Bài viết dưới đây là do em gái của YaHuy soạn, nên ghi đúng tên. Nếu có điểm nào sơ sót, mong các bạn góp ý giùm nhé :-)
NHẤT TIẾU THIÊN KIM
NHẤT TIẾU KHUYNH QUỐC
Biên soạn: Như Vân
Thành ngữ "Nhất tiếu thiên kim" (nụ cười đáng giá ngàn vàng) và "Nhất tiếu khuynh quốc" (nụ cười làm mất giang sơn) xuất xứ từ đời vua U Vương, vị vua thứ mười một đời Tây Châu.
Nguyên về đời Châu Tuyên Vương (tức là cha của U Vương), vua vì nghe được lời đồng dao (1), ám chỉ nước nhà sau này sẽ bị nạn giặc giã và nữ nhân sẽ can dự vào việc triều chánh, nên vua ra lệnh cấm dân chúng không được làm cung tên bằng gỗ dâu và túi tên bằng cỏ cơ, ai trái lệnh thì xử tử ngay.
Giữa lúc đó trong cung xảy ra việc lạ. Một người cung nữ già mang thai đã 40 năm tự nhiên hạ sinh được một đứa bé gái. Khương hoàng hậu cho đó là quái thai, bèn tâu với vua cho đem bỏ đứa bé nơi dòng sông Thanh Thủy, cách hoàng cung độ 40 dặm. (5)
Ngay hôm đó, có hai vợ chồng kia vì xưa nay ở chốn hoang dã, chưa nghe biết được lệnh của vua, nên vẫn mang cung dâu và túi cỏ đến chợ bán. Quan tuần chợ trông thấy thì thét quân sĩ vây bắt. Người vợ bị bắt, và bị chém đầu thị chúng vì đã làm trái lệnh vua ban, còn người chồng nhờ nhanh chân nên trốn thoát, chạy một mạch đến bên bờ sông Thanh Thủy, tình cờ vớt được đứa bé gái bị Khương hậu cho người đem bỏ trôi lênh đênh trên dòng sông, rồi trốn sang một làng nhỏ nơi Bao thành để lánh nạn.
Sau đó chẳng bao lâu, vì nghèo đói, không thể nuôi được, mới đem đứa bé cho một nhà giàu, hiếm con, là Tự Đại, làm con nuôi, đặt tên là Bao Tự. Năm Bao Tự 14 tuổi, nhan sắc xinh đẹp tuyệt trần, nhưng vì ở chốn thôn quê, cho nên dẫu sắc nước hương trời cũng không ai biết tới.
Một hôm, con của quan đại phu Bao Quýnh (2) là Hồng Đức tình cờ đi ngang qua đấy, trông thấy Bao Tự, giật mình kinh ngạc mà rằng:
- Không ngờ chỗ quê mùa hẻo lánh này mà lại có người tuyệt sắc thế này!
Hồng Đức sực nhớ đến thân phụ là Bao Quýnh đang bị vua U Vương giam cầm ở kinh thành. Chàng nghĩ:
- Cha ta vì can gián vua nên bị tù tội đã ba năm. Nay vua đang tuyển chọn gái đẹp, nếu ta đem người con gái xinh đẹp này đến dâng cho thiên tử, thì có lẽ cha ta sẽ được tha tội.
Chàng bèn xin phép mẹ, rồi đem 300 tấm lụa đến nhà Tự Đại mua Bao Tự về, cho tắm gội sạch sẽ, ăn mặc lịch sự, dạy thêm lễ nghi, phép tắc, rồi đưa về Kiểu kinh (tức là kinh đô Tây Châu lúc bấy giờ), đút lót với quyền thần, nhờ giúp dâng nàng lên cho vua. Châu U Vương vừa nhìn thấy mặt Bao Tự, đã điên đảo tâm hồn, truyền đưa nàng vào cung. Lại xuống chiếu tha tội cho Bao Quýnh, rồi cho được phục chức, ban thưởng trọng hậu.
Từ ngày Bao Tự nhập cung, U Vương đêm ngày say đắm bên nàng, chẳng thiết gì đến việc triều chính. Sau khi Bao Tự hạ sanh được một hoàng nam, đặt tên là Bá Phục, vua bèn mượn cớ chánh cung Thân hoàng hậu có lòng tà vạy, phế vào lãnh cung. Lại truất ngôi thái tử Nghi Cữu (4), đày sang Thân quốc, không cho về nước. Rồi lập Bao Tự lên ngôi Chánh cung, lập Bá Phục làm thái tử. Các trung thần khuyên can không được, chán nản bỏ đi gần hết, triều đình bấy giờ lọt vào tay những kẻ bất tài, a dua với vua, xa hoa phí phạm, dân chúng sống trong cảnh lầm than.
Bao Tự dù đã được phong làm chánh cung hoàng hậu, nhưng lúc nào cũng dàu dàu nét mặt, không hề hớn hở cười vui. Vua U Vương cho nhạc công gẩy đàn thổi sáo, cung nữ múa hát ca xang, rượu ngon thịt ngọt, đêm ngày yến ẩm, mà nàng cũng vẫn mặt ủ mày ê, không thấy nét vui trên mặt.
Một hôm, U Vương hỏi nàng:
- Ta phế Thân hậu để lập ái khanh lên làm Hoàng hậu, vậy mà xưa nay chưa hề thấy ái khanh được vui vẻ qua. Bây giờ ngay cả việc đàn ca hát xướng mà cũng không làm cho ái khanh được vui, vậy ái khanh thích thứ gì ?
Bao Tự đáp:
- Thiếp chẳng thích thứ gì cả, nhưng thiếp nhớ lúc xưa khi còn ở quê, tay xé tấm lụa, tiếng kêu xào xạt, nghe vui tai hơn tiếng âm nhạc.
Vua U Vương cả mừng, nói rằng:
- Ái khanh ưa nghe tiếng xé lụa, sao không nói cho sớm.
Nói xong, bèn truyền lệnh cho cung nữ, mỗi ngày phải đứng xé 100 tấm lụa cho Bao Tự nghe, nhưng nàng nghe tiếng lụa xé, mà vẫn không nở được một nụ cười để làm đẹp lòng vua như ý muốn.
U Vương buồn bực, truyền bảo các quan, nếu có ai kế gì có thể khiến cho Bao Tự cười được thì sẽ được thưởng nghìn vàng.
Quan đại phu là Quắc Thạch Phủ bèn hiến kế rằng:
- Tiên vương ngày xưa có lập ra hơn 20 cái phong hỏa đài ở dưới núi Ly Sơn, lại tạo mấy chục cái trống rất lớn, phòng khi có giặc Tây Nhung đến xâm lấn thì nổi lửa và gióng trống lên để cho các nước chư hầu biết mà đem binh đến cứu. Từ ấy đến nay, trong nước thái bình, nên chưa dùng đến những cái phong hỏa đài đó bao giờ cả. Nếu Bệ hạ muốn làm cho Chánh hậu vui cười, xin Bệ hạ hãy cùng Chánh hậu đến Ly Sơn du ngoạn, đợi lúc nửa đêm, đốt phong hỏa đài lên và đánh trống cho thật dữ, thì các chư hầu ắt đem binh đến cứu. Đến mà không có giặc, thì tất nhiên hoàng hậu sẽ cảm thấy tức cười.
Vua U Vương vỗ tay, khen kế hay, rồi bèn cùng Bao Tự ngự ra chơi ở Ly Sơn, bày tiệc uống rượu vui, rồi truyền đốt lửa. Ánh sáng ngất trời, lại nổi hiệu trống, ầm ầm như sấm. Thật là:
Buồn lòng tiêu khiển một trò chơi,
Ðốt lửa đêm thanh đỏ rực trời.
Cờ trống chư hầu bôn bả tới
Giúp vui chỉ một nụ cười tươi.
Các nước chư hầu gần đấy, tưởng là Kiểu kinh có biến loạn, vội vàng đem quân tất tả kéo đến Ly Sơn.
Khi đến nơi, nghe tiếng nhã nhạc đàn sáo, lại thấy U Vương đang cùng với Bao Tự uống rượu vui chơi trên đó, các chư hầu chưng hửng. U Vương sai người xuống nói cùng các chư hầu rằng:
- May là không có giặc giã gì, chẳng dám phiền đến các chư-hầu nữa.
Các chư-hầu ngơ ngác nhìn nhau, biết bị vua lừa, bèn cuốn cờ, dẹp trống, thu binh về nước, trong lòng tức giận vô cùng.
Bao Tự đứng trên lầu trông xuống, thấy quân sĩ các nước tất tả kéo đến, rồi lại tất tả kéo về, mới thích chí vỗ tay cười ầm lên.
U Vương hớn hở:
- Một tiếng cười của ái-khanh có đủ trăm vẻ đẹp, ấy là nhờ cái mưu kế của Quách Thạch Phủ đó.
Nói xong, truyền đem ngàn vàng thưởng cho Quách Thạch Phủ, bởi thế mà người ta thường bảo: "Ngàn vàng mua lấy trận cười", hoặc "Bao Tự nhất tiếu trị thiên kim", hoặc "Nhất tiếu thiên kim" là để ám chỉ nụ cười Bao Tự đáng giá ngàn vàng.
Về việc này, ca dao Việt Nam có câu:
Nụ cười Bao Tự ngàn vàng,
Nhà Châu mất nghiệp, giang san điêu tàn.
Cung Oán ngâm khúc có thơ:
Hương trời sá động trần ai,
Dẫu vàng nghìn lạng dễ cười một khi.
Đại thi hào Lý Bạch bên Trung Hoa cũng có thơ:
Mỹ nhân nhất tiếu hoán thiên kim. (Người đẹp nở một nụ cười đáng đổi lấy ngàn lạng vàng).
Về sau, Thân hầu (tức là cha của Thân hoàng hậu) mượn binh của quân Khuyển Nhung tiến vào kinh đô, định hài tội nhà vua và bắt vua phải sửa lỗi. Châu U Vương chống cự không lại, bèn cho người nổi lửa đài phong hỏa, hy vọng các chư hầu sẽ kéo đến cứu viện. Chư hầu vì trước kia đã bị mắc lừa một lần, nên lần này cũng tưởng là gian dối, không ai kéo binh đến giúp.
U Vương túng thế, định theo quan đại phu Trịnh Bá Hữu chạy sang nước Trịnh để lánh nạn, không ngờ đi mới được nửa đường, thì bị quân Khuyển Nhung bắt được. Vua Khuyển Nhung giết ngay U Vương và Bá Phục, giữ Bao Tự lại làm hầu thiếp, rồi thì thả cho binh lính tha hồ cướp bóc, vơ vét của dân, khiến dân chúng nơi kinh thành vô cùng than oán. Thân hầu không biết tính làm sao, mới viết mật thư nhờ các nước chư hầu lân cận là Tấn, Vệ, Tần, và Trịnh đem quân về đánh đuổi quân Khuyển Nhung ra khỏi Kiểu kinh. Trong cơn loạn lạc, Bao Tự chạy theo không kịp vua Khuyển Nhung nên tự thắt cổ chết. Thế là xong một kiếp hồng nhan!
Có bài thơ trách Bao Tự như sau:
Một kiếp hồng nhan một nụ cười !
Phong đài khói tỏa chửa mờ phai.
Nụ cười còn mãi rung trong gió,
Nhung Khuyển, U Vương ai hỡi ai !
Người đời sau dùng thành ngữ "Nhất tiếu khuynh quốc" (3) để chỉ việc Châu U Vương chỉ vì một tiếng cười của người đẹp mà làm mất giang sơn. Đôi khi cũng dùng lẫn lộn với câu "Nhất tiếu khuynh thành" để chỉ việc làm mất nước.
Chú thích:
(1) Mời xem thêm điển tích "Yểm Hồ Cơ Bặc" của Như Vân để biết nguyên do của việc "cung dâu túi cơ".
(2) Có sách chép tên là Bao Hướng.
(3) Thành ngữ "Nhất tiếu khuynh quốc" và "Khuynh quốc, khuynh thành" tuy hơi giống, nhưng có xuất xứ khác nhau
(4) Thái tử Nghi Cữu sau lên nối ngôi, tức là Châu Bình Vương, vị vua khởi đầu của triều đại Đông Châu