ĐÀO VIÊN KẾT NGHĨA
-- Giáo sư Tử Vi Lang
Đào viên kết nghĩa là ba vị anh hùng: Lưu Bị, Quan Võ, Trương Phi, tế cáo Trời Đất thề nguyền kết nghĩa anh em với nhau tại Vườn Đào, hoạn nạn cùng lo, giàu sang chung hưởng.
Thời ấy là đời vua Linh Đế (167- 189) nhà Hậu Hán nước Tàu, vua lên ngôi lúc mười hai tuổi, Đậu Thái Hậu phải ra lâm triều cầm quyền nhiếp chánh. Khi lớn lên, vua Linh Đế nhu nhược, không lo chỉnh đốn triều chánh, tin dùng bọn gian thần, ăn chơi xa xỉ, nặng thu thuế khóa, khiến dân chúng cùng khổ, loạn lạc nổi lên khắp nơi.
Lúc bấy giờ có giặc Huỳnh Cân (Khăn Vàng) do ba anh em Trương Giốc, Trương Bảo, Trương Lương cầm đầu nổi lên rất mạnh, định tiêu diệt nhà Hậu Hán. Trương Giốc đem đại binh tiến đánh U Châu.
Quan Thái Thú U Châu là Lưu Yên, vốn dòng tôn thất nhà Hán, thấy tình thế khẩn trương, vội triệu tập quan Hiệu Úy Châu Tỉnh vào nghị kế. Châu Tỉnh nói:
- Quân giặc đông như nước lũ, quân ta ít không thể nào ngăn nổi. Minh Công nên gấp rút chiêu mộ nghĩa binh mới có thể giữ được Châu nầy.
Lưu Yên nghe theo, liền cho treo bảng khắp nơi chiêu mộ nghĩa binh. Ngày kia bản văn đến Trác Huyện, dân chúng ra xem đông nghịt.
Trong số dân chúng ấy có một vị anh hùng tính tình khoan hòa ít nói, mừng giận không lộ ra sắc mặt, nhưng có chí lớn, thường kết giao với những anh hùng hào kiệt trong thiên hạ. Người nầy mình cao tám thước, tai lớn như chảy xuống hai vai, hai tay dài quá gối, mắt sáng như bạch ngọc, môi đỏ như son, họ Lưu tên Bị, tự là Huyền Đức, vốn dòng dõi Trung Sơn Tỉnh Vương Lưu Thắng nhà Hậu Hán. Thân phụ của Lưu Bị là Lưu Hoằng, thi đậu Hiếu Liêm, ra làm quan nhưng chẳng may mất sớm. Huyền Đức mồ côi cha, thờ mẹ rất có hiếu, tánh ham học, nhưng nhà nghèo, phải tạm làm nghề đóng dép và dệt chiếu để sinh sống.
Chú của Lưu Bị là Lưu nguyên Khởi tìm cách giúp đỡ Lưu Bị đi học. Năm lên mười lăm tuổi, Lưu Bị học với Trịnh Huyền và Lư Thực, kết bạn với Công Tôn Toản.
Đến nay Lưu Bị được hai mươi tám tuổi. Hôm ấy đọc bảng chiêu quân, Lưu Bị cảm khái thở dài một tiếng. Bỗng nghe phía sau có tiếng người nói:
- Đại trượng phu phải vì quốc gia mà ra sức, chớ than thở có ích lợi gì ?
Lưu Bị quay đầu nhìn lại thấy một người mình cao tám thước, mặt dữ như cọp, mắt ốc tròn xoe, hàm én râu hùm, tiếng nói rền như sấm, biết người nầy không phải tay tầm thường, Lưu Bị bèn hỏi thăm tên họ. Người ấy nói:
- Tôi họ Trương, tên Phi, tự là Dực Đức, ông cha mấy đời ở nơi Trác Quận nầy, làm nghề bán rượu mổ thịt, nên tôi cũng có chút ít ruộng vườn, thích kết giao với anh hùng hào kiệt trong thiên hạ, nay thấy ông xem bảng chiêu quân mà than thở, nên tôi nói thử.
Lưu Bị nói:
- Tôi vốn dòng dõi người trong thân tộc nhà Hán, họ Lưu tên Bị, tự là Huyền Đức, đáng lẽ trong lúc giặc Huỳnh Cân dấy loạn, tôi phải góp phần cứu nước an dân, nhưng vì sức chưa làm được nên đau lòng thở dài như thế.
Trương Phi nói:
- Nhà tôi cũng có chút ít của cải, tôi muốn bỏ ra để tuyển mộ một đoàn hương dũng, rồi cùng ông cử hành đại sự, ông thấy có nên không ?
Lưu Bị rất mừng, vội nắm tay Trương Phi dắt vào quán rượu đàm đạo tiếp.
Trong lúc hai người đang bàn chuyện, bỗng thấy một hảo hán đẩy một chiếc xe để ngoài cửa, bước vào quán, lớn tiếng gọi tửu bảo:
- Đem rượu thịt ra đây, hôm nay ta uống cho say một bữa để ngày mai đầu quân giết giặc Huỳnh Cân.
Lưu Bị liếc nhìn thấy người ấy mình cao chín thước, mặt đỏ như thoa son, mắt phượng mày ngài, tướng mạo đường đường oai dũng.
Biết người nầy cũng là một tay hảo hán nên Lưu Bị đứng dậy đến mời hảo hán ấy đến ngồi chung bàn, rồi hỏi thăm danh tánh. Người ấy đáp:
- Tôi họ Quan, tên Vũ, tự là Vân Trường, người đất Giải Lương tỉnh Hà Đông. Nhân vì vùng tôi ở có một tên thổ hào ỷ thế hiếp bức dân lành, tôi nổi giận giết chết nó rồi bỏ đi lánh nạn, phiêu bạt giang hồ đã hơn năm năm, giờ đây muốn đầu quân trừ giặc cứu nước.
Lưu Bị cũng đem chí nguyện của mình ra bày tỏ. Quan Võ mừng rỡ uống ba chung rượu, rồi cùng nhau dắt về nhà của Trương Phi bàn bạc tiếp. Trương Phi nói:
- Muốn làm nên việc lớn, cốt phải hiệp sức đồng tâm mới được. Sau nhà tôi là một vườn Đào đang tiết trổ bông, ngày mai chúng ta đến đó tế cáo Trời Đất kết làm anh em, khởi lo việc lớn.
Lưu Bị và Quan Võ đồng thanh khen phải.
Ngày hôm sau, Trương Phi sai gia nhân mổ trâu đen, ngựa trắng, bày đủ lễ trong vườn Đào. Ba người đứng trước hương án, vái hai vái, rồi cùng thề rằng:
- Ba chúng tôi là: Lưu Bị, Quan Võ, Trương Phi, tuy khác họ nhưng kết làm anh em, quyết đồng tâm hiệp lực cứu khổn phò nguy, trên báo đáp quốc gia, dưới giúp yên bá tánh. Chúng tôi không mong sanh cùng năm cùng tháng cùng ngày, chỉ nguyện được chết cùng ngày cùng tháng cùng năm. Xin Hoàng Thiên Hậu Thổ chứng giám lời thề nguyền nầy, ai bội nghĩa sẽ bị Trời Đất tru diệt.
Thề xong, ba anh em đồng lạy. So tuổi tác thì Lưu Bị được tôn là anh cả, kế đó là Quan Võ và Trương Phi là em út.
Trương Phi sai bắt trâu dê trong chuồng đem mổ làm một bữa tiệc lớn tại Vườn Đào, mời tất cả dũng sĩ trong vùng đến ăn uống. Các dũng sĩ tề tựu có đến ba trăm người, vui say một bữa. Hôm sau, mọi người chia nhau đi thu thập khí giới, mọi việc tạm ổn, chỉ còn một nỗi là thiếu ngựa trận để cỡi.
Trong lúc đang lo tính, bỗng có người vào báo: "Có hai thương khách cùng đoàn tùy tùng dẫn một bầy ngựa khá đông đang đi về hướng trang trại nầy."
Lưu Bị mừng rỡ nói:
- Đây là Trời giúp ta đó.
Ba anh em vội đón tiếp hai vị khách thương, mời vào trang trại. Hai người nầy là hai thương gia lớn ở đất Trung Sơn, tên là Trương Thế Bình và Tô Song, hằng năm thường lên miền Bắc mua giống ngựa khỏe đem về Tràng An bán. Nay miền đất nầy có giặc, nên không đem ngựa qua được.
Trương Phi hối gia nhân dọn tiệc đãi đằng hai vị khách thương và đoàn tùy tùng, rồi tỏ bày chí hướng của ba anh em, muốn khởi nghĩa giết giặc cứu an bá tánh. Hai người khách ủng hộ, hiến năm mươi con ngựa khỏe, lại tặng năm trăm lượng vàng và một ngàn cân thép tốt để rèn võ khí và làm giáp trụ. Ba anh em vô cùng cảm động trước nghĩa cử của hai vị khách thương. Khách kiếu từ, Lưu Bị tiễn chân đến vài dặm đường mới trở lại.
Lưu Bị cậy thợ rèn giỏi chế tạo một đôi Song Cổ kiếm, Quan Võ chế tạo một cây Thanh Long đao, Trương Phi chế một cây Bát Điểm Cương mâu. Ai nấy đều trang bị cương giáp, rồi kéo ba trăm dũng sĩ đến ra mắt Thái Thú Lưu Yên. Lưu Yên hỏi danh tánh, ba anh em đều xưng rõ tên họ, riêng Lưu Bị còn nói cho Lưu Yên biết mình là tông phái Hoàng gia, được Lưu Yên nhận làm cháu.
Vào thành được vài hôm thì quân thám thính vào báo:
- Tướng giặc Huỳnh Cân là Trình viễn Chí thống lãnh năm vạn quân kéo đánh Trác Quận.
Lưu Yên liền sai Châu Tỉnh dẫn 3 anh em Lưu Bị cùng hơn ba trăm quân nghĩa dũng với một đạo binh đi phá giặc.
Ba anh em Lưu Bị lãnh đi tiền đạo, trực chỉ đến chân núi Đại Hưng, thấy quân giặc cũng vừa kéo tới. Lưu Bị liền thúc ngựa ra trận, bên tả có Quan Võ, bên hữu có Trương Phi, thét mắng quân giặc:
- Phản loạn, đừng hòng múa rối, mau xuống ngựa qui hàng.
Trình viễn Chí nổi giận, sai Phó Tướng Đặng Mậu ra đánh. Đặng Mậu vừa xông ra, bị Trương Phi quất ngựa nhảy đến đâm một xà mâu trúng ngay giữa ngực, ngã xuống chết liền. Trình viễn Chí nổi giận múa đao xông tới đánh Trương Phi, Quan Vũ vung Thanh Long đao cản lại, vớt Viễn Chí một đao đứt làm 2 đoạn. Quân giặc Khăn Vàng thấy chủ tướng đã bị hại nên hoảng hốt bỏ chạy. Lưu Bị xua quân đuổi đánh, chúng đầu hàng nhiều vô số.
Lưu Bị dẫn đoàn quân đắc thắng trở về, được Thái Thú Lưu Yên ra tận ngoài thành tiếp đón và khen tặng.
Bài thơ khen Trương Phi, Quan Vũ thắng trận đầu tiên:
Anh hùng xuất trận buổi ban đầu,
Một thử long đao, một thử mâu.
Khí tiết rạng ngời oai lực khét,
Chia ba thiên hạ rạng anh hào.
Từ đó về sau, ba anh em Lưu Quan Trương luôn luôn giữ chặt tình nghĩa với nhau, thương yêu nhau như anh em ruột thịt, kết thành một khối đoàn kết mạnh mẽ, rồi sau, nhờ có Khổng Minh Gia Cát Lượng ra giúp làm Quân Sư, khiến thanh thế của ba anh em lừng lẫy, làm chúa một vùng rộng lớn phía Tây nước Tàu, phía Bắc chống cự với Tào Tháo, phía Đông hoà hoãn với Ngô Tôn Quyền, tạo thành thế chia ba thiên hạ, gọi là thời TAM QUỐC.