Danh Nhân Lê Ngọc Hân

Điển tích văn học và lời hay ý đẹp

Moderators: littlehoney999, A Mít

Danh Nhân Lê Ngọc Hân

Postby Minh Chau » 21 Jun 2006

Danh nhân Lê Ngọc Hân
(Nhân kỷ niệm 200 năm ngày mất)

PGS Chu Quang Trứ
Năm 1999 kỷ niệm 210 năm ngày chiến thắng Đống Đa (1789-1999), đồng thời kỷ niệm 200 năm ngày mất của Công chúa - Hoàng hậu Lê Ngọc Hân (1799-1999). Nhân dịp này, chúng ta thành kính dâng lên Bà nén tâm hương và cùng nhau ôn lại cuộc đời Bà với những hiểu biết chân xác dưới lớp bụi thời gian.
Đọc lại những tư liệu ít ỏi trong sử cũ và tham chiếu tộc phả họ Nguyễn Đình ở Ninh Hiệp (Gia Lâm, Hà Nội), chúng ta biết Lê Ngọc Hân là vợ yêu của vua Quang Trung, cũng là một danh nhân văn hóa của dân tộc. Ngọc Hân thuộc hàng công chúa cuối cùng của nhà Lê, đi vào lịch sử bằng cuộc tình duyên tuyệt đẹp với anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ, đóng góp cho văn học Việt Nam bài văn khóc chồng Tế vua Quang Trung chân tình thống thiết; và đặc biệt là bài Ai Tư Vãn tha thiết làm rung động lòng người ở mọi thời đại. Nhắc đến sự nghiệp lừng lẫy của vua Quang Trung, không thể không nhắc đến bà. Và cũng chính bà, với hai tác phẩm văn học trên, đã sớm nhất đánh giá vua Quang Trung súc tích mà ngắn gọn, dễ nhớ nhất:
Mà nay áo vải cờ đào,
Giúp dân dựng nước biết bao công trình
Mà nay lượng cả ơn sâu,
Móc mưa tưới khắp chín châu đượm nhuần.
Nhưng con người đầy tài hoa và nồng thắm tình cảm ấy phải chịu mệnh bạc, mà cả khi chết rồi vẫn phải chịu nhiều tai ương và oan trái. Cho đến nay, mặc dù đã được một số nhà nghiên cứu văn học và sử học minh oan, chứng minh bà mất từ năm 1799 tức trước khi triều Tây Sơn sụp đổ 3 năm, nhưng đây đó vẫn lan truyền thông tin rằng, bà chịu bị Gia Long ép lấy làm vợ; hoặc khi triều Tây Sơn đổ, bà phải lẩn trốn nhưng vẫn bị vua Gia Long truy nã và bắt về hành hình rùng rợn. Thực ra đó là những cách nghĩ bị suy diễn từ sự việc dễ gợi mối liên tưởng: Gia Long có ép Ngọc Bình - em nuôi của bà và là vợ của vua Cảnh Thịnh nhà Tây Sơn - lấy y. Gia Long có hành hình man rợ vua tôi Cảnh Thịnh và đối xử hèn hạ với di hài vua Quang Trung - Nguyễn Huệ và Thái Đức - Nguyễn Nhạc. Nhưng đối với bà Ngọc Hân, Gia Long và cả Minh Mạng vẫn "lờ đi", chỉ đến Thiệu Trị vì có người tố giác mới theo "phép nước" mới có những hành động độc địa.
Vậy sự thật về Lê Ngọc Hân như thế nào? Từ những tư liệu văn học và sử học của thời Lê, thời Tây Sơn và thời Nguyễn, từ tộc phả họ Nguyễn Đình và những truyền thuyết ở Ninh Hiệp - quê ngoại của bà, bức màn bí mật được vén lên dần:
Vùng Cố Pháp - Đông Ngàn - Từ Sơn (nay thuộc huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh), chỉ với những tên gọi nối nhau trong lịch sử đã gợi lên một vùng sông nước, rừng cây, gò đồi. Trên những gò đồi ấy, tổ tiên xa xưa đã tụ cư lập xóm dựng làng mà tên làng khi Hán Việt hóa để đi vào địa bạ của chính quyền đô hộ thời Bắc thuộc và của các nhà nước dân tộc thời độc lập đều có chữ Phù ở đằng trước để chỉ rõ gò nổi ở giữa đồng nước. Chỉ riêng phủ Từ Sơn (Bắc Ninh) đến thời Nguyễn vẫn còn các xã Phù Đổng, Phù Minh, Phù Lập (thượng và hạ), Phù Chẩn, Phù Ninh, Phù Lộc, Phù Lưu, Phù Khê, Phù Cảo, Phù Yên, Phù Lương, Phù Lãng... Giáo sư Trần Quốc Vượng đã phục nguyên âm Phù là Bù - Pù - Gò thông đạt rõ ý tưởng người xưa. Đây là vùng đất thiêng, đã sản sinh ra Thành Gióng - anh hùng cứu nước đầu tiên đầy chất huyền thoại, và Lý Công Uẩn dựng nghiệp Đế mở ra kỷ nguyên Đại Việt, những người dân "dốt Đông Ngàn hơn ngoan thiên hạ"... Trong những người dân Đông Ngàn ấy, ở đầu thế kỷ thứ XVIII có cụ Nguyễn Đình Giai ở Phù Ninh - tên nôm là làng Nành được triều đình nhà Lê phong là Vũ huân tướng công thự Thần vũ tứ vệ quân vụ Tham đốc đặc tứ phong tặng chiêu vũ tướng quân, Đô đốc phủ Đô đốc Đồng Tri, Tuấn trung hầu. Cụ có 18 người con, gái trưởng là bà Nguyễn Thị Huyền. Bà được ông bác ruột - đồng thời cũng là cha nuôi đang làm tả thiếu giám (quan hoạn) ở ty Lễ giám tiến cử làm cung tần cho vua Lê Cảnh Hưng. Bài vị bà ở đền thờ tại Phù Ninh (nay là làng Ninh - Gia Lâm - Hà Nội) ghi rõ: "Cố Lê Chiêu Nghi Nguyễn Thị Húy Huyền, hiệu Thiện Trung sinh giờ Dậu ngày mồng 3 tháng 10 năm Quý Dậu (28-10-1753), mất giờ Hợi ngày mồng 1 tháng 8 năm Quý Mùi (1823), thọ 71 tuổi. Bà Huyền sinh công chúa Lê Ngọc Hân vào giờ Sửu ngày 27 tháng 4 năm Canh Dần (22-5-1770).
Năm 1786 Nguyễn huệ kéo quân ra Bắc diệt chúa Trịnh, phù vua Lê, song trên thực tế đã thống nhất Đàng Trong và Đàng Ngoài, được vua Lê Hiển Tông gả công chúa Ngọc Hân đang ở độ tuổi 16. ít ngày sau vua Lê Hiển Tông băng hà. Bà Nguyễn Thị Huyền góa bụa ở tuổi 33, sau một thời gian chịu tang chồng đã lui về quê lập dinh Thiết Lâm 100 gian ở xế cửa chùa Pháp Vân để tiện sang chùa lễ Phật.
Ngọc Hân vào Phú Xuân sống hạnh phúc bên chồng. Cuối năm 1788 được tin quân Thanh xâm lược đã chiếm Thăng Long, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế để chính danh tiến quân ra Bắc, phong Ngọc Hân làm Hoàng hậu ố tộc phả họ Nguyễn Đình ghi là Trinh Nhất Vũ Hoàng hậu. Sau khi vua Quang Trung đại thắng quân Thanh, vào đầu xuân Kỷ Dậu lại trở về Phú Xuân, và Ngọc hân đã sinh với vua được con gái đầu lòng là công chúa Ngọc Bảo vào giờ Hợi ngày 20 tháng 4 năm Canh Tuất (4-6-1790), rồi hoàng tử Văn Đức vào giờ Mão ngày 14 tháng Giêng năm Tân Hợi (27-2- 1791). Hạnh phúc đang nồng thì năm 1792 vua Quang Trung băng đột ngột, Ngọc Hân ở tuổi 22 đã chịu cảnh góa bụa. Hai bài văn khóc chồng Tế vua Quang Trung và Ai tư vãn đã nói lên nỗi đau đứt ruột xé lòng của bà. Bà muốn chết theo chồng, nhưng trong đám tang vua Quang Trung thấy cảnh các con mới 1 - 2 tuổi ở trước linh sàng cha:
Gót lân chỉ mấy hàng lẫm chẫm
Đầu mũ mao, mình tấm áo gai
U ơ ra trước hường đài
Tưởng quang cảnh ấy chua cay lòng này
mà bà tạm sống để nuôi con, chờ con qua tuổi ấu thơ, chỉ sống thể xác thôi:
Vậy nên nấn ná đôi khi
Hình tuy còn ở phách thì đã theo
Bà đưa con ra khỏi cung điện Phú Xuân, sống trong chùa Kim Tiền (Dương Xuân ố Huế) cạnh điện Đan Dương để thờ chồng nuôi con. Bà gượng sống đến ngày mồng 8 tháng 11 năm Kỷ Mùi (4-12-1799) thì mất, lúc ấy mới 29 tuổi. Khi đó Phan Huy ích đang là một trọng thần của Tây Sơn, đã soạn giúp năm bài văn cho vua Cảnh Thịnh, cho các công chúa, cho bà Nguyễn Thị Huyền, cho các tôn thất nhà Lê và cho họ ngoại ở làng Phù Ninh tế Ngọc Hân. Cả năm bài văn trên còn chép trong sách Dụ Am văn tập.
Tiếp theo, triều đình Cảnh Thịnh lục đục và suy yếu, ngày càng bị tập đoàn Nguyễn ánh đe dọa. Hai con bag phải đổi sang họ Trần, nhưng rồi với sự sụp đổ của triều Tây Sơn, theo tộc phả họ Nguyễn Đình, ngày 18 tháng 11 năm Tân Dậu (23-12-1801) hoàng tử Văn Đức mất khi mới 10 tuổi, rồi ngày 17 tháng 4 năm Nhâm Tuất (18-5-1802) công chúa Ngọc Bảo cũng mất khi mới 12 tuổi. Không rõ có phải như truyền thuyết là bị nhà Nguyễn giết hại trong khi trốn tránh? Nhưng cũng có thể chết bệnh vì mất vào những thời điểm khác nhau, và không có tên trong danh sách vua tôi nhà Tây Sơn bị Gia Long hành hình. Hơn nữa bộ sách chính sử của nhà Nguyễn Đại Nam Thực lục nhân năm 1842 phá hủy đền thờ Ngọc Hân ở Phù Ninh có ghi: "Nguyên người xã ấy là Nguyễn Thị Huyền làm cung nhân của vua Lê Hiển Tông, có người con gái là Lê Ngọc Hân, sau gả cho ngụy (Nguyễn) Huệ, sinh được 1 trai và 1 gái, Ngọc Hân chết, con trai, con gái cũng chết non cả".
Phần "Biệt lục" của tộc phả Nguyễn Đình còn ghi thêm: Bà Nguyễn Thị Huyền thương con gái và các cháu ngoại đều chết yểu nơi xa, năm 1804 thuê người vào Phú Xuân lấy hài cốt ba mẹ con Ngọc hân, ngày 24 tháng 3 năm Giáp Tý (3-5-1804) xuồng thuyền vượt biển, ngày 20 tháng 5 (28-6) về đến bến ái Mộ (Gia lâm, Hà Nội), ngày mồng 4 tháng sau (11-7-1804) đưa về bản dinh (tức dinh Thiết lâm của bà Nguyễn Thị Huyền), ngày mồng 9 (16-7-1804) đưa về làng, giờ Ngọ an táng hài cốt bà Ngọc hân, phụ chôn hoàng tử ở bên trái và công chúa ở bên phải. Nơi đó nay là Bãi Cây Đại hay Bãi Đầu Voi ở đầu làng Nành. (ảnh: Tượng chân dung của Bà Nguyễn Thị Huyền vợ Vua Lê, mẹ Công chúa Lê Ngọc Hân)
Sự việc này, bộ Đại Nam thực lục ghi tiếp ở năm 1842: "Khoảng năm đầu Gia Long, ngụy đô đốc tên là Hài ngầm đem hài cốt mẹ con Ngọc Hân từ Phú Xuân về táng trộm ở địa phận xã Phù Ninh. Thị Huyền ngầm xây mộ, dựng đền, khắc bia giả, đổi lại họ tên để làm mất dấu tích".
Bà Nguyễn Thị Huyền không có con trai, đã ký hậu 50 mẫu ruộng tốt với làng và chuyển dinh Thiết Lâm làm đền thờ. Nam 1823 bà Huyền mất, thọ 70 tuổi, dinh Thiết Lâm thờ bà và mẹ con Ngọc Hân. vẫn theo tộc phả họ Nguyễn Đình và kết hợp truyền thuyết địa phương, thì vào khoảng thời gian đời Minh Mạng sang đời Thiệu Trị, có người trong làng tố giác việc thờ cúng này, vua Thiệu Trị đã cho phá hủy đền thờ ở dinh Thiết Lâm, quật mộ ba mẹ con Ngọc Hân, đổ hài cốt xuống sông - nơi này sau dân lập đền ghềnh thờ bà; chánh tổng bị lột da nhồi trấu, tri phủ bị cách chức. Bộ sử Đại nam thực lục năm 1842 cũng xác nhận: "Tới đây, việc ấy phát giác, vua sai hủy đền thờ, đào bỏ hài cốt kẻ ngụy".
Từ năm 1842 dinh Thiết Lâm bị phá, nền dinh bỏ hoang thành đất công của làng, nhưng dân vẫn gọi là "Vườn Dinh" và dựng lên đây Một "Miếu cô hồn" kín đáo thờ Ngọc Hân. Mãi gần trăm năm sau, đến năm 1937 họ Nguyễn Đình đổi đất với làng lấy lại một phần nền dinh Thiết Lâm và lập lại đền thờ bà Nguyễn Thị Huyền cùng với Ngọc Hân. Đồng thời, tại bãi cây Đại, cùng với việc sửa lại mộ bà Nguyễn Thị Huyền, dân làng cũng đắp nấm mộ tượng trưng của mẹ con Ngọc Hân, tương truyền là chính chỗ mà năm 1842 bị Thiệu Trị quật phá.
Như vậy, tại Phù Ninh ( nay là xã Ninh Hiệp - Gia Lâm Hà Nội) ngày trong khi Gia Long vừa lật đổ triều Tây Sơn, hành quyết man rợ vua tôi Cảnh Thịnh, ra sức truy lùng hành tích Tây Sơn, thì nhân dân đã đón nhận hài cốt mẹ con Ngọc Hân về, xây lăng mộ, dựng đền thờ. (ảnh:Mộ Bà Huyền)
Từ năm 1842 không được thờ chính thức thì nhân dân bí mật thờ mẹ con Ngọc Hân dưới dạng "cô hồn". Và từ 1937 Ngọc Hân cùng với mẹ và hai con lại được thờ trong một nhà thờ nhánh của họ Nguyễn Đình. Trước sau vẫn ở trên một khu đất cũ là nền dinh Thiết Lâm sư của nhà Nguyễn Thị Huyền. Cùng với việc thờ cúng này, nhân dân địa phương còn giữ trong chùa làng chiếc trống đồng lớn (cao 35 cm, rộng 55 cm) khắc rõ niên hiệu Cảnh Thịnh năm thứ 8 (1801) với nhiều hoa văn đẹp để rồi giao cho Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam quản lý và trưng bày cho mọi người đều biết.
Mười năm trước, trong khuôn khổ chuẩn bị kỷ niệm 200 năm chiến thắng Đống Đa, cuối năm 1988, chính quyền xã Ninh Hiệp đã tổ chức cuộc hội thảo khoa học về danh nhân Lê Ngọc Hân nhân ngày giỗ bà và làm lễ dâng hương trang trọng. Nhưng cho đến nay di tích về bà vẫn còn bị thả nổi!
Cuộc đời Lê Ngọc Hân cả khi sống lẫn khi chết đã chịu nhiều cay đắng, nhưng bà thực sự là một nhân vật lịch sử ố một nữ danh nhân văn hóa đầy tài hoa, từ khi gắn cuộc đời với vua Quang Trung đã trở thành một tài năng sáng tạo lớn của đất nước. Sau kỷ niệm 210 năm chiến thắng Đống Đa của vua Quang Trung, hy vọng vào dịp giỗ Ngọc Hân lần thứ 200 này (cuối năm 1999) đền thờ và nấm mộ (dù là tượng trưng) của Bà sẽ chính thức là di sản văn hóa quốc gia.

• Lê Ngọc Hân - Tiếng khóc thành ngâm
• Tiểu sử Lê Ngọc Hân - Ai Tư Vãn
http://home.no.net/tptruong/vanhoc/vanhoc.htm


Người viết xin trích dẫn vài hàng về tiểu sử của Ngọc Hân Công Chúa trong bài “Danh nhân Lê Ngọc Hân” của ông Chu Quang Trứ, vì theo thiển ý, đây có lẽ là tài liệu có nhiều chi tiết nhất:

“Bài vị bà (Nguyễn Thị Huyền) ở đền thờ tại Phù Ninh (nay là làng Ninh - Gia Lâm - Hà Nội) ghi rõ: "Cố Lê Chiêu Nghi Nguyễn Thị Húy Huyền, hiệu Thiện Trung sinh giờ Dậu ngày mồng 3 tháng 10 nãm Quý Dậu (28-10-1753), mất giờ Hợi ngày mồng 1 tháng 8 nãm Quý Mùi (1823), thọ 71 tuổi. Bà Huyền sinh công chúa Lê Ngọc Hân vào giờ Sửu ngày 27 tháng 4 năm Canh Dần (22-5-1770)”.
….
Ngọc Hân vào Phú Xuân sống hạnh phúc bên chồng. Cuối nãm 1788 được tin quân Thanh xâm lược đã chiếm Thăng Long, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế để chính danh tiến quân ra Bắc, phong Ngọc Hân làm Hoàng hậu ở tộc phả họ Nguyễn Đình ghi là Trinh Nhất Vũ Hoàng hậu. Sau khi vua Quang Trung đại thắng quân Thanh, vào đầu xuân Kỷ Dậu lại trở về Phú Xuân, và Ngọc hân đã sinh với vua được con gái đầu lòng là công chúa Ngọc Bảo vào giờ Hợi ngày 20 tháng 4 nãm Canh Tuất (4-6-1790), rồi hoàng tử Văn Đức vào giờ Măo ngày 14 tháng Giêng nãm Tân Hợi (27-2- 1791)
….
Bà đưa con ra khỏi cung điện Phú Xuân, sống trong chùa Kim Tiền (Dương Xuân ố Huế) cạnh điện Đan Dương để thờ chồng nuôi con. Bà gượng sống đến ngày mồng 8 tháng 11 nãm Kỷ Mùi (4-12-1799) thì mất, lúc ấy mới 29 tuổi”.

Nét đại cương các sử liệu giống nhau, ngoại trừ chuyện chung cuộc của Ngọc Hân Công Chúa .

Về Ngọc Bình Công Chúa thì VSTB-PVS-t60-q2 viết: “…người đàn bà đẹp mà Gia Long gặp ở Phú Xuân là ai? Ông Bửu Kế trong Bách-Khoa số 101 ngày 15-6-1961 sau khi tra cứu các pho Ngọc-điệp của nhà Nguyễn đã trả lời người đó là Lê Thị Bình, con út của vua Lê Hiển Tông tức là em bà Ngọc Hân. Bà này sinh với Gia Long hai con là Quảng Oai và Thường Tín quận công, duy ông Bửu Kế không phát biểu chi tiết để ta có thể hiểu sao lại có cuộc hôn nhân giữa bà Lê Thị Bình với vua Gia Long vào năm 1801, giữa lúc chiến dịch Phú Xuân đang rất gay go.
….
Tóm lại, chiếu theo các sự kiện kể trên bài của ông Việt Thường chỉ sai một điểm là lầm bà Ngọc Hân ra bà Ngọc Bình Ông Bửu Kế nhận rằng vua Gia Long lấy bà Lê Thị Ngọc-Bình sinh ra hai con đã rọi thêm được một vài tia sáng”.

Vậy theo ông Bửu Kế, thì bà Đức Phi họ Lê này là công chúa Lê Thị Ngọc Bình, tuy nhiên, như ông PVS viết, ông Bửu Kế đã không phát biểu thêm, nên chưa đi đến kết quả có tính cách xác định.

Trong bài “Công chúa Đông Đô…”, ông HNC đã nói tới công chúa Ngọc Bình với khá nhiều chi tiết như sau:
“Theo các tài liệu do ty Văn hóa Nghĩa Bình công bố, vua Cảnh Thịnh và công chúa Lê Ngọc Bình đồng trang lứa với nhau. Vua Cản Thịnh sinh năm 1783, đúng như Ðại Nam Chính Biên Liệt truyện và các phúc trình của các giáo sĩ Longer và Le Labousse gởi cho Phái bộ Truyền giáo Nam Hà đã ghi chép. Như vậy, ngày công chúa Lê Ngọc Hân vầy duyên cá nước với Tiết chế Nguyễn Huệ (1786) thì công chúa Lê Ngọc Bình mới có 4 tuổi. Ðến năm Bính Ngọ (1792), vua Quang Trung mất, vua Cảnh Thịnh lên nối ngôi, cả nhà vua lẫn công chúa mới được 10 tuổi. Thời gian này cả hai đang ở tuổi trúc mã thanh mai. Những năm tiếp theo là những năm Thái sư Bùi Ðắc Tuyên chuyên quyền nên chắc chắn là công chúa Lê Ngọc Hân dù đã có ý định vẫn chưa thể thực hiện việc kết hợp sắt cầm cho em gái với con chồng. Phải đợi đến sau chính biến năm Ất Mão (1795), phe cánh Thái sư Bùi Ðắc Tuyên bị dẹp tan, công chúa Lê Ngọc Hân mới có điều kiện thu xếp đưa em gái lên ngôi Chính cung Hoàng hậu.
Lúc này, các bề tôi thân tín lục tục trở về triều, công chúa Lê Ngọc Hân củng cố lại thế lực trong chốn nội đình và có ảnh hưởng quyết định đến công việc triều đình, thì cũng là lúc công chúa Lê Ngọc Bình vừa được 13 tuổi. Như vậy, công chúa Lê Ngọc Hân đối với công chúa Lê Ngọc Bình thì vừa là chị ruột, vừa là mẹ chồng. Cả hai đều là công chúa Ðông đô con vua Hiển tông nhà Hậu Lê. Cả hai đều trở thành Hoàng hậu Phú Xuân, công chúa Lê Ngọc Hân là Bắc cung Hoàng hậu của Thái tổ Vũ Hoàng đế, công chúa Lê Ngọc Bình là Chính cung Hoàng hậu của vua Cảnh Thịnh Nguyễn Quang Toản. Ðến năm Kỷ Mùi (1799), niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 7, công chúa Lê Ngọc Hân mất, công chúa Lê Ngọc Bình vừa được 17 tuổi. Ðến năm Tân Dậu (1801), niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 9, kinh thành Phú Xuân thất thủ, vua Cảnh Thịnh chạy ra Bắc hà không kịp mang theo gia quyến, thì công chúa Lê Ngọc Bình chỉ có 19 tuổi, nếu tính tuổi theo lối ngày nay thì công chúa Lê Ngọc Bình chỉ mới 18 tuổi mà thôi. Chính vào thời điểm này Ðại Nguyên súy Tổng Quốc chính Nguyễn Phúc Ánh gặp công chúa Lê Ngọc Bình và năm sau, tức là năm Nhâm Tuất (1802), Nguyễn vương lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là Gia Long, và sắc phong công chúa Lê Ngọc Bình là Ðệ Tam cung, năm ấy công chúa Lê Ngọc Bình vừa tròn 20 tuổi”.

Ông HNC cũng nói về lúc Nguyễn Vương gặp Ngọc Bình công chúa là năm Ất Sửu (1801), giống với lý luận của ông PVS trong VSTB q2-t60 như sau:

“… bà Ngọc-Bình chỉ có thể gặp vua Gia Long ở Phú Xuân mà thôi bởi không thấy sử liệu nào nói Gia Long ra Bắc hà rồi lấy môt công chúa họ Lê nhất là trước đó 10 năm vua Chiêu Thống chạy qua Tàu, hoàng gia thất tán đi đâu hết thì làm thế nào mà có được sự tao phùng giữa Gia Long và một nàng Công –chúa của họ Lê tại xứ Bắc?
Hơn thế nữa sử chép Nguyễn-Ánh đánh úp kinh đô Phú Xuân. Thủy sư đột nhập cửa Tư Dung tháng 5 năm Tân Dậu (11-6-1801) và thu phục được đô thành sau ba ngày chiến đấu ráo riết và ác liệt….
Tóm lại, chúng tôi cũng đề kết rằng bà Lê thị Bình là con gái út của vua Lê Hiển Tông nhưng là vợ của vua Cảnh Thịnh (tức là bố lấy chị, con lấy em), như vậy mới hợp với câu:
“Con vua mà lấy hai chồng làm vua”.
Ông Việt Thường nêu ra tất có sự thật và có cả sự thật là lời can gián của Lê ăn Duyệt….

Ở đây ta thấy thêm nữa là yếu tố thời gian tỏ rõ là Gia Long gặp bà Lê thị Bình tại Phú Xuân đúng vào năm 1801 và lúc này Cảnh Thịnh vừa chạy ra Bắc để tính mưu khôi phục…
Chúng tôi, sau khi đối chiếu và tổng hợp các sử liệu nhận thấy rằng bài của ông Việt Thường và các điều văn của Phan Huy Ích là những bằng cớ rất đáng chú ý để kết luận như trên, tuy rằng chúng tôi vẫn chỉ đưa ra một giả thuyết do không kiếm ra được tài liệu nào chính xác hơn nữa.
…. Mong các bạn đọc góp thêm ý kiến nếu có, may ra nghi vấn về bà Ngọc hân được thêm chút ánh sáng nào nữa chăng?”.

Để góp thêm ý kiến, và để bổ túc cho lập luận mà ông PVS cũng như ông HNC đã đưa ra, người viết thử nêu lên những nhận xét như sau để may ra có thể đi đến kết luận Bà Đức Phi họ Lê không thể là Ngọc Hân Công Chúa.

1- Trong bài “Ai tư vãn”, Ngọc Hân Công Chúa đã nói lên tâm sự riêng của bà sau khi vua Quang Trung qua đời là “Quyết liều mong vẹn chữ tòng” để chết theo nhà vua nhưng vì con còn thơ dại (Ngọc bảo 2 tuổi, Ngọc Đức 1 tuổi)“con trứng nước thương vì đôi chút”, nên “chữ tình thâm chưa thoát được đi”, và “hình tuy còn ở, phách thì đã theo”. Những câu viết ra như những lời thề với “đôi vầng nhật nguyệt trên đầu chứng cho”.
Năm 1802, nếu bà còn sống mà thấy cảnh Quang Toản, các con của mình, cũng như các hoàng tử và công chúa bị hình phạt 5 voi xé xác, cùng các võ tướng nhà Tây Sơn bị giết thì bà đã tự tử chết theo, hay bà có thể trở thành “Đệ Tam cung” của Nguyễn Ánh, an hưởng phú quí và sinh cho Gia Long thêm bốn người con?

2-Nói về vấn đề tuổi tác, Lê Đức Phi sinh Thường Tín công Cự năm 1810. Nếu bà Đức phi là Ngọc Hân công chúa thì lúc này bà đã 41 tuổi. Ở tuổi này liệu bà vẫn còn được Gia Long sủng ái, trong khi bên cạnh ông còn biết bao nhiêu cung tần mỹ nữ khác. Chuyện một ông vua sủng ái một bà phi 41 tuổi có thể xảy ra, nhưng khó tin. Nếu Đức Phi là Ngọc Bình thì chuyện dễ tin hơn vì lúc này bà mới 28 tuổi.

3-Trong bài “Danh nhân Lê Ngọc Hân”, ông Chu Quang Trứ viết như sau:
“Vẫn theo tộc phả họ Nguyễn Đình và kết hợp truyền thuyết địa phương, thì vào khoảng thời gian đời Minh Mạng sang đời Thiệu Trị, có người trong làng tố giác việc thờ cúng này, vua Thiệu Trị đã cho phá hủy đền thờ ở dinh Thiết Lâm, quật mộ ba mẹ con Ngọc Hân, đổ hài cốt xuống sông - nơi này sau dân lập đền ghềnh thờ bà; chánh tổng bị lột da nhồi trấu, tri phủ bị cách chức. Bộ sử Đại nam thực lục nãm 1842 cũng xác nhận: "Tới đây, việc ấy phát giác, vua sai hủy đền thờ, đào bỏ hài cốt kẻ ngụy".
Từ nãm 1842 dinh Thiết Lâm bị phá, nền dinh bỏ hoang thành đất công của làng, nhưng dân vẫn gọi là "Vườn Dinh" và dựng lên đây Một "Miếu cô hồn" kín đáo thờ Ngọc Hân”.

Lúc này -1842- An Nghĩa Công Chúa Ngọc Ngôn (1803-1855) , Thường Tín công Cự vẫn còn sống (1810-1849)- họ là cô và chú của vua Thiệu Trị, nếu bà Lê Đức Phi là Ngọc Hân, thì họ có để cháu mình quật mộ của mẹ mình không? Hơn nữa, chả lẽ vua Thiệu Trị lại nỡ quật mộ vợ ông nội mình, triều đình nhà Nguyễn lại quật mộ bà phi của Thế Tổ, điều này trái với đạo lý cho một triều đình theo Nho học. Việc này đã được ghi vào sử nhà Nguyễn, thì chuyện quật mộ một bà phi của Thế Tổ không thể xảy ra. “Kẻ Ngụy” không thể là bà Lê Đức Phi này.

4- Năm bài văn tế của ông Phan Huy Ích trong Dụ Am Văn Tập, để tế Bắc Cung Hoàng Hậu là tài liệu quan trong nhất để xác định Ngọc Hân Công Chúa qua đời năm 1799, lúc nhà Tây Sơn chưa bị mất (người viết sẽ đi vào chi tiết trong phần tới). Bà đã qua đời 2 năm trước khi Gia Long chiếm Phú Xuân.

Để chứng minh, một sự kiện có thể không đủ sức thuyết phục, tuy nhiên, từ nhiều sự kiện tương quan cùng những tài liệu dẫn chứng thì tới đây, ta có thể đi đến kết luận là bà Lê Đức Phi mẹ của Quảng Oai Công, Thường Tín Công, hai công chúa là Ngọc Ngôn và Ngọc Khuê không phải là Ngọc Hân Công Chúa.

Vậy Lê Đức Phi là Ngọc Bình Công Chúa?
Bà này là hoàng hậu, vợ của vua Cảnh Thịnh?
Sử liệu về tiểu sử của vị công chúa họ Lê tên là Ngọc Bình rất là ít. Năm 1802, khi bị bắt Quang Toản đã 20 tuổi (sinh năm 1783), ở tuổi này, chắc chắn ông vua trẻ này đã có vợ (mà có thể còn có nhiều). Tới lúc này người viết vẫn chưa tìm thấy sử liệu nào nói về bà hoàng hậu (?) vợ của vua Cảnh Thịnh (Quang Toản).

Trong các dẫn chứng bên trên từ VSTB-PVS-q2-t60, ông Bửu Kế chỉ nói người mà vua Gia Long gặp là Lê Thị Bình, con út vua Lê Hiển Tông, em Ngọc Hân Công Chúa, nhưng sử gia Phạm văn Sơn thì “đề kết” bà Lê Thị Bình là vợ của vua Cảnh Thịnh:
“ông Việt Thường nêu lên tất có sự thật và có cả sự thật là lời can gián của Lê Văn Duyệt khi vua Gia Long lấy bà Lê Thị Bình như sau: “…..Xin bệ hạ tha tội cho chúng tôi, mặc dầu người đàn bà ấy đẹp thế nào nhưng vẫn là vợ của kẻ thù nghịch…”

Ông HNC viết : “Chỉ từ sau năm 1975, ty thông tin Văn hoá Nghĩa Bình ấn hành và phổ biến một số tài liệu liên quan đến thân thế và sự nghiệp các nhân vật đời Tây Sơn, chúng ta mới bắt đầu chú ý các nhân vật như Lê Ngọc Bình, là công chúa con vua Hiển tông nhà Hậu Lê và là Chính cung Hoàng hậu vua Cảnh Thịnh Nguyễn Quang Toản.
Theo các tài liệu do ty Văn hóa Nghĩa Bình công bố,…” và ông HNC cũng đã nói khá rõ về tiểu sử của bà Lê Ngọc Bình. Tuy nhiên ông viết là năm 1795, Ngọc Hân Công Chúa (Bắc Cung “Thái hậu”?) đưa em mình lên ngôi chính hậu. Công Chúa Lê Ngọc Bình cũng như Quang Toản mới 13 tuổi mà đã có hôn nhân? Trên danh nghĩa chăng? Người viết chưa được đọc tài liệu này, nên chỉ dám tự hỏi mà không dám lạm bàn.

Vậy bà Lê Ngọc Bình (hay Lê thị Ngọc Bình) là vợ của Nguyễn Quang Toản. Bà là chính cung hoàng hậu, hay là phi tần của vua Cảnh Thịnh hay không thì không rõ, nhưng bà Lê Ngọc Bình đã trở thành một trong những bà phi của Nguyễn Ánh từ năm 1801 và khi lên ngôi hoàng đế, Gia Long đã phong bà này là Đệ Tam Cung- Đức Phi họ Lê. Những sự kiện này có lẽ đã giải thích được câu ca dao “Con vua mà lại lấy hai đời chồng vua”.

Trước khi sang phần tới, người viết xin trích dẫn một về một nhận xét rất tinh tế của ông HNC :“Hành động của vua Gia Long không phải là hành động của con người bình thường tiếc ngọc thương hoa….. là một hành động tâm lý chiến sâu sắc của một chính trị gia bậc thầy, một hành động có tính toán kỹ lưỡng và khôn ngoan tuyệt cùng”.
Image
User avatar
Minh Chau
Múi Mít
Múi Mít
 
Tiền: $122,698
Posts: 9857
Joined: 28 Sep 2005
Location: Việt Mỹ
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng Minh Chau từ: christiane

Return to Hoa Thơm Cỏ Lạ



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 46 guests