhưng thiếu một nơi mà khi bước tới tôi muốn được thấy như mình trở về! Sau mấy phút đắn đo, tôi nói.
- Có cần hoang phí đến mức ấy không?
Cô ta nói, e dè đưa mắt nhìn vào trong. Tôi nhìn theo và thấy Tường Vi đi lên. Vẫn váy áo vừa xuống chợ về, cô bé khệ nệ chiếc khay nhựa màu trắng còn nguyên nhãn hiệu chưa bóc.
- Xin mời!
Cô bé đặt từng ly ca-cao nóng hổi trước mỗi chúng tôi, lèn chiếc khay xuống gầm bàn. Cẩm Bình đưa mắt theo dõi cô cháu không sót một cử chỉ nhỏ. Xong việc, Tường Vi cứ lừng khừng. Tôi đoán bà dì đang mong cháu sớm lui để chúng tôi khỏi gián đoạn chuyện vãn.
- Cháu ngồi lại có được không?
Bất ngờ Tường Vi rụt rè xin phép, Cẩm Bình chưa kịp lên tiếng, tôi đã đẩy chiếc ghế về phía cô bé. Cẩm Bình không ưng lối ứng xử ấy nhưng kín đáo che lấp bằng cách mời tôi dùng ca-cao.
- Biết dì kiêng ngọt cháu không pha mặn đường.
Cô bé nói, vuốt váy ngồi xuống, tự nhiên như không hay biết tâm trạng lấn cấn của dì mình. Tôi nâng ly ca-cao nhắp một ngụm, tỏ vẻ thích thú.
- Hình như ông đang bàn với dì em mua lại đất nhà này? Tường Vi hỏi.
Tôi không ngờ cô bé dạn đến mức ấy. Trong lúc tôi lưỡng lự, cô bé quay về phía dì.
- Cháu xin lỗi đã hóng chuyện, nhưng quả thật cháu không muốn…! Cô bé ngắc ngứ cúi mặt.
- Nhưng tôi và dì Cẩm Bình đã quyết…
Nhằm lôi cuốn đồng minh, tôi cố tình khiên cưỡng áp đặt Cẩm Bình vào sự đã rồi.
- Cháu không tin. Bàn bạc từ hồi nào mà quyết nhanh đến thế! Cô bé nói. Tôi bối rối.
- Đã ba tháng nay, những lúc cháu vắng nhà!
Cẩm Bình nói. Tôi gật đầu xác nhận, mừng thầm.
- Cháu sẽ không ở!
Cô bé phản ứng, bật dậy khỏi ghế.
- Mua xong tôi sẽ đập bỏ hết rồi xây dựng mới, sau đó, tôi cho dì cháu nhà cô thuê!
Nhằm xoa dịu mặc cảm nương nhờ, tôi nói thêm, nghĩ một khi nhà cao cửa lớn sẽ làm cô ta thích thú.
- Dì muốn thì ký nợ thẳng với ông ấy, lúc đó cháu sẽ xin sang ở nhờ nhà chị Thảo!
Cô bé nói từ tốn nhưng lạnh và đanh, giận dỗi nhưng vẫn đứng yên tại chỗ. Tôi quyết chắc đây không phải đòn hù dọa, cô bé sẵn sàng liều lĩnh và bất chấp hậu quả. Tôi thầm nghĩ. Có nên hoãn lại chờ cơ hội? Tôi tự hỏi, đưa mắt cầu cứu Cẩm Bình. Có lẽ sau khi nói đỡ cho tôi, Cẩm Bình không ngờ Tường Vi phản ứng thái quá. Đang tâm trạng tiến thoái lưỡng nan, cô ta nâng ly rồi tần ngần hạ xuống. Nhìn phong thái ấy, tôi nghĩ Cẩm Bình đang tìm kiếm đối sách. Tường Vi vẫn lầm lì kiên định. Đã một lần may mắn vượt qua, hôm nay có Cẩm Bình hỗ trợ từ đầu, tôi tin tưởng. Dầu căng thẳng bồn chồn, tôi không nao núng, thanh thản nhâm nhi ca-cao. Cẩm Bình vói vít tay Tường Vi chỉ chiếc ghế vừa bỏ trống. Cô bé miễn cưỡng ngồi trở lại. Thuận tay Cẩm Bình nắm một gié tóc của cháu, mân mê.
- Nhà có chanh với bồ kết, không nên dùng thuốc gội có sẵn. Cô ta nói, tỏ vẻ chăm chút.
- Dạo này bận học… cháu không rảnh!
Cô bé chống chế.
- Lợi được thì giờ nhưng có ngày hư tóc. Cô ta cảnh báo Tường Vi rồi day qua tôi.
- Cậu có mang thuốc lá theo, cứ hút tự nhiên!
- Cám ơn! Tôi nói, rút gói thuốc và hộp quẹt đặt lên bàn. Cẩm Bình chọn một quả táo ém vào tay cô bé.
- Nghe nói đất nhà này, ông chủ mua lại của một người lên cao nguyên từ hồi trước Cách Mạng tháng 8. Coi như chẳng có gì hệ lụy vướng cản.
Mấy phút sau Cẩm Bình trở lại chuyện đất cát.
- Xây cất bằng vật liệu thô sơ, thế mà nhà đã tồn tại hơn năm mươi năm, tất nhiên nó sẽ sụp đổ nay mai. Và ngay tức khắc, chính quyền sẽ nhanh tay thu hồi đất, vì bấy lâu họ chỉ chờ ngày đó.
Cô ta chỉnh thế ngồi, nói riêng với cô bé.
- Cháu quá biết mười ba năm qua chúng ta không đất không nhà, hiện nay không có khả năng sửa chữa hoặc thuê mướn nơi khác, khi chính quyền buộc phải đi.
Cô bé lắng nghe, ngước mắt nhìn lên mái nhà. Tôi nhìn theo và phát hiện thêm mấy chỗ ngói thủng.
- Hãy nhớ lại, có phải dì cháu ta đã trải nhiều đêm mưa gió, dẫu đã dịch chuyển giường chiếu đủ cách vẫn không có chỗ đặt lưng, đành chịu ướt, thức trắng! Có phải từng năm vào mùa bão lụt, dẫu cố đỡ trong chống ngoài, dì cháu ta vẫn phải chui xuống gầm giường nấp lánh chẳng khác chó mèo ở gầm chạn? Và lâu lâu, ông tổ trưởng cứ ngang nhiên đưa cán bộ địa chính đến thăm dò, đo đạc, mỗi kỳ khoác lác một lý do như ngầm thúc chúng ta phải nhanh chân cuốn gói ra đi!
Cẩm Bình nghèn nghẹn không nói hết, dùng tay áo thấm mắt. Tôi đưa chiếc khăn nhỏ, cô ta cầm lấy rồi đặt xuống mặt bàn. Tường Vi thương xót nhìn dì, xìu mặt, mím chặt môi. Vượt lên xúc cảm chợt đến, Cẩm Bình hồi phục dần dần, dùng dao chậm rãi gọt táo. Cô bé có vẻ xiêu lòng, tôi mừng thầm, bước đầu tạm ổn. Kết thúc sẽ thế nào đây? Tôi nôn nóng.
- Vậy là ông muốn em ký thêm một hợp đồng nữa phải không? Tường Vi quay lại xẵng giọng hỏi riêng tôi.
- Phải! Tôi cười chứng tỏ đã nghĩ kỹ và sẵn sàng.
- Chắc điều kiện còn khe khắt hơn trước?
Cô bé muốn tôi xác định.
- Không! Chuyện ở không nặng nhọc như chuyện học, sinh hoạt bình thường như đã bình thường, nhưng nhà cửa được cải thiện sẽ thoải mái hơn, không còn tai họa treo lơ lửng trên đầu, không có ai qua lại hăm he.
Tôi đoan chắc.
- Nội dung thế nào? Cô bé nôn nao.
- Thuê mướn em sống cho tôi với giá khá cao.
Tôi khẳng định.
- Thật không? Cô bé sửng sốt hỏi.
- Thật! Mua đất làm nhà chỉ là bước khởi đầu.
Đã mở, tôi không còn gì phải ngại.
- Do đâu ông sáng chế những thứ hợp đồng kỳ lạ và cứ muốn áp đặt lên em?
Cô bé mở đôi mắt lớn cau có nhìn tôi.
- Đơn giản, vì tôi là người phải sống không giống như mình mong muốn! Tôi nói.
- Đột ngột quá em chưa cụ thể nó thế nào. Nhưng với người khôn khéo như ông, rồi hợp đồng sẽ trở nên hiện thực thôi!
Biết cô bé nghĩ xấu về mình, tôi không lên tiếng cải chính.
- Về phần em, nợ cũ chưa biết ngày nào trả xong, nay lại thêm nợ mới, làm sao!
Đặt trở lại quả táo vào dĩa, cô bé đứng thẳng dậy, thảng thốt quay quắt như một bà cụ non đang rối việc. Cẩm Bình ngước nhìn cháu, mỉm cười. Tôi nhìn theo.
- Phải sống hai cuộc sống cùng lúc, phiền ghê! Cháu thấy không có lối thoát, thôi, tùy dì!
Cô bé than rồi cúi mặt đi khuất vào sau màn.
Ngại ở lâu Tường Vi sẽ đổi ý và phản ứng, tôi bước hẳn ra hiên, đứng nhìn lên trời chưa về ngay. Lúc ba chúng tôi nói chuyện, gió đã mang mưa đi nơi khác. Cây trong vườn đứng lặng dưới ánh nắng xiên xiên. Bên trên, một vòm xanh cao vút, mây và chim cùng bay về núi. Rừng bao quanh vùng dân cư như một đai xanh, xa xa chóp núi lô nhô từng quãng chẳng khác những pháo đài trên vạn lý trường thành. Bây giờ tôi mới nhận ra thị xã nằm giữa một thung lũng đại ngàn được thiên nhiên an bài phòng ngự từ thuở hồng hoang. Vì thế, tuy hội đủ đặc tính của cao nguyên lại cho ta cảm quan của một bình nguyên. Và cõi đất trời bình nguyên có khí hậu hao hao miền ôn đới ấy bấy lâu yên nằm theo giấc ngủ mơ màng của cao nguyên. Tôi tin một ngày kia, khi những con đường ngang qua, khi lưới điện kéo tới, khi nhà xưởng mọc lên, nó sẽ thức dậy vươn vai thay da đổi thịt… Tự dưng tôi phát hiện mình đang mơ giữa ban ngày, cho đến lúc Cẩm Bình theo ra tiễn khách.
- Chị gắng giúp tôi? Chợt tỉnh, tôi van xin, rất khẽ.
- Cậu không nhận ra ư? Cô ta hỏi.
- Có. Nhưng vẫn chưa đủ! Tôi nói.
Cô ta ngẫm nghĩ một lúc rồi gật đầu.
- Vậy từ nay, chúng ta khỏi lo trống đánh xuôi kèn thổi ngược nữa? Tôi muốn được cô ta hứa.
- Tạm thời như thế! Cô ta nói.
- Cảm ơn! Rất cảm ơn! Tôi run giọng.
- Thôi, cậu về! Cẩm Bình nói và dừng lại ở thềm.
- Còn gì không ổn, tôi sẽ thuyết phục con bé!
Yên tâm, tôi chào từ biệt, đi dọc theo một lối nhỏ đến chỗ dựng xe bên dưới tán cổ thụ gần cổng vào.
- Ông tổng giám đốc ơi!
Nghe giọng quen, tôi quay lại. Tường Vi chân đất, từ sân giếng băng qua đám cỏ tranh lao về phía tôi.
- Anh ơi! Cô bé đổi cách xưng hô khi đến gần.
Tôi đứng chờ. Bên trong, Cẩm Bình nhìn ra sau cánh cửa sổ mở hờ. Trong bóng chiều êm ả, cô ta đưa tay lên như nhắc nhở thận trọng với con bé. Tôi cũng đưa tay lên biểu tỏ đã tiếp thu. Rồi cô ta cười, cánh cửa từ từ khép lại.
- Ông ơi! À, anh ơi, chưa xong đâu!
Cô bé dừng trước tôi, ngực phập phồng, liêu xiêu. -Em muốn gặp…
Vừa thở vừa nói, cô bé hút cả hơi.
- Chuyện gì? Tôi hỏi, ngài ngại.
- Nhưng không phải lúc này… Cô bé đặt tay lên ngực, ngay chỗ hở do một hạt nút cài không đúng khuy, như muốn dằn xuống nhịp thở. - Ngày mai chủ nhật, tối nay em muốn gặp riêng anh tại nhà.
- Không được! Tôi nghiêm giọng gần như quở mắng một yêu cầu thái quá.
- Biết mà! Đang hớn hở, cô bé vụt thụng mặt, chúm môi. - Chị ấy nói không sai!
Thoáng nghe, tôi nghi đã có dây dưa trở lại với Bích Thảo. Nhưng cô bé tảng lờ không muốn chuyện vãn nữa, quay lưng về phía tôi để lộ cần cổ trắng nõn và chân tóc đen xanh ngay chỗ rẽ đường ngôi.
- Chị nào? Bước đến đón đầu cô bé, tôi xuống giọng.
- Chị ô-sin nhà anh ấy mà! Chị gì nhỉ? Cô bé khẽ vỗ tay vào trán. - À chị Liên! Đào Thị Liên!
Sực nhớ, cô bé nói, ngước mắt lên trời dáng vẻ phớt tỉnh nhưng bộ tịch chưa muốn rời đi. Thì ra không như Liên cho hay, không như tôi tưởng, họ có quan hệ khá khắng khít. Tôi đánh giá dây dưa này có khả năng rối rắm ngang tầm quan hệ với Bích Thảo.
- Chị ấy nói gì? Tôi hỏi, lo lắng theo hướng khác.
- Hôm kia gặp nhau ở chợ, chị ấy nói bà xã anh từ Sài Gòn mới về. Cô bé chợt im.
- Thì đã sao? Tôi thốc tới.
- Anh sợ bà ấy hơn sợ cọp nên cấm cửa em.
Cô bé tỏ vẻ cay độc thích thú.
- Đúng bà ấy về, nhưng đã đi Hà Nội rồi! Tôi nói.
- Hay nhỉ! Nhà anh như sân bay, vợ anh chẳng khác phóng pháo cơ! Cô bé ví von đến lạ.
- Thật không? Tôi cười.
- Oanh kích khắp nơi, mỏi cánh chị ấy về nghỉ, tái nạp năng lượng, rồi lại đi! Cô bé nói.
- Có thể là như thế! Tôi nói.
- Vắng bóng cách hình mà vẫn hãi, ấy là sợ hơi!
Cô bé thích thú châm chích, mắt môi lúng liếng.
- Thôi, thế này! Sau mấy giây suy nghĩ và cảm thấy an toàn, tôi nói. - Tối nay, chín giờ nhé! Nhưng trước đó phải báo cho dì Cẩm Bình hay.
Tôi định hẹn sớm hơn nhưng muốn tránh mắt Liên. Từ khi vì ghen tức để bọn lưu manh đột nhập vào nhà, chị ta đã mất một phần niềm tin ở tôi. Nay lại bắt sang cô bé, có nên cho chị ta nghỉ việc? Một lần nữa, tôi phân vân. Quyết định như thế có nghĩa cắt sinh kế, dồn một người đến bước khốn cùng. Chị ta vì nông nổi tình cảm mà bất nghĩa, liệu mình có nên bất nhân? Vậy tìm ngay cho chị ta một chỗ khác, chẳng hạn tạp vụ ở một công ty? Trên đường đi, tôi mãi đắn đo nhưng không có chọn lựa nào dứt khoát. Có lẽ phải tranh thủ ý kiến của Mơ, dù sao chị ấy cũng là người do cô ta đưa về.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Christiane

Re: Phiên Bản Tình Yêu (Vũ Biện Điền)

Postby bevanng » 29 Apr 2016

- A.38
Yêu cầu nghiệm thu có thưởng.
Thân dáng của nụ và hoa.
Cung cách của cá và ngựa.


Chiều xuống rất nhanh. Ánh mặt trời vừa tắt, không khí chớm lạnh. Không rề rà, tắm rửa xong, tôi ngồi ngay vào bàn, ăn uống qua loa. Nghe nói có đoàn văn công trung ương vào biểu diễn ở sân bãi lộ thiên, đêm nay khai mạc, có lẽ vì thế người đi lại ngoài đường khá đông. Lâu lâu Miki ra ngõ sủa nhắng một lúc rồi chạy lui vườn sau. Mỗi lần như thế, tôi lại nhìn lên đồng hồ treo tường. Thấp thỏm, nôn nao nhưng tôi bình tâm uống trà, đọc báo. Tường Vi vẫn chưa đến. Tôi lẩn thẩn ra hiên, nhìn lên đầu dốc. Miki từ vườn sau trở lại, theo sát chân chủ. Tôi vào nhà, đưa radio (31) xuống phòng khách. Nghe hết buổi phát thanh tối của đài BBC, tôi tìm đài VOA. Có tiếng động bên ngoài, tôi độ chừng Tường Vi tới. Không nghe Miki húng hắng như thường khi. Tắt radio, tôi lần ra hiên rồi bước xuống khoảnh sân nhỏ.
(31) Radio, tiếng Pháp: máy nhỏ vô tuyến thu-phát thanh, miền Bắc gọi là đài, miền Nam gọi là la-dô, đọc theo giọng người Hoa.
- Suýt nữa em lầm ngõ nhà người ta! Cô bé lò cò dựng xe bên một chậu mai cảnh.
- Sao vậy? Tôi hỏi.
- Mấy lần trước chỉ một bóng đèn mờ, hôm nay tiền sảnh sáng rực như nhà có lễ hội.
Cô bé nói, tháo túi xách cầm tay, bộ tịch chững chạc như người lớn. Tôi nhìn lên mấy bóng đèn chiếu sáng ở ban công rồi đưa xe đạp cô bé vào ga-ra. Đang đi sóng đôi, ngang qua cửa cô bé tách vào nhà.
Tắt hết đèn chiếu sáng bên ngoài, tôi vội quay lại, theo chân cô bé. Qua khỏi phòng khách, cô bé đi đứng nhanh nhẹn, tự tin và tự nhiên hơn. Thoắt một cái, cô bé phóng lên cầu thang, thuần thục như người nhà. Cũng may tôi mở sẵn cửa và chong cả đèn gian phòng trước đây, tin chắc cô bé sẽ tự đến đó. Tôi xuống bếp, dùng soda (32) pha hai ly cocktails, (33) tránh không đụng giọt rượu nào. vẫn thấy tiếp đãi quá đơn sơ, tôi lấy thêm hộp bánh nhân mặn, cho tất cả vào khay. Khi lên tới, gian phòng trống trơ, cửa mở hờ. Tôi nhìn chiếc túi xách xẹp lép vắt lên đầu giường. Lẽ nào lại bỏ trốn? Tôi đứng im, cảm thấy hành tung cô bé khó hiểu. Thoáng nghe tiếng nước trong toa lét vọng lại, tôi thầm đoán cô bé đang tắm gội, có thể ở nhà giếng đột ngột tắc mạch, nước nôi khó khăn và thiếu tiện nghi. Bất chợt bên dưới Miki cắn sủa nhặng xị, tôi lại xuống lầu. Một toán bộ đội hành quân qua ngõ. Tôi khóa cổng rồi lui vườn sau, săm soi, cảnh giác. Ánh trăng thượng tuần phớt nhẹ trên hoa lá, thoang thoáng mùi hương dạ lan. Khi đi ngang bộ bàn đá, tự dưng tôi có ý đưa Tường Vi xuống đây, thong dong vui chơi dưới mái nguyệt đình, hòa cùng thiên nhiên cỏ cây mây gió. Phấn khởi, tôi mở đèn chiếu dọc lối đi, trở lại lầu hai. Căn phòng nhỏ vẫn im phắc. Không còn tiếng nước róc rách, đèn trong toa lét đã tắt.
(32) Soda, tiếng Pháp, tiếng Anh: nước uống không màu có ga, sủi bọt.
(33) Cocktail, tiếng Pháp, tiếng Anh: nước uống có pha thêm rượu tinh chất, nước cốt trái cây, và những thứ khác gia giảm tùy sở thích người dùng.
Trong tĩnh lặng ấy, tôi bắt gặp cô bé nằm dài trên giường, khép kín hai chân, dang rộng hai tay, một tấm khăn trắng vắt qua người, đôi mắt to nhay nháy mời gọi pha lẫn nhí nhảnh thách thức.
- Ông có biết?… À, không phải! Anh có biết vì sao đêm nay em đến đây không?
Cô bé vẫn nằm bất động lên tiếng. Trò quỷ này chắc do Bích Thảo bày vẽ? Tôi thầm nghĩ con yêu tinh xúi khôn xúi dại thế nào, cô bé đang trong nhà mình, không việc gì lo lắng. Nhưng đương nhiên không biết, cũng không muốn biết. Cô bé kéo túi xách kê cao đầu.
- Là thế này, em đến để hai bên cùng nhau bàn bạc, rà xét quá trình hợp đồng!
Cô bé cười, đôi mắt long lanh đến lạ.
- Bàn bạc mà ngơ ngẩn thế a? Còn rà xét, có trở ngại gì đâu! Tôi khẽ gắt.
- Chỉ có hai người, nằm ngồi sao chả được! Còn rà xét, đã là hợp đồng, sao không vướng mắc! Cô bé nói.
- Thôi được rồi, vậy cũ hay mới?
Tôi hỏi, độ chừng rắc rối do việc mua đất.
- Mới đã ký đâu, cũ đấy!
Tường Vi nói, cười rất tự tin. Tôi yên tâm bước tới ngồi xuống mép giường, cách cô bé một tầm với.
- Thời gian qua, anh bên A, có thực hiện đúng hợp đồng không? Tường Vi hạch hỏi, lịch lãm như một tay quản lý giàu kinh nghiệm.
- Có! Tôi nói ngay.
- Còn em bên B’, thì sao? Tôi chưa kịp có ý kiến, cô bé nói luôn. - Ai đời ký rồi phó mặc, phải nghiệm thu từng phần, đánh giá đối tác qua mỗi công đoạn chứ!
Cô bé rút về một cánh tay, tè một ngón chỉ xuống ngực mình. Giờ thì tôi hiểu những gì đang diễn ra trong cái đầu nhỏ nhắn xinh đẹp ấy.
- Ai bảo không? Tôi vặc lại.
- Vậy B’ đã thực hiện thế nào? Cô bé muốn được đối tác khẳng định.
- Tốt! Rất tốt! Tôi quả quyết, nhớ lại và tin chắc những thông tin về học tập của cô bé do Cẩm Bình và cả giáo viên chủ nhiệm thông báo.
- Chắc không? Cô bé hỏi.
- Chắc! Một lần nữa tôi khẳng định.
- Vậy phải thưởng chứ! Cô bé chúm chím cười.
- Đương nhiên! Tôi cũng vui lây và nghĩ đến nay mai sẽ mua sắm cái gì đó làm quà tặng. - Một bộ váy lụa? Giờ sẵn đây tôi gợi ý.
- Không! Cô bé từ chối.
- Một chiếc lắc bạch kim? Tôi mở rộng.
- Không! Cô bé vẫn từ chối.
- Một chuỗi kim cương?
Tôi bắt sang một món khác đáng giá hơn.
- Ẹ lắm! Cô bé vẫn từ chối.
- Vậy em muốn gì, nói đi! Lúng túng, tôi hối thúc.
- Có thật anh muốn nhường quyền chọn lựa cho em? Cô bé thắt.
- Vâng! Tôi chấp nhận, thầm nghĩ cô bé có đòi một tặng phẩm đắt gấp hai ba lần cũng không sao.
- Chỉ một nụ hôn thôi! Tường Vi nói, giật phắt chiếc khăn khỏi người mình, tấm thân mơn mỏm như đã sẵn sàng. Thì ra đối phương có chuẩn bị!
Tôi điếng lặng đến quên thở, nhìn suốt thể dáng vươn dài như một nét vẽ mềm mại vắt ngang nền nệm trắng, hai bầu zú nhỏ có núm tí ti phơn phớt sắc hồng, âm mao như những phún rêu non đầu mùa lan dần xuống hai khe bẹn, đôi mắt xanh rậm mi lúng liếng tinh nghịch đăm đăm nhìn tôi háo hức chờ đợi. Trò đùa rất tinh nghịch nhưng khá độc đáo! Tôi thầm nghĩ. Của Bích Thảo hay sáng kiến của Tường Vi? Đàn ông mà được hân hạnh này, ai không thích và dám thí bỏ ngàn vàng để được có cơ hội ngắm nghía. Nhưng ở vào hoàn cảnh tôi rất khó ứng xử. Đã cố vào vai khán giả trong phòng triển lãm tranh tượng, tôi không khỏi dợn mình, se se, lành lạnh. Lần đầu tiên tôi phát hiện thể hình của người nữ, đặc biệt các cổ tay chân, nhũ hoa, âm bộ, là thân và dáng của nụ và hoa! Đẹp! Trinh nguyên! Thanh khiết! Nhưng nhóc ơi, người như ta, từng quan hệ đàn bà con gái, từng đi lại chốn yên hoa, đừng hòng tranh thủ, lung lạc bằng da thịt mỹ nhân. Tôi thầm nghĩ, rồi đứng dậy xoay lưng vê phía cô bé.
- Bước đi là vi phạm hợp đồng!
Tường Vi lên giọng cảnh báo. Tôi đoán cô bé còn nằm trên giường, vẫn dang hai tay, khép kín hai chân.
- Đúng, bước đi là vi phạm hợp đồng! Ngẫm nghĩ một lúc, tôi đồ lại lời cô bé. - Nhưng nếu B’ cố tình phá bĩnh, tôi sẽ kiện! Tôi giáng trả, vẫn đứng xoay lưng.
- Ông kiện ở đâu? Cô bé cười khúc khích.
- Tôi sẽ thưa lên dì em. Vì thời thế nhố nhăng đốn mạt, bà ấy phải lam lũ, nhưng chớ quên mười lăm năm trước là một nữ lưu tài sắc vẹn toàn đấy! Tôi nói.
- Em biết! Nghe nói thạc sĩ sử học hạng tối ưu, khó tính như ngoại em là Hồ giáo sư còn khen không tiếc lời. Nhưng thưa ông tổng giám đốc, đốt cả rồi!
Tôi không ngờ vừa tung lên cô bé đã hạ xuống.
- Có thể như vậy. Nhưng có những thứ lửa không đốt nổi! Tôi quả quyết.
- Thật không? Cô bé không tin.
- Người ta có thể thiêu rụi một rừng hoa, vẫn không thể đốt cháy một mùi hương! Tôi nói. - Một người từng cân đo đong đếm lịch sử, dẫu thế nào trong đầu bà ta ý thức thượng tôn công lý vẫn tồn tại!
Tôi lần đi về phía cầu thang, nghe sau lưng mình các thứ chăn gối dịch chuyển xào xạc.
- Vậy ông hãy kiện đi! Cô bé la lên.
- Vâng! Tôi nói, dừng chân.
- Bắt đầu ngày mai em sẽ không đi học nữa!
Cô bé nói lớn. Tôi quay lui, cô bé đã ngồi lên, hai tay chống về phía sau, ưỡn căng bầu ngực. Bao nhiêu công sức bấy lâu sẽ dốc xuống sông hồ nếu lúc này tôi tháo chạy. Và sau đó, ngựa quen đường cũ, cô bé sẽ lao về phía đèn màu, còn tôi, chỉ biết dõi mắt trông theo. Trong thương trường, chưa một đối tác nào bắt bí được tôi. Thế mà nay con ranh này! Tôi nhìn xuống chân mình, bức bối và nhận ra mình đang chao lượn như giữa biển khơi. Bình tĩnh! Tôi tự ra lệnh rồi bước đến ôm lấy cô bé gắn một nụ hôn rất sâu lên trán.
- Rồi nhé! Tôi buông cô bé với cảm giác thanh thoát của người hoàn thành nghĩa vụ.
- Từ nay cứ mỗi tháng học tốt, em sẽ nhận thưởng như thế đấy! Tường Vi nói nằm xuống, người hơi chênh nghiêng, gấp tay chống má.
- Vâng! Tôi thấy hồ hởi vì nhận rõ cô bé hoàn toàn thỏa mãn, không đòi gì hơn nụ hôn bình thường.
- Nếu dừng lại ở đó, còn lâu tôi mới đơn phương phá bỏ hợp đồng. Ông nhớ nhe!
Cô bé ngồi lên, khoác khăn, rời khỏi giường, thanh thản ngang qua mặt tôi vào toa lét, an nhiên như chưa có chuyện gì. Tôi nhìn theo, phát hiện cung cách người nữ, đặc biệt khi vươn vai, nhướn cổ, đưa gói, nhếch mông, là chuyển và động của ngựa và cá, long nhong, phiêu bồng, thoáng lướt. Nhưng hoạt cảnh vừa rồi là gì? Bí bức nào khiến một cô bé bất chấp hệ lụy? Bản năng nhục cảm hay hoan lạc tinh thần? Là nỗi khát âm thầm của loài người hay tâm sinh của một cá thể? Tôi muốn gọi đúng tên nhưng không tìm thấy từ! Tường Vi trở lại, áo xống chỉn chu, ý tứ cho chiếc khăn vào lại túi xách.
- Em về! Cô bé thanh thản xuống lầu, rung rinh từng gợn tóc dài. Chợt nhớ chiếc khay, tôi bương theo.
- Em cần ăn uống chút gì không? Tôi nài nỉ.
- Để bữa khác! Như không vướng bận nhu cầu nào nữa, cô bé nói lúc chúng tôi đã xuống tới hành lang.
- Để anh đưa em về! Tôi nhìn bóng tối, lo lắng.
- Không sao! Đường phố còn đông, em từng đi đêm một mình! Cô bé tỏ ra mạnh mẽ.
- Không được đâu! Tôi nói.
- Trung Tâm Ngoại Ngữ thường tan tầm giờ này mà! Cô bé dẫn chứng.
Chúng tôi sóng đôi về phía ga-ra. Chưa thật sự yên tâm, tôi vẫn áy náy. Tường Vi đón lấy xe. Trong bóng tối mờ mờ, cô bé bình an như chưa bao giờ. Chúng tôi song hành dưới trăng, thoang thoáng mùi hương hoa cỏ. Đến cổng, Tường Vi tự mở, ra tới ngoài quay lại vói tay cài then, tự nhiên như một người rời nhà đi đâu đó. Đứng ở thềm cấp, tôi nhìn theo, ánh đèn soi suốt con đường nhựa thẳng tắp, phố xá sinh hoạt về đêm đã đến hồi thưa văng. Ngồi lên xe, cô bé đưa cao cánh tay trần mảnh khảnh vẫy chào. - See you again! (34) Cô bé nói, nghiêng mình đặt chân lên bàn đạp. Ngày trước, Cẩm Khuê đã thân ái tạm biệt tôi như thế. Nhưng hạnh phúc mãi tận nơi đâu? Thảng thốt, tôi ngước mắt nhìn lên. Bầu trời chi chít trăng sao như một đèn hoa khổng lồ dịu dàng giữa đỉnh vũ trụ.
(34) See you again! tiếng Anh: Hẹn gặp lại - Lời chào lúc chia tay.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Phiên Bản Tình Yêu (Vũ Biện Điền)

Postby bevanng » 29 Apr 2016

- A.39
Những thông tin từ Hà Nội.
Không ngủ được, chỉ biết đùa vói Miki.

Đột ngột chuông điện thoại reo, tôi sực tỉnh, có lẽ trong phòng tôi ở lầu một. Gần đây những cú điện thoại khuya khoắt làm tôi giật thót ruột gan.
- A lô! Tôi với kịp, lên tiếng ngay nhưng dè chừng không xưng tên, phòng khi cần ngắt ngang.
- Anh phải không? Giọng Mơ. Tôi ghìm thở.
- Em đang ở đâu? Tôi hỏi rồi tự dưng bật cười.
- Em còn ở Hà Nội, khách sạn Thăng Long, cùng phòng với chị Đặng Thị Ga.
- Lần này du lịch thủ đô có bầu có bạn, thích chứ? Tôi hỏi, cố lấy lòng vợ.
- Biết nói với anh thế nào đây! Mơ than.
Tôi tưởng như vừa vấp phải vật gì.
Lập chập một lúc, cô ta miễn cưỡng nói tiếp.
- Mười ngày nay em bỏ công thăm viếng nhiều nơi, bây giờ mới nhận ra mình có mắt như mù, Hà Nội không như mình tưởng. Nói cho đúng, cái cũ một thời các nhà văn Tự Lực Văn Đoàn ngợi ca không còn nữa, cái mới đêm ngày đài báo huênh hoang sờ sờ ra đó toàn tô vẽ tân trang phóng đại. Hà Nội năm cửa ô, lớp lớp đoàn quân tiến về, như Văn Cao hò hét một thời! Tìm mãi mới thấy một, mà không biết có phải đó không? Hà Nội ba mươi sáu phố phường như Thạch Lam tô vẽ giờ bán buôn hổ lốn hổ láo, có còn phường nào đâu? Hà Nội ngàn năm văn hiến như bao sách sử đã ghi sao nhiều hàng thịt chó quá? Hà Nội đa phong cách! Nhưng sao rặt màu cỏ úa kaki Bắc Kinh từ đầu đến chân, nhìn xa tưởng chừng cả thành phố đang hành quân. Em đến đền Trấn Quốc, tưởng linh thiêng trang nghiêm, hóa ra quần tụ một lũ buôn thánh bán thần, xăm quẻ vung vãi mời chào, khách hàng đủ thành phần. Buồn cười nhất, quý phu nhân xã hội chủ nghĩa của các quan duy vật biện chứng cũng lết lê bái lạy cầu xin danh lợi cho chồng cho con, và bao thứ diêm dúa khác. Em đến hồ Hoàn Kiếm, hồ Gươm đấy anh ạ, nhà cửa tư nhân lô nhô cơi nới lấn chiếm, phóng uế bữa bãi, nước nôi cáu bẩn, không biết các cụ rùa sống nổi không? Đến thăm Vãn Miếu, Quốc Tử Giám, tìm mãi mới thấy một trụ “khuynh cái” xiêu vẹo do bộ hành giẫm đạp và bọn phu xe gác chân chờ khách, còn trụ kia, “hạ mã”, (35) chắc đã tiêu tán từ lâu. Ngớ ngẩn làm sao khi em đối mặt chùa Một Cột! Ngẫm lại trước đây nghe đài báo mà kinh! Chẳng qua chỉ là cái trang thờ kích cỡ nhỉnh hơn bình thường chút đỉnh, Huế mình thiếu chi, xó vườn nào chẳng có. Một người ngoại quốc cũng ngỡ ngàng, tẽn tò như em. Hướng dẫn viên du lịch đưa đến tận nơi, đứng ngay bậc cấp chùa, anh ta còn ngơ ngác nhìn quanh hỏi where is it! (36)
Mơ kể với cái giọng dấm dẳn, chan chát, tưởng chừng vừa trải qua kình cãi với ai.
- Đã đi thăm lăng Hồ chủ tịch chưa?
Nhiều lần tôi ra Hà Nội, ai cũng mồi chài như thế. Nay cũng đề tài đó, tôi muốn vợ có được cảm quan thay đổi tâm trạng. Nhưng không ngờ!
(35) Khuynh cái - Hạ mã (Khuynh: ngả, cất. Cái: vật che đầu như nón, mũ. Hạ: xuống. Mã: ngựa): cất nón - Xuống ngựa (Ý nhắc qua đây phải cất mũ nón, xuống ngựa để tỏ thái độ kính trọng. Hai trụ có bốn chữ này thường đặt ở hai phía tả hữu của những nơi phô bày văn hiến quốc gia như Phu Văn Lâu-Huế, Văn Miếu-Hà Nội…)
(36) Where is it? (tiếng Anh): Cái đó ở đâu?
- Rồi! Mơ thở dài, ảo não. - Sau mùa xuân đại thắng 1975, cán bộ vào Nam không tiếc lời khoe lăng mộ ông cụ, nào là khổ công sàng lọc bao nhiêu trí tuệ kiến trúc tài ba trong và ngoài nước, bộ chính trị mới chọn được một đồ án xứng tầm, nào là cơ quan này đoàn thể nọ tranh nhau cử các nghệ nhân có đôi tay vàng đến phục vụ xây cất, nào là đá hoa cương Thanh Hóa, gỗ trầm hương Tây Nguyên, cát vàng Tiên Sa, Quảng Nam chở ra… Có gì ghê gớm đâu, một bản sao chép vụng về và thu nhỏ mô hình lăng mộ Lénine, khối lượng không lớn mà gây cảm quan trì trịch, Tây chẳng ra Tây, Tàu chẳng ra Tàu, Âu chẳng ra Âu, Á chẳng ra Á, còn phong cách Việt Nam thì mù tăm! Rêu rao một đời ông cụ chiến đấu vì độc lập dân tộc mà khi chết lại xa cách bản sắc văn hóa truyền thống đến thế! Bốn ngàn năm văn hiến, có vua chúa nào, danh nhân văn hóa nào, anh hùng dân tộc nào muốn chình ình an giấc ngàn thu giữa lòng đô thị ngập ngụa nhố nhăng, ngựa xe rầm réo! Đúng là sống thế nào chết thế đó!…
- Vậy cái nhà sàn của Bác không đặc sắc sao?
Tôi ngại cô ta chê bai lung tung.
- Ở Tây Nguyên rải khắp buôn bản còn khối cái đẹp hơn thế. Chán chi của tiền và công sức sẵn sàng cung phụng, nhưng ngẫm lại dừng ở tầm mức ấy cũng phải thôi, ông cụ có ngủ nghê tại đó bao giờ, chẳng qua chỉ là vật cảnh, cái thứ làm ra để biểu diễn, để chụp ảnh, để tuyên truyền, để lòe bịp ngu dân và du khách nước ngoài rằng một đời ông cụ chân chất đạm bạc! Anh biết sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh ăn ngủ hú hí ở đâu không? Trong cái tòa hầm bê-tông phía trái nhà sàn, được ngụy trang dưới một gò nổi đủ sức tránh bom xuyên phá và đầu đạn hạt nhân, ai tinh mắt sẽ thấy cửa vào cung a phòng khuất sau mấy lùm cây cỏ lấp xấp…
- Thôi! Dù gì em đã từng lăn lóc trận địa đổ máu chiến trường, mai đi xem bảo tàng Quân Đội cho biết!
Tôi chuyển đề tài và cũng để dứt húy kỵ phạm thượng, lỡ tai vách mạch rừng. Không ngờ cô ta hét lên.
- Rồi! Rồi anh ạ! Vẫn giọng ngao ngán, pha thêm bi phẫn. - Mất gần hai tiếng đồng hồ ngồi trước sa bàn điện tử nóng chín người, nghe hướng dẫn viên hùng hồn thuyết minh về trận Điện Biên Phủ, khi ra khỏi phòng một du khách Trung Quốc bảo chiến công này là của cha ông chúng tôi. Em yêu cầu xuất dẫn chứng cứ, hắn nói quyết định thắng lợi là trận địa pháo trực xạ mà thời ấy các bạn chưa có đại pháo, xe kéo và cả xạ thủ. Ức quá, em phang lại tại sao không. Hắn hỏi ai cho mà có, giấu ở đâu, lấy gì vận chuyển, ai dạy cho mà bắn. Em cứng họng. Hắn bảo trước giờ khai cuộc chúng tôi mới đưa sang 550 khẩu đại pháo, đầy đủ cấp số người và đạn. Em đốp ngay, dàn trận thế nào là do đại tướng của chúng tôi. Hắn nói vậy đại tướng cố vấn Trần Canh (37) để đâu, có biết chức năng cố vấn của Trung Hoa vĩ đại thế nào không? Việt Nam các người chỉ tài đánh tráo thổi phồng. Điện Biên Phủ là một trận địa cấp sư đoàn, một đại tướng trực chiến với một đại tá, huy động bao nhiêu đại đoàn và dân công của nửa nước đánh với mười hai ngàn quân Pháp, không thấy nhục sao mà cứ huênh hoang. (38)
(37) Trần Canh (1903-?): Tên là Trần Thứ Canh, tốt nghiệp Hoàng Phố, đại tướng, một trong mười vị tướng khai quốc công thần của Trung Hoa Cộng Sản. Ông đã có mặt tại Việt Nam trong chiến dịch Biên Giới (1950), chiến dịch Biện Biên Phủ (1954), và nhiều lần hội kiến với Hồ Chí Minh.
(38) Năm 2004, Việt Nam rầm rộ kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên, báo đài Trung Quốc công bố một số tài liệu chứng minh đó là thành quả của họ, phóng viên đài BBC phỏng vấn thượng tướng Ước, ông ta thừa nhận Trung Quốc có mà ta cũng có.
Mơ ca cẩm mỗi lúc một hăng. Một lần nữa tôi sợ có người nghe lén điện thoại.
- Tranh chấp này còn lâu mới ngã ngũ trắng đen, không nên dính vào làm gì! Đó là trách nhiệm và liêm sỉ của các nhà viết sử, không việc gì ta lấn sân!
Tôi cố tình đánh lạc hướng vợ. Nhưng xem ra chẳng tưới tắt được gì!
- Còn chuyện này nữa anh ơi! Họa vô đơn chí!
Mơ vẫn kể lể bằng được.
- Tối hôm đi xem bảo tàng quân đội về, một bà cán bộ chức vụ phó đoàn vào toa lét, không biết quỷ ma nào xui khiến lại thượng lên la-va-bô (39) mà trút cái của nợ cho kỳ được. Cả khối thịt nặng sáu bảy chục ký đè xuống, nó phải gãy đổ, vỡ tan hoang. Bồi thường, đương nhiên rồi! Nhưng hành trạng kém văn minh cỡ đó xấu hổ quá! Bà Đặng Thị Ga giận tím tái cả mặt mày, phải uống thuốc an thần mới ngủ được!
(39) Lavabo, tiếng Pháp: chậu rửa, thường bằng sứ tráng men trắng, gắn trong toa-lét, ngay dưới kính soi.
- Hà Nội không gây cảm quan nào đáng nhớ trong em sao? Tôi cố gắng vớt vát.
- Có chứ! Mặt bằng Hà Nội hội đủ vẻ đẹp của bức tranh thủy mặc. Trên cao nhìn xuống, Hà Nội như một hòn non bộ cổ kính. Phố xá nhiều cây xanh tạo ra bóng mát, chỉ tiếc lòng đường quá hẹp còn bị quán xá lấn chiếm và người xe đi lại không theo một luật lệ nào. Các hồ ở Hà Nội là quà tặng của thiên nhiên làm thỏa mãn khát khao tầm mắt nhiệt đới và chuẩn mực hóa điều hòa khí hậu. Món ăn Hà Nội cổ kính, thanh lịch nhưng phải chui lủi vào hóc hẻm mới tìm thấy! Mơ nói.
- Còn người Hà Nội?
Thấy chiều hướng phấn khởi, tôi khai thông thêm.
- Mẫu người thanh lịch Hà Nội sau 1954 di cư vào Nam, một ít dừng chân ở Huế và làm thầy chúng ta, không còn nữa! Bây giờ đâu đâu cũng nghe nói năng bạt mạng, ở trần trùi trụi phơi bụng chạy ngoài phố, chửi thề không thua dân vỉa hè Sài Gòn, bốc phét hơn cả phu phen bến bãi Quảng Nam, thượng cẳng chân hạ cổ tay không thua dân xứ võ Bình Định, so kè lừa lọc chẳng thua gì Huế! Anh biết không, hớ hênh hỏi đường mà không boa, nó chỉ bậy ngay. Ra phố thấy của rơi chớ nhặt, không phải dân thủ đô vươn tới hoàng kim thời đại đâu, bọn lưu manh đặt mồi giả gài bẫy đấy. Không như ở miền Nam, vào tiệm ăn xong nhớ đi chỗ khác uống nước và phải thêm một lượt trả tiền.
Mơ chuyển sang đay nghiến.
- Đến nhà nào, nhớ mang quà theo, nếu không đừng hòng tiếp với rước…
Thấy không nên kéo dài cuốc gọi, tránh lãng phí cho đoàn phụ nữ tỉnh, tôi đề nghị cúp máy và Mơ đồng ý. Nhưng tôi vừa ngả mình lên giường, chuông lại báo.
- A lô! Ai đấy? Tôi lên tiếng.
- Mơ đây! Em gọi bằng di động! Cô ta nói.
- Suýt nữa quên báo với anh, em đã gặp các quý ông quý bà ở bộ. Tất cả đều bố trí tiếp em ở nhà riêng và vui vẻ nhận quà. Nói chung công việc tương đối tốt. Hồ sơ anh Tư chủ tịch nhờ sẽ được thông qua và họ sẽ gởi theo đường bưu điện để tránh tiếng. Trước đây nhà máy Chế Biến Ván Lạng tỉnh ta giao hàng cho Liên Xô nghe nói bị trừ nợ chiến tranh là chuyện có thực trăm phần trăm. Nếu tổng công ty ta tiếp nhận nhà máy làm công ty con, anh phải coi lại đầu ra, xuất đi đâu, khách hàng là ai. Nhà nước có đề nghị bao tiêu sản phẩm, coi chừng giao trứng cho ác, anh phải tìm cách thoái thác. Có lưu số phone của các vị trong tập đoàn đa quốc gia không? Còn hả? Anh hãy liên hệ ngay với Pierre Fourier xem sao. Theo em, bọn tư bản sòng phẳng, chơi được. Vừa rồi mấy ngài Unesco (40) từ Nam Vang bay sang Hà Nội khuyến cáo với bộ lâm nghiệp một số rừng nguyên sinh sát biên giới tây nam bị tàn phá do giới quân phiệt Campuchia cấu kết với lâm tặc Việt Nam. Anh bảo bọn Lê Viết Kỳ thôi đi, việc vận chuyển gỗ về lâm trường nội tỉnh cũng tạm hoãn. Đụng bọn thanh tra môi trường quốc tế thì gay đấy! Nghe nói cùng chuyến bay với viên chức Unesco từ Djakarta (41) sang Phnom Penh (42) có cả phóng viên của BBC và CNN, bọn này chẳng sợ ai đâu, chúng cứ theo quốc tế công pháp với nghiệp vụ mà phang tới thôi! À, còn chuyện này nữa, anh có muốn chuyển công tác ra trung ương không?
(40) Unesco: viết tắt của United Nations Educational Scientific and Cultural Organisation: Tổ chức Văn Hóa - Khoa Học - Giáo Dục Liên Hiệp Quốc.
(41) Djakarta: thủ đô của Indonesia.
(42) Phnom Penh: thủ dô của Campuchia
- Bộ nào? Tôi hỏi cho vui.
- Bộ nào cũng được nếu anh muốn! Mơ nói.
- Sao em lại có ý nghĩ ấy?
Được chăm chút, tôi cười nựng vợ qua điện thoại.
- Đến một lúc nào đó nên chọn bãi đáp để hạ cánh an toàn chứ? Mơ nói.
- Nội Bài chưa hẳn an toàn bằng Tân Sơn Nhất!
Tôi hàng hai cho vợ vui lòng và cũng thấy những việc thuộc loại này không tiện nói năng tùy tiện. Một người nhanh nhạy quá mức như cô ta đôi khi sơ hở.
- Khuya rồi, chúc em ngủ ngon!
Tôi tranh thủ ngắt lời Mơ rồi cúp máy.
Đồng hồ treo tường gõ đúng mười hai tiếng. Một ngày qua, nhìn chung mọi việc xa gần đều tốt đẹp. Tôi vào giường, cố dỗ giấc ngủ, mong hồi phục sức khỏe. 
Nhưng chỉ tội hai mắt, càng nằm càng tỉnh. Và cái đầu năng động mãn tính kéo về vô khối công chuyện buộc phải nghĩ suy, trằn trọc. Có lẽ khi quá vui cũng khó ngủ hơn cả lúc buồn bực. Đồng hồ treo tường lại thánh thót gõ. Tôi vẫn không chợp mắt. Thay vì bày rượu ra uống hoặc đọc sách như mọi khi, tôi xuống lầu, lui vườn sau chơi với Miki. Trăng đã bợt bạt chếch về phía núi. Trong vườn, những ngọn cây le lói lặng lẽ rực sáng nhưng mặt đất âm thầm ngả màu sâm sậm. Cùng ngồi chung chiếc ghế đá, chúng tôi thầm thì với nhau đủ chuyện, chính xác, chỉ tôi nói và nó im lặng lắng nghe. Chán rồi tôi đưa Miki đến sân luyện võ. Ở đó, ngoài mấy dụng cụ thể dục như bao đấm, xà đơn, xà kép, tạ cử, còn có một sợi thừng thòng qua ròng rọc treo lên một cành cây ngang, đầu này buộc vào nịt cổ hình cẩu nộm khoác áo gi-lê của Bull, đầu kia có một tay quay dành cho người huấn luyện. Tùy theo cách điều khiển, hình nộm có thể nhấp nhổm lết lê trên mặt đất, nhảy nhót lấc khấc, hung hăng lao tới, lửng lơ lượn vòng hoặc lủng lẳng giữa thinh không, ứng với mỗi tình huống, Miki sẽ lựa thế tung đòn. Hôm nay tôi thay cẩu nộm bằng hình bù nhìn rơm với hai bản mặt, phía này là ảnh Bùi Phước, phía kia là ảnh Hồ Minh Dũng, rồi luyện cho Miki thế sư tử nhập hầu, bất ngờ tấn công đối phương bằng miếng ngoạm vào cổ. Người ta luyện chó bằng mùi bằng vị, tôi luyện Miki bằng nộm bằng màu. Người ta luyện chó như một điệp viên dò tìm kẻ trộm kẻ cướp, tôi luyện Miki như một dũng sĩ tấn công kẻ gian kẻ ác. Và cũng như bao lần trước, đến khi thầy mỏi trò mệt mới thôi. Trở lại hành lang nhà ăn, chúng tôi nằm vật ra sàn nghỉ ngơi một lúc rồi cùng nhau đi tắm.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Christiane

Re: Phiên Bản Tình Yêu (Vũ Biện Điền)

Postby bevanng » 29 Apr 2016

- A.40
Thâm cung bí sử, đầu đường xó chợ. Người Hà Nội bây giờ.


Mơ về, hao gầy chút ít do đi nhiều, nắng gió đường xa, ăn ngủ thất thường. Tuy đã lưu lại thành phố Hồ Chí Minh nửa tháng, dư âm Hà Nội vẫn âm ỉ. Như giận cá chém thớt, cô ta cằn rằn cẳn rẳn!
- Anh biết không, dân thủ đô rất sính cách sống Mỹ, bọn xích lô, tắc xi cũng leo lẻo tiền đô. (43) Giới trẻ thích diện quần jeans (44) khoác áo pull, (45) nói năng giặm vá okay, good bye, thank you very much. ((46) Giới quan quyền, ngoài chuyện tranh ghế kéo càng nhau như cua nhốt chậu, háo hức kiếm chác, mua đất cất nhà còn đua nhau gởi con qua Mỹ, Anh, Pháp du học, gởi tiền vào ngân hàng Thụy Sĩ, Singapore, Nhật Bản.
(43) Tiền đô: dollar - đơn vị tiền tệ của Mỹ, của Úc.
(44) Quần Jeans (miền Bắc quen gọi là quần bò): Một loại quần xuất xứ từ Mỹ do Levi Strauss sáng chế từ vải lều bạt của những người đi đào vàng và được cấp bằng sáng chế vào năm 1873, với tên gọi ban đầu là Waist Overal, đến năm 1920, đổi thành Blue Jeans. Quần Jeans là một trong những biểu tượng cho tuổi trẻ, sự phản kháng, tự do và chủ nghĩa cá nhân của mọi tầng lớp ở phương Tây.
(45) Áo pull (viết tắt của Pullover): Loại áo mặc chui đầu qua cổ, may bằng vải dệt kim có độ co dãn, khi mặc ôm sát lấy người.
(46) Okay hoặc ok (nói tắt), good bye hoặc bye hoặc bye bye (nói tắt), thank you very much (tiếng Anh): cám ơn rất nhiều.
Một xe một vợ một chồng trên đường từ phi trường về nhà, tôi để mặc Mơ nói năng thỏa thích.
- Anh biết không, ở Hà Nội loa đài luồn sâu hang cùng ngõ hẻm ra rả chửi Mỹ suốt đêm liền ngày, nhưng dân ngồi đâu lại cạnh khóe, móc máy, nguyền rủa đảng Cộng Sản liên tu bất tận. Họ là thành phần cư dân phía Bắc tổ quốc đầu tiên nhận ra Hồ Chí Minh và đồng bọn lợi dụng chiến tranh vệ quốc để áp đặt chuyên chính lên đất Việt Nam ta như Lénine phù phép ở Nga, Staline ở Đông Âu, Mao Trạch Đông ở Trung Hoa, Kim Nhật Thành ở Bắc Hàn. Khi hết chiến tranh, biết thế nào nhân dân cũng vùng lên vạch mặt độc tài, nên sau 54, vừa thu được nửa giang son, Hồ Chí Minh gấp rút phát động khủng bố ở nông thôn bằng chiêu bài đấu tố địa chủ phú nông. Và, phát động đàn áp trí thức ở thành thị bằng học tập tẩy não văn nghệ sĩ, hình thành đội ngũ bồi bút như Hoài Thanh, (47) Nguyễn Đình Thi, (48) Tô Hoài, Xuân Diệu, (49) Cù Huy Cận, (50) Chế Lan Viên (51)… bằng bổng lộc ban phát hậu hĩ. Tới khi phát động khủng bố đàn áp vượt đỉnh điểm, Hồ Chí Minh biết nếu không kịp dừng lại nhân dân sẽ quyết tử vùng lên, liền đổ vạ cho Trường Chinh buộc phải làm vật tế thần, rút Lê Duẫn từ miền Nam ra thay thế. Anh biết không, giờ này dân Hà Nội thấy rõ mồn một bộ mặt thật của bè lũ chuyên chính. Cũng như Kim Nhật Thành ở Bắc Hàn, ông Hồ là tay sai mạt hạng của Staline, ăn lương tháng của điện Kremlin, thi hành nhiệm vụ của quốc tế Cộng Sản, chẳng có chút nào vì nước vì dân. Nhờ thủ đoạn, ông ta chỉ giỏi đóng kịch và khéo lừa bịp. Đằng sau bộ mặt giả nhân giả nghĩa là một con người tham lam, tàn bạo, dâm loạn. Ngoài chức năng đề ra sách lược, bộ Chính Trị còn là một lũ ma cô cung phụng gái cho ông ta rất bài bản. Anh có tin Hồ Chí Minh rất thích thứ còn trinh, đặc biệt gái miền Nam. Thế là Nguyễn Chí Thanh (52) phải tuyển cung nữ từ trong ấy đưa ra. Đến khi chán ruộng đồng sông nước phù sa, ông quay về sơn nữ, bộ chính trị phải cho người mò đến tít tận Cao Bằng, Lạng Sơn. Nhưng muốn được ngợi ca như thánh sống, phải xóa đi dấu vết thế tục, chơi xong ông cho bộ trưởng công an Trần Quốc Hoàn (53) bòn xái rồi mật lệnh thủ tiêu phi tang. Anh không tin hả? Bộ trưởng phủ chủ tịch Vũ Đình Huỳnh đã chết, nhưng Vũ Thư Hiên, con trai ông ta, còn sống nhăn ở Pháp đã can đảm lên tiếng. Nhằm thao túng quyền hành, Lê Duẫn và Lê Đức Thọ (54) bày ra cái gọi là Ban Bảo Vệ Sức Khỏe Trung Ương với chiêu bài bồi dưỡng thể lực, ngăn chận bệnh tật, tăng cường tuổi thọ cho lãnh đạo, kỳ thực đưa gái đến phục vụ tận nhà các khai quốc công thần xã hội chủ nghĩa như Tôn Đức Thắng, (55) Nguyễn Lương Bằng, (56) Võ Nguyên Giáp, (57) Văn Tiến Dũng (58)… Ăn xôi chùa ngọng miệng, các cụ phó mặc cho gian thần lộng hành, mãi quốc cầu vinh và đẩy mạnh chiến tranh Nam-Bắc! Năm 1958, Mao Trạch Đông cho công bố bản đồ lãnh hải Trung Quốc, vơ luôn cả Hoàng Sa và Trường Sa (59) của ta vào, Hồ Chí Minh và toàn bộ Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam họp bàn rồi nhất trí, giao cho thủ tướng Phạm Văn Đồng gởi công hàm thừa nhận. Đầu năm 74, Trung Quốc đánh bại hải quân Việt Nam Cộng Hòa, chiếm trọn quần đảo Hoàng Sa, đích thân Phạm Văn Đồng còn đánh điện chúc mừng! Cháy nhà mới ra mặt chuột, bè lũ Cộng Sản chỉ biết có đảng thôi, coi non sông tổ tiên để lại như chiến lợi phẩm bỏ túi, tiêu xài tùy tiện vô tội vạ. Trắng trợn cống nạp thượng quốc kiểu đó, xưa có cha con Mạc Đăng Dung, (60) nay có Hồ Chí Minh và tập đoàn Cộng Sản Việt Nam mà thôi! Anh biết không, thì ra Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp là đệ tử trung thành của trùm khủng bố quốc tế Borodine lúc ở Trung Hoa. Về nước, hai ông bày trò vu vạ Việt gian chỉ thị cho du kích thôn xã thực hiện, tàn sát bất kỳ ai bất đồng chính kiến. Anh biết không, dân Hà Nội căm ghét Lê Duẫn và Lê Đức Thọ tận xương tủy. Hai ông này đã bần cùng hóa nhân dân, khủng bố trấn áp đối lập, huyễn hoặc căm thù giai cấp để tận dụng xương máu thanh niên, cao rao hứa hẹn mai sau sẽ xây dựng một Việt Nam dân chủ gấp vạn lần dân chủ tư sản. Ba hoa khoác lác tấc lưỡi thấu trời, nhưng Mỹ cút Ngụy nhào rồi dân vẫn khố rách áo ôm, sống đời nô lệ. Anh biết không, té ra Trường Chinh chỉ giỏi đạo văn và già mồm ngụy biện, cuốn sách nói về văn hóa văn nghệ (61) của ông ta là sao chép nguyên xi của Mao Trạch Đông…
(47) Hoài Thanh (1909-1982): tên là Nguyễn Đức Nguyên, nhà phê bình văn học, đồng tác giả với Hoài Chân tác phẩm nổi tiếng Thi Nhân Việt Nam.
(48) Nguyễn Đinh Thi (1924-2003): nhà văn, nhạc sỹ, quan chức cao cấp quản lý văn nghệ ở Việt Nam.
(49) Tô Hoài (1920-200?): tên là Nguyễn Sen, nhà văn, được đảng Cộng Sản sủng ái.
(50) Cù Huy Cận (1919-2005): nhà thơ.
(51) Chế Lan Viên (1920-1989): nhà thơ.
(52) Nguyễn Chí Thanh (1914-1967): tướng lĩnh, nhà chính trị.
(53) Trần Quốc Hoàn (1916-1986): bộ trưởng công an, tay sai đắc lực và thân tín của chủ tịch Hồ Chí Minh.
(54) Lê Đức Thọ (1911-1990), tên thật là Phan Đinh Khải, đảng viên cao cấp của Cộng Sản Việt Nam, rất hống hách và giảo hoạt.
(55) Tôn Đức Thắng (1888-1980): Chủ tịch thứ hai của nước VN Dân Chủ Cộng Hòa, chù; tịch đầu tiên của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa VN.
(56) Nguyễn Lương Bằng (1904-1979): nguyên phó chủ tịch nước VN Dân Chủ Cộng Hòa.
(57) Võ Nguyên Giáp (1911): đại tướng, người chỉ huy trận Điện Biên phủ.
(58) Văn Tiến Dũng (1917 - 2002): đại tướng, người chỉ huy trực tiếp chiến dịch Hổ Chí Minh năm 1975 tiến chiếm miền Nam Việt Nam.
(59) Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam. Từ thời đô hộ Việt Nam chủ quyền này đã được thực dân Pháp xác lập với nhà Thanh của Trung quốc. Sau khi Pháp rút khỏi Đông Dương (1954), miền Nam Việt Nam đã thu hồi chủ quyền toàn bộ hai quần đảo này từ chính phủ bảo hộ Pháp. Nhưng một phần quần đảo Hoàng Sa đã bị Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa tiến chiếm khi quân Pháp rút đi.
Năm 1958, Trung Quốc công bố bản Tuyên Ngôn Lãnh Hải 4 điểm, trong đó tuyên bố chủ quyền Trung Quốc bao gồm các quần đảo Đài Loan, Trung Sa, Bành Hổ, Tây Sa (tức Hoàng Sa của Việt Nam) và Nam Sa (tức Trường Sa của Việt Nam). Giai đoạn này, Bắc việt Nam đang tranh thủ hậu thuẫn chính trị và viện trợ quân sự của Trung Quốc để hai năm sau (1960) phát động xâm chiếm Nam Việt Nam. Ngày 22 tháng 9 năm 1958, báo Nhân Dân đăng công hàm của thủ tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Phạm Văn Đồng gởi thủ tướng Quốc Vụ Viện Trung Quốc, ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của chính phủ Trung Quốc quyết định về hải phận 12 hãi lý của Trung quốc.
Ngày 17 đến 19-1-1974, hải quân Nam VN phản công chiếm lại Hoàng Sa nhưng bị Trung Quốc đánh bại. Sau trận chiến ấy, nhà nước miền Nam Việt Nam đã ra nhiều tuyên bố, trưng nhiều bằng chứng lịch sử về chủ quyền của mình và được chính phủ Pháp ủng hộ. Tuy nhiên, Trung quốc vẫn cho đập phá các bia chủ quyền, các mộ của người Việt đã chôn tại đây, xóa các di tích lịch sử của người Việt Nam trên đảo.
(60) Năm 1524, Mạc Đăng Dung ép vua Lê Cung Hoàng nhường ngôi, lập ra nhà Mạc. Năm 1537, nhà Minh (Trung Quốc) không chịu tấn phong (An Nam quốc vương), phát binh đe dọa, Mạc Đăng Dung xin hàng phục, tự trói mình và cắt đất năm động ở biên giới phía bắc dâng nộp.
(61) “Đề Cương Văn Hóa Việt Nam”, tháng 2 năm 1943.
- Những chuyện ấy đều khẩu thuyết vô bằng, có đáng tin không? Tôi ngắt lời Mơ không ngờ tăng thêm kích động.
- Không có lửa làm sao có khói? Trước đây ở miền Nam, Diệm-Nhu và kế đó là Thiệu-Kỳ, điên cuồng chống Cộng, có tay nào nghĩ ra được những chuyện động trời như thế mà đơm đặt bôi bác đối phương?
Cô ta cãi, giận dỗi, ngồi im. Tôi thừa nhận tâm trạng của Mơ phát xuất từ những trực quan thực tế rồi tự thân phản tỉnh. Phản ánh của Mơ không phải do đi xa về bịa chuyện mua vui, khoe mẽ. Nhiều lần ra thủ đô, những lúc rảnh rỗi la cà đàn đúm hát hò, bù khú nhậu nhẹt tán gẫu ở mấy quán chui, tôi cũng được cán bộ và dân phố Hà Nội kể cho nghe hàng trăm chuyện tiếu lâm chính trị, tiết lộ hàng chục chuyện tình ái bẩn thỉu thâm cung bí sử của vua quan vô sản, khối lượng thông tin còn đồ sộ và đáng tin hơn Mơ thu được. Tiếc thay tôi không phải nhà báo, nghe nhiều nhưng chẳng bao giờ đưa tin; không phải nhà nghiên cứu sử, nghe nhiều nhưng không bao giờ ghi chép và cũng không phải nhà văn, nghe nhiều nhưng không dám cấu trúc thành truyện để lưu lại mai sau. Về khả năng dâm dục, họ bảo do bắt nguồn từ zen ông nội là thầy đồ trắc nết Hồ Sỹ Tạo nên Hồ Chí Minh chẳng khác heo nọc, đi đến đâu thả giống tới đó. Lúc ở Paris, ông lăng nhăng hết bà sến này đến cô sến (62) nọ, rõ nét nhất với Marie Bière. Qua Trung Hoa, ông giả cưới Tăng Tuyết Minh. (63) Trở lại Nga, ông lang chạ với Nguyễn Thị Minh Khai. (64) Về hang Pác Bó, ông tù ti với Đỗ Thị Lạc, (65) nhân viên phụ trách cấp dưỡng. Sau năm 1954, ông muốn giải quyết sinh lý với Nguyễn Thị Phương Mai. (66) Cô này đòi có cưới hỏi hẳn hoi mới chịu động phòng nên bất thành. Khi 65 tuổi, vẫn còn động dục mãnh liệt do thang dược bổ dưỡng quá mức, ông cho tuyển Nông Thị Xuân (67) và ham đú đởn đến nỗi có con nhưng không chịu thừa nhận. (68) Kẹt số de, ông thả cho Trần Quốc Hoàn léng phéng chấm mút rồi ban lệnh thủ tiêu…
(62) Sến: từ tiếng Pháp Marie Cuisine (Marie: tên thông dụng của phụ nữ Âu Châu, Cuisine: nhà bếp): con sen, phụ bếp, đầy tớ (chỉ hạng gái xoàng).
(63) Tăng Tuyết Minh (1905-1991)
(64) Nguyễn Thị Minh Khai (1910-1941), về sau là vợ của Lê Hồng Phong.
(65) Sinh ra Nông Đức Mạnh - tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam (2001-2011)
(66) Nguyễn Thị Phương Mai (? -?), sau 1954, là tỉnh ủy viên Thanh Hóa.
(67) Nông Thị Xuân (1933-1957), người Cao Bằng. Năm 1955, Trần Đăng Ninh, tổng cục trường tổng cục hậu cần, tìm được cô Nông Thị Xuân (tức Nguyễn Thị Xuân), mới ngoài 20 tuổi, đang làm hộ lý trong một đơn vị quân nhu. Ninh đưa Xuân về Hà Nội để phục vụ ông Hồ (,…) Xuân xin cho hai em họ là Vàng và Nguyệt về ở cùng. Họ, được bố trí trên tầng lầu căn nhà số 66 phố Hàng Bông Thợ Nhuộm - Hà Nội. Nhà này thuộc bộ công an quản lý. Bộ trưởng công an Trần Quốc Hoàn được ông Hồ giao cho nhiệm vụ quản lý cô Xuân và cả hai cô em. Mỗi tuần, Hoàn cho xe chở Xuân vào phủ cho Hồ chủ tịch giải quyết sinh lý, có lần ở qua đêm, có lần lưu lại vài ba ngày (…) Năm 1956, Xuân sinh con trai, ông Hồ đặt tên là Nguyễn Tất Trung (…). Xuân ngây thơ, cứ tưởng ông Hồ coi mình là vợ. Bởi vậy, cố xin được công khai, ông Hồ bảo đó là nguyện vọng chính đáng nhưng phải xin ý kiến bộ chính trị.
Sau đó, vẫn theo tố cáo của lá thư viết bằng máu hòa nước mắt 25 năm sau, Trần Quốc Hoàn đã hiếp cô Xuân tại nhà số 66 Hàng Bông Thợ Nhuộm. Rồi ngày 11-02-1957, tên Ninh Xổm, cận vệ của ông Hồ, cùng Tạ Quang Chiến, lái xe cho ông Hồ đến chở cô Xuân bảo lên gặp chủ tịch. Sáng hôm sau, người ta phát giác xác Xuân bị xe cán ở dốc Cổ Ngư, đoạn lên Chèm, công an báo cáo nạn nhân chết trước khi bị xe cán (…), bác sĩ khám nghiệm tử thi xác nhận nạn nhân bị chùm chăn và đập vỡ sọ bằng búa. Nhưng Trần Quốc Hoàn ra lệnh chôn gấp (…). vẫn theo báo cáo công an, xe gây tai nạn chạy từ phủ chủ tịch ra (…). Cũng theo thư tố cáo này, sau đó cả cô Vàng, cô Nguyệt, và những họ hàng, bạn bè của các cô biết chuyện rùng rợn này không kín miệng đều bị giết hết. (Thư tố cáo của anh thương binh - chồng chưa cưới của cô Vàng, đề ngày 24-7-1983, gởi chủ tịch quốc hội Nguyễn Hữu Thọ - Công Lý Đòi Hỏi, Văn Nghệ xb.1997 - Nguyễn Minh Cần).
(68) Ngay sau khi giết Xuân, công an vào nơi chị em Vàng ở mang Nguyễn Tất Trung đi, giao cho Nguyễn Lương Bằng nuôi, khoảng bốn tuổi, giao cho Chu Văn Tấn, đến năm 13 tuổi (1969, lúc Hồ Chí Minh mất), giao cho Vũ Kỳ - nguyên thư ký riêng của ông Hồ (Vũ Kỳ có hai con đẻ là Vũ Ninh và Vũ Quang, Vũ Trung là con nuôi).
Chuyện Hồ Chí Minh viết “Những Mẩu Chuyện về Đời Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch” ký tên Trần Dân Tiên (69) và “Vừa Đi Đường Vừa Kể Chuyện” ký tên T. Lan, để tự khen mình. Bỉ ổi này, trước khi mất nhà sử học Trần Quốc Vượng tiết lộ trên tạp chí Sông Hương. Chuyện tập thơ “Nhật Kỷ Trong Tù” viết bằng chữ Hán ký tên Hồ Chí Minh không đáng tin sáng tác của ông ta. Lê Hữu Mục, một Việt kiều ở Mỹ, đã có đơn thư khiếu tố Hồ Chí Minh đạo văn lên Unesco vì tổ chức này suýt tân phong Hồ Chí Minh là danh nhân văn hóa thế giới. Riêng tôi, sau khi đọc “Nhật Ký Trong Tù “, thường tự hỏi tại sao cùng một con người mà làm thơ quốc ngữ dở ẹc, làm thơ tiếng nước người lại khá hay! Và tại sao khi lên án đồng bào mình thông đồng với ngoại xâm, ông ta lại dùng từ Hán gian thay vì Việt gian, (70) một từ thuộc loại nằm lòng mà ông từng nhồi nhét vào sọ thuộc cấp.
(69) Trần Dân Tiên tác giả “Những Mẫu Chuyện về Đời Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch”
(70) Hán gian là người Trung Hoa làm gián điệp cho địch. Việt gian là người Việt Nam làm gián điệp cho địch. Có lẽ tác giả Nhật Ký Trong Tù (nguyên tác viết bằng chữ Hán) là người Trung Hoa nên mới gọi như thế, Hồ Chí Minh và cả đàn em sơ hở không kịp sửa chữa. Gần đây có nguồn tin cho hay Nhật Ký Trong Tù là tập hợp những bài thơ do tù nhân - người Trung Hoa, bí bức mà sáng tác, rồi viết lên vách nhà ngục, được phao truyền trong nội bộ, Hồ Chí Minh chép lại và nhận của mình.
Nghe nói nhà văn Đặng Thai Mai (71) là người nắm giữ bí mật khi nhuận sắc tác phẩm này nhưng ông ta không có dũng khí mở miệng vì đã tràn trề ân sủng của lãnh tụ. Chuyện lính Trung Quốc tham chiến ở Việt Nam được ngụy trang thế nào, sẵn xe nhà, người ta đưa tôi tới nghĩa trang chí nguyện quân, nơi những người lính Trung Quốc nằm lại vì không may trong khi làm nhiệm vụ quốc tế. Chuyện hồng quân Liên Xô bắn rơi B52 của Mỹ chứ chẳng phải do Trần Đại Nghĩa (72) độ chế Sam 2 và phòng không Không Quân Việt Nam tác xạ. Sau ngày Liên Xô sụp đổ, những hồng quân viễn chinh năm xưa còn sống tập hợp lại, đã lên tiếng trên mạng internet đòi quyền lợi. Thế mà cuối thập niên 60, Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa tố cáo với quốc tế, Hà Nội chối bai bải, gạt luôn cả việc quân đội Bắc Việt có mặt tại miền Nam. Chuyện mười sư đoàn Trung Quốc chờ chật biên giới phía bắc đợi tổng thống Dương Văn Minh ở miền Nam xin cứu viện theo đề nghị của một tướng Pháp sẽ tức khắc tiến chiếm Hà Nội, tạo ra hai nước Việt Nam, một chư hầu Nga, một chư hầu Hoa. (73) Chuyện mười sáu tấn vàng của miền Nam do phó thủ tướng Nguyễn Văn Hảo báo cho đại tá Bùi Tín, sĩ quan bộ đội miền Bắc có mặt tại mặt trận lúc Sài Gòn thất thủ, sau đó chuyển ra Hà Nội được bộ chính trị xẻ thịt như thế nào. Chuyện tổng bí thư Đỗ Mười xuất thân hoạn heo thiến gà man khai lý lịch thợ sơn để được liệt vào giai cấp công nhân, thăng tiến đến ngôi tổng bí thư là người đào mồ chôn tư sản lại nhận đút lót của tập đoàn tư bản Samsung một tỷ đô. Chuyện Lê Duẫn mượn tay tình báo Pháp giết tướng Nguyễn Bình (74) trên đất Campuchia và suốt đời đố kỵ tài năng với tướng Võ Nguyên Giáp. Từ đó, bắc thang cho Lê Đức Anh sau này so bì võ công và coi khinh tướng Giáp hơn nữa. Chuyện Lê Duẫn vừa đọc báo cáo trong đại hội đảng vừa mang bị cứt trong quần. Ông còn mang bị cứt ấy theo khi đến Moskva vào điện Kremlin. Sao lại có việc trời ơi ấy? Đơn giản, bộ ruột của ông không còn làm chủ được việc ỉa đái nhưng vẫn tham quyền cố vị… Ối, chỉ sợ không có bụng mà chứa, không có tai mà nghe!
(71) Đặng Thai Mai (1902-1984): nhà giáo, nhà văn, nhà phê bình văn học, nguyên trưởng giáo dục, viện trưởng đầu tiên viện Văn Học Việt Nam.
(72) Trần Đại Nghĩa (1913-1997): Thiếu tướng, giáo sư, viện sĩ, kỹ sư quân sự, nhà quản lý khoa học kỹ thuật cấp cao, cha đẻ của ngành công nghiệp quốc phòng Việt Nam.
(73) Xem Lịch Sử Đảng xuất bản lần thứ nhứt.
(74) Nguyễn Bình (1906-1951): tên thật là Nguyễn Phương Thảo, năm 1936 ly khai Việt Nam Quốc Dân Đảng, năm 1946 gia nhập đảng Cộng Sản Việt Nam, năm 1948 được phong trung tướng. Trên đường ra Bắc, ông bị Pháp phục kích bắn chết tại huyện Sẽ San trên đất Campuchia ngày 29 tháng 9 năm 1951.
Nhưng người Hà Nội đến lạ! Họ biết Xã Hội Chủ Nghĩa là cái bánh vẽ cực kỳ thối tha mà cứ hớn hở ngồi vào lột lá bóc ăn và xơn xớt khen ngon khen ngọt đến nỗi người ngoài nhìn vào phát thèm. Họ biết Hồ Chí Minh gian manh xảo trá mà cứ ngoác miệng ngợi ca lúc ông ta còn sống và khóc khô nước mắt khi ông chết. Họ biết bè lũ kế thừa đang đi tiếp con đường của ác quỷ mà vẫn tranh nhau làm tôi mọi, cúc cung tận tụy. Họ biết lịch sử đang được rao giảng là thứ cực kỳ giả dối nhưng học thuộc vanh vách, nếu có ai mạnh dạn đính chính thì phồng mang trợn mắt, cãi cối cãi chày như sợ mất đi độc quyền làm thân sáo vẹt. Họ nhận quá nhiều đau khổ do độc tài đảng trị nhưng không dám đối mặt với kẻ thù cứ ươn hèn đổ vạ cho phong kiến, cho tư sản, cho địa chủ, cho Mỹ Ngụy, xua con em vào chết ở miền Nam mà không biết đang hiến máu cho hung thần và đang hy sinh cho một thiên đường mù… Ngoại trừ một số rất ít sớm thức tỉnh như Trần Độ, (75) Hoàng Minh Chính, (76) Trần Xuân Bách, (77) Phạm Quế Dương, (78) Nguyễn Thanh Giang, (79) Dương Thu Hương, (80) Lê Hồng Hà, (81) Hà Sĩ Phu, (82) Bùi Minh Quốc (83)… tôi chưa thấy một tổ chức nào bi phẫn, chưa thấy một đoàn thể nào muốn nắm tay nhau liên kết xuống đường biểu tình, họp mít-tinh vạch mặt chỉ tên bè lũ tay sai Nga-Hoa, tập đoàn phi nhân bản phản nhân quyền, bọn bán nước cầu vinh, đòi hỏi tự do dân chủ, nói lên khát vọng chân chính, kêu gọi hòa bình… như quần chúng nhân dân Miền Nam trước đây.
(75) Trần Độ (1923-2002): Trung tướng quân đội nhân dân VN, là nhà quân sự và chính trị, người chủ trương đổi mới triệt để đảng CSVN và chế độ Việt Nam hiện hành.
(76) Hoàng Minh Chính (1920-2008), tên thật là Trần Ngọc Nghiêm, nguyên tổng thư ký đảng Dân Chủ Việt Nam (1944-1988), viện trưởng Viện Triết Học Mác-Lênin. Ông cho rằng học thuyết của Karl Marx và Friedrich Engels - chủ nghĩa mà một thời ông đã nghiền ngẫm, tuyên truyền và ca ngợi, có sai sót cơ bản và việc thực hiện học thuyết này ở các nước Đông Âu dẫn đến những tai hại nghiêm trọng. Ngày 1 tháng 6 năm 2006, Hoàng Minh Chính ra tuyên bố khôi phục đảng Dân Chủ.
(77) Trần Xuân Bách (1924-2006), tên thật là Vũ Thiện Tuấn, ủy viên bộ chính trị, bí thư trung ương đảng, được giao nhiệm vụ nghiên cứu về lý luận, ông có nhiều bài viết và phát biểu theo hướng đổi mới mạnh mẽ và theo xu hướng đa nguyên, đa đảng. Do dó, tại hội nghị trung ương đảng khóa 8 (3-1990), ông bị phê phán gay gắt và bị kỷ luật, trục xuất khỏi bộ chính trị và ban chấp hành trung ương, ông từng phát biểu: “Dân chủ không phải là ban ơn, không phải là mở rộng dân chủ hay dân chủ mở rộng… Dân chủ là quyền của dân - với tư cách là người làm nên lịch sử, không phải là thứ ban phát do tấm lòng của người lãnh đạo này hay người lãnh đạo kia. Thực chất của dân chủ là khai thông trí tuệ của toàn dân tộc và đưa đất nước đi lên kịp thời đại…”
(78) Phạm Quế Dương (1933): đảng viên Cộng Sản, cựu đại tá quân đội nhân dân Việt Nam, nguyên tổng biên tập tạp chí Lịch Sử Quân Sự thuộc viện Lịch Sử Quân Sự. Ông từ bỏ đảng CS tháng 1/1999 phản đối việc trục xuất tướng Trần Độ khỏi Đảng, ông viết nhiều bài báo, đơn thư khiếu nại, thư ngỏ kêu gọi thực hiện dân chủ, nhân quyền, ông cũng là một trong những chủ nhiệm của Bản Tin Tổ Quốc phát hành bí mật trong nước và qua Internet, ông đã bị bắt và bị quản chế tại gia nhiều lần.
(79) Nguyễn Thanh Giang (1938) - tiến sĩ, nhà đấu tranh dân chủ.
(80) Dương Thu Hương (1947) nhà văn, tác giả Thiên Đường Mù. Sau một thời gian bị trấn áp, bị quản chế, bà dược nhà nước Pháp can thiệp, hiện sống và viết tại Pháp.
(81) Lê Hồng Hà (…): Nguyên chánh văn phòng bộ Công An, nhà ly khai, đấu tranh cho dân chủ
(82) Hà Sĩ Phu (1940): Tên thật là Nguyễn Xuân Tụ: Tiến sỹ, nhà khoa học tự nhiên, nhà văn, nhà bất đồng chính kiến, ông có nhiều bài viết nổi tiếng phê phán chế độ Cộng Sản, được tổ chức Human Rights Watch trao tặng giải Hellmann/Hammett.
(83) Bùi Minh Quốc (1940): Bút hiệu Dương Hương Ly. Ngay từ hồi còn đi học, ông đã sớm nổi tiếng ở miền Bắc với bài thơ Lên Miền Tây. Cuộc đời ông từng gắn liền với huyền thoại về sự hy sinh của văn nghệ sĩ cho cuộc kháng chiến chống Mỹ. Khi vào miền Nam, ông mới hiểu ra mình và hằng triệu người đã bị lừa phĩnh. Từ đó, ông trực diện chống đối sự độc tài của đảng Cộng Sản, đòi hủy bỏ điều 4 trong Hiến Pháp - Đảng Cộng Sản độc quyền lãnh dạo đất nước vô thời hạn.
- Em có đến thăm cha không?
Xe chạy được hai phần đường, muốn dẹp bỏ mớ bòng bong trong lòng Mơ, tôi bắt qua một chuyện khác. Cô ta gật đầu, nhưng cổ họng vẫn còn lướng vướng dây mơ rễ má thời sự thủ đô.
- Họ sống thế nào? Tôi hỏi dồn.
- Cha đang chờ nghỉ hưu nhưng dì còn công tác ở bộ quốc phòng! Cô ta nói, hạ thấp kính cửa, lơ đãng nhìn ra ngoài.
- Dạo này ông bà sinh sống thế nào? Tôi lại hỏi.
- Anh khỏi lo, cả hai đều là sĩ quan cao cấp, được cấp đất thành phố, nhà to không thua gì đình làng. Lương bổng một tướng một tá, sống dư dả, đầm ấm, hạnh phúc. Một cô em đã đi làm, cô kia còn học một năm nữa. Chúng nó thuộc loại xinh gái nhưng coi bộ ngôn hạnh không ra gì, chỉ giỏi đua đòi và ăn diện, rất kiêu hãnh làm người Tràng An (84) nhưng rỗng tuếch. Trước khi ra về, em có xin phép ông bà gởi lại cho hai cô chút ít, góp phần vào của hồi môn sau này.
(84) Tràng An: Tên kinh đô cổ của Trung Hoa từ thời nhà Hán, hiện nay ở huyện Trường An tỉnh Thiểm Tây. Hà Nội vốn 1 kinh đô của Việt Nam mà từ lâu, người Hà Nội tự cho mình là người Tràng An. Chẳng thơm cũng thể hoa nhài. Chẳng sang cũng thể là người Tràng An (ca dao).
Nói đến đó, Mơ lục ví mở máy kỹ thuật số bấm cho tôi xem những tấm hình vừa thu cách nay mấy hôm. Đã cho xe giảm tốc, nhưng tôi không dám tập trung, chỉ liếc láy qua loa cho có.
- Tốt! Tôi vẫn khen cho vợ vui lòng.
Nhưng ngay khi ấy, tôi nhận ra trong bộ dạng của Mơ có cái vẻ ngằn ngặt, dùng dằng.
- Cũng cần nói thêm để anh rõ, dì ấy thuộc loại tham lam, ích kỷ và ngỗ ngược. Được đàng chân lân đàng đầu, thấy em rộng rãi, bà cho như thế vẫn chưa đủ. Trong từng suy nghĩ, từng nói năng, bà chỉ biết vun quén cho cái tổ ấm của mình. Tội cho cha, đôi khi ông lỡ lời nhắc tới mẹ đang côi cút trong Nam, bà vội lồng lộn ghen tuông bóng gió, nặng mặt nặng mày.
Mơ chì chiết, cằn nhằn cẳn nhẳn.
Vào thời điểm này, hình như chuyện nhà của cha tôi đối với cô ta còn bức bối hơn mớ thời sự Hà Nội, quả thật tôi không ngờ và không muốn nghe.
Vì sao vợ bận tâm mà tôi nghễnh ngãng? Có phải vì cục bộ mà tự ái? Có phải vì gia phong mà xấu hổ?
Không! Mơ chỉ thấy ao mà không thấy bùn. Mơ chỉ thấy sông mà không thấy suối. Dù gì tôi cũng đã mấy lần đi Hà Nội, đã từng ngủ nghỉ trong ngôi nhà đúc ba tầng ở đường Trần Phú ngay giữa thủ đô, đã từng nghe tiếng bấc tiếng chì của dì ấy, đã từng ngán ngẩm phong cách quý tử của hai cô em và bạn bè chúng nó. Nhưng tôi không bao giờ dám mở miệng ca thán với ai, đặc biệt đối với vợ và mẹ, còn muốn đào sâu lấp kín hơn nữa.
Một viên chức cao cấp bộ phục vụ ở bộ Giáo Dục gốc miền Nam lấy vợ người Hà Nội có lần cho tôi hay ba mươi năm xã hội chủ nghĩa, đạo đức truyền thống đất Bắc đã bị quét sạch, thay vào đó, một cái gì hợm hĩnh gần như vô hạnh, một cái gì trần trụi gần như vô cảm, một cái gì sống sượng gần như vô sỉ, một cái gì kịch cỡm gần như vô luân. Nhưng tất cả đều được chắp vá, che chắn, sơn phết bằng phù hoa giả hiệu. Trong mọi gia đình, cha con chồng vợ đều cá mè một lứa. Trong mọi trường học, thầy trò bè bạn đều gà vịt một bầy. Trong mọi cơ quan đoàn thể sắp lớp phân cấp bằng quyền lực. Tất cả đều bị chính trị hóa và vật chất hóa.
Tình thương ăn ké hận thù, tình yêu núp bóng quan điểm, tình nghĩa núp bóng giai cấp. Hiện nay người ta chỉ biết lôm côm tích cóp, tranh thủ hơn nhau cái thẻ đảng, nhâng nháo hợm hĩnh chức quyền, lấy mê tín dị đoan làm kim chỉ nam, phục hồi vô tội vạ những hủ tục từ thôn quê theo các ngài vô sản chuyên chính mà lên thành thị…
Mãi lan man, tôi giật mình nhận ra phía trước một đoàn xe tải ngược chiều. Ai như Lê Viết Kỳ ló mặt qua ca-bin đưa tay vẫy chào. Thoáng thấy nhưng tôi vẫn không giảm tốc, tập trung cầm lái và nhân đó buông lơi mọi sự. Có lẽ đã tinh mắt nhận ra chồng không thích lún sâu vào chuyện cửa cha nhà mẹ, đang hăng tiết bất chợt Mơ im phắt, dim mắt như muốn ngủ.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Christiane

Re: Phiên Bản Tình Yêu (Vũ Biện Điền)

Postby bevanng » 01 May 2016

- A.41
Hướng ly hương của Mơ. Vượt qua Thái Bình Dương, tưởng như đùa.


Về nhà đúng bữa cơm trưa nhưng Mơ không vội ngồi vào bàn. Những phần quà mua sắm ở hai thành phố lớn nhất nước đeo đẳng hành hạ, cây bút bi trong tay cô ta hết mở lại gói, hết phân lại chia, rồi cắm cúi ghi chép đến vã mồ hôi trán.
- Chiều nay anh có rảnh không?
Tắm táp xong, như bao lần trước mỗi khi đi xa về, Mơ lại hỏi. Thấy tôi không lên tiếng, cô ta vội đổi ý.
- Thôi được rồi, em đi một mình!
- Quà biếu mấy quan phải không?
Nghĩ lại thương vợ, tôi hỏi, ngồi xuống chiếc ghế cạnh bàn ăn. Mơ cũng theo vào. Tôi tự tay xới cơm vào chén, ân cần mời mọc. Nhưng vừa cầm đũa, chợt nhớ ra điều gì, Mơ lặng lẽ rời bàn lên lầu, mặt khó đăm đăm.
Liên hâm lại thức ăn và có ý về ngay nhưng chưa tiện. Tôi gác đũa ngồi chờ, rồi vơ đại tờ giấy gói hàng, cúi đọc mục tin rao vặt. Mơ trở xuống, vào bếp nói chuyện với Liên một lúc, con Miki quấn theo chân chủ không rời nửa bước. Tôi nôn nóng ăn trước một mình. Sau khi nhận quà từ tay Mơ, Liên xin phép ra về. Vẫn chưa chịu ngồi vào bàn, cô ta trở lại phòng, hình như đang lục tìm một cái gì trong mớ hành lý, lâu lâu lại lên xuống cầu thang. Tôi ngài ngại nghĩ tới những khúc mắc dạo Mơ đi về lần trước. Khi tôi đã đến lưng chừng bữa, Mơ mới ngồi vào, tỏ vẻ không thiết tha cơm nước.
- Hè này thằng Cu nhà mình định về thăm nhưng em khuyên con không nên! Mơ nói, dùng khăn bọc lấy tóc đang còn ướt.
- Sao vậy? Tôi hỏi, khựng cứng cả người.
- Em sẽ đi Mỹ!
Mơ nói, đơn giản như báo đến thăm ai trong nội thị. Nghẹn thắt họng, tôi buông chén, lao đũa vào mâm.
Mơ nói tiếp.
- Anh đừng lo, em chưa đi hẳn đâu. Dưới dạng du lịch dài ngày, em chỉ qua bên đó vài tháng xem sao.
Miki len lén từ vườn vào phủ phục dưới chân Mơ.
Cô ta cúi xuống vuốt ve con vật mấy cái.
- Đã đăng ký chưa?
Tôi gượng hỏi, chưa hết bàng hoàng.
- Rồi!
Mơ cầm lấy đũa nhưng thần thái vẫn ở nơi đâu.
Vượt qua Thái Bình Dương, chuyện như đùa, nhưng tôi quan sát sắc diện cô ta thì có đùa đâu. Rõ ràng hướng tiến và đà lao về phía Mỹ mỗi lúc một tăng tốc! Lực hút này do đâu? Có phải từ những cuộc giao tiếp với đối tác người nước ngoài mỗi khi ký hợp đồng? Có phải từ hấp dẫn của đồng đô la qua những kỳ lại quả vừa gọn nhẹ vừa chắc cú? Có phải từ những phim ảnh chui mà có đêm cô ta thức trắng đến thâm quầng mắt môi với cái earphone gắn chặt vào tai? Có phải từ cuộc gặp tình cờ cô bạn gái về thăm quê hương đầy ắp thông tin hải ngoại sống động? Có phải từ những dịch vụ gởi chui tiền bạc của các quan ông quan bà qua bên ấy? Có phải từ cách sống lá trái lá phải, đứng núi này trông núi nọ của các lãnh đạo chuyên chính vô sản? Có phải từ đau nhức ý thức nhược tiểu hướng về đất nước văn minh hiện đại? Có phải từ cơn khát truyền kiếp nô lệ tận cùng sâu thẳm, bột phát mơ màng tự do? Từ những đâu chưa rõ, nhưng quả thật có một chấn động và một vết rạn trên mặt nền bình an của vợ chồng chúng tôi.
Buổi tối, sau khi Mơ hoàn tất việc biếu tặng và tôi ở tổng công ty về, chúng tôi lại gặp nhau trong bữa ăn.
- Mang tiếng đi chơi đi thăm nhưng đúng là đi dò!
Mơ nói, lửng lơ, chẳng quan tâm tôi có muốn nghe chuyện hay không.
- Sau đó, nếu điều kiện cho phép em sẽ tìm cách tạo cơ ngơi bên đó. Chừng vài ba năm nữa thằng Cu nhà mình tốt nghiệp, không còn phải đi đi về về, chúng ta sẽ tính chuyện an cư lạc nghiệp lâu dài.
Một định hướng như thế mà đưa ra như thông báo, chẳng cần bàn bạc, mặc nhiên như đã an bài! Cách áp đặt này có tự bao giờ? Tôi thật sự choáng váng.
- Mỹ là đất nước tự do nhưng không phải ngôi nhà vô chủ! Tôi cảnh báo.
- Biết rồi! CIA vòng ngoài, FBI vòng trong, trên trời có NASA, dưới đất có HẠM ĐỘI, trình độ nghiệp vụ cao, có máy móc hiện đại hỗ trợ. Nhưng hoàn chỉnh đến đâu vẫn có kẽ hở, em sẽ tìm cách được xếp vào loại tỵ nạn chính trị! Mơ nói, như có soạn sẵn.
- Nhưng em đang là đảng viên Cộng Sản cốt cán, một quan chức kinh tế đáng tin cậy của chế độ!
Một lần nữa tôi cảnh báo.
- Càng tốt! Anh khỏi lo, em đã lần ra đường dây và đã được tư vấn. Anh có biết trước đây ở miền Nam, ai bày ra ty chiêu hồi (85) không? Cố vấn Mỹ đấy! Là thành trì dân chủ tự do của cả thế giới, họ rất thích những tên tuổi từng độc tài khát máu phản tỉnh quy hàng! Mơ nhìn tôi chăm chăm, mỉm cười.
(85) Ty Chiêu Hôi: Sau 1967, chính quyền miền Nam Việt Nam đổi bộ Thông Tin thành bộ Thông Tin - Chiêu Hồi nên các tỉnh có Ty Thông Tin Chiêu Hồi nhưng dân chúng hay gọi ty Chiêu Hồi - chủ trương kêu gọi cán bộ và binh sĩ Cộng sản rời bỏ hàng ngũ về với chính nghĩa Quốc Gia.
- Chỉ sợ anh không vui thôi!
Rồi tắt phụt ngay ánh mắt. Đương nhiên tôi không vui. Nhưng ngoài bực bội do cảm tính thôi thúc, chứng lý phản bác vẫn mịt mù. Vả lại, dù chuyên đoán, dù xốc nổi nhưng Mơ đang mưu cầu hạnh phúc cho cả gia đình, tôi không thể bàng quan.
- Đã có ai theo cách đó chưa?
Sau một lúc im lặng, tôi lần mò chia xẻ.
- Ở các thành phố lớn như Sài Gòn, Hà Nội, Đà Nẵng, Hải Phòng thiếu chi!
Mơ tỏ ra hiểu biết và tự tin.
Xong bữa, tôi lên lầu vào phòng mở máy vi tính xem lại bản thảo hợp đồng mua bán với người đại diện chủ ngôi nhà và khu vườn dì cháu Cẩm Bình đang ở. Có nên cho Mơ hay chuyện mình tình cờ gặp lại Cẩm Bình, chị gái Cẩm Khuê, và cả quyết định mua đất cất nhà? Có nên thú thật nỗi lòng đối với con bé Tường Vi? Và đề nghị cô ta trích một ít tài sản tặng dì cháu cô bé đang cơ nhỡ? Mơ sẽ phản đối và mở rộng nghi ngờ, khả năng nổ lớn khó thể tránh. Biết đâu tăng lực đẩy tung đà lao về phía Mỹ. Tôi cố hình dung sự thể diễn ra. Chưa gì mà đã nghe như đất lở, như nước tràn! Vậy thì thôi! Tôi thin thít ngồi im. Thật khó bắt đầu một cuộc hàn huyên san xẻ, mặc dầu quá trình quan hệ, chung sống, chúng tôi đã bao lần thẳng thắn, nhưng đây là cốt lõi riêng tư của một đời người. Bóc trần ra, đưa lên bàn mổ, biến mọi sự thành vật thể, dẫu ngắm nghía tứ phía, ngoài tôi không ai thấy được gì. Tôi nhận ra không thể xóa bỏ một ranh giới mơ hồ. Sau khi chỉnh sửa một số tiểu tiết trong bản thảo, tôi bần thần đắn đo. Một ngày nào đó, qua kiểm toán tài chánh, cô ta sẽ biết? Không! Cô ta thông minh, rành rõi nhưng không tập trung như trước. Có những khoản phụ thu ngoài sổ sách, chẳng hạn chênh lệch lợi nhuận đầu tư ở các công ty con, chẳng hạn lại quả phát sinh sau mỗi hợp đồng, chẳng hạn kiệm ước tí đỉnh từng khoản điếu đóm hàng năm, chẳng hạn tiền tôi trúng số cặp độc đắc hôm mua giúp Đỗ Minh… Chừng đó đủ giúp tôi thoải mái vung tay. Hình như ý hướng ly hương của Mơ khiến tôi quyết tâm hơn nữa. Thành thật mà nói, tuy tiến trình chuyển nhượng mới bắt đầu nhưng không hiểu sao mỗi khi nghĩ tới, tôi nao nức đến lạ. Đã từng tạo lập cả chục cơ ngơi, tôi chưa bao giờ có cảm giác này!
Chuông đồng hồ treo tường đổ chín tiếng. Đến giờ tôi vào giường. Hai mươi năm nay thường đêm tôi nghỉ ngơi cùng chiếc radio cassette của Trần Xuân Vinh để lại. Kỹ năng kỹ xảo đã thuần thục, chỉ đẩy nhẹ công tắc, ém earphone vào tai, tôi thoải mái theo dõi thời sự trong nước và cả thế giới. Đây là những nguồn tin tương đối chính xác, nhanh nhạy, không chỉ bồi đắp kiến thức mà còn giúp tôi kịp thời có những quyết sách kinh tế. Hết đài BBC, tôi nghe tiếp đài RFI. Chiến tranh Trung Đông có chiều hướng bùng nổ lan rộng. Cả hai đài đều đưa tin giống nhau, nhưng RFI chi tiết hơn. Sau khi tiến chiếm Kuwait, (86) tổng thống Saddam Hussein (87) của Iraq huênh hoang thách thức cả thế giới. Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc ra nghị quyết khuyến cáo Iraq. Saddam Hussein vẫn ngoan cố. Phát ngôn viên ngoại giao Trung Quốc tuyên bố lập lờ nhưng ai cũng biết muốn gượng đỡ cho nhà độc tài Saddam Hussein. Còn Việt Nam hàng hai, vừa muốn chứng tỏ ta đây là thành viên độc lập trong Liên Hiệp Quốc, lại sợ mất lòng đại hãn Trung Hoa nên bày tỏ quan ngại hòa bình thế giới và yêu cầu các bên tham chiến giữ bình tĩnh. Toàn là thứ nước đổ lá khoai, sóng xao đầu vịt! Mỹ đã đưa hạm đội vào sâu vùng vịnh. Tổng thống George Bush đang tham khảo ý kiến lưỡng viện. Đến nước này, chiến tranh Trung Đông thế nào cũng bùng nổ, giá dầu sẽ tăng, kéo theo giá thị trường nguyên vật liệu khác. Trước mắt, kinh tế thế giới bất ổn, Việt Nam dù muốn dù không cũng phải cuốn theo… Nghe xong tin tức đài VOA, tôi đang ngẫm nghĩ đối sách cho tổng công ty trong bối cảnh biến động sắp tới, Mơ đẩy cửa bước vào, mang theo cuốn sổ lớn. Chưa biết vợ định bàn chuyện gì, nhưng tôi vội tắt radio, cô ta ngồi vào giường, cây viết trong tay. Tự dưng hai chúng tôi cùng im lặng. Hình như chuyện Mơ sắp nói rất khó nói và chuyện tôi sắp nghe rất khó nghe.
(86) Chiến tranh vùng Vịnh năm 1991, cũng gọi chiến tranh vịnh Pêch-Xích hay chiến tranh Bão Táp Sa Mạc, là cuộc xung đột giữa Iraq và liên minh gần 30 quốc gia do Hoa Kỳ lãnh đạo và Liên Hiệp Quốc phê chuẩn để giải phóng Kuwait, bởi Iraq xâm chiếm Kuwait ngày 2-8-1990, với lý do Kuwait khoan nghiêng giếng dầu của họ vào bên trong biên giới Iraq. Sau đó Iraq bị Liên Hiệp Quốc áp đặt trừng phạt kinh tế.
(87) Saddam Hussein (1937-2006): Nhà độc tài và tổng thống Iraq từ 1979 đến 2003 - thời điểm Mỹ tấn công Iraq lần thứ II (chiến tranh vùng Vịnh II) với lý do Iraq tàng trữ vũ khí giết người hàng loạt. Mỹ tiến quân ồ ạt, vệ binh Iraq tan rã. Saddam Hussein chạy trốn, chẳng bao lâu bị bắt. Tháng 11-2005, ông bị tòa án nhà nước Iraq mới thành lập đem ra xét xử, kết án tử hình vì phạm tội ác chống nhân loại.
- Tài sản của chúng ta hiện nay nằm dưới ba dạng!
Chừng năm phút sau, Mơ nói. Tôi ngồi thẳng dậy.
- Bất động sản gồm có ngôi biệt thự này.
Mơ đảo mắt nhìn quanh một lúc rồi nói tiếp.
- Năm lô thổ cư nội thị, một căn phố đang cho thuê, một trăm tám mươi hectas cao su, một trăm ba mươi hectas cà phê, sáu mươi lăm hectas điều, hai mươi tám hectas tiêu. Ngoài chiếc Mercedes anh đang xử dụng, chiếc Nissan ở tổng công ty, động sản gồm có hai mươi lăm xe tải, mười hai xe lôi bồi, tám xe ủi xích, hai mươi lăm dàn cưa xẻ, năm máy lạng ván ép, hai mươi bảy dàn cưa liên hợp chế biến mộc gia dụng, một số vật tư phụ tùng đang lưu kho trị giá khoảng một triệu hai đô. Hai dạng tài sản này theo em nghĩ từ nay không nên phát triển nữa, tìm cách chuyển giao cho các công ty con sở hữu và xử dụng để ta thu hồi vốn theo cách khấu hao mãi đoạn.
Tôi ngẫm nghĩ rồi gật đầu, Mơ nói tiếp.
- Phần tài sản dưới dạng vàng, hột xoàn, tiền đồng và trái phiếu Việt Nam sẽ chuyển thành đô-la. Hành khách quá cảnh không thể mang tiền vượt hạn định, nhưng không sao. Qua bên đó, em sẽ tìm cách chuyển chui và mở trương mục đứng tên con. Mỹ thượng tôn luật pháp, không độc quyền độc đảng, bày trò đòi tiền cướp cạn tài sản của dân đâu mà anh lo.
Tôi cũng gật đầu. Coi như giải quyết xong phần cơ bản, Mơ nằm dài lên giường, lấy gối kê cao đầu.
- Khoảng một ngàn hai trăm ba mươi tỷ hiện đang luân chuyển trong vốn lưu động, khi tiền về anh chi một ít trả dứt nợ ngân hàng, trả luôn khoản vốn nhà nước chuyển giao từ thời Võ Văn Cang, còn bao nhiêu giữ lại quỹ tiền mặt gia đình dưới dạng ngoại tệ mạnh. Từ nay, tìm cách chấm dứt chế độ bảo lãnh tín dụng, các công ty con phải tự đứng trên chân mình, nỗ lực xoay xở, chấp nhận rủi ro. Làm thế có hai cái lợi, một là, các công ty con sẽ dần dần độc lập tự chủ, hai là, công ty mẹ từ từ rút về vị trí chủ đạo, thuần túy quản lý hành chánh, tới lúc không muốn bay nữa ta sẽ nhẹ nhàng hạ cánh.
Nói đến đó, chợt nhớ điều gì, Mơ quay về phòng. Tôi cúi xuống cuốn sổ cô ta vừa để lại. Đây là dịp có thể thấy toàn bộ tài sản của mình, nhưng tôi không nhận rạ cảm giác sung sướng của người sở hữu tiền của. Ngược lại, biến động, dịch chuyển, phân ly luẩn quẩn, lượn lờ trước mắt khiến tôi rã rượi lươn ươn như người đang nhuốm bệnh. Phải chận cô ta lại? Vâng! Phải chận! Nhưng…? Giở được mấy trang, tôi dừng phắt, cảm thấy nghẹn thắt họng. Rồi xốn xang, nhói buốt, tôi nằm dài xuống giường, gác tay lên trán. Bất chấp mọi lý do, phải chận bước cô ta! Vâng! Chận thôi! Nhưng chận bằng cách nào và bắt đầu từ đâu? Ngổn ngang, căng thắt một lúc, tôi gượng dậy, chếnh choáng đến hoa mắt. Phân tích cho Mơ thấy vì muốn tiếp thu học thuật tiên tiến nên con mình cần đến Mỹ, nhưng mình thì không. Tư bản ngoại quốc đang tìm cách đầu tư vào các quốc gia kém phát triển, sao mình đi ngược xu thế thời đại, đưa củi về rừng! Đã thế mà không nghe, báo động cho cô ta thấy nguy cơ hạnh phúc gia đình tan vỡ mà nguyên nhân và cả sai trái không do mình gây nên. Nhưng liệu có chận được không? Được hay không thời gian sẽ trả lời. Lúc tôi đang hướng tới quyết tâm cao nhất, Mơ trở lại, ngồi xuống bên cuốn sổ, đăm chiêu một lúc.
- Em dành phần cho hai bên cha mẹ khoảng một ngàn năm trăm triệu, anh thấy thế nào?
Mơ đề nghị, gõ nhịp đầu bút vào mặt sổ. Đang lúc rối rắm lại bị hối thúc, tôi vùng ra khỏi giường. Cô ta ngước mắt dõi theo, mím môi như sắp sửa phản ứng. Kỳ thực tôi không rõ cha mẹ mà Mơ vừa nói tới gồm những ai? Năm hay ba? Và cô ta đã tính toán thế nào để đưa ra con số ấy? Nếu là ba, chừng đó hơi thừa, nếu là năm, biết đâu lại thiếu. Nhưng thôi, so kè với mẹ với cha hóa ra bất hiếu. Quanh quẩn trong phòng một lúc, mù mờ, nhưng rồi tôi cũng gật đầu. Vào giờ phút này những, quyết định như thế chẳng là gì khiến tôi phải bận tâm.
Coi như xong việc, Mơ lạnh lùng đứng dậy, ôm sổ về phòng riêng. Tôi nằm lại xuống giường, một mình, lâu lâu nhướng mắt nhìn về ô cửa để hờ. Tôi chờ Mơ trở lại và nhất quyết phải lên tiếng. Nhưng thời gian lặng lẽ trôi mà chẳng nghe động tĩnh. Tôi tìm tới phòng cô ta nhưng cửa đã khóa. Áp tai nghe ngóng, tôi nhận ra tiếng ngáy ngủ. Tần ngần một lúc, tôi về lại phòng mình. Quả thật, Phan Thị Mơ, vợ tôi, đổi thay nhiều quá! Tôi muốn đập phá đâu đó mà kêu lên cho hạ cảm, nhưng rồi chỉ biết ôm đầu bứt tóc. Dạo này mặt mày cô ta được gia cố phấn son kỹ hơn, áo xống thời thượng hơn, đi đứng đong đưa hơn, nói năng lạnh lùng hơn, bộ tịch dứt khoát hơn, đôi khi còn xen vào cái hẩy vai rất tây, cái nhướng mày rất đầm. Xu hướng tách bạch tiền tài của chồng của vợ của con rất rõ nét, ý thức giới hạn tự do cá nhân và công bằng xã hội về giới tính rất phân minh. Tất cả hoạt tính ấy đến với cô ta tự bao giờ? Úp mặt vào gối, tôi hỏi tôi, buồn não ruột gan. Hai mươi năm chung sống, đồng cam cộng khổ, bỗng dưng cô ta thành con người khác! Khoảng trống xa lạ mở ra, do không chuẩn bị tôi thấy ngờm ngợp, xan xát, rát rao, thứ cảm giác phát sinh từ vết cứa của hai bánh nhông bỗng dưng cời cợi khớp răng. Ngày trước Hồ Cẩm Khuê nguyền rủa rồi quay lưng vì tôi cuồng dại, chìm trong cơn lốc thời cuộc. Bây giờ Phan Thị Mơ tung tăng trong tiền của và dấn bước phiêu du mà tôi có sai quấy gì đâu! Dẫu chưa hẳn chia ly chồng vợ nhưng xa mặt cách lòng, tôi nghe đau.
Sáng hôm sau tôi thức dậy muộn, nghe Liên trước đó bằng xe nhà Nissan và tài xế do Lê Viết phái tới, Mơ đã đi Huế từ tinh mơ. Tôi cũng đến tổ công ty chủ trì phiên họp thường kỳ, trù bị lễ sơ kết tình hình kinh doanh sáu tháng đầu năm. Công việc dồn dập xua đi tâm trạng bực dọc, thời gian qua nhanh. Tan tầm tôi gọi điện báo cho Liên không ăn cơm nhà. Bữa tiệc chiêu đãi ở nhà hàng Cao Nguyên tuy gói gọn nhưng đủ mặt quan chức trong tỉnh, bí thư Nguyễn Thanh Cưỡng, chủ tịch Phạm Tư, phó chủ tịch Phí Đu, chủ tịch hội đồng tỉnh A Tuk và các chánh phó giám đốc sở. Ban đầu chỉ liên hoan họp hội bình thường, không ngờ các giám đốc công ty cố tình phát triển vui chơi, kéo dài suốt buổi. Ngày kế, buổi sáng tôi đi dự khánh thành trụ sở mới của ngân hàng Công Thương, buổi chiều họp công đoàn do Mã Tho chủ trì. Tiếp đến, một chuỗi họp hội và liên hoan bù khú từ ủy ban tỉnh đến các sở, phòng. Trong lúc người tôi như muốn chết ngợp theo chè chén, dứ đừ giao tế, Mơ quay về nhà nhưng lại đi thành phố Hồ Chí Minh ngay. Lần này chẳng có một tiếng chào chồng, làm như đã ly thân chờ ngày ly dị. Rồi tháng sau Mơ lặng lẽ lộn về, không đến tổng công ty, không thăm viếng ông to bà lớn nào như mọi khi, nhưng bận rộn sổ sách và chuẩn bị tư trang, hành lý. Mỗi bữa cơm cô ta ăn rất ít, lâu lâu nhắc nhở tôi công này việc nọ. Một hôm đang ngủ, giữa lúc khuya khoắt, Mơ gõ cửa đánh thức tôi dậy, tưởng là đòi hỏi ái ân, thì ra cô ta hỏi đến một khoản nợ mà người ta đã trả từ lâu. Một bữa cô ta gọi điện đến tổng công ty, rà xem khoản tiền thu về từ trái phiếu còn đến nửa năm mới đáo hạn kỳ. Rồi Mơ tất bật trở lại thành phố Hồ Chí Minh. Rõ ràng cô ta thoát dần khỏi chồng, cuốn theo gió loạn thời đại, nhưng tôi không biết phải với bắt bằng cách nào.
Trong từng ngày sống lơ lửng ấy, tôi nhận được điện của Mơ nhưng không rõ từ đâu gọi về. Chất lượng truyền rất kém, tiếng được tiếng mất, có lúc phải đoán mò. Đại để, Mơ đã đến, bình an, mẹ con đang ở cùng nhau, rất vui. Tôi nghĩ Mơ đi bằng đường quá cảnh qua trung chuyển Hồng Kông. Còn làm sao ra khỏi Việt Nam thì mù tịt, hình như Mơ cũng không muốn nói rõ lộ trình. Bất chợt Miki từ dưới lao lên, gác chân vào thành giường, gióng tai hóng nghe. Mơ cho hay đã liên lạc được với người chú họ qua điện thoại nhưng chưa gặp mặt. Còn Trần Xuân Vinh đã lái xe vượt bang tìm thăm. Mặc dầu được báo trước nhưng Trần Xuân Vinh hơi hẫng khi biết tôi không đi cùng vợ. Tiếp đến, Mơ nói về những cảnh quan huy hoàng ở một số nơi mà cô vừa có dịp thăm viếng. Cô ta không tiếc lời khen cơ ngơi của Trần Xuân Vinh trong mấy năm kinh doanh mặt hàng điện tử. Rồi Mơ trở lại một số việc nhà, tập trung vào những khoản nợ khó đòi. Thú thật đã bực dọc vì đường truyền, tôi không muốn nghe những nhắc nhở chắp vá, thiếu chính xác và không cập nhật. Tôi hỏi bao giờ về, không biết cô ta nghe rõ không, đáp lại chỉ có tiếng cười khúc khích. Miki nhận ra tiếng chủ, húng hắng sủa vói. Mơ hỏi ai đang ở cùng anh, tôi ngơ ngác nhìn quanh phòng. Ngay lúc đó, tôi thật sự cảm thấy cô đơn. Phút lặng im, cách ly ngăn ngặt. Cô ta đồ chừng Miki đang có mặt, tôi xác nhận. Mơ lại cười. Đường truyền tắc tị, thay vào đó như có mưa gió tuôn vào.
Sau cùng, Mơ chuyển máy cho con. Chất lượng chẳng khá hơn. Tuy vậy, cha con tôi cũng trao đổi được một số tâm tình trong những ngày xa cách, bù vào thương nhớ. Tôi tự kiềm chế không để lộ mảy may buồn bực của người ở nhà một mình. Nhưng ngay sau đó, tôi ngẩn ngơ bần thần. Rồi tôi ngẫm lại trong cuốc gọi có những chi tiết vu vơ đến nỗi khiến mình hoang mang. Còn Miki cũng tiu nghỉu lặng lờ. Với cảm giác của người bị bỏ lại bên bờ lạnh, tôi kéo Miki lên cùng nằm lơ mơ ngủ, chập chờn mộng mỵ.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Christiane

Re: Phiên Bản Tình Yêu (Vũ Biện Điền)

Postby bevanng » 01 May 2016

- A.42
Pháp luật và mạng nhện. Màn trời và mái ấm. Nước mưa và nước mắt.


Sáng hôm sau, tôi gọi hỏi Cẩm Bình về việc chuyển nhượng và thủ tục xin cấp quyền xử dụng đất đai. Cô ta cho hay đã đến ủy ban phường làm việc với cán bộ địa chính. Họ quanh co dẫn rất nhiều nghị quyết, nhiều thông báo như thể khoe nắm vững đường lối chính sách nhưng không hé lộ hướng dẫn cụ thể nào. Đó là quỷ kế cò cuốc tung hỏa mù trước khi há miệng chờ mồi, tôi lựa lời an ủi cô ta. Chuyện bùng nhùng kiểu này nếu qua tay Mơ thì xong ngay. Tôi vừa suy nghĩ vừa thay áo xống. Nhưng nếu cô ta có mặt ở nhà, liệu mình có dám nhờ? Chắc là không! Tôi cố nhớ cách thức Mơ thường xử lý. Từ đó tôi rà lại một số chi tiết trong hợp đồng sang nhượng đất mình đang nhắm tới. Đúng như Cẩm Bình tiên đoán, họ kêu giá khá rẻ. Và tôi đã mua ngay, đã chuyển đủ tiền. Tại sao mình không dùng một phần sai biệt chênh lệch này để chung chi đấm mõm. Của thiên trả địa, mất gì đâu! Tốt thôi! Đang trên đường đến tổng công ty, tôi ghé nhà Cẩm Bình, thu gom hồ sơ, thống nhất với cô ta một số nội dung khai báo rồi đi ngay. Theo hiến định, đất đai là sở hữu của toàn dân, nghĩa là ai cũng có phần, nghe sướng đến mê! Nhưng liền sau đó lạnh toát mồ hôi trán, cuộc đất bao đời tổ tiên khai phá bằng mồ hôi và nước mắt, nay nhà nước xã hội chủ nghĩa chỉ cho phép con cháu tạm thời xử dụng, đóng đủ thuế hàng năm, thời hạn thuê bao lâu tùy nóng lạnh thất thường của đảng. Do đó, không ai có quyền bán buôn, dù thực tế vẫn bán buôn, không cấp nào có quyền chứng thực, dù thực tế vẫn chứng thực. Chữ ký và con dấu vẫn có tác dụng và hiệu lực. Sao vậy? Với mê đồ luẩn quẩn, đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, sau một loạt vo tròn bóp méo bằng những thuật ngữ rất kêu, rốt cuộc, giang sơn này là sở hữu của bè lũ chuyên chính. Luật pháp do quốc hội bù nhìn nặn theo ý đồ của đảng, không phải để bảo vệ quyền lợi nhân dân mà nhằm tấn bí nhân dân, không phải để bang giao quốc tế mà nhằm bợm bãi quốc tế. Do cấu trúc như thế, luật pháp ấy có tính năng bùng nhùng. Vài ba luật sư quen biết đã mách nước cho tôi, mớ chữ nghĩa nghễu nghện ấy chẳng khác cái mạng nhện, giỏi ví bắt ruồi muỗi nhưng khi gặp loài bọ to xác thì toạc ngay. Vậy ta còn chờ gì nữa? Chợt nghĩ, tôi tự hỏi, rồi gọi máy hẹn gặp trưởng phòng địa chính thị ở một quán cà phê nhỏ trên đường đến ủy ban.
Tuy không thường xuyên, nhưng chúng tôi cũng từng chè chén với nhau trong những cuộc liên hoan tổng kết ty này sở kia. Chẳng cần úp mở, tôi nói rõ ý muốn rồi khoán trọn gói khá đậm cho anh ta bao gồm sở phí lót đường cả ba cấp, với yêu cầu thời hạn không quá hai tuần. Ban đầu anh ta bảo không dám, chỗ anh em giúp nhau thôi, làm vậy khó coi. Nhưng khi tôi vạch túi nhét xấp tiền vào, anh ta im ngay, còn cẩn thận cài khóa. Với cung cách ứng xử cũng theo đó mà thay đổi. Sau một lúc tập trung xem xét, anh ta trả lại mớ hồ sơ trích lục do chính quyền Việt Nam Cộng Hòa cấp cho chủ cũ.
- Sao vậy? Thấy lạ, tôi hỏi.
- Em chỉ cần mảnh giấy này thôi!
Anh ta nói, cầm lấy bản sao photocopy biên lai nhận tiền của người em vợ chủ đất cho vào cặp rồi ghi tên họ và một số chi tiết về nhân thân người chủ mới.
- Trường hợp này phải vận dụng!
Anh ta nói thêm, nhỉnh mép cười.
- Đường tắt hả? Tôi hỏi nôn nao, dè chừng.
- Vâng! Anh ta nói.
- Lỡ có… làm sao…? Tôi quan ngại.
- Chúng em sẽ hiệp đồng lập biên bản xác nhận hồ sơ trích lục đất và nhà mang tên bà Hồ Thị Cẩm Bình thất lạc vì chiến tranh, có đầy đủ xác minh của ba công dân liên cư liên địa, tổ trưởng dân phố, đại diện Mặt Trận Tổ Quốc, cán bộ địa chính phường, bí thư tổ đảng.
Anh ta cặn kẽ giải thích.
- Biên bản ma? - Tôi lại hỏi.
- Ma nhưng qua được thánh. Anh ta khẳng định. Tôi thắc mắc sao không theo cách thông thường.
Anh ta cho hay, dù gì cũng là công dân đất nước xã hội chủ nghĩa, sau 1975, ông ta không ở lại vào vai nhân dân làm chủ, quay lưng chối bỏ tổ quốc, chạy trốn tít tận bên Canada, may là đảng chưa kịp ra lệnh tịch thu.
- Nghĩa là bán mà không bán, mua mà không mua, cho mà không cho? Tôi hỏi cho chắc.
- Vâng! Anh ta khẳng định.
- Vậy tập hồ sơ này có còn tác dụng gì không?
Tôi hỏi, dằn tay lên mớ giấy tờ trích lục có tấm bản đồ lô đất to bằng nửa mặt bàn.
- Nếu muốn anh cứ giữ lại, và cả tờ giấy ủy quyền kia! Anh ta căn dặn. - Quan trọng nhất là biên lai nhận tiền của người đại diện! Ngẫm nghĩ một lúc, anh ta nói thêm. - Tất cả chỉ là thứ phòng hờ nhằm đối phó nếu về sau có bất trắc.
Thoáng nghe, tôi ngỡ như mới bắt đầu, nhưng anh ta cười cười, cho các thứ vào cặp, bắt tay từ biệt. Thú thật, tôi bán tín bán nghi cho đến khi nhận được hai tấm bìa màu đỏ mới toanh, một xác nhận quyền xử dụng bảy trăm mét vuông đất thổ cư, một xác nhận quyền xử dụng gần mười ngàn mét vuông đất nông nghiệp. Tuy chia hai loại để tiết giảm thuế, quyền xử dụng chỉ có một người. Tôi hoàn toàn mãn nguyện.
- Chị còn nhớ cơ ngơi ngày trước không?
Trên đà phấn khởi ấy, buổi sáng chủ nhật tôi đến thăm và hỏi Cẩm Bình.
- Ý cậu muốn gợi lại ngôi nhà ở thôn Vĩ Dạ phải không? Cẩm Bình tỏ vẻ dè dặt.
- Vâng! Tôi nói, trao toàn bộ hồ sơ địa chính, cả cũ và mới, qua tay cô ta.
- Đó là một ngôi nhà rường, nền cao, móng bằng đá tảng, xây cất từ thời cố tôi còn đương chức tư nghiệp quốc tử giám. (88) Nhà không hẳn toàn theo phong cách cổ điển đông phương, có cải biên chút ít, tường bằng gạch, vữa tam hạp, các phòng cách ly, bồn nước, nhà vệ sinh và nhà bếp theo kiểu Tây.
Cô ta sơ lược miêu tả, tôi chăm chú tiếp thu. Lâu lâu Cẩm Bình nhíu mày nhớ lại vài chi tiết rồi vạch từng nét đậm lên mặt giấy. Tuy nguệch ngoạc, mô hình ngôi nhà cũng từ từ hình thành. Theo đó, trong tôi dấy lên một khu vườn màu ngọc, đầy đủ cỏ hoa hương sắc. Kìa là lối đi đã hút tôi qua ngõ. Kìa là bức bình phong cổ kính đổ bóng xuống bể cá vàng. Chiều đó, tôi dừng lại khá lâu bên hòn non bộ, mãi ngắm Khương Tử Nha (89) mỏi mòn câu cá. Người đầu tiên tôi gặp là Cẩm Bình, chính cô ta đã ân cần chào khách rồi gióng gọi em gái, cứu tôi thoát khỏi ngẩn ngơ rụt rè. Một hành lang rộng thông thoáng, phía trước dẫn đến gian thờ, phía sau thông với thư viện, những chiếc đôn màu da lươn bóng mướt. Đang hồi hộp trông chờ Cẩm Khuê xuất hiện, tôi có một khoảng thời gian lơ ngơ ở thềm đá lam xanh.
(88) Tư nghiệp quốc tử giám: hiệu phó quốc tử giám. Tế tửu quốc tử giám: hiệu trường.
(89) Khương Tử Nha tức Khương Thái công tên thật là Khương Thượng, khai quốc công thần nhà Chu (thế kỷ 12 TCN).
Bây giờ lần theo nét vẽ, tôi hạ quyết tâm xây bằng được ngôi nhà theo mô hình còn lưu lại ít nhiều trong đầu hai chúng tôi.
- Chị có nhớ đài vọng nguyệt nằm ở đâu không?
Tôi hỏi khi Cẩm Bình dừng bút.
- Ở đây! Cô ta nói, cúi xuống mặt giấy. - Nhưng thời buổi bây giờ có ai ngắm trăng nữa đâu!
Cô ta gượng cười nhưng không quên nắn nót một cái nền nhỏ hình lục giác ở mé phải sơ đồ. Đúng! Có một thời người ta rất ghét trăng và chó. Tôi thầm nghĩ. Nhưng trăng vẫn ở trên cao tỏa sáng xuống thế gian và chó chưa bao giờ đổi thay bản tính ghét kẻ gian tà.
Lần thứ hai tôi đến trả lại quà tặng, Cẩm Khuê tiếp tôi ở đó, dưới mái vòm ngói lưu ly cong cong ấy, bên mấy pho truyện Tàu yên nằm trên ngăn kệ, chiếc quạt giấy có đề thơ Hoàng Hạc Lâu của Tô Đông Pha, nắng chiều le lói như tơ vàng vắt ngang qua từng ngọn cau, tình yêu của chúng tôi hé nụ như một đóa hoa quỳnh e ấp sắp sửa vào đêm.
- Chịu thôi, tôi không thể nhớ hết mọi chi tiết, đặc biệt hoa văn và kích cỡ!
Đang lơ mơ, bất chợt nghe Cẩm Bình than, tôi giật mình, nhìn quanh.
- Ủa, mà cậu sao thế?
Đã thấy gì bất thường ở tôi, cô ta buông viết la lên. Tôi nghe nhưng vẫn chưa ra khỏi bơ lơ lạc lõng.
- Chúng ta đang ở đâu nhỉ?
Đang bần thần, tôi ngớ ngẩn hỏi.
- Đêm qua cậu không ngủ phải không?
Cô ta ngoái nhìn chiếc giường sát bên cửa sổ, ý muốn rời đi để tôi được tự ý chợp mắt.
- Có chứ… Tôi lập chập. - Nhưng… Ờ, hình như, tôi vừa trải qua…
Tôi lờ đờ vói rút tờ giấy dưới tay Cẩm Bình, lặng lẽ cho vào cặp.
- Để làm gì…? Cô ta nhìn theo, lấy làm lạ.
- Từ đây… Tôi vỗ tay lên mặt chiếc cặp. -… tôi sẽ tái hiện ngôi nhà xa xưa ấy ngay trên đất này.
Tôi bày tỏ, chờ đợi cô ta đồng tình.
- Không nên! Cô ta nói.
- Vì sao? Tôi hơi gắt vì không ngờ cô ta cản ngăn.
- Chỉ tổ lãng phí và hoài công thôi!
Cô ta tỏ vẻ dứt khoát, ánh mắt như hất đổ theo một cái gì ngoài hiện thực.
- Tại sao không? Tôi kiên định.
- Cậu đã quên lời triết gia Héraclite (90) rồi hả, cũng là sông ấy nhưng nước đã khác rồi! Cô ta nhắc.
(90) Heraclite, viết theo tiếng Pháp: Người Hy Lạp (khoảng 535-475 TCN). Xuất thân một gia đình quý tộc ở lonia nhưng ông sống rất nghèo khổ và cô độc. Về cơ bản, ông là một nhà triết học duy vật và được coi là ông tổ của phép biện chúng. Tư tưởng biện chúng của ông rất sâu sắc và cách thức thể hiện hết sức phức tạp và khó hiểu. Vì vậy ông thường được gọi là nhà triết học tối nghĩa. Một trong những danh ngôn bất hủ của ống: Không ai có thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông.
- Biết vậy, nhưng có đêm nào tôi không ngược dòng tìm về bến bãi. Tôi thú thật.
- Ngoài xót xa, cậu sẽ không gặp được cái gì.
Cô ta dằn giọng.
- Bếp lửa nào không để lại tro tàn! Tôi khẳng định.
Cô ta mở to đôi mắt nhợt nhạt, cần cổ rung rung. Bỗng dưng tôi cũng luống cuống, biết cô ta sắp ngất mà cứ trơ ra. Khi Cẩm Bình gượng được, tôi chưa kịp nói gì, cô ta đã lui vào trong. Ngồi lại một mình, tôi bàng hoàng như người lạc lối. Có nên kéo dài trao đổi? Nhìn quanh, tôi tự hỏi và không tìm thấy câu trả lời. Quả thật không tiên liệu hết khó khăn quanh chuyện xây dựng ngôi nhà. Tôi đang do dự, Cẩm Bình trở lại, mang theo khay tách và cả bình thủy. Tôi bước đến rước lấy, đặt xuống bàn. Cẩm Bình ngồi vào ghế, thư thả pha trà. Dầu mỗi người một hướng suy nghĩ, tôi vẫn hy vọng ước muốn được chấp nhận. Tôi chỉ ngại cô ta không vui thôi. Và ngôi nhà sẽ lạnh lẽo như phế tích. Tôi thầm nghĩ rồi đâm lo. Hay ta sẽ đưa đến đây một kiến trúc sư, xây cất thế nào tùy sở thích dì cháu Cẩm Bình?
- Xin hỏi và yêu cầu cậu phải thành thật trả lời…
Đến lúc tôi muốn thay đổi ý định, bất ngờ cô ta lên tiếng, cung cách khác hẳn.
- Xin cứ tự nhiên!
Tôi gợi mở, nhưng Cẩm Bình tần ngần, giữ kẽ. Cô ta chậm rãi rót trà ra tách, mời khách như không có gì phải vội. Tôi uống hết tách trà, cô ta vẫn im lặng.
- Chị còn nợ tôi một câu hỏi đấy! Tôi nhắc nhở.
- Tôi chưa lẫm cẫm đâu, chỉ do còn chút lướng vướng chưa biết diễn tả thế nào!
Cô ta nói, đôi mắt mệt mỏi nhìn tôi.
- Không lẽ khó khăn hom cả lúc đứng trên bục cao bảo vệ luận án? Tôi động viên.
Cô ta nhỉnh cười, pha một tí ngượng nghịu.
- Vậy thì thế này, hiện nay cậu là người rất giàu phải không? Cô ta hỏi.
Tôi có cảm giác đường phóng thẳng như kẻ chỉ và trúng ngay đích.
- Vâng! Tôi khẳng định. Cô ta nhìn vào mắt tôi.
- Xếp hạng trong tỉnh ta, cậu thuộc vị thứ nào?
Cô ta muốn cụ thể. Tôi không ngờ cô ta đòi hỏi thứ rõ hình bén cạnh đến thế. Rát buốt, chói chang mặt mày, tôi muốn đề nghị thay một câu khác, nhưng chợt nghĩ đã lỡ hứa. Lại nữa, tôi không muốn Cẩm Bình coi thường sức chịu đựng của mình.
- Thứ ba! Theo cách đánh giá từ dư luận có lần Mơ học lại, chắc không được chính xác lắm. Tôi nói.
- Thế mà bấy lâu ở bên cậu, sao tôi không nghe thấy khí sắc của hàng phú gia địch quốc nhỉ? Cô ta vừa châm biếm vừa hồ nghi.
- Vì mỗi khi đến đây tôi luôn cảm thấy mình chưa đủ trả nợ! Tôi nói.
Cô ta hiểu tôi nói đến nợ gì, khẽ rùng mình. Như muốn thoát khỏi cảm giác đột biến, cô ta đổi thế ngồi.
- Xin cho biết hai vị thứ ở trên là những ai?
Cô ta hỏi tiếp. Đây là lần đầu từ khi gặp lại, tôi thấy Cẩm Bình để lộ quan tâm đến xã hội, đến thời thế.
- Đương kim bí thư Nguyễn Thanh Cưỡng và phó chủ tịch tỉnh Phí Đu. Sau mấy giây cân nhắc, tôi nói.
- Vậy ông chủ tịch long trời lở đất kia nằm ở đâu?
Cô ta hỏi như vừa nhìn vào một khe hở. Thì ra Phạm Tư khá nổi tiếng, đến như Cẩm Bình, một người đã phó mặc sự đời mà không thể bàng quan.
- Tuy long trời lở đất, ông ta vẫn là ẩn số! Tôi nói.
- Nếu kể tiếp, người thứ tư là ai? Cô ta hỏi, nét mặt có phần thư giãn.
- Nguyễn Thị Là! Tôi nói. Cô ta chớp mắt thỏa mãn như nhà nghiên cứu nắm bắt được cứ liệu.
- Ai dám bảo nhà giáo không thể làm giàu!
Cô ta lại nhỉnh cười.
- Nhưng không phải từ phấn viết mà bằng phấn son. Tôi nói.
- Điều đó đã rõ dưới ánh mặt trời, ai không biết. Cô ta nói. 
- Chị quen bà ta? Tôi hỏi, muốn xua nỗi xấu hổ vừa thoáng hiện trong mắt Cẩm Bình.
- Một người như tôi làm sao có được cơ duyên ấy! Trước đây chỉ nghe người ta chào xáo này nọ, giờ có thể tin được… Cô ta nói. - Còn điều này nữa, nhưng nếu thấy khó xử cậu có thể không trả lời!
Đột ngột, Cẩm Bình mở sang một hướng khác.
- Xin chị cứ mạnh dạn! Tôi tỏ ra sẵn sàng.
- Vì sao cậu giàu? Cô ta hỏi, đơn giản nhưng sắc bén như con dao mổ. Thao thức này tái khẳng định khi tôi và Cẩm Khuê yêu nhau, cả nhà cô ta biết tôi rất nghèo. Nhưng tôi không để lòng mình thương cảm xuôi về quá khứ. Quả nào mà chẳng có nhân, đã chịu bóc trần, tôi không thể ấm ớ lập lờ bao biện. Nhưng phô bày thế nào để đảm bảo trung thực, để còn mãi mãi tương kính? Tôi thầm nghĩ. Đề tài có thể mở rộng, vì sao người ta giàu? Khổng Tử từng nói đại phú do thiên, và cảnh báo, vi phú bất nhân. Tục ngữ Việt Nam dạy, có mạng làm quan có gan làm giàu. Còn kinh nghiệm dân gian, thánh nhân độ kẻ khù khờ. Chừng đó đã đủ lý giải hoàn cảnh của mình chưa? Tôi thử kiểm chứng. Có thể, nhưng xem ra mông lung như tung hỏa mù. Yêu cầu của Cẩm Bình là cá biệt của một Lê Huy thuở xưa, và đã hóa thân thành Lê Huy Phong đời nay. Vì tôi có cái lý lịch vàng son gối đầu, đảng cho sáp nhập bầy đàn, được ở chung tầu được ăn chung máng. Chợt nhớ bàn tay khôn khéo đưa đẩy của cha, ban đầu tôi định trả lời như thế, nhưng nghĩ lại cũng chưa hẳn. Vì tôi có một người vợ năng nổ nhanh nhạy, không để sổng bất kỳ cơ hội béo bở nào. Kế đến tôi định trả lời như thế, nhưng nghĩ lại cũng chưa hẳn. Vì thiếu thời tôi được trang bị một nền học vấn khá bài bản, hội đủ kiến thức chuẩn mực như khẩu đại pháo đặt đúng hướng cài đúng ly giác. Chợt nhớ những năm ở bậc trung học, đặc biệt những vật vã trầy trật ở đại học, tôi định trả lời, nhưng nghĩ lại cũng chưa hẳn. Trong lúc tôi ra sức rà xét ký ức, Cẩm Bình ngồi lặng, tai mắt tập trung chờ đợi.
- Tôi giàu vì dám nạo bỏ mớ hoang tưởng Karl Marx, Lénine, Staline, Mao Trạch Đông và cả Hồ Chí Minh ra khỏi hộp sọ mình. Tôi giàu vì dám tháo bỏ thề nguyền sáo mòn dưới lá cờ đảng khỏi con tim mình. Tôi giàu vì dám trào ói những giáo điều rẻ tiền khỏi cái ổ bụng mình đã một thời bị thương thực!
Sau cùng, tôi nói. Chừng đó vẫn chưa đủ thuyết phục người nghe. Với cảm giác đắng ngắt cổ họng vì hổ thẹn hoài công ngậm ngải, tôi nói tiếp.
- Ngay khi được trao quyền, tôi giả bộ chấp hành nghị quyết, nhưng kỳ thực âm thầm triển khai thực hiện những gì trước đây tôi kịch liệt phản bác Bửu Dương…
- Vậy kinh tế thị trường định hướng theo xã hội chủ nghĩa cậu bỏ đâu? Cô ta hỏi, khẽ nhướng mày.
- Vất! Tôi khẳng định.
- Thật không? Cô ta không tin.
- Do không đủ can đảm thú nhận sự cáo chung của nền kinh tế Cộng Sản trên thế giới, cùng đường, bí bức, Đặng Tiểu Bình vơ lấy râu ria của thời tư bản chủ nghĩa sơ khai rồi độ chế, mã hóa nhãn mác. Cái thứ quái thai hổ lốn ấy tuy đảng ta trân trọng nhưng việc gì Lê Huy Phong này lưu giữ cho nặng đầu. Tôi đã có rồi, căn cơ hơn, tròn đầy hơn, tân tiến hơn! Tôi tiết lộ.
Cẩm Bình im lặng, trán hằn nếp nhăn. Đoán biết những gì đang gợn lên đằng sau ánh mắt người nghe, tôi tìm cách diễn đạt ý mình theo cách khác.
- Tám mươi năm qua, kinh tế toàn khối xã hội chủ nghĩa ngưng trệ? Nhưng dưới bạo lực chuyên chính vô sản, không ai dám truy cứu hoặc ngụy biện, hoặc trấn áp, hoặc giả bộ không biết. Vì sao? Nguyên nhân trì trệ ấy không đợi tới bây giờ mới thấy mà nó ở ngay trước mắt lúc bắt đầu. Tổ sư Karl Marx và các tông đồ kế tục không ngừng lên án tư hữu. Khốn nỗi, tư hữu là một nhân tính cơ bản. Chối bỏ nhân tính là kiềm hãm sự phát triển của nhân loại. Triệt tiêu nhân tính là hủy hoại tính năng tiên thiên của con người. Bửu Dương khẳng định như thế. Khi ngộ ra, tôi liền trả tư hữu chân chính về cho con người để lấy đó làm động lực lao động…
- Ngạo ngược như thế, lãnh đạo chịu để yên cho cậu ư? Cô ta ngắt lời tôi, không giấu nối kinh ngạc.
- Ngạo ngược đối với những đầu óc ngu si, nhưng rất thuận chiều với lẽ sinh tồn. Do dị ứng thế nào đó, con bệnh không chịu uống thuốc thầy thuốc phải có cách. Chị nhớ cho, Cộng Sản là người hành động theo cảm tính, rất yếu bóng vía và cố chấp ngôn từ. Kê đơn, dại gì tôi nêu đích danh tên bệnh tên thuốc. Và dại gì tôi không vơ đại mấy cái nhãn mác thời thượng pha thêm tí đường làm vỏ bọc. Đông Âu sập đổ, Liên Xô tan rã, Đông Đức mất hút vào Tây Đức, Trung Quốc còn quờ quạng huống gì Việt Nam, đang khi thập tử nhất sinh, thế nào rồi cũng phải uống thôi! Tôi khẳng định.
Cẩm Bình tập trung theo dõi nhưng vẫn ngờ ngờ, tôi đành phải hoạch toẹt hơn nữa.
- Bản chất Cộng Sản là ti tiện, thù dai, biển lận và thiển cận. Vì thế chế độ xã hội chủ nghĩa nhan nhản con hoang vô tích sự bao giờ cũng được bố trí vào hàng ngũ lãnh đạo để ngồi chỗ mát, kịp thời tung bùa phép, nhanh nhạy cướp công và tranh thủ miếng ăn. Miệng hô xung phong nhưng tay chân chúng chỉ xung xăng. Miệng giục tiến công nhưng tai mắt chúng chỉ chực chờ đồng đội sơ hở… Rút kinh nghiệm đánh cầu Gia Hội, nay tôi lao về phía trước nhưng không quên cắp chúng theo dựng làm bình phong! Tôi nói.
Từng là người yêu của Bửu Dương, chắc cô ta tin tôi thành thật đến mức nào và hiểu tôi nói gì.
- Ba lớp che chắn, vậy vị trí thứ ba kia cũng chỉ là đối sách? Đột ngột, Cẩm Bình đảo hướng.
- Vâng! Không chỉ có ba mà còn hơn thế nữa. Ma mãnh này không phải quà tặng trí tuệ của Bửu Dương. Ăn cỗ đi trước lội nước theo sau, nhưng ở đây thân kỳ tiền nhi thân tử, tôi học điều đó trong Đạo Đức Kinh của Lão Tử. Khôn mà để cho người ta biết mình khôn thì hết khôn!
Lỡ khoe khoang, tôi gượng cười cho bớt xấu hổ.
- Hèn gì người dưới trướng bảo cậu làm kinh tế mà phong thái như lãng tử, làng nhàng, ham vui, hào phóng! Cô ta nói, không biết khen hay chê.
- Với cách nấp bóng đó, tôi đã kịp thời cứu đoàn quân đói của mình khỏi mê hồn trận ở một xó nhỏ của thiên đường mù! Thay vì khiêm nhường chiếu lệ, tôi rốt ráo trưng dẫn thành tích.
- Kể cả cái hợp đồng vu vơ cách nay gần ba năm tôi đã ký với cậu? Và mới đây, hồ sơ nhà đất cậu đang thu xếp nhờ tôi đứng tên? Rồi sắp tới, hợp đồng thuê mướn con bé sống?
Theo đà tung hứng của tôi, cô ta kết hợp, rất khớp khao, rất thẳng thắn, nhưng thống thiết đến thắt nghẹn.
- Không! Đó là một ngoại lệ, là cửa cho quỷ thoát về làm người! Tôi quả quyết.
Cô ta khẽ lắc đầu, tôi phải giãi bày cặn kẽ.
- Chị không thấy ư? Thiếu những khoảnh khắc như huyễn hoặc đó tôi sẽ rơi ngay về địa ngục!
- Thật không? Cô ta vẫn ngờ ngợ.
- Thật hơn cả thực, chỉ tiếc tôi không diễn tả được những gì đang tàng ẩn trong tim mình! Tôi cúi gập, dằn tay lên ngực. - Nhưng xin chị dừng lại cho! Tôi van nài.
Cẩm Bình vẫn dửng dưng, chẳng có biểu hiện nào thương xót. Bên ngoài như có ai che lấp mặt trời, ngôi nhà bỗng dưng tối sầm, không gian bao quanh chúng tôi âm u đến lạ. Khôn ba năm dại một giờ! Đến một lúc, tôi sực tỉnh. Biết đâu mình sai lầm trong ứng xử? Bối rối, loáng choáng, tôi ngơ ngác nhìn quanh.
- Từ nay cậu muốn tạo lập, xây cất thế nào thì tùy, tôi không ngăn cản nữa, dẫu ngôi nhà đó kỳ quặc đến nỗi móng ngược lên trời nóc chui xuống đất!
Bất chợt, Cẩm Bình cất tiếng, âm sắc cao vút như khi người ta thống thiết ước thề, rồi đưa cả hai tay đỡ lấy đầu mình và khóc. Ngây dại ngồi nhìn, tôi quyết chắc những giọt nước mắt đổ xuống hai cánh tay xanh xao kia tuôn ra từ một con tim ứ uất suốt hai mươi năm. Đây là lần đầu tiên tôi cảm thấy sung sướng trong tiếng khóc. Đây là lần đầu tiên tôi nhận ra cốt tủy của hùng biện là chân thành. Vì thế, đây cũng là lần đầu tiên tôi với tới vị ngọt của khe khắt và nước mắt.
Rồi áng chừng Tường Vi sắp về, tôi kiếu từ.
Khi bước xuống thềm, tôi lại thanh thản rảo quanh khu vườn với hứng khởi bột phát. Tôi sẽ cho xây lại tường rào trước khi xây nhà, giữ lại toàn bộ số cổ thụ, về sau nếu cần sẽ chỉnh lý. Còn ngôi nhà cũ, tăng cường chống đỡ, nhưng cứ để yên như thế cho đến khi hoàn thành cơ ngơi mới, tạm thời dùng chái bếp làm kho chứa vật liệu. Cơm nước của hai dì cháu từ nay do nhà hàng đưa tới. Quá trình xây dựng không nên làm kinh động, tránh gây xáo trộn công việc học hành của Tường Vi. về phần mình, để giảm thiểu đi lại và lộ mặt không cần thiết, tôi sẽ cho thầu trọn gói. Đương nhiên Cẩm Bình phải đứng tên trong hợp đồng. Có nên giao thầu cho Tô Thoan? Tôi phân vân. Tin Mai Thị Dung, nhưng tôi vẫn ngại từ vợ chồng cô ta mà lan sang Mơ.
Khi mặt trời lên khá cao, tôi lái xe đến tổng công ty, chỉ giải quyết được mấy việc thì tan tầm. Trưa nay còn phải đi dự tiệc dạm hỏi con gái Hoàng Văn Luân, chợt nhớ tôi hối hả về nhà.
Trong lúc thay áo xống, tôi nhận được điện của Hai Đa hẹn gặp tối nay. Chuyện gì đây? Chuẩn bị cơ cấu nhân sự cho kỳ bầu cử hội đồng nhân dân tỉnh khóa tới? Cả tháng nay loa đài phát động khắp các đường phố, nhưng chỉ có bên trong các cơ quan ban ngành âm ỉ tỏa nhiệt, quần chúng nhân dân vẫn phẳng lặng như tờ. Buổi chiều tôi đến tổng công ty, khác với mọi ngày, người ta nhìn tôi với ánh mắt là lạ. Lúc tan tầm, Mai Thị Dung đón tôi ở nhà xe.
- Nghe nói chị nhà đi Mỹ phải không anh?
Cô ta hỏi.
- Du lịch và kết hợp thăm con!
Tôi nói và tự hỏi do đâu mà tin tức lan nhanh. Trong nhà chưa tỏ ngoài ngõ đã hay! Có thể đây là một bài học, rút kinh nghiệm cho những ngày tới.
- Không nên mở rộng…! Hãy đánh lạc hướng dư luận! Tôi nói.
- Mã Tho nhờ người khai thác em để xác minh tin này. Cô ta cho hay.
- Chó đã hửi thấy mùi, nhưng không sao, cuối tháng Mơ sẽ về. Từ nay đến ngày ấy thử tìm xem ông ta thăm dò để làm gì.
Trước khi lên xe tôi dặn cô ta.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Christiane

Re: Phiên Bản Tình Yêu (Vũ Biện Điền)

Postby bevanng » 01 May 2016

- A.43
Tranh thủ lãnh đạo.
Cửa nhà quan, miệng đày tớ.


Buổi chiều, tôi về nhà muộn hơn thường lệ. Cơm nước đã dọn sẵn lên bàn. Tắm rửa, ăn uống xong, trời tối hẳn. Không khí đột ngột trở lạnh, ngẫm nghĩ một lúc, tôi quyết dùng Mercedes. Lúc cài cửa cổng, sao thấy khác, quay lui tôi phát hiện Miki đã ở trong xe. Giỏi thật! Tôi mắng, nó cúi mặt, díu mắt tảng lờ. Ngập ngừng mấy giây, thấy thương tình, tôi quyết định cho theo luôn. Với tâm trạng bồn chồn, tôi đến nhà Hai Đa. Gặp lúc cổng bỏ ngỏ, tôi cho xe vào sân. Không phải trình báo ai, tôi đi thẳng lên phòng khách. Hai Đa vừa nghe xong phần thời sự của đài truyền hình địa phương tiếp sóng trung ương.
Trên bàn một chai rượu ngoại màu mật ong và một tờ báo Nhân Dân loài toài gấp xếp do người đọc vụng về khi sang trang. Như thường lệ, sau khi chỉ cho tôi chiếc ghế đối diện, Hai Đa hỏi thăm tình hình kinh doanh của tổng công ty và một số việc liên quan trong tỉnh, tôi trả lời ngắn gọn vừa đủ.
- Khóa hội đồng nhân dân sắp tới, bí thư Nguyễn Thanh Cưỡng sẽ chỉ thị cho chủ tịch Mặt Trận Tổ Quốc tỉnh Lê Thanh Bân cơ cấu thành phần trẻ nhưng đảm bảo vừa hồng vừa chuyên. Chủ trương đảng ta hiện nay đổi mới nhưng không đổi màu, hòa nhập nhưng không hòa tan, tiếp tục mở rộng bang giao đa phương nhưng không chấp nhận thế lực nào can thiệp vào nội bộ, kinh tế thị trường nhưng quốc doanh vẫn chủ đạo! Hai Đa nói như đọc. - Đó là vận dụng nhuần nhuyễn, đầy trí tuệ sáng tạo, quyết tâm xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa vô cùng năng động của ta!
Những khẩu hiệu nghịch lý rỗng tuếch ấy đã quá nhàm tai nhưng tôi vẫn giả bộ tập trung lắng nghe, đợi lãnh đạo hút hơi thì hót vào. Hai Đa hể hả, nhăm một tí rượu, ngả người ra ghế rồi tiếp.
- Nghe nói bọn Năm Lộc, Bôn Du, Võ Hùng Anh… sẽ được cất nhắc. Thế những ai trong ban bệ cũ bị loại khỏi cơ cấu? Tôi hỏi. Đằng sau những bong bóng giả ấy, tôi gián tiếp thăm dò trường hợp mình.
- Muốn rõ, chú tìm cách mà hỏi chủ tịch Phạm Tư.
Biết cái mạch tôi muốn đào, Hai Đa tìm chỗ bán cái. Có phải đây là trọng tâm cuộc nói chuyện hôm nay? Tôi thầm nghĩ, châm một điếu thuốc, mơ màng nhìn bức ảnh Hồ chủ tịch to bằng người thực treo ở mặt tường phông phòng khách. Cũng có thể Hai Đa đang lo chiếc ghế của mình lung lay? Hoặc bộ tam đã đến hồi mâu thuẫn trầm trọng? Hoặc biết tôi thường tiếp cận Phạm Tư nên ông ta muốn nhắn nhe một tín hiệu nào đó?
- Còn chuyện này nữa, xí nghiệp Chế Biến Ván Lạng của trung ương đóng ở địa bàn tỉnh ta ngưng trệ đã lâu, có thể nay mai sẽ tuyên bố phá sản.
Lúc tôi tìm cách cáo biệt để còn thời gian bệ kiến chủ tịch Phạm Tư, Hai Đa lại mở ra một đề mục mới.
- Trung ương thiếu gì thang dược với danh y mà phải giơ tay đầu hàng trước một con bệnh thuộc dạng ngộ nạn ngoại thương! Tôi khai thác nhằm kiểm chứng tin tức trước đây Mơ từ Hà Nội phóng về.
- Ở đây không phải bệnh tật với thầy mo, mà mạt cưa với mướp đắng. Nhà máy làm ra sản phẩm đạt chất lượng tốt, nhưng xuất khẩu sang Nga, nhận bao nhiêu nước bạn trừ nợ vũ khí thời đánh Mỹ bấy nhiêu, do đó không còn vốn tái sản xuất! Hai Đa nói, mặt dửng dưng.
- Đón đường giật nợ, cạn tầu ráo máng cỡ đó, mối tình thắm thiết Việt-Xô để đâu? Mặc lãnh đạo nguội lạnh, tôi giả bộ phẫn nộ, tiếc nuối bang giao xuống cấp.
- Họ bảo đỡ dân lúc ngặt chứ không thể giúp nhau hết nghèo! Hai Đa vẫn như nói chuyện nhà hàng xóm.
Thì ra mớ vũ khí, quân trang của anh cả Đỏ trước đây đổ vào miền Bắc nước ta là hàng bán chịu chứ không phải cho không đàn em! Nợ thì người ta đòi, lần lữa không trả thì người ta xiết, phải thôi. Tôi thầm nghĩ.
- Xưa nay phụ trái tử hoàn là chuyện thường tình, nhưng làm kinh tế mà bị cấn trừ tắt ngang, chắc giám đốc Huỳnh Lộc khổ tâm lắm!
Tôi bày tỏ, cảm hoài như mỗi lần đi phúng điếu.
- Đương nhiên rồi! Hai Đa cũng đồng tình.
- Vậy trung ương phải cấp vốn thay vào chứ! Tự dưng tôi thật sự bất bình.
- Nhưng họ ngại sa lầy! Hai Đa nói.
- Sa ở đâu? Tôi hỏi, chợt nhớ cái xác nhà máy chế biến bột giấy lớn nhất Đông Nam Á hiện đang hoang hóa, bọn mục đồng thường đưa bò vào đó đụt mưa.
- Sa ở Liên Xô! Hai Đa nói. - Liên Xô đất rộng người thưa, lắm tuyết nhưng cũng nhiều bãi lầy!
Tôi rờn rợn nghĩ tới những ngày thơ dại của Lê Hồng Phong, Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Thị Minh Khai… với những bước chân chập chững xứ người.
- Bộ tài chánh phải khấu trừ ngân sách bộ quốc phòng mà trả qua cho lâm nghiệp, rồi giám đốc Huỳnh Lộc cứ thế mà rút tiêu! Ấm ức nhưng tôi nói khác đi.
- Còn lâu các ngài bộ trưởng mới dám động tới thủ tướng, còn lâu thủ tướng mới dám động đến quân ủy trung ương! Hai Đa bĩu môi. - Thôi, việc ai nấy lo! Chúng ta chỉ nên biết vừa rồi trung ương vào làm việc với tỉnh và có ý định chuyển giao xí nghiệp cho địa phương ta, bí thư Nguyễn Thanh Cưỡng và chủ tịch Phạm Tư đồng ý tiếp nhận nhưng không biết xếp đặt ra sao để tránh cái dớp nợ nần. Tôi đề nghị cho sát nhập luôn vào tổng công ty Tổng Họp Xuất Nhập Khẩu ở chỗ chú, hai vị đều nhất trí…
Nói đến đó, Hai Đa dim mắt, như mình là trung tâm siêu quyền lực, là chiến lược gia chuyên điều phối kế hoạch trung ương thường trú tại địa phương.
Bản thân từng ôm rơm nặng bụng, từng chuyển họa thành phúc, thêm một mớ bùi nhùi chẳng sao nhưng phải eo một cú cho các ngài nể mặt! Tôi thầm nghĩ.
- Em chưa biết chuyện đó! Tôi giả bộ muốn tránh xa đám cháy.
- Bây giờ tôi chính thức thông báo cho chú…
Hai Đa lên giọng chỉ đạo.
- Thanh lý với cái giá rẻ mạt như cho, dại gì không nhận. Điều tôi muốn trao đổi với chú là ghế giám đốc của cái công ty sắp hình thành ấy, chủ tịch Phạm Tư muốn đưa người của mình vào…
- Ai? Tôi nôn nóng lên tiếng, ngắt lời Hai Đa.
- Diêu Sểnh! Ông ta lạnh lùng nói.
- Thằng chó lai ấy chỉ giỏi nịnh bợ với chơi bời, làm sao vực nổi con voi bệnh!
Tôi miệt thị, lời lẽ ngổ ngáo không phải không có dụng ý.
- Nhưng hắn sẵn tiền! Hai Đa nói.
- Em không dám khinh ai nghèo, nhưng anh Hai nhớ cho, cũng là Tàu nhưng hắn là Tàu rách, những thằng to bản lành lặn đã ôm tiền đi ngay khi chiến tranh biên giới phía Bắc vừa bùng nổ! (91) Tôi nói.
(91) Ngay sau khi chiến tranh Nam-Bắc Việt Nam chấm dứt (30-4-1975), Cộng Sản Việt Nam nghiêng hẳn theo Liên Xô. Năm 1976, Trung Quốc tức giận xúi Pôn Pốt, lãnh tụ Khmer Đỏ quấy rối các tỉnh biên giới Tây Nam VN. Lê Duẫn cho quân tràn qua Campuchia, Pôn Pốt rút về biên giới phía Tây. Để cứu vãn đàn em, năm 1979 Đặng Tiểu Bình tuyên bố cho VN một bài học bằng cách xua quân đánh chiếm các tỉnh dọc theo biên giới phía Bắc Việt Nam. Cộng Sản Việt Nam liền phát động chống bá quyền Trung Quốc, đồng thời buộc những người Việt gốc Hoa phải rời bỏ Việt Nam.
- Nếu không muốn hắn ở dưới trướng mình, chú trao đổi gấp với chủ tịch Phạm Tư. Ông ta nói.
- Bây giờ a? Tôi hỏi, đưa tay xem đồng hồ.
- Còn đợi lúc nào nữa? Ông ta giậm chân, hối thúc. Nghe tới đó, tôi bật dậy, muốn đi ngay. - Khoan đã! Hai Đa khoát tay bảo tôi nán ngồi lại. - Còn chuyện này nữa, bảo thằng Lê Viết Kỳ ngưng ngay việc đưa quân qua Campuchia móc nối với bọn tướng tá đang cát cứ rừng nguyên sinh, chí ít cũng im hơi lặng tiếng một thời gian. Vẻ bí mật, ông ta tè một ngón tay, lăm le nhấn nhứ răn đe.
- Vâng, em hiểu, sẽ cho dừng thôi!
Tôi nói, bước giật lùi về phía cửa.
Thoáng thấy người nhà bưng lên một khay đồ nhăm, tôi lại giả bộ lừng khừng.
- Thôi đi đi! Vẫn ngồi trong ghế, ông ta vẫy tay lia lịa. Tôi nghi đêm nay, sau tôi ông ta còn hẹn hò ai.
Thì ra chỉ có thế!
Ngồi vào xe, tôi thở hắt bực dọc, tần ngần tra khóa vào ổ. Đang nằm yên ở chiếc ghế bên cạnh, Miki mơ màng nhổm dậy, ngoác miệng ngáp, rùn lưng nhảy lui băng sau. Có lẽ không muốn thấy một cái gì đó hoặc nãy giờ phải gật gưỡng canh gác, nay đã có chủ nó tìm chỗ ngủ tiếp. Đã hơn tám giờ tối, có nên gọi điện xin phép chủ tịch không? Tôi phân vân, cho xe lăn bánh.
Thôi, khỏi! Biết đâu ông ta đang nóng một chờ mình? Ở tỉnh này đám cán bộ như tôi phải bói việc mà đến hầu, không ai không rõ tính khí nóng nảy của chủ tịch mỗi khi chờ đợi. Xe qua phố, tôi vào tiệm ăn của ông chủ người Hoa Quảng Châu quen biết mua một ký thịt bò bíp tếch, cho Miki mấy lát, phần còn lại gói kỹ cất vào cốp xe phía trước.
Nhoáng một cái, sạch vanh vách, Miki liếm mép bằm bặp rồi rên hư hử. Biết nó chưa thỏa, thòm thèm, tôi dọa đánh. Nó vội nằm xuống nhưng cổ họng vẫn ăng ẳng hậm hực. Đồ hư! Bữa sau đừng hòng mà hóng theo! Tôi mắng, nhìn về phía trước.
Từ phố Trần Hưng Đạo, ngang qua khu thương nghiệp, tôi cho xe ngoặt lên đường Phan Châu Trinh. Đầu hôm, từ công viên nhiều nhóm nhỏ đi bộ thể dục túa ra. Lên hết đoạn dốc ngắn, tôi cho xe chậm lại, tư thất chủ tịch nằm sâu trong một khu vườn rộng.
Thoáng nhận ra số xe, người bảo vệ mở cổng.
- Cả ngày trông trước ngó sau, xin ông anh chút khói cho đỡ lạt miệng lạt mồm!
Anh ta theo tới, kể công khi tôi rời khỏi xe. Như mọi khi, tôi giúi vào túi anh ta gói thuốc lá bóc dở.
- Cảm ơn!
Anh ta khẽ nói, lặng lẽ lẩn vào bóng tối.
Rời khỏi xe, tôi thư thả nhìn quanh, cảm quan vẫn không thay đổi. Ngôi nhà lù lù trong bóng đêm gây cảm giác ngờm ngợp, mặt tiền khá rộng. Đèn chiếu sáng dừng lại ở thềm cấp, phân cách khoảng không gian. Bên trong, im ắng, sâu hút. Bên ngoài, lờ mờ hàng chậu cảnh, lấp lánh ánh nước hồ non bộ, loáng thoáng những mũi chông nhọn đầu tường.
Thấy cửa mở hờ, tôi bước lên bực cấp tiền sảnh.
- Có hẹn trước không?
Tay công an mặc thường phục xuất hiện hỏi.
- Không ạ!
- Vậy thì về đi!
Đã nhẵn mặt nhau anh ta vẫn xẵng giọng.
- Tôi có việc đột xuất cần báo cáo chủ tịch gấp!
Tôi phịa.
- Làm ăn phải biết phép biết tắc, có ai dám đến đây để chơi đâu! Anh ta cằn nhằn.
- Thiệt mà! Tôi nói, khẽ đặt vào tay anh ta cái bao thư nhỏ như lệ thường.
- Hôm nay chủ tịch bận.
Lẳng lặng nhận quà, nhưng anh ta vẫn nói độc, lâm đâm muốn đi đâu đó. Tôi đứng đơ, tửng tửng nhìn quanh. Anh ta toài nửa người qua cửa, khoát tay lệnh cho bảo vệ mở lại cổng. Đã nhận quà rồi, giở chứng xua đuổi kiểu đó là xúc phạm nhưng tôi tảng lờ. Trở lại xe tôi mở cốp vói lấy gói thịt. Ngẫm nghĩ mấy giây, tôi cắp luôn chai Martin đã lưng nửa theo. Miki nhỏm dậy, ngoe nguẩy đuôi, hít hà, í ẳng. Tôi vỗ đầu nó, xoa xoa nhấn nhấn, bảo phải biết vâng lời. Nó yên lặng nằm trở lại, dửng cao đầu nhìn ra ngoài, hai mắt tô hố phóng sâu vào bóng tối. Tôi nghi do cái mùi thịt bò khiến nó rạo rực, thấp thỏm. Đáng ra mày nên ở nhà thì tốt hơn! Trước khi đóng cửa xe, tôi dằn mặt Miki. Định quay kính lên, chợt nghĩ đã có nó, lại sợ bí bức, tôi hạ xuống rồi cắm cúi đi vào.
- Dù gì thì đã tới, không may phải lúc chủ tịch bận, đồng chí cho tôi mấy phút diện kiến cẩu huynh?
Trở lại hiên, tôi nói khẽ với anh ta, một tay đưa cao gói giấy phảng phất mùi thịt rán, một tay hạ thấp đây chai rượu vào túi áo đại cán.
- Được thôi, nhưng phải khẩn trương đấy!
Anh ta nói, lặng lẽ đi trước. Chúng tôi vừa qua cửa, đã nghe Bull húng hắng bên trong.
Đang đi, tay công an chững lại rẽ vào phòng bên cạnh. Anh ta luôn luôn chứng tỏ mình là người quan trọng, lạnh lùng, khó hiểu nhưng giờ thì tôi yên tâm. Có lẽ đang dùng điện đàm nội bộ tranh thủ báo cáo, hỏi xin ý kiến thủ trưởng. Thay vì đứng chờ, đã quen lối, tôi rẽ trái, đi về phía cầu thang. Bull đang năm dài, thưỡn mình lên một tấm thảm nhung màu mận chín, toàn thân bất động, chỉ có đôi mắt mở thao láo nhìn thẳng vào tôi. Như một đức ông chờ chực cung tiến, trông mà phát ghét! Tự dưng hai chân tôi khập khiễng và có ý muốn quay lui. Biết đâu không hẹn trước với chủ tịch mà hay, có thể tùy tiện, coi như mình không đến.
Vừa lúc ấy, tay công an trờ tới, đặt vào tay tôi cái khay gỗ khảm cừ, tôi biết mình vừa suy đoán sai và chợt hiểu nên làm thế nào.
Mở gói thịt, tôi sắp từng lát gối lên nhau, ý tứ cho múi chanh và mấy cọng rau qua bên, rồi quỳ xuống đưa tới trước mũi Bull. Thấy tôi ứng xử đúng nghi thức, tay công an yên chí trở lại phòng riêng. Tốt! Tôi nhìn theo, không phải đề phòng bất trắc, nhưng muốn kéo dài thời gian cho tồi bại trong người mình lắng xuống.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Christiane

Re: Phiên Bản Tình Yêu (Vũ Biện Điền)

Postby bevanng » 01 May 2016

- A.44
Ghen ăn tức ở, phát sinh đấu tranh giai cấp. Lạm phòng, chủ tịch đột tử.


Xin mời! Tôi nói to, không hẳn cho Bull nghe. Đã nhiều lần thưa gởi như thế mà mỗi khi cất tiếng vẫn ngượng, gần như xấu hổ dẫu biết tất cả chúng tôi quỵ lụy không vì cái thứ chó má ấy. Chiếc mũi to đen bóng mướt nhích động, Bull ta uể oải rướn mình, lừ mắt nhìn tôi rồi lè cái lưỡi dài đỏ hỏn liếm lát thịt gần nhất, nước bọt nhểu tứa thành dòng. Mẹ mày, thèm rệu nước dãi còn làm bộ! Tôi quyết chắc Bull đã đánh bắt được thực đơn ưa thích. Với chút háo hức vừa phải, nó nhón dậy, ủi mõm vào khay. Lát thịt vừa qua cổ họng, Bull đứng im như tập trung lắng nghe khoái cảm trào ngược lên từ ruột gan. Châm điếu thuốc, tôi quyết tâm ngồi hầu Bull và chờ đợi cầu âu sự cho phép của chủ tịch Phạm Tư. Xơi tới lát thứ ba, bất thần Bull hừ một tiếng, trừng mắt, tôi chưa kịp đoán biết điều gì khiến nó phật ý. Ào một cái nhanh như ánh chớp, Miki lướt qua mặt tôi lao thẳng vào Bull. Khó mà phân biệt chủ khách, chỉ loang loáng hai màu nâu đen và vàng xám như xoắn vào nhau. Với cốt cách quân tử Tàu, họ nhà cẩu mỗi khi nhập trận thường nhặng xị gầm gừ inh ỏi rồi mới xông vào quần thảo, nhưng giờ không biết vì sao chúng như hai đấu sĩ câm, Bull và Miki cứ nín thinh cắn xé nhau liên tù tì. Tình huống đột xuất, quýnh quáng, tôi chưa biết ứng xử thế nào. Chỉ mươi lăm giây, Miki đã đè ngửa Bull ngay trên đống bíp tếch, ngoạm vào yết hầu. Đây là đòn trí mạng tớ thầy chúng tôi khổ công tập luyện nhưng nó đã chọn sai đối tượng! - A! Tôi kêu lên, rút chiếc ghế con mình đang ngồi nhưng cứ cầm cứng trong tay. Thú thật, đã tới nước này mà tôi cứ sợ lỡ tay phang trúng cẩu huynh! Nghe động, tay công an mặc thường phục trở lại với khẩu AK, sửng sốt chứng kiến cuộc thư hùng. Bốn chân chỏng gọng, Bull chới với, quờ ngang quạng dọc. Gồng mình, Miki vừa day vừa nghiến, máu ngập trào hai khóe miệng. Tôi xộc tới giật lấy tấm thảm, muốn phủ đầu Miki để cứu Bull, nanh vuốt vung vít sao cũng đành đưa thân đỡ lấy. Nhưng đã quá muộn, nó thả Bull ra, cong đuôi lao vê phía cửa. Đoàng! Đoàng! Đoàng! Tay công an rượt, nổ súng. Đoàng! Đoàng! Ra tới sân, anh ta còn bắn về phía xe tôi mấy phát. Khu vườn rực sáng do hệ thống đèn bảo vệ. Cùng với lũ chó cỏ, vài ba người hàng xóm đâu đó hớt hải trờ tới.
- Không có gì! Sực tỉnh, anh ta hoa tay, hét vói qua đầu tường. Họ tiu nghỉu trở lại nhà, lùa chó theo.
Hệ thống đèn bảo vệ tắt, khu vườn ngập bóng tối, chỉ khoảnh sân nhỏ lờ mờ bởi ánh điện tiên sảnh.
- Chó nhà ai? Định tỉnh, tay công an hỏi tôi vừa ra tới, hất hàm trỏ về phía ngõ.
- Không biết! Tôi nói.
- Tại sao không biết?
Anh ta đanh giọng, ngớ ngẩn nhưng hách dịch.
- Có thể vật nuôi của một nhà quanh đây, đồng chí có khả năng… còn tôi ở xa mấy cây số! Tôi phân bua.
- Thói thường chó ỷ nhà, gà ỷ vườn, vào nơi xa lạ quyền quý, sao nó dám hung hăng hỗn láo!
Anh ta cẳn nhẳn, coi tôi như cái mộc kê thả sức băm vằm cho hả. Tốt thôi! Tôi liền vận dụng quan điểm lập trường bập ngay.
- Một bên đói khát lang thang đầu đường xó chợ, một bên ấm no thảnh thơi chốn cao sang, ghen ăn tức ở, nuôi hận lâu ngày phát sinh đấu tranh giai cấp!
Tôi lên mặt giải thích, nhấn nhá xỏ xiên tí đỉnh.
- Cũng có thể… Anh ta ngẫm nghĩ rồi lẩm bẩm tán thành, gật gù tâm sự. - Năm mười hai tuổi, có lần tớ theo chú tớ tháp tùng xâu chuỗi vây bắt địa chủ…
- Xin lỗi, đồng chí họ gì? Nghe đến đó, tôi hỏi.
- Mã… Nhưng tại sao…? Anh ta nhìn chăm vào tôi.
- Không có gì!
Tôi nói, ghìm ngay mọi cảm giác chợt đến, xóa ngay con rối Mã Tho đang lố nhố trong đầu, trở lại hiện trường. Ngay khi ấy, tôi nhận ra mùi thuốc súng phảng phất, những ánh sao đêm nhọn hoắt ánh kim và gió lạnh tràn qua sân. Không ai bảo ai, cả hai đều quay bước, vào thẳng tới chỗ Bull vừa ngộ nạn. Sóng sượt, tênh hênh, nó chết thật rồi, xác to bè đồ sộ hơn cả lúc sống! Vết cắn ở cổ toe hoe lớn bằng miệng bát, máu chưa ngừng chảy, đôi mắt trừng trừng ngời ngợi đã đứng tròng, bụng thóp lại, ngực nở ra, bốn chân ngắn to thẳng dơ. Trong lúc chúng tôi chưa thoát khỏi bàng hoàng, tiếng bước chân dồn dập ở cầu thang gỗ vang lên, rồi một người con gái lõa lồ lao xuống, tay ôm dúm váy áo, run rẩy kéo lê chiếc túi xách nhỏ đứt quai.
- Bích Thảo! Có phải Bích Thảo không?
Tôi kêu lên, ngờ ngợ vì mấy tháng rồi không gặp và vì tóc cô ta đã đổi cả kiểu lẫn màu.
- Cứu em với! Cô ta rống riết, ào tới.
- Chuyện gì thế? Tôi đưa cao hai tay đón chận, rất ngại thân tình thái quá lúc này.
- Có người chết!
Cô ta rên rỉ, đổ khuỵu xuống, ôm lấy chân tôi.
- Ai? Túm lấy đầu tóc hoe vàng, tôi dựng cô ta đứng thẳng dậy.
- Nói đi, ai chết? Tôi hối thúc, rồi ngoái lui.
Tay công an vẫn hòm súng, cau mặt.
- Ông ấy… Cô ta nói.
- Ở đâu? Tôi hỏi, nhìn quanh.
- Ngay trên ấy, trên giường…
Cô ta đưa tay chỉ lên trần nhà.
Nghĩa là thế nào? Một lần nữa, tôi đưa mắt ngầm hỏi tay công an. Anh ta ngoảnh mặt, buông thõng súng. Tớ thầy hợp đồng thật khắng khít khớp khao nhưng trời cao có mắt. Hôm nay chủ tịch bận, bận của chúng mày là thế này ư? Tôi muốn cho hắn một cái tát. Chợt nhớ lời lẽ hách dịch cố tình chận cửa vừa rồi, tôi nghĩ mình phải giữ bình tĩnh vì sắp chạm mặt với bao ẩn tàng bật mí. Nhưng có nên dây dưa? Có nên mang tội chữa lửa? Tôi tự hỏi. Dù sao cũng đã qua cửa. Tôi tự trả lời, đẩy Thảo đến góc nhà ít sáng nhất, vạch xem cái mớ lói tói trong tay cô ta. Thảo run bắn buông rơi tất cả. Tôi hỏi tới quần xì, cô ta lắc đầu. Hỏi tới nịt *, cô ta lắc đầu. Vỏn vẹn chỉ có mỗi chiếc váy lụa trắng mỏng dính, tôi chụp lên đầu cô ta bất luận phải trái, giằng gấu ghịt xuống. Tạm ổn, tôi dấn cô ta vào chiếc ghế bên cạnh, tiến lại phía tay công an đứng ủ rũ như cây mới trồng. Tất cả đều tĩnh lặng. Cây đèn chùm đang tỏa sáng là một hiện thực. Cái xác Bull tênh hênh chổng vó, cổ họng toét loét, đầm đìa máu me là một hiện thực. Cô gái làng chơi đang cúi gầm mặt thin thít trong xó kia là một hiện thực. Bốn mắt chúng tôi gặp nhau lạnh lùng xác nhận như thế. Còn chủ tịch đang ở trên kia, hư thực thế nào? Nôn nao, tôi đẩy anh ta về phía cầu thang với chút hy vọng mong manh. Có thật ông ta hay một người nào khác? Chẳng hạn, chiến hữu một thời, hoặc khách trung ương. Tôi cầu âu trong từng bước đi. Vì sao mà chết? Tôi không tin Thảo có thể ra tay. Càng không tin có một hung thủ dám lẻn vào một nơi an ninh vào loại nhất nhì thế giới. Đầu như muốn nổ tung, tôi đặt chân lên bậc thang. Anh ta vẫn đứng ì tại chỗ, sững mặt, trù tính chuyện gì. Tôi ngoái lui giật lấy khẩu AK. Bừng tỉnh, anh ta giành lại súng, lên đạn, đi trước. Đánh bạo áp cận, tôi dè chừng từng bước. Lên khỏi cầu thang lầu một, chúng tôi lần theo một nhánh hành lang tối thui, lạnh ngắt.
Thú thật đến lúc này tôi mới có dịp len lỏi tới thâm cung của chủ tịch.
- Đâu? Tôi khẽ hỏi.
Anh ta nhìn lên nhánh cầu thang nối tiếp, thúc tôi cùng sóng bước. Có thể hung thủ chưa kịp đào thoát, tôi thận trọng và cố kín tiếng. Hơi thở anh ta bắt đầu dồn dập thậm thịch. Lại một nhánh cầu thang nữa hiện ra, sáng hơn nhờ ánh sao trời qua mấy ô cửa kính. Chúng tôi dừng trước gian phòng cửa mở hờ, ánh đèn màu hồng từ trong hắt ra. Nhìn quanh, tất cả vẫn tĩnh lặng.
- Đây!
Anh ta nói, huơ mũi súng gạt nửa bức rèm trúc. Một phần thâm cung lộ ra chẳng có gì khác ngoài những vật dụng im lìm. Ngập ngừng mấy giây, cả hai chúng tôi cặp sát nhau tiến sâu hơn. Qua khỏi cửa, anh ta vói tay mở đèn chiếu sáng, đảo mắt cảnh giác, bộ tịch sẵn sàng nổ súng. Khi tin chắc không có ai khác, tôi đi thẳng tới chiếc giường lớn ở phía cuối phòng.
Trên nệm bọc ga trắng, chủ tịch Phạm Tư nằm ngửa, trần như nhộng, cong tớn trong tư thế róng rướn, bụng phình, * nở, đôi mắt trợn trừng. Tôi áp tay lên ngực ông ta, nhờn nhợt mồ hôi, vẫn còn chút hơi nóng. Hy vọng, tôi bứt một sợi tóc, ghé sát mũi nạn nhân, nhưng tịnh ngắt, không một tí phe phẩy.
- Vậy là đột quỵ! Tôi đoán mò.
- Đột quỵ sao lại ở truồng? Anh ta cãi lại.
Tôi quan sát những gì bao quanh, hai vuông gối nằm không đúng vị trí, chiếc mền nhung màu hổ hoàng dúm dó vương vãi một phần xuống sàn. Thương tích, xây xát, máu me? Không có. Chừng đó chưa đủ bằng chứng biểu hiện một cuộc xô xát dẫn đến án mạng. Nhưng chủ nhân đã xuôi xuôi, ngoại trừ sắc mặt ửng hồng và một bộ phận sống nhăn cực kỳ sung mãn, đó là cái củ trối của đương sự. Lạ, nó ương bướng không chịu theo chủ, như còn tiếc nuối cõi trần! Cái chóp mào bóng nhẵn hon hỏn tươi tắn, toàn khối gân guốc dựng đứng ngạo nghễ như cột trụ biểu ở sân đình, kiêu kỳ thách đố đất trời giữa đám âm mao đen nhánh dày rậm.
Tay công an săm soi từ đầu đến chân chủ tịch, dừng lại ở khe háng rồi chỉ cho tôi xem những bọn lầy nhầy đùng đục như mủ. Là đàn ông, chúng tôi thầm biết nó từ đâu ra. Sau khi quan sát, chúng tôi thừa nhận tư thế nằm của cái xác rất hiên ngang, oai hùng hơn cả lúc chủ tịch triển khai nghị quyết, phát động thi đua. Nhưng cái của quý không chịu thủ phận, quá hãnh hách khiến người xem có cảm giác trồi trội sượng sùng y như loạn tướng loạn quân. Thấy vậy, tôi kéo một chéo mền phủ lên, nhưng anh ta ra hiệu không được táy máy. Tôi hiểu đó là phép tắc nghề nghiệp nên hoàn trả lại như trước.
Mặc Mã huynh với chủ nhân, tôi lượn quanh, dọ dẫm, săm soi. Ngoại trừ cái két sắt ở trong góc, tôi bung tất cả những gì có thể mở - kệ âm tường, các ngăn kéo và cả tủ lạnh. Bao nhiêu sơn hào hải vị phơi ra. Trong đó nổi bật hơn cả là các loại rượu bổ đa phần chứa trong thẩu thủy tinh to và đang lơ lửng vật ngâm. Chợt nghe tiếng gọi của đồng chí công an, tôi quay lại.
- Có phải tác nhân là đây không?
Anh ta hẩy chân chỉ bằng mũi giày rồi cúi nhặt dưới gầm giường lên, áp vào mắt tôi cái hộp giấy nhỏ. Tôi đón lấy, cố đọc chẳng lần được chữ nào. Cả nhãn hiệu và hướng dẫn xử dụng đều bằng thứ văn tự loằng ngoằng như giun bò. Nhưng qua tấm hình gợi cảm tục tĩu dưới thương hiệu tôi ngờ ngợ một loại biệt dược cương dương Đông Nam Á na ná thần dược Viagra (92) của Âu Mỹ. Anh ta xé tung cái hộp, những viên thuốc hình con nhộng đen ánh vung vãi mặt sàn. Tôi lén nhặt một ít cho vào túi nhưng anh ta không nhất trí.
(92) Năm 1992, tại Mertir Tidefeel xứ Wales, Viagra được nghiên cứu như thuốc chữa viêm họng. Trong quá trình thử nghiệm, người ta phát hiện một hiệu ứng phụ là làm tăng độ cương dương của người.
- Mình không biết nhưng chuyên môn người ta biết, đến lúc đó còn phải cân đối liều lượn…! Anh nói.
Tôi thả rơi trở lại những viên thuốc.
- Bây giờ phải làm thế nào?
Tôi hỏi, nhằm khỏa lấp chuyện bòn xái vừa rồi. Anh ta không trả lời, kéo tôi tránh xa cái xác, thẳng tới bộ trường kỷ khảm cừ ngay cửa sổ nhìn ra vườn hoa sân thượng. Tôi định ghé đít ngồi, nhưng anh ta ngăn lại.
- Không nên xáo trộn hiện trường! Anh ta nói.
Đứng yên tại chỗ, tôi nhìn xuống mặt bàn. Một chai Whisky nhãn hiệu Napoléon đã lưng quá nửa. Một ít lá gói nem nằm cạnh hai cái ly cơ. Mấy vỏ hột gà lầy nhầy trong giỏ rác. Một chiếc bánh ga-tô đã xém góc. Và một hũ thủy tinh màu xanh miệng rộng, bên trong lợn cợn những rẻo thịt ngâm, bên ngoài có dán nhãn hiệu chữ Tàu màu đỏ sẫm, kèm mấy dòng tiếng Anh nhỏ li ti. Ingredients… Lot no… Expire… Directions (93)… Tôi đọc lướt.
(93) Ingredients: thành phần. Lot no: số lô hàng. Expire: thời hạn. Directions: chỉ dẫn.
- Gì thế? Anh ta hỏi.
- Những ghi chú cần thiết và hướng dẫn xử dụng của nhà sản xuất thực phẩm và thuốc men.
Tôi giải thích qua loa cho anh ta, nhưng đầu bùng bục trăm thứ. Đã từng nghe, giờ mới thấy, đó là nhau thai ư? Tôi áp cận hơn nữa. - Foetus… Tôi đọc, rồi khắc ghi từ ngữ này. Họ đã ăn uống lấy sức và bồi bổ khá kỹ trước khi lên giường. Hệ quả là gì? Mất cân đối! Thuốc pháo nhồi nhét quá liều lượng, vỏ đạn nổ banh trước khi đầu đạn thoát khỏi nòng? Ham pháo nhưng không phải pháo binh, chết là phải, không chết mới lạ! Là một thuộc cấp trung thành, chưa bao giờ tôi cầu điều dữ cho chủ tịch, nhung khó mà không tin như thế. Một phần sự thật đã sáng tỏ, đúng là sống thế nào chết thế đó! Tôi thì thầm, tự dưng buồn thấm thía. Anh ta lắng nghe, ngẫm nghĩ rồi gật đầu, quàng súng vào vai.
- Không nên lưu lại đây lâu hơn nữa! Anh ta nói.
Chúng tôi song hành qua cửa, nhưng chưa ai biết phải làm gì tiếp theo.
- Dù gì cũng phải báo cho ban nội chính!
Lưng chừng cầu thang, anh ta gợi ý.
- Nhưng trước đó, đồng chí nên gọi đến sở công an, bảo với thường trực có chuyện khẩn mật, xin được báo cáo trực tiếp với giám đốc Tạ Thao. Tôi nói.
Nhận rõ tầm mức sự cố, anh ta khẽ gật đầu, lao vội xuống. Tôi vói tay níu lại.
- Để khỏi tai lây vạ gió, theo tôi, trước cả khi gọi giám đốc Tạ Thao, đồng chí nên phôn cho giám đốc bệnh viện khu vực tỉnh Trà Văn Bính! Tôi nói.
- Để làm gì? Anh ta hỏi.
- Xin cấp cứu. Tôi nói.
- Chủ tịch đã chết lăn queo, đồng chí tưởng bác sĩ Bính giỏi lắm a? Anh ta không đồng ý.
- Rõ rồi, y tá thôn theo lý lịch mà mò lên. Nhưng phải xử lý đúng thể thức và quy trình, về sau sẽ sạch trách nhiệm! Tôi nói, anh ta gật gật đầu. Tôi thêm:
- Ngoài ba nơi ấy, đồng chí muốn báo cho cơ quan nào nữa thì tùy. Chẳng hạn thường vụ tỉnh ủy, thường trực hội đồng nhân dân tỉnh, văn phòng ủy ban… Nhưng trước khi các nơi đó xộc tới, phải tống khứ cái con nợ tình của ngài chủ tịch ra khỏi hiện trường, tống càng sớm càng hay, càng xa càng tốt! Tôi đề nghị.
- Vâng! Anh ta tán thành ngay.
- Đồng chí có tiền đấy không? Tôi hỏi, thầm nghĩ bấy lâu anh ta bòn rút tôi, giờ mình tháu cáy lại cho bõ.
- Để làm gì? Anh ta thộn mặt, đơ đơ.
- Chết sống gì cũng là chủ tịch, ăn quỵt chơi lường mà được với cái thứ đĩ điếm ấy a? Xót của, không khéo nó vung vãi khắp bàn dân thiên hạ, thối cả chính quyền đến tận Đảng! Tôi lên mặt quân sư.
- Nhưng suốt từ hồi đó đến nay, mỗi lần ả ta dẫn xác đến, dẫu ngọt nước ngon cái, thề có trời đất chứng giám, trước sau chỉ có chủ tịch thôi, còn tớ, chẳng bao giờ dám…! Anh ta than. Tôi cứ một mực nhăn nhó, ngả tay dấn tới, chòi mòi bằng được.
- Không tin tớ hả?
Thấy vậy, anh ta gắt, huơ cằm như muốn nói có đó còn đây sợ cóc gì mà tớ không ba mặt một lời.
- Biết rồi…! Tôi nói, định vào tai anh ta, chỉ có bộ trưởng công an Trần Quốc Hoàn mới dám chơi chung gái với chủ tịch, nhưng đã kịp ngắt, phát tiếp phần cuối.
- Tội nghiệp không ăn mà chịu, ức quá chứ lị!
Được cảm thông, anh ta ngước lên. Tôi nói tiếp.
- Nhưng đại cuộc đã vỡ lở, phải có cái mẹt bít miệng thế gian? Anh ta dụ dự khá lâu mới mở ví trút hết tiền bạc sang tay tôi.
- Sẵn xe, đồng chí lo giúp luôn cho nhé!
Anh ta khẩn thiết run giọng như người đang bệnh. Tôi giả bộ tránh trớ, tí ta tí tởn rồi mới gật đầu.
- Còn việc này thực sự quan trọng, nếu vì đột xuất mà các ngài lú lẫn, đồng chí phải tham mưu ngay cho.
Xuống hết bậc cuối cầu thang, tôi nói nhưng nửa chừng thì bỏ lửng.
- Cho gì ạ?
Vẫn căng thẳng, anh ta hỏi. Tôi phân vân. Hồ chủ tịch vừa nằm xuống, bầu đoàn Lê Duẫn tức khắc có ngay kịch bản hậu sự, tại sao bây giờ những người như Hai Đa lại không biết học đòi vận dụng phát huy sáng kiến, mình dám “ban môn lộng phủ” mà coi được a! (94) Tôi vô cùng e ngại, nín khe.
(94) Lỗ Ban người nước Lỗ thời Xuân Thu bên Trung Quốc, tên Ban, tự là Công Du, giỏi nghề mộc. Ông còn nổi tiếng về bùa, chú, yếm (bùa Lỗ Ban), về sau, Lỗ Ban được tôn làm tổ sư của nghề mộc. Thành ngữ Ban môn lộng phũ: Múa rìu trước cửa nhà Lỗ Ban, ý nói không biết liệu tài sức của mình, chỉ làm trò cười cho thiên hạ.
- Nói đi! Thấy tôi mai mái nguội lạnh, anh ta hối thúc. Tôi đứng im, cúi mặt.
- Tang sự bối rối… Anh ta mớm.
Tôi hiểu nhưng đứng im.
- Tang sự bối rối, thế nào các vị ấy cũng hỏi tớ, mà tớ thì chẳng còn bụng dạ nào, với lại, ngày còn ở ngoài Bắc… Anh ta lấp bấp.
- Là thế này! Chẳng phải cao kiến, nhưng thừa còn hơn thiếu, tôi mạnh dạn.
- Theo tôi không thể cho đồng chí chủ tịch chết vì ăn nằm với một con đĩ, tuyệt đối không để rò rỉ scandale này đến tai cán bộ viên chức và nhân dân trong tỉnh…
Anh ta lắng nghe, lơ mơ không hiểu scandale (95) là gì. Không tìm thấy từ Việt tương thích, tôi dịch bừa.
(95) Scandale, tiếng Pháp.
- Nghĩa là, không để rò rỉ sự đốn mạt này, sự bỉ ổi này, sự kinh tởm này vượt khỏi tư thất chủ tịch.
Anh ta ngẫm nghĩ rồi gật đầu. Tôi nói tiếp.
- Hơn ai hết đồng chí và chức sắc hữu quan phải dày công tài bồi cho chủ tịch một cái chết đẹp ngang hàng với danh nhân lịch sử, chí ít, cũng vẻ vang như anh hùng lao động, để sau này còn tạc vào bảng vàng bia đá, còn đặt tên đường tên phố cho địa phương ta và đưa vào sách giáo khoa cho con em nhân dân học tập…
Anh ta ngẫm nghĩ, ngằn ngặt cũng gật đầu.
Yên tâm, tôi hướng tới góc phòng tối tăm trong kia anh ta bám theo.
- Còn cái xác con Bull? Có lẽ, thấy tôi nói năng chí lý chí tình chí nghĩa, anh ta níu tay, cầu kiến thêm.
- Đang lúc tang chế buồn bã không muốn đánh chén thì bán quách đi! Tôi mách nước.
- Mập cỡ ấy khẳm tiền, bèo lắm cũng bằng ba tháng lương kỹ sư tập sự! Anh ta lại gật đầu.
Nhằm phi tang, tôi vơ gói bíp-tếch còn thừa cho vào túi áo khoác.
- Thế mấy phát súng? Anh ta hỏi, nhìn ra cửa. Có lẽ động thái của tôi vừa rồi nhắc nhở anh ta nghĩ tới hệ lụy và thầm hối tiếc đã lỡ tay.
- Mấy phát súng phải nằm trong logic (96) cuộc sống cao cả của chủ tịch, các anh liệu mà biên đạo.
(96) Logic, tiếng Anh - Logique, tiếng Pháp: có cấu kết mạch lạc, hợp lý.
Tôi phủi tay và vô tình làm anh ta sợ hãi hơn nữa.
- Tớ chịu thôi! Anh ta một mực van xin.
- Có gì đâu, cứ vu vạ Bull ta hóa dại, bứt xích sắt cắn phá lung tung, mặc dầu rất yêu thương cẩu huynh như con đẻ nhưng chủ tịch đành gạt lệ chỉ thị hạ thủ để tránh tai họa cho nhân dân.
Tôi đặt tay lên vai anh ta, ra vẻ lúc hoạn nạn rút ruột với nhau. Anh ta thật sự ngậm ngùi xúc động. Bao năm quen biết, mặt dạn mày dày, đêm nay chúng tôi đều giả mùi mẫn vào vai tri âm tri kỷ. Cũng phải thôi, đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu. Việc gì phải áy na áy náy cho nặng bụng, nghĩ lại trước sau đều chuyện chó cả thôi. Đã đến lúc đường ai nấy đi.
- Thôi nhé, tôi còn việc phải làm.
Tôi chỉ tay về xó phòng bên kia, anh ta im lặng nhìn theo. Thấy phải hành động gấp, tôi hối hả bước tới. Trong bóng tối mờ mờ, chỉ có chiếc ghế trống trơ. Đảo mắt tìm, tôi bắt gặp Bích Thảo đang ôm đầu thu mình dưới gầm chiếc bàn con gần đó. Chỉ một khoảng ngắn, tôi vói tay lôi cô ta ra, dựng đứng thẳng lên.
- Em… Em không…!
Hai tay quờ quạng, cô ta phân bua nhưng hàm xai cứ lập cập.
- Theo tôi ngay!
Tôi đẩy Bích Thảo về phía cửa. Cô ta co ro vâng theo. Ra ngoài, khí lạnh khiến cô ta cúm rúm hơn nữa. Chúng tôi băng qua khoảng sân lạnh tối thui. Chiếc Mercedes yên nằm trong bóng đêm.
- Anh ơi, chắc em không sống nổi!
Vừa vào trong xe, từ ghế sau, cô ta nói vói tới.
- Im đi! Tôi nạt, cho xe khởi động.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Christiane

Re: Phiên Bản Tình Yêu (Vũ Biện Điền)

Postby bevanng » 02 May 2016

- Z.26
Tăm tình trong lòng đất.
Nâng cao tình thần bằng nồng độ.


Một buổi tối, Mơ và tôi vừa lên khỏi hầm, thấy ông Ne đi lại trong nhà, tay cầm con rựa. Tôi mừng nhưng không dám hỏi thăm. Cơm nước xong, ông chốt chặt cổng ngõ, kéo tôi vào xó bồ.
- Gần cả tháng ni bọn hắn đánh phá liên tục, tui không trực tiếp liên hệ với cấp ủy xã đương lúc sơ tán.
Vừa ngồi xuống, ông nói.
- Mất mấy ngày đường, tui chỉ gặp thường trực huyện. Họ nói không hề biết chuyện của anh. Họ viết giấy giới thiệu tui lên thành ủy. Ở đây nói chỉ nghe phong phanh, chưa nhận được báo cáo. Tui nói coi như chừ tui lên để báo cáo. Rủi thay, đương lúc chờ bữa, các cha chầy rầy, phịa chuyện không đúng tuyến, hứa sẽ nghiên cứu và có quyết định sau. Tui nói không thể chần chờ. Dầu sôi lửa bỏng, phải bốc đồng đội ra khỏi điểm nóng. Các cha nói sẽ liên hệ với thị đội, yêu cầu trinh sát hỗ trợ! Ông thở hắt bực dọc, vấn một điếu thuốc bằng giấy vở học trò.
- Chú có cho họ biết cháu thoát được nhờ một quan chức trong hàng ngũ địch giúp đỡ không? Tôi hỏi.
- Có! Ông đưa đèn mồi thuốc vừa nói vừa phì phà.
- Các cha lắng nghe, khai thác từng chi tiết rồi nói không nên coi thường thằng địch.
- Nếu có dịp trở lại thành ủy, chú tìm gặp ông Hà Thúc Lâm giúp cháu! Tôi lưu ý.
- Cha nớ là chi với anh? Ông hỏi lại.
- Là cán bộ lãnh đạo trực tiếp, đã cùng cháu ăn ở trong thành phố cả tháng để điều nghiên! Tôi nói.
- Nghe nói có ông Lâm ông Lẩm mô đó bị bom dập phải ra Hà Nội dưỡng thương rồi đi Liên Xô chữa mắt! Ông nói.
- Chú còn biết nơi nào khác có thể liên hệ?
Tôi nôn nóng hỏi.
- Trung đoàn bộ của anh con Mơ! Ông tin tưởng.
- Ngặt nỗi đang hành quân bên Lào! Ông tắc lưỡi.
- Anh đó làm gì ở trung đoàn? Tôi hỏi.
- Hậu cần! Ông nói.
Tội cho ông Ne, nếu có quan hệ được chắc không ăn thua! Tôi thầm nghĩ. Ông thừa nhiệt tình, nhưng đạt yêu cầu thì vu vơ quá! Cảm ơn ông đùm bọc tôi trong lúc nguy khốn nhưng hy vọng được cứu thoát quá mong manh. Lẽ nào trên không biết? Lúc nào các vị cũng bảo đảng lãnh đạo toàn diện, vô cùng sáng suốt, sao trường hợp mình y như rắn không đầu, mù mờ như ma xó! Hay có chuyện gì và đã đến lúc vắt chanh bỏ vỏ? Từ rối rắm tôi chìm trong hoang mang. Thấy tôi không hỏi gì thêm, ông đi nghỉ sớm vì đã lao nhọc gần hai tuần qua. Tôi tắt đèn, nằm trong bóng tối. Mắm thối, không ai nhận! Có lẽ Xuân Hoa nói đúng. Tôi bây giờ không bằng cái giẻ rách. Buồn quá! Buồn đến độ không muốn thở.
Suốt đêm không ngủ, mờ sáng tôi xuống bếp tính lục tìm gạo nấu cơm. Mơ đã dậy trước, nồi cơm vừa cạn, ấm nước đang sôi sùng sục. Tôi định ra sông lấy nước nhưng Mơ ngăn lại.
- Để em, lỡ người làng gặp cũng không sao!
Mơ giành hai cái thùng thiếc trong tay tôi.
- Vậy cỏn việc gì cho anh không?
Tôi ngồi xuống, dùng que tre đùa rơm vào bếp. Đạn pháo từ hướng nào từng tràng rào rào qua làng. Mơ gánh chừng năm đôi, cơm nước đã đâu vào đấy, tôi dọn chén đũa lên mẹt tre và ngồi chờ. Bà Nậy thức dậy, cho gà vịt ăn. Ông Ne ho hen vẫn chưa rời phản. Mơ và tôi ăn trước để xuống hầm khi trời chưa kịp sáng.
- Trưa ni bắt con gà trống què làm thịt, nghe mạ!
Mơ nói.
- Chị què thì có!
Bà Nậy mắng yêu con gái lúc đậy nắp miệng hầm. Tôi nghĩ tới bữa ăn có chất lượng và cảm thấy xấu hổ.
- Ước chi thắp được cây đèn!
Mơ nói, rồi lần mò ngồi xuống một đầu chõng.
- Có thắp được mình cũng ở trong đất! Tôi nói.
- Nhưng em thấy được mặt anh.
Mơ nói, ngộ nghĩnh nhưng khá tình tứ.
- Chuyện đó có khó chi, có điều chết ngủ chỉ chọc người ta cười! Tói đùa, rờn rợn tưởng bao quanh mình toàn khí các-bô-nic.
- Nghe cha nói anh đang học luật? Mơ hỏi.
- Phải! Tôi nói.
- Đến đâu rồi? Mơ hỏi.
- Năm thứ ba, nhưng vừa thi rớt đợt một!
- Cả tương lai rộng mở như rứa, bỏ ngang không tiếc à? Mơ hỏi.
- Không! Tôi nói.
- Răng mà lạ rứa? Mơ không tin.
- Cá nhân chẳng là cái thá gì, xã hội mới quan trọng, anh chỉ sợ không theo kịp chuyển biến của phong trào để góp công sức mình vào lịch sử. Tôi nói.
- Em thi rớt mới theo cách mạng, nếu không, còn lâu! Mơ nói. Tôi tin cô ta nói thật.
- Anh còn cha mẹ không?
Sau một lúc im lặng, Mơ hỏi.
- Chỉ biết chắc còn mẹ! Tôi nói.
- Con hoang à? Mơ hỏi.
- Không phải, có cưới hỏi đàng hoàng, nhưng cha bỏ nhà đi từ hồi anh còn bé!
- Đi mô? Mơ thốc tới.
- Qua Lào làm ăn rồi không thấy về! Tôi bịa.
- Rứa mẹ có biết anh đang làm chi ở Huế không?
- Hàng năm vào mùa thi cử, bà thường chờ con báo về kết quả học tập, thế thôi! Tôi nói.
- Anh có khi mô nghĩ đã mang tội bất hiếu?
- Có! Nhưng nhiệm vụ và lý tưởng không cho phép anh lưu giữ mặc cảm ấy lâu trong tim mình.
Mơ cười, ngằn ngặt. Mấy tháng nay mới nghe tiếng cười, và lần đầu tiên tôi nghe tiếng cười trong đất.
- Anh có tin bản cương lĩnh của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam không?
Đến lúc tưởng đã hết lục vấn, Mơ lại hỏi.
- Có! Tôi trả lời, chợt nhớ ông Hà Thúc Lâm từng khổ công thuyết giảng, tự dưng thấy mình chưa đáp trả được kỳ vọng của lãnh đạo, của nhân dân. Nhưng không biết vì sao Mơ lại cười, và mỗi lúc một ré to hơn khiến tôi phải chồm tới dùng tay bít miệng cô ta.
- Không ngờ anh ngây ngô đến mức đó! Người ta nói bọn Quảng Nam bạo mồm dẻo miệng to gan lớn mật nhưng bụng rổng tuếch, không ngoa!
Mơ bứt tay tôi, miệng gion giỏn.
- Ngài luật sư Nguyễn Hữu Thọ(97) chủ tịch cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, khoa bảng, mặt mày sáng sủa nhưng chỉ là bù nhìn thôi. Có những con ngáo ộp đứng sau ông ấy giật dây bảo gào tướng lên cái cương lĩnh chế tác theo mẫu Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc, cũng như Hồ Chí Minh trước đây cao rao Tuyên Ngôn Độc Lập Ba Đình chế tác theo mẫu Hiến Pháp Hoa Kỳ để nhử thèm quốc dân và lòe bịp quốc tế…
(97) Luật sư Nguyễn Hữu Thọ (1910-1996): một trong những trí thức miền Nam theo Cộng Sản, chủ tịch Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam từ 1960.
- Vì sao em biết? Tôi hỏi ngắt, ngầm ý muốn chận đà lao tới nhưng không ngờ kích động Mơ thêm.
- Anh học nhiều quá nên không đế ý đến chuyện nhỏ nhen, đê hèn, ma mãnh! Anh lao về phía trước, trực chiến với quân thù nên không thấy lãnh đạo ươn hèn, đốn mạt, lưu manh phía sau!
Cô ta rỉ rả châm chích, hình như thích thú.
- Nếu đã biết rõ chân tơ kẽ tóc như thế, sao em vẫn cầm súng chiến đấu cùng hàng ngũ với những con người ấy? Tôi muốn dồn Mơ phải quay đầu phản tỉnh.
- Đã có bao giờ em khờ khạo mà tình nguyện dấn thân như anh đâu! Mơ lại cười. - Loài cây dại cằn cỗi không bao giờ khắc khoải vì sao phải mọc trên thứ đất đá chúng cắm rễ. Em không có quyền chọn lựa từ khi mới sinh ra, số phận ấy càng rõ sau ngày thi rớt. Anh không thấy vật gì rơi xuống đều xuôi theo dòng chảy đó sao! Mẹ tin cha, cha tin anh cả, anh cả tin đảng, mà đảng thì ăn có nói không. Người ta hứa cho ra Bắc học, nhưng đến huyện thì tách dòng đẩy em vào luồng mà cứ bai bải trui rèn, thử thách! Em mơ học tập để vươn lên làm người có văn hóa mà bắt trui trong máu, rèn trong lửa, thử kiểu đó còn cái đách chi mà thách?
Giọng Mơ nghèn nghẹn rưng rưng khiến tôi cũng nao lòng. Muốn lảng tránh, nhưng không gian tối tăm chật hẹp biết lẩn vào đâu.
- Anh đã có ai chưa, người yêu ấy mà?
Đột ngột Mơ hỏi. Hơn ba tháng nay, tôi không dám nghĩ, cũng không muốn nghe ai nhắc chuyện này. Như người nhát máu nhưng có ung nhọt cho kín, chỉ nghe chuyện mổ xẻ hoặc thấy ai cầm dao cũng sợ cũng đau. Có nên che giấu không nhỉ? Tôi đắn đo. Mơ không hối thúc nhưng bộ tịch tập trung chờ nghe.
- Rồi! Phòng tránh hiểu lầm về sau, tôi nói.
- Chị ấy có xinh không? Mơ tò mò thêm nữa.
- Trong mắt bạn bè, cô ấy hội đủ tư chất và đường nét một người đẹp có thể đăng ký thi hoa hậu.
Tôi nói. Đang hồn nhiên cởi mở, bất chợt Mơ lặc lè thin thít khó hiểu. Có lẽ do tôi vẽ vời nhan sắc Cẩm Khuê? Ban đầu cứ ngỡ trạng thái hờn ghen tủn mủn, thói thường của đàn bà con gái, nhưng rồi tôi phát hiện cô ta thật sự lắng sâu trong bùi ngùi thương cảm.
- Chắc là mối tình đầu? Khi ngồi lên, Mơ hỏi.
- Của ai? Tôi gạn cho rõ.
- Chị ấy! Mơ nói.
- Có thể! Tôi nói.
- Còn anh? Mơ hỏi.
- Không phải! Tôi quả quyết.
- Rứa thứ mấy? Mơ hỏi.
- Thứ năm! Tôi nói.
- Lệ thường việc chi cũng bất quá tam, vì răng mà trước đó cứ trườn trượt mãi? Mơ thóc mách hơn nữa.
- Mở đầu, một cô hàng xóm, suýt hôn nhau nhưng chưa bao giờ nói yêu nhau, tình câm vì sợ họ hàng hai bên và cả bụi bờ nghe thấy. Rồi một cô gái khác nhỉnh tuổi hơn, đã thề non hẹn biển, nhưng khi biết người yêu còn lâu mới tự lập lấy thân, vội vã bỏ đi lấy chồng. Một cô cùng khoa, khi biết đối tượng là dân quê vùng núi non tít tận phía tây Trường Sơn, liền quay lưng. Một cô mới quen chưa bao lâu, cha cô ta kịp phát hiện người đang đeo bám con mình từng xuống đường, liền buộc con gái phải chia tay và cô ấy răm rắp tuân theo!
Càng kể tôi càng thấy buồn.
- Tuy lận đận, tuy gập ghềnh, tuy dang dở, tuy phụ bạc, tuy đắng cay, nhưng quả thực anh có số đào hoa!
Mơ nói, nhướng mắt như muốn nhìn kỹ mặt tôi.
- Đào đất chứ lị! Tôi cãi lại.
- Bốn mớ trước biết đâu cây dại trái chua, nhưng đám này quả thật kỳ hoa dị thảo, vì răng vứt bỏ mà về đây? Mơ chuyển hẳn sang điều tra.
- Quỷ ám, nông nổi, mông muội, sẩy tay đánh rơi bình ngọc! Tôi thở dài. Rồi có lẽ do hoàn cảnh đùn đẩy, có lẽ do tuyệt vọng, có lẽ muốn khuây khỏa, tôi kể rõ cuộc tình với Cẩm Khuê, từ tình cờ gặp gỡ trong tiệm sách Ưng Hạ đến lúc chia ly ở nhà xác bệnh viện Huế. Tôi đinh ninh một biệt động thành như tôi lâm cảnh ngộ ấy sẽ được một du kích như Mơ thông cảm an ủi. Không ngờ, nghe xong cô ta nổi giận, phản ứng quyết liệt.
- Nếu em là chị ấy, anh đừng hòng…!
Tôi thấy Mơ đứng lên, một tay níu vào nóc hầm, một tay lần tìm vật gì ở vách tre.
- Hòng gì? Tôi ủ ớ thăm dò.
- Hòng trốn thoát! Đạn đã lên nòng, súng trao tận tay, tim mình đang tan nát, em tiếc gì không bẳn vỡ sọ đứa xem thường tình yêu, còn vớ vẩn lăng nhục mình!
Mơ hoạch toẹt.
- Lúc đó anh sẵn sàng chấp nhận, khẩn thiết van xin. Nhưng cô ta không cho anh toại nguyện. Giờ đây anh muốn được nghe công tố luận tội và chờ quan tòa tuyên án! Tôi nói và Mơ như đã sẵn sàng vào vai.
- Hết sách lược rồi a, sao bọn anh phải dùng tới cái ngàn vàng của một đời con gái để xung trận?
Mơ san sát mắng vào mặt tôi.
- Vỉ chưa quán triệt quan điểm và đường lối cách mạng nên em nặng lời như vậy, có phải cứu cánh sẽ biện minh cho phương tiện không? Tôi ôn tồn thuyết lý.
- Trời ơi! Mơ kêu lên, thả rơi mình xuống chõng.
- Đến bây giờ mà anh vẫn mù mờ rứa a? Cô ta lại cười ngằn ngặt, rồi dùng mu tay gạt nước mắt.
- Tính mạng đôi khi còn không tiếc, huống là…
Tôi vẫn mở hết lòng dạ.
- Lủ lấp trập trệ, hết thuốc chữa! Mơ la… - Vì chị ấy muốn anh sống, vì Bửu Dương đã gởi gắm anh cho cha, nhân danh phái nữ em tha tội chết cho anh. Nhưng đây là ngoại lệ duy nhất, còn thằng ấy thì không thể!
Mơ bỗng bừng lên rồi như hẫng vào đâu đó.
- Ai? Tôi hỏi, ngờ ngợ.
- Bí thư xã đội! Mơ nói. - Hồi đó em mười bảy, mới tham gia du kích. Đợt tập huấn đầu tiên, buổi tối hẳn đưa em vào rú, nói ngoài kỹ năng quân sự, em cần bồi dường thêm nghiệp vụ chính trị. Em hỏi vì răng, hắn nói chính trị là thống soái, là ánh đèn soi đường cho ta đi. Chúng em hái lá lót lên cát, nằm thẳng cẳng ngắm trăng. Gió và lời đường mật dìu em vào mê muội. Thông qua yêu cầu chấp hành tuyệt đối, hắn đã phá đời em. Tháng sau, đụng trận, em dành cho hắn loạt đạn sau cùng trước khi rút chạy theo lệnh bảo toàn lực lượng!
- Anh vẫn không hiểu? Tôi ngu ngơ hỏi.
- Đơn giản thôi! Vì sau đêm ấy em biết tỏng tòng tong, cũng luận điệu đó hẳn giở trò rứa với mấy đứa bạn em rồi ban phát ba viên ngoại khoa tầm bậy bảo là thuốc ngừa! Mơ giải thích.
- Trường hợp Cẩm Khuê khác hẳn em, anh chưa bao giờ dám… Nghe xong, tôi liền thanh minh.
- Khác à? Mơ gắt.
- Vâng! Tôi quả quyết.
- Anh chưa làm chị ấy chảy máu, nhưng đã trần ra cho chó má huơ mắt chõ mỏ, chừng đó cũng đủ gây thương tổn trầm trọng. Là đàn ông, các anh không nghe thấy, nhưng chúng em, cùng đau một chỗ như nhau!
Mơ kêu thét. Tôi lần tìm trong bóng tối nét mặt Mơ để rõ thực hư, chỉ thấy hai hốc đen loe lóe ánh lửa.
Đến trưa, ông Phan Ne mang cơm xuống hầm, thoáng mùi thịt gà luộc và rau răm. Đang lơ mơ Mơ vùng dậy, vói hai tay về phía cha nhưng vẫn ngồi yên tại chỗ. Tôi bấm đèn soi đường cho ông.
- Đã bổ sung quân số, xã đội vẫn thiếu, cần thu gom người, củng cố lực lượng, chuẩn bị chiến dịch.
Ông đặt cái mẹt lên chõng tre, nói với con gái.
- Có tin nhắn mi với con Bòng trở lại đơn vị!
Ông rờ rẫm, đi đi lại lại, ngửa mặt kiểm tra kết cấu căn hầm.
- Cha cứ báo với họ con chưa thể tập kết được! Mơ nói. - Cha nêu lý do nó bị bom Mỹ tung như bong bóng, ngực tới chừ vẫn còn đau tức.
- Mạ mi nói rồi, nỏ ăn thua!
Ông ngắt lời Mơ, mắt vẫn không ngừng săm soi.
- Họ nói có đau ốm chi thì lên huyện đội, trên nớ có y sĩ! Mơ co chân ngồi xếp bằng, thẳng người lên, kéo cái mẹt lại gần, hít hà, thòm thèm như một em bé.
- Mặc kệ họ, lần sau giao liên tới để con, xớ rớ, sẵn súng nổ luôn cho hắn biết mặt. Thằng Rộ con ông Hờ, phải không? Mơ nói, bốc nhai nhóp nhép.
- Coi tề! Khách chưa cầm đũa, chủ đã ních liên tù tì! Ông nhắc con gái, gật gật cái đầu rậm tóc bù xù.
- Khách chi nữa mà khách, chừ anh thạo việc nhà hơn cả con. Cha nói rứa không sợ anh ấy buồn à?
Mơ cãi lại. Ông Ne giả bộ không nghe rõ.
- Ráng lên nghe! Khi quay lui, ông vỗ vai động viên tôi chịu đựng gian khổ, kiên tâm chờ đợi. Mơ nháy mắt nhìn tôi, như ngầm bảo đừng quá ngây thơ. Ông Ne vừa lên khỏi miệng hầm, tiết kiệm pin, tôi tắt đèn ngay, tối như bưng trở lại. Đang lúc nháy nhá ấy, Mơ rút từ gầm chõng một vật hình trụ anh ánh, huơ trước mặt tôi.
- Đố anh? Mơ nói.
- Làm sao biết được! Trong bóng tối lờ mờ, tôi nói, quỳ một chân xuống đất, đưa tay vói bắt.
- Ba xi đế! Mơ hét.
- Em lèn xuống lúc nào? Tôi hỏi, với hụt cái chai.
- Bí mật, cha mà biết thì chết cả hai!
Mơ cười khúc khích.
- Sung sướng gì mà em bày vẽ, lỡ say thì có mà chết cả hai! Tôi cẳn rẳn, bất bình.
- Chỉ giỏi xuống đường hò hét, chẳng có tí ti kinh nghiệm chiến trường! Mơ nói rồi tiếp. - Em bắt đầu thích cái thứ đốn mạt này sau tổng tiến công Mậu Thân. Mỗi lần thi hành nhiệm vụ tàn sát tập thể, lãnh đạo động viên dùng nó cho chắc tay. Ban đầu sặc sụa nhức buốt cả màng tai, rồi quen dần. Từ đó, khi nào tinh thần xuống thấp, chúng em liền nâng lên bằng nồng độ!
Như để minh họa lời mình, Mơ nốc liền mấy hớp, cười, chuyển cái chai qua tay tôi. Nể tình, tôi cũng làm một ngụm. Do hấp tấp, rượu ọc thốc vào họng, nhoi lên tận mũi. Mơ không biết điều đó, tưởng tôi nhập cuộc khớp khao. Thừa thắng, cô ta kéo tôi ngồi vào chõng tre, chăm chút như con trẻ. Tôi đành hưởng ứng đồng sàng đối ẩm. Một nùi xôi, một tép thịt, một ngụm rượu, tần xuất nhịp nhàng theo hưng phấn miếng chị miếng em. Ban đầu ngượng nghịu, chẳng mấy chốc một cơ thể thiếu thốn như tôi làm sao không hối hả hòa nhập và trở nên thích thú. Có những khoảnh khắc tôi quên mình đang ở tận hầm sâu và đang trong tình trạng trốn tránh.
- Anh thấy chưa? Mơ cầm chai, mù mờ dốc vào miệng tôi, kè nhè. - Mình có lo có sợ thịt vẫn ngon, rượu vẫn đượm, đạn vẫn bay, bom vẫn nổ. Cô ta quay miệng chai về phía mình. - Anh biết không? Mỗi lần đụng trận, em mong đạn tìm tới lúc mình ngất ngưởng ba hoa và ra đi khi còn khề khà lướt khướt.
- Sao bi quan quá vậy? Tôi an ủi.
- Sống đã không như ý, bương chải lại vướng bẫy, lê thê thương tật chỉ tổ cực mẹ khổ cha!
Giọng Mơ rè rè như khóc. Lúc này người cô ta mềm mại mụ mỵ như một diễn viên đang thủ vai thất chí một cách điệu nghệ. Còn tôi, chưa hẳn say nhưng đã có chiều sừng sửng. Sau khi khó nhọc ực ngụm rượu xuống cổ, cô ta lả người lên vai tôi, hai tay buông thõng, chân xoải thẳng, chai rượu lăn long lóc. Tôi cẩm rẩm đưa cái mẹt xuống đất, đỡ cô ta đặt nằm xuống chõng tre phía dọc theo vách. Tần ngần một lúc, tôi kiếm lại các thứ, rượu thịt sạch vanh vách nhưng xôi và muối mè còn khá nhiều. Tiếc của, tôi đem treo tất cả vào chạc. Nhân tiện, tôi ghếch mũi vào ống thông hơi, hít thở thật sâu lấy sức. Nghe như có cái gì cứa nhẹ vào cổ họng, tưởng mình sắp nôn, tôi chúi đầu xuống. Hình như có cái gì vương vướng nhoi nhói ngược lên, tôi mù mờ tưởng như có lần đã cố nuốt sợi tóc của Cẩm Khuê. Chẳng mấy chốc, sợi tóc vướng vướng kia tan theo hơi thở, hình tượng cô ta cũng lòa nhòa, lẫn với bao thứ lam nham. Cứ thế, tôi ôm đầu, ráng chịu đựng một lúc, rồi người nhẹ hẫng. Trong trạng thái êm êm đó, có một thoáng tôi hãi sợ nghĩ về ông Ne bà Nậy bên trên, nhưng cũng như khi tưởng về Cẩm Khuê, chẳng khắc ghi sâu đậm được gì, vì khi đứng lên, người bỗng chếnh choáng, hai chân loạng quạng. Mơ và tôi đã quá đà, quá đà trong hoàn cảnh đáng ra luôn luôn phải chừng mực và tỉnh táo.
Gượng trở lại chõng, tôi mở đèn xem tình trạng xỉn tản của Mơ ra sao. Đây là lần đầu trong đời tôi đối mặt với một cô gái say. Thấy mà thương, tôi cởi áo may-ô lau mặt cho cô ta. Đôi mắt to. Mày rậm. Hai má đầy ửng hồng. Không rõ va vấp ở đâu, một vết bầm ở mé trán. Tôi chỉnh lại thế cho cô ta nằm thoải mái. Cái thân ngó hây hẩy mà nặng đến khiếp. Lại thêm áo xống xốc xếch, đụng vào đâu là như thốc vào chỗ kín người ta. Cũng may, trong hầm tối chẳng có ai khác. Phần rượu sau cùng không rót đúng miệng, nhót xuống dọc cổ, chảy theo nương long, lem nhem cả rốn lẫn nây. Ngẫm nghĩ một lúc, tôi bạo dạn phanh áo bụng cô ta, thấm khô những ngấn nước lầy nhầy ở nách ở rốn, lau nhẹ lên hai bầu * săn cứng. Một vết thẹo dài ở mé sườn trái. Có lẽ Mơ đã một lần bị thương. Tôi vạch luôn quần, phát hiện thêm một vết thẹo nhỏ nữa ở mông. Mơ vẫn nhắm mắt, nhịp thở không đều, người mềm như bún. Tự dưng tôi nghĩ dại, hớt hải đưa tay day mạnh cằm cô ta. Bất chợt, đôi môi mỏng hé mở, nghịch ngợm như muốn cười. Tốt! Chẳng có gì đáng quan ngại! Tôi mừng thầm. Sợ hết pin, tôi vội tắt, yên tâm nằm xuống bên Mơ, thần thái chơi vơi. Chẳng mấy chốc, tôi cũng mụ mỵ và chiêm bao thấy mình theo mẹ xuống núi về Đà Nẵng, nước sông Hàn đỏ rực màu ráng chiều, đường phố ngập tràn lính Mỹ và đĩ điếm. Giần giật một lúc, tôi chiêm bao thấy mình len lỏi ra Huế, nước sông Hương trong xanh như lọc, người xuống đường hàng hàng lớp lớp gào thét, phất phới băng cờ biểu ngữ. Sau cùng, tôi thấy mình bị một tốp cảnh sát dã chiến quân phục rằn rỉ đuổi theo. Băng qua cầu Trường Tiền, tôi tháo giày cắp nách, rúc vào con hẻm, cuối đường gặp Cẩm Khuê ôm mặt ngồi khóc…
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Christiane

Re: Phiên Bản Tình Yêu (Vũ Biện Điền)

Postby bevanng » 02 May 2016

- Z.27
Mặc chiến tranh, hãy làm tình!
Tiếng hát át tiếng bom.


Thức giấc, tôi bàng hoàng, tê tải. Như vừa gượng dậy từ một tai nạn, tôi thấy khát nước, đắng nghét cố họng. Tìm đến hốc hầm trổ ngang, tôi tiểu vào cái thùng thiếc. Mùi khai khiến tôi tỉnh hẳn, lơ mơ nhớ lại. Ngang qua chạn, tôi uống gần hết ấm nước mà chưa đã. Trở lại chõng, tôi thấy Mơ nằm nghiêng quay lưng ra ngoài, da thịt trắng ngần ngẫn, trên mình chỉ còn cái nịt *, dưới chân thài lài dúm quần đen. Bóng tối bao quanh lòa nhòa, mờ ảo như buổi hoàng hôn. Có lẽ lúc tôi ngủ, Mơ có thức dậy. Ma men đốt phá, không khí trong hầm về chiều nóng lên, cô ta không chịu nổi nên đã bứt bỏ những gì góp phần giữ nhiệt. Ngồi ghé lên chõng tre, tôi dùng may-ô quạt cho cô ta, hy vọng làn gió nhẹ hiếm hoi sẽ phôi pha phần nào bức bối trong một cơ thể đang ngún cháy vì men rượu. Nhưng tôi chỉ phe phảy được mấy cái, Mơ quàng tay đón bắt rồi níu tôi xuống.
- Anh ngốc quá! Mơ rót vào tai tôi, rất êm ái.
- Ơ! Tôi giật thót.
- Chi rứa? Mơ hỏi.
- Anh sợ! Tôi nói, gượng dậy, nghi ngại đưa mắt dè chừng cây AK loang loáng trong bóng tối. Tôi còn kinh hơn nữa khi nghĩ đến ông Ne bà Nậy sẽ phát hiện.
Quân phản phúc, ăn cháo đá bát, bôi bác gia phong! Nghe ong óng trong đầu, tôi tránh nhìn Mơ.
- Thằng ấy lừa phỉnh em nên phải trả giá… Còn anh… Mơ ghịt mạnh tôi xuống trên ngực mình.
- Anh không nghe thịt da em réo gọi, con tỉm em kêu xin hay sao?
Tôi nằm xuống sóng đôi với cô ta dùng chân đẩy dúm quần về cuối chõng. Người Mơ khẽ run, mắt ngời sáng lung linh. Chúng tôi thành một cặp, quấn lấy nhau.
- Anh hãy hôn em ở những nơi anh vừa đánh thức!
Mơ thầm thì, tôi làm theo. Vừa lúc ấy, đất rùng rùng chuyển động, tiếng súng mỗi lúc một rõ dần.
- Có lẽ bên trên đang có trận đánh lớn?
Tôi áng chừng, ngừng hẳn mọi sinh hoạt.
- Chúng nó đang hành quân qua làng!
Mơ nói, không mảy may bận tâm, nghiêng người tháo nịt *. Tôi hốt hoảng nhỏm dậy, vớ lấy khẩu AK.
- Mưu sâu trí cả nhưng anh không bắn giỏi bằng em đâu, đưa súng đây! Mơ ngồi thẳng dậy, cười mỉm.
Tôi lừng khừng. Cô ta rướn người giật lấy sủng, đặt xuống một đầu chõng. Tưởng giành vũ khí để chiến đấu, ai dè lại cất đi! Tôi chẳng hiểu mô tê. Cô ta nằm trở lại, gối đầu lên báng súng, rồi cười to, coi như bên trên chẳng can hệ gì bên dưới.
- Bọn phản chiến ở Mỹ mít-tinh hô hào đừng làm chiến tranh, hãy làm tình. No war, make love! Các anh hưởng ứng, viết báo, làm thơ, làm nhạc, xuống đường đòi chấm dứt chiến tranh, kêu gọi hòa bình, sao lúc này lại rời bỏ em? Mơ vít người tôi xuống. - Cuộc chiến chó má này đáng giá hơn cuộc tình của chúng ta ư? Hãy phỉ nhổ nó bằng quyền lực chúng ta có trong điều kiện khả dĩ! Mơ giạng háng, kéo hẳn người tôi lên bụng mình.
- Nào, bẳn đi! nổ đi!
Mơ nhướng mắt nhìn lên trên hầm.
- Cám ơn chiến tranh đã đưa anh đến cho em! Tiếng Mơ réo thúc hòa cùng bao cuồng nộ ùng ục bên trên tạo một tổng thể hòa quyện. Tôi không nghe mặt đất rung nữa, súng to súng nhỏ cũng bặt tăm.
- Mấy giờ rồi anh?
Mơ hỏi nhưng biết tôi không mang đồng hồ.
- Đã khá khuya!
Tôi đoán, không khí trong hầm đã nguội hẳn.
- Sao không ai mở nắp cho chúng ta lên?
- Chắc bên trên có chuyện chi! Mơ hồ nghi.
Chợt nhớ, tôi đến chạc mang cái mẹt trở lại.
- Gì thì gì, lúc chờ đợi, nên nạp lấy năng lượng. Lỡ có bề nào cũng có sức mà chiến đấu! Tôi nói.
- Chiến bại thì có, nhưng em đồng ý với anh chết no hơn sống đói! Mơ vâng theo. Được vài miếng, cô ta nghẹn họng, trờ tới miệng hầm nghe ngóng.
- Không lẽ… cả hai…?
Mơ trở lại, ngồi xuống, bần thần, lo lắng.
- Xong bữa chủng ta sẽ tính kế!
Tôi nói, xeo một rẻo xôi nhỏ đút vào miệng Mơ.
- Hầm này đã nuôi giấu nhiều cán bộ, nhưng chưa bao giờ xảy ra tình trạng trên dưới mất liên lạc!
Cô ta vừa nhai vừa nói.
- Tại sao không xử dụng ống nghe? Tôi gợi ý.
- Lỡ lúc bên trên địch đang có mặt, quy định không cho phép khởi phát thông tin từ dưới lên!
Mơ giải thích, khua tay không ăn nữa. Bất chợt có tiếng động. Chúng tôi chuẩn bị, cả hai đều trần như nhộng, súng và pháo hườm sẵn trong tay.
- Lên đi! Mạ mới về! Giọng bà Nậy gióng xuống. Tôi phát hiện không khí trong hầm thoáng hơn.
- Cha ơi!
Đã linh cảm thế nào trong giọng nói của mẹ, Mơ nấc nghẹn. Chúng tôi vội mặc áo xống. Mơ lên trước, qua khỏi miệng hầm thì quỵ xuống, khóc như con trẻ.
- Im đi! Có càn có ráp, nhưng cha mi chưa chết!
Bà nói, kéo con gái vào nhà. Đêm bao la. Tiếng gió trên đồng gào hú như bầy thú hoang điên dại. Tôi vội cài liếp cửa bùng cặp bằng rạ. Ánh sáng cây đèn hột vịt leo lét đủ soi gian nhà trống trải. Cả ba người đều hạn chế đi lại và ngại gây tiếng động.
- Cha nằm ở mô? Mơ nhìn quanh, hỏi mẹ.
- Ông ấy đang ở trại giam trên quận!
Bà nói, không hẳn với con gái, tôi vẫn chưa rõ chuyện gì. Mơ buồn bực xuống bếp, vô cớ hờn mẹ. Tôi tự thấy xấu hổ vì gần như vô cảm và cả vô tích sự trong ngôi nhà vừa trải qua hoạn nạn. Cuối bữa ăn, Mơ và tôi được bà Nậy cho biết một trận đánh vừa xảy ra trên đất làng. Hàng trăm quả đạn pháo, bộ binh vẫn không vượt qua được cánh đồng, địch phải dùng thiết giáp. Sau khi làm chủ trận địa, chúng lùa dân lên trực thăng đưa về quận để thanh lọc, ông Ne bà Nậy cũng ở trong số đó. Lợi dụng lúc xô bồ, giả bộ đi tiêu, bà Nậy trốn khỏi trại, đợi trời tối băng đồng về lại làng. Nấu xong nồi cơm, bà Nậy mới nghĩ tới việc đưa chúng tôi lên khỏi hầm.
Đêm ấy, nằm trong ổ rơm bên bồ lúa, tôi không tài nào chợp mắt. Sau cơn mưa nhỏ, Mơ lẻn ra. Như hai sinh thể đui mù, tuyệt vọng, chúng tôi quấn lấy nhau và làm tình. Gà bắt đầu gáy sáng, tôi ra hiên ngôi canh cho cô ta tắm. Mặt vườn hê hủng nước ánh lên những vũng sáng lăn tăn, bụi bờ ngật ngưỡng như ma quái ùn ủi nối đuôi nhau. Gà gáy lại, chúng tôi xuống bếp nấu một nồi cơm, một ấm nước, kho một trách ruốc thật mặn thật cay. Mơ dùng mo cau dỡ cơm dành phần để mẹ bới xách cho cha. Chúng tôi im lặng ngồi ăn trong bóng tối mập mờ, tiếng mưa thảnh thót. Gió ngoài đồng chạy vào làng, sàn sạt dọc hàng tre gai. Bình minh vừa ló dạng, bà Nậy thức dậy đưa chúng tôi xuống hầm.
- Mạ mà không về được, tụi con biết mần răng?
Mơ cay đắng khẽ hỏi.
- Lớn rồi, đừng có nói dại!
Bà mắng, cốc vào đầu con gái lấp ló ở miệng hầm.
- Dại chi mà dại, súng đạn có chừa ai! Mơ cãi.
- Cha mi còn đó, tau chưa chết được mô!
Nắp hầm vừa áp xuống, Mơ vội đẩy ngược trở lại.
- Mạ nhớ lót tấm ni lông trước khi cho đất với rơm phủ lên để phòng chống mưa! Cô ta dặn, vói ấm nước từ tay mẹ. Một lần nữa, nắp hầm lại bật mở.
- Chi nữa? Bà Nậy vội quay lui, gắt.
- Chúng nó có làm quá, mạ bàn với cha rồi cầu cứu anh Bửu Dương! Mơ dặn, rút đầu xuống.
Có nên nhân đó nhắn tin cho anh ta hay mình đang an toàn ở đây? Tôi lưỡng lự, đứng khựng.
Một ngày trong hầm lại bắt đầu. Chắc không vui vẻ như hôm qua. Tôi thầm nghĩ. Có thể lại quấn vào nhau, hoan lạc gần như tội lỗi, nhưng thà vậy còn hơn căng thẳng, buồn bực, trong bức bối tối tăm. Cho súng đạn và các thứ lên chạn, tôi chuyển chõng tre về lại vị trí cũ. Nghe động Mơ bật đèn soi tới. Tôi dọn mặt nền rồi trải xuống chiếc áo mưa cũ.
- Anh định cách ly em? Mơ hỏi.
- Tình thế không cho phép, anh cần chủ động!
Tôi nói, nằm xuống co quắp chân tay cố thu mình.
- Chán rồi sao? Mơ hờn dỗi, khiêu khích.
- Chiều em, chắc có ngày anh hết chỗ dung thân!
Tôi xoay lưng lại để khỏi đối mặt nhau. Mơ cười khúc khích, tắt đèn. Tôi nghe tiếng chõng tre xập xình.
Đột ngột Mơ hát - Hành quân xa dầu qua nhiều gian khổ. Vai vác nặng ta đã đổ mồ hôi…
- Em không sợ lộ bí mật hả? Tôi nói cáu.
- Mắt ta sáng, chí căm thù, bảo vệ đồng quê ta tiến bước. Đời chúng ta đâu có giặc thì ta cứ đi (98)…
(98) Hành Quân Xa - Sáng tác: Đỗ Nhuận,
Không hàng phục được kẻ quấy phá, tôi tìm cách thụ động, áp sát hai bàn tay vào tai. Nhưng tiếng hát vẫn len lỏi. Chất giọng khá tốt, Mơ cứ hát. Điệu nhạc trầm hùng, nghe cũng thích.
- Đây một mùa xuân trăm hoa hé tưng bừng. Đây thời niên thiếu hát ca vang lừng. Khăn quàng đỏ tươi em đeo em mến yêu. Quyết tâm luyện rèn cho mình tiến nhanh. Tiến lên đoàn viên, em ước ao bao ngày… Bước theo lá cờ nhuộm màu đấu tranh (99)
(99) Tiến Lên Đoàn Viên - Sáng tác: Phạm Tuyên.
Mơ nối tiếp một bài khác. Tôi xoay người liếc về phía cô ta, chỉ thấy một cánh tay phe phảy đánh nhịp.
- Như hoa hướng dương, hướng về mặt trời. Chúng ta nguyện đi theo Đảng. Đời đời nguyện đi theo Đảng… Như hoa hướng dương, hướng về mặt trời. Tất cả là công ơn Đảng. Đời đời là công ơn Đảng. Lịch sử bốn ngàn năm, khi mùa thu thơm tốt. Có bác Hồ có Đảng. Có Đảng có bác Hồ. Ta lớn. Ta lớn để hôm nay chúng ta đi có Đảng dắt dìu tay cầm tay (100)…
(100) Hoa Hướng Dương - Sáng tác: Tô Vũ - Hải Như.
- Anh hết chịu nổi em! Bài hát vừa dứt, tôi than.
- Anh không nghe tuyên huấn dạy à? Tiếng hát át tiếng bom! Mơ cãi lại. Rồi nghe bốp một cái, tôi thấy Mơ chồm dậy, chờn vờn đưa cao cả hai tay. - Gớm, đã chui xuống đất mà bọn hút máu vẫn theo bám! Hình như có muỗi anh ơi! Mơ nói.
- Bởi tiếng hát không át được tiếng muỗi!
Tôi kết hợp ngay, cười mỉa, nằm ngửa quắp hai tay gối đầu lên. Mơ không nghe hoặc giả bộ và cứ hát.
Ai đã từng đi qua Cửu Long giang, Cửu Long giang sóng trào nước xoáy, Cửu Long giang sóng trào nước xoáy. Ai đã từng nghe tiếng tiểu đoàn, tiểu đoàn ba lẻ bảy!… Một hành khúc khác, nhịp điệu, tiết tấu còn mạnh mẽ hơn nữa!… Lẻ bảy, tiểu đoàn lẻ bảy, đoàn quân lẻ bảy, kể từ ngày ấy, đánh đâu được đấy, oai hùng biết mấy! Tiểu đoàn lẻ bảy với da sắt gan vàng tiến lên lòng son chẳng nao. Tiếng tiểu đoàn, bao nhiêu quân Pháp run rẩy sợ hãi, vang lừng danh tiếng ba lẻ bảy! (101)
(101) Tiểu Đoàn 307, tiểu đoàn chủ lực đầu tiên của Nam Bộ - Nhạc: Nguyễn Hữu Trí. Lời: phỏng thơ Nguyễn Bính.
- Ai lại hành quân trong hầm, Pháp đâu còn mà run với rẩy! Sao không chọn một bản tình ca tiền chiến, chỉ ít cũng nhạc phản chiến như của Trịnh Công Sơn? Không đắp được bờ chống lũ, tôi khai dòng tháo nước.
- Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu. Một trăm năm đô hộ giặc Tây. Hai mươi năm nội chiến từng ngày. Gia tài của mẹ để lại cho con. Gia tài của mẹ một nước Việt buồn(102)…
(102) Gia Tài Của Mẹ - Sáng tác: Trịnh Công Sơn.
Mơ hát để chứng tỏ biết loại nhạc đó, rồi bỏ lửng, nói. - Cái anh chàng hip-py hiện sinh ấy chán lắm! Hồi học nghị quyết ở Quảng Xuyên, lãnh đạo đã phát động tẩy chay thứ nhạc vàng bệnh hoạn ấy. Nghe nói anh ta cũng bê tha trác táng mù mịt trăng sao. Cha mất sớm mẹ cờ bạc, đông em, thế mà anh ta bỏ dạy học ôm đàn quần tam tụ ngũ ca hát thâu đêm liền ngày, rong ruổi từ Trung vô Nam, nay Huế, mai Sài Gòn, mốt Đà Lạt…
- Bỏ dạy vì anh ta không chịu vào trường sĩ quan tập tành bắn giết đồng loại! Tôi ngắt lời Mơ.
- Tại sao anh ta không chịu lên bưng như anh Đắc, anh Ngọc, anh Thiết? Mơ vặc lại.
- Lên bưng vẫn là cầm súng, đứng về một phía! Tôi thấy khó chịu vì Mơ không hiểu ỷ nghĩa phản chiến.
- Hi, nói thế mà nghe được a? Nước non là của chung, Mỹ đổ quân tràn lan lấy ai đánh đuổi? Cô ta hét to. - Chẳng qua sợ chết, sợ máu, sợ khó khăn, sợ gian khổ mà lếu láo, đó là chưa kể sai quan điểm chính trị, lệch lập trường giai cấp…
- Anh ấy đứng về phía dân tộc, không bè phái, một mình chiến đấu với tất cả! Một lần nữa, tôi ngắt lời Mơ.
- Một mình? Eo ơi, cái que chống trời!
Cô ta thở hắt, ví von miệt thị.
- Chân lý không cần số đông, tự thân nó có sức mạnh vạn năng! Tôi nói.
- Bênh nhau đến khiếp! Coi bộ anh là bạn của anh chàng trốn lính ấy? Mơ cười mát.
- Không thân lắm, nhưng từng tâm sự qua đêm, lê la quán xá! Tôi thừa nhận.
- Sao không ôm đàn đi theo anh ta mà ca hát cho phỉ chí nam nhi? Cô ta khiêu khích.
- Muốn lắm chứ, nhưng vì anh bất tài! Tôi nói.
- Thế mà cũng đảng viên Cộng Sản, thế mà cũng biệt động thành! Mơ mắng.
Ngay khi ấy tôi biết mình mắc lỡm, nửa giờ qua cô ta gài thế, xỏ ngầm chọc cho tôi giận để giễu cợt, để khai giải mớ ưu tư nặng trịch trong lòng.
- Mẹ đào hầm, mẹ đào hầm từ lúc tóc còn xanh. Nay mẹ đã phơ phơ đầu bạc. Mẹ vẫn đào hầm dưới tầm đại bác. Bao năm rồi tiếng cuốc vọng năm canh. Mơ cười khan trong khi hát. - Tiếng cuốc năm canh nặng tình đất nước. Hầm mẹ giăng như lũy như thành che chở mỗi bước chân con bước… Cô ta nhìn nhưng tôi phớt lờ. - Đất nước mênh mông quân thù không xâm hết được. Lòng mẹ rộng vô cùng. Mẹ giấu cả sư đoàn dưới đất.
Nơi hầm tối là nơi sáng nhất. Nơi con nhìn ra sức mạnh Việt Nam. Có những đoàn quân từ trong lòng đất xông lên bạt vía quân thù. Xung quanh chúng đều là trận địa. Đất quê ta mênh mông. Lòng mẹ rộng vô cùng. (103)
(103) Đất Quê Ta Mênh Mông: Nhạc Hoàng Hiệp - Thơ Dương Hương Ly (Bùi Minh Quốc)
- Hình như em muốn đuổi anh đi khỏi nơi này?
Đợi cho Mơ hát xong, tôi buồn bực buông giọng, cuốn người dậy, ngồi bó gối.
- Ai bảo thế? Mơ gạn hỏi.
- Không muốn đuổi, hà cớ chi hết móc máy này nọ lại hát hò tía lia, chẳng khác rung cây nhát khỉ. Chắc sẽ có lúc chết chùm cả hai! Tôi nói.
- Vậy anh muốn em phải thề nào? Mơ xuống nước.
- Bình tĩnh! Thận trọng! Nghiêm chỉnh!
Tôi nói, nằm trở lại.
- Anh mới tới anh không biết, thổ cư làng Thanh Thủy này là một tấm thớt lộ thiên, xung quanh ruộng đồng sông nước, ngày xưa là sinh địa, ngày nay là hào tháo huyết, chúng còn băm nhau dài dài, máu quân máu dân chưa đổ bao nhiêu so với súng đạn ngoại viện của cả hai phe. Nếu cứ mỗi năm khép mình vào khuôn khổ đúng ba trăm sáu lăm ngày, chắc em chết ngạt mất! Anh nói như mấy tay cấp ủy trên núi mỗi khi xuống đồng bằng. Nghiêm chỉnh chấp hành! Khắc phục khó khăn! Nỗ lực chiến đấu! Ở xa tuyến lửa họ có thấy nóng nghe rát đâu! Chiến đấu đối với chúng em chỉ là tạm thời, là tình thế, là giai đoạn…
- Thật không? Nghe đến lạ, tôi cố thắt cho bật mí.
- Anh không tin vì các anh là đàn ông con trai, trời cho cơ bắp dẻo dai, thân thể kín sít. Còn con gái chúng em, không muốn chảy mà cứ chảy, không muốn tháo mà phải tháo! Các anh có bao giờ hành kinh trên đường hành quân chưa?
- Chưa! Tôi nín cười.
- Các anh có bao giờ nhức buốt hai đầu * mà cứ theo lệnh nằm ngửa mặt lên nhắm bắn máy bay chưa?
- Chưa! Tôi cố nín hơn nữa. Mơ tiếp.
- Anh có biết vì sao em không theo con Bòng quay về xã đội không? Mơ hỏi, chống tay chồm tới ngó mặt tôi. Không nhịn được nữa, thay vì trả lời, tôi cười xỏa.
- Vậy thì em cứ hát. Mơ ương bướng trở lại….
- Như bao cô gái ở trên non. Cô gái sông Ba đầu búi tóc thon. Tay vót chông miệng hát không nghỉ. Như bao cô gái ở trên non. Như bao cô gái ở Tây Nguyên. Ai nhanh tay vót bằng tay em? Chim hót không hay bằng tiếng hát em. Mỗi mũi chông nhọn sắc căm thù, xiên thây quân cướp nào vô đây, xiên thây quân cướp nào vô đây…
Để mặc Mơ tùy thích, tôi làm bộ không hay biết, xoay lưng lại.
- Còn giặc Mỹ cọp beo, khi còn giặc Mỹ cọp beo. Em chưa ngừng tay vót chông rào buôn rẫy. Nhưng mai đây giặc chạy rồi, tre rừng ta làm nhà làm chòi cao. Ê… chân ta đi chưa nghỉ trời chưa xanh, em còn vót chông nhiều làm cạm bẫy. Ê… quân xâm lăng gian ác bây muốn vào, mũi chông sẵn sàng đây, chờ bọn bây diệt bọn bây (104).
(104) Cô Gái Vót Chông - Sáng tác: Hoàng Hiệp.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Christiane

Re: Phiên Bản Tình Yêu (Vũ Biện Điền)

Postby bevanng » 02 May 2016

- Z.28
Bí mật bật mí.
Nhiệm vụ mới, nhất cử lưỡng tiện.


Hai hôm sau ông Phan Ne được quận phóng thích, về tới nhà ông lại đi ngay. Tình hình cho phép, ba đêm không phải ngủ hầm, tôi nóng lòng chờ không thấy ông trở về. Tôi hỏi, bà Nậy lạnh lùng lắc đầu. Nước ngoài đồng dâng cao, lúa chín không có người gặt, chúng tôi cứ ở không, một mình bà Nậy đầu tắt mặt tối. Tôi đề nghị với Mơ ban đêm không dành để ngủ nữa. Thay vào đó, những bó lúa ban ngày bà Nậy khó nhọc đưa về, chúng tôi lo tuốt, sẩy. Mơ tán thành, tỏ ra thích thú, không còn quậy phá hát hò, một mực nền nã chăm chỉ. Về phần mình, góp được chút công sức vào miếng ăn, tôi cảm thấy thoải mái. Những ngày có lao động ấy không kéo dài. Tuần sau, tình hình xấu, chúng tôi lại xuống hầm. Do mưa dầm, hầm không còn khô ráo, nước thấm qua đất nhỏ giọt từ nóc xuống, rỉ từ thành ra, lâu lâu chúng tôi phải dùng cái chén mẻ múc chứa vào thùng thiếc. Bầu không khí vốn thiếu oxy nay thêm mùi nấm mốc do độ ẩm quá cao, gây khó thở, chúng tôi phải dùng tới những chiếc quạt tre. Từ nay, mỗi lần lên, chúng tôi phải tải nước bùn theo. Và mỗi lần xuống, trước khi đậy nắp, chúng tôi thốc tháo quạt đẩy bớt thán khí ra ngoài. Nền hầm úng nước, có nơi nhão nhoẹt lỏng bỏng. Giảm thiểu đi lại, chúng tôi chỉ nằm, ngồi lên chõng. Từ những khắng khít không tài nào tránh, chúng tôi miệt mài âu yếm, nói chuyện tầm phào. Nhưng đối với Mơ, xem ra rất hạnh phúc.
Một buổi chiều, được tin báo bọn Bình Định Nông Thôn đã qua làng bên, bà Nậy đưa chúng tôi lên khỏi hầm sớm hơn. Ông Phan Ne hớt hải đội mưa trở về, ướt sũng. Thấy nhà cửa còn trên đất, chúng tôi lành lặn, ông mừng. Bà Nậy nhất quyết sai Mơ bắt con vịt mái đang đẻ trứng làm thịt. Mơ muốn thay đổi.
- Uổng mạ ơi! Còn ba bốn con gà trống choi!
- Lớn rồi mà không biết cữ kiêng, tiễn đưa mà ăn gà không sợ đi luôn a?
Bà gằn giọng rít vào tai con gái, Mơ buông rơi con dao trong tay, ôm mặt đi vào chái bếp. Bà Nậy vừa cúi nhặt vừa e ngại nhìn theo con gái. Chừng mươi phút sau, tôi nghe tiếng vịt kêu quang quác. Ồng Ne tắm xong, đốt lửa giữa nhà sưởi ấm. Dạo này ông gầy hơn trước, râu tóc xồm xoàm, màu da tái mét.
- Mấy hôm nay, chú đi tới mô? Khi chia bớt cho ông mấy lưỡi dao cạo, tôi hỏi.
- Cơ quan gọi lên nhận chỉ thị, nhân tiện tui lại đề cập tới trường hợp của anh.
Ông mời tôi một điếu thuốc vấn, ngập ngừng.
- Họ lắng nghe rồi kết luận không thế có chuyện nở. Tui nói đương sự đang ở nhà tui và cả hai vợ chồng tui không ai mớ ngủ. Lấy cớ bận họp, họ hẹn bữa khác, cho du kích dẫn đường ra khỏi căn cứ. Tui trả đũa ngay, lấy cớ hết tiền ăn, xin trợ cấp chút ít. Họ miễn cưỡng ngồi nghe rồi hứa sẽ cho điều tra lại. Tui nói như rứa là không tin cơ sở. Rồi họ biểu ở đó chờ, tui nói lúa đang chín rục ngoài đồng không ai gặt. Ráng được mấy hôm, ăn không ở không, nóng ruột tui về. Nói cho đúng, chánh văn phòng có tiếp tui mấy phút nhưng không được cái đách chi, nghe trái tai gai mắt quá!
Ông Ne quây quắt đứng lên, loay hoay một lúc, lại ngồi xuống. Biết ông bứt rứt, không thể trút hết tâm tư nhưng tôi không dám hỏi thêm. Tiếng ếch nhái kêu ran một hồi rồi im hẳn. Bà Nậy giục chúng tôi đi ăn. Tôi cài chặt cửa, theo ông Ne xuống bếp. Gió lao xao trên mái tranh. Bốn người ngồi quanh cái mẹt đặt trên đất.
- Nhà không có tiêu, không có gừng, tạm thời ăn với muối ớt! Bà Nậy nói, đưa mắt nhìn tôi thăm dò.
- Mấy ngày nay lao động chút ít, cháu ăn gì cũng thấy ngon! Tôi nói.
Ông Ne gật gật đầu, mời tôi cầm đũa. Thịt hầm thom ngọt nhờ tươi sống. Thiếu gia vị nhưng ớt với rau răm khỏa lấp tất cả. Bữa ăn phong lưu hiếm hoi. Nhâm nhi thịt rồi đến cháo nếp. Ông Phan Ne hỏi chai rượu từ bữa kỵ nội, bà Nậy nguýt lườm Mơ rồi lơ luôn. Hoàn cảnh tôi mà được hưởng thụ như thế này là một phép lạ.
Giữa bữa, tôi phát hiện Mơ bộ tịch thảng thốt, đôi khỉ cúi mặt như che giấu buồn bực. Có lẽ ông Ne bà Nậy nhận rõ thần thái con gái khác thường nhưng đều cho qua. Thời gian ăn uống kéo dài hơn nhưng vẫn dứt. Mơ giúp mẹ thu dọn, rửa ráy nồi niêu chén bát. Ông Ne ra hiên nhìn trời một lúc rồi trở vào kéo tôi đến bên bồ lúa, nơi tôi thường qua đêm những khi không ngủ hầm.
- Tình thế không cho phép anh lưu lại đây nữa! Vừa ngồi xuống ổ rơm, ông nói. - Coi như tui phụ lòng Bửu Dương! Ông thở dài. - Anh hiểu cho, vợ chồng tui đã làm hết sức! Ông thở dài, lo nghĩ nhiều hơn giãi bày.
- Cháu cám ơn chú thím! Tôi nói, nghèn nghẹn.
- Trước khi chia tay, tui phải nói để anh yên tâm. Những ngày anh lưu lại đây gia đình hoàn toàn bằng lòng, không chút chi cảm thấy phiền hà! Ông vấn thuốc hai tay cứ run bắn. - Chừ anh định đi đến nơi mô?
Ngay đêm đầu ngủ ở nhà này, tôi cứ ngong ngóng lên núi. Với tâm tưởng một đặc công sa cơ, tôi nghĩ đến an toàn khu và vòng tay ấm áp của các đồng chỉ. Đã có điều gì ông Ne không tiện nói mỗi lượt đi đi về về. Có lẽ bây giờ nước đã đến trôn, ông không trù trừ được nữa.
- Sài Gòn! Sau một lúc ngẫm nghĩ, tôi bày tỏ.
- Nghe nói xứ đó người đông, gạo châu củi quế, anh có quen ai trong nớ không? Ông hỏi.
- Dạ có. Nhưng bà con xa!
Tôi nhận điếu thuốc từ tay ông nhưng không hút.
- Cảnh nhà bần bách không có chi cho anh giắt lưng, mạ Mơ chỉ bới cho vắt cơm ăn đỡ dọc đường. Đã quyết đi là đi, thôi anh sửa soạn hỉ!
Ông đứng dậy. Bà đón ông ở chải bếp, thầm thì. Có gì u uẩn bao quanh tôi khiến vợ chồng ông Ne bồn chồn lo lẳng. Tôi linh cảm thứ đó khá nguy hiểm và đã cận kề. Tôi nhờ Mơ giúp, cùng xuống hầm mang các thứ lên. Cô ta bần thần đến lạ! Khi đón bắt cái túi xách tôi đưa tới, Mơ thả rơi, ôm chầm lấy tôi khóc nức nở.
- Em nát cả ruột gan! Mơ than.
- Vậy anh ở lại? Tôi đùa cho vơi bớt bi lụy.
- Không được! Mơ nói.
- Vì sao? Tôi nảy ý khai thác. Mơ im lặng.
- Đã biết điều gì, đừng giấu anh! Tôi nài nỉ.
- Trời ơi!… Cô ta ngước nhìn lên nóc hầm.
- Nói đi! Tôi giục.
- Em không ngờ người ta tồi bại mức ấy! Mơ nói.
- Người ta là ai? Tôi hỏi.
- Những thằng từng ăn ngủ ở hầm này, những thằng mạ từng bưng cứt đổ đái cho chúng mỗi khi địch bố ráp. Rứa mà!… Mơ ngao ngán bỏ lửng, khóc, rồi mò mẫm lấy túi xách, đi tiếp về cuối hầm.
- Anh có thấy mấy băng đạn em để đâu không?
Mơ hỏi, vẫn sụt sùi. Tôi soi đèn tới. Có lẽ đã khóc quá nhiều hai mắt cô ta sưng tấy long lanh ngấn nước. Tôi tắt đèn, đứng lặng, không ngờ mình khó xa nơi này!
- Lúc em ở bếp, mạ cho hay các ông mãnh ấy đề xuất với cha buộc anh quay về thành phổ…
Thấy tôi lừng khừng, Mơ trở lại, nói khẽ vào tai.
- Để làm gì? Tôi hỏi. Mơ đứng im, cúi mặt.
- Họ muốn anh tiếp tục đi học và hoạt động hợp pháp phải không? Tôi đoán. Mơ đứng trơ như phỗng.
- Đôi khi đảng viên ngu hơn đoàn viên! Không thể im lặng được, Mơ nói, ôm chiếc túi lướt qua mặt tôi.
- Em còn úp mở được sao? Nói đi!
Tôi níu cô ta lại. Bốn mắt trân trối nhìn nhau.
- Ám sát Bửu Dương! Mơ hút hớt rót vào tai tôi, run rẩy, dằn tay lên ngực. Nghe rõ nhưng tôi không tin.
- Thật không? Tôi hỏi.
- Lãnh đạo yêu cầu em đi cùng anh. Họ nói chỉ có anh và em mới đủ tư cách đột nhập phủ đệ ấy và tiếp cận được Bửu Dương. Nhất cử lưỡng tiện, đó cũng là cách kiểm chứng có phải anh là người của đối phương gởi đi. Cha phản đối nhưng cấp ủy đã thông qua kế hoạch, thế nào lãnh đạo cũng gọi ông lần nữa…
Mơ ngồi xuống một đầu chõng, ôm mặt.
Như thoát khỏi cơn mê, tôi vơ vội các thứ.
- Chúng ta lên thôi! Tôi giục.
Mơ ngẩng đầu, ngu ngơ nhìn quanh. Rồi như chợt nhận ra điều gì, cô ta chớp khẩu AK, đứng bật dậy.
- Em mang thứ ấy theo làm gì? Tôi ngăn lại.
- Giờ phút này, đứa nào đụng tới anh, em sẽ nổ thẳng tay! Mơ nói.
- Khỏi lo, quả chanh còn tí nước, người ta đang hy vọng, anh vẫn bình an cho em xem! Tôi cười.
- Anh là Cộng Sản mà chẳng biết gì về Việt Cộng!
Vớ vẩn nghiền ngẫm ba cái lăng nhăng bên Tây, chẳng hiểu mô tê bên Đông! Ác thì cùng một giuộc nhưng Nga Cộng không thâm bằng Tàu Cộng, Tàu Cộng không hiểm bằng Việt Cộng. Đang trong tầm ngắm mà anh chẳng hay! Mơ gượng cười, nước mắt giàn giụa.
Chúng tôi lên khỏi hầm, ông Ne thúc tôi đi nghỉ, Mơ vào buồng mẹ. Trước khi ngã lưng, tôi che chắn rồi đốt đèn, kiếm lại tiền bạc. Từ ngày gặp dì Ngâu tới giờ, tôi không tiêu một đồng. Tốt! Tôi mừng, nhẹ nhõm như người lính trước giờ mở đường máu vượt vòng vây sờ túi đạn vẫn còn nguyên. Tôi chia tiền làm ba phần, hai phần nhét vào quần lót phòng thân lâu dài, một phần cho vào túi áo tiêu pha dọc đường. Một con bọ từ ngoài bay vào sa trúng tim bấc làm tắt đèn. Tôi lặng im trong bóng tối. Đời tôi đã vài ba cuộc chia ly nhưng lần này nao lòng quá. Tôi nhìn quanh, muốn xuyên thủng bóng tối để thu lấy nơi đã khó nhọc cưu mang mình. Đêm yên ắng. Tôi hít thật sâu, muốn thấm vào máu thịt mùi bùn ngai ngái, mùi rạ ai ải, mùi đất khan khan. Tôi cố thu lấy dáng thấp bè gân guốc trung dũng của ông Ne, dáng khô khao đen đúa thuần hậu của bà Nậy… Rồi tôi cố dỗ giấc ngủ. Chỉ chợp mắt một lúc, những khoảnh khắc ân ái cùng Mơ trở lại tâm trí bề bộn âu lo lẫn hối hận. Tẩm thân trôi nổi làm sao đèo bòng. Thôi, ngủ đi! Tôi vỗ về tôi, hai mắt vẫn mở, mù mờ tìm kiếm trong bóng tối. Lâu lâu, ông Ne ho khan. Hình như bà Nậy cũng không ngủ, tiếng quạt tre xua muỗi vang lên từng hồi.
Rồi tôi nghe tiếng động từ phía chái bếp, tiếng bước chân đi lại. Mơ xuất hiện, lưng lửng từ hiên bước vào, đầu đội mũ tai bèo, quanh lưng cái nịt đạn, một tay thủ súng một tay cầm đèn.
- Em như đang hành quân! Nhận ra Mơ, tôi đùa, nằm qua bên, cô ta ghé ngồi xuống, mắt đảo quanh.
- Đầu hôm tới giờ anh có nghe động tĩnh chi không? Mơ hỏi, gác súng qua hai đầu gối.
- Không! Mà sao em căng thẳng như đang ở giữa trận địa? Tôi nói.
- Thường khi bọn Bình Định vừa rút khỏi, mấy ông mãnh liền thế chân ngay, vội vàng thi hành chỉ thị.
Mơ nói. Tôi vói súng cho tựa vào vách, kéo Mơ nằm xuống. Cô ta vâng theo. Dầu hai mắt Mơ mở thao láo, bóng đêm vẫn thân thương quynh lấy chúng tôi.
- Em mới gội? Tôi hỏi, hít nhẹ mùi lá chanh.
- Mấy ngày qua, tóc dơ quá đến chua!
Mơ nói, ghếch đầu lên vai tôi. Tiếng gió lao xao trên mái nhà. Cả hai chúng tôi cùng im lặng.
- Liệu chúng mình có chi với nhau không?
Tôi không diễn hết ý mình, nhưng Mơ hiểu.
- Anh sợ à? Cô ta hỏi.
- Vâng! Tôi thành thật thú nhận.
- Nếu có chi thì rất hạnh phúc cho em! Mơ nói.
- Thật không? Tôi hỏi, gượng dậy.
- Em muốn thế! Mơ khẳng định.
- Ông bà có biết tí ti gì về chúng ta? Tôi hỏi.
- Chắc là biết nhưng họ không nghĩ em đã dồn dập cho anh mà không ràng buộc điều gì! Mơ thủ thỉ.
Tôi nắm tay cô ta, mâm mê từng ngón chai cứng. Cô ta khẽ run rồi nghểnh đầu lên như muốn nhìn sâu vào đêm qua khung cửa bùng. Tôi cũng nhìn theo nhưng không thấy gì. Mơ vụt ngồi dậy, xách súng đi ra ngoài. Tôi nhìn theo và giờ thì biết cô ta đang làm gì.
- Đất Quảng Nam mênh mông, anh ở quận nào?
Một lúc Mơ trở vào, vừa nằm xuống đã hỏi ngay.
- Thường Đức! Hiểu ý cô ta, tôi nói.
- Anh có mang theo tấm hình nào không? Mơ lại hỏi, gấp một tay gối đầu, tay kia vẫn thủ súng.
- Không! Tôi nói nhưng xem ra cô ta không tin.
- Một ngày kia nếu em tìm tới, biết mẹ có tha thứ không? Mơ thở dài.
- Khi yên ổn và có điều kiện ở cùng hoặc thư từ, anh sẽ báo cho bà hay! Sau mấy phút đắn đo, tôi nói.
- Báo thế nào? Mơ bồn chồn.
- Anh sẽ nói với mẹ trên đường đào thoát con may mắn gặp một người con gái thua trận ôm súng chạy về nhà. Con yêu cô ấy và đã được đáp lại!
Mơ ngồi thẳng dậy, tựa súng vào bồ, thảo đai đạn, nằm xuống bên tôi.
Bóng tối mung lung. Thinh không lặng lẽ.
- Tình thế buộc đôi ta phải chia lìa, em có buồn không? Im lặng một lúc, tôi hỏi.
- Không! Mơ nói.
- Có ân hận không? Tôi lại hỏi.
- Nếu sau này anh có bội bạc, em cũng không, nhưng ắt vô cùng đau khổ!
Mơ nói, xoay nghiêng người úp mặt lên ngực tôi.
- Cảm ơn em đã giúp anh thanh thản khi ra đi.
Tôi xúc động muốn khóc. Bất chợt tiếng gà cất lên.
- Sao đêm nay nó gáy sớm thế! Mơ nhìn về phía bếp, tiếc nuối, thở than. Ông Ne ho khan một hồi.
- Dầm mưa dãi nắng mấy ngày liền, cha cảm rồi!
Mơ lo lắng, đứng hẳn dậy. Tôi vội vã đi vệ sinh và rửa ráy. Màn đêm vẫn dày đặc mù sương. Ăn sáng chưa xong, gà đã gáy lại. Bà Nậy vạch lấy túi xách, cho vào đủ thứ, từ nắm cơm, bầu nước cho tới cái chai bé xíu còn tí dầu gió.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Christiane

Re: Phiên Bản Tình Yêu (Vũ Biện Điền)

Postby bevanng » 02 May 2016

- Z.29
Đào thoát khỏi họng súng đồng chí.
Về với mẹ, quyết tâm làm lại cuộc đời.


Đến giờ, bà Nậy không ra hiên tiễn tôi, chỉ lấp ló sau liếp cửa. Trong ánh sáng nhàn nhạt đầu ngày, tôi cùng ông Ne giả làm thợ gặt, mang tơi lá, tay cầm lưỡi hái, Mơ theo sau, cũng tơi lá ngụy trang. Chúng tôi không chọn con đường qua ngõ mà theo bờ mương sát hông vườn nhà, nhắm ngay con cầu khỉ nhập vào doi đất nhỏ. Trước khi lên bờ thửa đi về hướng tây, tôi ngoái lui, nhà cửa lấp ló sau hàng tre, nhưng không thấy Mơ. Ông Ne vượt lên, bặp thuốc liên tục, lâu lâu ngước mắt nhìn trời. Đi hết mấy đạc ruộng hoang, đồng không mông quạnh, chẳng gặp ai, họa hiếm vài ba con chim bói cá trầm ngâm cắm mặt vào sông nước và những đàn rắn màu rêu ngu ngơ tuông chạy vòng vèo. Có hai chiếc máy bay ngang qua bầu trời. Có những tiếng nổ lớn về phía núi nghe rất xa. Trước khỉ vượt con cầu khỉ thứ hai, tôi ngoái lui và lần này thấy Mơ. Cô ta không đi trên bờ, len lách qua những đám cỏ năng vượt quá đầu người và luôn giữ một khoảng cách với chúng tôi vừa phải. Hết đất ruộng làng, ông Ne gọi con gái lại, bảo chúng tôi nép vào sau mấy lùm cây dại lấp xấp rồi một mình lên nông đất cao quan sát tứ phía.
- Anh biết không, ruộng làng không bao nhiêu, nhưng cánh đồng liên thông giữa các xã thì bất tận, cha nói hồi đầu kháng chiến chống Pháp súng đạn thưa thớt, đến mùa nước nổi, cò vạc về từng đàn!
Thấy tôi lơ ngơ, Mơ nói. Tôi nhìn lui, xanh xanh trải dài phẳng lặng một màu lạnh ngắt.
- Thôi, được rồi, em về đi! Tôi nói, tỏ ra yên ổn. Nhân lúc khuất lấp, tôi lén hôn vào má Mơ, đặt tay lên bụng cô ta một lúc.
- Em ngồi đây dõi theo anh! Mơ nói, khi chúng tôi buông nhau ra. Mơ vẫn ngồi, súng hờm săn phía trước. Quanh quẩn một lúc, ông Ne bước lên mố cầu, khoát tay làm hiệu. Tôi rón rén đứng dậy.
- Anh đừng ngoái lui! Anh mà ngoái lui em phải chạy theo thôi, khi đó chúng trờ tới biết lấy ai cản hậu!
Mơ nói. Tôi lao về phía ông Ne nhưng vẫn ngoải lui, Mơ gạt nước mắt, đầu súng chúc xuống.
- Bên tê là ruộng làng Thủy Dương.(105) Ông Ne nói, ném tàn thuốc xuống con mương có váng phèn xám nhạt. Tôi nhìn tới, đồng lúa vàng rực trải dài trước mắt.
(105) Thủy Dương: cách thành phố Huế 6 km về phía nam, có quốc lộ 1A ngang qua, tên cũ là Thanh Thủy Thượng. Ngày xưa chỉ một làng Thanh Thủy, về sau chia làm hai, phía tây gọi là Thanh Thủy Thượng, phía đông gọi là Thanh Thủy Chánh.
- Trên ni an ninh hơn, đất ruộng không bỏ hóa như dưới mình!
Ông Ne nói rồi cởi quần vắt vai, tháo dép máng vào thắt lưng, tôi làm theo. Cả hai cùng lội qua sông. Một tốp thợ gặt toàn đàn bà đi ngược lại, đến gần chúng tôi, họ ngoặt xuống thửa ruộng lúa chín rục, từng chòm nghiêng ngả. Như những nông dân cần mẫn gặp nhau trên đồng, không việc gì tốn thời giờ chào hỏi, ông Ne lặng lẽ dừng lại định hướng như một điền chủ đang ngó ngàng đất đai, hoa màu. Xa xa về phía tây, lờ mờ quốc lộ với những hàng trụ sừng sững đen xỉn, thấp thoáng vài chiếc xe lùi lũi ngược xuôi. Khấp khởi mừng, tôi nôn nao, nhưng ông Ne lại đi chệch về phía nam.
- Đường xa hơn chút ít nhưng yên ổn!
Ông giải thích, châm điếu thuốc khác. Chúng tôi băng qua nhiều đám mộng vừa gặt xong còn trơ gốc, lâu lâu gặp những đàn chim nhỏ từ rơm rạ bay vút lên. Rồi làng mạc hiện ra, mỗi bước một rõ, có cả tiếng còi xe bi be hút hớt. Con sông khá lớn cản lối. Ông Ne dẫn tôi chệch về nam hơn nữa để tìm cầu. Nắng trải dài theo gợn sóng lăn tăn mặt sông. Chúng tôi xuống một bờ đất lài cỏ lan tới mé nước, rửa ráy mặt mũi, kỳ cọ giày dép.
Lột áo xống nhàu nát cho vào túi xách, tôi diện bộ cánh tươm tất hơi nhăn nhúm. Soi mình xuống nước chải tóc, tôi tiếc không có cà-vạt. Mất đâu hay Bửu Dương đã thu về trả Cẩm Khuê? Happy Birthday, tôi nhớ đêm đó cô ta vừa hát vừa quàng qua cổ tôi. Và lúc lên khỏi bến cồn Hến, tôi đã thận trọng cất vào túi.
Bộ sậu thiếu sót nhưng dưới mắt ông Ne, tôi đổi thay hoàn toàn, đúng dân thành thị. Ông gật đầu bằng lòng, khoát tay về phía trước. Tôi mạnh dạn dấn bước qua con cầu bê-tông nhỏ, ông tụt lại, vất bỏ đồ lề thợ gặt. Hiểu ý, tôi một mình men theo con đường xóm mỗi bước một dốc, ra tới quốc lộ chúng tôi gặp lại nhau.
- Đây là cuối làng Dạ Lê, trên tê là Hương Thủy.
Ông Ne nói, đưa tôi vào một quán vắng khách sát lề đường dưới tán cây bàng rậm lá. Bây giờ tôi hiểu vì sao không trực chỉ mà phải chệch về phía nam.
- Đèo Hải Vân mới được Mỹ mở rộng(106) chừ lên xuống đã hai chiều.
(106) Đường xe băng qua đèo Hải Vân (chính xác có ba đèo cách nhau không bao xa: Phước Tượng - Phú Gia - Hải Vân) có từ thời Pháp thuộc. Nhưng lắm ngoặt và lòng đường hẹp, xe lên xuống đèo Hải Vân chỉ có một chiều. Mọi phương tiện vào ra sau khi lên tới đỉnh Hải Vân phải đỗ lại bãi để chờ, tới khi có lệnh mới được xuống, hai phía cùng lúc. Năm 1966, công binh Mỹ mở rộng lòng đường, Chỉnh trang những khúc hiểm yếu. Từ dó xe ra vào thông thương hai chiều.
Ngại tôi không nắm rõ tình thế, ông nói. Sự thật, chuyện đó tôi biết từ hồi học trường Phan Châu Trinh.
- Ngày trước từ làng quê vô Đà Nẵng phải dinh tới bến mua vé, chừ ngồi đây cũng đón được xe suốt tốc hành! Ông nói rõ hơn rồi gọi hai chai nước ngọt.
- Từ nay tên tui là Phan Thệ, tên con Mơ là Phan Thị Bống. Vô trong nớ, yên ổn thì gởi thư thăm, rắc rối thì thôi. Sau này tổ chức có hạch hỏi, vì răng không thi hành nhiệm vụ, cứ nói không nhận được chỉ thị, cứ đổ vạ cho tui!
Như người cha hết lòng yêu thương con, ông nai lưng chịu trận, bất chấp tất cả. Tôi bùi ngùi xúc động. Uống lưng ly nước, ông Ne lao ra mé đường đón xe. Chẳng cần mặc cả, được thằng lơ bảo còn chỗ ông đẩy tôi lên ngay.
- Nhớ giữ gìn sức khỏe!
Ông vỗ lưng tôi, nói với theo. Thằng lơ hét tướng giục tài, hồi còi gióng giả đau thắt ruột gan, xe lao về trước như ngựa lồng. Ngồi trên chiếc ghế xấp tít băng sau, nhìn tới, không xáp mặt một hành khách nào, tôi thấy yên tâm. Vượt đèo Hải Vân trót lọt, đến ngang Hòa Khánh đột ngột tôi đổi ý. Thằng lơ cằn nhằn.
- Mặc! Tao nhớ mẹ tao!
Lúc trả cước phí, tôi boa cho nó mấy đồng lẻ.
Vào một quán nước chờ xe, ruột gan tôi nôn nao.
Đà Nẵng thời Mỹ qua ồn ào nhộn nhịp hơn Huế, hàng hóa lan tới ngoại ô bày bán chật hè đường, còi xe inh ỏi, bụi bặm mù mịt, lính Mỹ lính Việt lính Hàn lính Úc đi đi lại lại, nhiều snack bars (107) nhố nhăng mọc lên, nhiều gái quê lên phố hành nghề mua son bán phấn nhởn nhơ váy áo lòe loẹt. Uống chưa xong lon Coca, cò đã bắt được mối, đẩy tôi lên chiếc Renault (108) cũ rích. Hấp tấp, ngại nhầm lẫn lộ trình, sợ chúng bỏ vãi dọc rừng, tôi không chi trước tiền xe. Thằng lơ cằn nhằn, vung vít chửi thề.
(107) Snack bar: Quán nhỏ bán giải khát.
(108) Renault: Hiệu xe Pháp, vận chuyển khách, cỡ trung bình, có bốn bánh, thông dụng ở Việt Nam trước năm 1954.
- Mặc chó mày, tao thề không quỵt đồng nào, nhưng phải tới nơi cái đã! Tôi mắng trả.
- Ai lên Hà Nha? Hà Nha! Hà Nha! Nó quay phắt, đứng đu bên cửa xe, toe toét bắt khách dọc đường.
- Ai lên Hà Nha?… Tôi thật sự yên tâm.
Hà Nha với Thường Đức cùng tuyến, cách nhau chẳng bao xa. Đường chỉ tốt mươi lăm cây số, từ Túy Loan xe bắt đầu xóc nảy liên tục, đôi khi đầu khách chạm trần mui, nhưng tôi không phiền lòng. Lên tới địa phận Đại Lộc, xe dừng lại một trạm kiểm soát. Ít khách, tài xế lề mề, chỉ giao sổ cho thằng lơ vào trình. Một trung sĩ quân cảnh đang đứng trước hiên, trờ ngay tới, cặp sát thành xe, dán mắt vào từng hành khách, rồi dừng trước mặt tôi.
- Yêu cầu xuất trình giấy tờ tùy thân!
Hẳn đưa tay lên mũ chào chiếu lệ, lạnh mặt hất hàm. Kiếm ăn hay đột xuất kiểm tra? Tôi chưa biết xoay xở thế nào. Bửu Dương đã hoàn lại những gì tạm thu, nhưng mớ giấy tờ đó không còn hiệu lực, vạn bất đắc dĩ mới xuất trình. Tôi cừ rừ cho tay vào túi. Vừa lúc ấy thằng lơ lơn tơn trở lại, đi cùng một sĩ quan quân cảnh.
- Về thăm nhà há?
Thiếu úy vồn vã, xen ngay vào khoảng hở giữa tôi và trung sĩ. Tuy mũ lưỡi trai phủ kín mải tóc rậm, nhung phục đã giảm bớt màu da nâu, nhưng cặp mày sắc, giọng nói nhão nhẹt và chiếc miệng rộng thân quen. Bất ngờ ký ức thoáng hiện rõ nét. Tưởng ai xa lạ thì ra Chu Bá Ngôn, bạn đồng môn.
- Văng! về thăm… Tôi nói, nắm chặt tay bạn.
- Lấy xong cử nhân chưa? Anh ta dõng dạc hỏi, tỏ rõ cùng trang lứa.
- Rồi ạ! Tôi nói.
Thoáng nghe, trung sĩ liếc láy chúng tôi rồi sửng mặt nhường khách cho sếp. Chu Bá Ngôn mời tôi một điếu thuốc. Đang lúc thoái lui, trung sĩ dùng dùi cui buộc một xe tải vừa trờ tới ép sát lề. Chu Bá Ngôn không chỉ là bạn đồng môn, còn là người cùng xã. Thuở ấy thi đỗ vào trường quận chỉ có hai chúng tôi. Cùng lớp, tôi không ưa Ngôn, không phải anh ta xấu tính xấu nết, nhưng do rộng miệng ba hoa bốc phét. Học cách răn đe con cháu của bà, tôi phong tặng Ngôn xước hiệu lòng thòng “bả ngôn bá nghệ bá tri vị chi bá láp,” được cả lớp hưởng ứng lan truyền. Từ đó Chu Bá Ngôn được thay thế bởi Chu Bả Láp. Ngôn hai năm thi đủ bốn kỳ, rớt liền tù tì Tú Tài toàn phần do cái tội mê gái rồi thất tình. Đến đợt quân dịch, anh ta vào trường sĩ quan Thủ Đức. Từ đó chúng tôi không có dịp gặp nhau. May mắn, nhưng lo lắng cứ lởn vởn trong đầu. Còn trạm nào nữa không? Và liệu có được bao nhiêu bạn bè như Ngôn? Đã thế, khách đồng hành cỏ người quen biết mẹ tôi, muốn thăm hỏi nhưng tôi quyết làm mặt lạ. Càng đi về phía tây xe càng lắc, tiếng máy rổn rảng rít réo, quá nửa hành khách nôn thốc nôn tháo, phần còn lại mặt mày xanh mét, chỉ tôi ngồi thẳng căng mắt nhìn về phía trước. Cảnh giác, hồi hộp khiến tôi quên đói khát, quên cả mệt mỏi. Nhưng khi xuống xe, chịu hết nổi sức nặng của túi xách, tôi đuối lả từng bước đi, rũ như tầu lá. Lần theo con đường xóm quen thuộc, tôi vào nhà. Mẹ tôi ngỡ nằm mơ, bà không tin mắt mình, ú ớ một lúc.
Rồi như thấy được điều gì ở người tôi, bà hoảng hốt vứt bỏ thùng gióng trong tay lao tới ôm đứa con từ xa bất chợt trở về. Tôi bình tĩnh đưa bà vào nhà. Để khỏi kéo dài thời gian hành hạ người đã bao phen khó nhọc vì con, tôi thú nhận tất cả. Mẹ tôi ngồi lặng im, đờ đẫn.
- Từ khỉ lui về quê chồng, mạ phó mặc thế sự, sớm hôm hương khói từ đường, an phận dâu con, tập trung làm lụng, bất kể gian nan. Mạ chỉ mong lớn lên con làm một người giản dị bình thường. Nhưng muốn vươn tới mức ấy người ta không thể không học tập! Mạ không ngờ đưa con lai kinh là gởi vào sóng gió. Thì ra sống đời bình thường trong thời tao loạn không dễ!
Bà nói, không khóc nhưng tê tải như một xác khô. Tôi xin lỗi đã phụ lòng mẹ và hứa sẽ nỗ lực làm lại cuộc đời. Bà có vẻ nguôi ngoai đôi chút, trở ra sân tiếp tục cho lúa vào bồ, tôi đánh trần giúp mẹ. Trong lúc làm việc, mẹ con trao đổi bàn bạc rồi cùng thống nhất một số điều cần phải bịa đặt và bảo mật tối đa.
Hôm sau, đi thăm bà con và cả láng giềng, vào ra nhà nào tôi cũng cho hay đã hoàn tất văn bằng cử nhân luật, nay mai vào Sài Gòn xin việc. Mẹ tôi làm một mâm cơm cáo với tổ tiên đứa cháu đi du học đã thành tài trở về, mời thân tộc chung vui chén rượu đăng khoa. Khói hương nghi ngút, cảnh nhà đầm ấm, vui vẻ, rộn ràng. Mẹ tôi giở lại phấn son, mặt mày tươi tắn, nói cười rôm rả. Người chú họ năm xưa khai tâm cho tôi, tình cờ về thăm quê, cũng có mặt. Ông rất tự hào đã tiên đoán tôi sau này sẽ đỗ đạt cao, làm vẻ vang cho cả dòng tộc. Người đàn bà què, bạn láng giềng của mẹ tôi, cứ sụt sùi tưởng tiếc vì cái số hẩm hiu của con gái mình, trách cô ta non dại, sớm lạc lòng lạc dạ. Còn Chu Bá Ngôn, trước đó đã nhờ người nhắn, và cả buổi, tôi có ý chờ, nhưng mãi không thấy anh ta đến.
Tối lại, khi mọi việc yên ẳng, tôi lục tìm trong mớ hồ sơ lưu trữ tại nhà tờ Chứng Chỉ Thế Vì Khai Sinh. (109) Tự tay mình, tôi sao thành hai mươi bản bằng chữ viết bút sắt mực thường. Sáng sớm, tôi mang tới quận chứng thực. Ngay đêm ấy, khi đã cài chặt cửa và che chắn đèn, dùng dung dịch Eau de Javel (110) pha thêm ít nước lã, tôi tẩy xỏa tất cả những gì viết bằng bút sắt - do tinh chất pha chế đặc biệt của loại mực ấn ký có chất dầu, toàn bộ con dấu và chữ ký của quận trưởng vẫn y nguyên, rồi dán lên mặt kính tránh tình trạng co rút không đều của giấy khỉ thoát nước. Nghe xong chương trình tối của đài BBC, tôi dùng bàn là ủi thẳng những tờ giấy vừa ráo, dùng bút Bic (111) viết lại. Tôi đổi tên từ Lê Huy thành Lê Huy Phong. Ngày và tháng vẫn như cũ nhưng năm sinh tăng thêm bằng khoảng thời gian tôi đánh mất ở Huế. Tên cha mẹ và địa danh quê quán không thể đổi được, phòng về sau nếu có sưu tra xác minh, hoặc chứng thực hồ sơ ở địa phương. Mẹ tôi bán một con nghé, một cặp heo cỏ, cho thêm cái khâu vàng hai chỉ. Dầu quyến luyến, mẹ con chỉ ở với nhau chưa tới mươi ngày. Một buổi sảng chủ nhật trời quang mây tạnh, mẹ tôi quyết định chia tay.
(109) Do chiến tranh hoặc có thể do cha mẹ lơ là chuyện khai sinh cho con cái, sau năm 1946, những ai không có Giấy Khai Sinh có thể đến cơ quan hộ tịch cấp xã khai báo và được cấp một giấy có giá trị như Giấy Khai Sinh nhưng mang tên Chứng Chỉ Thế Vì Khai Sinh, coi như bản gốc.
(110) Eau de Javel, tiếng Pháp: Nước Javel - nhãn hiệu một hóa chất dùng dể giặt tẩy quần áo tùy theo mức độ vết bẩn mà pha thêm nước khi xử dụng.
(111) Bic: nhãn hiệu loại bút bi, thời đó gọi là bút nguyên tử.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Christiane

PreviousNext

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 56 guests